Một Huyền Thoại Thi Ca

Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 7 của 10 trang, bài viết từ 181 đến 210 trên tổng số 293 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 30.07.2013 11:07:17
 
                
                      Không nên để một chân dung thơ tầm thường, nhân cách kém,
          tham lam, xằng bậy như Hữu Thỉnh tiếp tục làm Chủ tịch HNVVN

                                                                                                         Phạm Ngọc Thái

    Hữu Thỉnh rất nhỏ mọn, lòng dạ tham lam, làm việc khuất tất - Nếu tiếp tục cứ để làm Chủ tịch HNVVN thì sẽ kéo nền thi ca đương đại trở nên bát nháo chi khươn. Biến một Hội nhà văn cấp quốc gia và cả Ban chấp hành trở nên tầm thường.
    Trước hết xin nhận định về chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn thuộc loại nào?

 Hữu Thỉnh - Chủ tịch HNVVN
 
   CHÂN DUNG THƠ HỮU THỈNH CƠ BẢN LÀ 
   
LOẠI THƠ TẦM THƯỜNG, KHÔNG TỒN TẠI:

    Như tôi đã từng bình luận: Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài viết kém, tư duy bát nháo, mới chỉ ở dạng nháp hoặc tư liệu trong bản thảo, cũng bê hết ra để in thành tập sau đó tranh giành lấy giải thưởng.
    Chưa một ông Chủ tịch nào tham lam, thơ phú thì xoàng xĩnh mà lại vơ nhiều giải thưởng quốc gia đến như vậy. Trần Mạnh Hảo đã viết:
    - Ông Hữu Thỉnh đạt kỷ lục ăn giải văn chương trong thời đại ngày nay là... vô địch thế giới! Người ta tính đến nay ông đã 05 lần "ăn" giải thưởng văn học quốc gia, kể cả giải thưởng Vua Thái Lan gọi là "Giải Asean - 1000 USD" mà chính ông Chủ tịch tự đề cử cho mình... cùng với nhiều giải khác... Trong một thành phần ban giám khảo do chính Hữu Thỉnh đã thiết kế... rồi ông Chủ tịch "tế nhị khách quan?..." xin rút ra khỏi Hội đồng xét giải.
     Hay như nhà văn Nguyễn Quang Thân lên tiếng phê phán:
    - Ông Hữu Thỉnh ăn tham, kiểu tự mình cho mình giải thưởng là vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa lĩnh thưởng vừa khen ban chấm giải... công minh!
    Thí dụ như việc ông ta đem "Thương lượng với thời gian" - Một tập thơ hỏng, tư duy nhăng nhố, tứ nghĩa lung tung.. rồi cũng chỉ để vứt vào... sọt rác, cùng với một trường ca biển viết hỗn độn, xô bồ, làng nhàng nhạt nhẽo - Mặc dù bị dư luận chê bai chỉ trích rất nhiều, nhưng Hữu Thỉnh vẫn bất chấp, trơ tráo lấy bằng được cái giải lớn của quốc gia. Thật là một Chủ tịch Hội nhà văn đáng mỉa mai.
    Tôi đã từng bình tập "Thương lượng với thời gian", nay xin trích giới thiệu lại trong bài viết này để càng thấy rõ hơn cái chân dung non yếu, mà không biết tự thẹn của ông Chủ tịch Hội:
      "THƯƠNG LƯỢNG VỚI THỜI GIAN" MỘT TẬP THƠ LÀM NHÀM, VỚ VẨN
    Hữu Thỉnh làm nhiều bài thơ rất ẩu, tư duy lung tung, rồi tìm những từ hay hình ảnh hoa hoét hoặc có nỗi đoạn trường ghép lại. Có bài mới đọc lên cứ tưởng... cũng thấy là lạ, hay hay, nhưng rồi gấp lại thì bài thơ chỉ màng màng như một lớp sương khói, hoặc đó cũng chỉ là một ý tưởng nhạt thếch, nông choèn. Tôi có thể nêu các kiểu làm thơ tạp-pí-lù ra đây đến vài chục bài trong tập thơ trên năm mươi bài của ông.
    Thí dụ bài "Bóng mát":
          Tôi như cây biết giấu lá vào đâu/ Giữa gió bụi cõi người/
          Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát/ Bóng mát mà không che nổi chính tôi.

    Mới đọc thì có vẻ nỗi đời, nỗi người, nỗi trần ai đây? nhưng ngẫm kỹ thì bài thơ rất lung bung. "gió bụi cõi người" nghe cũng đoạn trường đấy chứ? nhưng gắn với hình ảnh "lá" ở câu trên - "lá" kia biểu tượng cho cái gì của anh ta? Cũng chẳng rõ. Nếu nó đã làm thành bóng mát thì tại sao lại phải dấu? Ta lại xem câu kết:
          Bóng mát mà không che nổi chính tôi
    Tại sao có bóng mát rồi mà lại không che nổi chính anh ta? - Thế là, tất cả vẫn mới chỉ là một mớ ý nghĩ còn mơ hồ, lộn xộn, thậm chí hình ảnh đá nhau, chưa định hình để lập được thành tứ và nghĩa - Hữu Thỉnh vơ hết vào làm thành một bài cho xuất bản, chẳng cần biết để nó diễn đạt cái gì? Bài thơ trở thành...vô nghĩa!
    Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ rất ẩu chính là vậy.
    Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài bất cần tính lôgich trong tư duy triết lý, dù chỉ là một bài thơ ngắn vài câu. Thí dụ một bài thơ khác:
          Đôi luống thời gian/   Ai ải mùi đời/ 
          Hì hục câu thơ/  Gieo chỗ không người/
          Tấm chăn ngôn từ/  Dầy sao không ấm/  
          Thi nhân dậy chưa/  Gà đang chuyển sớm

                                                              (Mồ hôi đón ngõ)
    Đọc lên cũng đã thấy cái thời gian ai ải mùi đời kia... chắc là thời gian như cuộc đời thum thủm toàn phân tro chăng? Mấy từ "ai ải mùi" mà tác giả sử dụng cốt chỉ để thơ cho có vẻ hình tượng "kêu" đấy thôi. Nhưng đó là cách sử dụng bất kể ý nghĩa. Sau đó tự nhiên chuyển sang ý thi nhân làm thơ gieo vào chỗ không người... rồi đến gà qué báo sáng, thế là hết thơ! Cũng chẳng biết "cái thời gian ai ải mùi đời" kia với người thi nhân làm thơ nó có quan hệ với nhau thế nào? Nó được đưa vào trong bài thơ để nói lên ý nghĩa gì? cũng đã được thêm một bài. Hữu Thỉnh làm thơ rất nhiều bài đại loại nham nhúa như thế!
    Cũng có khi chỉ do một ý tưởng nào đó chợt vụt đến, thoáng qua mà tác giả vội ghi lại, đáng lý nó mới chỉ là tư liệu trong một bản nháp. Nhưng Hứu Thỉnh đã sử dụng ngón nghề của một tay thơ chuyên nghiệp, thêm dăm ba chữ mắm muối vào đó hoặc tìm đại vài hình ảnh cho có vẻ kêu kêu, bất cần hình ảnh đó ý nghĩa có hợp với bài thơ không, xào xáo nó lên -  lại được thêm một bài thơ nữa, hay gộp nó lại thành tập lấy một giải thưởng văn chương. Tôi ví dụ bài "Những người đi lại phía tôi":
         
Những người đi lại phía tôi/ Bao nhiêu bóng mát một lời lá bay/
          Mặc ai xô dạt mỗi ngày/ Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm.

    Hình ảnh thì cũng có vẻ hoa mỹ, nỗi mình... nỗi đời... Nhưng bài thơ nói gì nhỉ? Nếu kết lại thì hình như là... vô nghĩa! Nó "vô nghĩa" bởi vì nó tư duy theo kiểu vơ váo và lắp ghép nhằng.
    Tôi xin phân tích hình ảnh "bao nhiêu bóng mát" kia là gì? Có phải bao nhiêu người đang đi lại phía nhà thơ đã đem cho ông ta bóng mát chăng? Nếu thế thì cũng có tính nhân văn đấy chứ? nhưng liền ngay sau đó lại là hình ảnh:
          ...  một lời lá bay
    Chả lẽ để đáp lại "những bóng mát" mà người đời đã đem lại cho ông (đó tức là những danh lợi mà ông đã được hưởng), ông chỉ đáp lại cho họ, tức là cho cộng đồng... "một lời lá bay" ư? Nghĩa là, tao cũng chả cần phải trả cho chúng mày nhiều, một đôi lời ve vuốt suông, hay chút bổng lộc gì đó cỏn con thôi, sau đó ông thoảng qua như ...lá bay! Và ông cứ ung dung hưởng "những bóng mát" mà người đời mang lại cho ông. Bởi vì ngay câu thơ thứ ba viết:
          Mặc ai xô dạt mỗi ngày...
    Thể theo sự liên kết trong tư duy bài thơ thì: Ông cứ mặc cho cuộc sống những kẻ đã mang lại bóng mát cho ông bị xô dạt, chìm nổi...Ông mặc xác tất cả - Rồi bài thơ kết:
          Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm
    Hình ảnh "múc đau lòng giếng" có vẻ ghê, nhưng để nói cái gì? Ta giả sử nếu cái giếng kia biểu thị cho đời - Ông cứ việc múc đau lòng đời, tức là ông cứ việc vơ vét, hưởng thụ những lợi lộc của đời mang lại... cho đến cuối đời ông. Bởi vì hình ảnh "sao hôm" sẽ biểu thị cái nửa đời chiều của ông mà - "vẫn đầy sao hôm" là vậy.
    Còn nếu ta giả sử hình ảnh "cái giếng" kia để chỉ bản thân nhà thơ - Ông múc đau ông, nghĩa là ông sẵn sàng hy sinh bản thân cho hạnh phúc của mọi người - Thì sao câu thơ trên ông lại viết: "Mặc ai xô dạt mỗi ngày"???... Thế là bài thơ trở thành khập khiễng, ý thơ phi lý, hình ảnh như những cánh hoa giấy đẹp nhưng lung tung. Bài thơ này cũng chỉ là một bài... thơ rác.
    Có lẽ không phải là Hữu Thỉnh không biết cái hạn chế trong sáng tác thơ của mình?... và có lẽ cũng không phải là không biết sự kém cỏi của tập thơ "Thương lượng với thời gian"? Cho nên cũng đã có lúc ông tự thú - Ta hãy đọc bài "Người làm mùa" thì rõ:
          Những gié vàng lại tụ hội vàng tươi/ Mùa hoàn hảo?Thiên nhiên bầy kiệt tác/
          Sao với ta vẫn chỉ vài nét phác/ Tẩy xoá hoài người vẽ mãi chưa xong?

    Ý muốn liên hệ với "mùa thi ca" của ông ta đây! Đã biết thơ mình mới chỉ là những nét phác, nhạt nhẽo, nông cạn. Còn với mình thì "tẩy xoá" mãi vẫn không viết nổi một bài thơ hay - Thế mà vì lòng tham, ông Chủ tịch đã 05 lần lấy giải thưởng quốc gia, lần này vẫn mang ra lấy tiếp cái giải thưởng Hồ Chí Minh kèm với mấy trăm triệu đồng cơ đấy!
       Tôi lại ví dụ thêm bài nữa - Bài "Vô thanh":
                     Tôi ngồi nhặt sỏi đếm buồn/ Gió đi tìm khói chon von mấy đồi/
                     Mây kia ham sự nhất thời/ Bao nhiêu oan nghiệt mắt người ngước lên.
    
Thực ra bài thơ mới chỉ là mấy sự lắp ghép ý chợt đến ở dạng bản thảo, tư duy nửa chừng chưa ra đâu vào đâu, nên chưa nói được cái gì? Đây cũng đích thị là một bài thơ để...loè đời! Cái ngón nghề mà Hữu Thỉnh tìm ra trong quá trình sáng tác thơ của mình chính là thủ thuật rất xảo ấy, đã thành sở trường trong quá trình làm thơ của ông. Trong bài viết Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ hay lấy "râu ông nọ cắm cằm bà kia" là vậy.    

    Đấy là tôi mới ví dụ một số bài thơ ngắn cho dễ đọc. Để bạn đọc khỏi nhàm chán, tôi chỉ xin ví dụ thêm một bài thơ dài hơn, nhưng cũng viết ẩu làm nhàm như thế.
    Đó là bài "Lời mẹ" - Nói về mẹ thường là những bài thơ rất máu thịt, da diết. Nhưng Lời Mẹ của Hữu Thỉnh thì phải nói thơ viết hồ đồ đến mức độ... hơi nhăng nhít. Bài thơ chia làm 3 khúc, mỗi khúc có 8 câu, tổng cộng toàn bài có 24 câu. Đây là:
    Khúc I-  Khúc đầu tiên này thì nó còn kể lể có chuyện một tý, tuy cũng chỉ viết nôm na tung hứng bừa đi thôi, chẳng có gì gọi là chắt lọc hay nghệ thuật tinh tuý. Nhưng thôi, ta chấp nhận như thế, tạm gọi là cũng được:
          Mẹ đã sinh ra tôi/ Đặt tên cho tôi nữa/
          Một cái tên nõn nà/ Hồn nhiên như sói nhỏ/
          Cái cối và cái chày/ Con mèo và con cún/
          Yêu mấy vẫn chưa vừa/ Thoắt trở thành người lớn.

    Mấy câu sau là tác giả đã nhặt nhạnh bừa đi rồi đấy, ghép lại thành một khúc - Chưa thể gọi là ăn nhập với nghĩa trong cả bài. Ta cứ đọc tiếp sẽ thấy. Đến khúc thứ hai, thứ ba mới thật là thứ thơ... hô khẩu hiệu. Mà đây là khẩu hiệu rất sáo rỗng, nhạt nhẽo. Nhưng tác giả không phải chỉ hô khẩu hiệu một lần đâu - Hai khúc thơ, mỗi khúc 8 câu - Chỉ có hai câu đầu là khác, còn sáu câu sau lặp lại y hệt nhau, ý tứ vơ váo. Chợt nghĩ được cái gì là đưa luôn vào, cứ như là viết đại cho xong, đọc chối không chịu nổi. Để bạn đọc thấy rõ xin chép lại cả hai khúc sau ra đây:
    Khúc II - 
          Tôi bước ra ngoài ngõ/ Gió thổi. Nước triều lên...
          Đi hoài không gặp tiên/ Đành quay về hỏi mẹ/
          Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/
          Đến với ai gặp nạn/ Xong rồi, chơi với cây!

        Khúc III- 
          Tôi lại bước dưới trời/ Không tiếc mòn tuổi trẻ/...
          (6 câu sau giống hệt ở khúc 2)
          Đi hoài không gặp tiên/ Đành quay về hỏi mẹ/
          Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/
          Đến với ai gặp nạn/ Xong rồi, chơi với cây!

    Xin phân tích một chút ở câu thơ cuối khúc - Sao lại kết "Xong rồi chơi với cây"? Nếu là những người chán sự thế, chán chốn quan trường... đi ở ẩn như Nguyễn Khuyến chẳng hạn, hay như thi sĩ Tản Đà chán chốn hồng trần tìm đường lên núi "tu tiên" đã đành... đằng này Hữu Thỉnh còm ham danh lợi thế cơ mà? Đọc thơ ta có thể hiểu:
    - Mẹ từng dặn anh ta rằng: con người nó hay lừa lọc, gian xảo lắm, tốt thì ít mà xấu thì nhiều - Đừng nên "chơi" với con người mà chỉ nên chơi... với cây thôi!?
    Nhưng mẹ lại cũng dặn anh ta:
    - Phải làm một con người cao thượng. Con người tuy xấu thế đấy, nhưng lúc họ gặp nạn... thì phải đến cứu vớt họ (như ở câu thơ trên đó đã viết "Đến với ai gặp nạn") - Xong rồi lại về..."chơi với cây"!
    Vậy lời mẹ dặn vậy, Hữu Thỉnh đã cao thượng đến thế nào mà sao còn  tham lam thế? Đây là một bài thơ viết cẩu thả. Cái đoạn lặp đi lặp lại dài đến 6 câu nào có hay gì? có nghệ thuật thi ca gì cho cam? chỉ là cách nói đạo lý sáo rỗng. Câu thơ: Đi hoài không gặp tiên/ - Hình ảnh ấy chắc Hữu Thỉnh chợt nhớ về chuyện cổ tích: Có cô bé hoặc cậu bé nghèo khổ... đã mơ thấy ông tiên hay bà tiên hiện về - Thế là bê luôn vào thơ, mà lại là bài thơ nói về nỗi đời, đoạn trường người lớn hẳn hoi. Một bài viết về mẹ thuộc dạng nhàm chán nhất, nhì... đối với một nhà thơ chuyên nghiệp mà tôi từng được đọc.
    Thế đấy, thơ ông Chủ tịch đã lãnh đạo Hội nhà văn đến 3 khoá của chúng ta hôm nay là thế đấy?
    Nói dài, bình thêm làm gì nữa cho bạn đọc càng nhàm chán. Quá đủ để nhìn nhận về  tập thơ "Thương lượng với thời gian" thấp kém, cũng như tầm vóc chân dung thơ Hữu Thỉnh: Một chân dung thơ trung bình! 
    - Không phải là không có lý trong lần ông được giải quốc gia đầu tiên với tập trường ca "Đường vào thành phố" - Đã bị nhà thơ Xuân Diệu phê phán là dở vô cùng, là không biết làm thơ, là tào lao chi khươn... ngay trên báo Văn Nghệ. (trích bài TMH).
    - Cũng không phải là không có lý trong lần thứ 2 ông ăn giải Hội nhà văn với tập thơ "Thư mùa đông", đã bị nhà văn Tô Hoài viết bài chê bai rằng: Thơ Hữu Thỉnh chỉ là một gánh chè chai đồng nát.
    Còn với tập "Trường ca biển" - Nếu tôi bình thêm nữa thì dài quá. Song như dư luận hiện nay đã phê phán rất nhiều về giá trị tầm thường, nhàm nhúa của tác phẩm. Tôi chỉ nói thêm: Ý tưởng và cấu tứ thơ luộm thuộm, nội dung ý nghĩa thơ vụn vặt nhàm chán, có nhiều chỗ viết như nói dông dài, nghĩ ra cái gì viết cái đó ào đi chứ không phải thơ. Lời nhiều nghĩa ít, đọc thơ thấy chẳng ra đâu vào đâu. Thơ viết dài dặc, lan man hầu như không có cảm xúc. Một trường ca viết ẩu. Tôi cam đoan rằng: Loại trường ca này không tồn tại với thời gian, không có giá trị và không lưu được đối với nền văn hiến quốc gia.
    Tóm lại - "Trường ca biển" là một trường ca thuộc loại kém, tầm vóc dưới trung bình.
    Thế mà Hữu Thỉnh vẫn cố tình mang nó để đoạt lấy giải thưởng văn học lớn đó không chút ngượng ngùng. Đúng là đã rất thiếu tự trọng! Tôi xin dừng bài bình của mình ở đây, không muốn nói gì thêm nữa! 
    Có người sẽ bảo: Cứ cho rằng cả đời thơ Hữu Thỉnh quá nhiều là những thứ thơ tạp-pí-lù, câu cú lắp ghép vớ vẩn - Nhưng ông ta cũng có mấy bài thơ được gọi là hay đấy chứ?  như các bài "Thơ viết ở biển" hoặc "Sang thu" chẳng hạn?
     Xin thưa:
    HỮU THỈNH KHÔNG CÓ MỘT BÀI THƠ NÀO THỰC SỰ LÀ THƠ HAY CỦA THI ĐÀN
    Hầu hết thơ Hữu Thỉnh đều không hoàn tứ, hoàn nghĩa, không đứng được với thời gian - Song cũng có được đôi bài thơ gọi là kha khá, đó chính là hai bài thơ vừa nói trên. Nhưng kể cả hai bài thơ kha khá đó... vẫn không có bài thơ nào đủ sự viên mãn, hoàn bích để đậu thành thơ hay. Nếu đem phân tích nó sẽ lộ ra những yếu điểm rất non yếu của một quá trình tư duy sáng tác.
     Vào cuối năm 2012 vừa qua... tôi đã bình cụ thể những tình thơ đó trong một bài viết, tên đề "Cuộc trao đổi thơ toàn cầu" - Nay xin trích đăng lại trong bài viết này phần bình về thơ Hữu Thỉnh, để mọi người cùng suy ngẫm:

    TRƯỚC HÊT NÓI VỀ MỘT NGUYÊN TẮC  TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ - Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
    Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, thì dù đó là loại thơ gì, cũng xin miễn bàn - Bởi vì thơ không tồn tại, suy cho cùng nó cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi. Nói cho có chút động viên... để các nhà thơ đỡ xót xa là, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời, rồi thì nó sẽ... vứt đi.
    Vậy thì hội thảo làm gì? vừa vô lý mà lại mất công. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đối với nền văn học được.
    THÍ DỤ VỀ HỮU THỈNH - Đa phần thơ Hữu Thỉnh là loại thơ không tồn tại, kể cả trường ca. Có chăng chỉ mấy bài kha khá đứng được, nhưng chưa có thể gọi là vững với thời gian. Xin phân tích ít dòng khái quát về mấy bài thơ khá nhất ấy.
    1/. "Thơ viết ở biển" - là bài thơ hay nhất, thuộc đỉnh cao nhất của đời thi ca Hữu Thỉnh. Tuy nhiên bài thơ đó cũng mới chỉ thuộc vào loại khá, chứ chưa được là một bài thơ hay toàn bích như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Bẽn Lẽn hay Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử; Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan; Hai Sắc Hoa Ti Gôn của TTKH; Tiếng Thu Lưu Trọng Lư; Thu Điếu Nguyễn Khuyến...
    Xin phân tích đôi nét bài "Thơ viết ở biển"". Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
          Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
          Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím

    Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn"? Có thể do cảm xúc thơ ở đây nếu dùng hình ảnh "nước", thơ  không thuận nên tác giả sử dụng hình ảnh "gió"?...  Mặc dù vậy, bởi hình ảnh thơ chưa thật sát nghĩa cho nên phần nào vẫn bị giảm độ hay.
    Còn đối với câu thơ dưới:  ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh, nghe chừng hình tượng ví von này vẫn còn gượng gạo? Tại sao em lại là "chiều" - "chiều" không có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ? Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa sâu sắc, cũng chưa ổn. Tuy nhiên, hai câu đó đọc lên người ta vẫn hiểu, tạm chấp nhận nhưng chưa thật hay và chưa cao.
    Mấy câu thơ đầu thì hay:
          Anh xa em/ Trăng cũng lẻ/ Mặt trời cũng lẻ
    
Nhưng đến hai câu sau:

          Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
          Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn

    Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này hay!  Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt, có thể khen là viết giỏi! Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái. Trong văn học người ta thường ví "em là biển cả mênh mông", "tình em biển cả", hay trên biển cả tình em... anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi, v. v... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong bài thơ Hữu Thỉnh? Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" -  thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em! Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví "anh như biển" còn em như... "cánh buồm". Sự ví von lộn ngược thơ như thế có phần bị gượng ép và khập khiễng, nên hai câu thơ đó tuy chưa hẳn đã hỏng nhưng cũng không thể gọi là hay.
    Để cho rõ, xin liên hệ với "Thuyền và biển" là một bài thơ tình hay của Xuân Quỳnh. Trong bài thơ của Xuân Quỳnh,  "thuyền" là biểu tượng chỉ về người con trai, còn "biển" là người con gái. Nữ thi sĩ đã viết:
          Lòng thuyền nhiều khát vọng
          Và tình biển bao la...

    Hay là:
          Những đêm trăng hiền từ
          Biển như cô gái nhỏ
          Thầm thì gửi tâm tư
          Quanh mạn thuyền sóng vỗ

    Biển và thuyền nó cứ quấn quít với nhau như đôi trai gái. Để nói về tính cách của tình yêu, khi thì say đắm... lúc lại giận hờn - Xuân Quỳnh đã diễn tả:
          Cũng có khi vô cớ
          Biển ào ạt xô thuyền

    Rồi nhà thơ giải thích:
          Vì tình yêu muôn thuở
          Có bao giờ đứng yên
?

    Hình ảnh thơ đã chứa đựng rất sâu sắc nội tâm bên trong, nó khái quát cả tình cảm, tâm hồn, lý trí và khát vọng:
          Chỉ có thuyền mới hiểu/ Biển mênh mông nhường nào/
                Chỉ có biển mới biết/ Thuyền đi đâu, về đâu...

    Nghĩa là, với hình ảnh thuyền và biển trong suốt bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn đạt mọi chiều của tình yêu đôi trai gái một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, nhưng ngay khi nói về sự xa cách hoặc có thể tan vỡ? Hình ảnh thuyền-biển của Xuân Quỳnh cũng được diễn đạt một cách thấm thía:
                Những ngày không gặp nhau/  Biển bạc đầu thương nhớ/ 
                Những ngày không gặp nhau/  Lòng thuyền đau - rạn vỡ...

     Hình ảnh "sóng biển bạc đầu" lại trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái, hay sự rạn vỡ của con thuyền trong cái biển cả tình yêu... lại chính là để nói về sự quặn đau của trái tim người con trai khi phải xa cô gái yêu của mình - Đấy, thơ của Xuân Quỳnh viết tuyệt đến thế! Chính vì vậy "Thuyền và biển" mới đạt được là một bài thơ hay của thi đàn, để lưu vào nền văn học và lịch sử thi ca.
    Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết của cả hai bài -  Trong "Thơ viết ở biển" Hữu Thỉnh kết:
          Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
          Vì sóng đã làm anh/ Nghiêng ngả/ Vì em...

     Cảm xúc viết thơ đến đây của Hữu Thỉnh bị bí, thơ hơi quẩn. Vì là một bài thơ viết ở biển nên tác giả mới lấy hình tượng sóng để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng hình ảnh:
          Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
    Như phân tích ở đoạn trên, "biển" tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai, mà sóng cũng chính là biển - tức là "anh" rồi! Thành ra nghĩa ở câu này sẽ là: Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em???... Hữu Thỉnh hay mắc một thứ bệnh tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tùy tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em" - Nỗi thơ chưa được đẩy tới tột cùng, cho nên chưa viên mãn. Bài thơ kết bị đuối.
    Ta hãy xét đến đoạn thơ kết  trong bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Vẫn là hình tượng "thuyền", "biển" để làm biểu tượng về người con trai và cô gái,  nhưng ý tình thơ đã được đẩy lên tới tột cùng:
          Nếu từ giã thuyền rồi
          Biển chỉ còn sóng gió
          Nếu phải cách xa anh
          Em chỉ còn bão tố...

    Nghĩa là, nếu phải chia ly thì cả đôi trai gái trái tim đều đau đớn và cuộc đời sẽ tan vỡ!
    Đánh giá về độ hay cũng như tầm vóc thi ca của hai thơ về biển trên - có thể nói: Thơ Hữu Thỉnh kém Xuân Quỳnh gần một tầm.
    2/.  Xin nói đôi nét về "Sang thu" - Tuy chưa bằng "Thơ viết ở biển", song Sang Thu cũng là một trong đôi ba bài thơ xuất sắc nhất của Hữu Thỉnh. Đó là một bài thơ mà tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
          Vẫn còn bao nhiêu nắng
    Nhưng:
          Sương chùng chình qua ngõ
          Hình như thu đã về.

    Tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở dạng một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự tả đó là khéo và có hương sắc. Nào là:
          Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se
    Rồi:
          Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã
          Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu

    Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
          Sấm cũng bớt bất ngờ
          Trên hàng cây đứng tuổi

    Tức là tác giả mới cảm xúc về một khung cảnh thiên nhiên cùng với những sự vật xung quanh mà miêu tả nó ra mà thôi. Tuy sự miêu tả có gợi cảm nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, tư duy trong chưa sâu. Đọc Sang Thu muốn cảm nhận ra một nỗi đời hay một ý tình trắc ẩn nào đó... dù của nhà thơ hay nhân gian, là không có? Bài thơ không đủ sự viên mãn cần thiết để được coi là một bài thơ hay. Lại xin đưa ra vài dẫn chứng cụ thể để minh chứng.
    * Thí dụ "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan - Một bài thơ thất ngôn bát cú. Sau bốn câu đầu mô tả cảnh vật xung quanh: nào là cỏ cây hoa lá  thì mọc chen trong khe đá, mấy chú tiều dưới núi,  thưa thớt vài quán chợ bên sông. Nhưng chỉ bằng hai câu ở giữa bài, cũng vẫn là mượn cảnh vật để mô tả đã ôm bọc cả nỗi tình về nước, về nhà... của lòng bà gửi trong đó:
          Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
          Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

    Để rồi cuối cùng tác giả lại trở về với cõi lòng đang da diết giữa chốn Đèo Ngang hoang vu:
          Dừng chân đứng lại trời non nước
          Một mảnh tình riêng ta với ta

    Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích, cho nên nó mới sống mãi với thời gian và nền văn học nước nhà.
    Lại quay trở về với "sang thu" của Hữu Thỉnh  - Tuy tả cảnh có đẹp nhưng nghĩa thơ thì còn quá ít, nó chỉ như một bóng mây có vân sắc bay ngang qua bầu trời thơ mà thôi.
     Tuy vậy thi phẩm vẫn được coi là bài thơ miêu tả khá, đứng được - nhưng chưa đủ sự sâu sắc để tạo thành một đài thơ hay như các bài thơ đã kể trên.

    * Tôi xin dẫn chứng bài "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử - cũng chỉ là  một bài thơ tả cảnh mùa xuân:
          Trong làn nắng ửng khói mơ tan
          Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
          Sột soạt gió trêu tà áo biếc
          Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.

    Tình thơ được phát triển đầy ắp nỗi lòng, tình làng xóm quê hương của người thi sĩ. Cái cảnh mà thi nhân vẽ lên trong buổi sáng mùa xuân ấy hết sức đời và sống động:
          Bao cô thôn nữ hát trên đồi
          Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
          Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...

    Hay là khi tả về tiếng hát:
          Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi /  Hổn hển như lời của nước mây...
    Không phải chỉ là nước mây hổn hển, mà chính là lòng thi nhân hổn hển... vì xúc động đó! Tất cả dội vào sự thiết tha của người thi sĩ:
          Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc /  Xem ra ý vị và thơ ngây...
    Để rồi đến khi kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên da diết một nỗi nhớ thương về làng quê và những người thân. Vì lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn, một nơi biệt lập xa cách với sự sống con người. Cảm xúc ấy được thăng hoa và đẩy đến tột cùng:
          Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
          Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
          - Chị ấy năm nay còn gánh thóc
          Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

    "Chị ấy" là hình ảnh người chị ruột mà trong cuộc sống thường ngày vẫn chăm sóc thi nhân hiện lên bên bờ con sông mộng. Hình ảnh "nắng chang chang" chẳng những chỉ hiện lên khung cảnh của làng quê chói chang trong ý tưởng thi nhân, mà nó còn đẩy tình thơ đi đến sự viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc một nỗi tình đời sâu sắc như thế mới được gọi là thơ hay!
    Chứ như những câu kết trong "Sang thu" của Hữu Thỉnh: 
          Vẫn còn bao nhiêu nắng
          Đã vơi dần cơn mưa
          Sấm cũng bớt bất ngờ
          Trên hàng cây đứng tuổi.

    Vẫn chỉ là những câu thơ tả cảnh thuần tuý, hơi hơi cảm... chứ đã có nỗi tình đâu mà viên mãn để được gọi là thơ hay? Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử...  mà có tiếng, trong văn đàn bài thơ này cũng chỉ bình bình.
    * Lại ví dụ như "Thu Điếu" của Nguyễn Khuyến - Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình thì hiu hắt, với nỗi cô đơn của người ẩn sĩ... khi ông chán nơi quan trường từ quan về nương náu chốn thôn hương:
          Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
          Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...

    Nhất là trong hai câu kết:
          Tựa gối buông cần lâu chẳng được
          Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

    Ta thấy chẳng những hình ảnh thơ chứa cả cuộc sống bên trong rất sống động, thơ như có thần và cuộc đời... một tâm trạng khắc khoải chênh vênh  trong cái đêm thu ấy. Sâu sắc vậy nên Thu Điếu mới trở thành bài thơ hay!
    
    3/. "Năm anh em trên một chiếc xe tăng" của Hữu Thỉnh - Một bài thơ viết theo kiểu anh hùng chủ nghĩa của một thời, không đủ giá trị để đạt tới là thơ trường cửu đối với nền văn học. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường, Giọng điệu viết từa tựa như kiểu đồng ca, hò vè... chưa có gì thật đặc sắc. Qua thời gian  thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.
    Chắc rằng mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng quốc gia hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ, may ra có vài ba tình thơ gì đó đứng lại được trong những năm tháng gần. Nếu đã không có nổi một tập thơ nào tồn tại đối với nền văn học, thì khi đó không biết nên xếp chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào đây?

    BÀN THÊM VỀ BÀI THƠ "HỎI", MỘT BÀI THƠ ĂN CẮP CỦA HỮU THỈNH -
    Từ mấy năm trước - bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh đã bị tác giả Đại Lãng Du Tử tố cáo trên vietnamnet.vn, vạch trần là đạo thơ theo bài "Thượng đế tạo ra mặt trời" của nữ văn sĩ người Đức Christa Reinig. Sau đó chẳng ai còn buồn nhắc đến nó nữa. Trong sáng tác thơ ca ăn cắp thơ của người khác rồi biến tấu làm thơ mình là điều rất thối tha, đê tiện đối với một nhà thơ chuyên nghiệp. Thế mà ông Chủ tịch Hội nhà văn, kẻ tham lam đủ thứ cũng mắc luôn vào. Nhưng đã chót thế, thôi thì im đi cho nó xong. Đằng này, vừa qua Văn Chinh còn bới lại để cố bênh vực cho... "thày"! Thật là một tay đồ đệ ngốc nghếch. Như Trần Mạnh Hảo đã chỉ trích:
    "Sau những lần "đeo khiên" che chắn cho Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh mà giờ Văn Chinh đã có "tí ti bột ngọt". Còn cái loại vung tay, đá chân ngang ngóc nhìn giải thưởng mà khóc nhé, sữa thơm chỉ vắt cho chú nào biết cúi xuống. Bài biện của nhà văn Văn Chinh, cho rằng bài thơ "Hỏi" của nhà thơ Hữu Thỉnh không đạo văn...
    Dù Văn Chinh cũng giỏi cãi, song "hàng lộ" rồi, thơ ta và thơ tây đều "nguyên con" ở đấy, dân tình có quáng đâu mà nhìn gà hoá quốc. Thật là, yêu nhau như thế bằng mười hại nhau. Làng văn đều dưới quyền ông chủ tịch Hội, đã lâu rồi, đều lờ lớ lơ quên đi bài thơ "Hỏi", thì Văn Chinh lại bạo gan bới thối lại?...".
    Tôi chỉ nói thêm: Thật ra bài thơ "Hỏi" cũng đâu có phải là bài thơ hay? Nói như nhà phê bình văn học Đặng Tiến đã nhận xét: "nó là một bài thơ xoàng, không hay không dở" - là hợp lý. Nhưng cái giống văn thi sĩ đương đại bây giờ, nhất là một số văn sĩ Hội nhà văn vo ve xung quanh Hữu Thỉnh cứ tâng bốc lên, tung hoả mù, hoa giấy loạn xạ vào bạn đọc là quần chúng... ca mãi nó lên tận mây xanh.
    Như Nguyễn Trọng Tạo đã ví về sự đạo thơ của Hữu Thỉnh như sau:
    "Đặt 2 bài thơ của 2 tác giả một Đức một Việt cạnh nhau sao nó giống nhau đến thế. Giống nhau về lập tứ, giống nhau về tinh thần, giống nhau về tư tưởng, giống nhau về cả cách hỏi, cách lập ngôn. Nó như là thơ “phỏng dịch” của nhau vậy... Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ... những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh "trẻ người non dạ" mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội nhà văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội nhà văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biết nó là giải thật hay giải dổm?"
    Nói cho đúng mức: cái làm nên giá trị đối với bài thơ là ở tính nhân văn của nó cao - chính là câu thơ nói về người ở cuối bài. Thì giá trị nhân văn cao ấy là nguyên si tứ bài thơ của Christa Reinig đấy chứ, có phải của Hữu Thỉnh đâu? Nữ văn sĩ người Đức thì hỏi "gió, mặt trời, sao..." cuối cùng đến người - Hữu Thỉnh giữ nguyên tứ đó nhưng thay mấy đối tượng thành "hỏi đất, hỏi nước, hỏi cỏ" cuối cùng... cũng hỏi người. Hữu Thỉnh đã cóp nguyên si tứ thơ của Christa vào bài thơ "Hỏi" của mình.                                                                                                                  
    Thế nào mới là copy hả ông nhà văn Văn Chinh? Chả lẽ phải giống như đứa con nít mới vỡ bọng cứt học vỡ lòng, phải đi mua quyển vở tập viết về cho nó tô theo từng nét chữ rồi đánh vần a, b, c... mới gọi là copy sao? Biến tấu thế còn non đấy. Một tay nhà thơ "nghệ" hơn, muốn ăn cắp thơ nó không dừng lại nguyên cái tứ như thế đâu? Nó còn pha mắm, pha muối vào cho biến dạng hẳn đi. Chắc Hữu Thỉnh chủ quan cho rằng: chẳng ai biết đấy là đâu? Đúng là lưới trời lồng lộng, khuất tất, đen tối rồi cũng bị phơi bày ra ánh sáng.
    Thật là nhục nhã cho cả Hội nhà văn quốc gia có một ông Chủ tịch đổ đốn đến như thế!
    CHƯA CÓ GIAI ĐOẠN NÀO MÀ CHÂN DUNG CÁC NHÀ THƠ HỘI NHÀ VĂN THẤP KÉM NHƯ BÂY GIỜ
    Trong đương đại hiên nay - ngay cả các loại nhà thơ kỳ cựu như Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương... và hầu hết các nhà thơ dẫu có tên tuổi khác chẳng ai có nổi một hai bài thơ thực sự được gọi là thơ hay của thi đàn. Thí dụ, cao nhất của Hữu Thỉnh là bài "Thơ viết ở biển" như tôi vừa phân tích trên, của Thanh Nhàn là "Hương thầm", Vũ Quần Phương "Đợi", Bằng Việt "Nghĩ lại về Pauxtôpxky" (chứ không phải Bếp Lửa)... đều mới đạt ở bài thơ khá, chưa đựơc vào loại thơ hay của nền văn học nước nhà như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Mùa Xuân Chín hay Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử, Thu Điếu của Nguyễn Khuyến, Tranh Loã Thể - Bích Khê, Thuyền và biển của Xuân Quỳnh...
    Kể từ 1975 đến nay, hầu hết trong lớp nhà thơ đương đại chưa ai vượt qua nổi xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh tuy chưa đạt được là một nhà thơ lớn nhưng chí ít bà cũng lưu lại được cho thi đàn Việt một mảng thơ... trong đó có "Thuyền và biển là một bài thơ tình tuyệt hay cùng một số tình thơ đặc sắc. Trong khi hầu hết các nhà thơ đương đại của Hội nhà văn tuy viết nhiều nhưng thơ ca nhàm nhúa, chân dung thấp và không có khả năng tồn tại. Chỉ một số ít, may ra mỗi người có một đôi bài nhâm nhi kha khá sống được trong những năm tháng gần. Theo con mắt thơ của tôi: Gần như cả một đương đại thơ ca, hầu hết các nhà thơ HNVVN (trừ Xuân Quỳnh), không một nhà thơ nào có nổi một tập thơ sống được với đời và để lưu lại cho nền văn học nước nhà.
    Xin mở ngoặc nói thêm: vừa qua tôi có bình và đăng trên một số trang mạng bài thơ "Bờ sông vẫn gió" của Trúc Thông, là một bài lục bát hay.  Thực ra nó hay là hay ở chất lục bát, chứ xét về ý tứ của cả tình thơ thì chưa thật sự đạt được độ viên mãn, hoàn bích của một bài thơ hay. Nhưng dù sao thì Trúc Thông cũng đã lưu lại được cho nền văn học một bài thơ lục bát quí viết về mẹ. Mới lại, đời thơ Trúc Thông cũng chỉ được mỗi bài "Bờ sông vẫn gió" đó! Người ta nói rằng: Ông là một nhà thơ cách tân! Cho là thế, dù có cách tân đến mấy nếu không thành thì cũng bỏ đi. Tôi cho rằng, đời thơ Trúc Thông là một sự thất bại trong cái thất bại chung của phần lớn lớp nhà thơ hậu chiến cùng thời với ông mà thôi. Chân dung thơ Hữu Thỉnh và Vũ Quần Phương cũng không ngoại lệ.
    Tôi từng nói với Trần Đăng Khoa rằng: Chân dung các nhà thơ đương đại của HNVVN hiện nay là thấp nhất trong lịch sử thi ca của nước nhà. Từ lớp nhà thơ vào thời hậu chiến như Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương đến nhiều các nhà thơ đương đại khác.... hầu hết rồi thơ phú sẽ sổ toẹt hết, chết đi là mang theo thơ xuống mồ. Như Gớt nói: tầng tầng bụi phủ... Kể cả lớp kế cận sau như Nguyễn Quang Thiều hay Vi Thuỳ Linh, thơ cũng chưa đứng được đâu!... Mà thơ không tồn tại thì làm gì có chân dung thi nhân thực sự cơ chứ? Nói gì đến "lớn" với chả "cao"...
      CHÂN DUNG & TÁC PHẨM THƠ ĐƯƠNG ĐẠI THẤP KÉM
    THẾ NHƯNG LẠI QUÁ NHIỀU TẠP DỊCH

