Một Huyền Thoại Thi Ca
Thay đổi trang: << < 131415 > >> | Trang 14 của 20 trang, bài viết từ 196 đến 210 trên tổng số 293 bài trong đề mục
Nhân văn 18.09.2014 23:17:37 (permalink)
 
 
              Thơ Phạm Ngọc Thái
      những năm tháng bèo dạt mây trôi
                    Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca", Nxb Văn hoá Thông tin 2013

                                                                                     Khánh Hòa      
 

   
NỖI TRĂN TRỞ NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG

Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
Rời quê qua bên kia biển sóng
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống.
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!

Ai mang bán v��J�g mười giữa phiên chợ đông? (1)
Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                           lọc sàng từng đống rác...(2)
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
Nhìn cánh dơi đen xao xác trời chiều
Cứ để cho tất cả lãng quên!

Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại
Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ…
Chút thơm thảo đoá phù du ngắn ngủi
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ.

Rồi một ngày, sẽ có một ngày qua
Những năm tháng không bẩn đấy,
                                     cũng rộm vàng khói cột
Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè thân hữu
Và khi đó tóc có ngả mầu chút xíu
Dù cho tất cả đã quên tôi !?

                                  Phạm Ngọc Thái
                            Nước Đức- Đêm 11/9/1989


(1) Mượn ý trong câu thơ của Nguyễn Duy: " Còn chút vàng mười mang ra bán nốt"
(2) Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki.



 
  LỜI BÌNH:  Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong nước hỗn độn. Nền kinh tế xã hội sa sút. Đời sống dân tình, nhất là nhiều vùng quê rơi vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới thì đảo loạn. Sang thập niên 90 Xô Viết Nga tan vỡ, rồi hàng loạt các nước trong phe XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương mù chủ nghĩa bao phủ bầu trời. Như ở trong bài "Trở Về" của tập thơ Người Đàn Bà Trắng, tác giả đã viết:                           Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
                        Bốn bể chân trời lạc khói sương...
       Bấy giờ nhà thơ còn là một cán bộ ngành ngoại thương  quốc tế. Anh được điều động từ trong nước ra nước ngoài tham gia công tác quản lý một đơn vị xuất khẩu lao động. Đó chỉ là thực cảnh của các đám dân dã đi tha phương kiếm sống. Những trăn trở riêng chung của tác giả trước một thực tế đầy phức tạp, để vào một đêm Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng đã ra đời:
                        Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
                        Rời quê qua bên kia biển sóng
                        Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
      Bài thơ phác lên một bức tranh được khai thác cả bề diện lẫn bề sâu. Những lớp người này phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ, tình cảm quê hương gắn bó cũng rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách quê người thì thật kinh khủng, đến mức đạo lý sống tưởng chừng như không còn chỗ để dung thân. Nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời. Nó đã thuộc vào hàng là những lớp chúng sinh tận cùng đáy xã hội rồi:
                        Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
                        Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
     Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót:
                        Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
                        Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
       Sử dụng những cụm từ như: giả dại, làm ngơ, mách qué, vân vi... mà vẫn giữ được phong cách của dòng thơ trữ tình chính thống, bản sắc thêm đậm đà chất văn học dân gian. Người đã phải hoá mình thành giả dại, ngây ngô, cười cợt... mà sống. Nén mình nuốt cái "đạo lý có hoá thừa" kia đi, tự nhận chìm bản thân như là không tồn tại để lãng quên.

      Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra mặn đắng hơn cả dòng nước mắt.  Đó là sự mở đầu bi hài của cuộc sống trong Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng này. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó như thế nào?
                        Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1)
                        Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                                             lọc sàng từng đống rác...(2)
                        Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
                        Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
         Câu (1) - Sử dụng ý thơ của nhà thơ Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/-  "vàng mười"ở đây chính là thứ vàng của lương tâm. Nghèo cực quá thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ! Nền tảng xã hội quá thấp thì cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được? Huống hồ quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ kia có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại trong mình ra phiên chợ người mà bán? thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám người lao động tha phương, giá đổi chua chát hơn nhiều.
      Còn câu (2):
                        Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                                                            lọc sàng từng đống rác...
       Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki: Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri!
     Trên đường về Pháp lênh đênh qua đại dương, bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính là biểu tượng cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời bé gái. Những tháng năm sau đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại ô Pa Ri. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt vét lấy những nắm cấn rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé gái một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri!
      Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái, thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến được tay cô gái.
       Vậy là - Thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán, cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được:
                        Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
                        Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
       Nó đã phải đổi bằng cả sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Ý thơ thật xót xa. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, nền đạo lý bị tha hoá, dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Đây là những câu thơ hay nhất bài, như lời một nhà bình thơ đã nhận xét: Nó có thể đạt đến những câu thơ trở thành kinh điển!
       Thông qua sự trăn trở bản thân, tác giả đã khai thác vào nỗi lòng tâm linh của những người lao động, đưa tính nhân bản thơ lên đến tột cùng:
                        Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại
                        Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ
                        Chút thơm thảo: đoá phù du ngắn ngủi
        Sự khao khát những chiều hương lý trong kỉ niệm, nhớ đến những bông đại nơi quảng trường quê hương - Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy, càng thấy sự phũ phàng thực tế mà những kẻ đi tìm vàng đã phải chịu đựng. Kịch tính biết bao khi chính họ lại phải sống với nhau như hài kịch:
                        Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ...
       Câu thơ điệp trở lại hai lần để nhấn mạnh, thật là một màn bi hài của xã hội và cuộc đời. Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng:
                      Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
                      Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
                      Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
                      Một chút nữa với bạn bè thân hữu...
      Vậy nếu khi nhà thơ Phạm Ngọc Thái có phải tự chất vấn về mình:
                     Những năm tháng không bẩn đấy, cũng rộm vàng khói cột 
      Thì cũng giống như cảnh mà Nguyễn Duy đã viết: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/-  Làm sao ta có thể lên án được, bởi những con người đó đã phải đổi cả một phần nhân cách cần thiết chỉ vì lương tri. Những việc làm của họ là xuất phát từ lương tri của lương tri.      
       Chỉ với hơn hai mươi câu thơ: Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng phục lại không khác gì một pho tiểu thuyết, một tấn đời! Bài thơ có ý nghĩa hiện thực sâu sắc, giá trị nhân văn cũng như tính điển hình xã hội ở trong một giai đoạn nhiều biến động thời đại phức tạp, xẩy ra cả trong nước và trên thế giới.
     KH. 
 
                    Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới:
  http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3802
  http://blog.zing.vn/jb/dt.../20103827?fromcate=205
  http://www.vanganh.info/2...ung-nam-thang-beo.html
  http://datdung.com/module...id=12495#axzz3DjlVevnP
  http://tranmygiong.blogti...nh_ng_n_m_thang_beo_d_
  http://trannhuong.com/tin...-beo-dat-may-troi.vhtm
  http://nguyenduyxuan.net/...-thang-beo-dt-may-troi
  http://vanthientungqtlh.b...ca-pham-ngoc-thai.html
  http://www.nhuygialai.com...ung-nam-thang-beo.html
  http://www.truclamyentu.i...g-beo-dat-may-troi.htm
  http://nghiathuc.wordpres...an-hoa-thong-tin-2013/
  http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-86_4-5797_15-2/
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_7.php
  http://vannghequangtri.bl...oc-thai-nhung-nam.html
  http://vandanvietnet.co.n...ung-nam-thang-beo.html
  http://binhtrung.org/p140...-tro-nguoi-di-tim-vang
   http://huongnguyenhoang.b...ang-tho-pham.html#more
  http://hung-viet.org/blog...hang-beo-dat-may-troi/
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.08.2015 22:53:53 bởi Nhân văn >
Nhân văn 21.10.2014 11:27:32 (permalink)
 
 

Hà Nội qua thơ của những thi nhân

Phạm Ngọc Thái



        Hà Nội qua thơ của những thi nhân và trong dân gian nhiều không kể hết. Cũng giống như bóng trăng trong tâm khảm mọi người, đậm tình và giầu hương sắc. Trải qua bao thế hệ đã trở thành trung tâm tụ hội, chính trị và văn hoá xã hội. 
      Cụ Nguyễn Du trên đường đi sứ qua Thăng Long (1813), xúc động mà hoài cảm về những kí ức xưa: 
                Núi Tản, sông Lô vẫn núi sông, 
                Bạc đầu còn được thấy Thăng Long... 
                Người đẹp thưở xưa nay bế trẻ, 
                Bạn chơi thưở nhỏ trở thành ông. 
      Từ những kỷ niệm riêng, chung. Lòng cụ bồi hồi: 
                Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ 
                Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô, 
                Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa 
                Điện mới xô bồ nhịp trúc tơ. 
                                    ( Thành Thăng Long ) 
      Còn nữ sỹ Hồ Xuân Hương lại ngợi ca tiên cảnh ở Tây Hồ: 
                Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa... 
                Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thờ, 
                Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng, 
                Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ. 
                              ( Chơi Tây Hồ nhớ bạn ) 
      Á Nam Trần Tuấn Khải (1894-1983) chơi ở thành Cổ Loa, lòng gợi nhớ tới sự tích thời Thục An Dương Vương và bi tình Mỵ Châu - Trọng Thuỷ: 
                Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa 
                Trải bao gió táp với mưa sa, 
                Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc, 
                Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha. 
                             ( Chơi thành Cổ Loa ) 
      Nhà thơ Nguyễn Khuyến dẫu 30 năm xa cách, vắng bóng, mà lòng vẫn khôn nguôi nhớ về hồ Hoàn Kiếm: 
                Ba chục năm trời cảnh vắng ta, 
                Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhoà... 
                Chiếc én tìm về quên lối cũ, 
                Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ. 
                              ( Hồ Hoàn Kiếm ) 
      Vũ Trấn Quốc cùng thời với cụ Cao Bá Quát, đã ngợi ca cảnh phường Bích Câu: 
                Thành Tây có cảnh Bích Câu, 
                Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao, 
                Đua chen thu cúc xuân đào, 
                Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông. 
                               ( Cảnh Bích Câu ) 
      Nhưng kinh đô Thăng Long trong tâm khảm các nhà thơ thời trước không chỉ được ngợi ca phong cảnh đẹp, mà còn ghi nhiều dấu ấn chống ngoại xâm - Trần Quang Khải (1241-1294) viết trên đường đưa vua về kinh đô: 
                Bến Chương Dương cướp giáo giặc 
                Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ. 
                                ( Phò tá về kinh ) 
      Lý Thường Kiệt (1019-1105) - Ông từng làm thơ, vừa để huấn dụ vừa khích lệ lòng tự hào dân tộc của ba quân: 
                Nam Quốc sơn hà Nam đế cư, 
                Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. 
      Thời tiền chiến - Hình ảnh Hà Nội cũng rất gắn bó trong nỗi tình thơ của các thi nhân. Họ ghi lại những tâm trạng, những kỷ niệm vui, buồn... trong cuộc đời ở nơi phố phường. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương sau bao năm tháng phiêu bạt trở về phố cũ, lòng ông vẫn xốn xang: 
                Ôi chốn ngày xưa vai sánh vai... 
                Hồ Gươm sóng lụa bờ tơ liễu... 
                Thấp thoáng hè qua đài phượng rụng, 
                Lào rào thu muộn lá xoan rơi. 
                Nửa kiếp lênh đênh dừng phố cũ, 
                Tình thơm mộng nhỏ tóc buông vai. 
                                          ( Phố cũ ) 
      Tản Đà thì mô tả trong đêm ở hồ Tây: 
                Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi 
                Đêm thu vằng vặc bóng theo người, 
                Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước 
                Tri kỷ trông lên đứng tận trời. 
                               ( Tây Hồ vọng nguyệt ) 
      Trần Huyền Trân thả nỗi niềm về những ngày tháng sống lận đận trong cái túp lều bên hồ Cống Trắng, ở phố Khâm Thiên. Lòng tri kỷ với phố mà vẫn buồn man mác: 
                Tôi ở lều gianh Cống Trắng này 
                Chạnh lòng cá nhảy với chim bay, 
                Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức 
                Giăng phải hồn tôi một lưới đầy. 
                               ( Mưa đêm lều vó ) 
      Nhà thơ Thế Lữ đứng giữa đêm giao thừa Hà Nội trước năm 1945, than cho kẻ phải sống lang thang bụi đời: 
                Lê gót mòn trên đá, 
                Ngẩng đầu trông cơn gió thổi 
                Lá vàng rơi lác đác 
                Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành, 
                Những cây khô đã chết cả mầu xanh... 
                Hỡi người bạn! Anh định về đâu đó? 
                                 ( Con người vơ vẩn ) 
      Nhà giáo và cũng là một nhà thơ Vũ Đình Liên lại hoạ cảnh một Ông Đồ thường ngồi bên phố, viết câu đối thuê cho khách: 
                Nhưng mỗi năm mỗi vắng, 
                Người thuê viết nay đâu? 
                Giấy đỏ buồn không thắm, 
                Mực đọng trong nghiên sầu. 
                                 ( Ông Đồ )    
     Nguyễn Bính nói về cảnh chia ly của những người trên sân ga: 
                Những cuộc chia lìa khởi tự đây... 
                Những chiếc khăn mầu thổn thức bay 
                Những bàn tay vẫy những bàn tay 
                Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt 
                Buồn ở đâu hơn ở chốn này? 
                              ( Những bóng người trên sân ga ) 
      Nhưng Hà Nội trước kia không phải chỉ có buồn như thế. Nữ thi sỹ Anh Thơ đã mô tả về nỗi lòng rạo rực về một cảnh đêm Hà Nội: 
                Căn phòng ta thênh thang hai cửa sổ 
                Mây trắng đi qua, sông Hồng thả gió, 
                Mỗi năm mùa hè, tắt điện đón trăng khuya... 
                               ( Căn phòng ta ) 
      Thơ ngợi ca về Hà Nội trong hai cuộc kháng chiến cũng rất nhiều. Hồi đánh Pháp, Nguyễn Đình Thi đã không nén nổi xúc động khi đứng giữa Thủ đô đã được giải phóng: 
                Hà Nội chiều nay mưa tầm tã 
                Ta lại về đây giữa phố xưa... 
      Ông reo lên như muốn vỡ tung tim: 
                Ta đứng khóc giữa trời mưa hắt 
                Leng keng chuông xe điện đổ hồi 
                Lòng ta bỗng như dòng suối mát 
                Ta đã về đây Hà Nội ơi! 
                                   ( Ngày về ) 
      Những năm đánh Mỹ nhà thơ Nguyễn Mỹ đã viết về cảnh chia ly ở Hà Nội nhưng khác hoàn toàn cảnh sầu thảm xưa kia, bởi vì cuộc chia ly này Hà Nội đã tiễn người đi chiến đấu để giữ nước: 
                Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ 
                Tươi như cánh nhạn lai hồng 
                Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ 
                Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa... 
      Và nhà thơ kết luận: 
                Như chưa hề có cuộc chia ly! 
                              ( Cuộc chia ly màu đỏ ) 
      Vũ Quần Phương mô tả về Hà Nội trong những ngày tháng chống chiến tranh phá hoại của Giôn Xơn, để sau 12 ngày đêm lịch sử Hà Nội đã trở thành lương tri và phẩm giá loài người: 
                Cả Hà Nội rung lên, xe xích chạy rung đường,
                Đêm ấy tôi nghe những em bé qua tôi 
                                                            vẫy bàn tay sơ tán. 
                Bé lên mười dắt bé lên năm, 
                Hà Nội toả đi xa những cô giữ trẻ, 
                Bệnh nhân đi và thầy thuốc đi theo. 
                Hà Nội nhận vào lòng những cỗ pháo phòng không, 
                Những cỗ xe tên lửa. 
                                    ( Tâm sự một căn nhà ) 
      Dù xưa hay nay, chiến tranh và hoà bình, đến thời buổi kinh tế thị trường mở cửa này... Hà Nội quay chóng mặt - Nhưng Thủ đô của chúng ta vẫn mãi là một thành phố trữ tình, như nhà thơ Xuân Diệu đã viết: 
                Em đưa anh vào trong bóng trăng 
                Anh đưa em cành liễu thung thăng 
                Đường Láng thơm bạc hà kinh giới 
                Xuống đây, đi với anh đêm trăng. 
                                 ( Đêm trăng đường Láng ) 
      Thanh Thảo viết: 
                Gia đình mình đã sơ tán chưa em, 
                Chiều thứ bảy em có về phố nhỏ 
                Có ngập ngừng trước khi mở cửa, 
                Lá sấu rơi xúc động bên thềm... 
                Gốc sấu này mòn dấu em chờ anh. 
                                 ( Dòng chữ cho em ) 
     Nỗi tình của nhà thơ Tế Hanh thì lại được ông diễn tả đầy thi vị: 
                Thế là Hà Nội vắng em... 
                Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây? 
                                 ( Hà Nội vắng em ) 
      Tôi cũng có nhiều kỷ niệm về Hà Nội. Dù Hà Nội đã có bao thay đổi, nhưng vẫn mãi mãi là những hồi ức như thuở còn thơ, tựa thể một ngoại ô xưa. Hơi hiu hắt mà thơ mộng, có lá sấu rụng, lá me rơi. Tối tối những đôi trai gái dắt nhau ra tình tự bên hồ. Những tiếng xe điện leng keng thưở xa xưa, những chuyến tàu chạy xình xịch vào ga Hàng Cỏ. Người tiễn kẻ đi xa, người đón kẻ trở về: 
                Hà Nội cứ suốt đời nghe lá rụng 
                Những ngọn đèn ô cửa mùa đông 
                Trái sấu nhỏ bàng hoàng như kỷ niệm 
                Nước hồ xanh rêu bám kín Tháp rùa. 
  
                Hà Nội cứ rầm rì trang tình tự 
                Của những đôi trai gái bên bờ... 
                Tà áo trắng em bay một thời thiếu nữ 
                Theo anh hoài đến tận lúc già nua. 
  
                Hà Nội mới mà như là cổ tích 
                Phía nhà ga đoàn tàu đến rồi đi, 
                Những giọng nói lẫn vào lời gió thổi... 
                Ai trở về... và ai sắp chia ly? 
  
                Đêm tóc trắng lại nghĩ về Hà Nội 
                Nằm thở dài, nhớ quá! Bóng em xưa... 
                               (Nghĩ về Hà Nội - Phạm Ngọc Thái)
      Hà Nội mãi mãi sống trong lòng và trái tim tôi.
  
      PNT.  
 
                                  đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
http://4phuong.net/ebook/...ua-nhung-thi-nhan.html
http://vanhaiphong.com/va...nhan-phm-ngc-thai.html
  https://sacmauthoigian.wo...ho-cua-nhung-thi-nhan/
  http://www.vanchuongviet....on=detail&id=21240
http://nguoibanduong.net/...t=article&sid=6185
http://datdung.com/module...sid=5160#axzz1iV4Rcj10
http://vannghequangtri.bl...-thi-nhan-pham_07.html
http://www.datvietjsc.net...amp;cid=52&id=1826
http://trangvhntnguoncoi....h%E1%BB%AFng-thi-nhan/
http://nguyenduyxuan.net/...thi-nhan-phm-ngc-thai-
http://tanchauxulua.com/index.php?showtopic=3157
 
 
 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.10.2014 12:10:34 bởi Nhân văn >
Nhân văn 20.11.2014 11:02:33 (permalink)
         

              Thơ kỷ niệm ngày Nhà Giáo 20/11                                                                                                        Phạm Ngọc Thái

       NHỚ VỀ CÔ GIÁO CŨ

                               kính tặng cô giáo chủ nhiệm
                                  Đinh Thị Kim Thanh  

 
 
Xóm chiến tranh. Thời thơ sơ tán học
Lớp cũng là một mái nhà gianh
Sân trăng sáng như lòng cô đằm thắm
Soi vào em bao nỗi ân tình.

Nhớ thuở ấy em còn trẻ quá
Tuổi hồn nhiên qua trang vở học trò
Như người mẹ hiền từ cô dìu dắt
Ở cái làng Cầu Ấu (*) đã xa xưa.

Sông bến đưa đò... cô chèo giữa nắng mưa
Lớp lớp quá giang chúng em đi biền biệt
Có những phút quay lặng nhìn lòng thổn thức
Kỷ niệm về như bầy sáo lang thang.

Gió vẫn đang reo trên đồi thông Mỏ Thổ (*)
Sông Máng trong xanh (*) nước chảy qua cầu
Năm mươi năm trôi... tóc cô đã bạc
Tóc em giờ bóng hạc cũng vờn nhau.

Biết tin cô: Thôi không còn lên lớp nữa!
Đánh tan giặc về, em làm một nhà thơ
Sương trên mái tóc cô rơi xuống đầu em hoá lệ
Và đời người - Cô ạ! Ngỡ cơn mơ...
 
  PHẠM NGỌC THÁI
Hà Nội, mùa đông 2014  


(*) Những địa danh ở Bắc Giang - Thời còn chiến tranh phá hoại bởi không quân Mỹ, chúng tôi đã đến sơ tán để học.
 
               Đăng trên một số trang mạng trong nước:
http://vietnamnet.vn/vn/b...nho-ve-co-giao-cu.html
http://www.nhuygialai.com...ai-ngam-lan-huong.html
    http://www.nhaccuatui.com...o-va.NRJh2iEStOpW.html

  http://vandanvn.net/vi/ne...a-Pham-Ngoc-Thai-4812/
http://www.vanews.org/201...nho-ve-co-giao-cu.html
http://vandanviet.blogspo...-ky-niem-ngay-nha.html
http://www.thivien.net/Ph...t6fFUSQFQyed4Aamrrkeeg
http://www.tiengchimviet....nho-ve-co-giao-cu.html
     http://me.zing.vn/zb/dt/t...20759736?from=category
http://datdung.com/module...id=13085#axzz3JZkWrcps
https://sacmauthoigian.wo.../18/nho-ve-co-giao-cu/
http://vanthientungqtlh.b...tho-cua-pham-ngoc.html
   http://binhtrung.org/a281...o-cu   
http://nghiathuc.wordpres...o-2011-pham-ngoc-thai/
http://nguyenduyxuan.net/...co-giao-c-phm-ngc-thai
http://vannghenamdinh.com...o-Viet-Nam-20-11-3824/
http://vannghequangtri.bl...ho-pham-ngoc-thai.html
http://phamngochien.com/v...-ngoc-thai-ha-noi/1470
http://vannghecuocsong.co...1-Pham-Ngoc-Thai-1662/
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.11.2014 11:42:51 bởi Nhân văn >
Nhân văn 18.12.2014 20:57:18 (permalink)
 
                            
   Phạm Ngọc Thái với nỗi quê,
   tình nhà những năm xa xứ               

                                                 PHẠM THÀNH CÔNG
 


               TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG
                                                    Tặng vợ                                             
Trong một phố nghèo có người vợ trẻ                                                                        
Vẫn đón con đi, về... như thường lệ                                                            
Vóc em thanh cũng thể mùa xuân                                       
Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen. 

 
Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*)
Đêm hồ nước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn. (**)

Ôi quê hương!
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.

Miền đã theo tôi vào cuộc chiến tranh
Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...
Ai biết chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!

Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!

Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe...

  
                       
                              Phạm Ngọc Thái
                       Nước Đức - tháng 2/1989

(*) Gợi lại câu chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở hồ Tây, đã gặp ông Nguyễn Trãi. Sự tích còn truyền tụng đến ngày nay.
(**) Là hình ảnh mặt thành Thăng Long Cửa Bắc cố đô xưa, còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết.

  LỜI BÌNH:   Truyện kể lại rằng, trong một khu phố nhỏ có một người vợ trẻ cùng đứa con thơ, ngày tháng chờ chồng ra đi nơi đất khách vì miếng cơm manh áo.
Tiếng Hát Đời Thường là một bài thơ về quê hương. Những hình ảnh rất thân thuộc nhưng vẫn mang tính điển hình, khái quát. Từ căn nhà bên ngôi đền cổ quanh năm rợp bóng đa chùa, cái quán báo trong phố, đến cảnh sóng nước hồ Tây. Được gợi lại bằng câu chuyện cổ của bà Thị Lộ đi bán chiếu gon, đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người.
    Qua bao hình ảnh mà người ra đi ở phương trời xa thường hay nhớ. Những đêm trăng hồ, những chiều lá sấu, lá me rơi. Cả chiếc cổng đá của cung thành cố đô xưa, vẫn còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết. Đó là một bức tranh quê với tiết tấu thơ đầy chất trữ tình. Rồi những hình ảnh sinh sống hàng ngày trước đây mà nhà thơ nhớ lại: 
                        Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
                    Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
                    Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
                   Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. 

      Người chồng ấy vẫn đau đáu nhớ về nơi vợ con đang trông đợi:
                   Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
                    Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!

     Cái miền quê một thuở nào vẫn theo anh trong suốt cuộc chiến năm xưa:
                    Miền đã theo tôi vào cuộc chiến tranh
                    Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... 

     Bài thơ được viết trong nỗi nhớ mong hiu hắt của kẻ đang lưu lạc xứ người. Đó là những tiếng nói yêu thương, xao xiết thường tình chốn dân gian, càng làm cho tình thơ thêm tha thiết: 
                   Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
                    Con sẻ hót mênh mông đồng nước
                    Người hát rong hát vui sân ga... 

