Các nhà thơ Phương Đông Hồi giáo
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 23 trên tổng số 23 bài trong đề mục
cacbac 08.12.2007 12:01:42 (permalink)




Ibn Zaidun (1003-1071)(Ả Rập)

1

Anh sẽ không quên lời hứa của mình
Anh đặt vào đấy cả tâm hồn, trái tim!

Không bao giờ, ngày hay đêm cũng vậy
Lời hứa của mình anh sẽ không thay đổi.

Rằng chỉ mình em, chỉ một mình em
Là hiện thân điều mơ ước của anh!

Tình của em dù đam mê mãnh liệt
Chỉ cho anh một phần thôi cũng được.

Trong cách xa dù chỉ còn đêm
Anh xin em hãy nhớ về anh.

Và nếu cuộc đời anh, em cần đến
Anh sẽ nói: “Này đây, em hãy nhận!

Số phận anh là nô lệ của em
Số phận anh nằm trong tay em”.

2

Anh yêu kẻ thù, bởi em cũng không là bạn
Vì nếu khác, thì tại sao làm anh đau đớn?

Có phải em giận anh? Em hãy trả lời
Dù em không công bằng – anh chỉ trách mình thôi.

Em như mặt trời, nhưng dưới mặt trời có bóng
Em chiếu sáng đêm… và làm ngày tối sẫm.

Anh biết rằng lời than phiền sẽ tan tác như mây
Chỉ cần em thương cho kẻ bất hạnh này!

3

Tình em là kho báu… Nhưng anh biết đâu tìm
Mặc cho vận may sẽ chỉ lối cho anh…

Trong đôi mắt anh giờ chia ly đã đến
Mắt khóc em và giã từ trong im lặng.

Số phận đang mỉm cười với anh lúc này
Nhưng hình bóng tuyệt vời của em không giấu được đám mây.

Em là cuộc đời anh, anh làm sao xa được
Nếu phải xa thì thà cho anh cái chết.

Than ôi, con mắt không sao giấu nổi tình anh
Gương mặt làm sao giấu được nỗi lòng.
#16
    cacbac 08.12.2007 12:04:05 (permalink)
     

    Ibn Hamdis (1055-1132)(Ả Rập)

    1

    Em ơi hãy ở lại cùng anh, hãy đợi
    Đừng cười anh và em đừng đi vội!

    Tất cả lại trở về và sẽ cháy lên
    Ngọn lửa ngày nào vẫn ở trong tim!

    Những đêm cô đơn, những ngày buồn bã
    Cho anh khỏi u sầu – em đến nhé!

    Anh trao em con tim và tấm lòng thành
    Nhưng chẳng thấy gì, dù hy vọng mong manh!

    Có phải em thích trò chơi như vậy?
    Anh sẽ chịu đựng nhưng xin em ở lại!

    #17
      cacbac 08.12.2007 12:07:51 (permalink)
       


      Pir Sultan Abdal (Haydar) (Thế kỉ 16)(Thổ Nhĩ Kỳ)

      1

      Không cần hoạ mi hót trong vườn anh
      Không có em trong nỗi buồn đang cháy.
      Anh kiếm dầu cho ngọn đèn của mình
      Không có em trong nỗi buồn đang cháy.

      Anh trở thành bông hoa hồng héo khô
      Thành bọt nước mà dòng đang quánh lại
      Trở thành tro, anh nằm trong bếp lò
      Không có em trong nỗi buồn đang cháy.

      Những bóng đen chỉ đường cho ta mau
      Những vết bỏng xin các người băng lại
      Nói với em ở trên ngọn lửa nào
      Không có em trong nỗi buồn đang cháy.

      Anh đang sống trong ngôi nhà của mình
      Không ăn uống, anh khát khao lắm vậy.
      Anh sống đây chịu đựng nỗi cực hình
      Không có em trong nỗi buồn đang cháy.



      2

      Kẻ cô đơn tội nghiệp đi tìm em –
      Kho châu báu và anh tìm ra được
      Người đẹp ơi, biết không, anh đi tìm
      Và thấy em như người anh mơ ước.

      Con chim non, em từ đâu đến vậy?
      Bờ mi em như một mảnh trăng thề…
      Em khóc lên tựa hồ như mãi mãi
      Người yêu của mình đã bỏ ra đi?

      Xin em chớ buồn, em không đơn lẻ
      Gương mặt như trăng, mái tóc đen huyền
      Dù chưa phải người yêu nhưng anh sẽ
      Đến muôn đời anh sẽ ở bên em.

      Anh khát khao bằng tất cả trái tim
      Mong cho em không bao giờ cô độc
      Mong cho em không nếm mùi xa cách
      Và anh mong hạnh phúc cho mình.



      3

      Kể từ khi sống cuộc đời ô nhục
      Hồn không yên. Anh chẳng biết làm sao?
      Kể từ ngày với người yêu xa cách
      Đời chán chường. Anh chẳng biết làm sao?

      Biết làm sao? Ngọn đèn vui lấp lánh
      Có giúp được gì cho kẻ đang yêu
      Chứ bây giờ tai hoạ đầy mọi chốn
      Sức không còn. Anh chẳng biết làm sao?

      Anh bảo: đến với anh – và em đi đến đấy
      Anh bảo: vào đây – và em đã ghé vào.
      Anh mất rồi, hãy tìm – và em tìm thấy
      Nhưng hồn bỗng lạ lùng – anh biết làm sao?

      Anh tin chắc: đã đến lúc lên đường
      Theo ý trời anh phải đi vội vã
      Quên phiền muộn, đi tìm gặp người thương
      Còn nếu không? Chẳng biết làm sao cả?

      4

      Tâm hồn anh đau lắm
      Anh mong được chữa lành
      Anh thở bằng hy vọng
      Rằng sẽ được gặp em.

      Hoạ mi đừng dữ dội
      Hoa hồng hãy dịu êm
      Hoa hãy thương ta với
      Đừng tỏ vẻ ngạc nhiên.

      Em đốt anh cháy lên
      Em – ngôi đền anh dựng
      Khi cầu nguyện anh nhìn
      Vào em như ân sủng.