    Chưa bao giờ Hội nhà văn lại nhiều uế tạp như dưới triều đại lãnh đạo của ông Chủ tịch Hữu Thỉnh? Chỉ kể vài chuyện gần đây - Nào "Hội thảo thơ  Nguyễn Quang Thiều",  mà ông Chủ tịch Hữu Thỉnh cùng Viện trưởng Viện văn học Nguyễn Đăng Điệp bốc thơm lên tận mây xanh... với một ý thức cá nhân đầy thiển cận. Bị dư luận trên văn đàn trong và ngoài nước phê phán, bài xích rất nhiều.
    Một hội thảo thơ lợi dụng danh nghĩa quốc gia của hai ông đứng đầu hai tổ chức văn học lớn nhất nước, mà những đàm luận nào nhà văn, nhà thơ, phê bình lý luận văn chương quá bát nháo... chẳng có nổi một tầm thước nào khả dĩ có thể nể trọng, về cả tài lẫn nhân cách bình phẩm văn học. 
    Như nhà bình luận Nguyễn Đình Chúc đã đánh giá: "Hội thảo thơ hay là thổi kèn đám ma nền thi ca việt Nam đây?
    Hoặc theo cách nói của Trần Mạnh Hảo thì đó là"Hội thảo thơ Tân con cóc Nguyễn Quang Thiều", nhận định: "Thi pháp Nguyễn Quang Thiều là thi pháp phản truyền thống: truyền thống cho thơ phải đa nghĩa thì ông Thiều quyết làm thơ đơn nghĩa; truyền thống cho thơ phải kiệm lời thì thơ ông Thiều rất lắm lời; truyền thống cho thơ phải hàm súc thì ông Thiều làm loài thơ lạnh tanh, xoá mọi hàm ngôn (tâm hồn lạnh tanh máu cá/ Nhiệt tình xuống quá độ âm - Chế Lan Viên); truyền thống cho thơ phải êm tai, phải có nhạc tính thì thơ ông Thiều chủ trương phải gắt như mắm tôm; truyền thống cho thơ phải có âm dương điều hoà trong ngữ nghĩa thì ông Thiều chủ trương phải độc âm hay độc dương - ... Rằng thơ thì phải rậm lời, lắm lời, lắm điều, cần phải kéo dài câu thơ ra như kéo dài kẹo kéo, v.v...".
    Đành rằng nói như thế cũng hơi quá đáng, hay cho rằng đấy cũng chỉ là đánh giá của người này, người nọ?... Vậy thực chất thì sao? Thực chất Hội thảo thơ Nguyễn Quang Thiều để lại cho văn đàn đương đại một kết quả rất là... ba lăng nhăng. Với cái đám văn sỹ tham gia hội thảo khen nhặng xị thơ Nguyễn Quang Thiều - Kẻ chuyên chân dung lý luận thì huyên thuyên với mớ kiến thức cận thị rất sách vở, làm sao mà đánh giá đúng đắn được một tác phẩm thơ ca? nhất lại là thơ hiện đại. Còn đứa sáng tác cụ thể thì nông cạn, kém cỏi - đến thơ của mình viết ra rồi mai đây cũng chỉ để... cho vào sọt rác, thì thử hỏi làm sao có thể đủ khả năng đánh giá được thơ hay với chả không hay? Cùng hai ông: Một viện trưởng, một Chủ tịch Hội nhà văn - nhận thức để thẩm định tác phẩm thơ hiện đại vẫn còn rất mông muội. Thật là lắm kiểu "dổm".
    Khi một bình luận viên hỏi Nguyễn Quang Thiều : "Ông có nghĩ về tác phẩm của mình như một di sản để lại"? Ta hãy nghe Nguyễn Quang Thiều trả lời: "Tôi không xem những điều mình viết như một di sản để lại... những tác phẩm? Thật khó có thể trường tồn. Tôi không dám nghĩ điều gì cả - Tôi chỉ mong hậu duệ của mình sau này đọc những bài thơ tôi viết ngày nay có thể nghĩ về năm tháng trong gia đình ấy, mọi người đã sống như thế nào? Mọi thứ rồi sẽ có thể bị quên lãng... "
    Kể ra Nguyễn Quang Thiều nghĩ thế cũng phải. Thơ Nguyễn quang Thiều trường tồn làm sao được? Sẽ cát bụi thôi... Quang Thiều ạ! Nhưng ngay cả cái ước nguyện mà Thiều muốn "được hậu duệ sau này đọc thơ của mình..."? E, cũng chỉ là một sự hoang tưởng...
    Muốn hậu duệ chúng còn giở thơ Thiều ra đọc, để ngẫm nghĩ về những gì Thiều đã sống hôm nay ư? Hoạ chăng Thiều phải trở thành nhà thơ lớn của đất nước, của dân tộc - Còn thì chúng chẳng bận tâm đến quá nhiều cái mớ hỗn độn, bùng nhùng  hôm nay đâu. Dù trong thơ ca Thiều có muốn dồn nén bao nhiêu ý tưởng hay tình cảm vào đó chăng nữa. Nhưng nếu Thiều trở thành nhà thơ lớn?... thì, mỗi bước đi của Thiều ngày hôm nay... giấc ngủ... sự trăn trở hay những mộng mơ của Thiều... chúng cũng sẽ tìm tòi lại hết, để nuôi sống mãi với quê hương, đất nước. Đời thế đó! Lịch sử rồi sẽ công bằng. Là đại bàng thì rồi đại bàng sẽ bay. Còn nếu chỉ là chim cu hay chim sẻ? dù hôm nay có được cho vào trong lồng son chăm sóc, hoặc tung hứng lên tận mây xanh...  thì nó vẫn cứ chỉ là chim cu, chim sẻ thôi.  
      LẠI BÀN ĐẾN VIỆC ÔNG CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN TRƠ TRẼN NGỢI CA
    THỨ THƠ ĂN CẮP, LOÈ BỊP HOÀNG QUANG THUẬN

    Bị dư luận văn đàn trong nước và hải ngoại lên án, phỉ báng - rằng:                                  "Trong cuộc hội thảo của Hội nhà văn Việt Nam do ông Hữu Thỉnh chủ trì để tuyên truyền, tụng ca thơ viết về Yên Tử của Hoàng Quang Thuận lên hàng thơ thần, thơ phật, thơ tiên, thơ thánh nhằm tìm mọi cách dành giải Nobel cho ông Viện trưởng công nghệ thông tin.... Hoá ra, ông viện trưởng "gà sống thiến sót) này đã nói dối, rằng thơ thẩn của ông là thơ ăn cắp... Tội lừa đảo cả thế giới, lừa đảo cả trời phật này của liên danh thơ thẩn Hoàng Quang Thuận - Hữu Thỉnh to lắm, nặng nghiệp lắm, đê tiện lắm...                                  
  Mục tiêu của liên danh thơ thẩn này trước hết là danh sau đó là tiền. Hữu Thỉnh từng nổi tiếng về chuyện ăn cắp thơ nên ông vẫn rất hạp, rất nghiền một ông thơ thẩn viện trưởng đại ăn cắp khác. Cho hay, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã... Hữu Thỉnh, vua xin dự án, vua xin tiền trợ cấp sáng tác, nhân đà này, chắc chắn sẽ xin nhà nước trợ cấp hàng nhiều tỉ đồng làm phim về thi thánh thi tiên Hoàng Quang Thuận... Nếu không có các anh Trần Trương, Nguyễn Hoà, Nguyễn Minh Tâm... những người chân chính vạch rõ trò lừa đảo của liên danh thơ thẩn bẩn thỉu này, chắc chắn hàng trăm tỉ đồng của nhân dân sẽ mất toi để quảng bá cho một sản phẩm thơ ăn cắp thành thơ tiên thơ thánh thơ phật thơ trời để đánh lừa nhân dân, lừa thế giới và lừa cả trời phật của Hoàng Quang Thuận - Hữu Thỉnh...".
    Như thế càng thấy rõ bộ mặt thật của Hữu Thỉnh - thực sự đã trở thành một kẻ phá hoại, hại dân, hại nước. Trên địa bàn văn học nói chung, Hữu Thỉnh với cương vị một Chủ tịch Hội nhà văn quốc gia nhưng chẳng khác nào thủ lĩnh của một đám người "gian manh cơ hội".  
    Gần đây nhất dư luận trong văn đàn lại chỉ trích về:
    "GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NĂM 2012" CỦA HỘI NHÀ VĂN
                                   còn tạp? 
    Xin nói riêng những xàm bậy về giải thưởng thơ - Ngoài hai tác phẩm "Trường ca chân đất" của Thanh Thảo và "Giờ thứ 25" của Phạm Đương mà dư luận chê bai là viết dở nhạt như nước ốc.
    Giải thưởng cho tập thơ “ Màu tự do của đất” của Trần Quang Qúy bị dư luận lên án nhiều nhất. Trần Mạnh Hảo gọi đó là một "Tập thơ nước cống". Lời chỉ trích như sau:
    "Tại sao chúng tôi gọi thơ của Trần Quang Qúy là thơ nước cống vì nó viết quá dễ dãi, quá nhạt nhẽo, viết lăng nhăng, lảm nhảm, thô tục, phi cảm xúc, phi hình ảnh, phi hình tượng, phi hàm súc, phi nội hàm, nói toẹt ra những câu nói thường nhật tào lao chi khươn, hoàn toàn phi truyền cảm, phi cấu tứ, phi tư tưởng, phi thơ…".
    Nào là:
    "Trần Quang Qúy làm thơ như là nhái thơ Nguyễn Quang Thiều, phó bản của Nguyễn Quang Thiều. Nếu Nguyễn Quang Thiều là giáo chủ của trường thơ TÂN CON CÓC VIỆT NAM thì Trần Quang Qúy đã trở thành phó giáo chủ của trường thơ nước cống này…".
    Tôi chỉ nói thêm: "Màu tự do của đất" của Trần Quang Quý là thứ thơ học đòi theo kiểu làm thơ Nguyễn Quang Thiều, nhưng vẫn còn vụng. ngôn ngữ thơ viết cứ như thể cố làm bộ làm tịch, nhiều chỗ đọc nó ngô nghê, ngọng nghịu, giả cầy, giả cáo... đến buồn cười.  Ý tứ vặn vẹo, triết lý thế này thế nọ, cứ như một cô gái vô duyên nhưng lại hay thích ưỡn ẹo, làm đỏm. Sự bắt chước viết thơ như thế là một điều ngu xuẩn nhất của một thằng làm thơ. Có mất công rồi cũng chỉ để... vứt đi. Huống hồ thơ Nguyễn Quang Thiều cũng đã thành công đâu? Nhưng dù sao Nguyễn Quang Thiều tuy thơ chưa đạt tứ, đạt nghĩa nhưng đã thành một kiểu thơ, một loại thơ riêng của Nguyễn Quang Thiều. It nhiều Thiều sáng tác thơ cũng đã có bản ngã. Đằng này Quý học mót theo kiểu làm thơ ấy... thật là một thứ trò cười của một gã nhà thơ "dổm" của HNVVN vậy.
    Cũng chẳng hiểu Ông Chủ tịch Hữu Thỉnh cùng bậu xậu giám khảo của Ban chấp hành xét giải kiểu gì? Cho giải kiểu đó có khác chi là... phóng uế bừa bãi?
    Mấy năm trước Trần Quang Quý nguyên là Tổng biên tập báo "Gia đình & Xã hội" - Nghe dư luận hồi đó: Quý mắc vào một vụ bê bối tiền bạc ở toà báo, hình như là "tiền tình nghĩa" gì đó? Khi ấy có tin đồn: có thể Quý sẽ bị truy tố? Nhưng sau nghe đâu là nhờ Hữu Thỉnh đã lo lót, chạy đỡ nên Quý thoát  khỏi vòng lao lý, nhưng bị trục xuất ra khỏi toà báo "Gia đình & Xã hội". Sau đó Hữu Thỉnh định đưa Quý về làm phó tổng biên tập báo Người Hà Nội, nhưng bị Ban tuyên huấn Thành Uỷ Hà Nội (cơ quan chủ quản của báo Người Hà Nội) không chấp nhận vì đã có tỳ vết, không còn trong sạch. Cuối cùng thì Quý được Hữu Thỉnh đưa về làm phó giám độc Nhà xuất bản  Hội nhà văn cho đến nay.
    Đấy, cái kiểu sử dụng người của Hữu Thỉnh thường hay theo lề thói đó. Nghe anh em trong giới báo chí nói: Trần Quang Quý thuộc những đệ tử ngoan ngoãn nhất của ông Chủ tịch Hội nhà văn - Cho nên một tập thơ dù là "nước cống hay nước rãnh" được giải thưởng như vừa qua cũng chẳng có gì lạ? Như Trần Mạnh Hảo nói: Hội nhà văn quốc gia bây giờ là "Hội nhà văn Hữu Thỉnh", còn giải thưởng văn học của Hội cũng trở thành "giải đểu" mà? Ngoài đồng tiền là vật chất kèm theo, ý nghĩa giá trị của nó đã trở thành giải bèo, giải bọ...
    Ngay cả việc kết nạp hội viên vào HNVVN bây giờ cũng vậy. Dư luận bao năm nay vẫn chỉ trích rất nhiều, muốn vào Hội thì phải đút lót? nhất là đối với Ông Hữu Thỉnh - Cũng theo Trần Mạnh Hảo đã tố cáo:
     " Việc ông Hữu Thỉnh kết nạp "nhà thơ Hùng Anh" (tức Hùng Tấn, giám đốc công ty dược Cà Mau) - một kẻ làm thơ con cóc nhưng lắm tiền do tham nhũng vào Hội, là ông đã ném đá lên khát vọng vào Hội của các nhà văn chưa hội viên. Hùng Tấn  - Hùng Anh kết nạp vào Hội do tiền mới được hai tháng đã bị bắt vì tham nhũng hàng trăm tỉ đồng. Hiện vẫn còn trong tù..."    
    Hồi còn nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng viết bài trên báo Công an nhân dân lên án ông Chủ tịch kết nạp hội viên vào HNVVN có hành vi không trong sáng, cũng cố tình kết nạp một gã giám đốc nào đó ở phía nam, trình độ thơ ca tầm thường - mặc dù có số người không đồng ý... nhưng Hữu Thỉnh vẫn nhất quyết chỉ đạo đưa vào Hội. Sau đó hắn cũng phải vào tù vì tham nhũng.
    Có lẽ từ khi có Hội nhà văn Việt Nam đến nay chưa từng có một ông chủ tịch Hội nào lại nhiều xấu xa bẩn thỉu, nhân cách hèn kém như Hữu Thỉnh. Việc để một kẻ như Hữu Thỉnh tiếp tục làm chủ tịch, chẳng những biến Hội nhà văn: một tổ chức văn chương cấp quốc gia thành nơi chứa quá nhiều sự ô uế tạp dịch, mà còn làm cho nền thi ca của nước trở nên tầm thường, thấp kém - Thật là đáng hổ thẹn và nhục nhã thay?
                                                                                                               Hà Nội, mùa hè 2013
                                                                                              Phạm Ngọc Thái
 
                  Đã đăng trên nhiều website trong nước & thế giới:
          http://vandanvn.net/vi/ne...ot-chan-dung-tho-1819/
          http://lexuanquang.org/post/4181/
          http://www.truclamyentu.i...ung-tho-tam-thuong.htm
          http://to-quoc01.blogspot...06/pham-ngoc-thai.html
          http://blog.zing.vn/jb/dt...g/15771160?from=friend
          http://khucthedo.blogtien...4/p5453791#more5453791
          http://caubay.blogspot.co...va-nhan-cach.html#more
          http://69.194.230.19/~new...ZuLw%3D%3D&nin_b=1
           http://www.tiengchimviet....chan-dung-tho-tam.html
           http://www.vnmilitaryhist...thai/pnt_huu-thinh.htm
           http://www.vanganh.info/2...chan-dung-tho-tam.html
           http://nghiathuc.wordpres...uc-lam-chu-tich-hnvvn/
           http://thaianco.net/xuanl...1/chandunghuuthinh.htm
           https://www.facebook.com/.../posts/391346557640487
           http://hung-viet.org/blog...uc-lam-chu-tich-hnvvn/
    .

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 28.08.2013 18:15:19
Phạm Ngọc Thái với "Chùm thơ hay về tình yêu & đàn bà"
                                  
Trần Tứ Đức 

 
Cái tên gọi "tình yêu & đàn bà" không phải do tôi đặt ra, mà là nhan đề một chùm thơ của nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã đăng nhiều trên các trang mạng. Trong bài của một văn nghệ sỹ ở Việt-Nam-thư-quán "Về một huyền thoại thi ca", khi bình phẩm thơ ông - có đoạn viết:
- Phạm Ngọc Thái là một nhà thơ của tự do. Thơ ông thẳm sâu như bể cả mà rung rinh tựa lá hoa ngàn. Ông viết về nỗi đời dân gian, về tình yêu và đàn bà... Đọc thơ ông như đi vào trong động tích, càng vào sâu càng huyền thẳm vô biên.
Hiện ông đang sống cùng gia đình trong một ngôi nhà gác nhỏ. Phía trước trông ra khu quảng trường thành phố, mặt sau soi bóng xuống hồ Tây quanh năm sóng vỗ. Cõi trần ai ông đã nếm đủ mùi khổ hạnh, đắng cay... cũng từng có những tháng năm phiêu du qua hải ngoại, rồi trở về vui thú trong cảnh sống phong trần của một thi nhân - Viết để lại cho đời một Bộ-thi-ca-thời-đại tầm vóc với bao nhiêu áng thơ tình huyền diệu, sẽ còn sống mãi với sơn hà...

Thơ tình hay ở các cung bậc khác nhau của Phạm Ngọc Thái thì nhiều, tôi chỉ chọn ra đây ba bài theo ý riêng mình và chưa có ai bình. Gọi là để đàm đạo ở tao đàn cùng vui trong chốn văn chương:
1. "Người đàn bà trắng" - Một đỉnh cao trong thi ca.
2. "Cây thầm tiếc bóng"
3. "Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ".
Xin đi thứ tự từng bài một:
           A. NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
               Người đàn bà đi trong mưa rơi

               Chứa một trời thầm như hoa vậy...
 
Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!
 
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời.
 
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
 
Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
 
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.
 
Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
                     Thơ - Phạm Ngọc Thái
Lời bình: Theo như bình luận ở giới văn chương, báo chí: "Người đàn bà trắng" là bài thơ tình hay nhất của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Trên con đường vô định của tình yêu, những đêm hoang vắng và sâu thẳm trong không gian mênh mông, lòng nhà thơ vẫn âm thầm khắc khoải nhớ về mối tình đã qua:
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...

Những ngôi sao trên vòm trời xa xôi kia, ngọn gió đêm vô tình... nó cũng hiu hắt như nỗi vắng vẻ, trống lạnh của lòng chàng. Tác giả gọi em là "Người đàn bà trắng", thực ra khi ấy em vẫn còn là một thiếu nữ. Từ chiếc mũ vải trắng mềm một thuở nào người yêu thường đội lệch trên đầu, lẫn vào trong khóm mây. Khóm mây đó lại vờn bay trên mái tóc nàng - Tất cả đã trở thành ấn tượng để nhà thơ mô tả về hình ảnh người đẹp:
Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!
Đó là đôi mắt của mùa thu huyền diệu và xa thẳm. Bích Khê cũng từng mô tả về đôi mắt đẹp của người mỹ nữ trong bài thơ "Tranh loã thể" nổi tiếng của ông, rằng:
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường...
Nó chìm ngập một thế giới, chiếu rọi vào ngõ nghách tâm hồn của thi nhân sáng bừng lên. Hay như Xuân Diệu tả về đôi mắt người yêu cũng thật kỳ ảo:
Mắt em thăm thẳm như màu gió
Thơ cũng vàng trong như nắng hanh
Ta trở lại với bài Người Đàn Bà Trắng: Đôi mắt em đong những áng mây /- Như thể đã bao lần nhà thơ từng phiêu du trong đôi mắt ấy. Nó bộc lộ một sự hiền hoà, nhân ái. Tác giả lấy hình ảnh của vũ trụ qua cảm xúc mà mô tả, quyện với mái tóc nàng trong mây bay, gió cuốn... hiển hiện dưới bầu trời cao vời vợi. Bầu trời ấy vừa để nói về tình yêu của người đàn bà ở cõi nhân sinh, vừa là bầu trời của quê hương đất nước ta vậy.
Sang khổ thơ thứ hai - Hình bóng người thiếu nữ hiện lên trong một khung cảnh thiên nhiên rực rỡ:
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Cả thềm nắng hắt lên mình em như tơ lụa đất trời, có gió thổi, cây đưa... Vẫn chiếc mũ vải trắng mềm xưa mà em thường đội lệch, che lên khuôn mặt đẹp như một vầng trăng. Cái bờ hồ gió thổi ấy chứng kiến bao nhiêu kỷ niệm, những tháng năm anh đã sống êm đềm trong hạnh phúc tình yêu. Giờ đi lại trên con đường đã qua, anh như nghe thấy cả khúc tình ca đang sống lại. Mái tóc người con gái xưa vẫn xoã bay trên đôi vai trần trắng của nàng:
Xoã ngang vai mái hất tơi bời
Bồi hồi trong kí ức, hồn nhà thơ tựa con đò mộng lạc vào nơi bến vắng. Chỉ còn nghe thấy tiếng gió táp, mưa sa... cùng những chiếc lá vàng rơi phủ xuống trong trời đất:
Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
Tiếng lòng nhà thơ cất lên để gọi vọng tình em. Con đường giờ đây hoang dã trong qui luật bụi cát của thời gian. Con đường mà người con gái đã đến với cuộc đời anh. Năm tháng cứ trôi nhưng hình bóng em không phai nhoà. Hình ảnh đoạn thơ nghe như trong giấc mộng: xác gió, xác mưa, đã đầy xác lá, xác ve... trôi. Tưởng như cái bờ hồ gió thổi đó ngàn năm sau vẫn còn quyến luyến bóng hình người yêu ở đấy, mãi mãi trong trái tim thương nhớ của nhà thơ.
Xin trở lại để phân tích sâu thêm về khổ thơ thứ ba:
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Hình ảnh đã được cách điệu hoá: Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai! /- Biểu tượng thơ mô tả tuy mang màu sắc trừu tượng nhưng vẫn rất gợi cảm.
"Chùm trinh em hát...": Nó đã mang cái của nàng bay lên! Suy cho cùng vũ trụ và thế giới đều tồn tại, sinh ra ở đó. Nó vừa vĩ đại và man dại. Nếu không có cái chỗ thiên thai ấy của người đàn bà thì không có cả linh hồn lẫn sự sống, cũng không có ý nghĩa gì về lịch sử của thế giới này. Còn câu thơ:
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Đại văn hào Lép-Tônxtôi - Ông là một thiên tài xây dựng hàng trăm tính cách về đàn bà có những mẫu mực khác nhau. Người từng nói những câu đại ý rằng: Không thể đưa ra những nguyên lý có tính khuôn mẫu nhất định đối với người đàn bà, chỉ có những sự tìm tòi, tìm tòi và tìm tòi mãi...
Nàng không thể nào định nghĩa được trong sự tồn tại của đời ta? Câu thơ treo trên đầu ta như một câu hỏi vĩnh cửu, lại như thể một định mệnh.
Tôi bình khổ thơ thứ năm:
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.
Là một mảng thơ đời, đã triết lý về những mâu thuẫn giữa tình yêu và cuộc sống của nhà thơ với người-đàn-bà-trắng. Đó cũng là một nghịch lý cuộc đời: Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu /- Còn anh cũng không đầy mình để làm mãi cái anh chàng Trương Chi suốt đời chèo thuyền trên con sông quạnh vắng, cô đơn, rồi tương tư nàng Mỵ Nương mà chết. Hay, cái con-đường-lông-ngỗng-trắng mà nàng Mỵ Châu đã rắc cho chàng Trọng Thuỷ theo, thần tượng thì rất đẹp, nhưng để cuối cùng chàng cũng nhảy xuống biển mà chết, hoá thành ngọc trai giữ tình son sắt với nàng. Nó bi ai quá!
Cái hay của khúc triết lý trong bài thơ Người Đàn Bà Trắng là nó đã được viết như đời. Dẫu mối tình bị tan vỡ phải chia lìa năm tháng, nhưng tình thơ đã không kết thúc bằng sự bi thảm. Đôi trai gái vẫn phải sống và tồn tại, dù là theo chiều gió cuốn cuộc đời. Phải chăng đó cũng là một cuốn tiểu thuyết "cuốn theo chiều gió" như bao bi kịch tình-đời trên bờ bến nhân gian? Cả đoạn thơ thấm đẫm máu tim, được bật ra trong đời sống đầy mất mát và đau đớn của tình yêu.
Đây là một trong hai mảng thơ xương cốt nhất - Mảng thơ thứ nhất như trên đã nói, chính là khổ thơ thứ ba:
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!...
Cùng với khổ thơ thứ năm này - Làm thành nền tảng, như tim óc, tuỷ sống cho cả tình thi. Nhà thơ vẫn thiết tha khao khát gặp lại người thiếu nữ:
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Ngọn lửa tình đã từng sưởi ấm trái tim anh. Để rồi bài thơ được kết thúc bằng một câu thơ đẹp nhất về nàng:
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
Đây là một câu thơ siêu thực chứa đầy trầm tích đã được thăng hoa. Một thiên tạo vĩ đại đang nép trong tấm thân người đàn bà trẻ hay chính nàng là một vầng trăng? Cái vầng trăng ấy của nàng nó cứ nguyên thuỷ như hang động thời tiền sử, lại huyền bí như thánh linh. Nhưng chao ôi! Dù gì thì nàng cũng "ngậm" cả cái vầng trăng của nàng rời bỏ nhà thơ để đi rồi! Những tháng năm buồn nhớ người yêu, anh đã viết ra thiên tình ca Người Đàn Bà Trắng bất hủ này để lại cho thế gian.
"Người đàn bà trắng" là một bài thơ tình hay thuộc vào hàng đỉnh cao trong thi ca, với sự viên mãn và hoàn bích của nó. Tình thi sẽ còn sống mãi với thời gian cũng như nền văn học nước nhà.
TTĐ.






          B. CÂY THẦM TIẾC BÓNG
Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ.
 
Anh ngắm liễu bên hồ càng nhớ bóng
Ai ru mình trong trăng sáng nép vào anh
Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn
Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân...
 
Người đàn bà ra đi không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ
Và gió nữa cũng giông cuồng rồ dại
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô.

Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt
Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường.

Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Hoa sẽ úa, nhị sẽ tàn và lụi
Một đời trôi theo năm tháng xô bồ...
                    Phạm Ngọc Thái
                Trích tập "Rung động trái tim" 2009
Lời bình: Một bài thơ tình mà lại có cái tên "Cây thầm tiếc bóng"? Ta thấy trong khổ thơ thứ ba đã viết:
Người đàn bà ra đi không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ
Và gió nữa cũng giông cuồng rồ dại
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô.
Hình ảnh cây âm thầm tiếc bóng - Không phải là bóng của nó, mà là bóng của người đàn bà đã ra đi không trở lại ấy! Tác giả chỉ lấy thiên nhiên, trời đất làm biểu tượng cho sự chia ly tình yêu đó thôi. Đến gió cũng phải "giông cuồng rồ dại", hồn thi nhân thì tan tác, năm tháng hoá hư vô.
Tôi sẽ quay trở lại nói thêm về những câu thơ này - Giờ ta đến với khổ thơ thứ nhất:
Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ.
Khung cảnh: liễu đứng hát trong mưa và những lời thở than của nước, mỗi khi tiếng sóng vỗ xô bờ khe khẽ, xôn xao... vào trong cảm xúc nhà thơ như là những tiếng lòng thương nhớ, thuở nàng vẫn thường cùng anh đến bên hồ. Giờ sóng vẫn vỗ mà em thì mãi mãi không trở về. Rồi cái ánh hoàng chiều của một ngày tàn như bức rèm buông xuống phủ trùm lên mặt đất, để vào những giấc mơ đêm tưởng nhớ đến người yêu. Cách diễn tả tâm trạng hoà trong hình ảnh thiên nhiên đồng vọng tạo nên sự huyền thẳm của thi ca, chứa chất ý tình. Giọng điệu, ngôn ngữ thơ đọc lôi cuốn như lời hát mà vẫn sâu. Tuy không nói về người nhưng cảnh vật được nhân sinh hoá - Nghĩa là những cảnh vật ấy biết nói, thể hiện sự vui buồn, thương nhớ từ trong tâm tư, tình cảm của nhà thơ.
Về hình ảnh câu đầu:
Nàng đi mãi mà không trở lại
Hay là: Người đàn bà ra đi không trở lại /- Được điệp khúc nhiều lần bộc lộ một tình thương yêu da diết, song cũng là nhằm nhấn mạnh tình ý, chủ đề của cả bài.
Sang khổ thơ thứ hai:
Anh ngắm liễu bên hồ càng nhớ bóng
Ai ru mình trong trăng sáng nép vào anh
Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn
Đó phải là một người đàn bà đẹp và nhà thơ rất yêu nên lời thơ mới say sưa, hình ảnh duy mỹ như vậy. Mỗi khi ngắm những nhành liễu ru bên hồ, thi nhân lại nhớ tới bóng xưa. Những đêm trăng sáng hồi ấy, như vẫn còn đây cả tấm thân, hơi thở của nàng... lòng Người lại bồi hồi, da diết: Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn /- Thế mà nay chỉ còn là kí ức?... rồi tác giả buông xuống một câu thơ đầy xa xót:
Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân...
Ta tưởng như chính lòng mình tan vỡ. Về mặt cấu trúc đã đạt được độ viên mãn ngay của khổ thơ. Sang đoạn thơ thứ ba mà tôi đã nói ở phần đầu cũng thế - Cuối đoạn đã được gieo một câu thơ rất mạnh:
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô
Cho nên, tuy viết tung hứng theo sự thăng hoa của tâm hồn mà thơ vẫn súc tích, không rơi vào sự dàn trải tràn theo cảm xúc thường thấy của dòng lãng mạn trước kia. Hình tượng thơ giàu chất sống và đầy ắp nội tâm. Có khi những hình ảnh đó còn mang theo cả tính triết lý về tình yêu và đàn bà. Thí dụ, ta xem tiếp khổ thơ thứ tư:
Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt
Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường.
Thi nhân mô tả đôi mắt đẹp của người yêu... "đong cả trời biếc" - Còn khi tả về tấm thân nàng lại đưa ra một biểu tượng rất triết học:
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Để nói cả hai mặt: Người đàn bà vừa nồng nàn, êm ấm lại vừa là trái gió, trở giời và dông bão... làm trái tim ta đau đớn. Tấm thân đàn bà thật huyền diệu cũng như sức mạnh của tình yêu là vô bờ bến. Câu thơ sinh động mà tích tụ cả một đời sống tâm lý bên trong. Vì tha thiết nên lòng thi nhân mới: "... tê dại cõi hồn hoang biền biệt" - Nghĩa là khi người yêu xa, lòng thì sầu, tâm hồn thành hoang vắng, cô đơn.
Giọng thơ hay lại hàm chứa, tạo nên vẻ đẹp và tấm vóc của thi phẩm. Đến khổ thơ cuối cùng:
Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Hoa sẽ úa, nhị sẽ tàn và lụi
Một đời trôi theo năm tháng xô bồ...
Hình ảnh câu thơ: Người đàn bà ra đi không trở lại /- Được điệp thêm một lần nữa để khắc sâu vào lòng người sự nuối cảm. Một đặc điểm thơ Phạm Ngọc Thái khi nói về chốn dân gian, nhà thơ thường dùng hình tượng "bờ bãi...". Thí dụ như trong bài Váy Thiếu Nữ Bay:
"Bờ bãi con người" em trổ hoa trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Hay tình thơ Em Về Biển:
Bờ-bãi-đời-người cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
Còn bài Cỏ Hoang sáng tác ở nước ngoài, nói về hình ảnh một cô gái cùng những người xuất khẩu lao động sống trôi dạt trên đất khách quê người, tác giả viết:
Ôi, cuộc bèo hoang trời đất trầm luân
Và bản chất muôn đời còn muông thú
Nhà chính khách cùng đứa du côn tranh thủ chơi thánh nữ
Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang gieo hoa cấy linh hồn...
Đó chính là chốn bể dâu của đời người, bèo dạt mây trôi... với những sướng khổ, buồn vui, hạnh phúc và mất mát. Trong khổ thơ cuối của bài này, người đàn bà ấy cũng đang trôi dạt ở nơi đó. Như câu:
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Theo qui luật thời gian - Năm tháng cứ trôi... tất cả sẽ úa tàn, bụi cát. Thơ đưa ta vào cõi vô định của cuộc sống con người, chỉ có tình yêu trường cửu mãi không già. Giờ đây chỉ còn lại khoảng trời xưa, những nhành liễu, bờ hồ, trăng sao cùng những cơn mưa gió của lòng anh, của đất trời và cuộc sống với bao xô bồ, vật vã.
Điều đặc biệt bao trùm trong bài thơ là hầu hết đều dùng cảnh họa lòng. Những cảnh vật đó được tắm trong hồn, đầm đìa tình ý. Như trên đã nói, nào là: Liễu hát trong mưa, hồ nước than thở, chiều buông rèm mơ, nàng ru mình trong trăng sáng, cây thầm tiếc bóng, gió lại giông cuồng rồ dại, trái tim thì tan tác, cuộc sống hoá hư vô, đôi mắt người yêu dịu dàng đong cả bầu trời, tấm thân nàng tắm hoa thơm nhưng lại ủ cả cuồng phong dông bão, v.v...
Một tình thơ làn điệu du dương được tác giả sáng tác cũng chính ở trên "bãi cuộc đời..." đầy cát bụi, gió mưa ấy - Nơi thi nhân cùng với người đàn bà đẹp từng tha thiết yêu nhau. Tình yêu của họ đã một thời đơm hoa, kết nhụy. Dù nay đã xa vời, nhưng tình thi vẫn đang truyền cảm, cuốn hút ta trầm sâu hơn vào ý nghĩa của thi ca. Như nhiều văn nghệ sĩ khi thưởng thức thơ anh vẫn nói: Thơ Phạm Ngọc Thái càng đọc càng hay! "Cây thầm tiếc bóng" là một bài thơ tình nhiều hương sắc, khá độc đáo và hấp dẫn của văn đàn.
TTĐ.



     C. DƯỚI HÀNG SẤU ĐÊM VÀ CON PHỐ NHỎ
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi... còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...
 
Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?
 
Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ!
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm.
 
Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?
                            Phạm Ngọc Thái
                          Mùa đông 2010
      Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai" 2012
 
Lời bình: Đi lại những đường phố đêm dưới hàng sấu xưa, lòng nhà thơ bồi hồi nhớ về một thuở:
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Bài thơ được viết vào mùa đông năm 2010, khi anh đã ngoài tuổi lục tuần, nhưng tâm hồn thi nhân thì còn trẻ mãi. Con sông tình ngày đêm vẫn xao xiết chảy trong trái tim anh, như câu thơ đã viết:
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...
Chưa thấy ai đảo ngược chữ "mê man" để viết thành "man mê..." như Phạm Ngọc Thái, để cho âm điệu thơ không rơi vào sự cũ càng. Cũng thấy là lạ, hay hay. Có một nhà giáo khi khi bình thơ anh đã viết:
Ngôn ngữ thi ca Phạm Ngọc Thái là ngôn ngữ của hình tượng hội hoạ. Khi đọc những thi phẩm hay của ông, giống như bức tranh hoàn bích, càng đằm sâu vào trong tranh càng chứa chất ý, tình.
Theo con gió đông nhà thơ "lạc bước" lang thang, hồn vía đang bay về một phương nào?... thuở em yêu vẫn cùng anh đêm đêm dưới hàng sấu phố khuya này. Cái phố nhỏ với hàng cây xưa thật thân thiết. Bao năm qua tưởng tình cũ đã yên, nào ngờ đêm nay thi nhân lại chạnh lòng thổn thức, rồi bài thơ "Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ" ra đời.
Mặc dù nhà thơ đã nói với mình và khuyên người yêu:
Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
Ai mà chẳng có lúc bồi hồi vương vấn tới tình xưa? Nói rằng: "Em đang ngủ bên chồng..." - Nhưng đọc thơ không thấy sượng, còn tăng thêm sự cảm khoái, diễn đạt ý tình thấm thía hơn. Khi nhà thơ tự vấn: thôi, đừng tiếc nữa! /- Tức là lòng anh đang... mong nhớ. Anh còn biện hộ cả với người xưa: Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em? /- Có nghĩa, đây là mối tình dang dở mà sự tiếc nuối của cả hai người chứ không chỉ đơn phương về phía thi nhân.
Khuyên thế thì khuyên: Rằng, đừng nhớ thương, đừng tiếc nữa em yêu! Song, chính nhà thơ vẫn hoài vọng, tự ru mình trong giấc xa xăm:
Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ!
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm.
Tình yêu không chỉ là sự êm ái và niềm vui sướng, còn mang lại cho hồn thơ anh biết bao cảm xúc ngọt ngào. Trong cuộc sống xô bồ, cát bụi... mỗi khi nhớ về thuở ấy, thi nhân như được tắm trong niềm hạnh phúc của tình yêu, như lời thơ đã viết: Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm /- Tôi trở lại phân tích về khổ thơ thứ hai:
Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?
Thao thức cùng với nhà thơ, vầng trăng trong đêm đông giá lạnh kia có ngủ được đâu, như lòng người hiu hắt bay vơ vẩn trên trời. Vẫn nguyệt đó mà sao nay thấy lạ? Hồi cùng em tắm trong trăng êm đềm và mơ mộng, giờ trở nên xa vời và lòng anh càng cô quạnh. Cơn gió khuya cũng không ngủ, cứ thầm thì bên tai: Liệu em có còn nhớ đến thuở của đôi ta? Cả đoạn thơ với hình ảnh gió, trăng... thấm đẫm hồn, xao xiết một nỗi tình. Như câu thơ trên đã nói:
Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
Nhà thơ Phạm Ngọc Thái ơi, đọc thơ anh mà tôi thấy nao lòng. Người ta đã ngủ với chồng rồi, anh còn nghĩ đến làm gì? Nhưng phải chăng chuyện tình, khi lòng đã tương tư, mấy ai gỡ ra được? Như Nguyễn Bính từng viết:
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Bài thơ có sức truyền cảm, như thể ngòi bút thi nhân hoà lẫn máu tim mà viết ra. Trong canh khuya yên tĩnh, dưới trăng sao, gió thổi và vòm trời. Khi cả thành phố đã chìm vào giấc ngủ đêm. Chỉ còn nhà thơ lặng lẽ đi dưới hàng sấu xưa và con phố. Chúng đang thì thào tâm sự với anh. Dòng thơ cứ nhè nhẹ, dìu dịu tuôn trào ra như vậy. Lời thơ như mơ và đầy chất mỹ học. Hình tượng thơ không kiêu sa mà thanh thoát, tình thơ thấm đượm sự thương yêu.
Như những tiếng đàn tình gảy lên trong không gian sâu thẳm, mênh mông. Tiếng đàn ấy ru theo bước chân người thi sỹ, cùng những cánh lá sấu nhỏ đang rụng xuống tâm hồn mộng mơ của thi nhân, để những lời thơ say đắm bay ra:
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi... còn lạc bước canh khuya
Đây là hai câu thơ hay nhất chăng? không hẳn vậy - Những câu thơ khác cũng rất hay, thí dụ:
Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Vầng trăng kia thao thức hay chính tiếng lòng của chàng đang thao thiết dưới trăng? Bóng nguyệt thì trôi mãi vào cõi vô biên, còn hồn thi nhân bay theo những áng thơ đến tận bến xa vời...