    Cái tiếng hát đời thường ấy có thể là một khúc đàn dạo của người hát rong trên sân ga, tiếng rao của em bé bán báo, hoặc tiếng gọi đò trên sông trong đêm vắng. Nó máu thịt như người vợ quê ta, như bà mẹ già tóc bạc, như nồi khoai, củ sắn ngày tám tháng ba. Cũng có khi ánh lên niềm vui bên bếp lửa hồng của những người thân. Ngày ngày ta vẫn từng nghe ở đâu đấy vọng lên thảng thốt, để rồi bay đi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời:
               Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
                    Anh hát cho đời...
                    Anh hát em nghe...

    Và tình thi Tiếng Hát Đời Thường da diết máu tim đã khép lại ở đó.
       PTC.
    đã được đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
  http://www.nhuygialai.com...html   
http://tongocthach.vn/ve-...ung-nam-xa-xu-881.html
http://vannghequangtri.bl...-noi-que-tinh-nha.html
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3888
http://www.quansuvn.info/...0_6-1_17-16_14-2_15-2/
http://to-quoc01.blogspot...-noi-que-tinh-nha.html
http://vandanviet.blogspo...-noi-que-tinh-nha.html
  http://me.zing.vn/zb/dt/tranmygiong/20580713
http://nguyenduyxuan.net/...at-i-thng-phm-ngc-thai
http://4phuong.net/ebook/...a-nhung-nam-xa-xu.html
  http://vannghesontay.com/...a-nhung-nam-xa-xu-734/
http://huongnguyenhoang.b...am-ngoc-thai.html#more
http://binhtrung.org/p195..62/tieng-hat-doi-thuong
http://www.vanews.org/201...-noi-que-tinh-nha.html
http://www.vanganh.info/2...-noi-que-tinh-nha.html
http://www.vannghetroinam...p=viewst&sid=12772
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
  http://nghiathuc.wordpress.com/2014/10/27/109069/
   http://hung-viet.org/blog...h-nha-nhung-nam-xa-xu/
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.12.2014 21:32:04 bởi Nhân văn >
Nhân văn 17.01.2015 13:28:34 (permalink)
                 Với tập sách
"Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại"
                                                                  (Nxb Văn hoá Thông tin 2014)
                                                           Trần Tứ Đức
                                                                          Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian
       Là tác phẩm văn học của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - được nhiều tác giả "Hội những người yêu mặt trời thi ca - Hà Nội" biên soạn, mới cho xuất bản trong mùa đông 2014. Một tập sách dầy dặn và khá hoành tráng. 



    Như thế ngoài hai tập thơ đầu tiên anh đã xuất bản:-   "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990.-   "Người đàn bà trắng", Nxb Thanh niên 1994; Mười lăm năm sau Phạm Ngọc Thái mới lại "tái xuất giang hồ"... tiếp tục cho xuất bản. Đó là tập thơ:-   "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009. Khi vừa ra đời tập thơ lập tức bung lên những dư luận inh ỏi, đình đám. Sự thực thì đã có nhiều bài thơ hay của tập Rung Động Trái Tim đã được các văn nghệ sĩ, nhất là các nhà giáo bình, ca ngợi như: Người đàn bà trắng, Em về biển, Em ơi! Thành phố lại mưa, Sáng thu vàng, làm ma em vợ, Em bán xoài, Thời áo trắng, Con đường lá đổ, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Tiếng hát đời thường, v.v... Ngay cả nhà thơ Trúc Thông cũng bình và khen bài thơ "Chiều hoàng hôn" hay, đăng trên báo Đài tiếng nói VN, sau đó in vào tuyển bình thơ hay của quốc gia do Nxb Thanh niên phát hành. 
      Đặc biệt là ba năm gần đây nhà thơ liên tục cho xuất bản liền ba tập, tại Nxb Văn hoá Thông tin:-   Năm 2012 tập thơ "Hồ Xuân Hương tái lai", số lượng bài tới 298 tình thơ, sách dầy ngót 400 trang. Là một tập thơ lớn của anh. Một lần nữa Phạm Ngọc Thái đã vượt lên để khẳng định vóc dáng chân dung của thơ mình. Qua một thời gian trải nghiệm, tác phẩm đã có những tiếng vang lớn với các bài thơ hay và độc đáo.


-   Năm 2013 tập "Phê bình & tiểu luận thi ca". Một tác phẩm bình luận văn học được tác giả chọn lọc kỹ lưỡng nên khá đặc sắc, có tầm.



-   Đến mùa đông 2014, nhà thơ được HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA - Hà Nội kết hợp biên soạn, cho xuất bản tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại". Tôi xin nói đôi nét khái quát về tác phẩm mới này. 
    Tập sách dầy 372 trang và chia làm hai phần: 
  PHẦN I -  Với 120 tình thơ có tựa đề  " Bầu trời thơ tình hay & lạ ". Nó gồm 119 bài thơ tình sâu sắc và hay nhất, được chọn ra trong đời thơ tác giả.                  Bài thứ 120 là bài "Ta và lịch sử" không phải thơ tình, chỉ có tính chất kết lại. Đúng như cái tên gọi, 119 bài thơ tình đó là cả một khoảng trời thơ đa sắc, đa màu. Trong đó có nhiều bài thơ đặc sắc và hay, rất đáng để đời ngưỡng vọng. Phần thơ tình này, chúng tôi sẽ bình luận sau, riêng ở một bài.  
*   PHẦN II -  Tựa đề "Thế giới thi ca Phạm Ngọc Thái, với lời bình của nhiều tác giả". Có cả thảy 35 bài vừa là bình thơ hay, thơ sâu sắc cùng những tiểu luận về chân dung thi nhân. Riêng phần này độ dầy đã trên 200 trang sách. Để có nhận định khái quát về tác phầm " PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG NHÀ THƠ LỚN THỜI ĐẠI " -
 

                     
       Tôi xin trích ra đây nguyên văn "Lời giới thiệu" ở đầu sách, do cô giáo Nguyễn Thị Hoàng giảng viên trường Đại học Sư phạm, thay mặt HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA - Hà Nội đã viết:
                                      
                                                                        LỜI GIỚI THIỆU                                                  
                                              Trích tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại"

      Chúng tôi "Hội những người yêu mặt trời thi ca" – Hà Nội, đọc và nghiên cứu các thi phẩm của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Theo đánh giá với một bình diện rất rộng trên văn đàn mạng Việt trong nước và thế giới, nhận định: Phạm Ngọc Thái có chân dung thuộc đẳng cấp cao, tức là nhà thơ lớn của nền văn học nước nhà.
       Sở dĩ lấy cái tên gọi "Hội những người yêu mặt trời thi ca", ý muốn nói rằng: Chúng tôi là những người yêu thi ca, nhưng phải là thi ca hay, những tình thơ trác tuyệt. Các thiên tình ca ấy phải toả ngời như ánh sáng. Ánh sáng đó có thể là mặt trời, mặt trăng hay các vì sao. Ở đây - chúng tôi gọi tên "mặt trời" làm biểu tượng, để minh họa cho một thế giới thi ca tỏa sáng với bao nhiêu bài thơ hay, sâu sắc của thi nhân. 
       Anh Trần, một nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh Hà Nội, trong bài "Phạm Ngọc Thái nhà thơ của tự do", đã viết: 
-   Là một nhà thơ của tự do nhưng ông có chân dung văn học mang tầm vóc lớn trong thi ca. Ông đã sáng tác được một khối lượng đồ sộ thơ tình hay, ghi dấu ấn riêng biệt của ông trong lòng người yêu thơ, có những giá trị nghệ thuật tuyệt vời để lại cho nền văn hiến Thăng Long. Với hàng bậc của các nhà thơ hiện nay, ta có thể khẳng định rằng: Ông là một nhà thơ tài năng vào hàng bậc nhất trong đương đại. 
   Các thành viên trong "Hội những người yêu mặt trời thi ca", hầu hết đều có những bài viết về thi phẩm hoặc bình luận chân dung thơ ông. Bao gồm:

1.   Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - giảng viên Trường Đại học Sư phạm. Đã bình hai bài thơ tình hay của Phạm Ngọc Thái.
          a/-   "Con đường phượng đỏ" - Thơ tình trong trắng thuở sinh viên, rất đáng yêu.
          b/-   "Em ơi! Thành phố lại mưa" - Cô giáo đánh giá hay vào hàng tuyệt tác.
2.   Nhà giáo Đình Bồng - giảng dậy tại trường THPT quận Ba Đình, Hà Nội. Anh đã viết bài bình "Phạm Ngọc Thái với chùm tình thơ áo trắng".
     Trong đó gồm 3 bài thơ tình thuở ban mai: Thời áo trắng; Phố thu và áo trắng; Cô áo trắng... rất đậm đà hương sắc.  
3.   Hoàng Thị Thảo, một nữ trí thức yêu thơ. Chị viết:
         -  Cảm nhận về một bài thơ tình hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây" của Phạm Ngọc Thái.
4.   Thạc sĩ Anh Nguyễn - giảng viên trường Đại học Quốc gia. Anh đã viết:
         a/.   Mấy nét tình sử về bài thơ Người Đàn Bà Trắng.
         b/.   Phạm Ngọc Thái với bài thơ thần sầu quỉ khóc.
5.   Trần Tứ Đức - nguyên cán bộ Viện ngôn ngữ và Văn hoá dân gian. Anh bình:
 -   Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu và đàn bà
      Một chùm  thơ ba bài. Tác giả đánh giá "Người đàn bà trắng" hay thuộc đỉnh cao của thi ca. 
6.   Nhà phê bình văn học Nguyễn Đình Chúc. Ngoài bài bình luận:
-   Phạm Ngọc Thái chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc
      Anh còn là tác giả của bài viết đã gây nhiều dư luận:
  -  Lời bàn về tuyệt phẩm thơ "Váy thiếu nữ bay" của Phạm Ngọc Thái.
     Anh đánh giá thi phẩm độc đáo, sâu sắc và tuyệt hay! 
   Những bài bình và tiểu luận đó đều đã đăng trên nhiều trang mạng, từ trong nước ra hải ngoại – Qua Âu Châu, Mỹ đến toà báo Việt tại Úc. Một số đăng rải rác ở các báo văn học, tạp chí... như báo Người Hà Nội, tạp chí Sông Hương, Hồn Việt v.v... Hầu hết được chúng tôi tổng hợp lại để in vào trong tác phẩm này.  
     Bàn về việc đánh giá tác phẩm văn học, chính nhà thơ Phạm Ngọc Thái cũng đã nêu ra, một trong những nguyên tắc cơ bản của việc thẩm định thơ hay - Rằng:
-    Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
     Nếu như thơ đã không thể tồn tại lâu dài được, suy cho cùng cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi. Nói để các nhà thơ đỡ xót xa, những thứ thơ không tồn tại ấy... chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời. Như Gớt nói "tầng tầng bụi phủ".
     Một tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy… mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, thì không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đích thực đối với nền văn học được.
     Nhất quán trên cơ sở ấy, kết hợp với nhận thức của chúng tôi và sàng lọc qua đánh giá ở văn đàn. Theo cách nói của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: Một bài thơ hay Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Hai Sắc Hoa Ti-gôn của TTKH. , Chùa Hương Nguyễn Nhược Pháp, Đây Thôn Vỹ Dạ - Mùa Xuân Chín - Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử... còn được đời ngưỡng vọng ngàn thu.
     Huống chi thi nhân Phạm Ngọc Thái - Không kể những đài thơ:
     Người đàn bà trắng, Anh vẫn ở bên hồ Tây, Váy thiếu nữ bay, Em ơi! Thành phố lại mưa -  Hoặc bài thơ đời “Làm ma em vợ” hay vào hàng tuyệt tác thi ca. Ngoài ra ông phải có đến vài chục các tình thi khá hay và hay ở các cung bậc khác nhau:
     Em về biển, Thông và biển, Cây thầm tiếc bóng, Hàng cây lá đổ, Một góc hồ Tây, Người con gái sông xưa, Sáng thu vàng, Sáng xuân nay, Biển hát, Tiếng hát đời thường, Có một khoảng trời, Đêm tóc đá, Tiếng rúc chim đêm, Cô áo trắng, Thời áo trắng, Trước núi Mỹ nhân, Khóc bên Hồ Núi Cốc, Khoảng trôi trong lá, Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ, Đêm nay trời lại không mưa, Con đường phượng đỏ, Anh vọng nghe tiếng em hát bên hồ, Mái tóc con gái ...

     Phạm Ngọc Thái không chỉ sáng tác được nhiều thơ tình hay. Thơ về nỗi đời dân gian, kiếp người của ông không ít bài cũng đạt sự viên mãn để tạo thành những thi phẩm súc tích. Có bài đến hoàn bích như "Làm ma em vợ" đã nói trên, cùng những bài thơ đời sâu sắc khác không kém phần hay:
     Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Cô quét lá đêm hồ, Em bán xoài, Khóc Hàn Mặc Tử, Em bé cầu bơ, Chiều hoàng hôn, Cỏ hoang...
     Đúng như sự đánh giá trên văn đàn:
-   Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta. Chưa từng có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế! Rồi mai sau ông sẽ có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn hiến Thăng Long.     
     Nay HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA chúng tôi, cho biên soạn để  ra mắt tập sách “Phạm Ngọc Thái Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại”.
      Xin giới thiệu bạn đọc thưởng lãm. Tác phẩm mà chúng tôi biên soạn, chưa hẳn đã nói được hết cái hay và sâu xa như biển thẳm trong nhiều bài thơ ông? Song, chắc cũng phản ảnh được một độ cần thiết về tầm vóc cũng như sự phong phú, đa dạng... với bao nhiêu áng thi ca huyền diệu, tạo thành cả một thế giới thơ hương sắc muôn màu của thi nhân   

             Hà Nội, mùa đông 2014
T/M HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA




Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng
Giảng viên Trường ĐH Sư phạm

[<font]                   Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:.
http://www.nhuygialai.com...ch-pham-ngoc-thai.html
http://vandanvn.net/vi/ne...ich-dan-tong-hop-5118/
  http://datdung.com/module...id=13539#axzz3P0O3n000
  https://nghiathuc.wordpre...-nha-tho-lon-thoi-dai/
  http://vannghequangtri.bl...ieu-tap-sach-pham.html
  https://badamxoevietnam2....-nha-tho-lon-thoi-dai/
http://to-quoc01.blogspot...oc-thai-chan-dung.html
http://tranmygiong.blogti...c_thai_chan_dung_nha_t
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4018
 
Nhân văn 17.01.2015 13:31:52 (permalink)
                       Với tập sách
"Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại"
                                                                  (Nxb Văn hoá Thông tin 2014)
                                                           Trần Tứ Đức
                                                                          Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian
       Là tác phẩm văn học của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - được nhiều tác giả "Hội những người yêu mặt trời thi ca - Hà Nội" biên soạn, mới cho xuất bản trong mùa đông 2014. Một tập sách dầy dặn và khá hoành tráng. 



    Như thế ngoài hai tập thơ đầu tiên anh đã xuất bản:-   "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990.-   "Người đàn bà trắng", Nxb Thanh niên 1994; Mười lăm năm sau Phạm Ngọc Thái mới lại "tái xuất giang hồ"... tiếp tục cho xuất bản. Đó là tập thơ:-   "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009. Khi vừa ra đời tập thơ lập tức bung lên những dư luận inh ỏi, đình đám. Sự thực thì đã có nhiều bài thơ hay của tập Rung Động Trái Tim đã được các văn nghệ sĩ, nhất là các nhà giáo bình, ca ngợi như: Người đàn bà trắng, Em về biển, Em ơi! Thành phố lại mưa, Sáng thu vàng, làm ma em vợ, Em bán xoài, Thời áo trắng, Con đường lá đổ, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Tiếng hát đời thường, v.v... Ngay cả nhà thơ Trúc Thông cũng bình và khen bài thơ "Chiều hoàng hôn" hay, đăng trên báo Đài tiếng nói VN, sau đó in vào tuyển bình thơ hay của quốc gia do Nxb Thanh niên phát hành. 
      Đặc biệt là ba năm gần đây nhà thơ liên tục cho xuất bản liền ba tập, tại Nxb Văn hoá Thông tin:-   Năm 2012 tập thơ "Hồ Xuân Hương tái lai", số lượng bài tới 298 tình thơ, sách dầy ngót 400 trang. Là một tập thơ lớn của anh. Một lần nữa Phạm Ngọc Thái đã vượt lên để khẳng định vóc dáng chân dung của thơ mình. Qua một thời gian trải nghiệm, tác phẩm đã có những tiếng vang lớn với các bài thơ hay và độc đáo.


-   Năm 2013 tập "Phê bình & tiểu luận thi ca". Một tác phẩm bình luận văn học được tác giả chọn lọc kỹ lưỡng nên khá đặc sắc, có tầm.



-   Đến mùa đông 2014, nhà thơ được HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA - Hà Nội kết hợp biên soạn, cho xuất bản tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại". Tôi xin nói đôi nét khái quát về tác phẩm mới này. 
    Tập sách dầy 372 trang và chia làm hai phần: 
  PHẦN I -  Với 120 tình thơ có tựa đề  " Bầu trời thơ tình hay & lạ ". Nó gồm 119 bài thơ tình sâu sắc và hay nhất, được chọn ra trong đời thơ tác giả.                  Bài thứ 120 là bài "Ta và lịch sử" không phải thơ tình, chỉ có tính chất kết lại. Đúng như cái tên gọi, 119 bài thơ tình đó là cả một khoảng trời thơ đa sắc, đa màu. Trong đó có nhiều bài thơ đặc sắc và hay, rất đáng để đời ngưỡng vọng. Phần thơ tình này, chúng tôi sẽ bình luận sau, riêng ở một bài.  
*   PHẦN II -  Tựa đề "Thế giới thi ca Phạm Ngọc Thái, với lời bình của nhiều tác giả". Có cả thảy 35 bài vừa là bình thơ hay, thơ sâu sắc cùng những tiểu luận về chân dung thi nhân. Riêng phần này độ dầy đã trên 200 trang sách. Để có nhận định khái quát về tác phầm " PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG NHÀ THƠ LỚN THỜI ĐẠI " -
 

                     
       Tôi xin trích ra đây nguyên văn "Lời giới thiệu" ở đầu sách, do cô giáo Nguyễn Thị Hoàng giảng viên trường Đại học Sư phạm, thay mặt HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA - Hà Nội đã viết:
                                      
                                                                        LỜI GIỚI THIỆU                                                  
                                              Trích tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại"

      Chúng tôi "Hội những người yêu mặt trời thi ca" – Hà Nội, đọc và nghiên cứu các thi phẩm của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Theo đánh giá với một bình diện rất rộng trên văn đàn mạng Việt trong nước và thế giới, nhận định: Phạm Ngọc Thái có chân dung thuộc đẳng cấp cao, tức là nhà thơ lớn của nền văn học nước nhà.
       Sở dĩ lấy cái tên gọi "Hội những người yêu mặt trời thi ca", ý muốn nói rằng: Chúng tôi là những người yêu thi ca, nhưng phải là thi ca hay, những tình thơ trác tuyệt. Các thiên tình ca ấy phải toả ngời như ánh sáng. Ánh sáng đó có thể là mặt trời, mặt trăng hay các vì sao. Ở đây - chúng tôi gọi tên "mặt trời" làm biểu tượng, để minh họa cho một thế giới thi ca tỏa sáng với bao nhiêu bài thơ hay, sâu sắc của thi nhân. 
       Anh Trần, một nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh Hà Nội, trong bài "Phạm Ngọc Thái nhà thơ của tự do", đã viết: 
-   Là một nhà thơ của tự do nhưng ông có chân dung văn học mang tầm vóc lớn trong thi ca. Ông đã sáng tác được một khối lượng đồ sộ thơ tình hay, ghi dấu ấn riêng biệt của ông trong lòng người yêu thơ, có những giá trị nghệ thuật tuyệt vời để lại cho nền văn hiến Thăng Long. Với hàng bậc của các nhà thơ hiện nay, ta có thể khẳng định rằng: Ông là một nhà thơ tài năng vào hàng bậc nhất trong đương đại. 
   Các thành viên trong "Hội những người yêu mặt trời thi ca", hầu hết đều có những bài viết về thi phẩm hoặc bình luận chân dung thơ ông. Bao gồm:

1.   Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - giảng viên Trường Đại học Sư phạm. Đã bình hai bài thơ tình hay của Phạm Ngọc Thái.
          a/-   "Con đường phượng đỏ" - Thơ tình trong trắng thuở sinh viên, rất đáng yêu.
          b/-   "Em ơi! Thành phố lại mưa" - Cô giáo đánh giá hay vào hàng tuyệt tác.
2.   Nhà giáo Đình Bồng - giảng dậy tại trường THPT quận Ba Đình, Hà Nội. Anh đã viết bài bình "Phạm Ngọc Thái với chùm tình thơ áo trắng".
     Trong đó gồm 3 bài thơ tình thuở ban mai: Thời áo trắng; Phố thu và áo trắng; Cô áo trắng... rất đậm đà hương sắc.  
3.   Hoàng Thị Thảo, một nữ trí thức yêu thơ. Chị viết:
         -  Cảm nhận về một bài thơ tình hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây" của Phạm Ngọc Thái.
4.   Thạc sĩ Anh Nguyễn - giảng viên trường Đại học Quốc gia. Anh đã viết:
         a/.   Mấy nét tình sử về bài thơ Người Đàn Bà Trắng.
         b/.   Phạm Ngọc Thái với bài thơ thần sầu quỉ khóc.
5.   Trần Tứ Đức - nguyên cán bộ Viện ngôn ngữ và Văn hoá dân gian. Anh bình:
 -   Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu và đàn bà
      Một chùm  thơ ba bài. Tác giả đánh giá "Người đàn bà trắng" hay thuộc đỉnh cao của thi ca. 
6.   Nhà phê bình văn học Nguyễn Đình Chúc. Ngoài bài bình luận:
-   Phạm Ngọc Thái chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc
      Anh còn là tác giả của bài viết đã gây nhiều dư luận:
  -  Lời bàn về tuyệt phẩm thơ "Váy thiếu nữ bay" của Phạm Ngọc Thái.
     Anh đánh giá thi phẩm độc đáo, sâu sắc và tuyệt hay! 
   Những bài bình và tiểu luận đó đều đã đăng trên nhiều trang mạng, từ trong nước ra hải ngoại – Qua Âu Châu, Mỹ đến toà báo Việt tại Úc. Một số đăng rải rác ở các báo văn học, tạp chí... như báo Người Hà Nội, tạp chí Sông Hương, Hồn Việt v.v... Hầu hết được chúng tôi tổng hợp lại để in vào trong tác phẩm này.  
     Bàn về việc đánh giá tác phẩm văn học, chính nhà thơ Phạm Ngọc Thái cũng đã nêu ra, một trong những nguyên tắc cơ bản của việc thẩm định thơ hay - Rằng:
-    Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
     Nếu như thơ đã không thể tồn tại lâu dài được, suy cho cùng cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi. Nói để các nhà thơ đỡ xót xa, những thứ thơ không tồn tại ấy... chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời. Như Gớt nói "tầng tầng bụi phủ".
     Một tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy… mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, thì không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đích thực đối với nền văn học được.
     Nhất quán trên cơ sở ấy, kết hợp với nhận thức của chúng tôi và sàng lọc qua đánh giá ở văn đàn. Theo cách nói của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: Một bài thơ hay Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Hai Sắc Hoa Ti-gôn của TTKH. , Chùa Hương Nguyễn Nhược Pháp, Đây Thôn Vỹ Dạ - Mùa Xuân Chín - Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử... còn được đời ngưỡng vọng ngàn thu.
     Huống chi thi nhân Phạm Ngọc Thái - Không kể những đài thơ:
     Người đàn bà trắng, Anh vẫn ở bên hồ Tây, Váy thiếu nữ bay, Em ơi! Thành phố lại mưa -  Hoặc bài thơ đời “Làm ma em vợ” hay vào hàng tuyệt tác thi ca. Ngoài ra ông phải có đến vài chục các tình thi khá hay và hay ở các cung bậc khác nhau:
     Em về biển, Thông và biển, Cây thầm tiếc bóng, Hàng cây lá đổ, Một góc hồ Tây, Người con gái sông xưa, Sáng thu vàng, Sáng xuân nay, Biển hát, Tiếng hát đời thường, Có một khoảng trời, Đêm tóc đá, Tiếng rúc chim đêm, Cô áo trắng, Thời áo trắng, Trước núi Mỹ nhân, Khóc bên Hồ Núi Cốc, Khoảng trôi trong lá, Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ, Đêm nay trời lại không mưa, Con đường phượng đỏ, Anh vọng nghe tiếng em hát bên hồ, Mái tóc con gái ...