      Đôi mắt em sáng tỏ
      Và cháy bỏng bờ môi…
      Ai tình yêu lìa bỏ
      Chỉ có đáng thương thôi.

      Em đã biết anh rồi
      Sao gặp anh em tránh
      Em quay đi im lặng
      Để nước mắt đầy vơi…

      5

      Người con gái mắt đen, tim anh đang vỡ
      Để lấy ra mũi tên, em hãy đến đây.
      Em đến để chữa lành cho anh nỗi khổ
      Anh đang yêu, đang chết dần, em hãy đến đây.

      Anh là thành phố bị kẻ thù bao vây
      Là tù binh sắp bị đem xử bắn
      Là người tù bơ phờ, tay chân bủn rủn
      Hãy cứu anh thoát cảnh này, em hãy đến đây.

      Mọi thứ trên đời này đều dễ dàng mua được
      Nhưng hạnh phúc thì thật khó lắm thay
      Layla của Madzhnun cũng đã từng mơ ước
      Anh tha thiết gọi tình, em hãy đến đây.

      Thân xác đau, con tim dần nguội lạnh
      Mơ ước của anh, tất cả phí hoài
      Bầu trời đen. Cuộc đời đã cháy sém
      Để nhìn thấy tro tàn, em hãy đến đây.
      #18
        cacbac 08.12.2007 12:09:54 (permalink)
         


        Karadzhaoglan (1606-1679)(Thổ Nhĩ Kỳ)

        1

        Hãy giữ anh bằng tình yêu của em
        Đừng để xa rời quê hương yêu mến
        Hãy đưa anh vào dáng em hãy bện
        Để muôn đời anh được ở bên em.

        Em hãy cản trở con đường của anh
        Đừng cho nó dẫn anh về cái chết
        Đưa anh vào mái tóc em, hãy buộc
        Để anh trở thành một sợi chỉ vàng.

        Bện vào tóc, anh sẽ rất vui mừng
        Hương thơm ngát sẽ làm anh choáng váng
        Và anh sẽ quay trở lại con đường
        Trước mặt anh có em làm vật cản.

        Dù em không yêu, anh vẫn vui thay
        Anh vẫn của em đến ngày tận số
        Chỉ im lặng nghe lời tên nô lệ
        Cho dù anh không xứng với điều này.

        2

        Giá mà anh trở thành làn khói xanh
        Thành bông hoa cho em thò tay bẻ
        Giá mà anh trở thành chiếc khăn lanh
        Để cho em đem quấn vòng quanh cổ.

        Để bên em suốt ngày anh được ở
        Anh sẽ trở thành chiếc vòng đeo tay
        Thành giọt thuốc nằm trong bình nhỏ
        Để cho em đi kiếm suốt ngày.

        Anh đang sống bằng ước mơ dịu êm
        Sẽ được trở thành một tên nô lệ
        Hay trở thành đồ trang phục của em
        Hay trở thành cái chăn trên giường ngủ.

        3

        Tại vì sao em không đến với anh
        Hãy đến đây cho anh làm nô lệ.
        Trên mặt anh giọt nước mắt long lanh
        Em hãy đến lấy khăn chùi giọt lệ.

        Nhưng em không muốn nghe lời của anh
        Áo quần em, lụa và nhung em mặc
        Tình của anh vật cản không qua được
        Trời không xe duyên hai đứa chúng mình.

        Con đường anh chạy từ trên đồi cao
        Dốc dựng đứng, còn bây giờ thoai thoải
        Em nói với anh những lời cay đắng vậy
        Và những lời em đâu phải tình yêu.

        Anh không biết làm sao anh thắng nổi
        Những đam mê và dục vọng của mình.
        Thành người khổ hạnh mặc áo quần rách rưới
        Anh sẽ vui lòng từ giã với em.
        #19
          cacbac 08.12.2007 12:12:24 (permalink)
           


          Yusuf Nabi (1642-1712)

          1

          Anh hiểu ra dối gian – người anh lên cơn sốt
          Hai má nóng bừng, anh ngã gục trong đêm này.

          Bầu trời trở thành đen khi nghe những lời đau khổ
          Con mặt trăng đang cười ai vậy trong đêm này?

          Em hãy nói, có phải là anh không xứng đáng
          Em làm điều tốt, còn anh lầm lỗi trong đêm này?

          Hay là em không ưa bạn bè và anh uống rượu
          Hay ai đã làm em xao xuyến trong đêm này?

          Chỉ có hình bóng xa xôi của em cùng anh nói chuyện
          Hãy nói cho ta sự thật, trong đêm này em đã mến ai?

          Anh đau khổ đắm chìm trong nước mắt
          Ngày tận thế của anh đã đến trong đêm này.

          2

          Dòng sông đang gọi ai, vang lên - điều này em có lỗi.
          Chim hoạ mi đang líu ríu trên cành - điều này em có lỗi.

          Ô, người đẹp hãy cho anh xin một nụ hôn!
          Từng hơi thở đầy lửa tìmh - điều này em có lỗi.

          Em hãy đến đây, hờ hững ghé mắt nhìn
          Có tiếng kêu của kẻ say giữa ban ngày - điều này em có lỗi.

          Anh đeo lá bùa lấy từ bàn tay đẹp của em
          Những lời vu khống vây lấy anh - điều này em có lỗi.

          Vẻ quyến rũ đã không còn trong những câu thơ
          Không buộc tội ai, thi sĩ lặng im - điều này em có lỗi.



          3

          Chén rượu uống vòng quanh từng vòng - đến rồi đi
          Biển đổ dồn sóng về phương Nam - đến rồi đi.

          Người đưa tin mang hoa hồng cho người khách
          Ngọn gió trên đồng tươi mát - đến rồi đi.

          Đau khổ vì tình yêu không thuốc nào chữa được
          Chúa Giê-su* cũng chịu lắc đầu - đến rồi đi.

          Trong tim tôi có một nỗi đau còn ở mãi
          Còn tình yêu – kẻ nô bộc một ngày, đến rồi đi.