Đấy, thi ca Phạm Ngọc Thái là thế! Đọc câu thơ nào cũng thấy đầy chất sống và sâu lắng. Mỗi câu lại có một hương sắc và sự hay riêng. Tiếng thơ mỏng mảnh tựa dây đàn, như trái tim của thi nhân khẽ bật lên là rung. Nghe êm đềm và tha thiết, nhưng lại có chút gì đó khắc khoải ở bên trong.
Tôi xin bình vào đoạn kết:
Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?
Vậy, lý do vì sao nhà thơ lại giục người yêu đi lấy chồng? Không ai biết cả. Nhưng như thế cũng đã hé mở ra căn nguyên của mối tình bị đứt đoạn này: Hai người cùng yêu nhau nhưng hoàn cảnh éo le không thể lấy nhau được. Một bi kịch tình đời chăng? Biết không thể lấy được nhau, sao lại còn yêu để giờ phải khắc khoải nhớ thương? Nhưng cuộc sống vốn dĩ cũng thường hay nghịch lý như vậy mà. Nếu không thế thì đã không có thi ca!...
Nhà thơ vì quá yêu nên tự dằn vặt với mình đó thôi. Đoạn thơ kết lại như lưu giữ một tấm tình kỷ niệm trong ảo mộng, rồi những đêm lang thang trong phố hay về khắc khoải bên thềm, thi nhân lại cảm xúc sáng tác ra những vần thơ tình chan chứa yêu đương, để thêm nhiều áng thi ca hay cho nền văn học nước nhà.
"Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ" là một bài thơ tình gan ruột: Rất Phạm Ngọc Thái! Phong điệu nhẹ nhàng, lời thơ súc tích, hoà quyện tình yêu - cuộc sống với hình ảnh thân thiết của thành phố quê hương mà rung cảm trái tim những người yêu thơ.
                  Trần Tứ Đức
Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian

                     
 
Đã đăng trên nhiều website trong nước & thế giới: 
http://tranmygiong.blogti...i_var_i_chasm_thai_hay
http://www.nhuygialai.com...e-tinh-yeu-dan-ba.html
http://vannghequangtri.bl...m-tho-hay-ve-tinh.html
http://nghiathuc.wordpres...ay-ve-tinh-yeu-dan-ba/
http://vandanvn.net/vi/ne...n-ba-Tran-Tu-Duc-2275/
http://lalanhdumlarachvn....eu-dan-ba-tran-tu-duc/
http://www.truclamyentu.i...inh-yeu-va-dan-ba.html
http://vandanvn.net/vi/ne...n-ba-Tran-Tu-Duc-2275/
http://binhtrung.org/D_1-...e-tinh-yeu-dan-ba.html
http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_10.php
http://www.vnmilitaryhist...tinh-yeu-va-dan-ba.htm
http://www.tiengchimviet....m-tho-hay-ve-tinh.html
http://nguyenduyxuan.net/...y-v-tinh-yeu-a-an-baq-
http://htruong.violet.vn/..y/show/entry_id/9532821
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.08.2013 23:43:11 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 26.09.2013 11:46:15
 
 
CHỬ VĂN LONG VÀ BÀI THƠ ĐẬM NHÂN TÌNH THẾ THÁI

                                                                           Phạm Ngọc Thái



 
      TRƯỚC HỐC ĐẠN THÀNH CỬA BẮC

Cùng bạn ngồi trước thành Cửa Bắc
Hốc đạn cổng thành xưa nhìn lại phía tôi
Phút đối diện với trăm năm còn mất
Lại diễn ra trong tiệc rượu vui cười.
 
Tôi nghĩ về những cuộc chiến tranh đã đi qua đó
Bao máu xương, xương máu ngập đầy
Người ta đã lấp đi bao đau thương
                                             để trồng hoa cấy lúa
Lưu lại làm gì một vết đạn ở đây?
 
Mùa xuân phủ lên thêm một lần rêu nữa
Thêm một lần quên quá khứ thương đau
Hốc đạn giờ nhìn giống chiếc nút chai bật mở
Khi hơi men đã chếnh choáng trong đầu.

 
                               
 
Chử Văn Long

       


               Nhà thơ Chử Văn Long

  Lời bình:   Đi qua con đường Phan Đinh Phùng, dừng lại giữa phố trông thấy một cổng thành khá lớn: mặt đá đã cũ, những mảng rễ đề, rễ đa mọc chằng chịt cùng  rêu phong mưa gió - Đó chính là "Cổng thành Cửa Bắc".  Bên cổng đối diện mặt phố, ta lại thấy một hốc đạn đại bác sâu hoắm. Sự hiện diện của hốc đạn như muốn lưu lại tàn tích về một cuộc chiến tranh đã đi qua hàng thế kỷ. Dấu vết của viên đạn đại bác mà Thực dân Pháp lần đầu tiên xâm lược nước ta cuối thế kỷ 19, khi chúng đổ bộ đánh ồ ạt vào thành đô Thăng Long. Tại đây, thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ tự tử để tuẫn tiết.

      Vào một chiều mùa xuân, tôi cùng nhà thơ Chử Văn Long ngồi với nhau trong một quán bia nhỏ, trước cổng thành xưa…vui chuyện đàm tiếu việc văn chương. Nhìn cái hốc đạn đã cũ, rêu bám xanh rì tựa như một hốc mắt lớn - một ý thức liên tưởng giữa lịch sử với sự sinh tồn của giống nòi cứ xoáy vào tâm trí anh?... và bài thơ "Trước hốc đạn thành Cửa Bắc” đã ra đời!
      Cái hốc đạn như hữu lý lại trở thành một nhân chứng lịch sử đang đối diện trước nhà thơ, để anh viết những câu:
                     Hốc đạn cổng thành xưa nhìn lại phía tôi
                     Phút đối diện với trăm năm còn mất


    Toàn bộ chủ đề tư tưởng, nỗi đau và tình người trong sự vận động thăng trầm xã hội đã được nghén thai từ đó. Ngồi trong quán bia, tức là ngồi trong thời buổi kinh tế thị trường, những tiếng va chạm các vỏ chai, những cốc bia sủi bọt cùng những lời chúc tụng của người đời. Cái hốc đạn lại càng xoáy sâu hơn, tất cả đều: diễn ra trong tiệc rượu vui cười / - Phải chăng "phút đối diện với trăm năm còn mất" chính là ý thức về nhân quả của sự tồn tại đời sống chúng ta hôm nay?   

     Nhưng nếu hốc đạn của quá khứ kia cũng chỉ lưu lại như một kỷ niệm thường tình, chắc chưa làm cho nhà thơ phải nhức nhối tâm can mình đến thế? Thơ được vọt trào ra từ trong sự thảng thốt của tâm hồn và trái tim anh:
                Tôi nghĩ về những cuộc chiến tranh đã đi qua đó
                Bao máu xương, xương máu ngập đầy
      Ý nghĩ không dừng lại để chiêm nghiệm về quá khứ, mà đưa nhà thơ đến một bờ bến xa hơn: Lưu lại làm gì một vết đạn ở đây? /-  Bởi đó, không chỉ còn là dĩ vãng khi chúng ta đang phải chứng nhận bao nhiêu sự tàn bạo, đau thương ngày ngày vẫn xẩy ra của thế giới này? Nào chiến tranh vùng vịnh, máu đổ ở châu Phi, Mỹ-la-tinh, rồi nội chiến nước Nga… cùng sự tan vỡ của hệ thống XHCN ở Đông Âu. Ngay đất nước chúng ta hôm nay, cũng đâu đã có được sự bình yên? Chiến tranh vẫn đang rình rập từ nhiều phía. Những tác động thực tiễn đó để tác giả buông ra hai câu mang đầy nỗi u uẩn trong lòng, kết lại bài thơ:
                Hốc đạn giờ nhìn giống chiếc nút chai bật mở
                Khi hơi men đã chếnh choáng trong đầu.
    Rượu vãn, tiệc tàn, mặt người thì chếnh choáng hơi men. Hình ảnh cái hốc đạn lại hiện lên như chiếc nút chai sâm banh bật mở, bọt bắn tứ tung… cũng giống như các tia lửa từ hốc đạn xưa cứ chĩa thẳng vào mắt ta mà bắn - Ý của câu thơ là vậy. Bên trong tình thơ bọc chứa một tâm linh thánh thiện và khát vọng hoà bình.


     Nói về khát vọng hòa bình trong ý tưởng thi ca Chử Văn Long còn gặp ở nhiều bài thơ khác, như "xuân về trên mộ hai người lính":
                Một phía bên kia, một phía bên này...
     Chiến tranh thì người lính phía bên nào cũng... chết! Dẫu về phía ta, sự hy sinh còn vì chính nghĩa, vì dân tộc. Nhưng người lính trận phía bên kia thì sao?
- Họ đâu phải là thủ phạm của các cuộc chiến tranh?


    Thực chất cả hai người lính đều là nạn nhân của các cuộc chiến tranh đó. Bởi vậy  đứng trước nấm mồ của hai người lính trận, nhà thơ cùng với quê hương xót xa mà ru những linh hồn được yên giấc ngàn thu :
                Hoa đồng nội bừng lên quanh hai nấm mộ
                Cánh bướm ngây thơ cũng tới vẽ vòng
                Cả tiếng sáo tận bờ tre êm ả
                Ru vọng về giấc ngủ ngàn năm.


     Đó chính là tư tưởng hoà hợp dân tộc, nhân sinh và thế giới quan nhà thơ.  Chử Văn Long là thi sỹ của đồng quê. Anh có một giọng thơ hiền lành, dịu ngọt rất đáng yêu.

     Tôi trở lại với bài "Trước hốc đạn thành Cửa Bắc" - Tình thơ được viết vào mùa xuân, mà mùa xuân thì cây cối tốt tươi, đất trời trong mát với muôn hoa đua nở. Nhưng mùa xuân ở đây lại là:
                Mùa xuân phủ lên thêm một lần rêu nữa
                Thêm một lần quên quá khứ thương đau.
     Những hình ảnh rất riêng của thơ Chử Văn Long. Ý muốn nói, thời gian sẽ rêu phong và rịt lành các vết thương. Nỗi đau nào rồi cũng dần nhoà phai theo năm tháng. Ta hãy quên cái đau mà nghiêng về phía ngọt ngào, để tác giả hạ xuống hai câu thơ hay nhất bài, có tính triết lý về sự sống:
                Người ta đã lấp đi bao đau thương
                              
                          để trồng hoa cấy lúa


                Lưu lại làm gì một vết đạn ở đây?

      Tôi xin phân tích ít nét đôi câu thơ sâu sắc này: "cấy lúa" mang ý nghĩa đồng nội để nói về sự sống - còn "trồng hoa" lại biểu tượng cho hạnh phúc, niềm khao khát hoà bình. Hai biểu tượng ấy kết hợp lại với nhau có nghĩa như một câu ngạn ngữ châu Âu: "Bánh mỳ và hoa hồng" - Qui luật tồn tại tất yếu của xã hội con người. Câu thơ mang ý nghĩa đời sống rất điển hình ấy được trào ra từ trong cảm xúc của nhà thơ. Đó là sự kết đúc những trải nghiệm của cuộc đời anh ở chốn đồng quê, hàm chứa cả tính triết học. Dù bất cứ đau thương nào, người ta vẫn phải lấp đi để tiếp tục "trồng hoa cấy lúa", tồn tại và vươn đến một đời sống xã hội tốt đẹp hơn.
      Nay mái tóc của nhà thơ đã bạc, biết bao nhiêu mùa xuân vui, buồn qua đi trong đời Chử Văn Long. Đọc lại "Trước hốc đạn thành Cửa Bắc”  càng thêm thấm thía tính nhân tình thế thái ở thơ anh. Thế mới biết đời người tựa bóng câu ngang qua. Mới ngày nào còn ngồi vui chuyện với anh trong buổi chiều mùa xuân ấy, giờ như tất cả đã xa xưa.


            PNT.
  Hà Nội - Ngày đầu thu 2013

 

                       Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3253
http://trannhuong.com/tin...han-tinh-the-thai.vhtm
http://tranmygiong.blogti...r_i_bani_thai_a_aosm_t
http://www.vanchuongviet....on=detail&id=20380
http://www.quansuvn.info/...10_6-1_17-2_14-2_15-2/
http://llpb.datdung.com/2...am-tinh-nhan.html#more
http://vannghequangtri.bl...-tho-am-tinh-nhan.html
http://vandanvn.net/vi/ne...a-Pham-Ngoc-Thai-2427/
http://vanthoviet.com/news/n/499/2022/
http://nguyenduyxuan.net/...tinh-nhan-tinh-th-thai
http://www.chinhluanvn.co...hoc-thanh-cua-bac.html
http://binhtrung.org/D_1-...han-tinh-the-thai.html
http://hung-viet.org/blog...nh-nhan-tinh-the-thai/
http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_10.php
https://sacmauthoigian.wo...e-thai-pham-ngoc-thai/
https://nghiathuc.wordpre...nh-nhan-tinh-the-thai/
http://to-quoc01.blogspot...am-ngoc-thai.html#more

nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 25.10.2013 11:42:37
       LỜI GIỚI THIỆU TẬP "PHÊ BÌNH & TIỂU LUẬN THI CA - PHẠM NGỌC THÁI:

                         PHẠM NGỌC THÁI NHÀ THƠ CỦA TỰ DO
                              (Lời đầu sách của NS. Sân khấu & Điện ảnh Hà Nội
                            viết giới thiệu tác phẩm chuẩn bị ra mắt độc giả vào đầu tháng 11/2013 )
 
                                                                                            Anh Trần

     Tuy là một nhà thơ tự do nhưng ông có chân dung văn học với một tầm vóc thi ca đáng ngưỡng vọng. Ông đã sáng tác được một khối lượng thơ tình hay, chưa từng có thi nhân nào ngày nay đạt được. Với hàng bậc của các nhà thơ hiện nay, ta có thể khẳng định rằng: Ông là một nhà thơ có đẳng cấp siêu hạng ở đương đại này.


 
     Như nhà viết bình luận Nguyễn Đình Chúc trong bài "Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc", đã nói về ông như sau:
  "Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đã đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta.
     Đặc biệt là thơ tình: dù ký ức về tình thuở ban mai hay buổi hoàng hôn... khi nhà thơ đã vào tuổi hoa niên, cũng đều tha thiết và tiếc nuối. Chưa từng có thi nhân nào viết được nhiều thơ tình hay đến thế! Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc. Một nhà thơ tình hiện đại sâu sắc. Rồi mai sau ông có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn học nước nhà - Trong đó có đến vài chục tình thi của ông đạt vào cung bậc các tình thơ hay vô giá..."

      Đọc quyển "Phê bình & tiểu luận thi ca" này, độc giả hoàn toàn có thể nhận thức được những giá trị đó. Tiểu phẩm ấy cũng có in trong tập sách đây, đồng thời nó đã được đăng trên vài chục website văn học - từ trong nước sang Âu Châu, tới Mỹ và đến Toà báo Việt Nam Úc.
      Bạn đọc nào muốn thưởng lãm có thể xem qua đôi link sau: 
                  
  http://datvietjsc.net.vn/index.php?act=newsdetail&pid=8&cid=52&id=2242
                    http://www.namuctuanbao.net/870/truyenNgan/truyenngan_14.php
     Không chỉ thế - Ông còn là một tay bút bình luận thi ca sắc sảo. Văn của ông súc tích, hấp dẫn cũng như thơ ông, nó có hồn và giàu cảm xúc để lôi cuốn lòng người. Đọc tập "Phê bình & tiểu luận thi ca", bạn sẽ thấy cả một thế giới thơ huyền diệu, với những lời bình sắc sảo đã được chi chút, gọt rũa… rất đáng để đời chiêm ngưỡng.
     Dù đó là bài ông bình cho đời hay đời bình thơ hay của ông, đều hiện lên một thi nhân Phạm Ngọc Thái đầy tài hoa. Ông đã để lại cho nền văn hiến Thăng Long một khối lượng thơ hay hoặc khá hay rất lớn, với những giá trị nghệ thuật văn học tuyệt vời.
     Những năm qua trên văn đàn các trang mạng Việt toàn cầu, thơ ca và những bài bình luận của ông được đăng rất nhiều, danh tiếng cùng chân dung thi nhân ông đã vang khắp. 
     Nói về cuộc sống đời thường của nhà thơ thì vẫn rất đạm bạc. Ngày ngày ông với người vợ của mình vẫn phải bươn bả vì miếng cơm, manh áo. Ngoài ra sớm hôm ông bầu bạn với văn chương. Ông chính là tác giả của hai tập thơ có tiếng tăm vào hàng đẳng cấp:

-  Tập "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009, thật đặc sắc… và tập "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hoá Thông tin 2012 với 298 tình thơ, dày 400 trang - Trong đó nhiều thi phẩm hay hoặc đạt độ kỳ thơ.
        

  
     Hiện nay nhà thơ đang cùng gia đình sống trong một ngôi nhà nhỏ gần bên hồ Tây, cạnh một ngôi đền cổ. Một hồ nước đã từng có nhiều dấu ấn trong thi ca của các thi nhân xưa nay. Thi sỹ Tản Đà trong bài "Tây Hồ vọng nguyệt", từng ca ngợi:
                     Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi,
                     Đêm thu vằng vặc bóng theo người
                     Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước
                     Tri kỷ trông lên đứng tận trời.
     Hay bà Hồ Xuân Hương cảm xúc trong bài "Chơi Tây Hồ nhớ bạn", rằng:
                     Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
                     Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thờ,
                     Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng
                     Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ.
     Với nhà thơ Phạm Ngọc Thái, hồ Tây cũng ghi lại rất nhiều những hình ảnh chan chứa trong thơ ông, còn là nơi lắng đọng nhiều kỷ niệm tha thiết của tình yêu. Như ông viết:
                     Anh ở hồ Tây mênh mông sóng vỗ
                     Vẫn thấy bóng em trong màu hoa thương nhớ
                     Ôi, màu hoa son sắt trái tim em
                     Cái màu tím buồn của những cuộc ly tan!
     Một số bài rất đặc sắc khi trái tim nhà thơ thao thiết ở bên hồ, như: Một góc hồ Tây, Tình thơ gặp lại ở Tây hồ, hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây" – là một bài thơ tình khá hay, viết vào lúc tuổi thi nhân đã xế chiều, mái tóc trên đầu cũng điểm nhiều sợi bạc:
                    Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại
                    Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
                    Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi
                   Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi...
     Vào những tháng năm trước, giai đoạn nhà thơ được biệt phái ra công tác ở nước ngoài, kết hợp làm kinh tế - Lúc nào ông cũng nghĩ về quê hương, nhớ đến gia đình và những người thân. Ông đã sáng tác cả một tập thơ “có một khoảng trời”, Nxb Hà Nội 1990… chỉ viết về vợ con. Trong đó - hình ảnh hồ Tây, mái phố, bóng đa, ngôi đền cổ… thường da diết trong ký ức ông mỗi khi nhớ chốn cố hương. Như những hình ảnh được khắc hoạ trong bài "Tiếng hát đời thường"… gửi về cho người vợ hiền ở quê:

                   Trong một phố nghèo có người vợ trẻ
                  Vẫn đón con đi, về… như thường lệ
                   Vóc em thanh cũng thể mùa xuân
                   Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen.
                   Ngôi nhà nhỏ bên đền
                   Gốc đa, quán báo
                   Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*)
                   Đêm hồ nước trăng soi
                   Chiều lá me, lá sấu
                  Cung thành xưa dấu đại bác còn…(*)
     (*) Đó là những biểu tượng gắn liền trong truyền thuyết của dân tộc: Hình ảnh một thuở nào bà Thị Lộ đi bán chiếu gon ở Tây Hồ đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người - Rồi hình ảnh cổng thành Thăng Long phía bắc vẫn còn in dấu đạn đại bác của giặc Pháp bắn vào. Khi thành Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết. Tất cả đã vào trong thơ ông cùng với nỗi thương nhớ quê nhà.
     Tôi chỉ xin viết ít lời giới thiệu tác giả và phác qua đôi nét về Tuyển "phê bình & tiểu luận thi ca" này - Tập sách sẽ nói đầy đủ hơn, mãnh liệt hơn, cũng như sự  thuyết phục của nó hơn bất cứ một lời ca ngợi nào.

     Mong rằng tác phẩm sẽ mở ra đối với mỗi bạn đọc một cánh cửa tâm hồn bất hủ và mang đến cho mọi người sự đam mê, hấp dẫn trên từng trang sách… những giá trị tinh thần vô hạn trong văn học và cuộc đời.
                  A.T
NS Sân khấu & Điện ảnh HN
Thăng Long - Đầu thu 2013


                    * Đã đăng trên nhiều trang mạng trên thế giới:
              http://tranmygiong.blogti...i_nha_than_carba_tard_
              http://vandanvn.net/vi/ne...ai-viet-Anh-Tran-2014/
              http://nghiathuc.wordpres...thi-ca-pham-ngoc-thai/
              http://www.tiengchimviet....-thi-ca-pham-ngoc.html
              http://to-quoc01.blogspot.om/2013/07/anh-tran.html
              http://binhtrung.org/D_1-..._6-1_17-948_14-2_15-2/
              http://thaianco.net/xuanl...nvan/phamngocthai1.htm
              http://vannghequangtri.bl...tho-cua-tu-do-anh.html
              http://nguyenduyxuan.net/...hi-caq-ca-phm-ngc-thai
             http://badamxoevietnam2.w...hai-nha-tho-cua-tu-do/
             http://www.vanganhonline....-thi-ca-pham-ngoc.html
             http://www.vanganh.info/2...-thi-ca-pham-ngoc.html
             http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_15.php
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 23.11.2013 10:21:15
 
     Phạm Ngọc Thái với mấy nét tình sử
            về bài thơ "Người đàn bà trắng"
                                                                                            Anh Nguyễn



 
         Vào một buổi sáng cuối thu vừa đây, chúng tôi trong tổ chức văn chương HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA có cuộc hội ngộ cùng nhà thơ Phạm Ngọc Thái, nhân dịp ông cho xuất bản tập "Phê bình & tiểu luận thi ca". Có thể nói đó là một tác phẩm bình luận văn học tuyệt vời, hấp dẫn và quí giá... sẽ chính thức ra mắt văn đàn chỉ trong ít ngày tới. Nhưng thôi, với tác phẩm phê bình và tiểu luận thi ca đó, khi nhà thơ phát hành hoặc gửi biếu tặng anh em, bạn hữu cùng các văn nghệ sĩ, sẽ đề cập đến sau. Trong bài viết này chúng tôi lại muốn chuyện trò với bạn đọc về một vấn đề khác.
      Như tên đề ở trên: "Phạm Ngọc Thái với mấy nét tình sử về bài thơ "Người đàn bà trắng" - Đó là một bài thơ hoàn bích nhất của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Cũng trong buổi hội ngộ, chúng tôi có hỏi tác giả về tình sử của bài thơ tình đặc biệt này - Sau đây xin lược trình lại câu chuyện cùng bạn đọc, để mọi người có thể cảm nhận tình thi phong phú hơn.
             HỎI:
-    Theo chúng tôi được biết, Người Đàn Bà Trắng chính là một thần tượng về "tình yêu & đàn bà" của nhà thơ. Vậy mong ông nói đôi nét về người đàn bà... mà  ông đã viết nên bản tình ca bất hủ đó? Ngoài đời người ấy chiếm một vị trí như thế nào trong trái tim và cuộc sống thi nhân? Ông có thể hé mở một chút về cõi riêng tư đó... cho bạn đọc biết được không?



            Nhà thơ Phạm Ngọc Thái

                  
NHÀ THƠ TRẢ LỜI:
-   Nói về thần tượng tình yêu với người đàn bà, nhà thơ Nga Ler-môn-tôp từng viết:
                Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                Miếu thơ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ
     Người-đàn-bà-trắng với tôi là một mối tình lãng mạn, nhưng không phải là một cuộc tình trăng gió. Chỉ bởi, tôi và nàng yêu nhau mà không thể đến với nhau được mà thôi.
- Tại sao vậy, thưa ông?
-   Người không vượt qua được là tôi chứ không phải là nàng. Nhà thơ tiếp tục nói, khi đó tôi đã có gia đình riêng, nhưng lại không thể bỏ vợ, dù rằng rất yêu nàng. Nàng không có vướng mắc gì cả, thời gian ấy em vẫn còn là một thiếu nữ. Vấn đề này mình cũng chỉ trao đổi với nhau một chút, đơn giản như thế thôi nhé!
-    Vâng, không sao cả.
                       HỎI:
-   Xin ông cho biết số lượng những bài thơ ông đã đã sáng tác về người-đàn-bà-trắng có nhiều không? Đó là những bài thơ nào trong cả tuyển với hàng trăm bài thơ tình của ông, nhất là những tình thơ có thể gọi là hay?
                     NHÀ THƠ TRẢ LỜI:
-   Nàng là người đàn bà mà mình đã viết nhiều thơ yêu nhất, cũng nhiều thơ tình hay nhất. Có lẽ Người Đàn Bà Trắng nổi trội và hay hơn cả đó thôi. Phần lớn những bài thơ tình mình sáng tác khi xúc cảm lên đến tột điểm, đều là những bài thơ viết về nàng.
     Như: Khóc bên Hồ Núi Cốc, Sáng thu vàng, Sáng xuân nay, Trong mưa, Tiếng rúc chim đêm, vớt trăng, Đêm thiếu nữ... còn rải rác hàng chục bài khác, không thể kể hết.
    Sau đó nhà thơ đã trao đổi với chúng tôi những lời tri kỷ qua một số bài thơ tình của ông, xung quanh chân dung Người-đàn-bà-trắng.
                     ÔNG NÓI:
-  Thí dụ, Trăng Dạt Trong Mây: Tôi đã sáng tác bài thơ này vào ngay sau cái ngày nàng đi... lấy chồng. Tại sao cái cảm giác khi nàng lên xe hoa lấy chồng lại giống như "bóng trăng dạt vào mây"? Nghĩa là, từ đây mối tình tôi và nàng sẽ bị lấp đi, tối đi, cũng như cái thời mơ mộng, cháy bỏng tình yêu... cùng bao khát vọng trái tim đời thiếu nữ của em, thế là không còn nữa? Nên mở đầu bài thơ viết:
                       Trăng dạt trong mây
                       Em trôi vào cuộc sống...
                      Bỏ lại những bến bờ khát vọng lùi xa
                       Và những đêm thiếu nữ bên hồ.
     Trong những ngày yêu nhau, em từng thổ lộ với tôi về những nỗi niềm riêng tư của cả cuộc đời. Yêu tha thiết đấy mặc dù vẫn biết là không thành. Em từng nói với tôi rằng em không muốn lấy chồng? Có lần tôi đã khuyên:
-   Thôi, em lấy chồng đi!
-   Sao anh lại nói vậy? nàng hỏi lại.
-   Như thế thì coi như cuộc đời đã an bài, dùng dằng mãi chỉ khổ nhau thêm?
     Bởi vậy trong bài mới có những câu thơ:
                      Anh không hỏi gió có buồn
                      Lá có buồn
                      Một chiều nào đó có hư không?
                      Nỗi buồn sâu xa cuộc sống...
     Cái tâm trạng chơi vơi, nửa vời - Thì mình đã muốn em đi lấy chồng mà? Nhưng khi em đi lấy chồng thật, lại thấy trong lòng trống vắng và mất mát:
                     Em bỏ lại trong lòng anh khoảng trống
                     Như thi ca! Tan vỡ mặt trời!
                     Trông theo em bờ-bãi-con-người
                     Ai sẽ nhặt lá rơi như những chiều thu ấy?
     Giây phút tôi lại nghĩ đến hình ảnh Hòn Trống Mái giữa biển khơi - Đó là núi-chồng, núi-vợ... mặc gió to sóng cả, bão táp dập vùi mà vẫn thuỷ chung:
                     Biển vẫn nuối ngàn năm quanh Trống  Mái
                     Sắc ti-gôn ai từng hát thay ta...
     Cả câu chuyện tình với sắc hoa ti-gôn trong bài thơ của TTKH như cũng đang hát vọng lên, nhập hoà vào trái tim yêu da diết của tôi đối với nàng. Người nữ sĩ đã từng than:
                    Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
                    Trời ơi! Người ấy có buồn không?
                    Có thầm nghĩ đến loài tim... vỡ,
                    Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
                                         (Hai sắc hoa ti-gôn)
     Còn ở trong bài Trăng Dạt Trong Mây thì:
                   Em đi biết bào giờ trở lại?
                   Gió hồn anh thổi mãi bến bờ xa...


   
     Th.sĩ Anh Nguyễn

      Ông nói sang một bài thơ khác cũng viết về Người-đàn-bà-trắng, bài "Sáng thu vàng": Vào một buổi sáng mùa thu sau thời gian xa cách - ông tiếp, bỗng nhiên tôi gặp lại nàng. Cái cảm giác gặp lại người yêu lâu ngày xa cách, cứ bàng hoàng đứng chôn chân giữa trời. Một sự tiếc nuối tràn đến, bên hồ làn tóc em bay trong gió, đôi mắt nhìn thăm thẳm. Lại thấy mình tiếc nuối vì đã giục em đi... lấy chồng? Nhưng tất cả đã rồi, chỉ biết thổ lộ vào thơ:
                    Sáng thu vàng mông mênh mênh mông
                    Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
                    Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
                    Và trái tim cũng không còn.
     Em vẫn rất đẹp và đầy cám dỗ, nhưng đã toát lên cái đẹp mang chất của một người đàn bà chứ không còn phải của một thiếu nữ khi xưa. Một chút gì đó đã phôi pha trên khuôn mặt, tâm hồn em có phần sâu lắng hơn:
                   Người con gái đã thành chính quả!
                   Phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha
                   Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
                   Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
                   Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!
    Nhưng dù nàng có đẹp hay cám dỗ thế chăng nữa, thì với tôi tất cả cũng không còn. Nàng phá cả mùa thu trong xanh kia hay đã mang cả mùa thu êm đềm của tình yêu đi rồi?
-   Nghĩa là người đàn bà ấy đến với thi nhân, tất cả chính là để giành cho thi ca! Có phải vậy không, thưa ông?
-   Ý bạn muốn hỏi: với tôi, nàng chỉ là của thơ ca hay đã chiểm cả trái tim trong cuộc đời? Có lẽ là cả hai đấy! Người đàn bà ấy... tôi yêu mãi mãi. Bên em tôi lại thấy bồi hồi, một sự khao khát lại được sống với em như ngày xưa. Sự khao khát ấy là vô tận, không có hạn định của thời gian và cũng không có ngăn cách bởi không gian.
     Mình nói thêm một bài thơ nữa nhé, bài "sáng xuân nay" - Cũng vào một buổi sáng mùa xuân gặp lại, sau cái ngày em đi lấy chồng ấy. Hai đứa cùng nhau vào một quán nhỏ bên phố. Một cảm giác bâng khuâng, bổi hổi bên em lại tràn về. Hương trên mái tóc em, làn da, tấm thân nồng nàn người đàn bà... tất cả trộn hoà trong nhau. Thương nhớ và đắm đuối mà tạo thành những câu thơ:
                  Sáng xuân nay không chít khăn tang, không mang áo cưới...
                  Gió đi đâu không thấy thổi trên đường
                  Thơ nằm khóc trên nấm mồ êm ái
                  Anh chỉ ngồi thầm lặng bên em.
     Em vẫn đấy nhưng đâu còn em nữa? Em của tôi đã xa lắc, xa lơ mất rồi. Xa mãi không về...
                  Hương phảng phất bay lên từ mái tóc
                  Tình trắng tinh như ngửa đôi bàn tay
                  Đôi mắt em hoá thành mây trôi đi mất
                  Hồn anh chao dưới những lá cây rơi.
     Đúng là tình yêu và cuộc đời? xoè đôi bàn tay ra... chỉ còn là đôi bàn tay trắng. Trời đất cũng hoá vô vi. Ngồi bên em giây lát, bỗng nhiên mình lại liên tưởng đến bóng dáng của cái lão Giăng Van Giăng tội nghiệp trong tiểu thuyết "Những người cùng khổ" của V.Huy Gô. Suốt cuộc đời lão dành tình yêu thương cho nàng Cô Dét. Lão sống hết cho nàng. Ấy vậy mà... tới khi lão chết vẫn chỉ một nấm mồ thui thủi, cô đơn. Chỉ có những chiếc lá vàng, hết tháng năm này sang tháng năm khác là đều đặn rơi trên mồ lão - Hình ảnh ấy đã vào thơ:
                  Cứ yên lặng,
                 Ông lão Giăng Van Giăng yên lặng...
                 Tôi cũng như ông chỉ thấy lá vàng thôi,
                  Người đàn bà ấy đẹp giống cô Cô Dét
                 Nàng yêu tôi, nhưng nàng đã đi rồi!   
       Nghĩa là, mỗi bài thơ khi tôi viết về nàng đều từ một cảnh tình nào đó gợi ra, hoặc từ nỗi nhớ nhung tạo thành cảm xúc để trái tim nhà thơ gửi nỗi niềm của mình vào đó.
     Trong bài thơ Người Đàn Bà Trắng cũng vậy. Tình thi này anh Trần Tứ Đức đã bình khúc triết rồi, tôi chỉ dẫn giải thêm một chút - Nhà thơ nói tiếp, mình và nàng yêu nhau, chỉ bởi cảnh tình không lấy được nhau... chứ không phải bị chia rẽ hay bởi sự phá vỡ nào. Mình đã có vợ, còn nàng thì rồi cũng phải... lấy chồng. Dù thế, vẫn thương nhớ nhau cả đời. Nên mới có đoạn triết lý rằng:
                  Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
                  Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                                       suốt đời chèo sông vắng
                  Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
                  Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.
     Cám ơn sự chia sẻ của nhà thơ! Chỉ xin hỏi ông thêm một câu nữa:
-   Quan hệ giữa nhà thơ và người-đàn-bà-trắng đã bao giờ đi đến tận cùng của tình yêu chưa, thưa ông? Xin nhà thơ bỏ quá khi chúng tôi hỏi câu này, nếu như nhà thơ có thể hé mở sâu chút nữa, cho thiên tình sử thêm phần sống động?
-   Các bạn muốn hỏi mình và nàng đã đi đến tận cùng của tình yêu chưa à?
                 NHÀ THƠ TRẢ LỜI:
     Cái quí nhất của người đàn bà chính là... "cái ấy"! Hầu như các thi nhân khi viết về tình yêu và đàn bà, ai cũng đều muốn có những bài thơ sáng tác về của quí đó. Đàn bà là xứ sở của đam mê, nơi bắt nguồn ngọn lửa Prômêtê sự sống, khát vọng trái tim cả loài người.
     Cũng xin nói ngay vào bài thơ Người đàn Bà Trắng, có một đoạn thơ đã viết:
                    Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai!
                   Người đàn bà ai mà định nghĩa?
    Chính là cái chỗ thiên thai mà tạo hoá đã sinh ra trên thân thể của người đàn bà. Hai chữ "chùm trinh", tức là chùm trái cấm - Ta có cảm giác như đó là cả một chùm trái thơm ngon lành của nàng đang trĩu trịt, ăn vào là nhớ mãi. Ca dao đã có câu:
                    Dao đâm vào thịt thì đau
                    Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời
     Liên tưởng tới truyện Kiều - Khi Kiều đang khoả thân trong buồng tắm, Nguyễn Du mô tả:
                    Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên
     Nếu ở đây ta bàn luận về hai chữ "dầy dầy" mà cụ đã tả ấy, đó là cái gì? Nghĩa của nó không thể để chỉ về thân thể của nàng Kiều được - Bởi vì, tấm thân Kiều mà lại "dầy dầy" thì khó coi quá. Một người đàn bà sắc đẹp đến nghiêng nước, nghiêng thành:
                    Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
     Mô-típ một người con gái đẹp thời xưa thường có một tấm thân mảnh mai như liễu, như mai... chứ không béo tốt, đẫy đà, đầy cảm hứng hưởng thụ như người hiện đại chúng ta bây giờ.
                    Làn thu thuỷ nét xuân sơn
                    Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
     Kiều là như thế. Còn nếu tả về đôi má Kiều mà lại là "đôi má dầy dầy" thì... nói vô phép, quá là nói về má của... heo. Tôi thấy là chỉ có một chỗ duy nhất trên tấm thân Kiều là có thể dùng hai chữ "dầy dầy", đó là hai bên... mép bướm của nàng. Các bạn cứ tưởng tượng mà xem - Nhà thơ tiếp tục diễn tả: Nói về trái cấm của Kiều "dầy dầy"... thì đúng quá đi rồi! Ta liên tưởng tới câu thơ bà Hồ Xuân Hương cũng tả về chỗ ấy:
                   Cỏ gà lún phún leo quanh mép
                    Cá diếc le te lách giữa dòng
     Cho nên, tôi cho rằng hình ảnh câu thơ "dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên" mà đại thi hào Nguyễn du muốn nói đến, chính là cái... "bướm" của Kiều. Cả một toà thiên nhiên mà tạo hoá đã sẵn đúc trên thân thể nàng. Thi nhân nào chả muốn chơi thơ. Các bậc tổ tiên ta cũng rất khoái nói về của ấy, nhưng Người khéo dùng chữ nghĩa cho lẩn đi mà thôi.
     Xin trở lại với bài thơ Người Đàn Bà Trắng: "chùm trinh" của nàng reo ca... "chùm trinh" của nàng đã hát... Thân thể hoà với tâm hồn nàng đã trở thành một tượng đài bất hủ - Hàm ý ấy được tích đọng vào trong câu thơ mang đầy tính triết lý:
                     Người đàn bà ai mà định nghĩa?
     Vậy theo các bạn, viết được một bài thơ ý tình như thế thì mình đã đi đến tận cùng trong tình yêu đối với nàng chưa? Ông cười ha hả, sau đó chuyển sang nói về một bài thơ khác.
      Bài "Khóc bên Hồ Núi Cốc" - Bài này cũng viết về Người-đàn-bà-trắng đấy, ông nhấn mạnh lại như vậy.
     Vào một đêm mưa to gió lớn, đứng giữa bàu trời Hồ Núi Cốc mịt mùng... hoà trong câu chuyện tình huyền thoại đau thương, lãng mạn trong truyền thuyết về nàng Công - chàng Cốc. Lòng tôi bỗng bồn chồn, lại da diết nhớ đến người đàn bà của mình. Ôi, những phút giây đã sống và ân ái với nàng? Nàng hiện lên trên bàu trời với cả một tấm thân kiều diễm và mơ mộng, như câu thơ đã tả:
                     Em khỏa thân nằm trên bóng bến xưa bay...
     Bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc này đã được một nữ nhà giáo Diễm Loan bình, cũng có in trong tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" này, ông bảo vậy. Khi các bạn hỏi mình và nàng đã đi đến tận cùng của tình yêu chưa? Các bạn hãy nghe những câu thơ:
                    Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                    Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
     Đó là cảm xúc bởi nỗi khát khao yêu đến tột cùng. Đôi vú của người yêu cũng như cái ấy... là vô giá nhất của người đàn bà. Người-đàn-bà-trắng có một tấm thân hút đến mê hồn, nên những bài thơ tình tôi viết về nàng thường mang màu hoang dã. Tình thơ bao giờ cũng dâng lên một cảm xúc cồn cào, muốn ôm ấp thân thể nàng, cùng người yêu hưởng niềm lạc thú. Nói như thế không phải là tình yêu với nàng không thanh tao? Đâu phải vậy. Có những người đàn bà không chỉ vẻ đẹp của tâm hồn mà cả thể xác cũng quyến rũ, làm ta say đắm đến tột cùng. Nàng thuộc vào loại người đàn bà ấy. Bởi vậy, trong bài thơ Người Đàn Bà Trắng mình mới kết rằng:
                    Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
                     Những đêm sao buồn, những đêm gió khát,
                     Khúc thơ tình anh lại viết về em
                     Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
       Cám ơn nhà thơ!
       Để kết thúc bài viết với mấy nét về thiên tình sử này, chúng tôi xin đăng lại toàn bộ tình thi trác tuyệt ấy của thi nhân, để bạn đọc thêm một lần cùng thưởng lãm:
                   
                    NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
                                Người đàn bà đi trong mưa rơi
                      Chứa một trời thầm như hoa vậy...

          Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
          Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
          Đôi mắt em đong những áng mây
          Người đàn bà trắng!

          Em đi, về... chao những hàng cây
          Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
          Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
          Xõa ngang vai mái hất tơi bời.

          Nỗi niềm thao thức
          Những đêm trăng nước...
          Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
          Người đàn bà ai mà định nghĩa?

          Đường xưa đó về đây em ơi!
          Những con đường đã đầy xác lá rơi
          Xác ve, xác gió và xác của mưa.

          Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
          Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                               suốt đời chèo sông vắng
          Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
          Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.

          Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
          Những đêm sao buồn, những đêm gió khát,
          Khúc thơ tình anh lại viết về em!
          Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...

       Hà Nội -  6.11.2013
       Th.sĩ Anh Nguyễn
       Giảng viên Trường Đ H Quốc Gia VN

 
                  Đã đăng trên các trang mạng Việt trong nước & thế giới:
     http://blog.zing.vn/jb/dt...giong/17373980?from=my
     http://llpb.datdung.com/2...ay-net-tinh-su-ve.html
     http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_7.php
     http://vietinfo.cz/goc-ba...guoi-dan-ba-trang.html
    http://nguyenduyxuan.net/...i-th-qngi-an-ba-trngq-
     http://binhtrung.org/D_1-...guoi-dan-ba-trang.html
    http://www.nhuygialai.com...ay-net-tinh-su-ve.html
    http://hung-viet.org/blog...ho-nguoi-dan-ba-trang/
    http://www.truclamyentu.i...nguoi-dan-ba-trang.htm
    http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-86_4-5150_15-2/
    http://vannghequangtri.bl...ay-net-tinh-su-ve.html
    http://www.chinhluanvn.co...ay-net-tinh-su-ve.html
   
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.11.2013 11:01:44 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 22.12.2013 18:16:54

       NGUYÊN TẮC TRƯỚC HẾT TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ
                                                                         Phạm Ngọc Thái

Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung của một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, thì dù đó là loại thơ gì, cũng xin miễn bàn - Bởi vì thơ không tồn tại, suy cho cùng nó cũng chỉ là loại thơ ra rác, trước sau cũng...vứt đi! Nói cho có chút động viên nhau để các nhà thơ đỡ xót xa là, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời, rồi thì nó sẽ chết. Hay như cách nói của Gớt, tầng tầng bụi phủ...
Vậy thì bàn luận hoặc hội thảo làm gì? vừa vô lý mà lại mất công. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đối với nền văn học được.

a/. Thí dụ về nhà thơ Hữu Thỉnh: Cơ bản đa phần thơ Hữu Thỉnh là loại thơ không tồn tại, kể cả trường ca. Có chăng chỉ mấy bài kha khá đứng được, nhưng chưa có thể gọi là vững với thời gian. Xin phân tích ít dòng khái quát về mấy bài thơ đạt giá trị hay nhất của ông.
"Thơ viết ở biển" là bài thơ hay nhất, thuộc đỉnh cao nhất của đời thi ca Hữu Thỉnh. Tuy nhiên bài thơ đó cũng mới chỉ thuộc vào loại khá, chứ chưa được là một bài thơ hay toàn bích như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Bẽn Lẽn hay Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử; Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan; Hai Sắc Hoa Ti Gôn của TTKH; Tiếng Thu Lưu Trọng Lư; Thu Điếu của Nguyễn Khuyến...

Xin phân tích đôi nét về bài "Thơ viết ở biển"". Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn". Có thể do cảm xúc thơ ở đây nếu dùng hình ảnh "nước", thơ không thuận nên tác giả sử dụng hình ảnh "gió"?... Mặc dù vậy, bởi hình ảnh thơ chưa thật sát nghĩa cho nên phần nào vẫn bị giảm độ hay. Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh, nghe chừng hình tượng ví von này vẫn còn gượng gạo? Tại sao em lại là "chiều" - "chiều" có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ? Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa sâu sắc, cũng chưa ổn! Tuy nhiên, hai câu đó đọc lên người ta vẫn hiểu, tạm chấp nhận nhưng chưa thật hay và chưa cao.
Mấy câu thơ đầu thì hay:
Anh xa em / Trăng cũng lẻ / Mặt trời cũng lẻ
Nhưng đến hai câu sau:
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này hay! Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt, có thể khen là viết giỏi! Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái - Trong văn học người ta thường ví "em là biển cả mênh mông", "tình em biển cả", hay trên biển cả tình em... anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi, v. v... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong bài thơ HT. Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" - thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em! Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví "anh như biển" còn em..."như cánh buồm". Sự ví von lộn ngược thơ như thế có phần bị gượng ép và khập khiễng, nên hai câu thơ đó tuy chưa hẳn đã hỏng nhưng cũng không thể gọi là hay.
Để cho rõ, xin liên hệ với "Thuyền và biển" là một bài thơ tình hay của Xuân Quỳnh. Trong bài thơ của Xuân Quỳnh, "thuyền" là biểu tượng chỉ về người con trai, còn "biển" là người con gái. Nữ thi sĩ đã viết:
Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la...
Hay là:
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Biển và thuyền nó cứ quấn quít với nhau như đôi trai gái. Để nói về tính cách của tình yêu, khi thì say đắm... lúc lại giận hờn - Xuân Quỳnh đã diễn tả:
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Rồi nhà thơ giải thích:
Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?
Hình ảnh thơ đã chứa đựng rất sâu sắc nội tâm bên trong, nó khái quát cả tình cảm, tâm hồn, lý trí và khát vọng:
Chỉ có thuyền mới hiểu / Biển mênh mông nhường nào / Chỉ có biển mới biết / Thuyền đi đâu, về đâu...
Nghĩa là, với hình ảnh thuyền và biển trong suốt bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn đạt mọi chiều của tình yêu đôi trai gái một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, nhưng ngay khi nói về sự xa cách hoặc có thể tan vỡ? Hình ảnh thuyền-biển của Xuân Quỳnh cũng được diễn đạt một cách thấm thía:
Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
Hình ảnh "sóng biển bạc đầu" lại trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái, hay sự rạn vỡ của con thuyền trong cái biển cả tình yêu... lại chính là để nói về sự quặn đau của trái tim người con trai khi phải xa cô gái yêu của mình - Đấy, thơ của Xuân Quỳnh viết tuyệt đến thế! Chính vì vậy "Thuyền và biển" mới đạt được là một bài thơ hay của thi đàn, để lưu vào nền văn học và lịch sử thi ca.

Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết của cả hai bài - Trong "Thơ viết ở biển" Hữu Thỉnh kết:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến / Vì sóng đã làm anh / Nghiêng ngả / Vì em...
Cảm xúc viết thơ đến đây của HT bị bí, thơ hơi quẩn. Vì là một bài thơ viết ở biển nên tác giả mới lấy hình tượng sóng để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng hình ảnh:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
Như phân tích ở đoạn trên, "biển" tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai, mà sóng cũng chính là biển, tức là "anh" rồi - thành ra nghĩa ở câu này sẽ là: Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em???... HT hay mắc một thứ bệnh tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tuỳ tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em": Nỗi thơ chưa được đẩy tới tột cùng, cho nên chưa viên mãn, bài thơ kết bị đuối.

Ta hãy xét đến đoạn thơ kết trong bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Vẫn là hình tượng "thuyền", "biển" để làm biểu tượng về người con trai và cô gái, nhưng ý tình thơ đã được đẩy lên tới tột cùng:
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố...
Nghĩa là, nếu phải chia ly thì cả đôi trai gái trái tim đều đau đớn và cuộc đời sẽ tan vỡ!
Đánh giá về độ hay cũng như tầm vóc thi ca, có thể nói: "Thơ viết ở biển" của Hữu Thỉnh kém "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh gần một tầm.
Sở dĩ tôi phân tích hơi kỹ một tý, vì đó là bài thơ hay nhất của đời thơ Hữu Thỉnh.
Nhưng đồng thời cũng là để nhấn mạnh về chủ đề thơ "Tồn tại và không tồn tại"? hay là "Tồn tại đến đâu"?

* Xin nói đôi nét về "Sang thu" - Tuy chưa bằng "Thơ viết ở biển", song Sang Thu cũng là một trong đôi ba bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh. Đó là một bài thơ mà tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Nhưng:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở dạng của một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự miêu tả đó là khéo và có hương sắc. Nào là:
Bỗng nhận ra hương ổi / Phả vào trong gió se
Rồi:
Sông được lúc dềnh dàng / Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ / Vắt nửa mình sang thu
Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Tức là tác giả mới cảm xúc về một khung cảnh thiên nhiên cùng với những sự vật xung quanh mà miêu tả nó ra mà thôi. Tuy sự miêu tả có gợi cảm nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, tư duy trong chưa sâu. Đọc Sang Thu muốn cảm nhận ra một nỗi đời hay một ý tình trắc ẩn nào đó của nhà thơ hoặc của nhân gian, là không có? Bài thơ không đủ sự viên mãn cần thiết để được coi là một bài thơ hay! Lại xin đưa ra vài dẫn chứng cụ thể để minh chứng về một bài thơ hay trong thi đàn.

* Thí dụ "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan: Một bài thơ thất ngôn bát cú. Sau 4 câu đầu mô tả cảnh vật xung quanh: nào là cỏ cây hoa lá thì mọc chen trong khe đá, mấy chú tiều dưới núi, thưa thớt vài quán chợ bên sông. Nhưng chỉ bằng hai câu ở giữa bài, cũng vẫn là mượn cảnh vật để mô tả, nhưng đã ôm bọc cả nỗi tình về nước, về nhà... của lòng bà gửi trong đó:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Để rồi cuối cùng tác giả lại trở về với cõi lòng đang da diết giữa chốn đèo Ngang hoang vu:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích, cho nên nó mới sống mãi với thời gian và nền văn học của nước nhà.

Lại quay trở về với "sang thu" của Hữu Thỉnh - Tuy tả cảnh có đẹp nhưng nghĩa thơ thì còn quá ít, nó chỉ như một bóng mây có vân sắc bay ngang qua bầu trời thơ mà thôi.
Tuy vậy thi phẩm vẫn được coi là bài thơ miêu tả khá, đứng được... nhưng chưa đủ sự sâu sắc để tạo thành một đài thơ hay như các bài thơ đã kể trên.

* Tôi xin dẫn chứng bài "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử - cũng chỉ là một bài thơ tả cảnh mùa xuân:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan / Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng / Sột soạt gió trêu tà áo biếc / Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.
Nhưng tình thơ được phát triển đầy ắp nỗi lòng, tình làng xóm quê hương của người thi sĩ. Cái cảnh mà thi nhân vẽ lên trong buổi sáng mùa xuân ấy hết sức đời và sống động:
Bao cô thôn nữ hát trên đồi / Ngày mai trong đám xuân xanh ấy / Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Hay là khi tả về tiếng hát:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi / Hổn hển như lời của nước mây...
Không phải chỉ là nước mây hổn hển, mà chính là lòng thi nhân hổn hển... vì xúc động đó! Tất cả dội vào sự thiết tha của người thi sĩ:
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc / Xem ra ý vị và thơ ngây...
Để rồi đến khi kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên da diết một nỗi nhớ thương về làng quê và những người thân? Vì lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn... một nơi biệt lập xa cách với sự sống con người. Cảm xúc ấy được thăng hoa và đẩy đến tột cùng:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
"Chị ấy" là hình ảnh người chị ruột mà trong cuộc sống thường ngày vẫn chăm sóc thi nhân hiện lên bên bờ con sông mộng. Hình ảnh nắng chang chang chẳng những chỉ hiện lên khung cảnh của làng quê chói chang trong ý tưởng thi nhân, mà nó còn đẩy tình thơ đi đến sự viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc một nỗi tình đời sâu sắc như thế mới được gọi là thơ hay!
Chứ như những câu kết trong "Sang thu" của Hữu Thỉnh:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Vẫn chỉ là những câu thơ tả cảnh thuần tuý, hơi hơi cảm... chứ đã có nỗi tình đâu mà viên mãn để được gọi là thơ hay? Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử... mà có tiếng, trong văn đàn bài thơ này cũng chỉ bình bình...

* Lại ví dụ như "Thu Điếu" của Nguyễn Khuyến - Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình thì hiu hắt, với nỗi cô đơn của người ẩn sĩ... khi ông chán nơi quan trường từ quan về nương náu chốn thôn hương:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...
Nhất là trong hai câu kết:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ta thấy chẳng những hình ảnh thơ chứa cả cuộc sống bên trong rất sống động, thơ như có thần và cuộc đời... một tâm trạng khắc khoải chênh vênh trong cái đêm thu ấy. Sâu sắc vậy nên Thu Điếu mới trở thành bài thơ hay!

* "Năm anh em trên một chiếc xe tăng" của Hữu Thỉnh - Một bài thơ viết theo kiểu anh hùng ca của một thời, không đủ giá trị để đạt tới là thơ trường cửu đối với nền văn học. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường, Giọng điệu viết từa tựa như kiểu đồng ca, hò vè... chưa có gì thật đặc sắc. Qua thời gian thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.

* Ở đây tôi không muốn nhắc đến bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh - Mà một dạo bài thơ đó cũng đã từng được dư luận tán dương?
Bởi, theo bài viết của tác giả Đại Lãng Du Tử đăng trên vietnamnet.vn rằng: Bài Hỏi của nhà thơ Hữu Thỉnh đã đạo từ bài "Thượng đế đã làm ra mặt trời" của nữ thi sĩ người Đức Christa Reining (sinh 1926), qua bản dịch ra tiếng Việt. Sau đó cả Trần Mạnh Hảo cùng Nguyễn Trong Tạo đã viết bài tố giác trên một số trang internet.
Xin trích lời nhà thơ & bình luận Trần Mạnh Hảo đã được đăng tại website vnthuquan.net vào ngày 21/5/2007, như sau:
"... Qua bằng chứng nêu lên thì chính xác đến không thể chối cãi, bài thơ Hỏi không phải của nhà thơ Hữu Thỉnh mà chính của nữ nhà thơ Christa Reining năm nay đã 80 tuổi, đã từng được giới thiệu trên báo Văn học Nước ngoài từ năm 2002. Bài thơ này đã được nữ thi sĩ Đức viết từ trước năm 1963, năm ông Hữu Thỉnh 19 tuổi chưa từng xuất hiện trên thi đàn? Chuyện động trời này chúng tôi không dám tin là sự thật. Một người mũ cao áo dài, thương hiệu không phải chỉ là của nền văn học Việt Nam, mà còn là thương hiệu của chế độ như ông Chủ tịch HNVVN Hữu Thỉnh, lẽ nào lại đi ăn cắp thơ của người khác làm thơ mình?...".
Còn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì viết:
" ... Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ... những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh "trẻ người non dạ" mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy nó lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội nhà văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội nhà văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biết nó là giải thật hay giải dổm?...".
Một bài thơ đã đaọ của người khác... thì bàn làm gì cho rợm cả trang viết ?


Như thế là tôi đã nói hết những bài thơ đứng đầu trong những tác phẩm thơ ngắn của Hữu Thỉnh. Ngoài ra ông có viết đôi trường ca. Trường ca đáng nói hơn là "Trường ca biển" mà cùng với tập "Thương lượng với thời gian", ông đã mang ra để chiếm lấy cái giải quốc gia lớn nhất vừa qua, hoặc được ban bệ do chính ông nặn ra tâng bốc để đưa đi lấy cái giải quốc tế chăng nữa? Tôi cam đoan rằng, tất cả trường ca của Hữu Thỉnh không tồn tại được với thời gian. Trường Ca Biển là một tác phẩm viết kiểu ngợi ca của "chủ nghĩa anh hùng cách mạng", cấu tứ còn làm nhàm , viết ào... tầm vóc trung bình, lời nhiều nghĩa ít, lan man... không có khả năng lưu được trong nền văn học nước nhà. Vì là thơ của ông Chủ tịch HNV nên cố đọc để biết, chứ nếu trường ca đó của một nhà thơ khác, chắc chỉ xem nổi một, đôi chương.. rồi cũng sẽ bỏ đi. Rồi đây tôi sẽ viết một bài bình cặn kẽ về "Trường ca biển" này của ông, của một tay viết chuyên nghiệp nhưng... trình độ thường - Để thấy rằng: Tại sao rồi nó cũng chỉ là một trường ca... ra rác!
Theo nhận biết của tôi: mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng HNV hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ, may ra có vài ba tình thơ gì đó đứng lại được trong những năm tháng gần.
Nếu đã không có nổi một tập thơ nào tồn tại đối với nền văn học, thì khi đó không biết nên xếp chân dung Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào đây?
Tôi vẫn đang nhấn mạnh về chủ đề thơ "Tồn tại và không tồn tại"? hay là "Tồn tại đến đâu"?

b/. Nói thêm về một nhân vật đang có tên tuổi của HNVVN đương thời, nhà thơ & bình thơ Vũ Quần Phương -
Cũng như Hữu Thỉnh, cơ bản thơ Vũ Quần Phương không có khả năng tồn tại, tôi vẫn thường gọi: đó là những thứ thơ ra rác, hoặc gần 100% như thế. Một người có khả năng cảm nhận được thơ hay, đi tìm trong hàng trăm các bài thơ của Vũ Quần Phương, cũng khó mà tìm nổi một bài thơ thực sự hay của thi đàn để mà bình. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ một tý... "Đợi"!
Bài thơ Đợi chính là đỉnh cao độc nhất chênh vênh của đời thi ca của Vũ Quần Phương. Tôi xin viết lại toàn bộ bài thơ đó:
Anh đứng trên cầu đợi em / Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm / Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy / Nước chảy bên lòng, anh đợi em.
Anh đứng trên cầu nắng hạ / Nắng soi bên ấy lại bên này / Đợi em. Em đến? Em không đến? / Nắng tắt, còn anh đứng mãi đây!
Anh đứng trên cầu đợi em / Đứng một ngày đất lạ thành quen / Đứng một đời em quen thành lạ / Nước chảy... Kìa em, anh đợi em!
Cái hay của bài thơ này là những hình ảnh như: nước chảy, trên cầu đứng đợi, nắng hạ soi rồi nắng tắt anh còn đứng... đều trở thành biểu tượng "chờ đợi của tình yêu"! "Cái nước chảy" suốt ngày đêm ấy để nói về thời gian, "nắng" biểu tượng ở không gian, nhất lại là nắng hạ, nó nói về sự chờ đợi tha thiết, mỏi mòn mà em không thấy tới, rồi tác giả đúc vào trong đoạn thơ kết là hình ảnh của những câu hay nhất bài:
Đứng một ngày đất lạ thành quen
Đứng một đời em quen thành lạ
Nước chảy... Kìa em, anh đợi em!
Tuy thế bài thơ mới nêu lên được khái niệm về cái sự chờ đợi, chứ nó chưa có nội tâm đời sống, thậm chí chưa có cả tình cảm, tâm lý của sự chờ đợi. Ngay cả với "nhân vật chờ đợi" là nhà thơ ở đây, cũng mới chỉ là một ý tưởng còn cứng nhắc, chưa phải là người bằng da, bằng thịt của VQP. Hay nói một cách hình ảnh, hình tượng bài thơ như một người hàng mẫu bầy trong tủ kính, chứ chưa có sự rung cảm trái tim của một con người đang sống. Bởi vậy bài thơ chưa đạt độ xung mãn để trở thành một bài thơ hay thực sự của thi đàn, như những bài thơ của các thi nhân mà tôi đã dẫn chứng ở trên.
Tuy nhiên "Đợi" đã có dáng của một đài thơ, nhưng đài chưa cao. Mới lại... Vũ Quần Phương cũng chỉ có một độc chiêu như thế, dăm ba bài khác như: Trước biển, Áo đỏ, Thuyền Trương Chi đang trôi, Nói với em, hay Vầng trăng trong chiếc xe bò... chỉ nhâm nhi được tí này, tí nọ, rồi cũng sẽ vào cát bụi cả thôi! Đúng như lời tự hoạ trong một bài thơ ông đã viết:
Anh còn gì cho em...
Dăm câu thơ nhoà nhạt
Sẽ còn đúng hơn nếu ông viết:
Anh còn gì cho em?
Đời thơ anh cát bụi...
Và cũng như cái tên đề mà ông đã đặt cho một tập thơ của mình: "Giấy mênh mông trắng" - Đúng như vậy, dù VQP có viết nhiều, sáng tác nhiều thơ hơn thế nữa, thì chân dung thơ của ông vẫn chỉ là "giấy mênh mông trắng"...
Bởi thơ ông không có khả năng tồn tại với thời gian, để lưu lại cho nền văn học nước nhà! Như vậy, đời thơ Vũ Quần Phương gần như con số "O" tròn trĩnh rồi!...

May ra ông có thể lưu lại chút gì đó trong văn đàn, là mảng bình thơ chăng? Mặc dù những bài bình của Vũ Quần Phương cũng chưa thật sự được thuyết phục lắm. Khả năng thẩm định thơ của ông vẫn còn hạn chế, nhất là đối với thơ hiện đại. Tôi xin lấy thí dụ về một bài thơ mà VQP đã bình - Đó là bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử".
Khi bình đến đoạn thơ thứ hai của bài:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Nhà bình thơ VQP nhận xét:
" Bốn câu đoạn hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một... thoáng nhìn bài thơ có vẻ đầu Ngô mình Sở "...
Hay là: "Những ý thơ rất xa nhau về ý nghĩa hoá ra lại vẫn có chỗ liền nhau..." - Rồi nhà bình thơ cho rằng:
" chỗ liền nhau ấy trong thơ HMT chỉ là nhờ vào tâm trạng xúc cảm " - Cảm nhận thơ như thế chưa đúng, tức là chưa hiểu hết về thơ HMT?
HMT là một thi nhân viết thơ theo tư duy của nội tâm. Xúc cảm chỉ làm đà cho mạch thơ, hơi thơ tuôn chảy, còn ý tứ thường được diễn tả khá mạch lạc, rõ ràng. Mượn cảnh làm biểu tượng mà diễn đạt nỗi tình thơ...
Đây Thôn Vỹ Dạ là bài thơ mà thi nhân viết về tình yêu đơn phương của ông đối với nàng Hoàng Cúc. Huống chi giờ đây do bị bệnh tật hiểm nghèo, thi nhân phải đi điều trị ở Gành Ráng, một nơi cách biệt với cuộc sống con người. Mối tình ấy càng trở nên xa cách:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Cũng có nghĩa: Anh theo đường anh, em đường em / Duyên phận đôi ta có thế thôi... /- Cái hình ảnh dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay phật phờ bên sông kia, nó cũng để chỉ một tâm trạng buồn tẻ, cô đơn của thi nhân. Còn về hình ảnh con thuyền ở trên bến sông trăng, dù là cảnh mơ, ảo... trong sự hoài tưởng về chốn cũ, người xưa... thì cũng là cảm xúc đã được thăng hoa. Vậy thì toàn bộ bài thơ hoàn toàn từ đoạn một tới đoạn ba, ý tình vẫn được nối với nhau, liên kết rất chặt chẽ - Đoạn thơ hai chính hình ảnh nói về duyên phận của hai người, là sự liên kết ở thế giới bên trong thơ, chứ không phải "đầu Ngô mình Sở" như VQP nhận xét. Hình tượng về gió và mây, đến dòng nước và bông hoa bắp lay...của hai câu thơ này sâu sắc, cũng hay không kém gì những câu thơ kiệt xuất trong bài thơ "Bẽn lẽn" nổi tiếng của Ông:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi...

Tôi lại xin liên hệ với bài "Qua đèo Ngang" của BHTQ - Bốn câu đầu của bài thơ, Bà Huyện chỉ tả về quang cảnh của đèo Ngang như đã nói trên - Nhưng đến hai câu 5-6:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia...
Thì hình ảnh con chim cuốc và cái gia gia... là để nói về cái nỗi nước, tình nhà của bà. Bởi theo truyền kể, Bà Huyện không phải chỉ là người đàn bà đảm đang việc gia đình, chăm lo đến chồng con, mà Bà vẫn thường giúp Ông Huyện xử nhiều vụ kiện chốn công đường, rất quan tâm tới việc nước - Nhưng đến hai câu sau thì tứ thơ lại quay trở về thực tại ngay:
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cũng rất giống với trình tự lập tứ như trong bài Đây Thôn Vỹ Dạ - Đoạn thơ cuối HMT trở lại với thực tại... tự thán về mình:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Vậy cứ theo như cách biện luận của VQP thì bài thơ Qua Đèo Ngang này cũng đầu Ngô mình Sở à? Mặc dù bài thơ của BHTQ theo dòng thơ cổ phương Đông, còn bài thơ của HMT là thơ hiện đại, ảnh hưởng sâu sắc trường phái thơ tượng trưng của châu Âu.
Tôi đã xem khá nhiều những bài bình thơ hiện đại của Vũ Quần Phương, Ông hay sử dụng các tiểu xảo về ngôn từ, cách cú... có tính chất bày vẽ phô diễn, nhưng lời bình phẩm lại chưa thấu tình, đạt ý, nên những tiểu luận phê bình thi ca của ông tồn tại được với nền văn học mai sau chắc cũng không nhiều.
Tôi vẫn đang nói về ý nghĩa cũng rất quyết định đối với một bài thơ, hay một tác phẩm văn học nói chung là "Tồn tại hay không tồn tại"? và "Tồn tại đến đâu"?

 
 


nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 19.01.2014 10:48:53
 
                            Phạm Ngọc Thái
    với tập "Phê bình & Tiểu luận thi ca"
                                                                         Cô giáo Hoàng Giới thiệu 

                                                                                       

 
 
- Đó là tác phẩm thuộc loại phê bình văn học của nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã chính thức ra mắt bạn đọc - Nxb Văn hoá Thông tin 2013, dày gần 300 trang với 49 bài viết - kể cả những bài bình trong chùm. Tập sách gồm hai phần:
- PHẦN I : Phạm Ngọc Thái bình thơ & tiểu luận.
- PHẦN II: Thơ Phạm Ngọc Thái với lời bình
     Dẫu tôi đã đọc khá nhiều thơ và những bài bình của ông đăng trên văn đàn mạng từ mấy năm nay, thế mà khi cầm quyển sách ông tặng, tôi cứ lan man đọc hết trang này đến trang khác một cách say mê, cuốn hút. Một tập phê bình và tiểu luận thi ca sâu sắc, thực hay. Kể cả mảng ông bình thơ các thi nhân xưa - nay, cũng như thơ của chính ông đã được chọn lọc qua những bài bình từ các văn nghệ sĩ, nhà giáo cùng các trí thức khác. Đúng theo lời nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc đánh giá:
"Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đã đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta... Chưa từng có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế!... Rồi mai sau ông sẽ có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn học nước nhà". Hoặc nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh - Anh Trần trong "Lời nói đầu" tác phẩm, đã viết:
- Dù đó là bài ông bình cho đời hay đời bình thơ của ông, đều hiện lên một thi nhân Phạm Ngọc Thái tài hoa. Không chỉ sáng tác được nhiều thơ hay, ông còn là một tay bút bình luận thi ca sắc sảo. Văn của ông súc tích cũng như thơ ông, nó có hồn và giàu cảm xúc để lôi cuốn lòng người. Bạn sẽ thấy cả một thế giới thơ huyền diệu với những lời bình sắc sảo đã được chau chuốt, gọt giũa rất đáng chiêm ngưỡng.
     Nói riêng về mảng thơ hay Phạm Ngọc Thái được nhiều tác giả bình, như:
     Nguyễn Đình Chúc bình Váy Thiếu Nữ Bay, là bài thơ mang tính nhân loại có phong cách rất Hồ Xuân Hương, với một bài bình luận về chân dung thi nhân rất nổi tiếng của anh, tiêu đề "Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc". Cả hai bài ấy đều được in trong tập sách này.
     Đến những tác giả khác bình đăng trên các trang mạng Việt toàn cầu trong mấy năm qua:   Hoàng Thị Thảo - Cảm nhận về một bài thơ tình hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây"; Nhà giáo Đình Bồng - Phạm Ngọc Thái với chùm thơ áo trắng; Chuyên viên Trần Tứ Đức - Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu & đàn bà. Trong đó tác giả đánh giá Người Đàn Bà Trắng là một đỉnh cao thi ca; NS.Anh Trần - Xem Tranh Bán Loã Thể, một kỳ tác thi ca! Trần Việt Thịnh - Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sĩ...
     Riêng tôi cũng đã bình hai bài thơ hay của ông: "Cảm xúc về Con Đường Phượng Đỏ" và "Em ơi! Thành phố lại mưa", mà tôi cho rằng tình thơ hay vào hàng tuyệt tác. Bởi vậy, cũng nghệ sĩ Anh Trần mới có nhận xét trong bài viết giới thiệu tập sách, rằng:
- Đọc tập "Phê bình & tiểu luận thi ca", tác phẩm sẽ mở ra cánh cửa để bạn đọc có dịp khám phá một tâm hồn sâu sắc, một trí tuệ tài năng và mang đến cho mọi người sự đam mê, hấp dẫn trên từng trang sách...
     Tuy nhiên, ở mảng thơ của thi nhân với lời bình qua nhiều tác giả - Có tới vài ba chục bài bình chưa hề xuất hiện trên văn đàn các trang mạng. Phần lớn tiểu phẩm của những tác giả ấy chỉ đăng trên báo, tạp chí hoặc in trong một tuyển văn thơ nào đó.
     Thí dụ, Tạp chí Tháp Bút Thủ đô, Sông Hương, Hồn Việt, tạp chí Nhà văn, báo Người Hà Nội... cùng các trang văn học trong cả nước. Những bài bình hay đã được nhà thơ chọn lọc cho in vào tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" vừa xuất bản này. Chẳng hạn:   Nhà thơ Trúc Thông bình Chiều Hoàng Hôn của Phạm Ngọc Thái đăng trên báo Đài Tiếng nói Việt Nam, đồng thời in trong Tuyển "100 bài thơ hay có lời bình", Nxb Thanh niên; Phương Tuấn bình Em Về Biển; Hoàng Ngọc - Cô Quét Lá Đêm Hồ; Tuyết Thuý - Sáng Thu Vàng; Xuân Hùng - Biển Hát; Phạm Thành Công - Tiếng Hát Đời Thường; Trần Ngọc - Em Bán Xoài; Trương Vũ Tiến - Trước Núi Mỹ Nhân; Như Ý - Một Góc Hồ Tây; Ngọc Trâm - Thông Và Biển; v.v...
     Trong bài giới thiệu ở đây, tôi xin trích từ trong tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" hai bài bình thơ: một bài thơ đời, một thơ tình... của hai tác giả - Đó là nữ nhà giáo Diễm Loan và nhà văn Đào Viết Minh, để bạn đọc bốn phương thưởng lãm thêm cái hay cùng sự phong phú, sâu sắc trong bàu trời thi ca Phạm Ngọc Thái.

                                     
                                                  Nhà thơ Phạm Ngọc Thái 

    1- Trước hết nói về thơ Đời - Một bài thơ khóc tang sâu sắc:


             LÀM MA EM VỢ   
               Kính viếng hương hồn cụ Nguyễn Du

Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi " kiếp" !

Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi...
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật!

Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.

Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”!
Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... (*)
Anh ở vì chưng trả nợ đời.
                                 Phạm Ngọc Thái
                        (Trích tập Rung Động Trái Tim)

(*) Ý câu thơ dựa theo thuyết bản mệnh ở Phật giáo - Trong tác phẩm Kiều của Nguyễn Du: Nàng Kiều trẫm mình trên dòng sông Tiền Đường muốn quyên sinh nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu. Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời!

                 Lời bình ĐÀO VIẾT MINH:


     "Làm ma em vợ" là một bài thơ khóc. Đứng trước bao cảnh đời khốn khổ trên bờ bến nhân gian, với tâm khảm xót xa một người em vợ, nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này:

                        Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp" !
                        Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi...    
     Hai câu mở đầu cách thức cảm xúc của tác giả, giọng điệu tựa như những lời khóc van khi đưa đám trong dân gian. Ta xem trong câu hai, nửa vế đầu viết: " Chết thật hèn", nửa vế sau lại nói:"... nhưng sống thế càng ôi" - Như thế là ngay trong một câu thơ đã đưa ra hai nhận định về cả lẽ sống và cái chết của người em vợ. Chết như nó thì dở, thì hèn - Còn sống mà sống kém, sống tệ như vậy cũng…? Bởi đây là bài thơ khóc trước vong linh em, có thể trách nó về sự chết uổng, chết phí... thì còn được, nhưng nếu đem cả cách sống tệ ra trách móc trước mồ mả em, e sẽ trở thành bất nhẫn?
      Tôi xin trích những lời của Hoài Thanh khi nói về cái chết của Hàn Mặc Tử trong Thi Nhân Việt Nam, ông đã viết: " Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ chết rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn".
      Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ  -  Thế là lòng nhà thơ mâu thuẫn. Muốn viết một bài thơ khóc tang sâu sắc thì phải nói đến cả nghĩa sống và cái chết. Huống hồ tính nhân bản trong thi ca, nó đòi hỏi phải đặt ra một giác độ nhìn nhận trách nhiệm của một con người trước xã hội cũng như cộng đồng, mà ở đoạn cuối tác giả có nói:
                        Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi...
       Bởi vậy để đỡ cho hai câu thơ khóc rất thật đầu tiên ấy, nghĩa tử là nghĩa tận, lệ của nhà thơ đã nhỏ xuống, anh xót xa thắp nén hương lòng khấn cầu cho vong hồn em  sớm được siêu thoát:
                        Anh thắp cho em một nén nhang đời
                        Và lễ tạ: Nam-mô-di...phật!        Trách là trách những người thân đang sống quanh không cứu vớt được nó? Trách thực tế cộng đồng không đủ sự nhân ái cần thiết đưa nó ra khỏi bờ vực thẳm? Nhưng thôi, dù sao thì em cũng đã chết rồi! Hãy để cho vong hồn em được an ủi, yên nghỉ nơi suối vàng. Nhưng ý tưởng bao trùm tình thi đã được tác giả khai phá ngay từ câu thơ đầu. Tôi quay lại để bình xét về câu thứ nhất ấy:
                      Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp" !
      Ba chữ "tự giải thoát" là tiếng kêu trong trời đất và xã hội, từ dưới đáy hạ tầng của lớp chúng sinh. Cuộc đời đến mức phải tự kết liễu để giải thoát mình ra khỏi "kiếp sống", thật là bi thương. Nhìn theo quan điểm nhân đạo, suy cho cùng nó cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương của xã hội mà thôi. Tiếng kêu chúng sinh đó đòi hỏi, thậm chí chất vấn...cả thượng tầng kiến trúc kia?
      Đến câu thơ thứ chín, ta thấy nhà thơ còn nhắc lại chữ "kiếp" ấy một lần nữa:
                          Em ơi: Chữ “kiếp” trước chữ “người”!      Huống hồ cảnh đời còn bao thương tâm, oan nghiệt, phi lý, bất công vẫn đè nặng lên lớp nhân quần lương thiện. Chữ "kiếp" đã được vọt trào ra chính vì nỗi đau đời đó! Tôi bình sang đoạn thơ hai:
                         Người sống đưa chân người chết đây
                         Đầu bạc làm ma mái xanh này
      Cái lời tiễn người đã chết ở đây nó ngược cảnh: đầu bạc lại làm ma mái đầu xanh, nghe rền rĩ như tiếng kèn đám ma. Đó là sự bi ai của cuộc sống. Trong dân gian lắm khi cảnh gia đình lục đục, cha mẹ già hay ông bà tính khí trái nắng giở giời...thường rít lên rỉa rói con cháu: Đến con giun, con dế nó còn muốn sống nữa là con người? Tâm lý cảnh đời thường ấy đã được tác giả vận vào hai câu sau của đoạn thơ hai, để nói lên nỗi xót xa đối với người em:                        
                        Mẹ, cha...queo quắt còn ham thọ
                        Em nhởn thanh xuân lại vội quay.
       Quay là quay lơ, lăn ra chết... đi liền với "nhởn thanh xuân" (nhởn nhơ tuổi thanh xuân): nghĩa thơ có ý trào lộng. Ngôn ngữ, nhịp điệu hợp với sự cúng điếu của cảnh khóc tang. Lời than ấy giống như những người đi theo xe tang khóc viếng, đưa linh hồn kẻ chết về nơi chín suối. Nghĩa là, một cái chết tội tình đáng thương thay! Mẹ, cha đã phải chịu đựng bao nhiêu khốn khổ, tủi nhục, đắng cay mà vẫn sống đó? Em còn trẻ, dù có cảnh đời thế nào đi nữa, cũng việc gì phải phẫn chí tìm cách quyên sinh!
      Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng, nhuốm đầm sắc thái theo quan điểm của nỗi kiếp đoạn trường,  nơi bể khổ dân tình của cụ Nguyễn Du. Cho nên tác giả đã kết:
                        Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
                        Anh ở vì chưng trả nợ đời.
      Để cho rõ ý nghĩa hàm súc của hai câu cuối đó, xin liên hệ đôi nét về thân phận nàng Kiều: trải qua bao khổ ải, nhục nhã ê chề phải trẫm mình xuống dòng sông Tiền Đường để chết, nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu - Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! Như thế món nợ Kiếp của Kiều, dù đã phải trải qua hai lần thanh lâu, mấy lần muốn tự vẫn không thành:
                        Làm cho sống đoạ thác đầy
                        Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!                                                                                             ( Kiều )
      Còn cái việc nàng đã được cụ Nguyễn Du cho tái hợp lại với chàng Kim Trọng để cuộc đời bi thảm của Kiều có phần kết hậu, âu đó cũng chỉ là món nợ đời cuối cùng mà nàng phải trả nốt đó thôi: món nợ tình! Bởi 15 năm khổ ải định chết, chết không xong. Tới khi được Giác Duyên cứu sống lại rồi, Kiều chỉ muốn đem tấm thân đã "dơ" của mình:
                        Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru?
      Để mà yên thân nơi cửa chùa:
                        Đã đem mình bỏ am mây...
                        Mầu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
      Thế mà phận cũng có được yên đâu? Khi Kiều từ chối duyên tái hợp với chàng Kim kia, từng thốt ra than:
                        Nói chi kết tóc xe tơ
                        Đã buồn cả ruột mà nhơ cả đời...
      Thế mà Vương Ông vẫn còn trì triết , mắng con gái rằng:
                        Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây?
      Vì "hiếu" đã phải bán cả tấm thân trong trắng, ngà ngọc của mình để chuộc cha. Với "tình" lòng vẫn thuỷ chung son sắt, cũng đành phải dứt duyên nhờ em là Thuý Vân thay mình!... Hiếu, tình sâu nặng đến thế, mà vẫn chưa đủ trả? Cuối cùng Kiều vẫn cứ phải đem cái tấm thân mình, như nàng đã nói:
                        Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa...
      Để mà đền nốt cho chàng Kim. "Món nợ kiếp người" tưởng cũng chỉ khổ đến thế là cùng. Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ, câu thứ ba của đoạn thơ này:
                         Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
     Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm bể ải trong nhân tình thế sự, chiêm nghiệm trong thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp" luân hồi ấy để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết nợ đời đó em!   
  Vì muốn nó cũng có sống lại được nữa đâu? đồng thời đó cũng là lời an ủi, xoa bớt nỗi đau cho vong hồn người em nơi chín suối. Mặt sau của bản thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng khóc nấc bật ra từ trong khối cộng đồng của thời đại hiện đại này!
   Ta trở lại với câu thơ đầu tiên:
                        Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp" !
    Lời khóc tang của bài Làm Ma Em Vợ này là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp nhân gian:
                        Anh ở vì chưng trả nợ đời.
       Anh còn phải sống tiếp, cũng chả sung sướng gì đâu? Bao khổ nạn ê chề, chẳng qua vì đời chưa hết nợ, trả hết nợ rồi anh cũng đi thôi. Bài thơ chỉ như một lời khấn cầu từ bi nơi cửa phật, để thắp cho đứa em tội nghiệp cùng những kẻ đáng thương đã sinh ra ở trên cõi sống trần ai, một nén nhang đời!  
                                                                                         ĐVM.
                                                  
Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"


 
Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng

2- Một bài thơ tình khúc triết:

         KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC

Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay.

Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*)
Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con.

Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
Mai chết rồi làm nước tắm cho em...

Phạm Ngọc Thái 

Hồ Núi Cốc – Đêm 9/7/1997

(*) Huyền thoại kể: Nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc khóc mà chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi), thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc!

            Lời bình DIỄM LOAN:
     Tác giả kể lại: Vào một đêm mưa gió, không gian hồ núi huyền thẳm, hoang dại và vô tận. Con người cô đơn! Từng làn gió rít vút qua ngàn, mưa táp trên mặt hồ nước mênh mang màu xanh thẫm. Niềm hạnh phúc lớn nhất của đời anh là được sống bên nàng, một niềm đam mê man dại. Có phải chăng con người sinh ra trên thế gian này, chỉ có tình yêu gái trai là bất diệt? Toà Thượng Đài ngự trị cả trên triết học và chính trị. Tâm hồn và thể xác hoà quyện nhau đưa anh về cõi cực lạc vô biên. Bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc được dựng bên câu chuyện tình cổ của nàng Công, chàng Cốc bất hủ trong truyền thuyết vọng về - Chính giữa đêm mưa gió, tình thi diễm lệ ấy đã ra đời!

Gọi là Khóc Bên Hồ Núi Cốc nhưng bài thơ không phải là tiếng khóc, nó là một khúc tình ca. Nhà thơ viết thế cho có vẻ đượm màu sắc lâm ly mà thôi:
                        Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
                      Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
     Hồn chàng theo dòng nước cuốn đến với nàng. Thiên nhiên đang bao trùm sự lạnh lẽo, hoang vắng. Giờ anh đứng đây nhìn ra dòng nước mênh mang trôi dạt kia, chỉ còn lại một thế giới trong anh vô vi và trống rỗng. Mà cái "thây" nó cũng đang trôi về phía vĩnh cửu đấy chứ? Biểu tượng "trôi thây" đã dược thăng hoa từ trong cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ, để mở đầu cho bản tình luyến ái gái trai ngàn năm vô bến, vô bờ. Xin bình tiếp câu ba:
                       Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
        Trong cái tiếng gió mưa cào xé đất trời kia (bên ngoài) , lại đang bao bọc cả một thế giới tĩnh lặng đến rùng mình của tim óc con người (bên trong), cùng chứa đựng một khát vọng mãnh liệt tột cùng cả thể xác và tâm hồn tình yêu trong nó. Đẩy nỗi thơ đi đến điểm cực đại, mà bắn vọt ra một bức tranh hoành tráng, hoàn bích nhất về nàng:
                         Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay...
     Ta chạnh nhớ tấm thân nàng Kiều được Nguyễn Du mô tả:
                         Rõ màu trong ngọc trắng ngà
                        Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên.
      Nhưng bức tranh Nguyễn Du mô tả là bức tranh mĩ miều có thật của Kiều đang khoả thân trong khi tắm, còn bức tranh khoả thân của Khóc Bên Hồ Núi Cốc chỉ là bức tranh ảo, bởi ấn tượng từ kí ức, sự cồn cào trong trái tim nhà thơ mà bật ùa ra. Ta thấy tác giả không tả một nét gì trên thân thể, thế mà nàng vẫn hiển hiện lên vẻ đẹp không kém kiêu sa. Tình thơ tuy có bạo loạn nhưng trong sáng. Rõ ràng đây là một khúc tình ca chứ đâu phải là một bi kịch tình?
      Những yếu tố cảm xúc của bài thơ này đều theo thi pháp dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX, nhưng đã được hoà phối với dòng thơ lãng mạn, để hình ảnh ngôn ngữ, ý tình được hàm súc, cô đọng. Không viết chảy tràn theo tình cảm như các thi nhân trong phong trào "thơ mới" thời tiền chiến ở nước ta đã viết.
     Sang đoạn thơ hai là sự gắn bó giữa câu chuyện huyền thoại xưa với câu chuyện tình nay, nói về cái chết chung tình của một đôi trai gái:
                                 Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
                                Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...
     Mối tình đôi trai gái ấy đã bị các quan lại và lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Họ quyết quyên sinh để giữ trọn lòng chung thuỷ sắt son. Nàng thì biến ra hồ nước, còn chàng lại hoá thành non. Không có tình yêu tất cả trở nên vô nghĩa. Tình yêu là nơi trú ngụ, ý nghĩa tồn tại của đời ta:
                                  Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
                                 Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con!
      Ba chữ "khoảng đời con" ở đây mang theo ý ẩn dụ. Nói rằng, không có sự ấm áp trong tình yêu của người đàn bà mang lại cho những "khoảng đời con" ấy, thì thử hỏi: Sự sống tồn tại trên trái đất này để làm gì? Không có sáng tạo hay tiến bộ xã hội nữa. Không có ý nghĩa của cái "khoảng đời con" thì cũng không có những vĩ đại. Cho dù tác giả có đặt câu hỏi:
                               Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
      Chẳng qua là người than cho câu chuyện tình của nàng Công, chàng Cốc trong trời đất và cũng than cho chính mình. Mượn người xưa để nói nỗi đời nay, ý tình cứ rền xiết lên nhau như hai câu trong đoạn thơ cuối đã viết:
                               Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
                               Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
         Cảm xúc thơ tràn ứa mà đẫm lệ. Tôi bình sang đoạn ba, là đoạn thơ máu thịt nhất của bài:
                                   Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                                   Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
                                  Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
                                  Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.
         Khi mưa gió phủ táp xuống miền hồ núi, ta nghe như tiếng câu chuyện tình xưa nghiền xé vang lên: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ /- Tình đời là một dải băng tang trắng ư? Tình yêu gái trai cho ta nguồn suối yêu thương hạnh phúc, song cũng gieo lên cuộc đời những bất hạnh đớn đau.
       Nghĩa là, trời đất cũng để tang cho những linh hồn và trái tim son sắt của tình yêu! Nói về thủ pháp nghệ thuật sáng tác của tác giả trong đoạn thơ ba này, lấy ba câu thơ ảo (câu 1-3 và 4) là thơ trừu tượng, để nuôi một câu thơ thật, thật và rất đời. Chính là câu thơ hai trong đoạn:
                                         Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
       "máu ta đổ đầy..." là biểu tượng nói về tình yêu. Thơ ngả sang màu siêu thực. Cái bóng xanh rì muôn thuở của non ngàn, với "bức phù điêu" đã được tạc trong thiên nhiên kì vĩ kia, là bởi máu và nước mắt tình của những đôi trai gái tắm vào trong nó. Nghĩa là cả trong bất hạnh đau thương tình yêu cũng tô đẹp, là bản tình ca bất hủ trong vũ trụ cũng như cuộc sống con người. Đoạn thơ ba như một bức hoạ dựng sững giữa trời.
       Bằng một cách định nghĩa thi ca Chế Lan Viên đã viết:
                                    Anh phải mang tiếng hát từ bờ này sang bờ kia đấy
                                    Bờ bên kia hư ảo - Bờ thơ.
                                                                        (trích di cảo CLV - Bờ bên kia ) 
           Nhưng sự hư ảo ở đây phải là cái hư ảo thấm đầy huyết, đầy hồn, đầy sự sống và ma lực trong thế giới thơ của nó.
           Xin trở lại để nói tiếp về câu thơ hai trong đoạn. Nếu không có "vú người yêu" thì thử hỏi: Hồ núi có xanh thắm hơn thế nữa, thiên nhiên có đẹp hơn thế nữa, để làm gì? Cả chiến tranh và hoà bình trong thế giới này, nếu không có vú người yêu thì loài người gây ra nó cũng để làm gì? "cắn vú người yêu" là một hình tượng rất đời được đưa vào trong thơ, hình ảnh thơ đọc vẫn không thô, không sượng. Viết được câu thơ như thế là một thành công trong thi ca, đưa bài thơ đi xa trên bến-bờ-thi...
      Đến đây tôi chỉ xin nói thêm một chút nữa về câu thơ cuối cùng của bài:
                                          Mai chết rồi làm nước tắm cho em...
      Xuân Diệu thì nói rằng:
                                        Anh không xứng là biển xanh              
                               Nhưng cũng xin làm bể biếc
         Còn đây, tác giả lại viết: "mai chết rồi…" - Phải, con người có thể làm bao chuyện phi thường, lên cả vũ trụ mà chinh phục sao Hoả, sao Kim, sáng tạo những phát minh khoa học vĩ đại, chế ra cả tên lửa xuyên lục địa, bom nguyên tử, đầu đạn hạt nhân để tiêu huỷ hoàn cầu v.v... Ấy thế mà, liệu còn gì có thể cao xa hơn là làm một dòng suối mát, một hồ nước xanh, hay chỉ là một bồn nước trong nho nhỏ tắm cho cuộc đời và thân thể của người yêu?
         Đấy, nhà thơ của bài Khóc Bên Hồ Núi Cốc này chỉ muốn kết tình thơ ở đó, để cho đời suy ngẫm?
                                    DL.
         Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"

Hà Nội, tháng 1 - 2014
Nguyễn Thị Hoàng 
Cô giáo ĐH Sư phạm
                  Đã đăng trên nhiều trang mạng thế giới:
http://www.nhuygialai.com...tap-phe-binh-tieu.html
http://vanthientungqtlh.b...ca-pham-ngoc-thai.html
http://llpb.datdung.com/2...tap-phe-binh-tieu.html
http://toquocvn.wordpress...-thi-ca-co-giao-hoang/
http://www.tiengchimviet....tap-phe-binh-tieu.html
http://www.chinhluanvn.co...tap-phe-binh-tieu.html
http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
http://vandanvn.net/vi/ne...Hoang-gioi-thieu-3173/
http://www.tintuchangngay...tap-phe-binh-tieu.html
http://nghiathuc.wordpres...binh-tieu-luan-thi-ca/
http://www.aihuubienhoa.c..._5-50_6-1_17-531_15-2/
http://vannghequangtri.bl...tap-phe-binh-tieu.html
http://vannghequangtri.bl...eu-pham-ngoc-thai.html
http://tranmygiong.blogti...i_var_i_taonp_pha_ba_n
http://binhtrung.org/D_1-...-tieu-luan-thi-ca.html
http://www.namviet.net/fo...&p=63192#post63192
http://hung-viet.org/blog...binh-tieu-luan-thi-ca/
  http://www.vanganh.info/2...tap-phe-binh-tieu.html
  http://nguyenduyxuan.net/...inh-a-tiu-lun-thi-ca-q
http://4phuong.net/ebook/...-tieu-luan-thi-ca.html
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3461
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.01.2014 22:00:41 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 18.02.2014 18:28:49
 

                      PHẠM NGỌC THÁI
    VỚI NHỮNG TÌNH THƠ SÂU NẶNG NỖI ĐỜI

                         Đọc "Phê bình & tiểu luận thi ca", Nxb Văn hoá Thông tin 2013

                                                          NGUYỄN ĐÌNH CHÚC
                                                                                                            giới thiệu



 
     Phạm Ngọc Thái không chỉ sáng tác được nhiều bài thơ tình hay, mà thơ về nỗi đời dân gian, kiếp người của anh không ít bài cũng đạt sự viên mãn để tạo thành những thi phẩm súc tích, có bài đến hoàn bích: Làm ma em vợ, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Em bán xoài, Cỏ hoang, Em bé cầu bơ, Cô quét lá đêm hồ...
    Đọc "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái" mới phát hành cuối năm qua, một cuốn sách khá hoành tráng, bề thế... dày gần 300 trang.  Trong PHẦN II - THƠ PHẠM NGỌC THÁI VỚI LỜI BÌNH - Có tới 34 bài thơ đạt độ khúc triết, đã được cả thảy 28 tác giả vừa văn nghệ sĩ, nhà giáo cùng các đấng trí thức khác viết lời bình. Mặc dù vẫn còn một số bài thơ không kém phần hay trong tuyển thơ đồ sộ của anh, hiện chưa có lời bình nên chưa đưa vào được trong tập bình luận thi ca lần này. Song, chỉ riêng một nhà thơ mà đạt được số lượng những bài thơ sâu sắc hoặc hay ở những cung bậc khác nhau nhiều như thế, cũng có thể nói đó đã là một chân dung thi nhân vào hàng siêu đẳng rồi.
      Trong bài viết nhận định "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái" vừa qua của cô giáo Nguyễn Thị Hoàng, cũng mới đăng trong năm, cô giáo đã trích từ tác phẩm hai bài bình thơ của hai tác giả để giới thiệu cùng bạn đoc:
         1. Nhà văn Đào Viết Minh luận bàn về "Làm ma em vợ" - một bài thơ khóc tang khúc triết.
         2. Nhà giáo Diễm Loan thì bình bài thơ tình sâu sắc "Khóc bên Hồ Núi Cốc".
   Ở bài viết này, tôi chỉ xin nói riêng về mảng thơ đời hay của thi nhân được in trong tập bình luận thi ca đó. Như nhà văn Đào Viết Minh khi bình Làm Ma Em Vợ đã có nhận xét rằng:
     "... Trước những cảnh đời còn bao thương tâm, oan nghiệt, phi lý, bất công vẫn đè nặng lên lớp nhân quần lương thiện - Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng, nhuốm đầm sắc thái dân gian, theo quan điểm nỗi kiếp đoan trường của cụ Nguyễn Du...
    Hay là:
     Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm, bể ải nơi nhân tình thế sự, chiêm nghiệm trong thẳm sâu tâm linh của cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp" luân hồi... để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra".
     Tức là nhà thơ đã nhìn đời bằng con mắt của những người lao khổ. Có khi còn chĩa mũi dùi vào đả phá những kẻ làm chính trị nhưng đạo đức giả, thậm chí là loạn luân. Như ở bài "Cỏ hoang" viết:
                      Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi thánh nữ
                      Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang gieo hoa cấy linh hồn...
    Để nói về một cô gái trong cái đám người phải đi xuất khẩu lao động, thực chất là những kẻ làm thuê cuốc mướn ở nước ngoài, tha phương cầu thực vì miếng cơm manh áo - Cô gái đã trở thành một thứ trò chơi, nạn nhân của xã hội đang xuống cấp tận cùng. Cái thế giới nhân quần được gọi là "trần gian" kia:
                      Hỡi Thiên đường - Địa phủ: Trần gian
                      Loài người mãi sao tràn lan tội ác?
   Biết bao sự bất công, tàn bạo xô đẩy lớp chúng sinh vào cảnh khốn quẫn. Đấy là nhân sinh quan của Phạm Ngọc Thái. Thí dụ như ở trong bài "Em bé cầu bơ" - Nói về cảnh tết của một thân phận vất vưởng, lang thang nơi đường phố:
                      Tối ba mươi lò than phở đã nguội rồi
                      Em bé cầu bơ không nơi ngồi sưởi ấm.
                      Đêm giao thừa người chúc nhau nhiều may mắn
                      Dưới gốc cây già một bóng nhỏ nhuộm màu đen.
     Hình ảnh một đứa bé cầu bơ, cầu bất trong đêm giao thừa, không nhà không cửa, ngày đi xin ăn, khuya về ngủ nhờ bên cái lò phở lấy chút hơi ấm để qua đêm. Nhưng đêm ba mươi hầu hết các cửa hiệu đều đóng cửa, lò than cũng không còn được đốt nữa. Đứa bé không còn chỗ nào để sưởi ấm tấm thân còm.  Chỉ bằng 4 câu mà tác giả khắc họa sâu sắc đến mức điển hình. Người ta chỉ còn nhìn thấy một cái bóng đen, cũng được gọi là sự sống ấy đang co quắp vì giá lạnh dưới một gốc cây già. Chính là cái màu đen của cả một kiếp người, những thân phận thấp hèn của chốn nhân gian. Đọc lên trái tim ta quặn đau, không khỏi xót xa. Rõ ràng từ một hiện thực cuộc sống được tác giả khái quát thật cô đọng mà vẫn đầy cảm xúc. Tầm vóc của bài thơ không nhỏ một chút nào.
     Nói về bài "Nỗi trăn trở người đi đi tìm vàng", cũng viết về những người xuất khẩu lao động, làm thuê ở nước ngoài. Thông qua sự trăn trở bản thân, nhà thơ đã đi sâu vào nỗi lòng của những người lao khổ. Nó phục lại một bối cảnh đầy mâu thuẫn, trước những cảnh tượng diễn ra nơi đất khách, quê người. Nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau như cảnh chợ giời. Đạo lý thì bị tha hoá, xã hội xuống cấp - Có thể đó đã thuộc vào hàng lớp chúng sinh ở tận cùng đáy xã hội rồi:
                     Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
                     Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
   Cuộc sống của những con người lương thiện đó đã phải:
                    Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ
     Là một màn bi hài của xã hội và cuộc đời. Rồi tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời đáng thương đó đã phải chịu đựng:
                    Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật
                    Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
                    Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
                    Một chút nữa với bạn bè, thân hữu...
     Như một nhà bình luận khi nhận xét về bài thơ "Nỗi trăn trở người đi tìm vàng" này, đã nói:
  -  Tiếng thơ đau mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Nó phục lại một hiện thực xã hội bị suy thoái, xuống cấp. Dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Giá trị nhân văn cũng như tính điển hình xã hội rất cao, v.v....

    Để tiếp tục giới thiệu tập "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái" vừa xuất bản đó - Tôi xin trích thêm hai bài bình, nói về mảng thơ đời sâu sắc của thi nhân, đã được hai tác giả là Hoàng Ngọc và Trần Ngọc Lâm viết lời bình, bạn đọc cùng thưởng lãm:

    1. Trước hết nói đến bài thơ viết về những kiếp đời gió bụi lang thang, nhà thơ đã từng gặp trên bãi biển Nha Trang:




                EM BÁN XOÀI  
 - Anh trai mua xoài cho em đi?
Nha Trang! Ta nhớ Nha Trang!

Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm
Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh.

Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách…
Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
Em bán xoài thơm! Em bán xoài thơm!
Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?

Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi
Xoài em thơm. Hương toả mát thân người...
Ai mua xoài? Còn ai có mua em?


Các cô gái đi đêm như các cột đèn
Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm.

                                 Phạm Ngọc Thái 
 
                   Lời bình TRẦN NGỌC LÂM:
    Theo nhà thơ kể lại, trong một dịp đi qua thành phố Nha Trang những ngày sau chiến tranh. Khi đó anh vẫn còn trong quân đội ở chiến trường miền Nam. Vào một buổi tối, anh cùng với một nhóm sĩ quan đi ra chơi trên bãi biển và... đã gặp những cô gái "bán xoài".  Một em gái trẻ dễ thương, thân hình bó lẳn trong chiếc áo cánh chẽn mềm mỏng tới mời anh. Không hiểu sao lúc đó anh lại từ chối? để rồi bao nhiêu năm tháng qua đi, hình ảnh người con gái ấy cùng với những kiếp đời sương gió cứ đọng mãi, in sâu vào kí ức nhà thơ thành kỉ niệm. Tới một ngày những xúc động xưa lại quay về và... bài thơ Em Bán Xoài đã ra đời:
                    Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
                    Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
      Đó là những thân phận lạc loài, nổi trôi trong bể tình thế thái này. Linh hồn gần như không có nơi bám víu, nhỏ bé và yếu ớt, trong cả biển đời đầy sóng bão chỉ muốn nuốt chửng lấy chúng:
                    Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
                    Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
                    Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
     Tác giả tả về cái thế giới mà các cô gái đang đi, đang sống trong đó - Chính là thế giới của chúng ta, nhưng sao nó thật hãi hùng:
                    Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
                    Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi...
      Phải chăng cái thế giới đó cứ muôn đời vùi dập lên những kiếp cảnh chúng sinh? Phải chăng bài thơ chính là tiếng gào thét, lên án sự tàn ác còn tồn tại trong cộng đồng? Nó giống như con bạch tuộc cứ bủa vây đám dân dã, những lớp người nghèo hèn sống hôm nay không biết đến ngày mai. Mặc dù sự tồn tại của thế giới đó chính phải nhờ vào hương thơm trái xoài và sự tươi  mát của những người con gái kia. Thế mà:
                    Ai mua xoài? Còn ai có mua em? 

     Biển càng to lớn mênh mang thì bóng hình những người con gái bé nhỏ ấy càng côi cút. Bên bóng của những chiếc cột đèn đứng trong đêm thành phố cũng thật lạnh lẽo, nhập hoà vào những thân phận tội nghiệp, đáng thương, để cùng vô vi trong cát bụi cuộc đời:
                    Các cô gái đi đêm như các cột đèn
                    Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
     Hay là:
                    Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh
     Thơ từ những hình ảnh hiện thực chuyển sang siêu thực, cuối cùng chỉ thấy một bờ cát trắng là tồn tại. Những giọt thơ buồn của nhà thơ rơi lên các linh hồn bèo bọt ở chốn nhân quần:
                   Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách...
                   Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi      
    Như thế là những thăng trầm của lịch sử và xã hội, cũng chỉ giống như chiếc túi càn khôn cứ nghiến xiết đám dân lành tội nghiệp. Bài thơ được kết thúc trong những lời ru, sự cảm đồng của hàng dừa quê hương cùng với nỗi lòng tác giả bên người con gái bán xoài:
                    Biển ru ta và ta ru em
                    Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm.
      Ba chữ "xứ sở gió..." diễn tả sự da diết gắn bó của trời đất quê hương với con người, nhưng đồng thời nó cũng thật hoang lạnh, vô tình. Em Bán Xoài vừa là một bài thơ đời vừa là thơ tình. Cảm xúc thơ mạnh và súc tích, giàu tính nhân ái… với những kiếp đời gió bụi lang thang.

                                                                TNL.  

                               Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
 

    2. Một bài thơ đời dân gian sâu sắc khác:
 
       CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ

Một đêm hồ nước đầy sương gió
Người đi không rõ mặt người
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá, bên tôi!

 
Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
Trong cõi lòng tôi buồn triền miên.

 
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa…
Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya.

                       Phạm Ngọc Thái
                Lời bình HOÀNG NGỌC:
    Vào một đêm trời đầy sương gió, tác giả đã gặp cô quét lá bên hồ nước, chính là người quét rác trong phố khuya. Đó là những con người lao khổ, cuộc sống cũng giống như những chiếc chổi tre ngày tháng quét lê trên đường để mòn vẹt dần đi:
                     Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
                     Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
       Cái tiếng chổi đời, chổi kiếp ấy kêu xiết vào trái tim người thi sĩ, để những giọt thơ từ trong anh rơi ra. Thông qua bức chân dung Cô Quét Lá Đêm Hồ, nhà thơ muốn phản ánh cuộc sống cùng nhân ảnh của những con người lao động trong cõi dân gian. Giữa khối lòng buồn tình buồn của nhà thơ, nhưng lại ở trong cõi mộng. Nó mơ mộng đến mức hình ảnh cô quét lá trên đường hóa thành như tiên nữ từ trong tranh bước ra, lặng lẽ đi vào bến bờ thi:
                    Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
                    Trong cõi lòng tôi buồn triền miên

      Tấm hình của bức chân dung trở thành siêu thực. Siêu thực theo đúng nghĩa của nó: thực mà đã siêu trần. Cảm giác vừa xa xót, vừa mộng mơ hòa quyện trong tâm hồn tác giả như ở đoạn thơ hai ta vừa phân tích, tạo thành nhân cốt của bài thơ. Nhưng đây là "nhân cốt đời"!
    Sở dĩ tôi nói “nhân cốt đời“ bởi vì: nếu ta phân tích tới hai câu đầu của đoạn thơ thứ ba, sẽ lại gặp một nhân cốt  khác nữa, nhưng nó đã là những hình ảnh mang tính tượng trưng ra khỏi bến trần ai thường tình:              

                     Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
                     Con nai vàng chết bóng thu xưa..      

    Nhà thơ tâm sự: nhìn sâu vào trong đêm đó, giữa anh và cô quét lá đêm hồ ấy như có hai khoảng đời cách biệt. Một đằng anh thi sĩ mộng mơ, còn em lại đang quét lá rơi. Nói một cách khác, em đang lao động kiếm sống vì miếng cơm manh áo, còn tâm trí nào mà cảm đồng với những xúc cảm lãng mạn của nhà thơ? Chung quanh tiếng lá cây reo nghe bình thản một cách rờn rợn, lạnh lùng. Bóng trăng trên đầu cũng trở nên nhợt nhạt, côi cút trong cả khoảng không gian vô tận, vô bờ. Cô quét lá có cô đơn không, nhà thơ không biết? Cô cứ thầm thì lặng lẽ quét, chẳng hề để ý đến sự có mặt của anh lúc đó. Nhà thơ thấy chính lòng mình cô đơn! Câu thơ:
                    Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng 
      Đã ra đời như thế. Bóng trăng trên đầu đã được hóa thân để kết hợp với câu thơ dưới:
                    Con nai vàng chết bóng thu xưa...
     Tạo nên những hình ảnh đồng điệu. Nhưng nguyên nhân vì sao lại có cảnh con nai vàng bị chết giữa bóng của rừng thu? Từ nỗi đời mà ra. Hình ảnh cô quét lá cứ quét ngày, quét tháng cũng như chiếc chổi tre năm tháng  mòn vẹt dần, còn con người thì lại... "không nhân ảnh". Vậy những kẻ bần khổ ấy làm gì có tâm hồn mà mộng với sầu như cố thi nhân Lưu Trọng Lư, để mơ đến cảnh bóng con nai vàng của Tiếng Thu kia? Thế là từ cảnh ngang trái của đời nảy ra ý ngược thơ: con nai vàng phải chết!

     Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô... trong thơ cố thi nhân, nó bọc chứa cả thế giới huyền ảo như cổ tích nằm bên trong tình thơ. Còn hình ảnh "con nai vàng chết" của bài thơ Cô Quét Lá Đêm Hồ này, ý nghĩa xã hội lại nằm bên ngoài tình thơ, để phản ảnh tới sự mất mát cả giá trị đời sống cũng như tinh thần của người lao động. Đây là hai câu thơ hay nhất bài, nâng tầm vóc của bài thơ cao lên!
    Tôi xin quay trở lại bình đoạn thơ mở đầu:
                     Một đêm hồ nước đầy sương gió
                     Người đi không rõ mặt người
     Miêu tả cảnh trời sương gió (nghĩa đen), để phản ảnh cảnh lầm lụi gió sương của những con người lao động đang lặn lội ở đó (nghĩa bóng). Hình ảnh hồ nước biểu tượng về nước non xứ sở, mảnh đất mà mồ hôi họ đã tắm vào trong đó. Thế mà họ lại:

                     Người đi không rõ mặt người…
     Đấy chính là nhân ảnh của dân gian, chẳng khác nào những kiếp phù du? Nghĩa là bài thơ không dừng lại ở thân phận cô quét lá. Nhà thơ đã chạnh lòng nghĩ đến những kiếp đời của chốn nhân quần, cái lớp người thời nào mà chẳng phải chịu những sự bất công? Sống vật vã suốt đời chỉ để lo miếng cơm, manh áo cũng không xong. Đến cuối bài thơ hình tượng nhân ảnh mờ mịt này còn được tác giả nhắc lại một lần nữa:
                     Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
     Suốt dọc bài thơ: từ không gian gió sương hay cuộc sống con người, cái chổi tre, vầng trăng, đến cả bóng con nai vàng... đều là những hình ảnh mang theo hàm ý biểu tượng. Ta hãy nghe tác giả tả về cảnh liễu hồ:
                     Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
                     Em thầm thì quét lá, bên tôi!
     Cái tiếng liễu đìu hiu ru quanh hồ vắng bên những bước đi âm thầm của cô quét lá: cảnh ấy, đời ấy... như Nguyễn Du đã viết:

                     Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
      Đã được hòa tấu bằng một giọng thơ trầm lắng và hơi hiu hắt. Có lẽ chỉ những rặng liễu kia đã cùng thức để cảm đồng với nhà thơ mà lặng lẽ ru cuộc đời cô quét lá? Đưa ta vào khoảng không gian thật mơ hồ, nửa thực, nửa không. Nhà thơ xót với nỗi đau đời mà hóa buồn chăng? Chính trong tâm trạng ấy, cô quét lá đêm hồ thành thơ rơi vào cõi lòng anh.
     Ở ngoài kia, xa kia, cô quét lá vẫn đang lặng lẽ quét, lặng lẽ đi, khuất dần vào trong màn sương tối. Khoảng không gian giờ đây chỉ còn nghe thấy những vần thơ của thi nhân vẫn vọng lên ở đó, với một bóng trăng ngàn thu cô đơn soi mãi trên đầu đi vào cõi muôn năm...

                                                     HN.
                                                 Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
        Nguyễn Đình Chúc

    chucdinh012@gmail.com
           Đã được đăng trên những trang mạng trong nước & thế giới:

   http://me.zing.vn/zb/dt/tranmygiong/18302712
http://www.tintuchangngay...-nang-noi-oi-pham.html
http://llpb.datdung.com/2...hung-tinh-tho-sau.html
http://vandanvn.net/vi/ne...-Chuc-gioi-thieu-3369/ 
http://nguyenduyxuan.net/...67-2014-02-18-00-47-30
http://binhtrung.org/D_1-...-sau-nang-noi-doi.html
  http://vannghequangtri.bl...hung-tinh-tho-sau.html
http://www.nhuygialai.com...hung-tinh-tho-sau.html
http://www.vanganh.info/2...-nang-noi-oi-pham.html
  http://www.tiengchimviet....-nang-noi-oi-pham.html
  http://www.chinhluanvn.co...hung-tinh-tho-sau.html
  https://vonga1.wordpress....-tho-sau-nang-noi-doi/
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.04.2014 23:29:09 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 17.03.2014 10:33:48

             HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU THI CA HÀ NỘI giới thiệu:
               SÁCH BÁN CỦA MỘT THI NHÂN LỚN
     Đó là hai tác phẩm văn học:
    1. Tập thơ "Hồ Xuân Hương tái lai"
của nhà thơ Phạm Ngọc Thái,
          Nxb Văn hoá Thông tin 2012
      - Có tấm vóc của một tuyển thơ - dày 400 trang với 298 tình thơ.
                Một tuyển thơ hấp dẫn & hay.

 


        2. Cuốn "Phê bình & tiểu luận thi ca" cũng của thi nhân,
         Nxb Văn hoá Thông tin 2013
- Tập sách dày gần 300 trang.
        Là một tác phẩm bình luận thi ca đặc sắc, có nhiều bài hay và giá trị đối với nền văn học.



        Đọc hai tác phẩm "Hồ Xuân Hương tái lai" - "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái" :
       - Sẽ hiện lên chân dung của một thi nhân lớn trong đương đại cũng như nền văn hiến nước nhà.
       Nếu không phải vậy? Những ai có đủ khả năng trình độ thẩm định thơ, viết bài bình phẩm cụ thể tác phẩm thi ca để phản biện trên các trang văn học của báo chí quốc gia, tác giả sắn sàng bồi hoàn với khoản tiền 10 000 000đ để tỏ lòng thành kính - Vì danh dự nhà thơ quyết không nuốt lời.
    Hai tác phẩm đều được in theo khổ sách rộng 14,5 x 20,5cm, bìa gập đẹp, sách dày và khá hoành tráng.
    -  Giá bìa sách cả hai quyển là 173 000đ
    -  Giá bán tác giả chỉ lấy tổng cộng 100 000đ
            ( kể cả tiền cước phí gửi trong nước đối với hai cuốn sách dày như thế, đã mất 20 000đ -
             Tức là tác giả chiết khấu tới 50% )
            * Nếu mua 1 quyển là 60 000đ ( kể cả tiền cước phí gửi).
     Tác phẩm hay, đọc hấp dẫn mà lại rất rẻ, nhà thơ mong muốn sách đến được với nhiều bạn đọc.
    -  Nếu độc giả nào muốn mua, xin liên hệ trực tiếp với nhà thơ:
                 Phạm Ngọc Thái
         ĐC:  Ngõ 194/ Nhà 34, phố Quán Thánh, Hà Nội
         ĐT:   0168 302 4194
         Email:     ngocthai1948@gmail.com
     -    
Độc giả có thể tìm hiểu thêm thi nhân qua link sau.
          *  Tất cả các bài viết trong link đều được in ở tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" này :


                   
http://4phuong.net/ebook/76310147/pham-ngoc-thai-chinh-la-chan-dung-cua-mot-thi-hao.html
                   
http://nghiathuc.wordpress.com/2013/10/06/pham-ngoc-thai-chinh-la-chan-dung-cua-mot-thi-hao/

                                      VỚI CÁC ĐỘC GIẢ Ở HẢI NGOẠI:
      Do tiền cước phí gửi lớn, tác giả không thể gửi sách đi được. Nếu độc giả nào có nhu cầu muốn thưởng lãm tác phẩm, đề nghị liên hệ với nhà thơ qua email. Tác giả sẽ gửi tặng Quý vị nguyên bản hai tác phẩm đó theo hộp thư điện tử.
-  Tổ chức và cá nhân nào muốn com măng xuất bản ở hải ngoại hay tái bản ở trong nước để bán, hoặc có thể xuất bản tập mới:
         * Thí dụ như bản thảo tập "Bàu trời thơ tình hay và lạ":
        
- Gồm 119 tình thơ của thi nhân, rút từ trong những tuyển thơ đã xuất bản. Một tập thơ tình tuyệt hay dày khoảng 200 trang.
     
Đề nghị giao thiệp trực tiếp với nhà thơ.

  T/M HỘI THI CA HÀ NỘI
                                                                                                            

  Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng
 
Giảng viên Trường ĐH Sư phạm
  cogiao.hoang61@gmail.com

        Ai muốn tìm hiểu "Hội những người yêu thi ca Hà Nội"
                                       Mở link sau:
        
http://nghiathuc.wordpress.com/2013/09/17/gioi-thieu-ve-mot-to-chuc-van-chuong-hoi-nhung-nguoi-yeu-mat-troi-thi-ca-bai-cua-anh-nguyen/
        
http://www.namuctuanbao.net/913/truyenNgan/truyenngan_27.php
 
                      Giới thiệu đã được đăng trên một số trang mạng trong nước & Hải ngoại:
  http://vannghequangtri.bl...hi-ca-ha-noi-gioi.html
http://llpb.datdung.com/2...ngoc-thai-co-giao.html
http://hung-viet.org/blog...-cua-mot-thi-nhan-lon/
http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_10.php
http://blog.zing.vn/jb/dt...8388886?from=hottoppic
http://www.nhuygialai.com...nha-tho-pham-ngoc.html
http://nghiathuc.wordpres...-cua-mot-thi-nhan-lon/
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 15.04.2014 23:16:36
         
  Phạm Ngọc Thái với 3 tuyệt tác - 20 tình thơ hay hoặc khá hay
                                                                    Trần Tứ Đức



     Trong một bài viết, chính nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã nêu ra một trong những nguyên tắc cơ bản của việc thẩm định thơ hay, rằng:
         " Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
      Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, suy cho cùng nó cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi. Nói để các nhà thơ đỡ xót xa, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời, rồi thì nó sẽ... vứt đi. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đối với nền văn học được".

     Cũng nhất quán trên cơ sở ấy, với nhận thức bản thân kết hợp, sàng lọc qua nhiều dư luận và đánh giá ở văn đàn - Tôi xin khái quất về chân giá trị tác phẩm thơ ca Phạm Ngọc Thái như sau:
 
A- PHẠM NGỌC THÁI VỚI 3 TUYỆT TÁC THI CA

NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
                                Người đàn bà đi trong mưa rơi
                                Chứa một trời thầm như hoa vậy.

Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!

Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời.

Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?

Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.

Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                            suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con-đường-lông-ngỗng-trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.

Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng.


           VÁY THIẾU NỮ BAY
Váy thiếu nữ bay để ngỏ
Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
Tìm vào chỗ ấy của em...

Bờ bãi con người em trổ hoa trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc
Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm.

Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian
Có phải đó khúc quân hành nhân loại?
Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh.

Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang.


         LÀM MA EM VỢ               
                       Kính viếng hương hồn cụ Nguyễn Du
Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi " kiếp"
Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi...
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật!

Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.

Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”!
Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... (*)
Anh ở vì chưng trả nợ đời.


(*)
Nàng Kiều trẫm mình trên dòng sông Tiền Đường muốn quyên sinh nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu. Theo thuyết bản mệnh ở Phật giáo trong tác phẩm Kiều của Nguyễn Du: Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời!
 

                      Nhà thơ Phạm Ngọc Thái 
 
B-   20 TÌNH THƠ HAY HOẶC KHÁ HAY

  1.  ANH VẪN Ở BÊN HỒ TÂY

Tình để lại vết thương không lành được
Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian
Em hiền dịu trái tim từng tha thiết
Người con gái anh yêu nay hóa khói sương tan.

Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt
Hạnh phúc qua như một cánh chim bay
Nông nỗi đời người để đâu cho hết
Tình thơ ngây... tình sao mãi thơ ngây…

Nhớ buổi đón em cổng trường sư phạm
Đôi mắt từ xa đã nhận ra người
Tình yêu có cái nhìn trong linh cảm
Giờ ở đâu, người con gái xa xôi?

Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại
Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi
Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi...


2.  EM ƠI! THÀNH PHỐ LẠI MƯA

Nghe không em lại mưa lên phố
Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi...
Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ
Mối tình thời trinh nữ xa xôi.

Thưở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở
Say như mơ và mộng như thơ
Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi
Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ.

Thành phố lại mưa…
Có nghe không em? Con chim trời, cá nước
Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua
Tình êm dịu bên em mơ màng quá
Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa.

Tiếng mưa rơi não nề thao thức
Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan
Bèo dạt sông trôi buồm anh không bến đỗ
Chân trời vương vấn dải mây lan.

Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch
Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
Anh đứng giữa trời mưa làm những vần thơ xao xác
Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang...
      
             3.  EM VỀ BIỂN
                        Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                         Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
                         Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                         Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu
.

                          ( kỉ niệm K.A:  Người nữ sinh trường SPNN năm xưa.
                                                              Quê hương thành phố biển)

Em về biển để vùi vào trong cát

Nỗi buồn nước mắt
Những nát tan vòm ngực đã thương đau.

Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả
Xô mãi bờ với lá thông reo
Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu?

Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu
Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
Đã thổi thành bão tố ở trong anh.

Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây!
Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ
Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...

Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi! 

         
4. EM BÁN XOÀI  
  - Anh trai mua xoài cho em đi?
Nha Trang! Ta nhớ Nha Trang!

Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm
Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh.

Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách…
Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
Em bán xoài thơm! Em bán xoài thơm!
Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?

Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi
Xoài em thơm. Hương toả mát thân người.
Ai mua xoài? Còn ai có mua em?

Các cô gái đi đêm như các cột đèn
Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm.

               
           5.  CÂY THẦM TIẾC BÓNG
Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ.

Anh ngắm liễu bên hồ càng nhớ bóng
Ai ru mình trong trăng sáng nép vào anh
Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn
Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân.