     Phạm Ngọc Thái không chỉ sáng tác được nhiều thơ tình hay. Thơ về nỗi đời dân gian, kiếp người của ông không ít bài cũng đạt sự viên mãn để tạo thành những thi phẩm súc tích. Có bài đến hoàn bích như "Làm ma em vợ" đã nói trên, cùng những bài thơ đời sâu sắc khác không kém phần hay:
     Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Cô quét lá đêm hồ, Em bán xoài, Khóc Hàn Mặc Tử, Em bé cầu bơ, Chiều hoàng hôn, Cỏ hoang...
     Đúng như sự đánh giá trên văn đàn:
-   Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta. Chưa từng có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế! Rồi mai sau ông sẽ có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn hiến Thăng Long.     
     Nay HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA chúng tôi, cho biên soạn để  ra mắt tập sách “Phạm Ngọc Thái Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại”.
      Xin giới thiệu bạn đọc thưởng lãm. Tác phẩm mà chúng tôi biên soạn, chưa hẳn đã nói được hết cái hay và sâu xa như biển thẳm trong nhiều bài thơ ông? Song, chắc cũng phản ảnh được một độ cần thiết về tầm vóc cũng như sự phong phú, đa dạng... với bao nhiêu áng thi ca huyền diệu, tạo thành cả một thế giới thơ hương sắc muôn màu của thi nhân   

             Hà Nội, mùa đông 2014
T/M HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA




Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng
Giảng viên Trường ĐH Sư phạm

                 Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:.
http://www.nhuygialai.com...ch-pham-ngoc-thai.html
http://vandanvn.net/vi/ne...ich-dan-tong-hop-5118/
  http://datdung.com/module...id=13539#axzz3P0O3n000
  https://nghiathuc.wordpre...-nha-tho-lon-thoi-dai/
  http://vannghequangtri.bl...ieu-tap-sach-pham.html
  https://badamxoevietnam2....-nha-tho-lon-thoi-dai/
http://to-quoc01.blogspot...oc-thai-chan-dung.html
http://tranmygiong.blogti...c_thai_chan_dung_nha_t
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4018
http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_16.php
Đăng quảng bá  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
http://www.quansuvn.info/...0_6-1_17-16_14-2_15-2/
  http://truclamyentu.info/...-tho-lon-thoi-dai.html
http://hung-viet.org/blog...-nha-tho-lon-thoi-dai/
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.03.2015 10:50:50 bởi Nhân văn >
Nhân văn 17.02.2015 11:12:05 (permalink)

               PHẠM NGỌC THÁI
  VỚI BÀI THƠ THẦN SẦU QUỈ KHÓC
                                                        Anh Nguyễn



                 ĐỘNG BƯỚM
Phút say đắm tột cùng em mở toang động bướm
Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ
Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn
Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma.

 
Có ai chưa em đã vào khai phá?
Để bướm vẫy vùng, bướm thoả ước ao
Và khi ấy em sẽ không còn là trinh nữ
Bờ-bãi-đời-người bướm vẫn lượn như sao.

 
Thân nhi nữ một thế giới mênh mông, hoang dại
Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều
Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt
Lạc vào vườn em trái cấm ngọt hương tươi.

 
Tình yêu từ đâu anh không biết?
Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim!
Nhưng yêu nhất là bướm em
                          có sức chinh phục diệu huyền
Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ...

 
Bướm của em trên đời mãi còn quí giá
Đến lúc cần bướm lại sinh con
Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em.
La la la là la lá là... 
                                          Phạm Ngọc Thái
                               Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai"
     Lời bình: Đây là một bài thơ tượng trưng. Đọc suốt bài thơ ta thấy hình tượng gồm toàn những yếu tố tượng trưng "tương ứng cảm quan". Khuynh hướng này do nhà thơ Pháp Charles Baudelaire, một trong những bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu vào cuối thế kỉ XIX khởi xướng. Theo Baudelaire, sự liên kết giữa vật này với vật khác, giữa con người - cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Biểu tượng đó phản ảnh một cách tương ứng sự vật, nhưng không phải do lý trí sắp đặt mà dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan hay tâm linh, gọi là cảm quan. Ta hãy phân tích đoạn thơ thứ nhất:
                     Phút say đắm tột cùng em mở toang động bướm
                     Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ
     "Bướm" đã trở thành một biểu tượng ở chốn dân gian để chỉ "cái" của người đàn bà. Tác giả dùng hình ảnh "động bướm" làm tượng trưng, ý như đó là "cái hang" ở trên nàng. Ta hãy nghe Bà Hồ Xuân Hương tả về "cái hang" của chị em, qua bài "Động Hương Tích":
                   Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm
                   Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom...
      Hay bài "Hang Cắc Cớ":
                  Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom
                  Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
     Tôi không thể bình quá sâu hình ảnh của câu: Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn /-  Bởi phân tích ra nó sẽ bẩn... làm hỏng thơ của bà. Nhưng đọc ta có thể hiểu: khi bà tả "kẽ hầm rêu mốc...", là nói về khe ngách bên trong của bướm bị dơ. Vậy còn "cái gì trơ toen hoẻn"? Phải chăng là... "nhân bướm"? Ví dụ thêm một tình thi khác, bài "con ốc nhồi":
                  Quân tử có thương thì bóc yếm
                  Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
      "bóc yếm" là hình ảnh mô phỏng về sự ve vuốt, xoa nắn vòm ngực, phía trên người con gái - Còn "ngó ngoáy lỗ trôn", hình tượng nghịch ngợm bộ phận dưới vv...
      Ở đây, nhà thơ Phạm Ngọc Thái diễn tả cái bướm đã có từ thời tiền sử: Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ /-  Nghĩa là nó do tạo hóa đúc tạc nên. Đến câu thơ 11-12 nhà thơ còn láy lại một lần nữa:
                    Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt
                    Lạc vào vườn em trái cấm ngọt hương tươi
       Bướm của em như hoa trái đất trời, "ăn" vào là nhớ mãi. Từ nguyên thuỷ đến bây giờ chẳng cần tiến hoá thêm, thế mà:
                    Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn
     Ngay từ buổi thiên thai cái "động bướm" ấy đã hoàn bích rồi. Ai nhìn thấy hay chỉ cần nghĩ tới... cũng phải hưng phấn, rạo rực trong lòng. Đến câu thơ thứ tư, hình tượng thơ còn mang theo tính triết học:
                    Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma.
      Bướm em vừa siêu phàm tựa thánh tiên, lại vừa như có ma quỉ - Làm ta say mê, thần tượng và khát vọng. Nhưng cũng có khi vì si mê quá hoá mù quáng, như bị "ma dẫn lối quỉ đưa đường"... tự huỷ hoại cuộc đời mình. Tức là, tình yêu mang đến cho ta niềm hạnh phúc vô biên, đưa tâm hồn ta hoan lạc ở chốn bồng lai, lại cũng có thể làm cho trái tim ta đau khổ, tan vỡ vì thất vọng! Đến đoạn thứ ba, tác giả tiếp tục phát triển:
                     Thân nhi nữ một thế giới mênh mông, hoang dại
                     Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều
      Cái thế giới mênh mông, hoang dại đó... thuộc hình ảnh thơ trìu tượng. Tác giả miêu tả sự toàn bích của tấm thân người nhi nữ từ trong ra ngoài, để khẳng định sự vĩ đại của tạo hoá! Cho dù xã hội loài người có phát triển hàng vạn năm nữa, văn minh tiến bộ đến đâu... cũng không thể so sánh nổi. Trong sự vĩ đại đó thì việc sinh thành ra "bướm" đàn bà là điều kì diệu nhất - Một thiên kiệt tác!
      Quay trở lại với đoạn thứ hai, nhà thơ buông ra một câu hỏi:
                   Có ai chưa em đã vào khai phá?
     Nghĩa là em đã hiến dâng cái của em cho người đàn ông nào chưa? Sau đó chính anh lại tự giải nghĩa:
                   Để bướm vẫy vùng, bướm thỏa ước ao
     Đâu có phải chỉ một mình người con trai sướng? Bởi khi hiến dâng cho tình yêu, cũng chính là khát vọng của người con gái để trở thành... đàn bà:
                   Khi ấy em sẽ không còn là trinh nữ
                   Bờ-bãi-đời-người bướm vẫn lượn như sao...
      Thơ đã đi sâu vào phạm trù đời sống mà diễn tả. Dĩ nhiên là đời sống ấy phải có cả đàn ông, nhưng thường trong nhiều phạm trù người ta chỉ thiên nói về nữ tính. Nếu không có cái bướm đàn bà thì cuộc sống của ta sẽ không còn nghĩa lí.
      Đến đây, tôi xin nói đôi nét về một số bài thơ khác dạng tương tự như "Động bướm" -  Phạm Ngọc Thái có một số tình thơ lãng mạn vào loại khá kỳ dị. Có thể kể ra vài bài đặc sắc, nổi lên như: Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt, Xem tranh bán loã thể, Váy thiếu nữ bay - "Động bướm" chỉ là một bài điển hình trong số những tình thi đó.
      "Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt"  - Thực ra chính là hình ảnh người yêu khoả thân trong đêm tối:
                 Ta gặp nhau chỉ trong chốc lát
                 Giữa đêm tối anh lần vào em thăm thiên thai...
     "thiên thai" chính là cái ấy! Vậy "giữa đêm tối anh lần vào thăm thiên thai của em...", để làm gì? chẳng nói thì ai cũng biết. Thơ tả vào dục vọng mà vẫn rất mềm mại, đáng yêu. Hay là:
                  Hôn đôi trái em tưởng mình du ngoạn khắp không trung
                  Chơi dỡn nguyệt một thiên đường tuyệt thế
                  Mong trời cứ đêm để cùng em vui chút nữa.
      Hạnh phúc trong tình yêu của thi nhân hoà trong niềm sướng vui cùng thân thể người yêu. Nhà thơ tả thẳng vào sự khoái cảm, nhưng khi đọc ta vẫn không thấy sượng. Hình ảnh "Hôn đôi trái em..." diễn tả sự say sưa, man mê đôi tí người yêu... lại ngỡ như mình đang du ngoạn, bay bổng giữa không trung. Hoặc là hình ảnh "chơi dỡn nguyệt", giây phút tột cùng khoái lạc trong quan hệ nam nữ, rồi tác giả buông một câu khẳng định:
                 Đàn bà đẹp nhất là ở trong đêm tối
                 Để nhớ nhau suốt đời...
    Hình tượng "đẹp" ở đây, mang màu sắc thơ mĩ học. Ta lại nhớ tới câu ca dao trong dân gian:
                 Dao đâm vào thịt thì đau
                 Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời
     Cuối bài tác giả đã kết:
                 Đêm tắt đèn thành ánh sáng của thơ tôi!
     Câu thơ bộc lộ một thái độ. Có thể nó hàm chứa về một phản ứng nào đó có ý nghĩa xã hội? Như ta thường nói về bà Hồ Xuân Hương, rằng: Tư tưởng bên trong thơ của bà là bộc lộ một thái độ phản kháng sự đè nén, hủ lậu của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ. Thì đây, chính câu thơ là sự bùng nổ... thiên về tính chính trị xã hội nào đó, trong ý tưởng của nhà thơ?
    Tôi nói sang bài "Xem tranh bán loã thể" - Bài thơ đã được nghệ sĩ Anh Trần bình là một kỳ tác thi ca! Có những câu khi đọc lên ta cảm thấy gờn gợn... Không phải nó tục mà vì tác giả dùng hình ảnh, những từ ngữ quá thực. Nhưng cái quá thực ấy lại chứa chất cả tính nhân loại và mang màu sắc triết học, thành thử câu thơ sâu và rất hay nữa. Thí dụ:
                  Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người
                  Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình ra từ trong bụng.
     Nghệ sĩ Anh Trần đã phân tích những câu thơ đó, như thế này:
 -   Sâu sắc và hay. Ý của câu trên ta thấy rõ rồi - Người đàn bà là hoa, là ý nghĩa tồn sinh của cuộc sống xã hội và nhân loại. Nhưng còn câu dưới? Không phải chỉ muốn nói rằng, em có khả năng mang thai trong bụng rồi sinh đẻ, tất nhiên là ra con người. Rồi giống người ấy sẽ mang đến cả chiến tranh và hoà bình.
     Mặc dù phải có cả đàn ông thì em mới đẻ được. Ở một phạm trù rộng lớn hơn, tức là: Tình yêu và đàn bà sinh ra cả khổ đau lẫn hạnh phúc, cũng như chiến tranh và hoà bình.
     Cho nên mới nói: Thơ Phạm Ngọc Thái cô đọng và rất sâu sắc!
     Khi tác giả tả thẳng:
                   Lui xuống dưới nàng một rừng sâu um tùm che hang động
                   Lên trên nàng đôi mỏm núi trắng vô biên
      Vẫn là tả về vú và bướm, nhưng sử dụng phương pháp biểu tượng. Cái ở bên dưới là một hang động, muốn vào nó phải đi qua một khu rừng sâu rậm rì, um tùm. Còn cái ở trên là đôi mỏm núi trắng xoá, vô biên - Nghĩa là vú của nàng như cả bầu trời vậy.
     Trong những bài thơ kỳ dị ấy, đặc biệt là bài "Váy thiếu nữ bay" - Anh Nguyễn Đình Chúc khi bình đã ca ngợi là tuyệt hay! Bài thơ mô phỏng về cái váy của người thiếu nữ để lộ ở bên trong, nhưng được nhà thơ đi sâu về ý nghĩa đời sống xã hội để diễn tả:
                 Bờ-bãi-con-người em trổ hoa trái ngọt
                 Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
     Sau đó phát triển rộng sang tính nhân loại:
                 Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
                 Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian...
     Hay là:
                 Có phải đó khúc quân hành nhân loại
                 Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh
     Bọc chứa cả tính vũ trụ:
                 Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm
      Ta hãy nghe tác giả kết bài:
                  Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
                  Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang!
     Nó được cất giữ một ý tưởng rất mạnh mẽ, một thái độ nhân sinh quan xã hội của nhà thơ. Anh Nguyễn Đình Chúc đã nhận xét về đoạn kết ấy như sau:
-   Câu thơ cuối đã khoá lại toàn bộ bài thơ. Chính nó đã mang theo một lời triết lý có ý nghĩa xã hội, hàm ý về một phủ định nào đó? Nhà thơ phản ứng lại những tà đạo hoặc giả tạo về mặt chính trị còn đang ẩn chứa trong thể chế xã hội mà viết như thế chăng?... Có lẽ đó cũng là một điểm xuất phát để tạo nên ý nghĩa tột đỉnh trong thơ ca Phạm Ngọc Thái.
     Ngòi nổ trong câu thơ cuối đó: Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang/-  Vừa phát hỏa làm cháy bùng cả bài, vừa bảo vệ luận thuyết của tác giả là: Ca ngợi cái kiệt tác mà thượng đế đã sinh ra trên thân thể người đàn bà! Nó là ngọn nguồn, khởi điểm cho cả chính trị và triết học. Ý tình thơ thật mênh mông mà vẫn súc tích, càng vào sâu càng thấy hay!
     Tôi trở về với bài "Động bướm" -  Tác giả tả về cái bướm nhưng không phải phải chỉ là để cho sướng, cho khoái, mà thơ còn ôm chứa tính nhân bản sâu sắc.
     Xin trở lại với đoạn thơ thứ tư. Gớt đã viết: "Khởi thuỷ là hành động" - Nhưng ở đây có lẽ phải nói: "Khởi thuỷ là tình yêu" ! Anh tự hỏi:
                   Tình yêu từ đâu anh không biết?
                   Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim!
    Để rồi anh triết lý ở hai câu thơ sau đó:
                   Nhưng yêu nhất là bướm em
                                                     có sức chinh phục diệu huyền
                   Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ...
     Ta có thể mường tượng hình tượng về những con bướm, mà bướm đây là bướm cái... cứ đêm đêm nó lại vờn bay quanh ta trong phòng ngủ - để làm gì? Đấy, tác giả tả về cảnh chăn gối vợ chồng hay trai gái. Suy cho cùng, nếu em chẳng có bướm thì thế giới này sẽ hoá rồ, hoá dại và... cũng chẳng làm gì có tình yêu!
      "Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ..." /- Hình ảnh của câu thơ hay. Ý nhị, dí dỏm, gây cho ta sự khoái cảm trong tâm hồn. Một biểu tượng đời thường ở chốn phòng the. Ban ngày thì chị em thường cài then, khoá trái của mình lại, để đêm đêm mới mở cửa, rút then... cho anh em vào tha hồ khám phá. Đoạn thơ xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn tình yêu. Tất cả đều bắt đầu từ... bướm, như câu thơ viết:
                   Nhưng yêu nhất là bướm em có sức chinh phục diệu huyền
     Đọc câu: Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ/-  Gợi sự kích thích về một ước muốn, khát vọng của khoái lạc nhưng lành mạnh. Lời thơ diễn đạt có vẻ nôm na chân chất, tình thi vẫn ý nhị và sinh động. Ít khi có câu thơ rất đời thường lại đạt được hiệu quả cao như thế!  
     Nhà thơ kết luận:
                      Bướm của em trên đời mãi còn quí giá
                      Đến lúc cần bướm lại sinh con
                      Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em.
                      La la la là la lá là...
     Riêng câu thơ kết chỉ là những nốt nhạc đệm cho cả bản giao hưởng về " bướm", đó thôi. Cái bướm ấy không phải chỉ mang lại cho ta sự sung sướng và hạnh phúc? Bướm còn để sinh con, bảo tồn nòi giống! Nghĩa là, không có bướm thì không có giống nòi, không có dân tộc - Mới thấy, giá trị nhân sinh của bướm cũng  thật là cao cả!... Bằng các yếu tố của thơ tượng trưng, nhà thơ đã đi sâu vào thế giới tâm linh cùng vũ trụ để mô tả. Từ cái tên đã có trong dân gian, phát triển sang phạm trù tình yêu rồi đời sống xã hội con người. Một tình thi chỉ xoay quanh về cái của người đàn bà mà nói được đủ điều, sâu sắc, thăng hoa đến thế - Thiết nghĩ, nó đã đạt vào loại là một bài thơ thần sầu quỷ khóc vậy!
     
                                         Hà Nội, mùa thu 2013
                                               Anh Nguyễn
                              Giảng viên Trường ĐH Quốc Gia
  Đã được đăng trên các trang mạng trong nước & thế giới:
  http://me.zing.vn/zb/dt/tranmygiong/19677712
http://vannghequangtri.bl...-tho-than-sau-qui.html
  https://trangvhntnguoncoi.../tho-pham-ngoc-thai-5/
  http://hung-viet.org/blog...tho-than-sau-quy-khoc/
  http://nhatkydinhquan.blo.../2014/07/ong-buom.html
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
http://vandanvn.net/vi/ne...c-gia-Anh-Nguyen-4312/
  http://nguyenduyxuan.net/...-bai-th-thn-su-qu-khoc
  http://binhtrung.org/a24888/dong-buom
  http://nghiathuc.wordpres...u-qui-khoc-anh-nguyen/
  http://blog.zing.vn/jb/dt...giong/19677712?from=my
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2015 11:16:20 bởi Nhân văn >
Nhân văn 21.03.2015 10:48:31 (permalink)
 
       
     Bằng Việt với bài thơ tình hay
                                 Phạm Ngọc Thái



            Nhà thơ Bằng Việt


        NGHĨ LẠI VỀ PAUTÔPXKY


                         1.

Ðồi trung du phơ phất bóng thông già.
Trường sơ tán. Hồn trong chiều lặng gió
Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu...

" Lẵng quả thông " trong suối nhạc nhiệm màu
Hay " Chuyến xe đêm " thầm thì mê đắm
Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm
Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa.
- " Có thể ngày mai ta cũng đi qua
Một cánh cửa nao lòng trong truyện " Tuyết "?
Có tiếng chuông rung và con mèo " Ackhip "
Ánh nến mơ hồ như hạnh phúc từng mong..."
Xa xôi sao... Thời thơ ấu sau lưng!
                                2.
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
cuộc đời không phải thế!
Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
Bể mặn mòi , sôi sục biết bao nhiêu
Khi em đến bên anh, trước biển cả dâng triều.
Ta thu hết xa khơi vào trong lồng ngực trẻ
Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời.
Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt đến
Dấu đen rầm khi đáy bóng đêm trôi...
Và hạnh phúc vỡ ra như một nốt đàn căng.
Nốt cao quá trong đời xao động quá!
Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn.
Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất
Anh qua cả màu không gian ngây ngất
Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao...
Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao!
                     3.
Bây giờ, anh biết nói gì hơn?
Có thể, ngày mai thôi... Có thể...
" Hoa tóc tiên ơi! Sớm mai và tuổi trẻ"
Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm...
Pautôpxky là dĩ vãng trong em
Thành dĩ vãng hai ta. Bây giờ anh ngoảnh lại:
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
anh hiểu rằng không phải...
Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời!
Ðưa em đi... Tất cả thế xong rồi
Ta đã lớn. Và Pautôpxky đã chết!
... Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện " Tuyết "
Dầu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!
                                               Bằng Việt
LỜI BÌNH:
" Nghĩ lại về Pautốpxky" là bài thơ tình hay nhất của đời thơ Bằng Việt. Anh đã làm bài thơ này vào thưở còn rất trẻ, có lẽ khi đó chỉ mới bước qua ngưỡng cửa đời sinh viên, ngoài tuổi đôi mươi. Mà cũng chỉ có tâm hồn một thanh niên trí thức đa cảm, lại sống vào giai đoạn xã hội trong những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ XX ấy - Bằng Việt mới có thể có được một hồn thơ say sưa, tình thơ trong trẻo và bay đến như thế! Mặc dù, hình như thơ anh viết về một mối tình thơ dại đã qua đi.
Bài được chia làm ba khúc. Tôi rất thích một câu thơ dài mà tác giả điệp lại đến hai lần:
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu, cuộc đời không phải thế!
Nghĩa là, cuộc đời đang còn ở trước mắt. Cuộc sống, những thử thách buồn vui, hạnh phúc và đau đớn, tất cả vẫn đang ở phía trước, chứ không phải là cái ta được, mất... đã qua rồi. Bài thơ cứ luôn luôn mở ra như thế. Tất cả vẫn đang đón đợi, đừng vì thế mà buồn. Pautôpxky với bao thần tượng về tình yêu lãng mạn, mộng mơ, ngọt ngào trong những truyện " Lẵng quả thông ", " Chuyến xe đêm ", hay truyện " Tuyết "... Những tình yêu như truyền thuyết ấy đã nhập vào trong tình cảm, cuộc sống của nhà thơ và cả của em. Nhưng đó đã là dĩ vãng, dù nó vẫn còn ngân nga, vang vọng mãi trong tâm hồn anh.
Khúc (1) - Tác giả để hồn thơ bay dưới những bóng thông già mà nhớ về thuở đã qua:
Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
... Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa
Tình yêu như những nốt nhạc rung đầu đời của nhà thơ với một thiếu nữ nào đó. Nó vừa thực lại vừa mơ hồ như ảo ảnh, khi qua đi để lại thoang thoảng mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm. Nó lóng lánh như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu. Chập chờn như ánh nến hạnh phúc soi vào đôi lứa. Ðó chính là " suối nhạc nhiệm màu " cứ thầm thì, thầm thì mê đắm mãi.
Nếu ta chưa đọc Pautôpxky - Thì ta chưa hiểu về chuyện con mèo "Ackhip", tiếng chuông rung và những sự thần kỳ trong truyện "Tuyết"! Nhưng đâu có cần cứ phải đọc Pautôpxky mới hiểu được thơ cơ chứ? Chỉ cần nghe lời và những âm hưởng của tình thơ, ta cũng có thể mơ hồ hiểu: Trong sâu thẳm, cái mối tình thuở ban đầu mà nhà thơ gợi ra ấy đã đẹp, trong sáng, say mê, mơ mộng đến chừng nào. Thế cũng đủ cho ta phải yêu rồi:
Có thể ngày mai ta cũng đi qua
Một cánh cửa nao lòng trong truyện "Tuyết"?
Có tiếng chuông rung và con mèo "Ackhip"
... Xa xôi sao... Thời thơ ấu sau lưng!
Sang khúc (2):
Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao
Câu thơ kết khúc ấy, phải chăng nó đã gói trọn bao niềm tâm tư, tình yêu và khát vọng, hạnh phúc cùng những đớn đau của nhà thơ? Nhưng cũng phải chăng, như nhà thơ muốn nói: Tình yêu của anh và em đã không vượt được qua không gian, thời gian? Bởi vì:
Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
Biển cả cuộc đời thì đầy bão tố phũ phàng. Mà tình yêu ấy dẫu khát khao, trong suốt như giọt nước ban mai rơi xuống tuổi thanh xuân, thì còn quá yếu đuối, mỏng manh. Biển mặn mòi sôi sục bao nhiêu, nhưng khi em đến bên anh: lúc sóng không yên, gió không lặng, tựa như đang cả triều dâng. Nhưng chính tuổi trẻ - Phải! Tuổi trẻ đã vượt lên trên cả sự tan vỡ và thử thách đó. Chỉ có tuổi trẻ mới:
Thu hết xa khơi vào trong lồng ngực trẻ
Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời
Tôi thích đôi câu thơ mà tác giả đã ví:
Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt đến
Dấu đen rầm khi đáy bóng đêm trôi...
Cuộc sống là như thế! Khi khát vọng ước mơ đến trong ta, nó như cả một bầu trời cao xanh vời vợi và ánh hồng chan chứa nơi nơi. Lòng ta mở rộng đón chờ với bao niềm vui khó tả. Nhưng cái gì mà chẳng có mặt trái của nó: Ước vọng càng cao thì đầy dữ dằn, bão tố, muốn vùi dập ta vào trong bóng đêm trôi choán ngợp cả bầu trời. Hai câu thơ đã vạch lên trên đường chân trời của cuộc đời rằng: Đấy là thử thách mà tuổi trẻ cần phải vượt qua! Không có con đường hạnh phúc nào đi đến toàn bằng phẳng, thênh thang. Trong cả tình yêu lứa đôi của anh và em, hạnh phúc đòi hỏi phải trả giá. Sự tan vỡ ban đầu ấy, phải chăng cũng là lẽ tất nhiên? Tình yêu và cuộc sống vẫn đang đón đợi ta ở phía xa kia! Nhà thơ lại ru mình và ru em:
Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất
Anh qua cả màu không gian ngây ngất
Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao
Ðúng như vậy. Tình yêu như một vùng nắng mới với cả màu không gian ngây ngất, trong những chiều của ngàn lá cây rung, mà những tiếng nói thầm của người yêu vẫn lao xao trong đó. Ðẹp - Đẹp quá, nhà thơ ạ! Tôi đã nghe thấy tiếng nói thầm ấy, rung động và bay xa lắm. Nó vượt lên trên cả bão tố dữ dằn và sóng gió mịt mùng kia. Tiếng nói thầm đáng yêu, tưởng chừng có thể làm nứt vỡ trái tim ta!
Ðây là khúc thơ chính của bài. Giọng thơ say sưa. Lời thơ đằm thắm. Thơ được dùng nhiều ngôn ngữ hình tượng, màu sắc sinh động. Trong thơ có nhạc, lắng càng sâu càng thấy hay. Ðôi khi anh sử dụng một cách nói rất thông thường, bên cạnh những câu thơ có ngôn ngữ thanh cao, để thơ khỏi rơi vào sự mượt mà, bóng bẩy. Thí dụ như:
Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn.
Những câu thơ mộc mạc như thế, âu... cũng là những sự chấm phá cần thiết, tạo nên một sự gồ ghề, thô ráp nhất định. Như những nét trạm đơn giản, mà tôn tạo hình ảnh của các câu thơ khác cao lên. Khúc cuối:
Ðưa em đi... Tất cả thế xong rồi
Ta đã lớn. Và Pautôpxky đã chết!
Nhà thơ đã kết thúc bài thơ một cách dữ dằn như thế đấy! Nhưng câu thơ không phải để nói về Pautôpxky nhà văn Nga quá cố đâu. Mà là tình yêu trong sáng, lãng mạn, mộng mơ thuở đầu đời của anh và em đã không còn. Như tác giả viết:
Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm
Hay là:
Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao!
Đọc thơ anh sau ngót nửa thế kỷ đã trôi qua, tôi vẫn thấy như đang gặp một Bằng Việt cứ nguyên như mơ mộng, nhẹ nhàng và bay bổng của thuở đã xa xưa. Tôi không nói về Bằng Việt của tuyên huấn, làm chính trị... mà là một Bằng Việt của nhà thơ, trong thơ, mới thật đáng yêu sao!
Phải - Hồi đó, thuở ấy... anh đã khóc, khi tiễn mối tình thơ dại với người con gái ban đầu của cuộc đời anh:
Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện "Tuyết"
Dẫu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!
Về thi pháp nghệ thuật: Có thể nói, " Nghĩ lại về Pautôpxky " là một bài thơ đã viết trong mối giao cảm, được hoà nhập bởi hai dòng thơ - Một của dòng thơ lãng mạn thuần tuý viết tràn theo cảm xúc, như thời "thơ mới" Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ... - Một nữa, ảnh hưởng của dòng thơ tượng trưng, cấu trúc đã súc tích hơn.
Ta hãy nghe tác giả cứ để cảm xúc mình chảy tràn ra, rơi lệ xuống cả trang thơ:
Pautôpxky là dĩ vãng trong em
Thành dĩ vãng hai ta. Bây giờ anh ngoảnh lại
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu, anh hiểu rằng không phải...
Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời!
Tôi nghĩ, đã đến lúc có thể gấp lại bài bình ở đây. Bởi, thơ anh viết như thế cũng đã quá đủ rồi, còn cần gì nữa để tôi phải nói thêm.
 