          Thần tình yêu tinh nghịch về tình yêu không nói trước
          Ô, ta đã điên rồ qua đó - đến rồi đi.
          _________
          *Chúa Giê-su (Isa) – người Hồi giáo coi Jêsus Christ là một trong những nhà tiên tri đi trước Mahômét.

          4

          Có nên thực hiện lời hứa của mình – không biết được
          Trong giờ tình yêu không có gì ngoài ba hoa – không biết được.

          Đừng hỏi rằng có thể không uống rượu nữa chăng –
          Nơi hỏi vậy, hoài nghi, không ai biết được.

          Trong cái giờ phút mà người đẹp là của anh
          Con tim bằng đá người tình không biết được.

          Con gà trống khôn ngoan hơn những kẻ đang yêu
          Lúc nào gáy, lúc nào im, điều này gà biết được.

          Ô, Nabi, đau khổ vì tình không có ai
          Ngoài cái người đã tặng khổ đau, không biết được.



          5

          Người đẹp có hình dáng buồn, nỗi buồn không mang đến
          Người đẹp mang đến giận hờn, người khác không mang đến.

          Tôi ghen tỵ với những người chồng khôn ngoan:
          Say ngã trong quán rượu nhưng chửi rủa về nhà không mang đến.

          Âu yếm trong phút chốc mang lại cả nghìn vết thương
          Con tim hững hờ tình yêu không mang đến.

          Đôi tai tôi như cánh cửa nơi cổng trời
          Những bài hát dưới trần niềm vui không mang đến.

          Hồn say sưa với hoa hồng, càn rỡ với hoạ mi
          Ô, Nabi, những bài hát của ngươi thuốc chữa lành không mang đến.


          Bản dịch "Các nhà thơ Phương Đông Hồi giáo" của Nguyễn Viết Thắng.
          #20
            cacbac 31.03.2008 09:37:38 (permalink)

            Omar Khayyám

            Trong các nhà thơ cổ phương Đông nổi tiếng thế giới Omar Khayyám chiếm vị trí số 1. Hàng triệu quyển thơ ông được in ra đều đặn từ hơn 100 năm nay cho đến bây giờ vẫn thế.
            Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam được dịch ra tất cả các ngôn ngữ châu Âu. Còn châu Á, theo tư liệu chưa đầy đủ, ngoài các ngôn ngữ trong thế giới Hồi giáo, đã có bản tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Hoa, tiếng Việt, tiếng Hindi, tiếng Uốc-đu…
            Thơ Khayyam về ý nghĩa cuộc đời người, về sự bất lực của con người trước số phận và thời gian, về những sung sướng và đau khổ của kiếp người, về tuổi trẻ và tình yêu, tuổi già và cái chết, về những lời khuyên răn mà trong đó mỗi người có thể tìm thấy cho mình một điều gì thầm kín chưa từng được nói ra – tất cả đã trở thành tài sản tinh thần của toàn nhân loại.

            * * *

            Omar Khayyam sinh năm 1048 tại thành phố Nisapur, tỉnh Khorasan, miền đông bắc Iran. Nisapur, theo lời của các nhà sử học, là thành phố lớn, trung tâm văn hoá, thương mại của Ba Tư thế kỷ thứ 11. Khayyam bắt đầu đi học ở trường dòng Nisapur, sau đó tiếp tục tại Balkh và Samarkand, trở thành nhà bác học nổi tiếng thời đó. Khayyam được người đời gọi là nhà bác học, người chứng minh chân lý, ông hoàng triết học Đông-Tây…
            Sự nghiệp khoa học của Khayyam có một thời kỳ gần 20 năm phát triển rực rỡ. Đó là kể từ năm 1074 Khayyam được vua Malik-Shah mời về triều đình theo lời đề nghị của quan đại thần Nizam al Mulk. Khayyam được giao lãnh đạo đài thiên văn mới xây dựng hiện đại, nơi mà theo lời các nhà sử học “tập trung những nhà thiên văn giỏi nhất thế kỷ” và được giao nhiệm vụ lập ra lịch mới.

            Ở Iran và Trung Á trong thế kỷ 11 tồn tại đồng thời hai hệ thống lịch: dương lịch từ thời Bái hỏa giáo và âm lịch được người Arập phổ biến cùng với Islam. Cả hai lịch trên đều có những nhược điểm. Dương lịch Bái hỏa giáo một năm có 365 ngày, việc điều chỉnh chỉ được thực hiện một lần trong vòng 120 năm khi mà sai số đã lên đến một tháng. Âm lịch Hồi giáo có 358 ngày không thuận tiện cho việc nông nghiệp.
            Trong vòng 5 năm tiến hành nghiên cứu ở đài thiên văn cùng với một nhóm các nhà thiên văn học Khayyam đã lập ra lịch mới mang tên “Niên đại Malik-Shah”. Lịch do Omar Khayyam lập ra có độ chính xác cao hơn lịch Gregorian, nơi mà sai số trong một năm là 26 giây. Theo tính toán của các nhà khoa học thế kỷ 20 lịch của Khayyam chính xác hơn lịch Gregorian 7 giây. Chỉ tiếc rằng “Niên đại Malik-Shah” đã không bao giờ được áp dụng vào thực tế.
            Cũng trong thời kỳ này Khayyam viết nhiều công trình toán học. Các tác phẩm về toán học của ông bị thất lạc nhiều và chỉ đến thế kỷ 19 mới được các nhà khoa học châu Âu phát hiện và đánh giá. Chính Omar Khayyam là người đầu tiên nêu lên mối liên hệ giữa đại số và hình học. Trong một công trình toán học của ông các nhà khoa học tìm thấy cốt lõi của Nhị thức Newton.
            Ngoài toán học, thiên văn học trong thời kỳ ở thủ đô Esfahan Khayyam còn nghiên cứu các vấn đề triết học. Ông dịch triết học của Avicenna (Ibn-Sina) từ tiếng Arập sang tiếng Ba Tư và viết 5 tác phẩm triết học còn được lưu giữ đến ngày nay. Sau khi vua Malik-Shak bị đầu độc và Nizam al Mulk bị giết hại trong triều đình bắt đầu một thời kỳ hỗn độn. Cuộc đời của Omar Khayyam bắt đầu một thời kỳ phiêu bạt. Gần cuối đời ông trở về quê hương Nisapur sống bằng nghề dạy học. Năm mất của Khayyam được xác định là 1123. Theo một giả thuyết khác là năm 1131.