Người đàn bà ra đi không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ
Và gió nữa cũng giông cuồng rồ dại
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô.

Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt
Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường.

Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Hoa sẽ úa, nhị sẽ tàn và lụi
Một đời trôi theo năm tháng xô bồ.

           6. MỘT GÓC HỒ TÂY
Anh đến mình anh trong chiều muộn
Nhặt thơ tình ở một góc hồ Tây
Ngắm mặt gương hồ vào chập tối
Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi.

Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng
Vừa đơn côi mà không đơn côi...
Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi.

Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố
Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu! 
Trong sân gạch sư già quét lá
Bước người đi thầm lặng cõi hư hao.
Chiều hồ Tây - Chiều Tây Hồ lộng gió
Ta và người: cõi mộng khác chi nhau?
Người quên hết! Còn ta yêu tất cả
Trong tiếng lá bay chầm chậm bóng ta theo...

         7.   SÁNG THU VÀNG
Gặp lại em một sáng thu vàng
Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
Với trời xanh, hồ xanh gió
Gió đưa làn tóc em bay...     
                  

                       (Kỉ niệm Đ. Gặp lại em sáng đó bên hồ gió, anh
                             đã viết để cho đời bài thơ mùa thu diễm lệ này)

Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây

                  bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước…
Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa.  


Người con gái đã thành chính quả!
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!  


Sáng thu vàng mông mênh mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn.  


Sáng thu vàng xang xênh xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười...hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh.  


Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà em nuốt mùa thu tan...


         8.   BIỂN HÁT
Biển tít tắp sao sóng còn vỗ mãi
Anh nhặt chút tình vương lại thời xa
Treo hồn lên nửa vành trăng lấp
Thả lòng bay lặng bến bơ vơ.

Biển có thể không biết mình hóa sóng
Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh
Em có thể không còn nhớ đến...
Như làn mây trôi mãi vô tình.

Biển ba phần cho trái đất tươi xanh
Em trong anh một mùa thu huyền ảo
Khi anh hóa hàng phi lao trong sóng bão
Là đã hòa biển cả với cô đơn!

Trời đêm nay không mưa nhưng mà gió
Gió đêm nay không mạnh nhưng mà xô
Trăng đêm nay hơi vàng, xao và động
Anh lại nằm nghe biển hát ngày xưa…

          9.  TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG
                            Tặng vợ                                                                                  
Trong một phố nghèo có người vợ trẻ
Vẫn đón con đi, về... như thường lệ
Vóc em thanh cũng thể mùa xuân
Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen.

Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*)
Đêm hồ nước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn. (**)

Ôi quê hương!
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.

Miền đã theo tôi vào cuộc chiến tranh
Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...
Ai biết chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!

Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!

Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe...
                              Phạm Ngọc Thái
                       Nước Đức - tháng 2/1989

      (*) Gợi lại câu chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở hồ Tây. Bà  đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người còn truyền tụng đến ngày nay.
  (**) Là hình ảnh mặt thành Thăng Long Cửa Bắc cố đô xưa, còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết.

        10.  ĐÊM TÓC ĐÁ  
Nửa đời tóc hoá thành đá cả
Rụng vãi thềm đầy phủ quanh trăng
Nhớ một thuở cùng bao thiếu nữ
Mà nay gò mả, ma rừng.  


Tai nghe tóc ve bên bà gái goá
Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu
Có của nhà vẫn còn ham tơ nhú
Ngồi chẳng yên, hồn dạ cứ vi vu.  


Trên kia nguyệt không quần như đã...
Đêm thơm chùa, trắng dã tấm thân nga
Trinh tiết thời nay em mở cửa
Ngai vàng còn dưới cái em ta!


        11. TIẾNG RÚC CHIM ĐÊM  
                              Những tối trăng ngời, dưới ánh sao khuya
                             Anh vẫn đắm mình về phương ấy
                               Những câu thơ như ngôi sao bùng cháy
                               Và cuộc chia ly đã hoá cánh buồm.


Con chim đêm rúc mãi ngoài cây
Nó nói gì không biết?
Chắc con mái ham nơi vui thú khác
Đã không về. Con trống gọi suốt đêm...

Chim gọi đàn - Anh gọi tên em
Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
Có lẽ nào em không về nữa?
Để hồn anh hoang mạc, bơ vơ.

Đã xa rồi. Mùa dĩ vãng trăng mơ…
Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi
Bao ý nghĩa trong cuộc đời tồn tại
Thành quách loài người em thiêu trụi thành tro!

Ngàn năm xưa cho tới bây giờ
Ta muốn hỏi đến muôn đời sau nữa:
Mọi giá trị vĩnh hằng, nếu có
Sẽ là gì? Khi thiếu vắng em ta!

Con chim đêm run rẩy bóng xanh già
Anh bổi hổi một thời qua vọng lại
Và tất cả đã trở thành trống trải


Sao em lại phụ bạc tình, con mái thương yêu?


             12. CÔ ÁO TRẮNG
Anh lại có một cô áo trắng
Mắt nàng nhìn trong biếc mùa thu
Mái tóc xoã, bàu vú nàng hưng phấn
Ngủ đi em, nghe bài thơ anh ru!  


Đất Sài Gòn mùa xuân đến trong mơ
Có em tôi đi giữa đêm dài thành phố
Em ơi em, những khi trời trở gió
Có thấy bóng anh về thao thức bên em?  


Anh nhẹ hôn thầm ở dưới ánh đêm
Em khoả thân mình để hoá thành nữ thánh!
Áo em trắng hay là da em trắng
Có em rồi cuộc sống sẽ vô biên.  


Ta mặc cho năm tháng chảy, nghe em!
Chỉ có anh và em, chỉ có trời và đất
Thế giới văn minh ta không cần gì hết
Em dẫn anh vào buổi hoang muội nguyên sơ.  


Đêm Sài Gòn khi ấy sẽ như mơ
Em bọc trong anh không cần quần áo
Ôi, nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo
Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong.  


Em đừng hỏi vì sao anh yêu em!  


Anh lại có một cô áo trắng
Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời
Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm
Bàu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi.


          13.  THỜI ÁO TRẮNG
Trả lại cho anh một thời áo trắng
Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
Những bông hoa mùa xuân thôi không nở
Đi dưới bóng điện đêm lòng sẽ rất buồn.

Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách
Mắt em cười mùa thu xanh lên!
Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học
Tà áo trắng động vào...khe khẽ nát tim anh!

Trả lại cho anh một thời áo trắng
Đã đi qua và... đã đi qua...
Với cả dòng sông trôi mơ mộng
Lá lá rụng vàng, tóc tóc hóa sương pha.

Nghe gió thổi hàng cây vi vút
Em biển xanh xa mãi vô cùng…
Anh đứng lặng một mình bên bờ biếc
Những âm thanh kêu bổi hổi trong lòng.

Trả lại cho anh một thời áo trắng
Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!  

          14. TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN
   Núi Mỹ Nhân nằm giữa biển Nha Trang gần Hòn Chồng. Truyền kể: Nàng Mỹ Nhân nằm ở đó nhiều năm tháng, chung thuỷ chờ chồng. Chồng nàng là một tướng cướp trẻ , dẫn theo một đạo quân cướp bể. Thuyền bè của họ bị bão biển đánh đắm, đi đã không về.

Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều
Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ...
Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.

Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây
Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.

Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời
Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ
Xin lỗi những mảng đời ta đang có
Đôi lúc thèm được bám rêu xanh.

Gió hút Hòn Chồng, bể sóng mênh mông
Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân?

Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non
Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại
Cây-thánh-giá-cuộc-đời anh đặt dưới chân em!

Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
Anh nguyện với nàng cả đời vui thú
Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi!

Cô gái bán hàng trong quán gió chơi vơi
Cứ nhìn khách đôi mắt tròn đen láy
Đã kể tôi nghe chuyện về nàng Mỹ Nhân thuở ấy!
Nghe trong chiều gió cuốn bụi đường bay...


        15. KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC       
      
Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay.

Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*)
Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con.

Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
Mai chết rồi làm nước tắm cho em.


                                   Phạm Ngọc Thái
                           Hồ Núi Cốc – Đêm 9/7/1997

(*)  Huyền thoại kể: nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc, khóc mà chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi), thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - Nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc!


            16. HÀNG CÂY LÁ ĐỔ
Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió...
Ta lang thang qua lá đổ hàng cây
Bản tình xưa em hát ở đây
Nơi ngày nay xác các con thiên nga đã chết.

Ôi, hàng cây! Cùng ta bao đêm từng tha thiết
Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em
Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở
Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga.

Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá
Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ!
Xin rụng một bông buồn
                                          lắt lay...


17. DƯỚI HÀNG SẤU ĐÊM VÀ CON PHỐ NHỎ
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi... còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...

Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?

Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ!
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm.

Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?

18. CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ

Một đêm hồ nước đầy sương gió
Người đi không rõ mặt người
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá, bên tôi!

Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
Trong cõi lòng tôi buồn triền miên.

Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa…
Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya.


      19. ĐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA
Trời không mưa áo em đâu có ướt
Chỉ ướt lòng em: cô gái nhỏ của anh!
Em ngả vào anh mà hình như có khóc?
Tiếng con tim thật rõ bên mình.

Mùa thu đã qua ta nghe lá rụng
Buổi cuối cùng em đến để chia tay
Ngày mai em lấy chồng phải xa vĩnh viễn
Chẳng sao mà, trời có mưa đâu, em ơi?

Kìa không mưa mà áo anh lại ướt
Mùa thu đi… sao nắm mãi bàn tay?
Ai nói tình gió mây sẽ quên trong chốc lát
Bao năm trời hồn anh vẫn mưa bay.

Tại đêm đó không mưa hay bởi vì anh nhớ
Phố vắng em buốt giá cả canh dài
Em dại lắm lấy chồng làm chi vội
Đưa em sang sông rồi lòng mới biết đã yêu ai!

Ta lại bước lang thang trên phố ấy
Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi
Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi
Bóng với mình đi mãi tới ban mai...

Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến... đã chia tay?

             20. CON ĐƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ
Em mang màu phượng đỏ ra đi...
Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ
Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
Xác ve còn bám ở thân cây.

Con đường phượng đỏ đêm nay
Mây lãng du bay trời xanh vô định
Những cánh hoa rung trong hoài niệm
Nghe lòng thổn thức đâu đây!

Phượng đã cháy lên một thời
Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất
Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết
Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi!

Con đường tình đẫm giọt sương rơi
Gió vẫn xạc xào vi vút thổi
Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy
Thì đâu còn phượng để anh ru?

Em đã mang màu phượng ấy ra đi...
                            Thơ - Phạm Ngọc Thái

       Ngoài ra anh còn rất nhiều những tình thơ khúc triết giàu hương sắc khác, như:
     Sáng xuân nay, Phố thu và áo trắng, Người con gái sông xưa, Thành phố mưa rơi, Kí ức mùa thu, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt, Có một khoảng trời, Xem tranh bán loã thể, Cỏ hoang, Thông và biển, Đêm thiếu nữ, Mái tóc con gái, Chiều hoàng hôn, v.v...
     Ngay những tình thơ này, nhiều bài cũng không thể nói chưa hay? Anh sẽ có cả một tượng đài thi ca khá kì vĩ để lại cho nền văn học nước nhà.     
 
          Hà Nội, tháng 3-2014          
Trần Tứ Đức          
Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian
                    Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
http://me.zing.vn/zb/dt/t...18560642?from=category
http://to-quoc01.blogspot...014/03/tran-tu-uc.html
http://ngancamau.blogspot...tuyet-tac-20-tinh.html
http://www.tiengchimviet....tuyet-tac-20-tinh.html
http://www.nhuygialai.com...tuyet-tac-20-tinh.html
http://vannghequangtri.bl...-ba-tuyet-tac-cua.html
http://trangvhntnguoncoi..../tho-pham-ngoc-thai-4/
http://nguyenduyxuan.net/tac-gi-tac-phm/th/5091-th-tinh-phm-ngc-thai-
http://www.tintuchangngay...tuyet-tac-20-tinh.html
http://www.vanganh.info/2014/03/pham-ngoc-thai-voi-3-tuyet-tac-20-tinh.html
http://www.chinhluanvn.co...tuyet-tac-20-tinh.html
http://www.namuctuanbao.net/937/tho_NamUc.php
http://binhtrung.org/D_1-...-hay-hoac-kha-hay.html
  http://nghiathuc.wordpres...c-kha-hay-tran-tu-duc/
http://hung-viet.org/blog...-tho-hay-hoac-kha-hay/

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.04.2014 23:18:35 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 22.04.2014 23:22:47
 
           Trần Tứ Đức - nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hóa dân gian giới thiệu:
                "Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu & đàn bà"
                         mời đọc qua link sau:
       http://tranmygiong.blogti...i_var_i_chasm_thai_hay
       http://www.nhuygialai.com...e-tinh-yeu-dan-ba.html
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 19.05.2014 12:12:21
 
         Phạm Ngọc Thái và sự đa sắc
       về những bài thơ tình biển

                                             Cô giáo HOÀNG

           Riêng chủ đề thơ "tình biển" Phạm Ngọc Thái có một chùm 4 bài: Em về biển, Biển hát, Thông và biển, Đêm trăng biển. Có bài thì anh xây dựng theo thủ pháp nhân cách hoá như "thuyền và biển" của Xuân Quỳnh. Đó là bài Thông Và Biển - Cây thông đứng trên bờ biển, thân đã chai sạn, xù xì... trong tiếng gào thét của biển cả tình em. Cây thông chính là hình ảnh của người con trai, còn thiếu nữ thì đã được hoá thân thành biển:
                   Biển thì xô. Thông suốt đời quạnh quẽ
                   Thân xù xì, nắng héo, mưa giông...

                   Tháng năm xa em hoá biển vô cùng
                   Cùng dấu trong lòng một loài hoa tan vỡ!
     Loài hoa tan vỡ ấy chính là... "hoa trái tim"! Thông và Biển như đôi trai gái ngàn năm vẫn quấn quít bên nhau. Khi biển lặng sóng êm, thông vi vút hát vọng gọi người yêu. Nhưng cũng nhiều khi biển cuồng lên đầy bão tố, lòng thông quặn xót trong tiếng sóng biển cào xé, dập vùi.

     Cũng có bài nhìn biển nhà thơ lại nhớ người yêu. Như bài "Đêm trăng biển" - Anh viết trong một đêm trăng ở biển Sầm Sơn. Lòng người thi sĩ cô đơn:
                  Anh ngồi biển một mình ngắm bóng
                  Trăng trên đầu sóng ở dưới chân
                  Lòng những vắng mênh mang cát trắng

                  Trong thầm thì khẽ gọi tên em!...
     Ở bài Em Về Biển thì hình ảnh biển vừa là "tình em biển cả", vừa là "bãi biển đời người". Đời cát bụi, tình thì bèo dạt mây trôi. Đây là bài thơ khi anh nhớ lại mối tình với một cô nữ sinh trường sư phạm ngoại ngữ xa xưa:

                  Tháng năm trôi... tình cũ cháy như khêu
                  Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải...
                  Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!

     Một tình thơ biển nhưng thấm đầy nước mắt. Đọc thơ mà trái tim ta cũng không khỏi quặn đau và xa xót.
     Còn trong bài Biển Hát - Tiếng biển đã hòa vào trong tiếng hát vọng của người thiếu nữ năm xưa:

                  Biển có thể không biết mình hoá sóng
                  Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh...

      Những tháng năm trôi trên bờ bến lênh đênh ấy, tâm hồn anh thi sĩ vẫn đắm chìm trong dạt dào biển cả tình em. Để vào một đêm trái tim anh thổn thức và tiếng nhạc lòng đã cất lên thành một áng thi ca.
     Ngoài ra có một số bài thơ tuy không phải chủ đề về "biển", nhưng hình ảnh biển trong bài thơ cũng hết sức đậm nét và da diết. Thí dụ như bài "Em bán xoài" - Nhà thơ viết về những kiếp đời cát bụi lang thang. Những cô gái bán xoài đêm mà anh gặp trên bãi biển Nha Trang. Đó là những thân phận lạc loài, nổi trôi trong bể nhân tình thế thái này. Những linh hồn vất vưởng, nhỏ bé và yếu ớt trong cả biển đời đầy sóng bão:
                  Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
                  Linh hồn treo ngoài thế giới em đi...
     Hay là:
                 Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
                  Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
     Để rồi bài thơ được kết thúc trong lời ru, sự cảm đồng của nhà thơ cùng với hàng dừa quê hương quanh những người con gái bán xoài:
                  Biển ru ta và ta ru em
                  Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm.
     Nói về bài Trước Núi Mỹ Nhân cũng được anh viết trên bờ biển Nha Trang, sát với bán đảo Hòn Chồng. Những ngày sau chiến tranh khi còn là một người lính trận trên đường trở về, nhà thơ đã có dịp qua đó. Hình ảnh biển khơi xanh bao la sóng vỗ, cùng với đỉnh núi Mỹ Nhân đã trở thành một tượng thần trong trắng, tạc vào năm tháng. Chính là hình tượng tình yêu bất diệt của người đàn bà đã thấm đẫm trong thơ anh với khát vọng muôn đời. Như nhà thơ đã viết:
                 Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
                 Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn...
                     Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ
                    Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.
     Những thương tích chiến tranh, dù bom đạn có bắn vào thân thể anh cũng chỉ là nỗi đau thể xác. Chính nỗi đau nơi nhân tình thế thái này đã bắn cả vào trái tim, tâm hồn anh còn đau đớn, nặng nề hơn. Chỉ có tình yêu của người đàn bà mới xoa được vết thương sâu nhói đó trong anh. Bởi thế mà anh ru nàng:
                Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây
                 Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
                 Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
                 Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.
         Vân vân...
     Để bạn đọc cảm nhận được sâu sắc hơn. Trong bài viết này tôi xin giới thiệu lời bình của hai tác giả về hai thi phẩm trong chùm thơ tình biển của anh. Cả hai bài bình ấy đều đã được nhà thơ cho in vào tập "Phê bình & tiểu luận thi ca", Nxb Văn hóa Thông tin 2013 vừa qua.

       A.        BIỂN HÁT
      Biển tít tắp sao sóng còn vỗ mãi
     Anh nhặt chút tình vương lại thời xa

     Treo hồn lên nửa vành trăng lấp
     Thả lòng bay lặng bến bơ vơ.
     Biển có thể không biết mình hóa sóng
     Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh
     Em có thể không còn nhớ đến...
     Như làn mây trôi mãi vô tình.
     Biển ba phần cho trái đất tươi xanh
     Em trong anh một mùa thu huyền ảo
     Khi anh hóa hàng phi lao trong sóng bão
     Là đã hòa biển cả với cô đơn!

     Trời đêm nay không mưa nhưng mà gió
     Gió đêm nay không mạnh nhưng mà xô
     Trăng đêm nay hơi vàng, xao và động
     Anh lại nằm nghe biển hát ngày xưa…                                                   
                                       Phạm Ngọc Thái
 
                  Lời bình của XUÂN HÙNG:
                     
        "Biển hát" là tiếng hát của người con trai ru vọng người yêu trong một đêm trăng ảo. Ngay những hình ảnh thơ đầu tiên đã gợi ta về những gì của êm đềm và dan díu bên em:

                    Biển tít tắp sao sóng còn vỗ mãi
                    Anh nhặt chút tình vương lại thời xa
                    Treo hồn lên nửa vành trăng lấp
                    Thả lòng bay lặng bến bơ vơ.
      Trái tim chàng thi sĩ như một kẻ không nhà, không cửa... lang thang trên bãi vắng bơ vơ. Ta hãy nghe anh tả về hình ảnh người yêu:
                    Biển ba phần cho trái đất tươi xanh

                    Em trong anh một mùa thu huyền ảo
      Đó là một mùa thu thăm thẳm có in bóng hình em ở đó. Như biển cả chiếm ba phần tư trái đất. Cũng có nghĩa em là sự sâu sắc nhất của cuộc đời anh. Phải chăng như nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ F.K.Đaglargia, trong một bài thơ tình nổi tiếng với nhan đề “Tình yêu“ chỉ vẻn vẹn có bốn câu thơ ngắn, ông định nghĩa:
                    Yêu, có nghĩa
                    Là cùng người yêu
                    Chia đều
                    Trái đất thành hai nửa.

    Hai người yêu nhau là cả trái đất này. Còn nhà thơ Nga M.Lermôntốp (1814-1841) bằng một cách nói khác trong thi ca, đã ví về tình yêu bất hủ đối với người đàn bà:
                    Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                    Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ

     Trở lại với bài Biển Hát - Tình yêu thật huyền diệu biết bao, đã mang cho ta cả bàu trời và trái đất tươi xanh, cuộc sống ngập tràn hạnh phúc cùng những vần thơ đẹp nhất! Nhưng khi không còn em? Tác giả viết:
                    Khi anh hóa hàng phi lao trong sóng bão
                    Là đã hòa biển cả với cô đơn!
      "Biển cả" ở đây là hình tượng về tình yêu của người thiếu nữ đối với nhà thơ. Khi anh đã hoà tình yêu em vào trong nỗi cô đơn, thì lòng anh sẽ bị giằng xé bởi trăm ngàn cơn bão tố. Hay là:

                    Biển có thể không biết mình hóa sóng
                    Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh
                    Em có thể không còn nhớ đến...
                    Như làn mây trôi mãi vô tình.

     Có thể như làn mây trôi vô tình kia, em đã quên đi những tháng năm đẹp đẽ ấy? Nhưng trong lòng anh thì  kỉ niệm tình yêu đôi ta mãi mãi không bao giờ phai nhoà. Với nỗi tình mơ mộng của một trái tim da diết giữa đêm trăng mờ tỏ, nhà thơ lại chạnh nhớ về tiếng biển, tiếng của tình yêu xưa:
                   Trời đêm nay không mưa nhưng mà gió
                   Gió đêm nay không mạnh nhưng mà xô
                   Trăng đêm nay hơi vàng, xao và động
                   Anh lại nằm nghe biển hát ngày xưa...
      Bài thơ đã được kết thúc ở đó. Tháng năm, như bến bờ lênh đênh, chìm đắm trong biển cả tình em... người thi sĩ đã treo hồn mình lên tận nửa vành trăng xa.  Biển Hát là một bài thơ tình có nhiều hình tượng đẹp, sống động. Làn điệu thi ca huyền ảo có thể làm xao xiết trái tim đời.

                          *  Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"


 


 Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng
 
 
              B.       EM VỀ BIỂN                         
                            Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                         Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
                         Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                         Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu.

                              ( kỉ niệm K.A:  Người nữ sinh trường SPNN năm xưa.
                                                              Quê hương thành phố biển)                  

Em về biển để vùi vào trong cát
Nỗi buồn nước mắt
Những nát tan vòm ngực đã thương đau.

Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả
Xô mãi bờ với lá thông reo
Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu?

Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu
Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
Đã thổi thành bão tố ở trong anh.

Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây!
Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ
Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...

Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!

                                   Phạm Ngọc Thái

 
                Lời bình của PHƯƠNG TUẤN:
           Bài thơ kể về mối tình của một cô nữ sinh trường Sư phạm Ngoại ngữ với nhà thơ. Nỗi thơ đầy lệ:
                        Em về biển để vùi vào trong cát
                        Nỗi buồn nước mắt
                        Những nát tan vòm ngực đã thương đau.
     "biển" ở đây là thành phố quê hương của người con gái (như trong tựa đề bài thơ đã viết), nhưng hình ảnh biển còn là biểu tượng của bãi-biển-đời-người hay là tình-em-biển-cả:
                        Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả
                        Xô mãi bờ với lá thông reo
      Cái hàng thông năm tháng đứng trên bờ biển hát, vừa như sự vô tình mà lại hữu tình của thiên nhiên, với con sóng xô nát bờ khắc khoải mãi về người trinh nữ. Một biển cuộc đời đầy sóng bão, người sống trong nó và... nó có thể nghiền nát con người:
                        Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
                        Mang nỗi niềm không biết đã đi dâu?

     Người con gái ấy đã đi không trở lại. Hình ảnh "cát" trong bài thơ này mang màu sắc thơ siêu thực, tức là dạt vào trong chốn cát bụi đời người...
     Tôi xin phân tích bốn câu thơ làm tựa đề:
                          Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                          Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
                          Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                          Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu.
     Tình yêu của em đưa ta về nơi thánh thiện. Em chính là cả toà sen nát bàn phật tổ của đời anh! Thế mà, trên "bờ bãi đời người" thân phận em vẫn nổi chìm như kiếp rong rêu. Thì ra tình yêu không chỉ mang cho ta hạnh phúc, mà còn là bi kịch đớn đau trong cuộc đời. Đây là bốn câu thơ hay nhất bài, hình tượng đã đạt đến điểm đỉnh, khái quát nội dung tư tưởng của toàn bài để đưa tấm phẩm bích Em Về Biển vào trong miếu mạo của thi ca.
     Xin bình tiếp vào bài:
                           Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu
                           Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
                           Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
                           Đã thổi thành bão tố ở trong anh.
       Tình cũ như ngọn đèn càng khêu càng cháy. Người con trai cũng như cây thông mòn mỏi mãi, năm tháng dần thành mục ải... thì mối tình trong trắng thơ ngây, thơm mát như ban mai của người con gái xưa lại hiện về xoa lên nỗi đau của lòng anh. Hình bóng người sinh nữ cứ lặng lẽ, âm thầm mà cào xé tưởng như những trận bão lòng không dứt.
    Em Về Biển tuy không đi sâu vào miêu tả tấm thân bên trong của người con gái, hồi ức chỉ phục lại những ấn tượng có tính điển hình, như:
                        Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
    Hay là:
                       Những nát tan vòm ngực đã thương đau
    Nghĩa là không thấy những hình ảnh yêu thương trần tục xuất hiện trong tình thi này, chỉ có những hương vị thơm tho, thanh thoát, nên thơ... nhưng vẫn đầy cảm xúc da diết, mộng mơ mà năm tháng không phai nhoà trong anh.
     Đời hiện hữu mà tình yêu lại là ảo ảnh. Cuộc sống chỉ còn là một bãi cát vô vi, trắng phau để những trận bão tố lòng anh thổi mãi không thôi. Đến đây một mảng thơ hiện thực được tràn vào, tình thơ lại càng thêm tha thiết:
                         Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
                         Anh còn đây. Em hỡi! Anh còn đây,
                         Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ...
      Những buổi đón người yêu bên cổng trường... gợi lại bao nhiêu kỷ niệm để nói về một thời đôi trai gái đã say đắm yêu nhau. Ta có thể mường tượng, bóng trăng huyền diệu thuở ấy, bước chân em đi nhè nhẹ, những chiếc lá rơi khẽ khua lên xào xạc. Ôi! Tấm thân của người con gái như một tảng thiên thạch trinh trắng vô vàn, cuốn hút cả những linh hồn. Chạm vào thiên thạch ấy, mọi sức mạnh đều tiêu tan mềm nhũn để tan hoà thành nước. Ánh mắt, đôi môi, cả cặp "tuyết lê" trắng ngần, trinh khôi của người thiếu nữ tựa như đôi mỏm núi kỳ vĩ nhô lên làm nên luỹ thành sừng sững nghìn năm, là thiên kiệt tác nhân sinh của loài người.  Khi ta áp môi hôn, khi đôi bàn tay man dại của tạo hoá đặt vào đó, nó nóng hổi và huyền thoại...
      Nhà thơ đã từng sống qua nửa thế kỉ, chứng nhận bao điều lớn lao cùng những điên đảo xẩy ra trong thế giới loài người, để cuối cùng anh lại quay về, chỉ ngợi ca người yêu bất tử hơn mọi thứ trên đời. Thế mà đời người như bóng câu bay qua trong vòm trời vô định, tất cả đều tan vỡ lẫn vào trong cát bụi cuộc đời - Như những dòng thơ kết thúc trong Em Về Biển này :
                         Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...
                         Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
    Mái tóc sương nhà thơ soi xuống dòng sông vô cùng, vô tận của thời gian, lẫn nhoà trong tiếng gió mưa phủ kín đất trời. Năm tháng qua đi lặng lẽ mà héo úa, như bao chiếc lá vàng rơi rụng xuống, phủ lên trên những hồi ức về người con gái xưa một nấm mồ tình.                                   
                          Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
 
          Hà Nội - 5/2014
               N.T.H
    Giảng viên Trường ĐH Sư phạm
      cogiao.hoang61@gmail.com
    
        Đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
http://blog.zing.vn/jb/dt...giong/18970573?from=my
  http://vandanvn.net/vi/ne...et-Co-giao-Hoang-3922/
http://tongocthach.vn/ve-...tho-tinh-bien-527.html
  http://www.nguyenduyxuan....-nhng-bai-th-tinh-bin-
  http://www.nhuygialai.com...-sac-ve-nhung-bai.html
http://to-quoc01.blogspot...-sac-ve-nhung-bai.html
http://vannghequangtri.bl...-sac-ve-nhung-bai.html
http://tranmygiong.blogti...i_van_sarp_a_a_saomc_v
http://htruong.violet.vn/...show/entry_id/10392529
http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3627
http://nghiathuc.wordpres...nh-bien-co-giao-hoang/
http://hung-viet.org/blog...ung-bai-tho-tinh-bien/
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.05.2014 12:45:36 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 14.06.2014 11:20:37
              Thơ biển đảo - Phạm Ngọc Thái


 
            BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG

Hãy cứ đo bể ta bằng luật-điều quốc tế
Trời xanh ta xanh bao nhiêu hải lý
Nhưng chớ đo lòng căm giận chúng ta
Máu hơn ba chục năm trời ta đã đổ ra.

                             Chế Lan Viên

  I-

Chúng muốn cướp biển ta. Lũ Tàu khốn kiếp.
Anh em gì, răng với chả môi?
Từ thuở nghìn năm cha ông đã thế rồi!
Phải coi chúng muôn đời là giặc.


Nếu bị mất lòng dân thì mất hết,
Sao lại đàn áp người biểu tình khi họ chống giặc Trung?
Nếu ta mà sợ sệt luồn mình
Cũng có nghĩa là hại dân, hại nước?


Hoan hô ông Thủ tướng lên tiếng
                              bảo vệ chủ quyền Tổ quốc
Lên án quân Tàu xâm phạm địa phận biển Đông ta (*)
Tội lỗi thay những ai chỉ biết co ro,
                      khi giặc vào để chiếm nhà
Nếu Đảng không còn đủ đức tin với giống nòi
Thì cấp thiết thay bằng con đường dân chủ.


Sinh mạng bao chiến sỹ biển đảo ta và máu nhân dân
                                    vẫn đổ nơi biển trời xứ sở
Nhìn cảnh bọn Tàu cậy mạnh ức hiếp mình
                             không khác gì một bọn sói lang
Hoà bình đấy mà bao hờn căm uất hận
Với thằng Tàu - Bản chất chúng là không có anh em.

II-


Ta sẵn sàng đối xử hiền hoà
Nếu chúng biết tôn trọng chủ quyền ta,
                                 hòa hảo làm ăn đều có lợi.
Không cần úp mở gì: Chúng chỉ lui nhường,
                              một khi không nuốt nổi ta !?
Ừ, thì cả hai bên cùng đóng kịch, diễn trò
Miễn rằng: Anh biết tôn trọng tôi,
tôi cũng sẽ tôn trọng anh – là được.
 
Cậy nước lớn
- Chúng chỉ muốn nuốt sống, ăn tươi người khác?
Kẻ thù lớn kề sát cạnh ta
vừa thâm độc, tính lại bẩn như loài cầm thú.
Muốn đất nước, dân tộc mình
Không phải nhấn chìm mãi trong cảnh máu xương nhuộm đỏ
Xã hội phải thật sự có nhân quyền
Để liên minh với nước Mỹ hùng cường
cùng bầu bạn, anh em trên trường quốc tế.
 
Bản thân tôi vào đảng nơi chiến trường
Trải qua ba lần đạn bom bắn vào cơ thể
Là ba lần máu đổ với mấy mảnh xương tan
May không chết. Được Đảng kết nạp ngay trên chốt.
Nếu ở đến bây giờ,
Cũng phải hơn 40 năm là người trong tổ chức
Nhưng tôi đã xin ra khỏi Đảng.
 
“Tượng thần tự do” chính là đỉnh cao sáng lạn
Ở ngay nước Hoa Kỳ!
Của nhân loại vĩnh hằng
Con đường ta cần đến, cần đi
Không có đảng độc quyền.
- Trước hết, không phải vì đảng
Mà phải vì nhân dân – Tổ quốc!
Ôi, biển đảo quê hương ta ngàn năm tha thiết
Chưa bao giờ được bình yên. Đầy bão táp phong ba…
Hà Nội – 6/2014
P.N.T
(Tác giả gửi đăng)
———————————————————————-
(*) Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có lời tuyên bố đầy khí phách trước toàn thế giới, rằng:
- Việt Nam không đánh đổi chủ quyền lấy một thứ hoà bình, hữu nghị viển vông.

                           Đẫ đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới:
http://www.danchimviet.in...-dao-que-huong/2014/06
http://me.zing.vn/zb/dt/t...19280061?from=category
http://vannghecuocsong.co...i-Lien-Hiep-quoc-1510/
http://to-quoc01.blogspot...ao-pham-ngoc-thai.html
http://www.quansuvn.info/...0_6-1_17-55_14-2_15-2/
http://www.vanganh.info/2...ao-pham-ngoc-thai.html
  http://www.namuctuanbao.net/949/tho_NamUc.php
http://www.tiengchimviet....ao-pham-ngoc-thai.html
  http://nghiathuc.wordpres...en-dao-pham-ngoc-thai/
http://vandanviet.blogspo...ho-pham-ngoc-thai.html
  http://www.vanganh.info/2...ao-pham-ngoc-thai.html
  http://www.chinhluanvn.co...ao-pham-ngoc-thai.html
  http://www.truclamyentu.i...d_pnt_tho-bien-dao.htm
  http://badamxoevietnam2.w...08/bien-dao-que-huong/
   http://hung-viet.org/blog...09/bien-dao-que-huong/
  http://tranmygiong.blogti..._bi_n_o_ph_m_ng_c_thai
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.06.2014 11:19:15 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 21.07.2014 11:01:55
Lê Đình Cánh và bài thơ tình Thị Nở - Chí Phèo
                                               PHẠM NGỌC THÁI



           TRĂNG NỞ NỤ CƯỜI
Đâu Thị Nở, đâu Chí Phèo,
Đâu làng Vũ Đại đói nghèo Nam Cao ???
Vẫn vườn chuối gió lao xao
Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền...

 
Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên.
Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
Vườn xuông trăng nở nụ cười
Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau.

 
Giữa đời vàng lẫn với thau
Lòng tin còn chút về sau để dành
Tình yêu nên vị cháo hành
Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!

                    Lê Đình Cánh


          nhà thơ Lê Đình Cánh
          Lời bình Phạm Ngọc Thái
     Vào một đêm trăng. Gã Chí Phèo đi ăn vạ về say khướt vì rượu, khật khưỡng qua vườn chuối. Ả Thị Nở dở người đang nằm ngủ say sưa ở đó. Gió đêm từ bờ sông thổi về mát rượi. Ánh trăng dọi xuống soi lên người ả, trật cả chiếc yếm cùng lớp da trắng hởn. Chí Phèo, một gã điên khùng từ lâu đã tưởng không còn ý thức gì về sự vui thú, bỗng lúc này lòng khát khao được sống đầy đủ lại bùng lên trong gã? Gã mê man nhìn Thị Nở và tiến đến... Thế rồi, cả người gã đè lên thân thể ả. Ả kêu, nhưng Chí Phèo lại còn kêu to hơn| Thì trong làng, ngoài nước, ai còn lạ gì cái thằng Chí Phèo hay ăn vạ? Nên nghe tiếng kêu của gã chẳng ai buồn đến. Mới lại, tiếng kêu của Thị Nở cũng chỉ là tiếng kêu của một mụ đàn bà đang thỏa mãn, thích thú vì... được yêu! Để rồi sau đó, người ta nghe thấy cả hai giọng cười sung sướng đã phát ra từ cái vườn chuối ấy...
      Gặp lại vườn chuối xưa, trong một chuyến về thăm quê hương của cố nhà văn Nam Cao - Ở làng Đại Hoàng ( tức làng Vũ Đại trong chuyện ), thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Vẫn bên con sông Châu ngày đêm thao thiết chảy. Tâm hồn nhà thơ Lê Đình Cánh đã rung lên. Cứ như anh đang hồi tưởng lại một tình sử nào đó, chứ không phải là cuộc tình của " Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên. " kia!? Cảnh quê trong thơ anh trào ra bồi hồi, tha thiết:
                    Vẫn vườn chuối gió lao xao
                    Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền...
      Đó chính là cảm tác dẫn dắt nhà thơ viết lên "Trăng nở nụ cười " này. Anh không đi vào diễn tả tấn bi kịch xã hội như trong chuyện Chí Phèo, chỉ xoay quanh cuộc tình trăng gió... mà đề cập về giá trị tình yêu đối với đời sống con người.
      Nếu đoạn thơ đầu mới chỉ là cảm xúc khi nhà thơ gặp lại tình và cảnh cũ - Thì sang đoạn thứ hai, đoạn thơ cốt lõi, trung tâm của toàn bài. Tác giả đã khoáy sâu vào để khẳng định về chân giá trị của tình yêu ấy:
                     Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên.
                     Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
      Hai chữ "thành người" ở đây có thể hiểu: Tình yêu đã biến đổi kẻ xấu trở nên người tốt, ác hóa thiện, thằng điên loạn Chí Phèo trở nên hiền lành, ả ngớ ngẩn dở hơi như Thị Nở cũng thành phúc thảo, thiết tha. Đó chính là ý nghĩa hoàn lương sâu sắc của tình yêu gái trai, trong mối quan hệ xã hội và con người. Đọc đến câu thơ:
                    Vườn xuông trăng nở nụ cười...
      Ta thấy rõ thái độ cảm đồng của nhà thơ về cuộc tình Thị Nở - Chí Phèo đó. Thời ấy, tầng lớp thống trị đã đẩy chúng ra khỏi lề cuộc sống như một quái thai. Một cuộc tình không luật pháp công nhận. Ấy vậy mà, với tính chân thiện và lương tri... nhà thơ đang ca ngợi chúng. Hai chữ " vườn xuông..." mà thật đầy hương vị. Cả đến bóng trăng còn... " nở nụ cười" . Cảnh tình trở nên huyền ảo, rung rinh.
                   Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau...
      Cùng với câu thơ: Khi tình yêu đến bõng nhiên thành người! - Tạo thành hai câu thơ hay nhất bài.
      " Tan chảy vàng mười trong nhau..." là thứ vàng thực sự của lương tri, thảo thơm và thanh khiết tựa thiên thai. Là một tình yêu không vụ lợi, không tính toán. Chúng trao nhau hết thảy, trái tim cùng thể xác lẫn linh hồn. Tình yêu ấy tự nguyện và khát vọng!
      Bài thơ viết theo thể lục bát được chia ngắt làm ba đoạn, mỗi đoạn bốn câu, chuyển đoạn là chuyển tứ. Các tứ tuy vẫn nhất quán trong chủ đề tình yêu, nhưng được phát triển từ chuyện đến đời một cách khái quát, hàm súc.
Đoạn thơ cuối được tác giả đúc rút ra qua thực tiễn, những ý nghĩa về tình yêu - cuộc sống:
                     Giữa đời vàng lẫn với thau
                     Lòng tin còn chút về sau để dành
                     Tình yêu nên vị cháo hành
                     Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!
      Ngẫm ra: thì đời nào, thời buổi nào... "vàng lẫn với thau " cũng có. Nhưng anh vẫn tin, lòng tin ấy không đặt vào bất cứ một giá trị vật chất nào, mà vào tình yêu của trái tim! Chỉ có "tình yêu trái tim" mới đầy đủ khả năng hoàn thiện, dẫn dắt nhân tính con người cùng xã hội tốt đẹp hơn! Đó chính là nhân sinh quan của nhà thơ và cũng là tính nhân bản trong thi ca. Khi ta đã có một tình yêu thực sự trong nhau... thì:
                     Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!
     Bài thơ "Trăng nở nụ cười" đã được kết thúc ở đó, một cách rất... "hương vị cháo hành", mà thấm đầm nghĩa tình chốn nhân gian.