PHẠM NGỌC THÁI
                   Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
         
http://tranmygiong.blogtiengviet.net/2014/09/27/b_ng_vi_t_v_i_bai_th_tinh_hay_ph_m_ng_c_
http://www.bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3832
http://vandanvn.net/vi/news/Cam-nhan-tac-pham/Bang-Viet-voi-bai-tho-tinh-hay-Bai-viet-Pham-Ngoc-Thai-4599/
http://vannghequangtri.blogspot.com/2014/09/bang-viet-voi-bai-tho-tinh-hay-pham.html
http://vannghesongcuulong.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13572
http://www.datvietjsc.net.vn/index.php?act=newsdetail&pid=8&cid=52&id=1810
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=14922
http://datdung.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=5081#axzz1h2jOnDrf
http://phamngochien.com/view/pham-ngoc-thai-binh-bai-tho-quotnghi-lai-ve-pautopxkyquot-cua-bang-viet/1429
 http://tongocthach.vn/ve-tho-van-ban-be1/bang-viet-voi-bai-tho-tinh-hay-808.html
http://sacmauthoigian.wordpress.com/2012/01/18/nghi-l%E1%BA%A1i-v%E1%BB%81-pauxt%E1%BB%91pky-th%C6%A1-b%E1%BA%B1ng-vi%E1%BB%87t-l%E1%BB%9Di-binh-ph%E1%BA%A1m-ng%E1%BB%8Dc-thai/
http://4phuong.net/ebook/48832802/nghi-lai-ve-pauxtopky-mot-bai-tho-dac-sac.html
http://binhtrung.org/a26900/nghi-lai-ve-pautopxky
http://blog.zing.vn/jb/dt/tranmygiong/20282769?from=my
http://nhatkydinhquan.blogspot.com/2014/09/nghi-lai-ve-pautopxky.html
http://huongnguyenhoang.blogspot.com/2014/09/nghi-lai-ve-paustovsky-tho-bang-viet-l.html#more
http://vannghetroinam.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=12609
http://nghiathuc.wordpres...-voi-bai-tho-tinh-hay/
http://www.quansuvn.info/...0_6-1_17-15_14-2_15-2/
http://www.danchimviet.info/archives/48968
http://to-quoc01.blogspot...tho-tinh-hay-pham.html
http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_9.php
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.03.2015 10:49:55 bởi Nhân văn >
Nhân văn 28.04.2015 12:37:16 (permalink)
 
                      ẤN TƯỢNG PHẠM NGỌC THÁI VÀ THƠ
                                                                                    Nguyễn Khôi



     Qua tác phảm rồi gặp con người cụ thể - Nguyễn Khôi có cảm tưởng về tính cách như thấy ở Thái một Vladimir Maiakovsky Việt Nam: hiên ngang, luôn đứng trên tầm thời đại, dám tự khẳng định mình bằng những bài thơ, dòng thơ trữ tình (ở Maia là “phản trữ tình”) đều vì tình yêu lớn lao. Ước vọng sâu sắc nhất của anh.

     Phạm Ngọc Thái lớn lên ở cái xã hội mà ở tầng lớp trên thi đàn là các “nhà thơ Quốc Doanh” ngự trị. Họ Hàn lâm đấy (nghĩa là có học thức và được đào tạo cẩn thận) để mặc đồng phục, cùng đeo một thứ huy hiệu, cùng một lối viết, một giọng điệu ngợi ca “tô hồng” của “một nền văn học minh họa” - Nói theo kiểu nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu. Còn lớp dưới thi đàn là các Hợp Tác Xã (câu lạc bộ) sản xuất thơ “nhiều, nhanh, rác, rẻ”… quanh năm ca ngợi mùa xuân vĩnh cửu của nhân loại ?!  
     Riêng Phạm Ngọc Thái “Nhà thơ của tự do”, không ăn lương và lệ thuộc vào bất cứ một tổ chức thi nhân nào. Bằng một thi tài bẩm sinh (trời cho) cùng với sự khổ luyện (lao tâm khổ tứ) để "Ta khoả lòng ta đằm sương gió" - Để rồi:
                          Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu…
     Thơ tình Phạm Ngọc Thái viết với một dung lượng lớn, tới vài trăm bài nhưng đọc không nhàm chán, vì anh luôn tạo được ý mới, tứ lạ, ngôn ngữ thơ tinh luyện, hình tượng thơ ĐẸP và sống động. Cái “thơ” đan trong cái “mộng” - cái “ảo” diệu huyền để hiện lên cái thực thấm vầo tâm can người đọc. Từ trữ tình kiểu Xuân Diệu, thơ Phạm Ngọc Thái đã vượt lên cái tượng trưng, siêu thực của Bích Khê: 
                         Làn da trắng vòm ngực nàng hưng phấn
                         Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân...
                                                    (cây thầm tiếc bóng)
                         Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai!
                         Người đàn bà ai mà định nghĩa?
                         …..
                         Khúc thơ tình anh lại viết về em
                         Người đàn bà ngậm cả vầng trăng…
                                                   (người đàn bà trắng)




     Vừa gần đây, nữ thi sĩ trẻ Nồng Nàn Phố (Phạm Thiện Ý – sinh 1988) viết rất bạo: Anh ng thêm đi, em phi dy ly chng/ - Còn anh với Hồ Xuân Hương tái lai - 2012 và tập sách Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại - 2014,  đã viết rất thời sự, rất trẻ, rát đời thường:
                         Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
                         Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?
                        …..
                         Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
                         Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
                                      (dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ)
     Hoặc là:
                        Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                        Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
                                               (khóc bên Hồ Núi Cốc)
                        Anh lại có một cô áo trắng
                        Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời
                        Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm
                        Bầu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi.
                                              (cô áo trắng)



                                  Nhà thơ Phạm Ngọc Thái

     Thơ trữ tình Phạm Ngọc Thái HAY vì anh luôn bám vào cuộc sống đầy máu thịt đang sinh sôi:
                        Trong sân gạch sư già quét lá
                        Bước người đi thầm lặng cõi hư hao…
                        Chiều hồ Tây - Chiều Tây Hồ lộng gió
                        Ta và người cõi mộng khác chi nhau
                        Người quên hết! Còn ta yêu tất cả
                        Trong tiếng lá bay chầm chậm bóng ta theo.
                                             (một góc hồ Tây)
     Chao ôi, “yêu” làm nên động lực cho hồn thơ cất cánh, cho ngọn thần bút ( hay bấm chuột @ ) khởi sắc:
                        Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ
                        Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay
                                           (trước núi Mỹ Nhân)
     “thơ yêu” Phạm Ngọc Thái là tiếng lòng, tiếng con tim luôn ngân vang một giai điệu như “mưa rơi” vào miền ký ức sâu thẳm:
                        Nghe không em lại mưa lên phố
                        Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi
                                          (Em ơi! Thành phố lại mưa)
                        Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy
                        Dẫu chỉ thấy còn bong bóng vỡ đầy môi
                                                     (trong mưa)
     Chao ôi, thơ là đời, là tâm huyết máu thịt của thi sĩ. Không có tình yêu lớn lao -  chân thực thì không thể có những vần thơ tuyệt tác là thế.
-   Một tài năng lớn… với những giá trị văn học tuyệt vời!
     Mong rằng “thơ Phạm Ngọc Thái” sẽ được người đời (trong và ngoài nước) thưởng thức, đánh giá một cách trân trọng, đúng mực…
     Gì thì gì, với ấn tượng của Nguyễn Khôi thì: đọc thơ tình Phạm Ngọc Thái làm cháy bỏng con tim, cho ta trẻ lại của một thời “yêu” và “mộng”.
 
Phố Vọng - Hè 2015
Nguyễn Khôi
Nhà văn Hà Nội
 
                     Đã đăng trên những trang mạng trong nước và thế giới:
http://to-quoc01.blogspot...hai-va-tho-nguyen.html
http://www.saimonthidan.c...?c=article&p=10555
http://www.bichkhe.org/ho...cat_id=147&id=4166
http://lengoctrac.com/?65...amp;657=7030&654=4
  https://badamxoevietnam2....pham-ngoc-thai-va-tho/
  http://tranmygiong.blogti...thai_va_th_nguy_n_khoi
  http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_21.php
https://nghiathuc.wordpre...ai-va-tho-nguyen-khoi/
http://www.hung-viet.org/...pham-ngoc-thai-va-tho/
http://lexuanquang.org/post/9161/



<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2015 11:36:52 bởi Nhân văn >
Nhân văn 28.05.2015 11:44:38 (permalink)
 
             Chế Lan Viên với ba bài thơ phê phán sâu sắc
                                                                  PHẠM NGỌC THÁI
 


   Trong lời giới thiệu tập sách " Chế Lan Viên - Thơ chọn lọc", Nxb Văn học 2014 - Dương Phong, người tuyển chọn... khi nói về ba bài thơ này đã viết:
 
-    Ba thi phẩm nổi tiếng công bố muộn mằn của Chế Lan Viên - in trong Di cảo Chế Lan Viên - chính là:  "Ai ? Tôi!"  -  "Bánh vẽ"  -  "Trừ đi"... là những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời.
     Thực ra, nếu nói  "Đó là... những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời", là Dương Phong đã lựa lời nói cho nhỏ nhẹ đi, tránh khâu kiểm duyệt, sợ không cho xuất bản. Theo tôi, xác đáng hơn thì phải nói: Ba thi phẩm đó đã... lật trái lại mặt sau của xã hội và chính trị - Người đã tự phê phán. Thậm chí tự lên án mình! Cả ba bài thơ đều nằm trong Di cảo. Khi còn sống Người đã không cho xuất bản, không dám công bố. Tôi xin phân tích từng bài một.
 

    Nhà thơ Chế Lan Viên

     Trong bài "Ai? Tôi!" - Bài thơ viết vào những ngày sau khi nước nhà đã hoàn toàn giải phóng. Có lẽ một thực trạng xã hội đã tác động vào tâm can, tư tưởng, dầy vò làm ông đau đớn. Ông chạnh nghĩ về những hy sinh của những người lính trong cuộc chiến tranh xưa. Những bi thương mà dân tộc đã phải trả giá. Bắt đầu vào thơ... bằng sự phê phán chính mình, ông chỉ ra:
                    Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
                  Chỉ một đêm, còn sống có 30
                      Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                     Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                     Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                  trong mọi cuộc xung phong
    Cái nguyên nhân đó chỉ là sự tự vấn lương tâm. Người tự kết tội mình: Vì những câu thơ cổ võ của Người làm cho những người lính xung phong, nên mới để 2.000 người đi thì 1.700 người bỏ mạng không trở về. Nhưng tại sao Người nói vậy???
    Ta vẫn biết thơ Chế Lan Viên là loại thơ bình luận. Thơ triết lý. Về phương diện nghệ thuật, nó có tính triết học cao. Tính tư tưởng trong thơ rất sâu sắc về ý nghĩa cuộc sống, cũng như sự phê phán xã hội và cuộc đời. Mỗi câu thơ ông đều hàm súc ý nghĩa ở bên trong. Thơ đọc càng sâu càng thấm thía. Về tính nhân văn, ông là một nhà thơ của nhân dân.
    Nhà thơ của nhân dân ấy từng viết những bài thơ nổi tiếng một thời, như: Sao chiến thắng, Người đi tìm hính của nước... Ông đã sáng tác cả một tập "Ánh sáng và phù sa" danh tiếng. Đầy hoài vọng với một tương lai huy hoàng của đất nước về ngày chiến thắng:
                      Xưa phù du mà nay đã phù sa
                     Xưa bay đi mà nay không trôi mất
                    Cho đến được... lúa vàng đất mật...
                     Anh đã mất gì? Đã mất bóng đêm.
      Không tiếc lời ca ngợi lãnh tụ. Ca ngợi Đảng quang vinh:
                    Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
                     "Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
                      Hình của Đảng lồng trong hình của nước
                                    (Người đi tìm hình của nước)
     Hết lời ca ngợi chủ nghĩa. Tin vào ngọn cờ khi theo Đảng quang vinh:
                     Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
                     Khi tự do về chói ở trên đầu
                      ......
                     Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
                     Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
                      Sao vàng bay theo liềm búa công nông
   Thế mà giờ đây, những năm tháng sau chiến tranh, đất nước đã hoà bình. Một thực tế xã hội với bao nhiêu mảng đen về sự bất công, thiếu nhân quyền. Đầy rẫy những quan lại tham nhũng đủ kiểu, tiếp tay cho chính quyền địa phương chèn ép, chiếm đoạt cả đất đai của dân lành, đẩy họ vào sự cùng quẫn. Chính quyền như thế đâu có phải còn của dân? Cái băng rôn Nhà nước do dân, vì dân... âu cũng chỉ là khẩu hiệu? Tâm hồn ông bị đổ vỡ. Người đổ vỡ về Đảng chăng?... Người thất vọng về chủ nghĩa chăng?...  Người không nói. Nhưng rõ ràng đọc: "Ai?Tôi!", lật mặt sau của những câu thơ ta thấy: Cái thần tượng về một Đảng mác-xít trong ông đã bị sụp đổ. Ông không còn niềm tin thật sự vào thể chế của ngày hôm nay nữa.
       Nghĩ lại cuộc chiến xưa. Bao sinh mạng những người lính xung phong cho sự tốt đẹp của đất nước, hạnh phúc của dân tộc... lại như thế này sao? - mà chính thơ ông đã góp phần thúc giục họ xung phong. Hàng vạn, hàng vạn người lính chết cho một cuộc chiến... đã trở thành phi lý ư? Ông đau đớn mà thốt lên. Không, phải nói là ông đã thét lên khi viết những câu thơ:
                     Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                     Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                     Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong
      Ở đây ta thấy một Chế Lan Viên quay ngược lại hoàn toàn, không còn phải là tâm hồn như khi Người đã viết "Ánh sáng và phù sa" nữa. Trái tim ông quằn quại. Sau đó Người lý giải về kết quả những câu thơ mà Người đã cổ võ những người lính xung phong đó: 2.000 người đi... thì 1.970 người bỏ mạng, chỉ 30 người sống sót. Để cuối cùng dân tộc được gì?... Tổ quốc được gì?... Thông qua một hiện thực cuộc sống, Người viết:
                      Một trong ba mươi người kia
                                               ở mặt trận về sau mười năm
                     Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
                     Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
                     Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
                      Ai chịu trách nhiệm vậy?
                     Lại chính là tôi!
                     Người lính cần một câu giải đáp về đời
                     Tôi ú ớ
                     Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
                     Mà tôi xấu hổ
                     Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                     Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ                     
                    Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
    Ta đặt câu hỏi: Nếu sự hy sinh kia... cũng vì Tổ quốc, tại sao Người lại phải xấu hổ?... dẫu cho là chính thơ Người cũng đã cổ võ những người lính ấy xung phong chăng nữa. Vấn đề là ở chỗ, bật ra những câu thơ như thế, Trong thẳm sâu trái tim Người đã phải rên rỉ, đớn đau vì tình hình của đất nước hôm nay. Mặc dù ông chỉ giải nghĩa nguyên nhân làm ông xấu hổ, rằng:
                     Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                      Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
    Hay là:
                      Người lính cần một câu giải đáp về đời
                     Tôi ú ớ
    Chỉ có thể giải thích rằng: mặc dù đất nước đã hoà bình nhưng tình hình xã hội lại ngày càng suy. Rền xiết trong ông một nỗi niềm u uẩn: về chế độ còn nhiều sự giả trá, bất công chăng? Thực tế một Nhà nước xã hội chủ nghĩa đâu có được tốt đẹp trong tâm hồn như ông hằng tâm niệm. Ông trăn trở... máu dân tộc đã đổ cho cuộc chiến ấy, chỉ để giành lại một chính thể phi lý này ư? Thế mà 1.970 người lính phải chết trong một đêm Mậu Thân - đấy mới chỉ là một cuộc xung phong. Nếu nói đến mọi cuộc xung phong thì phải hàng vạn, hàng vạn những người lính nữa đã phải chết... cho một cuộc sống với bao sự phi nghĩa như thế này?
     Ta lật lại mặt kia của câu thơ: Nếu như sự xung phong của những người lính, là để giành lại độc lập, tự do cho một đất nước... có một xã hội công bằng, ấm no và hạnh phúc của dân tộc. Thì việc gì Người phải xấu hổ? Như Người từng viết:
                       Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
                      Như cha mẹ ta, như vợ như chồng
                       Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
                      Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...
                                                     (Sao chiến thắng)
       Máu của dân tộc đã đổ. Cái chết của những người lính ngoài chiến trận, cho ngày hôm nay ra sao?
 -  Vì một Đảng cộng sản quang vinh ư?...  Khi trung ương và chính phủ đầy những quan tham nhũng. Một xã hội tràn lan bao lớp quan lại địa phương cấu kết với quan trên chèn ép, ức hiếp dân lành. Chỗ nào cũng bất công. Chỉ chết những kẻ thấp cổ, bé họng - có oan trái mà không tiền, đi kiện cáo cũng chẳng ai thèm quan tâm.
-   Vì một Đảng cộng sản quang vinh ư?... Khi những "đầy tớ của dân" ấy thì giàu nứt đố, đổ vách. Có nguyên Tổng bí thư Đảng làm hai khoá cả chục năm. Đứng đầu của một Đảng cộng sản quang vinh - Thời ông ta còn đương nhiệm... thì Đảng yếu kém, xã hội tạp dịch bung bét, kinh tế quốc dân sa sút. Nếu không tham nhũng mà khi ông ta mãn nhiệm trở về, giàu như một đế vương? Nhà cửa, biệt thự nguy nga như cung vua phủ chúa, sàn lát đá hoa cương. Đạo lý chẳng khác gì những kẻ tha hoá? Cha thì đoạt lấy nhân tình, bồ bịch của con trai. Nhân cách rất rẻ tiền. Con gái với mẹ kế cũng bới móc, kiện cáo nhau vì giành giật tiền bạc của nả. 
-   Một nhà nước, một chính thể chân chính của dân, do dân, vì dân ư? Ngay cuối tháng 3/2015 vừa qua, trong bài viết "Chả lẽ ông Chủ tịch thành phố Hà Nội không có lỗi gì trong vụ chặt cây", đăng trên laokhoa.blogtiengviet.net - chính nhà thơ Trần Đăng Khoa đã lên tiếng cảnh báo những lãnh đạo Đảng và Nhà nước, rằng:
   ... Bởi chúng tôi chỉ là nhân dân. Nhân dân là mác là chông. Là sông là núi nhưng cũng không là gì... Vâng nhân dân là thế đấy. Khi có giặc thì chúng tôi là mác là chông, là sông là biển ngăn giặc, đánh giặc, rồi hy sinh thành hàng vạn, hàng triệu những nấm mồ vô danh ở Điện Biên, ở Thạch Hãn, ở Hoàng Sa, Trường Sa, ở Biển Đông, ở khắp mọi nơi trên đất nước này. Còn khi yên hàn, chúng tôi chẳng là gì cả.
     Liên tưởng những năm qua - Ở ngoài biển đảo thì bọn Tàu khựa cướp biển, cướp đảo ta. Chúng hung hăng bắn giết những người dân đánh cá và chiến sĩ ta... đang phải ngày đêm canh giữ biển trời. Khắp nơi trong nước, nhất là ở các thành phố... nhân dân xuống đường biểu tình lên án giặc Tàu - Thì chính quyền lại đi trấn áp, bắt bớ. Rồi hăm dọa, tống giam cả các bloger yêu nước.
     Ta trở lại với bài thơ của Chế Lan Viên: Trong thẳm sâu tâm linh của Người, điều làm cho Người xấu hổ - Như Người nói, bởi chính thơ Người đã kêu gọi những người lính kia... và họ đã phải chết đi trong những cuộc xung phong ấy?... cho tương lai của đất nước với một thể chế thiếu nhân đạo như hôm nay.