            Omar Khayyam nổi tiếng khắp thế giới là một nhà thơ thế nhưng trên quê hương của mình ông chỉ được biết đến là nhà triết học, nhà toán học, thiên văn học. Khayyam trở thành nhà thơ nổi tiếng thế giới là do công của Edward Fitzgerald khi ông in bản dịch “Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam” vào năm 1859. Fitzgerald là người mở đầu trong việc phát hiện Omar Khayyam và sau đấy các nhà khoa học khắp thế giới bắt tay vào việc nghiên cứu Omar Khayyam, mở ra một môn khoa học nghiên cứu gọi là Khayyam học. Trong số những nhà nghiên cứu đi đầu và có những công trình đáng kể nhất về Omar Khayyam có thể kể đến: Nicolas của Pháp, Arberry của Anh, Zhukovsky của Nga, Christensen của Đan mạch, Govinda Tirtha của Ân Độ…
            Omar Khayyam chỉ làm thơ theo thể rubai (trong văn học Ba Tư thế kỉ 11 còn có Baba Taher cũng là người chỉ làm thơ rubai, tuy vậy, rubai của Baba Taher khác với rubai của Khayyam về hình thức cũng như về phong cách). Thơ rubai được gieo vần theo sơ đồ aaba (một ít bài aaaa) là thể thơ có nguồn gốc dân gian Ba Tư.



            * * *

            Tư tưởng chủ đạo trong thơ của Omar Khayyam là đề cao nhân phẩm con người, khẳng định rằng mỗi con người sống trên đời có quyền được hưởng những lạc thú của đời sống ở chốn trần gian. Chỉ với điều này cho phép chúng ta gọi ông là một nhà nhân văn vĩ đại của quá khứ.
            Omar Khayyam cho rằng cuộc đời người là vốn quí, mỗi người cần được nhận về phần hạnh phúc của mình. Hạnh phúc không phải ở chốn thiên đàng hay nơi cực lạc sau khi chết như tôn giáo vẫn khẳng định mà hạnh phúc trên cõi đời này và trong ngày hôm nay.
            Mỗi sáng dậy ta lại bắt tay nhau
            Trong phút giây ta quên mọi khổ đau
            Ta khoan khoái thở khí trời buổi sáng
            Ngực đầy căng ta sung sướng thở phào.
            ***
            Tôi chẳng mong sung sướng ở “sau này”
            Tôi chỉ cần có rượu uống “hôm nay”
            Tôi chẳng tin vào chuyện đời vay trả
            Có khác gì tiếng trống gõ vào tai.

            Cuộc đời người ngắn ngủi. Cái chết không ai tránh khỏi. Đôi khi Khayyam cảm thấy sự vô nghĩa của cuộc đời này. Nhưng Khayyam không tin vào cuộc đời ở thế giới bên kia mà chỉ mong nhận hết những gì có thể ở cuộc đời này.
            Tôi hỏi già về thế giới bên kia
            Trong góc nhà đang uống rượu say sưa.
            “Cứ uống đi! Tới đó còn xa lắm
            Những kẻ ra đi chưa thấy ai về”.
            ***
            Gương mặt dịu dàng và hoa cỏ xanh tươi
            Tôi vẫn ham mê một khi còn sống trên đời.
            Tôi đã, đang và có lẽ vẫn còn uống rượu
            Uống đến giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi.

            Không tin vào thiên đàng ở trên trời Khayyam vẽ ra thiên đàng dưới mặt đất. Đó là bãi cỏ xanh bên bờ suối, là buổi chiều tà, là gương mặt dịu dàng của người tình cùng chén rượu, là khi mà không còn phân biệt được được màu môi của người tình hay hay màu của rượu hồng hơn, say người tình hay rượu say hơn.
            Suối róc rách và hoa cỏ ngát hương
            Có khác chi phong cảnh chốn thiên đường
            Muốn bao nhiêu hãy nằm lăn trên cỏ
            Uống rượu nồng, âu yếm với người thương.
            ***
            Rượu, người đẹp, ngồi trong vườn hoa tươi
            Thiên đàng đâu cũng chẳng cần nữa rồi.
            Không ai thấy thiên đàng trên trời cả
            Đành tạm bằng lòng dưới mặt đất thôi.

            Hoặc cảnh sum vầy quanh bạn bè, bên chén rượu, đêm trăng
            Bên nhau vui vẻ dưới trăng này
            Rượu nồng xin hãy uống cho say
            Mai mốt ta về thân cát bụi
            Trăng vàng muôn thuở vẫn còn đây
            ***
            Em yêu ơi ai biết được ngày mai
            Ta hãy quên phiền muộn dưới trăng này
            Uống đi em kẻo một ngày nào đó
            Trăng lại về còn ta đã xa bay.

            Nhưng rồi cũng có lúc ta thấy chỉ còn lại một mình Khayyam và rượu – người bạn hiền duy nhất không bao giờ từ giã Khayyam.
            Hãy cho tôi một bình rượu thật đầy
            Cô bán hàng cứ rót, chớ dừng tay.
            Giờ chỉ rượu người bạn hiền duy nhất
            Cả bạn và tình đều đã đổi thay.
            ***
            Chẳng còn người ta có thể giãi bày
            Chỉ còn rượu cho ta những cơn say
            Đừng rời tay khỏi chiếc quai bình rượu
            Nếu tuổi già không còn ai để bắt tay.