[<font]   PHẠM NGỌC THÁI
 
          [<font]  Đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
[<font][<font]http://tranmygiong.blogti...et/2014/04/24/p5573639
[<font][<font] http://vannghenamdinh.com...o-Pham-Ngoc-Thai-3385/
http://vanhac.org/04/le-d...h-thi-no-chi-pheo.html
[<font][<font] http://tapchivan.com/tin-...no---chi-pheo-772.html
http://batkhuat.net/van-b..otinh-thino-chipheo.htm
http://vandanvn.net/vi/ne...t-Pham-Ngoc-Thai-3829/
http://nguyenduyxuan.net/...-th-tinh-th-n-chi-pheo
http://blog.zing.vn/jb/dt...18852630?from=category
http://nguyennano.blogspo.../trang-no-nu-cuoi.html
http://www.aihuubienhoa.c...-2_4-5048_17-441_15-2/
http://www.tintuchangngay...o-tinh-thi-no-chi.html
http://www.thuviengiadinh...-tho-tinh-thi-chi-pheo
http://www.thaianco.net/x...thai/trangnonucuoi.htm
http://llpb.datdung.com/2...o-tinh-thi-no-chi.html
http://www.vanganh.info/2...o-tinh-thi-no-chi.html
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3606
http://nghiathuc.wordpres...-tinh-thi-no-chi-pheo/
http://to-quoc01.blogspot...o-tinh-thi-no-chi.html
http://vanhac.org/04/le-d...h-thi-no-chi-pheo.html
http://www.tiengchimviet....o-tinh-thi-no-chi.html
http://vannghequangtri.bl...o-tinh-thi-no-chi.html
http://www.vanchuongviet....on=detail&id=20901
http://trannhuong.com/tin...thi-no---chi-pheo.vhtm
http://www.chinhluanvn.or...o-tinh-thi-no-chi.html
http://www.diendantrungho...2f0686f9c08cc392260f7d
  http://vanhaiphong.com/va...inh-th-n-chi-pheo.html
  http://tongocthach.vn/ve-...i-no-chi-pheo-489.html
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_7.php
  http://hung-viet.org/blog...-tinh-thi-no-chi-pheo/
  http://www.quansuvn.info/...4-2_15-2_10-1651_12-1/
  http://binhtrung.org/D_1-...h-thi-no-chi-pheo.html
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 20.08.2014 10:27:35
 
         Kí ức tình xưa
                              Chùm thơ PHẠM NGỌC THÁI



ANH VẪN CHỜ EM DƯỚI CÂY
Hàng cây đêm lặng im không nói
Rì rào gió thổi lúc anh qua
Anh đứng lặng nghe không gian vọng lại
Bóng hình em nay đã mờ xa.

Ôi, năm tháng chỉ còn hoài vọng
Cuộc sống bao năm anh đã tôn thờ
Quá khứ một bản tình hoang dại
Hiện tại giờ hết thảy lại hư vô.

Cả không gian vẫn âm thầm gió thổi
Em xa rồi, tình cũng vỡ tan!
Trong tít tắp tận miền xa chới với
Nghe thấy không em, tiếng gọi của lòng anh?

Trời mưa gió hay lòng anh mưa gió
Dưới hàng cây thổn thức canh khuya
Cuộc sống thì mây trôi bèo dạt
Anh vẫn đứng chờ em
như thế mãi ngàn thu...



NHỮNG CÂU THƠ VƯƠNG RƠI
Ta giết thời gian bằng thơ
Hồn bay vào mây gió
Tháng năm trôi, nối tiếp tháng năm trôi…

Ừ, cứ viết!
Ta nhặt ngọc ra từ trong đổ nát
Trải tình lên trang giấy trắng cuộc đời
Yêu rất nhiều mà kiếp sống vẫn đơn côi!

Ta gieo em khắp trời, khắp đất
Với trái tim người thi sĩ lang thang
Rồi một ngày thân đã vùi xuống đất
Những tình thơ ta viết sẽ ca vang.

Bác xích lô trên đường phố kia ơi,
và cô bán hoa tươi đang mời trong chợ!…
Cánh cửa tâm hồn tôi hoang gió
Người sống ở hôm nay, tôi sống cõi hư vô.

Ta hạnh phúc hay là người hạnh phúc?
Chủ nghĩa kia cũng chỉ một bàn cờ
Dẫu thơ ta gieo không đổi thành cơm áo
Nhưng linh hồn còn có chỗ để mà mơ.

Ta nhìn lá cây bay, giữa trời cao nghe gió
Ngắm cát bụi trôi trong cuộc sống xô bồ
Trái tim lại lang thang như một người hành khất
Nhặt mấy câu vương rơi, thấm máu của hồn thơ.



       NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA MÙA THU
Thu đã chết theo tháng năm tàn úa
Qua mỗi mùa lá rụng, em ơi!
Anh đi giữa những mùa xa vắng ấy
Tình em bay trong ảo giác tơi bời.

Cuộc sống trôi đi những ngày hoang lạnh
Như lá vàng rơi trên mồ lão Giăng Van Giăng
Và anh sống trên đời côi cút
Lang thang bờ bãi của bóng đêm.

Lại nhớ đến bao nhiêu mùa trước
Người đàn bà từng thao thức bên anh
Thu trong em: Ôi, mùa thu rạo rực
Tình em như biển thẳm trời xanh.

Người đàn bà! Mùa thu, mùa thu...
Nàng có đôi mắt mơ hiền đẹp
Vòm ngực nàng như một bầu trái ngọt
Những đêm thâu nghe thổn thức bên hồ.

Anh viết về mùa thu
mà câu thơ lại không lối xô bồ
Dẫu trái tim còn tràn đầy cảm xúc,
Em có nghe! Tiếng của hàng cây đương nhắc
Trong hư vô hun hút quyện vào đêm..

                  Hà Nội, thu 2014
         Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:    
          Đã đăng trên nhiều trang trong nước và thế giới:
http://www.vanchuongviet....on=detail&id=21099
http://binhtrung.org/a250./chum-tho-ki-uc-tinh-xua
http://www.vanganh.info/2...ua-pham-ngoc-thai.html
http://batkhuat.net/tho-kiuc-tinhxua.htm
http://nghiathuc.wordpres...nh-xua-pham-ngoc-thai/
http://nguyenduyxuan.net/...cum-th-ca-phm-ngc-thai
http://www.tiengchimviet....ua-pham-ngoc-thai.html
http://blog.zing.vn/jb/dt...19766171?from=sortfull
http://to-quoc01.blogspot...ua-pham-ngoc-thai.html
  http://www.chinhluanvn.or...ua-pham-ngoc-thai.html
  http://trannhuong.com/tin...---pham-ngoc-thai.vhtm
  http://vanhac.org/07/chum...ua-pham-ngoc-thai.html
  http://www.nhuygialai.com...ho-pham-ngoc-thai.html
  http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-86_4-5768_15-2/
  http://vandanvn.net/vi/ne...a-Pham-Ngoc-Thai-4360/
http://datdung.com/module...id=12163#axzz38x7zaPQv
http://vannghequangtri.blogspot.com/2014/07/pham-ngoc-thai-chum-tho-ky-uc-tinh-xua.html
http://tapchivan.com/tin-...-ngoc-thai%29-823.html
http://www.tongocthach.vn...o-em-duoi-cay-711.html
http://vannghenamdinh.com...a-Pham-Ngoc-Thai-3553/
http://trangvhntnguoncoi..../tho-pham-ngoc-thai-6/
  http://www.thuviengiadinh...nh-van-cho-em-duoi-cay
  http://4phuong.net/ebook/...ho-ki-uc-tinh-xua.html
  http://4phuong.net/ebook/...cau-tho-vuong-roi.html
http://4phuong.net/ebook/...an-ba-cua-mua-thu.html
http://nhatkydinhquan.blo...07/ky-uc-tinh-xua.html
  http://hung-viet.org/blog...um-tho-ki-uc-tinh-xua/
  http://www.namuctuanbao.net/956/tho_NamUc.php
  http://www.bichkhe.org/ho...cat_id=147&id=3743
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.08.2014 11:21:18 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 18.09.2014 23:17:37
 
 
              Thơ Phạm Ngọc Thái
      những năm tháng bèo dạt mây trôi
                    Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca", Nxb Văn hoá Thông tin 2013

                                                                                     Khánh Hòa      
 

   
NỖI TRĂN TRỞ NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG

Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
Rời quê qua bên kia biển sóng
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống.
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!

Ai mang bán v��J�g mười giữa phiên chợ đông? (1)
Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                           lọc sàng từng đống rác...(2)
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
Nhìn cánh dơi đen xao xác trời chiều
Cứ để cho tất cả lãng quên!

Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại
Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ…
Chút thơm thảo đoá phù du ngắn ngủi
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ.

Rồi một ngày, sẽ có một ngày qua
Những năm tháng không bẩn đấy,
                                     cũng rộm vàng khói cột
Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè thân hữu
Và khi đó tóc có ngả mầu chút xíu
Dù cho tất cả đã quên tôi !?

                                  Phạm Ngọc Thái
                            Nước Đức- Đêm 11/9/1989


(1) Mượn ý trong câu thơ của Nguyễn Duy: " Còn chút vàng mười mang ra bán nốt"
(2) Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki.



 
  LỜI BÌNH:  Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong nước hỗn độn. Nền kinh tế xã hội sa sút. Đời sống dân tình, nhất là nhiều vùng quê rơi vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới thì đảo loạn. Sang thập niên 90 Xô Viết Nga tan vỡ, rồi hàng loạt các nước trong phe XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương mù chủ nghĩa bao phủ bầu trời. Như ở trong bài "Trở Về" của tập thơ Người Đàn Bà Trắng, tác giả đã viết:                           Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
                        Bốn bể chân trời lạc khói sương...
       Bấy giờ nhà thơ còn là một cán bộ ngành ngoại thương  quốc tế. Anh được điều động từ trong nước ra nước ngoài tham gia công tác quản lý một đơn vị xuất khẩu lao động. Đó chỉ là thực cảnh của các đám dân dã đi tha phương kiếm sống. Những trăn trở riêng chung của tác giả trước một thực tế đầy phức tạp, để vào một đêm Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng đã ra đời:
                        Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
                        Rời quê qua bên kia biển sóng
                        Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
      Bài thơ phác lên một bức tranh được khai thác cả bề diện lẫn bề sâu. Những lớp người này phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ, tình cảm quê hương gắn bó cũng rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách quê người thì thật kinh khủng, đến mức đạo lý sống tưởng chừng như không còn chỗ để dung thân. Nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời. Nó đã thuộc vào hàng là những lớp chúng sinh tận cùng đáy xã hội rồi:
                        Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
                        Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
     Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót:
                        Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
                        Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
       Sử dụng những cụm từ như: giả dại, làm ngơ, mách qué, vân vi... mà vẫn giữ được phong cách của dòng thơ trữ tình chính thống, bản sắc thêm đậm đà chất văn học dân gian. Người đã phải hoá mình thành giả dại, ngây ngô, cười cợt... mà sống. Nén mình nuốt cái "đạo lý có hoá thừa" kia đi, tự nhận chìm bản thân như là không tồn tại để lãng quên.

      Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra mặn đắng hơn cả dòng nước mắt.  Đó là sự mở đầu bi hài của cuộc sống trong Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng này. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó như thế nào?
                        Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1)
                        Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                                             lọc sàng từng đống rác...(2)
                        Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
                        Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
         Câu (1) - Sử dụng ý thơ của nhà thơ Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/-  "vàng mười"ở đây chính là thứ vàng của lương tâm. Nghèo cực quá thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ! Nền tảng xã hội quá thấp thì cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được? Huống hồ quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ kia có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại trong mình ra phiên chợ người mà bán? thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám người lao động tha phương, giá đổi chua chát hơn nhiều.
      Còn câu (2):
                        Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                                                            lọc sàng từng đống rác...
       Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki: Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri!
     Trên đường về Pháp lênh đênh qua đại dương, bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính là biểu tượng cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời bé gái. Những tháng năm sau đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại ô Pa Ri. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt vét lấy những nắm cấn rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé gái một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri!
      Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái, thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến được tay cô gái.
       Vậy là - Thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán, cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được:
                        Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
                        Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
       Nó đã phải đổi bằng cả sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Ý thơ thật xót xa. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, nền đạo lý bị tha hoá, dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Đây là những câu thơ hay nhất bài, như lời một nhà bình thơ đã nhận xét: Nó có thể đạt đến những câu thơ trở thành kinh điển!
       Thông qua sự trăn trở bản thân, tác giả đã khai thác vào nỗi lòng tâm linh của những người lao động, đưa tính nhân bản thơ lên đến tột cùng:
                        Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại
                        Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ
                        Chút thơm thảo: đoá phù du ngắn ngủi
        Sự khao khát những chiều hương lý trong kỉ niệm, nhớ đến những bông đại nơi quảng trường quê hương - Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy, càng thấy sự phũ phàng thực tế mà những kẻ đi tìm vàng đã phải chịu đựng. Kịch tính biết bao khi chính họ lại phải sống với nhau như hài kịch:
                        Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ...
       Câu thơ điệp trở lại hai lần để nhấn mạnh, thật là một màn bi hài của xã hội và cuộc đời. Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng:
                      Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
                      Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
                      Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
                      Một chút nữa với bạn bè thân hữu...
      Vậy nếu khi nhà thơ Phạm Ngọc Thái có phải tự chất vấn về mình:
                     Những năm tháng không bẩn đấy, cũng rộm vàng khói cột 
      Thì cũng giống như cảnh mà Nguyễn Duy đã viết: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/-  Làm sao ta có thể lên án được, bởi những con người đó đã phải đổi cả một phần nhân cách cần thiết chỉ vì lương tri. Những việc làm của họ là xuất phát từ lương tri của lương tri.      
       Chỉ với hơn hai mươi câu thơ: Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng phục lại không khác gì một pho tiểu thuyết, một tấn đời! Bài thơ có ý nghĩa hiện thực sâu sắc, giá trị nhân văn cũng như tính điển hình xã hội ở trong một giai đoạn nhiều biến động thời đại phức tạp, xẩy ra cả trong nước và trên thế giới.
     KH. 
 
                    Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới:
  http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3802
  http://blog.zing.vn/jb/dt.../20103827?fromcate=205
  http://www.vanganh.info/2...ung-nam-thang-beo.html
  http://datdung.com/module...id=12495#axzz3DjlVevnP
  http://tranmygiong.blogti...nh_ng_n_m_thang_beo_d_
  http://trannhuong.com/tin...-beo-dat-may-troi.vhtm
  http://nguyenduyxuan.net/...-thang-beo-dt-may-troi
  http://vanthientungqtlh.b...ca-pham-ngoc-thai.html
  http://www.nhuygialai.com...ung-nam-thang-beo.html
  http://www.truclamyentu.i...g-beo-dat-may-troi.htm
  http://nghiathuc.wordpres...an-hoa-thong-tin-2013/
  http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-86_4-5797_15-2/
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_7.php
  http://vannghequangtri.bl...oc-thai-nhung-nam.html
  http://vandanvietnet.co.n...ung-nam-thang-beo.html
  http://binhtrung.org/p140...-tro-nguoi-di-tim-vang
   http://huongnguyenhoang.b...ang-tho-pham.html#more
  http://hung-viet.org/blog...hang-beo-dat-may-troi/
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.08.2015 22:53:53 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 21.10.2014 11:27:32
 
 

Hà Nội qua thơ của những thi nhân

Phạm Ngọc Thái



        Hà Nội qua thơ của những thi nhân và trong dân gian nhiều không kể hết. Cũng giống như bóng trăng trong tâm khảm mọi người, đậm tình và giầu hương sắc. Trải qua bao thế hệ đã trở thành trung tâm tụ hội, chính trị và văn hoá xã hội. 
      Cụ Nguyễn Du trên đường đi sứ qua Thăng Long (1813), xúc động mà hoài cảm về những kí ức xưa: 
                Núi Tản, sông Lô vẫn núi sông, 
                Bạc đầu còn được thấy Thăng Long... 
                Người đẹp thưở xưa nay bế trẻ, 
                Bạn chơi thưở nhỏ trở thành ông. 
      Từ những kỷ niệm riêng, chung. Lòng cụ bồi hồi: 
                Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ 
                Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô, 
                Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa 
                Điện mới xô bồ nhịp trúc tơ. 
                                    ( Thành Thăng Long ) 
      Còn nữ sỹ Hồ Xuân Hương lại ngợi ca tiên cảnh ở Tây Hồ: 
                Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa... 
                Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thờ, 
                Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng, 
                Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ. 
                              ( Chơi Tây Hồ nhớ bạn ) 
      Á Nam Trần Tuấn Khải (1894-1983) chơi ở thành Cổ Loa, lòng gợi nhớ tới sự tích thời Thục An Dương Vương và bi tình Mỵ Châu - Trọng Thuỷ: 
                Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa 
                Trải bao gió táp với mưa sa, 
                Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc, 
                Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha. 
                             ( Chơi thành Cổ Loa ) 
      Nhà thơ Nguyễn Khuyến dẫu 30 năm xa cách, vắng bóng, mà lòng vẫn khôn nguôi nhớ về hồ Hoàn Kiếm: 
                Ba chục năm trời cảnh vắng ta, 
                Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhoà... 
                Chiếc én tìm về quên lối cũ, 
                Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ. 
                              ( Hồ Hoàn Kiếm ) 
      Vũ Trấn Quốc cùng thời với cụ Cao Bá Quát, đã ngợi ca cảnh phường Bích Câu: 
                Thành Tây có cảnh Bích Câu, 
                Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao, 
                Đua chen thu cúc xuân đào, 
                Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông. 
                               ( Cảnh Bích Câu ) 
      Nhưng kinh đô Thăng Long trong tâm khảm các nhà thơ thời trước không chỉ được ngợi ca phong cảnh đẹp, mà còn ghi nhiều dấu ấn chống ngoại xâm - Trần Quang Khải (1241-1294) viết trên đường đưa vua về kinh đô: 
                Bến Chương Dương cướp giáo giặc 
                Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ. 
                                ( Phò tá về kinh ) 
      Lý Thường Kiệt (1019-1105) - Ông từng làm thơ, vừa để huấn dụ vừa khích lệ lòng tự hào dân tộc của ba quân: 
                Nam Quốc sơn hà Nam đế cư, 
                Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. 
      Thời tiền chiến - Hình ảnh Hà Nội cũng rất gắn bó trong nỗi tình thơ của các thi nhân. Họ ghi lại những tâm trạng, những kỷ niệm vui, buồn... trong cuộc đời ở nơi phố phường. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương sau bao năm tháng phiêu bạt trở về phố cũ, lòng ông vẫn xốn xang: 
                Ôi chốn ngày xưa vai sánh vai... 
                Hồ Gươm sóng lụa bờ tơ liễu... 
                Thấp thoáng hè qua đài phượng rụng, 
                Lào rào thu muộn lá xoan rơi. 
                Nửa kiếp lênh đênh dừng phố cũ, 
                Tình thơm mộng nhỏ tóc buông vai. 
                                          ( Phố cũ ) 
      Tản Đà thì mô tả trong đêm ở hồ Tây: 
                Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi 
                Đêm thu vằng vặc bóng theo người, 
                Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước 
                Tri kỷ trông lên đứng tận trời. 
                               ( Tây Hồ vọng nguyệt ) 
      Trần Huyền Trân thả nỗi niềm về những ngày tháng sống lận đận trong cái túp lều bên hồ Cống Trắng, ở phố Khâm Thiên. Lòng tri kỷ với phố mà vẫn buồn man mác: 
                Tôi ở lều gianh Cống Trắng này 
                Chạnh lòng cá nhảy với chim bay, 
                Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức 
                Giăng phải hồn tôi một lưới đầy. 
                               ( Mưa đêm lều vó ) 
      Nhà thơ Thế Lữ đứng giữa đêm giao thừa Hà Nội trước năm 1945, than cho kẻ phải sống lang thang bụi đời: 
                Lê gót mòn trên đá, 
                Ngẩng đầu trông cơn gió thổi 
                Lá vàng rơi lác đác 
                Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành, 
                Những cây khô đã chết cả mầu xanh... 
                Hỡi người bạn! Anh định về đâu đó? 
                                 ( Con người vơ vẩn ) 
      Nhà giáo và cũng là một nhà thơ Vũ Đình Liên lại hoạ cảnh một Ông Đồ thường ngồi bên phố, viết câu đối thuê cho khách: 
                Nhưng mỗi năm mỗi vắng, 
                Người thuê viết nay đâu? 
                Giấy đỏ buồn không thắm, 
                Mực đọng trong nghiên sầu. 
                                 ( Ông Đồ )    
     Nguyễn Bính nói về cảnh chia ly của những người trên sân ga: 
                Những cuộc chia lìa khởi tự đây... 
                Những chiếc khăn mầu thổn thức bay 
                Những bàn tay vẫy những bàn tay 
                Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt 
                Buồn ở đâu hơn ở chốn này? 
                              ( Những bóng người trên sân ga ) 
      Nhưng Hà Nội trước kia không phải chỉ có buồn như thế. Nữ thi sỹ Anh Thơ đã mô tả về nỗi lòng rạo rực về một cảnh đêm Hà Nội: 
                Căn phòng ta thênh thang hai cửa sổ 
                Mây trắng đi qua, sông Hồng thả gió, 
                Mỗi năm mùa hè, tắt điện đón trăng khuya... 
                               ( Căn phòng ta ) 
      Thơ ngợi ca về Hà Nội trong hai cuộc kháng chiến cũng rất nhiều. Hồi đánh Pháp, Nguyễn Đình Thi đã không nén nổi xúc động khi đứng giữa Thủ đô đã được giải phóng: 
                Hà Nội chiều nay mưa tầm tã 
                Ta lại về đây giữa phố xưa... 
      Ông reo lên như muốn vỡ tung tim: 
                Ta đứng khóc giữa trời mưa hắt 
                Leng keng chuông xe điện đổ hồi 
                Lòng ta bỗng như dòng suối mát 
                Ta đã về đây Hà Nội ơi! 
                                   ( Ngày về ) 
      Những năm đánh Mỹ nhà thơ Nguyễn Mỹ đã viết về cảnh chia ly ở Hà Nội nhưng khác hoàn toàn cảnh sầu thảm xưa kia, bởi vì cuộc chia ly này Hà Nội đã tiễn người đi chiến đấu để giữ nước: 
                Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ 
                Tươi như cánh nhạn lai hồng 
                Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ 
                Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa... 
      Và nhà thơ kết luận: 
                Như chưa hề có cuộc chia ly! 
                              ( Cuộc chia ly màu đỏ ) 
      Vũ Quần Phương mô tả về Hà Nội trong những ngày tháng chống chiến tranh phá hoại của Giôn Xơn, để sau 12 ngày đêm lịch sử Hà Nội đã trở thành lương tri và phẩm giá loài người: 
                Cả Hà Nội rung lên, xe xích chạy rung đường,
                Đêm ấy tôi nghe những em bé qua tôi 
                                                            vẫy bàn tay sơ tán. 
                Bé lên mười dắt bé lên năm, 
                Hà Nội toả đi xa những cô giữ trẻ, 
                Bệnh nhân đi và thầy thuốc đi theo. 
                Hà Nội nhận vào lòng những cỗ pháo phòng không, 
                Những cỗ xe tên lửa. 
                                    ( Tâm sự một căn nhà ) 
      Dù xưa hay nay, chiến tranh và hoà bình, đến thời buổi kinh tế thị trường mở cửa này... Hà Nội quay chóng mặt - Nhưng Thủ đô của chúng ta vẫn mãi là một thành phố trữ tình, như nhà thơ Xuân Diệu đã viết: 
                Em đưa anh vào trong bóng trăng 
                Anh đưa em cành liễu thung thăng 
                Đường Láng thơm bạc hà kinh giới 
                Xuống đây, đi với anh đêm trăng. 
                                 ( Đêm trăng đường Láng ) 
      Thanh Thảo viết: 
                Gia đình mình đã sơ tán chưa em, 
                Chiều thứ bảy em có về phố nhỏ 
                Có ngập ngừng trước khi mở cửa, 
                Lá sấu rơi xúc động bên thềm... 
                Gốc sấu này mòn dấu em chờ anh. 
                                 ( Dòng chữ cho em ) 
     Nỗi tình của nhà thơ Tế Hanh thì lại được ông diễn tả đầy thi vị: 
                Thế là Hà Nội vắng em... 
                Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây? 
                                 ( Hà Nội vắng em ) 
      Tôi cũng có nhiều kỷ niệm về Hà Nội. Dù Hà Nội đã có bao thay đổi, nhưng vẫn mãi mãi là những hồi ức như thuở còn thơ, tựa thể một ngoại ô xưa. Hơi hiu hắt mà thơ mộng, có lá sấu rụng, lá me rơi. Tối tối những đôi trai gái dắt nhau ra tình tự bên hồ. Những tiếng xe điện leng keng thưở xa xưa, những chuyến tàu chạy xình xịch vào ga Hàng Cỏ. Người tiễn kẻ đi xa, người đón kẻ trở về: 
                Hà Nội cứ suốt đời nghe lá rụng 
                Những ngọn đèn ô cửa mùa đông 
                Trái sấu nhỏ bàng hoàng như kỷ niệm 
                Nước hồ xanh rêu bám kín Tháp rùa. 
  
                Hà Nội cứ rầm rì trang tình tự 
                Của những đôi trai gái bên bờ... 
                Tà áo trắng em bay một thời thiếu nữ 
                Theo anh hoài đến tận lúc già nua. 
  
                Hà Nội mới mà như là cổ tích 
                Phía nhà ga đoàn tàu đến rồi đi, 
                Những giọng nói lẫn vào lời gió thổi... 
                Ai trở về... và ai sắp chia ly? 
  
                Đêm tóc trắng lại nghĩ về Hà Nội 
                Nằm thở dài, nhớ quá! Bóng em xưa... 
                               (Nghĩ về Hà Nội - Phạm Ngọc Thái)
      Hà Nội mãi mãi sống trong lòng và trái tim tôi.
  
      PNT.  
 
                                  đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
http://4phuong.net/ebook/...ua-nhung-thi-nhan.html
http://vanhaiphong.com/va...nhan-phm-ngc-thai.html
  https://sacmauthoigian.wo...ho-cua-nhung-thi-nhan/
  http://www.vanchuongviet....on=detail&id=21240
http://nguoibanduong.net/...t=article&sid=6185
http://datdung.com/module...sid=5160#axzz1iV4Rcj10
http://vannghequangtri.bl...-thi-nhan-pham_07.html
http://www.datvietjsc.net...amp;cid=52&id=1826
http://trangvhntnguoncoi....h%E1%BB%AFng-thi-nhan/
http://nguyenduyxuan.net/...thi-nhan-phm-ngc-thai-
http://tanchauxulua.com/index.php?showtopic=3157
 
 
 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.10.2014 12:10:34 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 20.11.2014 11:02:33
         

              Thơ kỷ niệm ngày Nhà Giáo 20/11                                                                                                        Phạm Ngọc Thái

       NHỚ VỀ CÔ GIÁO CŨ

                               kính tặng cô giáo chủ nhiệm
                                  Đinh Thị Kim Thanh  

 
 
Xóm chiến tranh. Thời thơ sơ tán học
Lớp cũng là một mái nhà gianh
Sân trăng sáng như lòng cô đằm thắm
Soi vào em bao nỗi ân tình.

Nhớ thuở ấy em còn trẻ quá
Tuổi hồn nhiên qua trang vở học trò
Như người mẹ hiền từ cô dìu dắt
Ở cái làng Cầu Ấu (*) đã xa xưa.

Sông bến đưa đò... cô chèo giữa nắng mưa
Lớp lớp quá giang chúng em đi biền biệt
Có những phút quay lặng nhìn lòng thổn thức
Kỷ niệm về như bầy sáo lang thang.

Gió vẫn đang reo trên đồi thông Mỏ Thổ (*)
Sông Máng trong xanh (*) nước chảy qua cầu
Năm mươi năm trôi... tóc cô đã bạc
Tóc em giờ bóng hạc cũng vờn nhau.

Biết tin cô: Thôi không còn lên lớp nữa!
Đánh tan giặc về, em làm một nhà thơ
Sương trên mái tóc cô rơi xuống đầu em hoá lệ
Và đời người - Cô ạ! Ngỡ cơn mơ...
 
  PHẠM NGỌC THÁI
Hà Nội, mùa đông 2014  


(*) Những địa danh ở Bắc Giang - Thời còn chiến tranh phá hoại bởi không quân Mỹ, chúng tôi đã đến sơ tán để học.
 
               Đăng trên một số trang mạng trong nước:
http://vietnamnet.vn/vn/b...nho-ve-co-giao-cu.html
http://www.nhuygialai.com...ai-ngam-lan-huong.html
    http://www.nhaccuatui.com...o-va.NRJh2iEStOpW.html

  http://vandanvn.net/vi/ne...a-Pham-Ngoc-Thai-4812/
http://www.vanews.org/201...nho-ve-co-giao-cu.html
http://vandanviet.blogspo...-ky-niem-ngay-nha.html
http://www.thivien.net/Ph...t6fFUSQFQyed4Aamrrkeeg
http://www.tiengchimviet....nho-ve-co-giao-cu.html
     http://me.zing.vn/zb/dt/t...20759736?from=category
http://datdung.com/module...id=13085#axzz3JZkWrcps
https://sacmauthoigian.wo.../18/nho-ve-co-giao-cu/
http://vanthientungqtlh.b...tho-cua-pham-ngoc.html
   http://binhtrung.org/a281...o-cu   
http://nghiathuc.wordpres...o-2011-pham-ngoc-thai/
http://nguyenduyxuan.net/...co-giao-c-phm-ngc-thai
http://vannghenamdinh.com...o-Viet-Nam-20-11-3824/
http://vannghequangtri.bl...ho-pham-ngoc-thai.html
http://phamngochien.com/v...-ngoc-thai-ha-noi/1470
http://vannghecuocsong.co...1-Pham-Ngoc-Thai-1662/
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.11.2014 11:42:51 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 18.12.2014 20:57:18
 
                            
   Phạm Ngọc Thái với nỗi quê,
   tình nhà những năm xa xứ               

                                                 PHẠM THÀNH CÔNG
 


               TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG
                                                    Tặng vợ                                             
Trong một phố nghèo có người vợ trẻ                                                                        
Vẫn đón con đi, về... như thường lệ                                                            
Vóc em thanh cũng thể mùa xuân                                       
Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen. 

 
Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*)
Đêm hồ nước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn. (**)

Ôi quê hương!
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.

Miền đã theo tôi vào cuộc chiến tranh
Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...
Ai biết chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!

Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!

Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe...

  
                       
                              Phạm Ngọc Thái
                       Nước Đức - tháng 2/1989

(*) Gợi lại câu chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở hồ Tây, đã gặp ông Nguyễn Trãi. Sự tích còn truyền tụng đến ngày nay.
(**) Là hình ảnh mặt thành Thăng Long Cửa Bắc cố đô xưa, còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết.

  LỜI BÌNH:   Truyện kể lại rằng, trong một khu phố nhỏ có một người vợ trẻ cùng đứa con thơ, ngày tháng chờ chồng ra đi nơi đất khách vì miếng cơm manh áo.
Tiếng Hát Đời Thường là một bài thơ về quê hương. Những hình ảnh rất thân thuộc nhưng vẫn mang tính điển hình, khái quát. Từ căn nhà bên ngôi đền cổ quanh năm rợp bóng đa chùa, cái quán báo trong phố, đến cảnh sóng nước hồ Tây. Được gợi lại bằng câu chuyện cổ của bà Thị Lộ đi bán chiếu gon, đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người.
    Qua bao hình ảnh mà người ra đi ở phương trời xa thường hay nhớ. Những đêm trăng hồ, những chiều lá sấu, lá me rơi. Cả chiếc cổng đá của cung thành cố đô xưa, vẫn còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết. Đó là một bức tranh quê với tiết tấu thơ đầy chất trữ tình. Rồi những hình ảnh sinh sống hàng ngày trước đây mà nhà thơ nhớ lại: 
                        Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
                    Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
                    Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
                   Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. 

      Người chồng ấy vẫn đau đáu nhớ về nơi vợ con đang trông đợi:
                   Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
                    Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!

     Cái miền quê một thuở nào vẫn theo anh trong suốt cuộc chiến năm xưa:
                    Miền đã theo tôi vào cuộc chiến tranh
                    Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... 

     Bài thơ được viết trong nỗi nhớ mong hiu hắt của kẻ đang lưu lạc xứ người. Đó là những tiếng nói yêu thương, xao xiết thường tình chốn dân gian, càng làm cho tình thơ thêm tha thiết: 
                   Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
                    Con sẻ hót mênh mông đồng nước
                    Người hát rong hát vui sân ga... 

    Cái tiếng hát đời thường ấy có thể là một khúc đàn dạo của người hát rong trên sân ga, tiếng rao của em bé bán báo, hoặc tiếng gọi đò trên sông trong đêm vắng. Nó máu thịt như người vợ quê ta, như bà mẹ già tóc bạc, như nồi khoai, củ sắn ngày tám tháng ba. Cũng có khi ánh lên niềm vui bên bếp lửa hồng của những người thân. Ngày ngày ta vẫn từng nghe ở đâu đấy vọng lên thảng thốt, để rồi bay đi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời:
               Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
                    Anh hát cho đời...
                    Anh hát em nghe...

    Và tình thi Tiếng Hát Đời Thường da diết máu tim đã khép lại ở đó.
       PTC.
    đã được đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
  http://www.nhuygialai.com...html   
http://tongocthach.vn/ve-...ung-nam-xa-xu-881.html
http://vannghequangtri.bl...-noi-que-tinh-nha.html
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3888
http://www.quansuvn.info/...0_6-1_17-16_14-2_15-2/
http://to-quoc01.blogspot...-noi-que-tinh-nha.html
http://vandanviet.blogspo...-noi-que-tinh-nha.html
  http://me.zing.vn/zb/dt/tranmygiong/20580713
http://nguyenduyxuan.net/...at-i-thng-phm-ngc-thai
http://4phuong.net/ebook/...a-nhung-nam-xa-xu.html
  http://vannghesontay.com/...a-nhung-nam-xa-xu-734/
http://huongnguyenhoang.b...am-ngoc-thai.html#more
http://binhtrung.org/p195..62/tieng-hat-doi-thuong
http://www.vanews.org/201...-noi-que-tinh-nha.html
http://www.vanganh.info/2...-noi-que-tinh-nha.html
http://www.vannghetroinam...p=viewst&sid=12772
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
  http://nghiathuc.wordpress.com/2014/10/27/109069/
   http://hung-viet.org/blog...h-nha-nhung-nam-xa-xu/
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.12.2014 21:32:04 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 17.01.2015 13:28:34
                 Với tập sách
"Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại"
                                                                  (Nxb Văn hoá Thông tin 2014)
                                                           Trần Tứ Đức
                                                                          Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian
       Là tác phẩm văn học của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - được nhiều tác giả "Hội những người yêu mặt trời thi ca - Hà Nội" biên soạn, mới cho xuất bản trong mùa đông 2014. Một tập sách dầy dặn và khá hoành tráng. 



    Như thế ngoài hai tập thơ đầu tiên anh đã xuất bản:-   "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990.-   "Người đàn bà trắng", Nxb Thanh niên 1994; Mười lăm năm sau Phạm Ngọc Thái mới lại "tái xuất giang hồ"... tiếp tục cho xuất bản. Đó là tập thơ:-   "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009. Khi vừa ra đời tập thơ lập tức bung lên những dư luận inh ỏi, đình đám. Sự thực thì đã có nhiều bài thơ hay của tập Rung Động Trái Tim đã được các văn nghệ sĩ, nhất là các nhà giáo bình, ca ngợi như: Người đàn bà trắng, Em về biển, Em ơi! Thành phố lại mưa, Sáng thu vàng, làm ma em vợ, Em bán xoài, Thời áo trắng, Con đường lá đổ, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Tiếng hát đời thường, v.v... Ngay cả nhà thơ Trúc Thông cũng bình và khen bài thơ "Chiều hoàng hôn" hay, đăng trên báo Đài tiếng nói VN, sau đó in vào tuyển bình thơ hay của quốc gia do Nxb Thanh niên phát hành. 
      Đặc biệt là ba năm gần đây nhà thơ liên tục cho xuất bản liền ba tập, tại Nxb Văn hoá Thông tin:-   Năm 2012 tập thơ "Hồ Xuân Hương tái lai", số lượng bài tới 298 tình thơ, sách dầy ngót 400 trang. Là một tập thơ lớn của anh. Một lần nữa Phạm Ngọc Thái đã vượt lên để khẳng định vóc dáng chân dung của thơ mình. Qua một thời gian trải nghiệm, tác phẩm đã có những tiếng vang lớn với các bài thơ hay và độc đáo.


-   Năm 2013 tập "Phê bình & tiểu luận thi ca". Một tác phẩm bình luận văn học được tác giả chọn lọc kỹ lưỡng nên khá đặc sắc, có tầm.