        Tôi xin nói tiếp sang bài thơ "Bánh vẽ".
                          BÁNH VẼ
                     Chưa cần cầm lên nếm,
                                                 anh đã biết là bánh vẽ
                     Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
                     Cầm lên nhấm nháp.
                      Chả là nếu anh từ chối
                     Chúng sẽ bảo anh phá rối
                      Đêm vui
                     Bảo anh không còn có khả năng nhai
                      Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
                      Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
                      Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
                    Như không có gì xảy ra hết
                     Và những người khác thấy anh ngồi,
                      Họ cũng ngồi thôi
                    Nhai ngồm ngoàm...
     Chả cần phải khó nghĩ ta cũng hiểu ngay: Những "bánh vẽ" mà Chế Lan Viên nói ở đây thuộc các chủ trương, chính sách hay đường lối của Nhà nước, của Đảng. Có những thứ bánh vẽ chỉ gây tổn hại lớn nhỏ đối với nền kinh tế hay đời sống dân sinh, làm cho nhân dân đói khổ. Nhưng cũng có loại bánh vẽ thì lại làm... chết người. Có khi giết hàng nghìn, hàng vạn người lương thiện và vô tội.
    Xin lược lại mấy cái bánh vẽ đã gây ra những tội ác kinh hoàng trong lịch sử của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chúng ta. Như cái bánh vẽ:
-   Về Cải cách ruộng đất của Đảng và chính phủ 1946-1957.
-   Sự kiện hay còn gọi là "vụ án nhân văn giai phẩm" 1955-1958.
                   1.  Sơ lược về thảm hoạ của cuộc Cải Cách Ruộng Đất. 
     Cái bánh vẽ của Đảng Lao động VN (tức Đảng Cộng sản VN bây giờ) và Chính phủ nước VN Dân chủ Cộng hòa - Người ta gọi đó là "chiến dịch đấu tố thảm sát tàn bạo". Nồi da xáo thịt kinh hoàng. Đồng bào, đồng loại thảm sát, tận diệt lẫn nhau. Những người cùng huyết thống trong gia đình bị tuyên truyền, cưỡng chế vu cáo ám hại nhau. Con đấu tố cha, vợ vu cáo chồng... là địa chủ cường hào, là phản động, là bóc lột. Giẫm đạp lên luân thường đạo lý. Người ta chưa biết thật chính xác về số người đã bị giết trong CCRĐ. Có nguồn tin thì nói khoảng 120.000 người bị giết, nhưng cũng có thông tin những người bị giết lên đến trên 170.000 người. Vậy chí ít cũng phải trên chục vạn người bị giết ở cuộc CCRĐ ấy. Trong đó, cứ 10 người đem ra kết án rồi bắn chết thì có 7 người bị vu oan.
     Bao nhiêu người cách mạng - hy sinh cả một đời, hy sinh cả gia đình, cống hiến của cải cho kháng chiến... cuối cùng cũng bị đội cải cách của chính phủ qui tội, xử bắn rất tàn ác. Nói về những hành động giết chóc khủng khiếp thời kỳ ấy, thấy nổi trôi trên mạng mấy vần thơ của nhà thơ Tố Hữu - một ông quan cách mạng mà sau này lên tới chót đỉnh, uỷ viên trong Bộ chính trị của Đảng cộng sản, viết tuyên truyền trong thời ký CCRĐ. Thơ rằng:
                      Giết! Giết nữa bàn tay không phút nghỉ,
                     Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
                     Cho Đảng bền lâu cùng rập bước tơ lòng
                      Thờ Mao Chủ tịch, thơ Sít-ta-lin bất diệt!
     Chẳng hiểu có đúng vậy không? Nghe vần thơ, giọng thơ thì rất giống thơ Tố Hữu. Nếu đúng thế thì - Chao ôi!  Một ông quan cấp cao của Đảng cộng sản nhưng thơ khát máu quá!... mà lại là máu cùng đồng loại, giống nòi.
                  2.  Đôi nét về vụ nhân văn giai phẩm.
-   Là phong trào đấu tranh của những văn nghệ sĩ đòi dân chủ, tự do văn hoá và trong sáng tác văn học nghệ thuật.
-   Những văn nghệ sĩ trong Nhân văn giai phẩm tuyên bố: văn học nghệ thuật không để phục vụ cho chính trị, đó là quyền tự do sáng tác của họ. Với khẩu hiệu "trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ".
-   Họ phản đối sự chuyên chính của Đảng, đòi xoá bỏ sự đảng trị, độc đoán trên lĩnh vực văn hoá và sáng tác văn học nghệ thuật. Theo họ, chủ nghĩa cộng sản là không nhân văn, chà đạp con người. Họ chống sùng bái cá nhân. Phong trào nhân văn giai phẩm này đã bị Đảng và Nhà nước dùng bạo lực thanh trừng, bắt bớ, tù đầy. Hàng loạt các văn nghệ sĩ phải đi cải tạo, hoặc bị quản thúc, cấm sáng tác... kéo dài hàng chục năm. Trần Dần phẫn uất cứa cổ tự tử mà không chết. Từ một trào lưu đấu tranh đòi dân chủ, tự do trong văn học nghệ thuật - trở thành một vụ án "nhân văn giai phẩm", đẩy thành một vụ án chính trị. Phong trào được khởi xướng 1955 và chính thức bị dập tắt tháng 6/1958. Đến khi được cởi trói cho văn nghệ sĩ thì nhiều người đầu đã bạc, kẻ thì bệnh hoạn ốm đau... nào bại liệt, tâm thần, hoặc chết trước khi được cởi trói. Như nhạc sĩ Văn Cao được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh một năm sau khi mất (1996). Tháng 2/2007 các nhà văn trong nhóm Nhân văn giai phẩm như Phùng quán, Trần Dần, Yến Lan, Lê đạt, Hoàng Cầm thì được tặng giải thưởng Nhà nước... vì đã có công trong sự nghiệp sáng tác văn học của nước nhà.
    Chao ôi, mới thấy kiểu lãnh đạo của chế độ XHCN chúng ta, có khác gì bánh vẽ? Đúng là những thứ trò. Thậm chí những thứ trò và bánh vẽ ấy đầy giả tạo, lừa dân và vô nhân thất đức... "cởi ra rồi lại buộc vào như không".
     Xin quay trở lại với bài thơ "Bánh vẽ" của Chế Lan Viên. Tại sao một nhà thơ lớn của chúng ta cũng như bao văn nghệ sĩ khác, biết là "bánh vẽ" rồi... mà vẫn phải ngồi vào bàn, vẫn phải... ăn??? Như Người đã viết:
                     Chả là... nếu anh từ chối
                    Chúng sẽ bảo anh phá rối
                      .....
                    Và đưa anh ra khỏi bàn tiệc
   Nghĩa là: nếu anh không ăn cái bánh vẽ của chúng, thì chúng sẽ "đánh"anh. Sẽ qui tội và sẽ... triệt anh. Cũng như "vụ án Nhân văn giai phẩm" vậy thôi.
     Ngay như Nguyễn Khải - một nhà văn có danh tiếng và tầm vóc. Đương thời ông đã phải kìm nén, nhẫn nhịn biết bao sự nhiễu nhương của thể chế. Sự vô đạo của những kẻ điều hành xã hội - Ông có dám viết lên cái hiện thực ấy đâu? Đến khi mất, ông mới để lại một cuốn di cảo, tập tùy bút chính trị... gọi là "Đi tìm cái tôi đã mất". Phê phán, phanh phui những cái mất tự do, dân chủ, chưa có nhân quyền của chế độ. Như người ta nói: Nguyễn Khải chết rồi mới dám nói thật.
    Không phải chỉ Chế Lan Viên, Nguyễn Khải... mà cùng bao văn nghệ sĩ khác thời nay - Nếu muốn còn được cầm bút để viết. Nếu muốn còn được sống để hoạt động văn học nghệ thuật, thì phải chấp nhận ăn... "bánh vẽ". Lương tri dẫu bị dằn vặt? Họ vẫn phải - như Chế Lan Viên đã viết:
                     Rốt cuộc anh lại phải ngồi vào bàn
                    Như không có gì xẩy ra hết
    Và:
                    Nhai ngồm ngoàm...
    Nếu anh không chịu ngồi vào bàn nhai cái bánh vẽ ấy? Nếu trái tim nhà văn bức bối mà không kìm nén được nữa, cố viết nó ra - thì sẽ bị... triệt ngay. Thí dụ như cuốn tiểu thuyết "Thời của thánh thần" của nhà văn Hoàng Minh Tường chẳng hạn?
    "Thời của thánh thần", Nxb Hội nhà văn 2008 - Là một cuốn tiểu thuyết, một bức tranh tổng thể của xã hội. Nhà văn phục lại những hiện thực, ... qua những số phận chìm nổi của một gia đình. Những trận đấu tố đầy chất bi hài. Những chiến dịch cưỡng bức nhuộm máu... để tái hiện lại sự đen tối của thời Cải cách ruộng đất. Vụ án Nhân văn giai phẩm... những người trí thức và văn nghệ sĩ bị nhà cầm quyền vùi dập, bắt tù đầy, khủng bố tư tưởng, bị vô hiệu hoá trở thành những cái bóng dặt dẹo. Rồi cuộc đấu tranh với xét lại hiện đại đến vấn đề Hoà hợp dân tộc?...  Các nhà bình luận nhận xét rằng: "Thời của thánh thần" là bi kịch của một gia đình thông qua tấn đại bi kịch của dân tộc. Đọc Thời của thánh thần phải rùng mình vì sự bất ổn của một xã hội, trong cơn bão loạn thời thế. Bạo lực được xây dựng trên những thứ triết lý không tưởng, vừa cuồng tín vừa tàn bạo.
     Sách bị qui là bôi xấu chế độ. Mới phát hành được vài ngày thì bị Nhà nước ra sắc lệnh thu hồi. Nghe nói ngày 28/8/2008, chính nhà văn Hoàng Minh Tường đã phải đi tất cả các cửa hiệu gửi... để thu hồi sách.
   Năm qua, nhà văn Đỗ Hoàng cũng một lần nữa lên tiếng vạch trần những hành động phi nhân nghĩa của ông Trưởng ban tư tưởng văn hoá trung ương một thời - Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Uỷ viên Bộ chính trị của Đảng cộng sản. Khi còn đương chức đương quyền, ỷ thế vào bộ máy quyền lực của Đảng đã bóp nghẹt sự tự do dân chủ các văn nghệ sĩ và thẳng tay trấn áp những ai không chịu... "ăn bánh vẽ" của Đảng. Trong bài "Thơ vô lối Nguyễn Khoa Điềm" đăng trên trang vannghecuocsong.com - Nhà văn Đỗ Hoàng vạch rõ:
     " Nguyễn Khoa Điềm - Ông trùm tư tưởng văn hoá của Đảng cộng sản Việt Nam, đứt gánh giữa chừng... phải về vườn - Thời còn Trưởng ban tư tưởng văn hoá,  Nguyễn Khoa Điềm để lại nhiều tiếng không hay: Ông ta trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng, cấm internet, đốt thành tro bụi những tập sách Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyên kể năm 2000 của Nguyễn Ngọc Tấn, Chúa trời ngủ gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngăn cản nhiều nhà văn tài năng vào Hội nhà văn Việt Nam... Ký duyệt nhiều dự án tiêu hàng triệu đô là tiền ngân sách, thuế dân đóng để phe nhóm hưởng lại quả nhưng hiệu quả không là bao như: Phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công, (phim bỏ kho) 1 triệu đô, phim Dòng sông phẳng lặng (phim bỏ kho)..." v.v.
    Như thế có thể thấy rằng: cái bánh vẽ mà Đảng và Nhà nước XHCN của chúng ta vẫn liên tục vẽ ra suốt từ hồi CCRĐ đến giờ. Các văn nghệ sĩ muốn tồn tại bình yên thì đều phải... ăn. Như cách nói của Chế Lan Viên:
                      Và những người khác thấy anh ngồi,
                     Họ cũng ngồi thôi
                     Nhai ngồm ngoàm...
    Nếu ai không "nhai ngồm ngoàm..." thì Đảng sẽ cho chính quyền đến... "hỏi thăm"? Sự tự do, dân chủ của chế độ ta vẫn chỉ là giả hiệu: như việc đàn áp, đe nẹt, bắt bớ những người biểu tình chống giặc Tàu. Những kẻ quá khích chỉ là số ít. Chủ yếu đó là dân tình và những trí thức yêu nước. Bóp nghẹt nhân quyền sống của con người qua việc trấn áp, giam hãm tù đầy các bloger yêu nước... dám nói lên sự thật.
       Giờ tôi xin nói thêm ít lời về bài "Trừ đi":
                      Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
                     Có phải tôi viết đâu? Một nửa
                     Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
                     Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
                     Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ,
                     Tôi giết cái cánh sắp bay... trước khi tôi viết
                      Tôi giết bão táp ngoài khơi
                                             cho được yên ổn trên bờ
                     Và giết luôn mặt trời trên biển,
                     Giết mưa và giết luôn cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
                      Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
                    Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
                     Và thơ này rơi đến tay anh
                      Anh bảo đấy là tôi?
                     Không phải!
                     Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
                    Đã giết đi bao nhiêu cái
                      Có khi không có tội như mình!
       Đọc mấy câu thơ kết trong bài 'Trừ đi" này, thấy tâm trạng Chế Lan Viên có khác gì Nguyễn Khải và một số văn nghệ sĩ?... chỉ dám viết một nửa sự thật - Còn một nửa thì phải viết theo sự cưỡng chế của... Đảng và chế độ - Người nói:
                     Thơ này rơi đến tay anh
                    Anh bảo đấy là tôi?
                    Không phải!
     Người phủ nhận chăng? Không, để rồi cũng chính Người thừa nhận:
                    Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
    Câu thơ viết thổ lộ như thế - để nói lên những xót xa trong lòng ông, trăn trở và đau đớn. Có thể nói đó là sự quằn quại, dầy vò lương tâm của những người cầm bút, những văn nghệ sĩ sống bằng lương tri. Những con người yêu đất nước và dân tộc - Nay chỉ vì thờ phụng cho một chính thể đã mọt ruỗng mà phải giết đi bao nhiêu cái tốt đẹp. Giết đi cả những tình cảm, lòng nhân ái và tư tưởng trong sáng. Cái tội ấy của nhà thơ, nhà văn... còn lớn hơn cả bao nhiêu thứ mà Người đã qui tội kia? Người - tức Chế Lan Viên đã bảo vậy:
                   Chính tôi đã giết đi bao nhiêu thứ
                    Có khi không có tội như mình!
    Đấy, ông đã viết như thế đấy! Vậy "trừ đi" là trừ đi cái gì? Ông nói, sau này đọc thơ ông thì hãy trừ đi một nửa - Chỉ đúng một nửa thôi, còn lại là giả...
    Có phải cái "giả" mà ông muốn nói ấy... có khi là cả những bài thơ mà ông đã từng ca ngợi chế độ, ca ngợi Đảng? Bởi vì: nếu ông phê phán Đảng, lên án chế độ, thì ông sẽ bị... "đánh", bị triệt... như vụ án Nhân văn giai phẩm. Gia đình, vợ con sẽ khốn khổ, khốn nạn theo ông. Nghĩa là, nếu ông mà nói thật... thì Đảng và Nhà nước cũng lắm tội lắm chứ!?
   Tôi xin dừng lại bài bình luận về ba bài thơ của Người ở đây.
-----------------
                             Hai bài "Bánh vẽ" - "Trừ đi" đã viết đầy đủ như ở trong bài bình.
                            Chỉ xin chép lại toàn bộ bài thơ "Ai? Tôi!" dưới đây, để bạn đọc xem cho mạch lạc:

                                   AI? TÔI!
   
                        
   Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
                      Chỉ một đêm, còn sống có 30
                      Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                      Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                      Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong

                     Một trong ba mươi người kia
                                               ở mặt trận về sau mười năm
                      Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
                    Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
                     Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
                    Ai chịu trách nhiệm vậy?
                     Lại chính là tôi!
                     Người lính cần một câu giải đáp về đời
                      Tôi ú ớ
                     Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
                    Mà tôi xấu hổ
                     Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                     Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
                      Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
           PNT.
Hà Nội, tháng 4/2015   

                Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:   
     http://to-quoc01.blogspot...tho-phe-phan.html#more
http://www.tiengchimviet....n-vien-voi-ba-bai.html
https://badamxoevietnam2....i-ba-bai-tho-phe-phan/
http://vietpho.com/saigon_bao.php?id=608
http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_3.php
https://nghiathuc.wordpre...-tho-phe-phan-sau-sac/
  http://thotanhinhthuc.org...tl_pnt_chelanvien.html
  ( chỉ đăng 1 bài “Ai?Tôi!” ) link:         http://goldonline.vn/Tran.thu-gian/Tho/Ai-Toi.aspx
  http://thachda.blogtiengv..._bai_th_phe_phan_sau_s
http://nhatkydinhquan.blo...ai-tho-phe-phan_9.html
http://binhtrung.org/a314...i-tho-phe-phan-sau-sac
http://www.chinhluanvn.co...-bai-tho-phe-phan.html
http://www.vanews.org/201...n-vien-voi-ba-bai.html
  http://www.saimonthidan.c...?c=article&p=10461
  http://www.danchimviet.in...e-phan-sau-sac/2015/04
  http://hung-viet.org/blog...-tho-phe-phan-sau-sac/
http://www.banvannghe.com...ac-pham-ngoc-thai.html
http://lexuanquang.org/post/9505/
http://trankytrung.com/read.php?817
http://vandoanviet.blogsp...-bai-tho-phe-phan.html
  http://chuvuongmien.blogs...phe-phan-sau.html#more
http://vuottuonglua.org/2...-tho-phe-phan-sau-sac/
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.08.2015 23:23:36 bởi Nhân văn >
Nhân văn 09.07.2015 12:43:07 (permalink)
                           
              Phạm Ngọc Thái với bích phẩm thi ca
                                                             TRƯƠNG VŨ TIẾN
 


                TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN  
         Núi Mỹ Nhân nằm giữa biển Nha Trang gần Hòn Chồng. Truyền kể: Nàng Mỹ Nhân nằm ở đó nhiều năm tháng, chung thuỷ chờ chồng. Chồng nàng là một tướng cướp trẻ , dẫn theo một đạo quân cướp bể. Thuyền bè của họ bị bão biển đánh đắm, đi đã không về.
Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều
Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ...
Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.

Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây
Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.

Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời
Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ
Xin lỗi những mảng đời ta đang có
Đôi lúc thèm được bám rêu xanh.

Gió hút Hòn Chồng, bể sóng mênh mông
Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân?

Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non
Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại
Cây-thánh-giá-cuộc-đời anh đặt dưới chân em!

Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
Anh nguyện với nàng cả đời vui thú
Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi!

Cô gái bán hàng trong quán gió chơi vơi
Cứ nhìn khách đôi mắt tròn đen láy
Đã kể tôi nghe chuyện về nàng Mỹ Nhân thuở ấy!
Nghe trong chiều gió cuốn bụi đường bay...
                                Phạm Ngọc Thái


 
      Lời bình:  Đứng trên Hòn Chồng vào buổi sớm mai, khi mặt trời lan toả những ánh nắng vàng rực rỡ. Nhìn ra một dải núi nằm giữa biển Nha Trang người ta thấy nổi lên đôi gò núi, trông giống như đôi gò vú của một nàng thiếu nữ. Nàng đang ngả mình phơi nắng. Triền núi xanh thoai thoải làm nên thân thể nàng. Khe núi xanh chạy dài xuống mặt sóng như mái tóc nàng xoã ra biển. Người Sài Gòn lên chiêm ngưỡng cảnh đẹp, gọi là Núi Mỹ Nhân! Nàng Mỹ Nhân đã nằm ở đó chung thuỷ chờ chồng. Chồng nàng là một tướng cướp trẻ của đạo quân cướp bể. Trong một chuyến đi xa, thuyền bè của họ đã bị bão biển đánh đắm. Xác dạt vào bờ hoá thành bãi sỏi đá, hiện vẫn còn dấu tích tại đó:
      Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều
      Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
      Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ...
      Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay. 

      Cái bóng nàng Mỹ Nhân vẫn nằm ở đó để làm một tượng thần trong trắng, giữa chốn đời thường xô bồ mà tạc vào năm tháng: 
      Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
      Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời 

      Những ngày sau chiến tranh nhà thơ đã lên đây. Anh còn là một người lính trong những năm chiến trận đầy máu lửa. Bài thơ đã được anh nhớ lại để viết vào gần 20 năm sau đó. Đứng trước tượng thần Mỹ Nhân trong trắng kia, anh chính là sự minh chứng của lịch sử. Những thương tích chiến tranh, dù bao bom đạn đã bắn vào thân thể anh cũng chỉ là nỗi đau thể xác, nhưng nỗi đau nơi nhân tình thế thái này đã bắn vào cả trái tim, tâm hồn anh còn đau đớn nặng nề hơn. Đó mới chính là vết đạn ngàn thu bao giờ lành lại được? Cho nên dừng chân nghỉ lại trước bờ biển đầy sóng gió mênh mang, ngước nhìn nàng Mỹ Nhân anh mới thốt lên rằng: 
      Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
      Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
      Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân? 

      Anh muốn ngả vào lòng nàng, trong vòng tay êm ái của tình yêu nàng. Phải! Chỉ có nàng, chỉ có tình yêu của người đàn bà mới xoa bớt được vết thương sâu nhói tận trái tim anh: 
      Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời
      Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ.

      Nhưng trong cuộc đời thực này, tình yêu của nàng Mỹ Nhân âu lại cũng chỉ là mộng ảo? Dẫu vậy, anh vẫn muốn ngủ trong tình yêu ấy để quên đi chốn nhân tình thế thái, quên hết đi cái cõi đời mệt mỏi, hỗn loạn và đầy rẫy những lo âu: 
      Xin lỗi những mảng đời ta đang có
      Đôi lúc thèm được bám rêu xanh... 

     Tôi xin đi sâu phân tích vào đoạn thơ thứ năm của bài:
      Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non
      Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
      Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại... 

      Hình ảnh của đỉnh núi Mỹ Nhân nằm giữa biển khơi xanh, chờ người chồng đi xa mãi mà không trở về? Tình của nàng chỉ có vầng nguyệt tháng năm soi tỏ. Dù sông cạn đá mòn nàng vẫn thuỷ chung. Ôi, sự hoang dại tạo hoá chẳng phải là đỉnh cao hùng vĩ muôn đời, trong thế giới hỗn mang mà chúng ta đang sống hay sao? Đó cũng là chính kiến của nhà thơ trứơc thần tượng vĩnh hằng! Sự thần tượng tình yêu với người đàn bà đã được tác giả dồn nén vào trong câu thơ cuối đoạn: 
      Cây-thánh-giá-cuộc-đời anh đặt dưới chân em! 
      Người Nhật thì đặt thanh gươm trên đầu người đàn bà. Người Pháp lại đặt thanh gươm dưới chân người đàn bà. Cho nên, nhà thơ mới phát biểu quan niệm, chính kiến của mình về sự tồn tại trong thế giới này: Cây-thánh-giá-cuộc-đời anh đặt dưới chân em!/- Đến đây tình thơ đã được đẩy cao lên ý nghĩa thời đại, hình ảnh thơ bốc lửa và cháy sáng. Cùng với đoạn thơ thứ sáu, làm thành hai đoạn thơ trung tâm cốt lõi nhất của bài. Tôi phân tích tiếp về đoạn thơ thứ sáu ấy: 
      Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
      Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi! 

      Đàn bà, đúng là cuộc sống không thể thiếu được họ. Thiếu họ, cuộc đời ta sẽ trở nên hoang tàn, vô nghĩa. Nhưng chính đàn bà cũng đem đến cho ta bao mệt mỏi. Có nhiều khi ta chỉ muốn vào quách trong chùa để đi tu, để sống yên. Có họ và không có họ đều dở cả. Họ là thiên đường trong cuộc đời ta, nhưng cũng là âm phủ. Họ vừa là tiên nữ, lại vừa là quỉ dạ xoa. Chả trách, thi sĩ Tản Đà đã từng một thời tìm đường lên núi định tu tiên, định dứt bỏ chốn hồng trần, nhưng rồi ông vẫn lại phải quay về với cõi đời thường để sống tiếp cuộc đời với bao nỗi đoạ đầy. Vì lẽ đó, đứng trước đỉnh núi Mỹ Nhân thanh cao, nhà thơ mới thốt lên: 
      Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
      Anh nguyện với nàng cả đời vui thú 

      Tình chan chứa, hình ảnh sinh động làm cho bài thơ sâu sắc nghĩa đời, gắn liền vào cuộc sống. Trước Núi Mỹ Nhân thật sự là một bích phẩm, tình thơ cũng rất viên mãn.