            Trong thơ Khayyam ta bắt gặp thật nhiều bài ca ngợi rượu. Hình tượng rượu trong thơ ông có rất nhiều nghĩa, nhiều cách giải thích. Những bài sau đây có nghĩa thông thường.
            Kẻ hành khất uống rượu ngỡ ông hoàng
            Cáo uống rượu thành sư tử hiên ngang
            Già uống vào thành trẻ vô tư lự
            Trẻ uống vào thành chín chắn, khôn ngoan.
            ***
            Cuộc đời ta đầy thất vọng, chán chường
            Chỉ còn rượu ta quí trọng, yêu thương
            Rượu – máu của đời, đời là bể khổ
            Nên ta ngồi uống nước mắt quê hương.

            Rượu trong thơ Khayyam là hình tượng thi ca dùng để thể hiện, khẳng định mình. Rượu là tượng trưng cho hạnh phúc của con người, là sự phản kháng đối với những cấm đoán khắt khe của tôn giáo, ca ngợi tự do của con người. Khayyam không đồng tình với học thuyết Hồi giáo về thiên đàng: nếu ngoan đạo là phải từ chối những lạc thú ở đời này để sau khi chết sẽ được lên thiên đàng có tiên, có rượu, có suối mát, có mật ngọt chảy thành sông và một cuộc sống hạnh phúc đời đời. Còn logíc của Khayyam là tại sao trên đời này cũng có người đẹp, có rượu, có thơ, có nhạc, có buổi chiều tà, có suối róc rách và chim hót trên cành thì không hưởng đi mà phải đợi đến sau khi chết.
            Nghe nói rằng sẽ có rượu và tiên
            Và bao nhiêu sung sướng ở thiên đường
            Nhưng đời này ngươi không tình, không rượu
            Chỉ đợi chờ chẳng lẽ thế là khôn?
            ***
            “Lên thiên đàng sẽ được uống rượu nồng
            Có tiên hầu, được sung sướng, thong dong…”
            Nhưng dưới này tôi vẫn em, vẫn rượu
            Suy cho cùng là những thứ đời mong.

            Khayyam không hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện của thiên đàng mà thường nói “chắc gì” nhưng theo Khayyam con người phải là sự kết hợp của hồn và xác. Nếu có thiên đàng thì chỉ cho “hồn” còn “xác” vĩnh viễn nằm lại trên mặt đất, trở thành đất cát cho người đời sau đem đóng gạch xây nhà hoặc cho thợ gốm đem nặn thành bình, thành chén.
            Ý tưởng về sự vĩnh cửu của vật chất (theo quan niệm thời đó) trong thơ Khayyam được thể hiện qua đề tài thợ gốm và nghề làm gốm. Con người từ cát bụi mà ra sau khi chết lại trở về cát bụi. Từ cát bụi (đất cát) có thể được làm thành gạch hoặc thành bình đựng rượu hoặc cũng có thể từ cát bụi mọc lên cây cỏ, hoa lá…
            Có một lần tôi mua chiếc bình nói được
            “Xưa ta là ông hoàng – bình nức nở khóc –
            Trở thành đất người thợ gốm nặn ta
            Thành thứ đồ mua vui cho kẻ khác.
            ***
            Ngươi biết không từng chiếc lá, bông hoa
            Từng một thời là tóc của người xưa
            Ai qua đường hãy thương từng chiếc lá
            Bởi hoa lá từ người đẹp sinh ra.

            Đọc thơ Khayyam ta cảm nhận được cái băn khoăn của một con người trí tuệ trước những câu hỏi muôn thuở. Những bài thơ này có lẽ được viết ra trong những năm cuối của cuộc đời ông. Khayyam nêu ra những câu hỏi với loài người: Ta là ai? Ta từ đâu đến? Ta đi về đâu? Trong cuộc đời ngắn ngủi đâu là ý nghĩa của đời ta? Và ông đi đến những kết luận thật bi quan.
            Ta từ đâu đến? Ta đi về đâu?
            Ý nghĩa cuộc đời đành chịu vò đầu
            Bao nhiêu hồn dưới vòng xoay con tạo
            Cháy thành tro, thành bụi, khói ở đâu?
            ***
            Tôi đến đây đời giàu lên có phải?
            Tôi ra đi đời có gì thiệt hại?
            Có ai người giải thích vì sao tôi
            Từ cát bụi lại trở về cát bụi?

            Một khía cạnh khác là triết lý về sự hoài nghi của Omar Khayyam. Nhà toán học, nhà triết học có những ý tưởng vượt xa thời đại của mình. Nhà bác học từng phát minh ra cốt lõi của nhị thức Newton, nhà thiên văn lập ra lịch có độ chính xác cao hơn lịch của người thế kỷ 21 đang sử dụng đã tỏ ra là kẻ hoài nghi về khả năng nhận thức những qui luật của tồn tại.
            Khi còn nhỏ đến thầy tìm chân lý
            Rồi lớn lên về gõ đầu con trẻ.
            Chân lý ở đâu? Ta từ nước mà ra
            Rồi thành gió. Đấy, chuyện đời là thế.
            ***
            Sau cánh cửa kia còn giấu điều gì
            Ta đoán mò, ta lạc giữa u mê
            Chỉ sau khi cánh cửa đời đã khép
            Mới biết rằng ta đã lộn đường đi.




            Thế giới quan của Omar Khayyam rất phức tạp và huyền bí mà phạm vi bài viết này không thể đề cập hết. Chúng tôi xin trích một đoạn hội thoại giữa Khayyam với cô người tình trong một cuốn truyện về ông mà theo chúng tôi đã thể hiện đầy đủ về cái nhìn của ông đối với cuộc đời.
            “- Thưa ông, trà đã chuẩn bị xong và món ăn mà ông thích: bánh và mật.
            - Thế con có nhớ không, có lần ta đã bảo con rồi, tốt
            hơn trà là rượu…
            - Vâng, và tốt hơn rượu là phụ nữ, còn tốt hơn phụ nữ là chân lý.
            - Ừ, ta đã từng nói vậy. Nhưng hôm nay ta đi dạo trong vườn chợt hiểu ra rằng: tất cả đều nhảm nhí, vớ vẩn hết. Tất cả mọi thứ trên đời đều có khối lượng, trọng lượng, thể tích và thời gian tồn tại nhưng không có thước đo của một thứ – chân lý. Điều mà hôm qua tưởng đã đúng rành rành thì hôm nay lại hoá thành sai. Điều mà hôm nay người ta cho rằng giả dối thì ngày mai em trai con sẽ học trong nhà trường. Không phải lúc nào thời gian cũng là thước đo mọi khái niệm. Ta đã từng nghe bao nhiêu lời đồn đại của người đời về ta. Khayyam – người chứng minh chân lý, Khayyam – người keo kiệt, Khayyam – nghiện rượu, Khayyam – mê gái, Khayyam – vô thần, Khayyam – thần thánh… Thế mà ta chỉ là ta.
            - Thế còn con thì sao, thưa ông?
            - Con tốt hơn rượu và quan trọng hơn chân lý. Từ lâu ta
            đã muốn cho con tiền để mua cái dây chuyền vàng có đeo một cái chuông nhỏ để khi con đang đi từ xa ta đã biết rằng con đang đi đến”.



            * * *

            Trong thơ Khayyam người đẹp, rượu, hoa cỏ, thiên nhiên dưới mặt đất đối trọng với tiên nữ, rượu, vườn hoa, suối mật trên thiên đàng, kẻ hoài nghi với người tin vào giáo điều mù quáng, lòng chân thành với sự giả dối, cuộc sống với cái chết, thực tại với hư vô.
            Như đã nói ở phần đầu Omar Khayyam có một vị trí đặc biệt trong các nhà thơ cổ phương Đông. Có thể ông không phải là nhà thơ lớn nhất (mà người viết cũng không hề có ý định xếp hạng) nhưng có thể nói rằng Khayyam là nhà thơ độc đáo nhất, không giống một nhà thơ nào khác trong khi ông lại mang những nét chung nhất của mọi con người.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.07.2008 08:52:37 bởi cacbac >
            #21
              cacbac 18.07.2008 08:54:45 (permalink)





              RUBÁIYÁT
              OF
              OMAR KHAYYÁM

              (Bản Tiếng Anh của Edward Fitzgerald in lần thứ nhất năm 1859)

              I.
              Awake! for Morning in the Bowl of Night
              Has flung the Stone that puts the Stars to Flight:
              And Lo! the Hunter of the East has caught
              The Sultán’s Turret in a Noose of Light.
              *
              Dậy! Buổi sáng ném Đá vào Chén của Đêm
              Đá đuổi Sao Di chuyển. Và hãy nhìn!
              Người đi săn của Phương Đông cài bẫy
              Tháp của Vua trong Thòng lọng Bình minh.


              II.
              Dreaming when Dawn’s Left Hand was in the Sky,
              I heard a Voice within the Tavern cry,
              “Awake, my Little ones, and fill the Cup
              Before Life’s Liquor in its Cup be dry.”
              *
              Khi Tay Trái Bình minh giữa Trời xanh
              Ta mơ màng nghe từ Quán rượu kêu lên:
              “Dậy, các Con, dậy rót cho đầy Chén
              Trước khi Rượu Đời khô trong Chén của mình”.


              III.
              And, as the Cock crew, those who stood before
              The Tavern shouted—“Open then the Door!
              You know how little while we have to stay,
              And, once departed, may return no more.”
              *
              Gà gáy sáng, người ta kêu trước cửa
              Của Quán rượu rằng: “Hãy mau mở Cửa!
              Ngươi có biết, đời ngắn ngủi lắm thay
              Một lần đi, không còn quay về nữa”.


              IV.
              Now the New Year reviving old Desires,
              The thoughtful Soul to Solitude retires,
              Where the White Hand of Moses on the Bough
              Puts out, and Jesus from the Ground suspires.
              *
              Năm Mới hồi sinh Lòng khát khao xưa cũ
              Hồn đầy ý nghĩ đi về nơi Vắng vẻ
              Nơi giơ ra Bàn tay Trắng của Mose
              Nghe từ dưới Đất tiếng thở dài của Chúa.


              V.
              Irám indeed is gone with all its Rose,
              And Jamshýd’s Sev’n-ring’d Cup where no one knows:
              But still the Vine her ancient Ruby yields,
              And still a Garden by the Water blows.
              *
              Irám quả là biến mất với Hoa hồng
              Chén Jamshýd ở đâu, có ai biết chăng
              Nhưng Nho còn cho màu Hồng xưa cũ
              Và bên Sông vẫn tươi tốt khu Vườn.


              VI.
              And David’s Lips are lockt; but in divine
              High-piping Péhlevi, with “Wine! Wine! Wine!
              Red Wine!”—the Nightingale cries to the Rose
              That yellow Cheek of hers to incarnadine.
              *
              Trên môi David còn dấu, nhưng giọng thánh thần
              Của Péhlevi – Họa mi gọi Hoa hồng:
              “Rượu! Rượu! Rượu vang đỏ!” để gợi
              Màu hồng tươi trên đôi Má màu vàng.


              VII.
              Come, fill the Cup, and in the Fire of Spring
              The Winter Garment of Repentance fling:
              The Bird of Time has but a little way
              To fly—and Lo! the Bird is on the Wing.
              *
              Ngươi hãy đến và rót cho đầy Chén
              Và hãy ném vào ngọn Lửa của mùa Xuân
              Áo quần mùa Đông của sự ăn năn
              Con chim Thời gian đã vẫy vùng đôi Cánh.


              VIII.
              And look—a thousand blossoms with the Day
              Woke—and a thousand scatter’d into Clay:
              And this first Summer Month that brings the Rose
              Shall take Jamshýd and Kaikobád away.
              *
              Ngày đến với cả ngàn hoa – hãy xem
              Cả một nghìn đã tan vào Đất sét
              Tháng đầu Hè mang đến những bông Hồng
              Nở hoa xa Jamshýd và Kaikobád.


              IX.
              But come with old Khayyám and leave the Lot
              Of Kaikobád and Kaikhosrú forgot:
              Let Rustum lay about him as he will,
              Or Hátim Tai cry Supper—heed them not.
              *
              Với Khayyam già, quên đi Số kiếp
              Của Kaikhosrú và Kaikobád
              Và Rustum cứ để cho mặc lòng
              Hay Hátim Tai gọi ăn trưa – cứ mặc.