Trương Vũ Tiến
* Trích trong Tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại" tr. 298-302
 
          Dã đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới:
http://www.nhuygialai.com...-bich-pham-thi-ca.html
  https://nghiathuc.wordpre...thi-ca-truong-vu-tien/
http://datdung.com/module...id=14688#axzz3e8xgRCsk
http://vannghequangtri.bl...ng-vu-tien-oc-tho.html
http://tapchisongba.com/t...am-ngoc-thai-1178.html
http://www.vandanviet.com...-bich-pham-thi-ca.html
http://vannghesontay.com/...bich-pham-thi-ca-1321/
http://huongnguyenhoang.b...am-ngoc-thai.html#more
  http://tranmygiong.blogti..._m_t_bich_ph_m_thi_ca_
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
  http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4267  
http://hung-viet.org/blog...-mot-bich-pham-thi-ca/
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.07.2015 12:33:33 bởi Nhân văn >
Nhân văn 14.08.2015 12:44:42 (permalink)
                   
 
            PHẠM NGỌC THÁI THÁCH ĐẤU
        CẢ HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
                           Bài viết đây xem như một món quà
          - Phạm Ngọc Thái "Nhà thơ của tự do" gửi biếu Đại hội IX - HNVVN
 


Về chân dung văn học nói chung và... tầm vóc chân dung nhà thơ của nền văn hiến Thăng Long, nói riêng.
     Cuộc thách đấu của Phạm Ngọc Thái lấy ý nghĩa và giá trị đối với cả nền thi ca của nước nhà... trường cửu tới mai sau.
         Nội dung thách đấu gồm hai phần:
1.   Phạm Ngọc Thái thách 50 nhà thơ đương đại của HNVVN 
2. Thách phản biện tập sách "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại",
Nxb Văn hoá Thông tin 2014

          Trước khi nói cụ thể về hai mục thách đấu trên - Xin bàn đến:
MỘT NGUYÊN TẮC CƠ BẨN TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ HAY
     Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thi ca, phải thông qua việc đánh giá số bài thơ hay, khá hay, hoặc sâu sắc có được trong tác phẩm thi ca đó. Nhưng muốn đánh giá được thế nào mới là một bài "thơ hay" thực sự của thi đàn trong nền văn học nước nhà? - Nguyên tắc trước hết phải nhận định bài thơ đó có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, sống lâu dài với nghìn năm văn hiến Thăng Long hay không? Nếu bài thơ hoặc tác phẩm thi ca mà không có khả năng sống trường cửu với đời, chỉ để làm văn nghệ cổ động phong trào nhất thời, hoặc phục vụ mục đích chính trị - Thì đó là loại thơ rồi sẽ ra... "rác".
     Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có khả năng tồn tại hay không? Bởi vì, thơ đã không thể tồn tại, dù có vì ý nghĩa gì?... trước sau cũng vứt đi. Đã là thơ vứt đi, thử hỏi lấy cớ gì để xác định chân dung nhà thơ đó trong nền văn hiến Thăng Long? cho nên một bài thơ, một tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng sống lâu dài với tháng năm, thì không thể coi thi phẩm ấy có một giá trị đích thực được. Tức là không thể đánh giá hay xếp hạng chân dung thi nhân đó, khi thơ của anh ta không có khả năng tồn tại.



                                 MINH HOẠ ĐÔI NÉT VỀ HÀN MẶC TỬ:
      Về thi pháp để tạo nên những bài thơ hay của Hàn Mặc Tử không giống như Xuân Diệu, Huy Cận và các nhà thơ khác trong phong trào "thơ mới" thời tiền chiến? Hầu hết đều theo khuynh hướng thơ lãng mạn thuần túy. Với Hàn Mặc Tử, nếu kể các bài thơ hay của ông như: Mùa xuân chín, Bn lnĐây thôn V D... là bài thơ điển hình, thi nhân đã sử dụng hài hoà thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp. Theo thuyết "tương ứng cảm quan" do Charles Baudelaire (1821-1867), nhà thơ bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu lúc đó chủ xướng. Nghĩa là: những hình ảnh, biểu tượng để tượng trưng đều dựa vào cảm thụ của các giác quan, hay từ trong tâm linh - gọi là cảm quan. Cho nên thỉnh thoảng vẫn xen những ngôn ngữ mơ hồ và... ảo. Như Chế Lan Viên đã viết:
                                    Anh phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia đấy
                                                    Bờ bên kia hư ảo - bờ thơ
                                                                  (trích Di cảo)
     Tuy nhiên, trong thơ ca không phải bài thơ hay nào ngày một, ngày hai cũng đánh giá ngay được. Như bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử , thuộc trong ít bài thơ hay nhất thế kỷ XX, thế mà phải gần năm mươi năm sau kể từ khi nó ra đời, mới được thi đàn ngợi ca để trở thành bài thơ nổi tiếng. Thậm chí cả trong Thi Nhân Việt Nam của nhà nghiên cứu bình luận thi ca danh giá Hoài Thanh, khi trích đăng một số bài thơ tiêu biểu của Hàn Mặc Tử, ông lại chưa phát hiện ra được... nên để sót không đăng bài thơ tình hay nhất đó của thi nhân.
     Theo tôi, Hàn Mặc Tử là nhà thơ lớn nhất thời tiền chiến với ba bài thơ hay nổi tiếng như đã nói trên. Nhưng với tuyển thơ trên trăm bài thi nhân đã để lại cho nền văn học nước nhà, nhất là những tập "Mt đng - Máu cung và hn điên" - Thiên tài Hàn Mặc Tử thăng hoa để sáng tác ra những vần thơ, trang thơ kiệt xuất. Hoài Thanh từng có nhận định trong Thi Nhân Việt Nam, rằng:
    " Hàn Mc T đi trong trăng, há ming cho máu tung ra làm bin c, cho hn văng ra và rú lên nhng tiếng ghê ngưi... Mt tác phm như thế, ta không có th nói hay hay d; nó đã ra ngoài vòng nhân gian; nhân gian không có quyn phê phán. Ta ch biết trong văn thơ c kim không có gì kinh d hơn ".
     Lại nói về giai đoạn phong trào "thơ mới" thời tiền chiến - Đã được văn đàn nhận định như là thời kỳ phục hưng của thi ca Việt. Xuất hiện hàng loạt các nhà thơ lớn: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính... cùng nhiều bậc thi nhân xuất sắc khác như Bích Khê, Yến Lan, Vũ Hoàng Chương, Quách Tấn, Nguyễn Nhược Pháp v.v... Những thi nhân ấy đã để lại cho nền văn hiến Thăng Long cả một kho tàng thi ca viết vào giai đoạn trước cách mạng, muôn màu và đầy hương sắc.
                                LỜI VỀ XUÂN DIỆU:
      Tuyển tập thơ Xuân Diệu cũng tới vài ba trăm bài, gồm hai mảng thơ: Mảng thơ tình trước cách mạng, như tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió, khoảng trên dưới 70 bài. Tất cả còn lại là mảng thơ thi nhân đã sáng tác vào thời kỳ sau cách mạng. Nhưng sở dĩ Xuân Diệu được xác định là một thi nhân lớn, chủ yếu lại chính nhờ vào mấy chục bài thơ tình mà ông đã sáng tác từ trước cách mạng ấy. Chỉ với hai tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió... viết trước cách mạng đó thôi, đã có thể nói rằng: Chúng ta đã có một nhà thơ chiếm một vị trí đặc biệt trong thơ tình của Việt Nam. Như Thế Lữ trước kia đã từng nói về ông rằng: Chúng ta đã có mt Xuân Diu!
     Mấy trăm bài thơ Xuân Diệu viết sau cách mạng, có bài thơ "biển" là đứng được với thời gian. Hầu hết thơ viết sau cách mạng của ông thuộc loại thơ của một thời. Có lẽ vào giây phút chót cuộc đời, Xuân Diệu cũng đã nhận ra điều đó, cho nên trong bài "Giã từ" cuối cùng ông đã viết để lại rằng:
                             Nếu để cho tôi được giã từ
                             Kính chào cõi thực để vào hư
                             Trong hơi thở chót dâng trời đất
                             Xuống đến suối vàng vẫn ngất ngư.
     Hai tập Thơ thơ, Gi hương cho gió ấy, là thơ tồn tại !
                               HUY CẬN:
     Cũng như Xuân Diệu - Huy Cận được xác định vào hàng các nhà thơ lớn của nền văn học, chủ yếu nhờ tập "Lửa thiêng" mà thi nhân đã sáng tác trước cách mạng. Ông nổi tiếng với tràng Giang, một bài thơ tuyệt hay!... và bài Ngậm ngùi được xem là mẫu mực của thể thơ lục bát. Mặc dù sau cách mạng Huy Cận cũng đã viết hàng trăm các bài thơ khác... cũng chỉ là thơ của một thời. Bài thơ đáng nói nhất của Huy Cận viết vào giai đoạn sau cách mạng, là bài "các v La hán chùa Tây Phương". Bài thơ khá dài, 15 đoạn 60 câu. Nó nói về kiếp khổ hạnh thời xưa cũ, thông qua gương mặt các vị La Hán ấy. Hình tượng thơ sinh động, sâu sắc và tương đối khúc triết. Giọng thơ nhuần nhụy, dễ nghe. Có sức thuyết phục bởi ý tưởng thơ thấm đẫm được nỗi đau đời. Cái đoạn kiếp luân hồi chốn trần gian. Bài thơ có khả năng đứng được với thời gian. Chỉ tiếc là... tuy thơ nói về nỗi khổ hạnh nơi trần thế, nhưng đến cuối bài, tác giả có phần nắn theo khuynh hướng chính trị. Nó mang tính khẩu hiệu: cái mới tất cả là "hảo hảo", tốt tốt hết? Chủ nghĩa nhân văn của tình thơ vì thế giảm đi phần nào. Sự sung mãn của bài thơ cũng yếu đi. Như hai đoạn thơ kết này chẳng hạn:
                         Các vị La Hán chùa Tây Phương
                         Hôm nay xã hội đã lên đường
                         Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
                         Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.
                         Cha ông yêu mến thời xưa cũ
                         Trần trụi đau thương bỗng hoá gần
                         Những bước mất đi trong thớ gỗ
                         Về đây tươi lại dặm đường xuân.
      Theo tôi, giá như thi nhân không dùng hai đoạn kết ấy, bài thơ Các Vị La Hán Chùa Tây Phương vẫn đủ sự viên mãn mà lại còn hay hơn.
      Tóm lại, Thơ viết trước cách mạng của Huy Cận với tập Lửa thiêng thuộc loại thơ tồn tại !
      Nếu tôi có dẫn giải thêm về Chế Lan Viên và Nguyễn Bính thì cũng tương tự như vậy.
                        CHẾ LAN VIÊN:
      Nói tới Chế Lan Viên người ta nghĩ ngay đến Điêu tàn, thơ viết trước cách mạng. Là tập thơ đầu tay được sáng tác khi thi nhân mới chỉ ở vào tuổi thiếu niên. Hoài Thanh đã từng nhận xét trong Thi Nhân Việt Nam:
     "Quyn Điêu tàn đã đt ngt xut hin ra gia làng thơ Vit Nam như mt nim kinh d... Nó dng lên mt thế gii... cái thế gii l lùng và rùng rn y, ai có ng trong tâm trí mt cu bé mưi lăm mưi sáu tui. Cu bé y đã khiến bao ngưi ngc nhiên. Gia đng bng văn hc Vit Nam na thế k hai mươi, nó đng sng như mt cái tháp Chàm, chc chn và l loi, bí mt".
     Đồng thời - tầm vóc Chế Lan Viên cao lên còn nhờ vào cả một khối Di cảo thơ đồ sộ tới năm sáu trăm bài viết tự do. không theo một yêu cầu nào về mặt chính trị, cũng không để cổ động cho một phong trào văn hoá, văn nghệ nào. Nghĩa là, những bài trong Di cảo đó thi nhân sáng tác theo nhu cầu cảm xúc tự thân. Không ít bài còn ở dạng dang dở trong bản thảo, được xuất bản sau khi thi nhân đã qua đời.
     Như đã nói, thơ Chế Lan Viên là loại thơ triết lý. Những trang Di cảo thơ đó Người hoàn toàn sáng tác tự do, tự do tung phá...  sâu sắc tính nhân văn. Thậm chí kể cả những bài mang tính phản biện về mặt chính trị cũng rất quí. Nhiều bài đặc sắc. Nhờ có khối Di cảo thơ đồ sộ này, tầm vóc chân dung thi nhân lớn của Chế Lan Viên cao lên nhiều.
     Như thế có thể nói: Trong tuyển thơ Chế Lan Viên có hai mảng viết hoàn toàn tự do - Hai mảng tự do đó đã được thăng hoa, phát tiết... tạo nên một tầm vóc thi nhân lớn, sừng sững - Chính là Điêu tàn và Di cảo thơ! Hai loại tác phẩm thi ca ấy sẽ còn sống mãi với non sông và nền văn học nước nhà. Đó là "thơ tồn tại" !
     Tuy nhiên, riêng về Chế Lan Viên - Vì thơ có tính triết lý cao, nên trong mảng thơ sáng tác sau cách mạng, với những áng thi ca thấm đẫm màu sắc triết học, nhất là những bài về chủ đề Tổ quốc - Nhân dân...  vẫn được đời ngưỡng mộ. 
                     NGUYỄN BÍNH:
     Nói đến Nguyễn Bính người ta nhớ nhiều những bài thơ trong tập: Lc sang ngang (1940), Tâm hn tôi (1940), Hương c nhân (1941), i hai bến nưc (1942)... với các bài như: Mưa xuân, Lc sang ngang, Cô hái mơ, cô lái đò, Viếng hn trinh n, Chân quê, Nhng bóng ngưi trên sân ga, v.v...  Và một số bài thơ lẻ, thi nhân đã viết trước cách mạng - Thí dụ bài Mt tri quan tái:
                          Chiều lại buồn rồi, em vẫn xa
                          Lá rừng thu đổ, nắng sông tà
                          Chênh vênh quán rượu mờ sương khói
                          Váng vất thôn sâu quạnh tiếng gà.
                          ........
                          Chiều nay thương nhớ nhất chiều nay
                          Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
                          Tôi uống cả em và uống cả
                          Một trời quan tái, mấy cho say!
     Hay là Đường rừng chiều:
                          ... Chim nào kêu mỏi ngàn cây
                          Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe
                          Đồi sim dan díu nương chè
                          Trắng phau khói núi, xanh lè áo ai...
     Những bài thơ ấy, những trang thơ ấy đời sẽ còn nhớ mãi. Thơ sau cách mạng Nguyễn Bính viết cũng nhiều, nhưng người ta cũng đã quên nhiều.
                          BÍCH KHÊ:
     Tuy chưa phải là nhà thơ lớn nhưng Bích Khê đã thuộc vào bậc tài danh thời tiền chiến. Cùng với tập "Tinh hoa" - "Tinh huyết" của thi nhân được nhiều người biết đến. Hoài Thanh đã từng khen trong Thi Nhân Việt Nam:
   "Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam:
                          Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
                          Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông ".
     Đặc biệt với bài Tranh lõa thể nổi tiếng, Hàn Mặc Tử ca ngợi hết lời: " Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo. Nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu... ".
     Cũng giống Hàn Mặc Tử, thơ Bích Khê đậm màu sắc của dòng thơ tượng trưng Pháp như Baudelaire, Verlaine. Thi ca của ông huyền ảo đến mức mà chính Hoài Thanh đã nói: " Thơ Bích Khê mới đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc ". Người các thời gọi ông là "Thi sĩ của thần linh ".
     Mỗi khi nhắc về thời tiền chiến, các nhà lý luận phê bình văn học vẫn tìm tòi, nghiên cứu thế giới tâm linh cũng như ngôn ngữ nghệ thuật thơ ông.
                 SƠ QUA VỀ CÁC NHÀ THƠ HNVVN ĐƯƠNG ĐẠI
    Tôi từng nói với nhà viết " Chân dung và đối thoại " Trần đăng Khoa rằng: Các nhà thơ đương đại của HNVVN có chân dung thấp nhất trong lịch sử thơ ca !
     Nếu thời tiền chiến được coi là giai đoạn phục hưng của thơ ca Việt Nam, đã ra đời hàng loạt các nhà thơ lớn và nhiều bậc thi nhân tài danh, như đã nói - Thì, chân dung các nhà thơ đương đại của HNVVN ngày nay, có lẽ thuộc vào loại thấp kém nhất so với các thời kỳ của cả nghìn năm văn hiến Thăng Long? Khoảng nửa thế kỷ trở lại đây không có được một nhà thơ lớn nào, đã đành. Cả một Hội nhà văn Việt Nam đương đại có đến mấy trăm nhà thơ, mà nhìn đi nhìn lại vẫn không thấy một chân dung nào khả dĩ, có thể chọn được một tập thơ lưu lại cho đời? Phần lớn thơ của họ, như người ta thường nói là "thơ mậu dịch quốc doanh". Thơ làm phong trào, hay phục vụ chủ trương chính sách, rồi thì... sẽ ra "rác". Thảng cũng có được nhà thơ có một đôi bài kha khá - chứ thơ hay thực sự của thi đàn như các thi nhân mà tôi đã dẫn giải trên, thì... không có. Hầu như chân dung các nhà thơ có tên tuổi của đương đại, kể cả ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh, chủ yếu do được thổi lên, sơn son thếp vàng.
    Phần này tôi sẽ dẫn giải chi tiết sau - Giờ xin trở lại với hai nội dung thách đấu đã nói trên.
I-  PHẠM NGỌC THÁI THÁCH  50 NHÀ THƠ ĐƯƠNG ĐẠI CỦA HNVVN
     Tùy ý do Hữu Thỉnh Chủ tịch Hôị nhà văn tuyển lựa. Mỗi người chọn lấy một bài thơ hay nhất của mình.
     Thí dụ - Hữu Thỉnh có thể chọn Thơ viết ở biển, Sang thu, hay Năm anh em trên một chiếc xe tăng...
      ( Mở ngoặc nói thêm về các trường ca của Hữu Thỉnh, như "Đường tới thành phố" hay "Trường ca biển"...  viết còn dông dài, dặm lời nghĩa ít. tầm vóc làng nhàng. Viết để phô trong phong trào thơ ca văn nghệ, chính trị. Các loại trường ca này không thể tồn tại được với thời gian. Không lưu được vào nền văn học nước nhà. Cho nên với ý nghĩa của văn hiến Thăng Long, nó không có giá trị ).
- Vũ Quần Phương có thể chọn bài "Đợi" hay nhất của ông ta - Bằng Việt, Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN đương thời, chọn với Bếp lửa hoặc Nghĩ lại về Pautôpxky... là bài thơ tình hay nhất của Bằng Việt - Thanh Nhàn thì chọn Hương thầm v.v...
      Nghĩa là, 50 nhà thơ với 50 bài thơ hay nhất, cao nhất của HNVVN đương đại - Một mình Phạm Ngọc Thái, tôi cũng sẽ chọn đủ 50 bài thơ hay nhất của tôi đã xuất bản.
      Tất cả tổng cộng 100 bài.
a/. BAN GIÁM KHẢO ĐỂ BÌNH LUẬN VÀ ĐÁNH GIÁ:
      Tôi giành cho Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội nhà văn tuỳ chọn ban giám khảo, phán xét đối với cuộc thách đấu này. Thí dụ: Vũ Quần Phương, được Hội nhà văn coi là nhà bình thơ số 1 ở đương thời; hay nhà viết Chân dung và đối thoại Trần đăng Khoa...  muốn chọn ai cũng được -  Một mình Phạm Ngọc Thái chơi tay vo, không cần ai giúp.
     Với những người viết bài phân tích, bình luận, thẩm định thơ hoặc phản biện tác phẩm - phải ghi rõ "chính danh". Chủ tịch Hữu Thỉnh cũng phải chịu trách nhiệm về cái danh đó. Không được bịa ra một cái tên tào lao, rồi phân tích lý luận vớ vẩn, xiên xẹo, thậm chí là nhận thức thi ca còn dốt nát mà vẫn bình láo... cũng chẳng ai biết là "ai"?
b/. ĐĂNG THƠ:
     100 bài thơ đó ( Phạm Ngọc Thái 50 bài - 50 nhà thơ của Hội nhà văn 50 bài ), có thể đăng trên Tuần báo Văn nghệ hiện do nhà văn Khuất Quang Thụy làm tổng biên tập. Tạp chí thơ, Tạp chí Văn, hay trên  vanvn.net của Hội. Còn bài viết của các tác giả đánh giá hay phản biện... có thể đăng trên mọi phương tiện truyền thông. Từ báo chí đến các trang mạng Việt trong nước và hải ngoại khắp toàn cầu.
c/.   ĐẶT GIẢI THÁCH ĐẤU:
-   Nếu 50 bài thơ của 50 nhà thơ HNVVN thắng được 50 bài thơ của Phạm Ngọc Thái - Nghĩa là tầm vóc, chân dung thơ của Hội nhà văn cao hơn thơ tôi:
      . Phạm Ngọc Thái sẽ mất cho HNVVN hai mươi triệu đồng ( 20.000.000đ )
-   Nhưng nếu thơ của 50 nhà thơ Hội nhà văn lại thấp kém hơn thơ Phạm Ngọc Thái, thì:
     . Hữu Thỉnh với cương vị Chủ tịch Hội sẽ phải chi cho tôi năm mươi triệu đồng ( 50.000.000đ ) - Vì một mình Phạm Ngọc Thái chấp cả 50 nhà thơ của Hội nhà văn cơ mà.
 * Tôi xin lưu ý những người trong ban giám khảo là phải bình cụ thể vào bài thơ hay, chỉ ra số bài thơ hay, thơ sâu sắc... có trong tập, trong các tác phẩm của tác giả. Không được lý thuyết suông, triết lý kiểu sách vở tràn lan, vô tội vạ... mà đánh giá chẳng ra cái trò gì ???  Giá trị của một bài thơ thực sự hay lưu lại được cho nền văn hiến Thăng Long là vô giá trong cuộc đời của một nhà thơ. Huống hồ cả một tập thơ hay và... một đời thơ lớn. Không biết thì dựa cột mà nghe, còn muốn bình thì phải bình cho xác đáng -  Bài nào hay? Hay như thế nầo? Vì sao bài thơ đó có khả năng tồn tại trường cửu?... Vị nào không biết bình mà vẫn cố tình - khi đó tôi có quyền phản biện, chỉ ra sự sai sót, yếu kém. Bài viết chẳng những không có giá trị, hoặc cố tình bình bậy - Không phải chỉ người viết, cả ông Chủ tịch Hữu Thỉnh  cũng phải chịu trách nhiệm.
      Tôi từng viết bài luận bàn về chân dung nhà thơ Hữu Thỉnh, nhiều lần đem thơ dở, bình thường, để lấy đủ các thứ giải thưởng quốc gia, quốc tế. Nay xin tóm lược lại cho ngắn gọn, làm dẫn chứng về việc bình phẩm thơ ca như đã nói trên - Tít đề như sau:
                      "THƯƠNG LƯỢNG VỚI THỜI GIAN"
             MỘT TẬP THƠ DỞ. NHIỀU BÀI  VIẾT HỎNG.
Ông Chủ tịch Hội nhà văn đem ra để lấy giải thưởng lớn
      Hữu Thỉnh làm nhiều bài thơ còn ẩu. Tư duy bừa rồi tìm những từ hay, hình ảnh hoa hoét... ghép lại. Có bài mới đọc lên cứ tưởng?... Cũng thấy là lạ, nhưng gấp sách lại nghĩ, nghĩa thơ chỉ màng màng như một lớp sương khói, hoặc một ý tưởng không rõ ràng. Tôi có thể nêu các kiểu làm thơ tạp-pí-lù ra đây, đến vài chục bài trong tập thơ trên năm mươi bài của ông.
    Thí dụ bài "Bóng mát":
Tôi như cây biết giấu lá vào đâu
Giữa gió bụi cõi người
Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát
Bóng mát mà không che nổi chính tôi.
    Mới đọc thì có vẻ nỗi đời, nỗi người, nỗi trần ai đây? nhưng ngẫm kỹ thì bài thơ rất lung bung. "gió bụi cõi người" nghe cũng đoạn trường đấy chứ? nhưng gắn với hình ảnh "lá" ở câu trên - "lá" kia biểu tượng cho cái gì của anh ta? Cũng chẳng rõ. Nếu nó đã làm thành bóng mát thì tại sao lại phải dấu? Ta lại xem câu kết:
      Bóng mát mà không che nổi chính tôi
     Tại sao có bóng mát rồi mà lại không che nổi chính anh ta? - Thế là, tất cả vẫn mới chỉ là một mớ ý nghĩ còn mơ hồ, lộn xộn, thậm chí hình ảnh đá nhau, chưa định hình để lập được thành tứ và nghĩa. Hữu Thỉnh vơ hết vào làm thành một bài cho xuất bản. Chẳng cần biết để nó diễn đạt cái gì? Bài thơ trở thành...vô nghĩa.
     Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ rất ẩu chính là vậy
    Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài bất cần tính lô-gich trong tư duy triết lý, dù chỉ là một bài thơ ngắn vài câu. Thí dụ một bài thơ khác:
Đôi luống thời gian/   Ai ải mùi đời/ 
Hì hục câu thơ/  Gieo chỗ không người/
Tấm chăn ngôn từ/  Dầy sao không ấm/  
Thi nhân dậy chưa/  Gà đang chuyển sớm.
 ( Mồ hôi đón ngõ )
Đọc lên cũng đã thấy cái thời gian ai ải mùi đời kia... chắc là thời gian như cuộc đời thum thủm toàn phân tro chăng? Mấy từ "ai ải mùi..." mà tác giả sử dụng cốt chỉ để thơ cho có vẻ hình tượng "kêu" đấy thôi. Nhưng đó là cách sử dụng bất kể ý nghĩa. Sau đó tự nhiên chuyển sang ý thi nhân làm thơ gieo vào chỗ không người... rồi đến gà qué báo sáng, thế là hết thơ! Cũng chẳng biết "cái thời gian ai ải mùi đời" kia với người thi nhân làm thơ nó có quan hệ với nhau thế nào? Nó được đưa vào trong bài thơ để nói lên ý nghĩa gì? cũng đã được thêm một bài. Hữu Thỉnh làm thơ rất nhiều bài đại loại nham nhúa như thế!
      Cũng có khi chỉ do một ý tưởng nào đó chợt vụt đến, thoáng qua mà tác giả vội ghi lại. Đáng lý nó mới chỉ là tư liệu trong một bản nháp. Nhưng Hữu Thỉnh đã sử dụng ngón nghề của một tay thơ chuyên nghiệp, thêm dăm ba chữ mắm muối vào đó hoặc tìm đại vài hình ảnh cho có vẻ kêu kêu. Bất cần hình ảnh đó ý nghĩa có hợp với bài thơ không, xào xáo nó lên... lại được thêm một bài thơ nữa. Gộp nó lại thành tập lấy giải thưởng văn chương.
Ví dụ bài "Những người đi lại phía tôi":
Những người đi lại phía tôi
Bao nhiêu bóng mát một lời lá bay
Mặc ai xô dạt mỗi ngày
Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm.
Hình ảnh thì cũng có vẻ hoa mỹ, nỗi mình, nỗi đời. Nhưng bài thơ nói gì nhỉ? Nếu kết lại thì hình như là... vô nghĩa. Nó "vô nghĩa" bởi vì nó tư duy theo kiểu vơ váo và lắp ghép nhằng. Tôi xin phân tích hình ảnh "bao nhiêu bóng mát" kia là gì? Có phải bao nhiêu người đang đi lại phía nhà thơ đã đem cho ông ta bóng mát chăng? Nếu thế thì cũng có tính nhân văn đấy chứ? nhưng liền ngay sau đó lại là hình ảnh:
Chả lẽ để đáp lại "những bóng mát" mà người đời đã đem lại cho ông, tức là những danh lợi mà ông đã được hưởng, ông chỉ đáp lại cho họ, cho cộng đồng "một lời lá bay" ư? Nghĩa là, tao cũng chả cần phải trả cho chúng mày nhiều. Một đôi lời ve vuốt suông hay chút bổng lộc gì đó cỏn con thôi, sau đó ông thoảng qua như... lá bay! Và ông cứ ung dung hưởng "những bóng mát" mà người đời mang lại cho ông. Bởi vì ngay câu thơ thứ ba viết:
Mặc ai xô dạt mỗi ngày...
Thể theo sự liên kết trong tư duy bài thơ: Ông cứ mặc cho cuộc sống những kẻ đã mang lại bóng mát cho ông bị xô dạt, chìm nổi. Ông mặc xác tất cả. Rồi bài thơ kết:
Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm
Hình ảnh "múc đau lòng giếng" có vẻ ghê, nhưng để nói cái gì? Ta giả sử nếu cái giếng kia biểu thị cho đời. Ông cứ việc múc đau lòng đời. Tức là ông cứ việc vơ vét, hưởng thụ những lợi lộc của đời mang lại... cho đến cuối đời ông. Bởi vì hình ảnh "sao hôm" sẽ biểu thị cái nửa đời chiều của ông mà: "vẫn đầy sao hôm" là vậy.
     Còn nếu ta giả sử, hình ảnh "cái giếng" kia để chỉ bản thân nhà thơ! Ông múc đau ông. Nghĩa là ông sẵn sàng hy sinh bản thân cho hạnh phúc của mọi người - Thì sao câu thơ trên ông lại viết: "Mặc ai xô dạt mỗi ngày"??? Thế là bài thơ trở thành khập khiễng, ý thơ phi lý. Hình ảnh như những cánh hoa giấy đẹp nhưng lung tung. Bài thơ này cũng chỉ là một bài... thơ rác.
      Có lẽ không phải là Hữu Thỉnh không biết cái hạn chế trong sáng tác thơ của mình?... và cũng không phải là không biết sự thấp kém của tập thơ "Thương lượng với thời gian"? Cho nên cũng đã có lúc ông tự thú.Ta hãy đọc bài "Người làm mùa" thì rõ:
Những gié vàng lại tụ hội vàng tươi
Mùa hoàn hảo? Thiên nhiên bầy kiệt tác
Sao với ta vẫn chỉ vài nét phác
Tẩy xoá hoài người vẽ mãi chưa xong?
       Ý muốn liên hệ với "mùa thi ca" của ông ta đây! Đã biết thơ mình mới chỉ là những nét phác, nhạt nhẽo, nông cạn. Còn với mình thì "tẩy xoá" mãi vẫn không viết nổi một bài thơ hay - Thế mà vì lòng tham, ông Chủ tịch đã 05 lần lấy giải thưởng quốc gia. Lần này vẫn mang ra lấy tiếp cái giải thưởng Hồ Chí Minh kèm với mấy trăm triệu đồng cơ đấy!
Tôi lại ví dụ thêm bài nữa. Bài "Vô thanh":
Tôi ngồi nhặt sỏi đếm buồn
Gió đi tìm khói chon von mấy đồi
Mây kia ham sự nhất thời
Bao nhiêu oan nghiệt mắt người ngước lên.
      Thực ra bài thơ mới chỉ là mấy sự lắp ghép ý chợt đến ở dạng bản thảo. Tư duy nửa chừng chưa ra đâu vào đâu, nên chưa nói được cái gì? Đây cũng đích thị là một bài thơ để...loè đời! Cái ngón nghề mà Hữu Thỉnh tìm ra trong quá trình sáng tác thơ của mình chính là thủ thuật rất xảo ấy. Đã thành sở trường trong quá trình làm thơ của ông. Trong bài viết Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ hay lấy "râu ông nọ cắm cằm bà kia" là vậy.    
    Đấy là tôi mới ví dụ một số bài thơ ngắn cho dễ đọc. Để bạn đọc khỏi nhàm chán, chỉ xin ví dụ thêm một bài thơ dài hơn, nhưng cũng viết ẩu làm nhàm như thế. Đó là bài "Lời mẹ" - Nói về mẹ thường là những bài thơ rất máu thịt, da diết. Nhưng Lời mẹ của Hữu Thỉnh, phải nói thơ viết hồ đồ đến mức độ... hơi nhăng nhít. Bài thơ chia làm ba khúc. Mỗi khúc 8 câu. Tổng cộng toàn bài 24 câu.
Khúc I-  Khúc đầu tiên này thì nó còn kể lể có chuyện một tý. Tuy cũng chỉ viết nôm na tung hứng bừa đi thôi, chẳng có gì gọi là chắt lọc hay nghệ thuật tinh tuý. Nhưng thôi, ta chấp nhận như thế, tạm gọi là cũng được:
Mẹ đã sinh ra tôi/  Đặt tên cho tôi nữa/
Một cái tên nõn nà/  Hồn nhiên như sói nhỏ/
Cái cối và cái chày/  Con mèo và con cún/
Yêu mấy vẫn chưa vừa/  Thoắt trở thành người lớn.
Mấy câu sau là tác giả đã nhặt nhạnh bừa đi rồi đấy, ghép lại thành một khúc. Chưa thể gọi là ăn nhập với nghĩa trong cả bài. Ta cứ đọc tiếp sẽ thấy. Đến khúc thứ hai, thứ ba mới thật là thứ thơ... hô khẩu hiệu. Mà đây là khẩu hiệu rất sáo rỗng, nhạt nhẽo. Nhưng tác giả không phải chỉ hô khẩu hiệu một lần đâu? Hai khúc thơ, mỗi khúc 8 câu, chỉ có hai câu đầu là khác, còn sáu câu sau lặp lại y hệt nhau. Ý tứ vơ váo. Chợt nghĩ được cái gì là đưa luôn vào. Cứ như là viết đại cho xong. Đọc chối không chịu nổi. Để bạn đọc thấy rõ xin chép lại cả hai khúc sau ra đây:
Khúc II -  Tôi bước ra ngoài ngõ/  Gió thổi. Nước triều lên.../
Đi hoài không gặp tiên/  Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/  Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/  Xong rồi, chơi với cây!
Khúc III-   Tôi lại bước dưới trời/   Không tiếc mòn tuổi trẻ/...
(6 câu sau giống hệt ở khúc hai)
Đi hoài không gặp tiên/  Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/  Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/  Xong rồi, chơi với cây!
     
Xin phân tích một chút ở câu thơ cuối khúc - Sao lại kết "Xong rồi chơi với cây"? Nếu là những người chán sự thế, chán chốn quan trường đi ở ẩn như Nguyễn Khuyến chẳng hạn? hay như thi sĩ Tản Đà chán chốn hồng trần tìm đường lên núi "tu tiên" đã đành?... Đằng này Hữu Thỉnh còm ham danh lợi thế cơ mà? Đọc thơ ta có thể hiểu:
Mẹ từng dặn anh ta rằng: con người nó hay lừa lọc, gian xảo lắm. Tốt thì ít mà xấu thì nhiều. Đừng nên "chơi" với con người mà chỉ nên chơi... với cây thôi!
     Nhưng mẹ lại cũng dặn anh ta:
-   Phải làm một con người cao thượng. Con người tuy xấu thế đấy, nhưng lúc họ gặp nạn... thì phải đến cứu vớt họ (như ở câu thơ trên đó đã viết "Đến với ai gặp nạn") - Xong rồi lại về..."chơi với cây"!
      Đây là một bài thơ viết cẩu thả. Cái đoạn lặp đi lặp lại dài đến 6 câu, nào có hay gì? có nghệ thuật thi ca gì cho cam? chỉ là cách nói đạo lý sáo rỗng.
      Câu thơ: Đi hoài không gặp tiên/ - Hình ảnh ấy chắc Hữu Thỉnh chợt nhớ về chuyện cổ tích: Có cô bé hoặc cậu bé nghèo khổ đã mơ thấy ông tiên hay bà tiên hiện về. Thế là bê luôn vào thơ. Mà lại là bài thơ nói về nỗi đời, đoạn trường người lớn hẳn hoi. Một bài viết về mẹ thuộc dạng nhàm chán nhất, nhì... đối với một nhà thơ chuyên nghiệp mà tôi từng được đọc.
     Thế đấy! Thơ ông Chủ tịch đã lãnh đạo Hội nhà văn đến ba khoá của chúng ta hôm nay là thế đấy?
      Nói dài, bình thêm làm gì nữa cho bạn đọc càng nhàm chán. Quá đủ để nhìn nhận về  tập thơ "Thương lượng với thời gian" còn rất thấp.
-    Không phải là không có lý - Trong lần ông được giải quốc gia đầu tiên với tập trường ca "Đường vào thành phố", đã bị nhà thơ Xuân Diệu phê phán ngay trên báo Văn nghệ là dở vô cùng. Là không biết làm thơ. Là tào lao chi khươn... (trích bài TMH).
-    Cũng không phải là không có lý - Trong lần thứ hai ông ăn giải Hội nhà văn với tập thơ "Thư mùa đông", đã bị nhà văn Tô Hoài viết bài chê bai rằng: Thơ Hữu Thỉnh chỉ là một gánh chè chai đồng nát.
                 MẤY BÀI THƠ CHƯA HAY CỦA ÔNG CHỦ TỊCH
            ĐƯỢC HỘI NHÀ VĂN THỔI PHỒNG THÀNH THƠ HAY
    Có người sẽ bảo: Cứ cho rằng cả đời thơ Hữu Thỉnh quá nhiều là những thơ tạp, câu cú lắp ghép nhiều khi còn bừa. Nhưng ông ta cũng có mấy bài thơ được gọi là hay đấy chứ? như các bài "Thơ viết ở biển" hoặc "Sang thu" chẳng hạn.
     Xin thưa: Hữu Thỉnh không có một bài thơ nào thực sự là thơ hay của thi đàn.
     Rất nhiều các bài thơ Hữu Thỉnh đều không hoàn tứ, hoàn nghĩa. Không đứng được với thời gian. Song cũng có đôi bài thơ được đánh giá là khá. Đó chính là hai bài thơ vừa nói trên. Nhưng kể cả hai bài thơ đó, vẫn không có bài thơ nào đủ sự viên mãn, hoàn bích để đậu thành thơ hay - Chưa muốn nói rằng: thực ra bài "Thơ viết ở biển" mà nhiều người khen là bài thơ hay nhất của Hữu Thỉnh, lại chính là bài thơ viết... hỏng. Nếu đem phân tích nó sẽ lộ ra những yếu điểm rất non yếu của một quá trình tư duy sáng tác.
              1/. "THƠ VIẾT Ở BIỂN" - 
     Bài thơ chứa rất nhiều khuyết tật? Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
                      Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
                      Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
     Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn"? Hình ảnh thơ dùng không đúng nghĩa nên tính lô-gích của ý thơ bị kém đi.
     Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh? Nghe chừng hình tượng ví von này còn gượng gạo. Tại sao em lại là "chiều"? "chiều" - không có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ. Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa chính xác, cũng không ổn. Mặc dù hai câu đó đọc lên người ta vẫn hiểu... nhưng về phương diện sáng tác thi ca, nhất là đối với một nhà thơ chuyên nghiệp, sử dụng hình tượng như thế là... dùng bừa.
    Mấy hình ảnh thơ đầu thì hay:
                    Anh xa em / Trăng cũng lẻ / Mặt trời cũng lẻ
      Nhưng đến hai câu sau:
                  Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
                  Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
     Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này khá. Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt.  Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái. Trong văn học người ta thường ví: "em là biển cả mênh mông", "tình em biển cả", hay "trên biển cả tình em... anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi" v. v... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong bài thơ Hữu Thỉnh? Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" -  thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em!
     Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví: "anh như biển cả - còn em như... cánh buồm ??? Sự ví von lộn ngược thơ như thế hơi buồn cười, khập khiễng.
     Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết:
                 Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
                 Vì sóng đã làm anh /  Nghiêng ngả /  Vì em...
     Cảm xúc viết thơ đến đây của Hữu Thỉnh bị bí, thơ hơi quẩn. Vì là một bài thơ viết ở biển, nên tác giả mới lấy hình tượng "sóng" để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng hình ảnh:
                 Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
      Như phân tích ở đoạn trên - "biển", tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai, mà sóng cũng chính là biển - tức là "anh" rồi! Thành ra nghĩa ở câu này sẽ là:
                     Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em???...
     Hữu Thỉnh hay mắc một thứ bệnh tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tùy tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em" - Nỗi thơ chưa được đẩy tới tột cùng, cho nên không viên mãn. Bài thơ kết bị đuối.
     Tóm lại: về phương diện tư duy nghệ thuật thi ca - "Thơ viết ở biển" của Hữu Thỉnh là bài thơ viết... hỏng.
            2/.  ĐÔI NÉT VỀ "SANG THU" -
      "Sang thu" cũng là một trong đôi bài thơ được đánh giá là xuất sắc nhất của Hữu Thỉnh. Tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
                   Vẫn còn bao nhiêu nắng
     Nhưng:
                  Sương chùng chình qua ngõ
                  Hình như thu đã về.
     Tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở dạng một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự tả đó khéo và có hương sắc. Nào là:
                  Bỗng nhận ra hương ổi
                  Phả vào trong gió se
     Rồi:
                  Sông được lúc dềnh dàng
                  Chim bắt đầu vội vã
                  Có đám mây mùa hạ
                  Vắt nửa mình sang thu
     Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
                   Sấm cũng bớt bất ngờ
                   Trên hàng cây đứng tuổi
      Tức là tác giả mới cam cảm về một khung cảnh thiên nhiên, rồi lấy những sự vật xung quanh mà vẽ nó ra. Tuy sự tả có gợi... nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, chưa có tư duy trong. Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử... học sinh phải tán cho hay lên - Rất có hại cho việc nhận thức thơ ca bị lệch lạc của học trò.
    Trong nền văn hiến của nghìn năm Thăng Long, xưa nay chưa từng có bài thơ nào chỉ tả cảnh suông, nỗi đời và tình người chứa trong cảnh không có hoặc nhạt nhẽo... mà lại được gọi là thơ hay? Xin ví dụ vài bài thơ tả cảnh đặc sắc của các thi nhân xưa:
* "MÙA XUÂN CHÍN" CỦA HÀN MẶC TỬ - Cũng chỉ là tả cảnh mùa xuân, nhưng nỗi lòng cô quạnh về tình duyên... vì bệnh tật mà thi nhân không được hưởng. Đứng trước cảnh đời chứa chan hạnh phúc của bao thôn nữ... quấn quít với nỗi nhớ làng quê da diết trong hồi ức của Người:
                        Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
                        Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
                        - Chị ấy năm nay còn gánh thóc
                       Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
      Nỗi tình trong cảnh thơ chứa chất... đã đẩy nghĩa thơ đi đến sự viên mãn tột cùng, mới tạo thành một áng thi ca hoàn bích để lại cho thế gian.
*  "THU ĐIẾU" CỦA NGUYỄn KHUYẾN -   Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình hiu hắt với lòng người ẩn sĩ cô liêu, khi ông chán nơi quan trường trở về nương náu chốn thôn hương. Ta thấy hình ảnh thơ ôm bọc đời sống bên trong rung động. Nhất là trong hai câu kết:
                        Tựa gối buông cần lâu chẳng được
                        Cá đâu đớp động dưới chân bèo...
      Một tâm trạng khắc khoải, chênh vênh  trong đêm thu. Thơ như có thần. Sâu sắc vậy nên Thu điếu mới trở thành bài thơ hay.
*   "QUA ĐÈO NGANG" CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN - Tức là một bài thơ tả cảnh Đèo Ngang, nhưng chứa đầy nỗi lòng của người nữ sỹ:
                             Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                             Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
    Cũng là mượn cảnh vật để mô tả... nhưng đã trở thành biểu tượng về nỗi nước, tình nhà của Bà Huyện Thanh Quan. Cuối cùng tác giả lại trở về với cõi lòng da diết giữa chốn đèo Ngang hoang vu, hạ một câu kết tuyệt bút:
                            Một mảnh tình riêng ta với ta
    Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu, hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích. Cho nên nó mới sống mãi với nền văn học nước nhà.
    Trở lại với bài thơ Hữu Thỉnh: Đọc Sang thu muốn cảm nhận ra một nỗi đời, hoặc một ý tình trắc ẩn nào đó... dù của nhà thơ hay nhân tình thế thái, là không có? Bài thơ không đủ sự viên mãn cần thiết để được coi là một bài thơ hay?
           3/. "NĂM ANH EM TRÊN MỘT CHIẾC XE TĂNG" -  Một bài thơ viết theo kiểu hùng tráng của một thời. Giọng điệu từa tựa như đồng ca, hò vè. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường. Qua thời gian thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.
     Tôi không muốn nhắc lại bài thơ "Hỏi" ở đây - Những năm qua Hữu Thỉnh bị văn đàn đàm tiếu rất nhiều, tố cáo đã đạo bài thơ Hỏi đó từ bản dịch bài "Thượng đế tạo ra mặt trời" của nữ văn sĩ người Đức Christa Reinig ?
       Kết luận: Mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng quốc gia hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ. May ra có vài ba tình thơ đứng lại được trong những năm tháng nào đó, nhưng cũng nhạt nhòa. Nếu đã không có nổi một tập thơ tồn tại đối với nền văn học, thì khi ấy không biết nên xếp chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào?
       II-   THÁCH PHẢN BIỆN LẠI TẬP SÁCH
" PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG NHÀ THƠ LỚN THỜI ĐẠI "
     Trong tập " Phm Ngc Thái chân dung nhà thơ ln thi đi " dày 372 trang sách, gồm hai phần:
a/.  PHẦN 1: Thơ - Với tên đề "Bu tri thơ tình hay và l". Cả thảy có 120 bài thuộc những bài thơ tình hay, khá hay hoặc đặc sắc nhất, được chọn ra từ trong các tập thơ đã xuất bản của đời tác giả.
b/.  PHẦN 2: Bình luận "Thế gii thi ca Phm Ngc Thái" với những bài viết của nhiều tác giả là các văn nghệ sĩ, nhà giáo, hay những độc giả hâm mộ. Phần này hơn 200 trang, gồm 35 bài... vừa là các bài bình thơ hay, khá hay, hoặc sâu sắc điển hình - Cùng với tiểu luận chân dung. Như bài "Phm Ngc Thái mt nhà thơ tình ln ca dân tc", do nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc viết. Bài Phm Ngc Thái ngưi hai ln thi sĩ; Phm Ngc Thái vi chùm thơ hay v tình yêu và đàn bà; nhng tình thơ áo trng; My nét tình s v bài thơ Ngưi đàn bà trng; Phm Ngc Thái và mt k tác thi ca v.v...
     Quí vị có thể tham khảo bài tổng hợp và đánh giá thơ hay của anh Trần Tứ Đức - nguyên Cán bộ Viện ngôn ngữ và văn hoá dân gian, nhan đề:
       "Phm Ngc Thái vi 3 tuyt tác - 20 tình thơ hay hoc khá hay "
      Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới. Mở đọc qua đôi link sau:
Trong nước:
 http://www.nhuygialai.com/2014/03/pham-ngoc-thai-voi-3-tuyet-tac-20-tinh.html 
Hải ngoại:
 http://www.chinhluanvn.com/2014/03/pham-ngoc-thai-voi-3-tuyet-tac-20-tinh.html
     Trong lời giới thiệu tập sách "Phm Ngc Thái chân dung nhà thơ ln thi đi" ấy, cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - Giảng viên trường Đại học Sư phạm đã viết:
   " Theo đánh giá vi mt bình din rt rng trên văn đàn mng: Phm Ngc Thái là mt trong nhng nhà thơ ln ca nn văn hc nưc nhà.... Phm Ngc Thái không ch sáng tác đưc nhiu thơ tình hay. Thơ v ni đi nhân gian, kiếp ngưi ca ông, không ít bài cũng đt s viên mãn đ to thành nhng thi phm súc tích. Có bài đến hoàn bích như " Làm ma em v "; mang tính hin thc đin hình như "Ni trăn tr ngưi đi tìm vàng"; hoc nhng bài thơ đi sâu sc khác không kém phn hay:
          Cô quét lá đêm h, Em bán xoài, Khóc Hàn Mc T, Em bé cu bơ, Chiu hoàng hôn, C hoang...
     Đúng như s đánh giá trên văn đàn: Thi ca Phm Ngc Thái dù là thơ tình hay thơ đi, nhng bài đt đ viên mãn v ý tưng nhân văn cũng như ngôn ng ngh thut là rt nhiu. Mc đ hay ca mi bài khác nhau, song nhng tình thi đó đu có th làm rung cm trái tim ta. Chưa tng có thi nhân nào sáng tác đưc nhiu thơ tình hay đến thế ! Ri mai sau ông s có c trăm bài thơ tình đng trưng cu vi đi và nn văn hiến Thăng Long ".
     TRỞ LẠI VỚI PHẦN THÁCH ĐẤU:
     Người nào phản biện trên cơ sở những bài bình thơ, hoặc hoàn bích đến độ tuyệt tác, hoặc thơ hay, khá hay, thơ sâu sắc - cùng các tiểu luận về chân dung tác giả... đã đăng trong tác phẩm - Nghĩa là phủ định tập sách và... phủ định tầm vóc nhà thơ lớn.
    Nhân đây cũng xin khẳng định: Theo nhận định của tôi - Hội nhà văn Việt nam đương đại, kể từ Hữu Thỉnh đến các nhà thơ khác... hiện không có nhà thơ lớn !
-   Nếu bài viết phản biện của vị nào đó của Hội nhà văn đánh giá xác đáng - Phạm Ngọc Thái chấp nhận mất cho người đó và Hội nhà văn hai mươi triệu đồng ( 20.000.000đ ).
-   Nhưng nếu bài viết sai... do kiến thức thẩm định thi ca còn non kém, hoặc không biết nhìn thơ mà cứ cố tình bình bừa, bình láo - Tôi sẽ phản biện lại: sai ở đâu? Thấp kém thế nào? nghĩa là sẽ vạch rõ cho vị đó thấy sự ngu muội về thơ, không đủ khả năng thẩm định tác phẩm thi ca - Khi ấy, không phải chỉ vị đó... mà chính Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội nhà văn cũng phải chịu trách nhiệm chi trả cho Phạm Ngọc Thái hai mươi triệu đồng ( 20.000.000đ ).
     Đã gọi là cuộc thách đấu thì tất cả hai bên ai tham gia, giữa Phạm Ngọc Thái và Hội nhà văn đều phải có luật ! Ai thấy đủ gan thì trao đổi, bàn luận với Hữu Thỉnh để vào... "cuộc chơi"?
       Phạm Ngọc Thái thách đấu cả Hội nhà văn Việt Nam đương đại.
Viết ti đt nghìn năm văn hiến Thăng Long
Tháng 7-2015
PHẠM NGỌC THÁI
        Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & hải ngoại:
http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=11033
http://to-quoc01.blogspot...au-ca-hoi-nha-van.html
  http://tranmygiong.blogti...ch_u_c_h_i_nha_v_n_vi_
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
  http://dangxuanxuyen.blog...-ca-hoi-nha-van_3.html
  https://nghiathuc.wordpre...an-viet-nam-duong-dai/
  http://nguoidongbang.blog...au-ca-hoi-nha-van.html
http://www.quansuvn.info/...0_6-1_17-18_14-2_15-2/
http://www.vanews.org/201...au-ca-hoi-nha-van.html
http://www.tiengchimviet....au-ca-hoi-nha-van.html
http://www.nhuygialai.com...au-ca-hoi-nha-van.html
http://www.truclamyentu.i...nha-van-duong-dai.html
http://anlacminh.blogspot...ng-mang-hoang-phi.html
http://dannam.org/Blog/?p=4953
  http://hung-viet.org/blog...van-viet-nam-duong-dai
  http://vietinfo.eu/thu-vi...m-duong-da%CC%A3i.html
http://kontumquetoi.com/2...ng-dai-pham-ngoc-thai/
  http://thachda.blogtiengv..._ach_u_c_h_i_nhav_n_vi
  http://chuvuongmien.blogs...-hoi-nha-van.html#more
http://lexuanquang.org/post/9595/
http://www.vandanviet.com...au-ca-hoi-nha-van.html
http://baotoquoc.com/2015...an-viet-nam-duong-dai/

<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.10.2015 22:14:07 bởi Nhân văn >
Nhân văn 12.09.2015 23:44:59 (permalink)
 
                          
         MỘT BÀI THƠ ĐẶC SẮC VỀ ĐÀN BÀ                    
                  CỦA PHẠM NGỌC THÁI
                                                    Nguyễn Thị Xuân

 
          NGƯI ĐÀN BÀ CHA LINH HN THÁNH LINH
 
 
Người đàn bà anh mãi mãi không quên
Nàng đã lẫn vào trong cát bụi...
Sống nổi trôi hay đang những ngày cảm khoái
Có bồi hồi nhớ lại quãng tình qua?
 