              X.
              With me along some Strip of Herbage strown
              That just divides the desert from the sown,
              Where name of Slave and Sultán scarce is known,
              And pity Sultán Máhmúd on his Throne.
              *
              Đi cùng ta, theo lối Cỏ Hoa xanh
              Để cách ngăn sa mạc với đồng bằng
              Nơi không cần Đế vương hay Nô lệ
              Thương Vua Máhmúd ngự trên Ngai vàng.


              XI.
              Here with a Loaf of Bread beneath the Bough,
              A Flask of Wine, a Book of Verse—and Thou
              Beside me singing in the Wilderness—
              And Wilderness is Paradise enow.
              *
              Ở nơi đây dưới bóng lá bóng Cành
              Với Bánh, Rượu, Quyển sách Thơ – và Em
              Hát bên anh, thì dù cho Sa mạc
              Đối với anh cũng vẫn cứ Thiên đàng.


              XII.
              “How sweet is mortal Sovranty”—think some:
              Others—“How blest the Paradise to come!”
              Ah, take the Cash in hand and waive the Rest;
              Oh, the brave Music of a distant Drum!
              *
              Ai đấy nghĩ: “Thật sung sướng cõi trần!”
              Còn ai: “Hạnh phúc được đến Thiên đàng!”
              Ta cứ giữ Hầu bao và quên hết
              Có khác gì tiếng Trống cõi xa xăm!


              XIII.
              Look to the Rose that blows about us—“Lo,
              Laughing,” she says, “into the World I blow:
              At once the silken Tassel of my Purse
              Tear, and its Treasure on the Garden throw.”
              *
              Hãy nhìn xem, hoa Hồng nở xung quanh
              Hoa cười, nói: Ta đến cõi Trần gian
              Rồi phút giây Kho báu từ tơ lụa
              Bỗng tan ra rải rác khắp cả Vườn”.


              XIV.
              The Worldly Hope men set their Hearts upon
              Turns Ashes—or it prospers; and anon,
              Like Snow upon the Desert’s dusty Face
              Lighting a little Hour or two—is gone.
              *
              Hy vọng Trần gian trong trái Tim người
              Thành Tro bụi, hoặc tan biến ngay thôi
              Như Tuyết trên gương Mặt hồng Sa mạc
              Một hai Giờ, rồi sẽ biến mất ngay.


              XV.
              And those who husbanded the Golden Grain,
              And those who flung it to the Winds like Rain,
              Alike to no such aureate Earth are turn’d
              As, buried once, Men want dug up again.
              *
              Và ai người gìn giữ Bông lúa Vàng
              Ai người ném ra Gió, như Mưa giông
              Về với Đất, không còn như vàng bạc
              Đã chôn rồi, Thiên hạ chẳng đào lên.


              XVI.
              Think, in this batter’d Caravanserai
              Whose Doorways are alternate Night and Day,
              How Sultán after Sultán with his Pomp
              Abode his Hour or two and went his way.
              *
              Hãy nghĩ xem, trong cái Lễ hội này
              Liên tục đổi thay, hết Đêm đến Ngày
              Vua tiếp Vua, trong cái vòng xoay ấy
              Một hai Giờ rồi lại biến mất ngay.


              XVII.
              They say the Lion and the Lizard keep
              The Courts where Jamshýd gloried and drank deep:
              And Bahrám, that great Hunter—the Wild Ass
              Stamps o’er his Head, and he lies fast asleep.
              *
              Nghe nói Thằn lằn với Sư tử đâu
              Giữ Cung điện, nơi Jamshýd uống rượu lâu
              Và Bahrám, Người đi săn vĩ đại
              Ngủ say, trong khi Lừa Hoang đạp trên Đầu.


              XVIII.
              I sometimes think that never blows so red
              The Rose as where some buried Cæsar bled;
              That every Hyacinth the Garden wears
              Dropt in its Lap from some once lovely Head.
              *
              Đôi khi ta nghĩ rằng không có hoa đỏ hơn
              Hoa Hồng ở nơi chôn ông Vua vĩ đại
              Và mỗi bông Lan dạ hương trong vườn
              Mọc ra từ Đầu người yêu nào đấy.


              XIX.
              And this delightful Herb whose tender Green
              Fledges the River’s Lip on which we lean—
              Ah, lean upon it lightly! for who knows
              From what once lovely Lip it springs unseen!
              *
              Hoa cỏ tuyệt đẹp, Màu xanh dịu dàng
              Trải khắp Bờ Sông, nơi ta nằm lên
              Hãy nhẹ nhàng, vì rằng ai biết được
              Từ bờ Môi yêu dấu, cỏ hồi sinh.


              XX.
              Ah, my Belovéd, fill the cup that clears
              To-day of past Regrets and future Fears—
              To-morrow?—Why, To-morrow I may be
              Myself with Yesterday’s Sev’n Thousand Years.
              *
              Em cứ rót rượu cho đầy, để rửa
              Nỗi sợ tương lai, Tiếc thương quá khứ
              Còn Ngày mai? Tại sao, trong Ngày mai
              Anh đã cùng Bảy Nghìn năm Hôm qua đó.


              XXI.
              Lo! some we loved, the loveliest and the best
              That Time and Fate of all their Vintage prest,
              Have drunk their Cup a Round or two before,
              And one by one crept silently to Rest.
              *
              Hãy xem! Người ta yêu, những gì tốt nhất
              Mà Số phận và Thời gian từ Nho đã ép
              Họ uống Chén mình một hai lượt trước đây
              Rồi theo nhau về Ngủ yên dưới đất.


              XXII.
              And we, that now make merry in the Room
              They left, and Summer dresses in new Bloom,
              Ourselves must we beneath the Couch of Earth
              Descend, ourselves to make a Couch—for whom?
              *
              Giờ ta đang vui vẻ trong phòng này
              Họ bỏ lại, Hè trải ra Hoa mới
              Ta rồi phải xuống dưới Giường Đất ấy
              Và sẽ thành Giường – là để cho ai?


              XXIII.
              Ah, make the most of what we yet may spend,
              Before we too into the Dust descend;
              Dust into Dust, and under Dust, to lie,
              Sans Wine, sans Song, sans Singer, and—sans End!
              *
              Tìm lấy điều gì đấy tốt cho ta
              Bởi rồi đây Cát bụi cả thôi mà
              Thành Cát bụi ta nằm trong Cát bụi
              Chẳng Cuối cùng, chẳng Rượu, chẳng Bài ca.


              XXIV.
              Alike for those who for To-day prepare,
              And those that after a To-morrow stare,
              A Muezzín from the Tower of Darkness cries,
              “Fools! your Reward is neither Here nor There!”
              *
              Với những người chỉ sống ngày Hôm nay
              Và những người chỉ sống với Ngày mai
              Ông Muezzín kêu lên từ Tháp Tối:
              “Đừng ngóng trông chi nơi Nọ, nơi Này!”


              XXV.
              Why, all the Saints and Sages who discuss’d
              Of the Two Worlds so learnedly, are thrust
              Like foolish Prophets forth; their Words to Scorn
              Are scatter’d, and their Mouths are stopt with Dust.
              *
              Những Thánh thần và những nhà Thông thái
              Từng tranh luận về chuyện Hai Thế giới
              Những lời Tiên tri dại dột bị khinh thường
              Miệng họ đã im, tất cả về Cát bụi.




              còn tiếp...
              #22
                cacbac 11.11.2008 09:21:27 (permalink)
                XXVI.
                Oh, come with old Khayyám, and leave the Wise
                To talk; one thing is certain, that Life flies;
                One thing is certain, and the Rest is Lies;
                The Flower that once has blown for ever dies.
                *
                Theo Khayyam già, Khôn ngoan bỏ lại
                Chỉ có một điều: Cuộc đời đi mãi
                Chỉ có một điều: Hoa nở một lần
                Rồi tàn lụi, còn lại đều Gian dối.


                XXVII.
                Myself when young did eagerly frequent
                Doctor and Saint, and heard great Argument
                About it and about: but evermore
                Came out by the same Door as in I went.
                *
                Thời tuổi trẻ, ta sung sướng biết bao
                Nghe theo Thầy, theo Thánh được rất lâu
                Họ tranh luận về chuyện này chuyện khác
                Nhưng luôn ra theo cánh Cửa khi vào.


                XXVIII.
                With them the Seed of Wisdom did I sow,
                And with my own hand labour’d it to grow:
                And this was all the Harvest that I reap’d—
                “I came like Water, and like Wind I go.”
                *
                Cùng với họ, ta gieo hạt Giống Khôn
                Lao động làm cho hạt giống lớn lên
                Và đây là Kết quả khi thu hoạch:
                “Đến như Nước, rồi đi như Gió rừng”.


                XXIX.
                Into this Universe, and why not knowing,
                Nor whence, like Water willy-nilly flowing:
                And out of it, as Wind along the Waste,
                I know not whither, willy-nilly blowing.
                *
                Vào Vũ trụ, không biết được tại sao
                Và như Nước, không biết được từ đâu
                Rồi như Gió lướt bay trên Sa mạc
                Dù muốn dù không, chẳng biết về đâu.




                XXX.
                What, without asking, hither hurried whence?
                And, without asking, whither hurried hence!
                Another and another Cup to drown
                The Memory of this Impertinence!
                *
                Xin đừng hỏi ta rằng: đến từ đâu?
                Và xin đừng hỏi gì chuyện: về sau?
                Chén rót đầy, rồi rót cho đầy nữa
                Để ta quên điều Sỉ nhục trong đầu.


                XXXI.
                Up from Earth’s Centre through the Seventh Gate
                I rose, and on the Throne of Saturn sate,
                And many Knots unravel’d by the Road;
                But not the Knot of Human Death and Fate.
                *
                Từ lòng Đất ta xuyên qua Bảy Cổng
                Rồi ta ngồi lên Ngai vàng Số phận
                Và ta lẫn lộn Đầu mối trên Đường
                Nơi đan kết Cái chết và Số phận.


                XXXII.
                There was a Door to which I found no Key:
                There was a Veil past which I could not see:
                Some little talk awhile of Me and Thee
                There seemed—and then no more of Thee and Me.
                *
                Trước mặt ta cánh Cửa khoá im lìm
                Và tấm Lưới, ta không thể nhìn xuyên
                Về Em, về Anh, có lời to nhỏ
                Nhưng sau chẳng còn Em cũng như Anh.


                XXXIII.
                Then to the rolling Heav’n itself I cried,
                Asking, “What Lamp had Destiny to guide
                Her little Children stumbling in the Dark?”
                And—“A blind Understanding!” Heav’n replied.
                *
                Ta hướng về bầu Trời xanh, kêu lên
                Hỏi: “Ngọn đèn nào của Số phận dẫn đường
                Cho bầy Trẻ vấp váp trong Bóng tối?”
                Câu trả lời: “Mù quáng!” tự Trời xanh.


                XXXIV.
                Then to the earthen Bowl did I adjourn
                My Lip the secret Well of Life to learn:
                And Lip to Lip it murmur’d—“While you live
                Drink!—for once dead you never shall return.”
                *
                Khi đó ta ép Môi vào Chén đất
                Để mong hiểu ra Ngọn Đời bí mật
                Môi kề Môi, chén bảo: “Cứ uống đi
                Kẻo không quay về sau khi đã chết”.


                XXXV.
                I think the Vessel, that with fugitive
                Articulation answer’d, once did live,
                And merry-make; and the cold Lip I kiss’d
                How many kisses might it take—and give!
                *
                Ta nghĩ rằng Bình chứa nguồn rượu sống
                Trả lời ta, từng một thời đã sống
                Từng vui tươi, còn Môi lạnh ta hôn
                Biết bao nụ hôn đã tan – và tặng.


                .......
                #23
                  Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 23 trên tổng số 23 bài trong đề mục
                  Chuyển nhanh đến:

                  Thống kê hiện tại

                  Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                  Kiểu:
                  2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9