Anh đã yêu từ ánh mắt như sao sa
Cả vòm ngực tiên trắng mềm, nóng hổi
Em mở rộng động trinh,
                để anh vào tận sâu trong hứng khởi
Lúc sướng vui em đã uốn mình.
Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em
                     để gieo hoa cho thế thái nhân tình
Vĩ đại và vô biên...
Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống
Trái tim em chứa linh hồn thánh linh.
Trấn át ác quỉ bạo tàn
Anh khắc hình hài em trong vũ trụ
Biểu tượng lớn lao của chúng sinh
Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
Cả chiến tranh và trong cả hoà bình.
                               PHẠM NGỌC THÁI
                     . Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai",
                         Nxb Văn hoá Thông tin 2012
 


  LỜI BÌNH: Bài thơ gợi cho ta một thế giới: Thế giới đàn bà:
                                 Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em
                                                     để gieo hoa cho thế thái nhân tình
                                Vĩ đại và vô biên...
                               Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống
                               Trái tim em chứa linh hồn thánh linh.
     Đây là khổ thơ thứ ba. Đã tóm bắt từ nhân sinh cho tới vũ trụ của người đàn bà: Vĩ đại và vô biên /- Bởi vì sao?... vì nàng "gieo hoa cho thế thái nhân tình"- Biểu tượng của sự sống bất tử!  Nhưng nàng cũng rất bình dị trong cuộc sống và thân thiết đối với người đàn ông. Là người vợ hiền cơm dẻo canh ngọt, đầu gối tay ấp. Bình dị trong tiếng nói nàng trìu mến, dịu dàng mà chiếm ngự cả trái tim chàng. Bình dị với ánh mắt nàng cười, mang đến mùa thu mát lành, trong xanh.
      Câu thơ "Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em..." - Nó triết lí. Như người ta thường nói, người đàn bà là hoa thơm của đất trời... trái ngọt của sự sống. Ở đây, tác giả chỉ ra rằng "... cái của em để gieo hoa cho thế thái nhân tình" - Về nghĩa đen ta có thể hiểu: "cái của em" vừa để sinh nở, tức là sinh con đẻ cái bảo tồn nòi giống. Duy trì và phát triển trong thế thái nhân tình. Với nghĩa bao trùm: nó còn mang theo tính luyến ái trai gái. Là cội nguồn của cuộc sống. Đồng thời "cái của em" là nhân tố tạo ra cả hoà bình cùng chiến tranh, hạnh phúc và khổ đau của con người.
     "thế thái nhân tình" mà không có hoa thì cũng không thể kết trái. Tất cả sẽ trở thành vô nghĩa. Thế giới sẽ không không...
     Xin liên tưởng đến những thi phẩm khác của tác giả. Như ở bài  "Nguyệt của chị Hằng và nguyệt của em", nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã viết:
                               Nếu như em không có nguyệt
                               Thì loài người cần gì tổng thống nữa, em ơi !
     Hoặc bài "Có một thời như thế", anh cũng có những câu thơ bình luận về "cái của em" thật đặc sắc:
                               Tạo hoá sinh ra kỳ quan vĩ đại
                               Suy cho cùng nhất cái này thôi !
                               Nhân loại tồn sinh phát triển ở nơi này
                               Không có sẽ hư vô phù phiếm cả...
     Trở lại với "Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh". Sau đó nhà thơ trào ra cảm xúc:
                              Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống...
     Bởi vì, không có em thì không có gì cả. Sự luyến ái chính đáng gái trai là cao thượng và thiêng liêng.
 

 
         Cô giáo Nguyễn Thị Xuân

     Nếu nhà thơ Nga vĩ đại Mikhail Lermontov, đã viết những câu thơ bất hủ thần tượng tình yêu đối với người đàn bà:
                             Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                             Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ....
     Thì người đàn bà của tình yêu cũng được nhà thơ Phạm Ngọc Thái nâng lên ý nghĩa thần thánh. Nó đọng lại súc tích trong câu kết của khổ thơ:
                             Trái tim em chứa linh hồn thánh linh.
     Giờ xin trở về với những câu thơ đầu:
                             Người đàn bà anh mãi mãi không quên
                             Nàng đã lẫn vào trong cát bụi...
     Thế mà tất cả còn lại về nàng chỉ là một hồi ức xa xăm. Hình ảnh hai chữ "cát bụi" -  Ý nói, tình yêu thuở xa xưa đã chìm lấp vào trong những tháng năm trôi dạt của cuộc đời. Khắc họa tình yêu trong bối cảnh nổi chìm ở dân dã. Tức là, tác giả đề cập về chủ đề "tình yêu và cuộc sống" chốn nhân quần.  Tôi bỗng nhớ đến bài thơ "Những bóng người trên sân ga" của thi nhân Nguyễn Bính. Ông tả về cảnh chia ly trong nhân tình:
                              Những chiếc khăn màu thổn thức bay
                              Những bàn tay vẫy những bàn tay
                              Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt
                              Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
     Cuộc chia ly trong "những bóng người trên sân ga" của Nguyễn Bính và cuộc chia ly tình yêu với người đàn bà của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, có gì khác nhau? Ta không rõ. Nhưng chắc tâm trạng thì cũng là... "buồn ở đâu hơn ở chốn này"? Chỉ biết rằng, sự chia ly tình yêu đó đã để lại trong lòng nhà thơ một nỗi buồn nhớ khôn nguôi, yêu thương da diết. Như câu thơ đã viết :
                              Người đàn bà anh mãi mãi không quên
     Hoặc một kiểu nuối cảm ở "Hai sắc hoa ti-gôn" của nữ sĩ TTKH chăng?
                              Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
                              Trời ơi, người ấy có buồn không?
                              Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
                              Tựa trái tim phai, tựa máu hồng
    Bởi sau đó nhà thơ đã đặt câu hỏi về nàng?
                              Sống nổi trôi hay đang những ngày cảm khoái
                              Có bồi hồi nhớ lại quãng tình qua?
     Nghĩa là, nhà thơ không còn gặp lại và cũng không biết tin tức về em nữa. Không biết giờ em sống ra sao? Hạnh phúc hay là... "bèo dạt mây trôi"? Đó là ý của câu thơ "Nàng đã lẫn vào trong cát bụi..." - Trái tim nhà thơ thổn thức: em có còn nhớ những tháng năm, khi chúng mình yêu nhau? Người đàn bà ấy đã thành thần tượng của đời anh và của cả thi ca.
     Cũng nỗi cảm hoài trên, có một khổ thơ được tác giả cảm xúc lại giây phút đã cùng nàng tận hưởng những khoái lạc yêu đương. Đó là khổ thơ thứ hai:
                              Anh đã yêu từ ánh mắt như sao sa
                             Cả vòm ngực tiên trắng mềm, nóng hổi
                             Em mở rộng động trinh
                                                   để anh vào tận sâu trong hứng khởi
                             Lúc sướng vui em đã uốn mình.
     Đoạn thơ tả thực... nhưng hình ảnh thì lại mang màu sắc thơ mĩ học. Nào là: ánh mắt như sao sa; vòm ngực tiên trắng mềm; động trinh... Những hình ảnh mĩ học đó giúp cho tác giả dẫu tả thực vào xác thể của người yêu, cảm khoái của tình dục, mà thơ không bị thô. Ta đọc câu cuối của khổ:
                             Lúc sướng vui em đã uốn mình
     Hoặc khi tác giả tả về sự khoái lạc tột cùng: Em mở rộng động trinh... để anh vào tận sâu trong hứng khởi /- Hình ảnh mang tính biểu tượng của thơ tượng trưng.
     Nói về việc sử dụng biểu tượng thơ tượng trưng - Trong thế giới thơ tình của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, phải thừa nhận rằng: Bên cạnh những hình ảnh nhụy nhàng hoa mỹ, có một số bài anh tả  khá sâu vào khoái lạc hay về thân thể người đàn bà, đã đạt được sự thành công. Vẫn đầy tính nghệ thuật ngôn ngữ. Cảm xúc sâu mà thơ huyền ảo, không bị tục. Thí dụ bài "cô áo trắng":
                             Em bọc trong anh không cần quần áo
                             Ôi, nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo
                             Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong
                             Em đừng hỏi vì sao anh yêu em!
     Rồi nhà thơ kết luận:
                             Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm!
                             Bầu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi...
     Hay bài "Người đàn bà trắng" - Một trong những tuyệt đỉnh thi ca của anh, đã tả về cái của người đàn bà như thế này:
                             Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai...
                             Người đàn bà ai mà định nghĩa?
      Thơ Phạm Ngọc Thái thường đi đến tột cùng sự viên mãn của thơ tự do hiện đại. Chính vì vậy mà tác giả đã được mệnh danh là "con đại bàng của thi ca hiện đại Việt Nam".
     Nói về khổ thơ cuối cùng. Sau khi gieo một câu thơ đạt đến điểm đỉnh về người đàn bà: Trái tim em cha linh hn thánh linh /- Tác giả hạ một đoạn thơ kết bài:
                             Trấn át ác quỉ bạo tàn
                             Anh khắc hình hài em trong vũ trụ
                             Biểu tượng lớn lao của chúng sinh
                             Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
                             Cả chiến tranh và trong cả hoà bình.
     Tôi nhớ trong tác phẩm của thi hào Nga Pushkin - Ông từng nói ý rằng: Tình yêu của người đàn bà có thể hoá giải cả hận thù và cải hoá sự tàn ác. Tức là, người đàn bà có thể biến một tên bạo chúa trở nên nhân từ, xoá bỏ vợi đi những tội ác, mang lại lòng nhân ái lớn lao trong cuộc sống con người. Đó là ý nghĩa của câu thơ:
                             Trấn át ác quỉ bạo tàn...
     Hình tượng của khổ thơ kết, nó phản ảnh cả về vị thế cũng như phẩm giá của người đàn bà, trong sự tồn tại của thế giới cộng đồng.
     Nếu hai câu thơ trích của nhà thơ Nga Mikhail Lermontov ở trên: ng th dù đ vn thiêng / Miếu th b vng vn nguyên miếu th /- Được xem là lời tuyên ngôn bất hủ của tình yêu !... thì hai câu kết ở đây, chính là bản tuyên ngôn của bài thơ "Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh" này:
                             Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
                             Cả chiến tranh và trong cả hoà bình.
      Hình tượng đúc kết cả tính vũ trụ, lịch sử và nhân sinh... trong ý nghĩa sinh tồn của xã hội loài người.  Nó có thể đạt đến tầm vóc là một bài thơ đặc sắc mẫu mực của thơ tự do hiện đại, khi xây dựng biểu tượng về người đàn bà.
    
Nguyn Th Xuân
GV. Trưng Tiu hc, Ba Đình, Hà Ni
 
                    Đã đăng trên một số trang mạng trong nước & thế giới:
  http://to-quoc01.blogspot...-ba-cua-pham-ngoc.html
http://nguyenduyxuan.net/...ngc-thai-nguyn-th-xuan
https://nghiathuc.wordpre...ba-cua-pham-ngoc-thai/
http://www.nhuygialai.com...ua-pham-ngoc-thai.html
http://www.vandanviet.com...an-mot-bai-tho-ac.html
http://tranmygiong.blogti...n_ba_c_a_ph_m_ng_c_t_1
  http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4351
  http://lexuanquang.org/post/10006/
  http://chuvuongmien.blogs...am-ngoc-thai.html#more
http://thachda.blogtiengv..._an_ba_c_a_ph_m_ng_c_t
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_9.php

 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.10.2015 11:20:29 bởi Nhân văn >
Nhân văn 10.10.2015 23:28:29 (permalink)
 
                 
                   Bài ca tượng đài HCM
 


Tôi lại viết bài thơ đất nước
Đất nước mạt và buồn
Nhìn lên bầy quan tham
Quốc gia thì băng hoại
Trông xuống oan khuất chốn dân tình
ngập trong bao kiếp đời khổ ải.

Ông Hồ Chí Minh ơi ! Ông khóc hay ông cười?
Chúng đang đua nhau lấy trăm nghìn tỷ
                                             dựng tượng đài ông
Đấy là tiền thuế, máu của nhân dân
Con cháu đang bám vào cái xác của ông
Để đầu cơ chính trị. Tàn phá nước non.

Ông có nghe tiếng dân bao miền oán than
Bao làng quê vẫn vô cùng nghèo khổ
Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc
Trẻ thơ chưa đủ trường để học
Người ốm đau bệnh tật thiếu bệnh xá, thuốc men
Mà chúng còn định dùng 1.400 tỷ
                                                           để dựng tượng đài ông
Máu và nước mắt dân đen ngập tràn trong đó...
Làm sao nuốt nổi, ông ơi !?

Ông khóc hay ông cười?
Bọn tham nhũng đang bám vào tượng đài ông mà phá nước
Đẩy nền kinh tế xã hội tới kiệt cùng
Nợ vay nước ngoài ngày càng chồng chất
Có ai nghĩ: Theo chủ nghĩa Marx - Lenin lại sai đường, lạc bước? (*)
Có ai nghĩ: Chính chủ nghĩa tư bản
                                                     mới là con đường đưa dân tộc đi lên !?
Giá khi đó ông đừng thân Tàu.
                                                  Thân Mỹ có hơn không?

Hôm nay chúng định dùng 1.400 tỷ dựng tượng đài ông
Giáo sư Ngô Bảo Châu thì bảo:
- Nếu không thần kinh cũng là đồ khốn nạn.
Mà không phải chỉ một thằng khốn nạn
Trong chính phủ, trung ương liệu đếm có hết tên?

Ông có thấy không? Những bọn cẩu quan...
Tàn hại giống nòi
Nên khóc hay nên cười?
Chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít
                                      đang hoàn toàn sụp đổ, ông ơi ! (*)
1.400 tỷ để dựng tượng đài
Liệu ông có nuốt trôi?

Mà ông cũng chỉ được một phần
Ai nói chúng sẽ không chia nhau, lại quả?
Hậu duệ giờ quá nhiều "phường mèo mả..."
Ông Hồ Chí Minh ơi !
 
Hà Nội. Tháng 8 - 2015
Phạm Ngọc Thái

(*) Chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nói: đến cuối thế kỉ XXI này, không biết có còn CNXH không?

               Đã đăng trên các trang mạng Việt trong nước và hải ngoại:
http://www.chinhluanvn.co...i-ca-tuong-ai-hcm.html
http://danlambaovn.blogsp...ng-ai-ho-chi-minh.html
https://badamxoevietnam2....tuong-dai-ho-chi-minh/
 https://nghiathuc.wordpre...i-minh-pham-ngoc-thai/
 
http://www.namuctuanbao.net/1010/tho_NamUc.php
 
https://www.danluan.org/t...-tuong-dai-ho-chi-minh
 
http://www.vanews.org/201...a-tuong-ai-ho-chi.html

http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-86_4-6322_15-2/
http://thachda.blogtiengv...hi_minh_ph_m_ng_c_thai
  http://dannews.info/2015/...enin-bi-giat-do-o-nga/
  http://vanghe.blogspot.co.../bai-viet-hay2499.html
  http://hung-viet.org/blog...tuong-dai-ho-chi-minh/
  http://vietlist.us/SUB_An...bandoc1508270012.shtml
 
http://lhccshtd.org/LHCCS...ngdaiHCM_2015AUG26.htm
 
http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=11242
http://www.vietinfo.eu/th...tuong-ho-chi-minh.html
http://baotoquoc.com/2015...tuong-dai-ho-chi-minh/
http://lexuanquang.org/post/9882/
http://chuvuongmien.blogs...inh-tho-pham-ngoc.html
http://huongnguyenhoang.b...nh-pham-ngoc.html#more
http://www.truclamyentu.i...-ca-tuong-dai-hcm.html
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.10.2015 13:16:40 bởi Nhân văn >
Nhân văn 09.11.2015 10:59:41 (permalink)
 
PHẠM NGỌC THÁI VÀ BẢN TÌNH MƯA TUYỆT VỜI
                                            Hoàng Thị Thảo



 

             MƯA BAY TRONG TIẾNG CHUÔNG

Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện
Nam-mô-a-di-đà!
Trong khúc mưa bay âm vang trời đất
Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là...


Vi vút tầng cao con lá rụng
Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ
Chân ta bước dưới khuông trời thành phố
Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ.


Thoắt tình đã vào xa vắng
Mình anh với bóng nhớ hoài em
Hồn như cánh chim vô định
Mái tóc em bay làn mưa mênh mang.


Ôi, tiếng chuông gảy lên bao ký ức?
Kia không gian thao thiết gót chân mềm
Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm.

                    Thơ PHẠM NGỌC THÁI
           Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai" 2012
 


                 Hoàng Thị Thảo

 
LỜI BÌNH: Trong cái làn mưa bay dưới khuông trời thành phố, có một người thi sĩ đang lang thang nhớ bóng người yêu:
Vi vút tầng cao con lá rụng
Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ
Chân ta bước dưới khuông trời thành phố
Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ

Đọc đến những từ "con lá rụng": Tức là hình ảnh hiu hắt của vài chiếc lá đang bay vi vút giữa tầng không, mà tác giả gọi là "con lá..." - Tôi bỗng liên tưởng đến câu thơ trong KIỀU của Nguyễn Du:
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Đây là hình ảnh của vầng trăng khuyết cô quắt... khi nhớ đến bóng người đi xa. Mảnh trăng cô độc ấy nửa thì lọt qua song cửa soi lên chiếc giường chăn đơn gối chiếc của Kiều, nửa thì dõi theo cái bóng đã khuất dặm trường của chàng Thúc Sinh ở tận phương trời. Trở lại với bài "Mưa bay trong tiếng chuông" - Tuy hình ảnh ở bài thơ này của Phạm Ngọc Thái không đến mức sầu muộn, thê lương như hình tượng câu thơ trong Kiều? Song, những "con lá rụng..." đang bơ vơ bay giữa khuông trời của đêm cô đơn kia, cũng làm cho lòng ta xốn xang cùng với nhà thơ.
Những tiếng sóng bên hồ lao xao vỗ theo bước chân anh. Cảnh mưa đó lại được hoà tấu bằng sự đồng vọng của tiếng chuông chùa buồn. Đó cũng chính là tiếng lòng thương nhớ của anh thi sĩ với người con gái đã xa xăm.
Ba cái cảnh: Trời mưa, tiếng chuông và sự cô đơn... để tạo nên một bản tình xô-nát âm vang trong trời đất. Giọng điệu thi ca trầm... ngân nga... như câu thơ đã viết:
Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ
Tôi trở lại với đoạn thơ đầu:
Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện
Nam-mô-a-di-đà!
Trong khúc mưa bay âm vang trời đất
Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là...

Suốt bài thơ... làn mưa và tiếng chuông chùa cứ thao thiết trong nhau, hoà vào tâm tình của người thi sĩ. Cái tiếng chuông thỉnh lên lời cầu nguyện "nam-mô-a-di-đà" ấy, phải chăng cũng là tiếng khắc khoải nguyện cầu thao thiết trong anh? Anh đi trong khúc mưa bay với một tâm hồn trống trếnh, chơi vơi: Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là... /- Sự mơ màng như thể đang dẫn người đến bên cửa phật. Một bài thơ tình ở chốn thánh thần, làm cho tình thi vừa thân thương lại thêm màu huyền hoặc.
Đến đoạn thứ ba thì người mới thực sự tả về em:
Thoắt tình đã vào xa vắng
Mình anh với bóng nhớ hoài em
Hồn như cánh chim vô định
Mái tóc em bay làn mưa mênh mang.

Bóng của người con gái được hiện ra cũng rất hư hao, chỉ nhìn thấy trong làn mưa mái tóc em đang vương bay. Tâm hồn nhà thơ thì "như cánh chim vô định" - Nghĩa là mông lung, không có bến bờ, ở cõi vô tận vô cùng. Một tâm hồn lạnh lẽo, cô liêu. Hình ảnh thơ như ẩn, như hiện đưa ta hút sâu vào cùng tâm trạng của anh. Cũng chẳng khác là bao với tâm trạng của kẻ nhớ người ở phương trời trong Chinh Phụ Ngâm:
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây

 


Hình tượng thơ của bài "Mưa bay trong tiếng chuông" được sử dụng đầy chất triết luận hoặc hội hoạ: Hồn vô định, mưa mênh mang, khúc mưa bay, vọng giữa mưa đêm, khuông trời, gió... trăng... dìu dặt, người và bóng, bản nhạc thơ v.v.... Không gian thực mà ảo. Hiện tại và quá khứ đan xen trong nhau để nói về nỗi tình da diết của nhà thơ với người thiếu nữ đã xa. Tôi xin bình sang đoạn thơ cuối cùng:
Ôi, tiếng chuông gảy lên bao ký ức?
Kia không gian thao thiết gót chân mềm
Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm.

Những kỉ niệm trong ký ức tràn về theo tiếng chuông. Hình ảnh người con gái từ câu thơ: Mái tóc em bay làn mưa mênh mang /- Đến đây, nhà thơ nhớ lại những ngày cùng dạo bước bên người yêu: Kia không gian thao thiết gót chân mềm /- Cả bóng trăng khuya, con gió dặt dìu, tiếng chuông và làn mưa... cùng hoà trong bản tình xô-nát bên hồ ấy:
Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm...

Hai câu cuối thật hay! Không chỉ với giọng thơ khoan nhặt, mà cả bản tình như được tắm vào trong vũ trụ cuộc sống và tình yêu con người. "Mưa bay trong tiếng chuông" như có tiếng ru thần diệu thấm vào hồn ta, để lòng ta say. Một cái say thâm trầm, da diết. Ngôn ngữ và làn điệu tha thiết. Hình ảnh lại hư hao như ở chốn bồng lai, cõi phật... cuốn hút cảm nhận của ta đắm chìm vào trong đó.
Trong đoạn thơ cuối này, ta thấy cả khoảng không gian của bài thơ đều qui tụ vào đây. Từ gió, ánh trăng cùng làn mưa đêm và tiếng chuông chùa ngân nga... ẩn hiện bóng hình với bước chân thiếu nữ. Đó là một bản tình ca đằm đìa, xao xiết dưới gió trăng - Như câu thơ đã kết:
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm
Nói "Mưa bay trong tiếng chuông" là một bài thơ tình hay hoặc "rất hay!..." cũng đều thoả đáng. Nhưng cảm yêu cái tiếng mưa, những hạt mưa bay đã được thi sĩ Phạm Ngọc Thái gieo suốt bài thơ mà tôi bảo rằng: Đó là một bản tình mưa tuyệt vời !
       10/2015
HOÀNG THỊ THẢO

 
             Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới:
  http://baotoquoc.com/2015...-tuyet-voi/#more-59505
http://datdung.com/pham-n...et-voi-hoang-thi-thao/
http://tranmygiong.blogti...1/p5818586#more5818586
http://www.tiengchimviet....rong-tieng-chuong.html
http://www.diendantrungho...d56a12a44c95f0aea9601f
https://nghiathuc.wordpre...et-voi-hoang-thi-thao/
  http://www.nhuygialai.com...inh-mua-tuyet-voi.html
http://goldonline.vn/Tran...rong-tieng-chuong.aspx
  http://chuvuongmien.blogs...nh-mua-tuyet.html#more
  http://lexuanquang.org/post/10271/
http://thachda.blogtiengv...n_tinh_m_a_tuy_t_v_i_1
http://huongnguyenhoang.b...ong-tho-pham.html#more
http://binhtrung.org/p195a36030/bbb
http://www.vanews.org/201...rong-tieng-chuong.html
http://nguyenduyxuan.net/...-va-bn-tinh-ma-tuyt-vi
http://www.vandanviet.com...-ngoc-thai-va-ban.html
http://vannghequangtri.bl...-ngoc-thai-va-ban.html
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_4.php
  http://www.saimonthidan.c...?c=article&p=11610
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4441

 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.11.2015 10:45:07 bởi Nhân văn >
Thay đổi trang: << < 131415 > >> | Trang 14 của 20 trang, bài viết từ 196 đến 210 trên tổng số 293 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9