-   Đến mùa đông 2014, nhà thơ được HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA - Hà Nội kết hợp biên soạn, cho xuất bản tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại". Tôi xin nói đôi nét khái quát về tác phẩm mới này. 
    Tập sách dầy 372 trang và chia làm hai phần: 
  PHẦN I -  Với 120 tình thơ có tựa đề  " Bầu trời thơ tình hay & lạ ". Nó gồm 119 bài thơ tình sâu sắc và hay nhất, được chọn ra trong đời thơ tác giả.                  Bài thứ 120 là bài "Ta và lịch sử" không phải thơ tình, chỉ có tính chất kết lại. Đúng như cái tên gọi, 119 bài thơ tình đó là cả một khoảng trời thơ đa sắc, đa màu. Trong đó có nhiều bài thơ đặc sắc và hay, rất đáng để đời ngưỡng vọng. Phần thơ tình này, chúng tôi sẽ bình luận sau, riêng ở một bài.  
*   PHẦN II -  Tựa đề "Thế giới thi ca Phạm Ngọc Thái, với lời bình của nhiều tác giả". Có cả thảy 35 bài vừa là bình thơ hay, thơ sâu sắc cùng những tiểu luận về chân dung thi nhân. Riêng phần này độ dầy đã trên 200 trang sách. Để có nhận định khái quát về tác phầm " PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG NHÀ THƠ LỚN THỜI ĐẠI " -
 

                     
       Tôi xin trích ra đây nguyên văn "Lời giới thiệu" ở đầu sách, do cô giáo Nguyễn Thị Hoàng giảng viên trường Đại học Sư phạm, thay mặt HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA - Hà Nội đã viết:
                                      
                                                                        LỜI GIỚI THIỆU                                                  
                                              Trích tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại"

      Chúng tôi "Hội những người yêu mặt trời thi ca" – Hà Nội, đọc và nghiên cứu các thi phẩm của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Theo đánh giá với một bình diện rất rộng trên văn đàn mạng Việt trong nước và thế giới, nhận định: Phạm Ngọc Thái có chân dung thuộc đẳng cấp cao, tức là nhà thơ lớn của nền văn học nước nhà.
       Sở dĩ lấy cái tên gọi "Hội những người yêu mặt trời thi ca", ý muốn nói rằng: Chúng tôi là những người yêu thi ca, nhưng phải là thi ca hay, những tình thơ trác tuyệt. Các thiên tình ca ấy phải toả ngời như ánh sáng. Ánh sáng đó có thể là mặt trời, mặt trăng hay các vì sao. Ở đây - chúng tôi gọi tên "mặt trời" làm biểu tượng, để minh họa cho một thế giới thi ca tỏa sáng với bao nhiêu bài thơ hay, sâu sắc của thi nhân. 
       Anh Trần, một nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh Hà Nội, trong bài "Phạm Ngọc Thái nhà thơ của tự do", đã viết: 
-   Là một nhà thơ của tự do nhưng ông có chân dung văn học mang tầm vóc lớn trong thi ca. Ông đã sáng tác được một khối lượng đồ sộ thơ tình hay, ghi dấu ấn riêng biệt của ông trong lòng người yêu thơ, có những giá trị nghệ thuật tuyệt vời để lại cho nền văn hiến Thăng Long. Với hàng bậc của các nhà thơ hiện nay, ta có thể khẳng định rằng: Ông là một nhà thơ tài năng vào hàng bậc nhất trong đương đại. 
   Các thành viên trong "Hội những người yêu mặt trời thi ca", hầu hết đều có những bài viết về thi phẩm hoặc bình luận chân dung thơ ông. Bao gồm:

1.   Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - giảng viên Trường Đại học Sư phạm. Đã bình hai bài thơ tình hay của Phạm Ngọc Thái.
          a/-   "Con đường phượng đỏ" - Thơ tình trong trắng thuở sinh viên, rất đáng yêu.
          b/-   "Em ơi! Thành phố lại mưa" - Cô giáo đánh giá hay vào hàng tuyệt tác.
2.   Nhà giáo Đình Bồng - giảng dậy tại trường THPT quận Ba Đình, Hà Nội. Anh đã viết bài bình "Phạm Ngọc Thái với chùm tình thơ áo trắng".
     Trong đó gồm 3 bài thơ tình thuở ban mai: Thời áo trắng; Phố thu và áo trắng; Cô áo trắng... rất đậm đà hương sắc.  
3.   Hoàng Thị Thảo, một nữ trí thức yêu thơ. Chị viết:
         -  Cảm nhận về một bài thơ tình hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây" của Phạm Ngọc Thái.
4.   Thạc sĩ Anh Nguyễn - giảng viên trường Đại học Quốc gia. Anh đã viết:
         a/.   Mấy nét tình sử về bài thơ Người Đàn Bà Trắng.
         b/.   Phạm Ngọc Thái với bài thơ thần sầu quỉ khóc.
5.   Trần Tứ Đức - nguyên cán bộ Viện ngôn ngữ và Văn hoá dân gian. Anh bình:
 -   Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu và đàn bà
      Một chùm  thơ ba bài. Tác giả đánh giá "Người đàn bà trắng" hay thuộc đỉnh cao của thi ca. 
6.   Nhà phê bình văn học Nguyễn Đình Chúc. Ngoài bài bình luận:
-   Phạm Ngọc Thái chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc
      Anh còn là tác giả của bài viết đã gây nhiều dư luận:
  -  Lời bàn về tuyệt phẩm thơ "Váy thiếu nữ bay" của Phạm Ngọc Thái.
     Anh đánh giá thi phẩm độc đáo, sâu sắc và tuyệt hay! 
   Những bài bình và tiểu luận đó đều đã đăng trên nhiều trang mạng, từ trong nước ra hải ngoại – Qua Âu Châu, Mỹ đến toà báo Việt tại Úc. Một số đăng rải rác ở các báo văn học, tạp chí... như báo Người Hà Nội, tạp chí Sông Hương, Hồn Việt v.v... Hầu hết được chúng tôi tổng hợp lại để in vào trong tác phẩm này.  
     Bàn về việc đánh giá tác phẩm văn học, chính nhà thơ Phạm Ngọc Thái cũng đã nêu ra, một trong những nguyên tắc cơ bản của việc thẩm định thơ hay - Rằng:
-    Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
     Nếu như thơ đã không thể tồn tại lâu dài được, suy cho cùng cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi. Nói để các nhà thơ đỡ xót xa, những thứ thơ không tồn tại ấy... chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời. Như Gớt nói "tầng tầng bụi phủ".
     Một tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy… mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, thì không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đích thực đối với nền văn học được.
     Nhất quán trên cơ sở ấy, kết hợp với nhận thức của chúng tôi và sàng lọc qua đánh giá ở văn đàn. Theo cách nói của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: Một bài thơ hay Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Hai Sắc Hoa Ti-gôn của TTKH. , Chùa Hương Nguyễn Nhược Pháp, Đây Thôn Vỹ Dạ - Mùa Xuân Chín - Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử... còn được đời ngưỡng vọng ngàn thu.
     Huống chi thi nhân Phạm Ngọc Thái - Không kể những đài thơ:
     Người đàn bà trắng, Anh vẫn ở bên hồ Tây, Váy thiếu nữ bay, Em ơi! Thành phố lại mưa -  Hoặc bài thơ đời “Làm ma em vợ” hay vào hàng tuyệt tác thi ca. Ngoài ra ông phải có đến vài chục các tình thi khá hay và hay ở các cung bậc khác nhau:
     Em về biển, Thông và biển, Cây thầm tiếc bóng, Hàng cây lá đổ, Một góc hồ Tây, Người con gái sông xưa, Sáng thu vàng, Sáng xuân nay, Biển hát, Tiếng hát đời thường, Có một khoảng trời, Đêm tóc đá, Tiếng rúc chim đêm, Cô áo trắng, Thời áo trắng, Trước núi Mỹ nhân, Khóc bên Hồ Núi Cốc, Khoảng trôi trong lá, Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ, Đêm nay trời lại không mưa, Con đường phượng đỏ, Anh vọng nghe tiếng em hát bên hồ, Mái tóc con gái ...

     Phạm Ngọc Thái không chỉ sáng tác được nhiều thơ tình hay. Thơ về nỗi đời dân gian, kiếp người của ông không ít bài cũng đạt sự viên mãn để tạo thành những thi phẩm súc tích. Có bài đến hoàn bích như "Làm ma em vợ" đã nói trên, cùng những bài thơ đời sâu sắc khác không kém phần hay:
     Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Cô quét lá đêm hồ, Em bán xoài, Khóc Hàn Mặc Tử, Em bé cầu bơ, Chiều hoàng hôn, Cỏ hoang...
     Đúng như sự đánh giá trên văn đàn:
-   Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta. Chưa từng có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế! Rồi mai sau ông sẽ có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn hiến Thăng Long.     
     Nay HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA chúng tôi, cho biên soạn để  ra mắt tập sách “Phạm Ngọc Thái Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại”.
      Xin giới thiệu bạn đọc thưởng lãm. Tác phẩm mà chúng tôi biên soạn, chưa hẳn đã nói được hết cái hay và sâu xa như biển thẳm trong nhiều bài thơ ông? Song, chắc cũng phản ảnh được một độ cần thiết về tầm vóc cũng như sự phong phú, đa dạng... với bao nhiêu áng thi ca huyền diệu, tạo thành cả một thế giới thơ hương sắc muôn màu của thi nhân   

             Hà Nội, mùa đông 2014
T/M HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA




Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng
Giảng viên Trường ĐH Sư phạm

[<font]                   Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:.
http://www.nhuygialai.com...ch-pham-ngoc-thai.html
http://vandanvn.net/vi/ne...ich-dan-tong-hop-5118/
  http://datdung.com/module...id=13539#axzz3P0O3n000
  https://nghiathuc.wordpre...-nha-tho-lon-thoi-dai/
  http://vannghequangtri.bl...ieu-tap-sach-pham.html
  https://badamxoevietnam2....-nha-tho-lon-thoi-dai/
http://to-quoc01.blogspot...oc-thai-chan-dung.html
http://tranmygiong.blogti...c_thai_chan_dung_nha_t
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4018
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 17.01.2015 13:31:52
                       Với tập sách
"Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại"
                                                                  (Nxb Văn hoá Thông tin 2014)
                                                           Trần Tứ Đức
                                                                          Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian
       Là tác phẩm văn học của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - được nhiều tác giả "Hội những người yêu mặt trời thi ca - Hà Nội" biên soạn, mới cho xuất bản trong mùa đông 2014. Một tập sách dầy dặn và khá hoành tráng. 



    Như thế ngoài hai tập thơ đầu tiên anh đã xuất bản:-   "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990.-   "Người đàn bà trắng", Nxb Thanh niên 1994; Mười lăm năm sau Phạm Ngọc Thái mới lại "tái xuất giang hồ"... tiếp tục cho xuất bản. Đó là tập thơ:-   "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009. Khi vừa ra đời tập thơ lập tức bung lên những dư luận inh ỏi, đình đám. Sự thực thì đã có nhiều bài thơ hay của tập Rung Động Trái Tim đã được các văn nghệ sĩ, nhất là các nhà giáo bình, ca ngợi như: Người đàn bà trắng, Em về biển, Em ơi! Thành phố lại mưa, Sáng thu vàng, làm ma em vợ, Em bán xoài, Thời áo trắng, Con đường lá đổ, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Tiếng hát đời thường, v.v... Ngay cả nhà thơ Trúc Thông cũng bình và khen bài thơ "Chiều hoàng hôn" hay, đăng trên báo Đài tiếng nói VN, sau đó in vào tuyển bình thơ hay của quốc gia do Nxb Thanh niên phát hành. 
      Đặc biệt là ba năm gần đây nhà thơ liên tục cho xuất bản liền ba tập, tại Nxb Văn hoá Thông tin:-   Năm 2012 tập thơ "Hồ Xuân Hương tái lai", số lượng bài tới 298 tình thơ, sách dầy ngót 400 trang. Là một tập thơ lớn của anh. Một lần nữa Phạm Ngọc Thái đã vượt lên để khẳng định vóc dáng chân dung của thơ mình. Qua một thời gian trải nghiệm, tác phẩm đã có những tiếng vang lớn với các bài thơ hay và độc đáo.


-   Năm 2013 tập "Phê bình & tiểu luận thi ca". Một tác phẩm bình luận văn học được tác giả chọn lọc kỹ lưỡng nên khá đặc sắc, có tầm.



-   Đến mùa đông 2014, nhà thơ được HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA - Hà Nội kết hợp biên soạn, cho xuất bản tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại". Tôi xin nói đôi nét khái quát về tác phẩm mới này. 
    Tập sách dầy 372 trang và chia làm hai phần: 
  PHẦN I -  Với 120 tình thơ có tựa đề  " Bầu trời thơ tình hay & lạ ". Nó gồm 119 bài thơ tình sâu sắc và hay nhất, được chọn ra trong đời thơ tác giả.                  Bài thứ 120 là bài "Ta và lịch sử" không phải thơ tình, chỉ có tính chất kết lại. Đúng như cái tên gọi, 119 bài thơ tình đó là cả một khoảng trời thơ đa sắc, đa màu. Trong đó có nhiều bài thơ đặc sắc và hay, rất đáng để đời ngưỡng vọng. Phần thơ tình này, chúng tôi sẽ bình luận sau, riêng ở một bài.  
*   PHẦN II -  Tựa đề "Thế giới thi ca Phạm Ngọc Thái, với lời bình của nhiều tác giả". Có cả thảy 35 bài vừa là bình thơ hay, thơ sâu sắc cùng những tiểu luận về chân dung thi nhân. Riêng phần này độ dầy đã trên 200 trang sách. Để có nhận định khái quát về tác phầm " PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG NHÀ THƠ LỚN THỜI ĐẠI " -
 

                     
       Tôi xin trích ra đây nguyên văn "Lời giới thiệu" ở đầu sách, do cô giáo Nguyễn Thị Hoàng giảng viên trường Đại học Sư phạm, thay mặt HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA - Hà Nội đã viết:
                                      
                                                                        LỜI GIỚI THIỆU                                                  
                                              Trích tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại"

      Chúng tôi "Hội những người yêu mặt trời thi ca" – Hà Nội, đọc và nghiên cứu các thi phẩm của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Theo đánh giá với một bình diện rất rộng trên văn đàn mạng Việt trong nước và thế giới, nhận định: Phạm Ngọc Thái có chân dung thuộc đẳng cấp cao, tức là nhà thơ lớn của nền văn học nước nhà.
       Sở dĩ lấy cái tên gọi "Hội những người yêu mặt trời thi ca", ý muốn nói rằng: Chúng tôi là những người yêu thi ca, nhưng phải là thi ca hay, những tình thơ trác tuyệt. Các thiên tình ca ấy phải toả ngời như ánh sáng. Ánh sáng đó có thể là mặt trời, mặt trăng hay các vì sao. Ở đây - chúng tôi gọi tên "mặt trời" làm biểu tượng, để minh họa cho một thế giới thi ca tỏa sáng với bao nhiêu bài thơ hay, sâu sắc của thi nhân. 
       Anh Trần, một nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh Hà Nội, trong bài "Phạm Ngọc Thái nhà thơ của tự do", đã viết: 
-   Là một nhà thơ của tự do nhưng ông có chân dung văn học mang tầm vóc lớn trong thi ca. Ông đã sáng tác được một khối lượng đồ sộ thơ tình hay, ghi dấu ấn riêng biệt của ông trong lòng người yêu thơ, có những giá trị nghệ thuật tuyệt vời để lại cho nền văn hiến Thăng Long. Với hàng bậc của các nhà thơ hiện nay, ta có thể khẳng định rằng: Ông là một nhà thơ tài năng vào hàng bậc nhất trong đương đại. 
   Các thành viên trong "Hội những người yêu mặt trời thi ca", hầu hết đều có những bài viết về thi phẩm hoặc bình luận chân dung thơ ông. Bao gồm:

1.   Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - giảng viên Trường Đại học Sư phạm. Đã bình hai bài thơ tình hay của Phạm Ngọc Thái.
          a/-   "Con đường phượng đỏ" - Thơ tình trong trắng thuở sinh viên, rất đáng yêu.
          b/-   "Em ơi! Thành phố lại mưa" - Cô giáo đánh giá hay vào hàng tuyệt tác.
2.   Nhà giáo Đình Bồng - giảng dậy tại trường THPT quận Ba Đình, Hà Nội. Anh đã viết bài bình "Phạm Ngọc Thái với chùm tình thơ áo trắng".
     Trong đó gồm 3 bài thơ tình thuở ban mai: Thời áo trắng; Phố thu và áo trắng; Cô áo trắng... rất đậm đà hương sắc.  
3.   Hoàng Thị Thảo, một nữ trí thức yêu thơ. Chị viết:
         -  Cảm nhận về một bài thơ tình hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây" của Phạm Ngọc Thái.
4.   Thạc sĩ Anh Nguyễn - giảng viên trường Đại học Quốc gia. Anh đã viết:
         a/.   Mấy nét tình sử về bài thơ Người Đàn Bà Trắng.
         b/.   Phạm Ngọc Thái với bài thơ thần sầu quỉ khóc.
5.   Trần Tứ Đức - nguyên cán bộ Viện ngôn ngữ và Văn hoá dân gian. Anh bình:
 -   Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu và đàn bà
      Một chùm  thơ ba bài. Tác giả đánh giá "Người đàn bà trắng" hay thuộc đỉnh cao của thi ca. 
6.   Nhà phê bình văn học Nguyễn Đình Chúc. Ngoài bài bình luận:
-   Phạm Ngọc Thái chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc
      Anh còn là tác giả của bài viết đã gây nhiều dư luận:
  -  Lời bàn về tuyệt phẩm thơ "Váy thiếu nữ bay" của Phạm Ngọc Thái.
     Anh đánh giá thi phẩm độc đáo, sâu sắc và tuyệt hay! 
   Những bài bình và tiểu luận đó đều đã đăng trên nhiều trang mạng, từ trong nước ra hải ngoại – Qua Âu Châu, Mỹ đến toà báo Việt tại Úc. Một số đăng rải rác ở các báo văn học, tạp chí... như báo Người Hà Nội, tạp chí Sông Hương, Hồn Việt v.v... Hầu hết được chúng tôi tổng hợp lại để in vào trong tác phẩm này.  
     Bàn về việc đánh giá tác phẩm văn học, chính nhà thơ Phạm Ngọc Thái cũng đã nêu ra, một trong những nguyên tắc cơ bản của việc thẩm định thơ hay - Rằng:
-    Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
     Nếu như thơ đã không thể tồn tại lâu dài được, suy cho cùng cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi. Nói để các nhà thơ đỡ xót xa, những thứ thơ không tồn tại ấy... chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời. Như Gớt nói "tầng tầng bụi phủ".
     Một tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy… mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, thì không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đích thực đối với nền văn học được.
     Nhất quán trên cơ sở ấy, kết hợp với nhận thức của chúng tôi và sàng lọc qua đánh giá ở văn đàn. Theo cách nói của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: Một bài thơ hay Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Hai Sắc Hoa Ti-gôn của TTKH. , Chùa Hương Nguyễn Nhược Pháp, Đây Thôn Vỹ Dạ - Mùa Xuân Chín - Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử... còn được đời ngưỡng vọng ngàn thu.
     Huống chi thi nhân Phạm Ngọc Thái - Không kể những đài thơ:
     Người đàn bà trắng, Anh vẫn ở bên hồ Tây, Váy thiếu nữ bay, Em ơi! Thành phố lại mưa -  Hoặc bài thơ đời “Làm ma em vợ” hay vào hàng tuyệt tác thi ca. Ngoài ra ông phải có đến vài chục các tình thi khá hay và hay ở các cung bậc khác nhau:
     Em về biển, Thông và biển, Cây thầm tiếc bóng, Hàng cây lá đổ, Một góc hồ Tây, Người con gái sông xưa, Sáng thu vàng, Sáng xuân nay, Biển hát, Tiếng hát đời thường, Có một khoảng trời, Đêm tóc đá, Tiếng rúc chim đêm, Cô áo trắng, Thời áo trắng, Trước núi Mỹ nhân, Khóc bên Hồ Núi Cốc, Khoảng trôi trong lá, Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ, Đêm nay trời lại không mưa, Con đường phượng đỏ, Anh vọng nghe tiếng em hát bên hồ, Mái tóc con gái ...

     Phạm Ngọc Thái không chỉ sáng tác được nhiều thơ tình hay. Thơ về nỗi đời dân gian, kiếp người của ông không ít bài cũng đạt sự viên mãn để tạo thành những thi phẩm súc tích. Có bài đến hoàn bích như "Làm ma em vợ" đã nói trên, cùng những bài thơ đời sâu sắc khác không kém phần hay:
     Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Cô quét lá đêm hồ, Em bán xoài, Khóc Hàn Mặc Tử, Em bé cầu bơ, Chiều hoàng hôn, Cỏ hoang...
     Đúng như sự đánh giá trên văn đàn:
-   Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta. Chưa từng có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế! Rồi mai sau ông sẽ có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn hiến Thăng Long.     
     Nay HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA chúng tôi, cho biên soạn để  ra mắt tập sách “Phạm Ngọc Thái Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại”.
      Xin giới thiệu bạn đọc thưởng lãm. Tác phẩm mà chúng tôi biên soạn, chưa hẳn đã nói được hết cái hay và sâu xa như biển thẳm trong nhiều bài thơ ông? Song, chắc cũng phản ảnh được một độ cần thiết về tầm vóc cũng như sự phong phú, đa dạng... với bao nhiêu áng thi ca huyền diệu, tạo thành cả một thế giới thơ hương sắc muôn màu của thi nhân   

             Hà Nội, mùa đông 2014
T/M HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA




Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng
Giảng viên Trường ĐH Sư phạm

                 Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:.
http://www.nhuygialai.com...ch-pham-ngoc-thai.html
http://vandanvn.net/vi/ne...ich-dan-tong-hop-5118/
  http://datdung.com/module...id=13539#axzz3P0O3n000
  https://nghiathuc.wordpre...-nha-tho-lon-thoi-dai/
  http://vannghequangtri.bl...ieu-tap-sach-pham.html
  https://badamxoevietnam2....-nha-tho-lon-thoi-dai/
http://to-quoc01.blogspot...oc-thai-chan-dung.html
http://tranmygiong.blogti...c_thai_chan_dung_nha_t
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4018
http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_16.php
Đăng quảng bá  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
http://www.quansuvn.info/...0_6-1_17-16_14-2_15-2/
  http://truclamyentu.info/...-tho-lon-thoi-dai.html
http://hung-viet.org/blog...-nha-tho-lon-thoi-dai/
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.03.2015 10:50:50 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 17.02.2015 11:12:05

               PHẠM NGỌC THÁI
  VỚI BÀI THƠ THẦN SẦU QUỈ KHÓC
                                                        Anh Nguyễn



                 ĐỘNG BƯỚM
Phút say đắm tột cùng em mở toang động bướm
Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ
Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn
Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma.

 
Có ai chưa em đã vào khai phá?
Để bướm vẫy vùng, bướm thoả ước ao
Và khi ấy em sẽ không còn là trinh nữ
Bờ-bãi-đời-người bướm vẫn lượn như sao.

 
Thân nhi nữ một thế giới mênh mông, hoang dại
Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều
Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt
Lạc vào vườn em trái cấm ngọt hương tươi.

 
Tình yêu từ đâu anh không biết?
Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim!
Nhưng yêu nhất là bướm em
                          có sức chinh phục diệu huyền
Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ...

 
Bướm của em trên đời mãi còn quí giá
Đến lúc cần bướm lại sinh con
Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em.
La la la là la lá là... 
                                          Phạm Ngọc Thái
                               Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai"
     Lời bình: Đây là một bài thơ tượng trưng. Đọc suốt bài thơ ta thấy hình tượng gồm toàn những yếu tố tượng trưng "tương ứng cảm quan". Khuynh hướng này do nhà thơ Pháp Charles Baudelaire, một trong những bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu vào cuối thế kỉ XIX khởi xướng. Theo Baudelaire, sự liên kết giữa vật này với vật khác, giữa con người - cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Biểu tượng đó phản ảnh một cách tương ứng sự vật, nhưng không phải do lý trí sắp đặt mà dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan hay tâm linh, gọi là cảm quan. Ta hãy phân tích đoạn thơ thứ nhất:
                     Phút say đắm tột cùng em mở toang động bướm
                     Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ
     "Bướm" đã trở thành một biểu tượng ở chốn dân gian để chỉ "cái" của người đàn bà. Tác giả dùng hình ảnh "động bướm" làm tượng trưng, ý như đó là "cái hang" ở trên nàng. Ta hãy nghe Bà Hồ Xuân Hương tả về "cái hang" của chị em, qua bài "Động Hương Tích":
                   Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm
                   Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom...
      Hay bài "Hang Cắc Cớ":
                  Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom
                  Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
     Tôi không thể bình quá sâu hình ảnh của câu: Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn /-  Bởi phân tích ra nó sẽ bẩn... làm hỏng thơ của bà. Nhưng đọc ta có thể hiểu: khi bà tả "kẽ hầm rêu mốc...", là nói về khe ngách bên trong của bướm bị dơ. Vậy còn "cái gì trơ toen hoẻn"? Phải chăng là... "nhân bướm"? Ví dụ thêm một tình thi khác, bài "con ốc nhồi":
                  Quân tử có thương thì bóc yếm
                  Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
      "bóc yếm" là hình ảnh mô phỏng về sự ve vuốt, xoa nắn vòm ngực, phía trên người con gái - Còn "ngó ngoáy lỗ trôn", hình tượng nghịch ngợm bộ phận dưới vv...
      Ở đây, nhà thơ Phạm Ngọc Thái diễn tả cái bướm đã có từ thời tiền sử: Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ /-  Nghĩa là nó do tạo hóa đúc tạc nên. Đến câu thơ 11-12 nhà thơ còn láy lại một lần nữa:
                    Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt
                    Lạc vào vườn em trái cấm ngọt hương tươi
       Bướm của em như hoa trái đất trời, "ăn" vào là nhớ mãi. Từ nguyên thuỷ đến bây giờ chẳng cần tiến hoá thêm, thế mà:
                    Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn
     Ngay từ buổi thiên thai cái "động bướm" ấy đã hoàn bích rồi. Ai nhìn thấy hay chỉ cần nghĩ tới... cũng phải hưng phấn, rạo rực trong lòng. Đến câu thơ thứ tư, hình tượng thơ còn mang theo tính triết học:
                    Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma.
      Bướm em vừa siêu phàm tựa thánh tiên, lại vừa như có ma quỉ - Làm ta say mê, thần tượng và khát vọng. Nhưng cũng có khi vì si mê quá hoá mù quáng, như bị "ma dẫn lối quỉ đưa đường"... tự huỷ hoại cuộc đời mình. Tức là, tình yêu mang đến cho ta niềm hạnh phúc vô biên, đưa tâm hồn ta hoan lạc ở chốn bồng lai, lại cũng có thể làm cho trái tim ta đau khổ, tan vỡ vì thất vọng! Đến đoạn thứ ba, tác giả tiếp tục phát triển:
                     Thân nhi nữ một thế giới mênh mông, hoang dại
                     Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều
      Cái thế giới mênh mông, hoang dại đó... thuộc hình ảnh thơ trìu tượng. Tác giả miêu tả sự toàn bích của tấm thân người nhi nữ từ trong ra ngoài, để khẳng định sự vĩ đại của tạo hoá! Cho dù xã hội loài người có phát triển hàng vạn năm nữa, văn minh tiến bộ đến đâu... cũng không thể so sánh nổi. Trong sự vĩ đại đó thì việc sinh thành ra "bướm" đàn bà là điều kì diệu nhất - Một thiên kiệt tác!
      Quay trở lại với đoạn thứ hai, nhà thơ buông ra một câu hỏi:
                   Có ai chưa em đã vào khai phá?
     Nghĩa là em đã hiến dâng cái của em cho người đàn ông nào chưa? Sau đó chính anh lại tự giải nghĩa:
                   Để bướm vẫy vùng, bướm thỏa ước ao
     Đâu có phải chỉ một mình người con trai sướng? Bởi khi hiến dâng cho tình yêu, cũng chính là khát vọng của người con gái để trở thành... đàn bà:
                   Khi ấy em sẽ không còn là trinh nữ
                   Bờ-bãi-đời-người bướm vẫn lượn như sao...
      Thơ đã đi sâu vào phạm trù đời sống mà diễn tả. Dĩ nhiên là đời sống ấy phải có cả đàn ông, nhưng thường trong nhiều phạm trù người ta chỉ thiên nói về nữ tính. Nếu không có cái bướm đàn bà thì cuộc sống của ta sẽ không còn nghĩa lí.
      Đến đây, tôi xin nói đôi nét về một số bài thơ khác dạng tương tự như "Động bướm" -  Phạm Ngọc Thái có một số tình thơ lãng mạn vào loại khá kỳ dị. Có thể kể ra vài bài đặc sắc, nổi lên như: Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt, Xem tranh bán loã thể, Váy thiếu nữ bay - "Động bướm" chỉ là một bài điển hình trong số những tình thi đó.
      "Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt"  - Thực ra chính là hình ảnh người yêu khoả thân trong đêm tối:
                 Ta gặp nhau chỉ trong chốc lát
                 Giữa đêm tối anh lần vào em thăm thiên thai...
     "thiên thai" chính là cái ấy! Vậy "giữa đêm tối anh lần vào thăm thiên thai của em...", để làm gì? chẳng nói thì ai cũng biết. Thơ tả vào dục vọng mà vẫn rất mềm mại, đáng yêu. Hay là:
                  Hôn đôi trái em tưởng mình du ngoạn khắp không trung
                  Chơi dỡn nguyệt một thiên đường tuyệt thế
                  Mong trời cứ đêm để cùng em vui chút nữa.
      Hạnh phúc trong tình yêu của thi nhân hoà trong niềm sướng vui cùng thân thể người yêu. Nhà thơ tả thẳng vào sự khoái cảm, nhưng khi đọc ta vẫn không thấy sượng. Hình ảnh "Hôn đôi trái em..." diễn tả sự say sưa, man mê đôi tí người yêu... lại ngỡ như mình đang du ngoạn, bay bổng giữa không trung. Hoặc là hình ảnh "chơi dỡn nguyệt", giây phút tột cùng khoái lạc trong quan hệ nam nữ, rồi tác giả buông một câu khẳng định:
                 Đàn bà đẹp nhất là ở trong đêm tối
                 Để nhớ nhau suốt đời...
    Hình tượng "đẹp" ở đây, mang màu sắc thơ mĩ học. Ta lại nhớ tới câu ca dao trong dân gian:
                 Dao đâm vào thịt thì đau
                 Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời
     Cuối bài tác giả đã kết:
                 Đêm tắt đèn thành ánh sáng của thơ tôi!
     Câu thơ bộc lộ một thái độ. Có thể nó hàm chứa về một phản ứng nào đó có ý nghĩa xã hội? Như ta thường nói về bà Hồ Xuân Hương, rằng: Tư tưởng bên trong thơ của bà là bộc lộ một thái độ phản kháng sự đè nén, hủ lậu của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ. Thì đây, chính câu thơ là sự bùng nổ... thiên về tính chính trị xã hội nào đó, trong ý tưởng của nhà thơ?
    Tôi nói sang bài "Xem tranh bán loã thể" - Bài thơ đã được nghệ sĩ Anh Trần bình là một kỳ tác thi ca! Có những câu khi đọc lên ta cảm thấy gờn gợn... Không phải nó tục mà vì tác giả dùng hình ảnh, những từ ngữ quá thực. Nhưng cái quá thực ấy lại chứa chất cả tính nhân loại và mang màu sắc triết học, thành thử câu thơ sâu và rất hay nữa. Thí dụ:
                  Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người
                  Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình ra từ trong bụng.
     Nghệ sĩ Anh Trần đã phân tích những câu thơ đó, như thế này:
 -   Sâu sắc và hay. Ý của câu trên ta thấy rõ rồi - Người đàn bà là hoa, là ý nghĩa tồn sinh của cuộc sống xã hội và nhân loại. Nhưng còn câu dưới? Không phải chỉ muốn nói rằng, em có khả năng mang thai trong bụng rồi sinh đẻ, tất nhiên là ra con người. Rồi giống người ấy sẽ mang đến cả chiến tranh và hoà bình.
     Mặc dù phải có cả đàn ông thì em mới đẻ được. Ở một phạm trù rộng lớn hơn, tức là: Tình yêu và đàn bà sinh ra cả khổ đau lẫn hạnh phúc, cũng như chiến tranh và hoà bình.
     Cho nên mới nói: Thơ Phạm Ngọc Thái cô đọng và rất sâu sắc!
     Khi tác giả tả thẳng:
                   Lui xuống dưới nàng một rừng sâu um tùm che hang động
                   Lên trên nàng đôi mỏm núi trắng vô biên
      Vẫn là tả về vú và bướm, nhưng sử dụng phương pháp biểu tượng. Cái ở bên dưới là một hang động, muốn vào nó phải đi qua một khu rừng sâu rậm rì, um tùm. Còn cái ở trên là đôi mỏm núi trắng xoá, vô biên - Nghĩa là vú của nàng như cả bầu trời vậy.
     Trong những bài thơ kỳ dị ấy, đặc biệt là bài "Váy thiếu nữ bay" - Anh Nguyễn Đình Chúc khi bình đã ca ngợi là tuyệt hay! Bài thơ mô phỏng về cái váy của người thiếu nữ để lộ ở bên trong, nhưng được nhà thơ đi sâu về ý nghĩa đời sống xã hội để diễn tả:
                 Bờ-bãi-con-người em trổ hoa trái ngọt
                 Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
     Sau đó phát triển rộng sang tính nhân loại:
                 Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
                 Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian...
     Hay là:
                 Có phải đó khúc quân hành nhân loại
                 Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh
     Bọc chứa cả tính vũ trụ:
                 Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm
      Ta hãy nghe tác giả kết bài:
                  Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
                  Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang!
     Nó được cất giữ một ý tưởng rất mạnh mẽ, một thái độ nhân sinh quan xã hội của nhà thơ. Anh Nguyễn Đình Chúc đã nhận xét về đoạn kết ấy như sau:
-   Câu thơ cuối đã khoá lại toàn bộ bài thơ. Chính nó đã mang theo một lời triết lý có ý nghĩa xã hội, hàm ý về một phủ định nào đó? Nhà thơ phản ứng lại những tà đạo hoặc giả tạo về mặt chính trị còn đang ẩn chứa trong thể chế xã hội mà viết như thế chăng?... Có lẽ đó cũng là một điểm xuất phát để tạo nên ý nghĩa tột đỉnh trong thơ ca Phạm Ngọc Thái.
     Ngòi nổ trong câu thơ cuối đó: Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang/-  Vừa phát hỏa làm cháy bùng cả bài, vừa bảo vệ luận thuyết của tác giả là: Ca ngợi cái kiệt tác mà thượng đế đã sinh ra trên thân thể người đàn bà! Nó là ngọn nguồn, khởi điểm cho cả chính trị và triết học. Ý tình thơ thật mênh mông mà vẫn súc tích, càng vào sâu càng thấy hay!
     Tôi trở về với bài "Động bướm" -  Tác giả tả về cái bướm nhưng không phải phải chỉ là để cho sướng, cho khoái, mà thơ còn ôm chứa tính nhân bản sâu sắc.
     Xin trở lại với đoạn thơ thứ tư. Gớt đã viết: "Khởi thuỷ là hành động" - Nhưng ở đây có lẽ phải nói: "Khởi thuỷ là tình yêu" ! Anh tự hỏi:
                   Tình yêu từ đâu anh không biết?
                   Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim!
    Để rồi anh triết lý ở hai câu thơ sau đó:
                   Nhưng yêu nhất là bướm em
                                                     có sức chinh phục diệu huyền
                   Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ...
     Ta có thể mường tượng hình tượng về những con bướm, mà bướm đây là bướm cái... cứ đêm đêm nó lại vờn bay quanh ta trong phòng ngủ - để làm gì? Đấy, tác giả tả về cảnh chăn gối vợ chồng hay trai gái. Suy cho cùng, nếu em chẳng có bướm thì thế giới này sẽ hoá rồ, hoá dại và... cũng chẳng làm gì có tình yêu!
      "Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ..." /- Hình ảnh của câu thơ hay. Ý nhị, dí dỏm, gây cho ta sự khoái cảm trong tâm hồn. Một biểu tượng đời thường ở chốn phòng the. Ban ngày thì chị em thường cài then, khoá trái của mình lại, để đêm đêm mới mở cửa, rút then... cho anh em vào tha hồ khám phá. Đoạn thơ xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn tình yêu. Tất cả đều bắt đầu từ... bướm, như câu thơ viết:
                   Nhưng yêu nhất là bướm em có sức chinh phục diệu huyền
     Đọc câu: Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ/-  Gợi sự kích thích về một ước muốn, khát vọng của khoái lạc nhưng lành mạnh. Lời thơ diễn đạt có vẻ nôm na chân chất, tình thi vẫn ý nhị và sinh động. Ít khi có câu thơ rất đời thường lại đạt được hiệu quả cao như thế!  
     Nhà thơ kết luận:
                      Bướm của em trên đời mãi còn quí giá
                      Đến lúc cần bướm lại sinh con
                      Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em.
                      La la la là la lá là...
     Riêng câu thơ kết chỉ là những nốt nhạc đệm cho cả bản giao hưởng về " bướm", đó thôi. Cái bướm ấy không phải chỉ mang lại cho ta sự sung sướng và hạnh phúc? Bướm còn để sinh con, bảo tồn nòi giống! Nghĩa là, không có bướm thì không có giống nòi, không có dân tộc - Mới thấy, giá trị nhân sinh của bướm cũng  thật là cao cả!... Bằng các yếu tố của thơ tượng trưng, nhà thơ đã đi sâu vào thế giới tâm linh cùng vũ trụ để mô tả. Từ cái tên đã có trong dân gian, phát triển sang phạm trù tình yêu rồi đời sống xã hội con người. Một tình thi chỉ xoay quanh về cái của người đàn bà mà nói được đủ điều, sâu sắc, thăng hoa đến thế - Thiết nghĩ, nó đã đạt vào loại là một bài thơ thần sầu quỷ khóc vậy!
     
                                         Hà Nội, mùa thu 2013
                                               Anh Nguyễn
                              Giảng viên Trường ĐH Quốc Gia
  Đã được đăng trên các trang mạng trong nước & thế giới:
  http://me.zing.vn/zb/dt/tranmygiong/19677712
http://vannghequangtri.bl...-tho-than-sau-qui.html
  https://trangvhntnguoncoi.../tho-pham-ngoc-thai-5/
  http://hung-viet.org/blog...tho-than-sau-quy-khoc/
  http://nhatkydinhquan.blo.../2014/07/ong-buom.html
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
http://vandanvn.net/vi/ne...c-gia-Anh-Nguyen-4312/
  http://nguyenduyxuan.net/...-bai-th-thn-su-qu-khoc
  http://binhtrung.org/a24888/dong-buom
  http://nghiathuc.wordpres...u-qui-khoc-anh-nguyen/
  http://blog.zing.vn/jb/dt...giong/19677712?from=my
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2015 11:16:20 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 21.03.2015 10:48:31
 
       
     Bằng Việt với bài thơ tình hay
                                 Phạm Ngọc Thái



            Nhà thơ Bằng Việt


        NGHĨ LẠI VỀ PAUTÔPXKY


                         1.

Ðồi trung du phơ phất bóng thông già.
Trường sơ tán. Hồn trong chiều lặng gió
Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu...

" Lẵng quả thông " trong suối nhạc nhiệm màu
Hay " Chuyến xe đêm " thầm thì mê đắm
Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm
Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa.
- " Có thể ngày mai ta cũng đi qua
Một cánh cửa nao lòng trong truyện " Tuyết "?
Có tiếng chuông rung và con mèo " Ackhip "
Ánh nến mơ hồ như hạnh phúc từng mong..."
Xa xôi sao... Thời thơ ấu sau lưng!
                                2.
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
cuộc đời không phải thế!
Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
Bể mặn mòi , sôi sục biết bao nhiêu
Khi em đến bên anh, trước biển cả dâng triều.
Ta thu hết xa khơi vào trong lồng ngực trẻ
Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời.
Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt đến
Dấu đen rầm khi đáy bóng đêm trôi...
Và hạnh phúc vỡ ra như một nốt đàn căng.
Nốt cao quá trong đời xao động quá!
Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn.
Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất
Anh qua cả màu không gian ngây ngất
Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao...
Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao!
                     3.
Bây giờ, anh biết nói gì hơn?
Có thể, ngày mai thôi... Có thể...
" Hoa tóc tiên ơi! Sớm mai và tuổi trẻ"
Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm...
Pautôpxky là dĩ vãng trong em
Thành dĩ vãng hai ta. Bây giờ anh ngoảnh lại:
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
anh hiểu rằng không phải...
Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời!
Ðưa em đi... Tất cả thế xong rồi
Ta đã lớn. Và Pautôpxky đã chết!
... Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện " Tuyết "
Dầu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!
                                               Bằng Việt
LỜI BÌNH:
" Nghĩ lại về Pautốpxky" là bài thơ tình hay nhất của đời thơ Bằng Việt. Anh đã làm bài thơ này vào thưở còn rất trẻ, có lẽ khi đó chỉ mới bước qua ngưỡng cửa đời sinh viên, ngoài tuổi đôi mươi. Mà cũng chỉ có tâm hồn một thanh niên trí thức đa cảm, lại sống vào giai đoạn xã hội trong những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ XX ấy - Bằng Việt mới có thể có được một hồn thơ say sưa, tình thơ trong trẻo và bay đến như thế! Mặc dù, hình như thơ anh viết về một mối tình thơ dại đã qua đi.
Bài được chia làm ba khúc. Tôi rất thích một câu thơ dài mà tác giả điệp lại đến hai lần:
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu, cuộc đời không phải thế!
Nghĩa là, cuộc đời đang còn ở trước mắt. Cuộc sống, những thử thách buồn vui, hạnh phúc và đau đớn, tất cả vẫn đang ở phía trước, chứ không phải là cái ta được, mất... đã qua rồi. Bài thơ cứ luôn luôn mở ra như thế. Tất cả vẫn đang đón đợi, đừng vì thế mà buồn. Pautôpxky với bao thần tượng về tình yêu lãng mạn, mộng mơ, ngọt ngào trong những truyện " Lẵng quả thông ", " Chuyến xe đêm ", hay truyện " Tuyết "... Những tình yêu như truyền thuyết ấy đã nhập vào trong tình cảm, cuộc sống của nhà thơ và cả của em. Nhưng đó đã là dĩ vãng, dù nó vẫn còn ngân nga, vang vọng mãi trong tâm hồn anh.
Khúc (1) - Tác giả để hồn thơ bay dưới những bóng thông già mà nhớ về thuở đã qua:
Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
... Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa
Tình yêu như những nốt nhạc rung đầu đời của nhà thơ với một thiếu nữ nào đó. Nó vừa thực lại vừa mơ hồ như ảo ảnh, khi qua đi để lại thoang thoảng mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm. Nó lóng lánh như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu. Chập chờn như ánh nến hạnh phúc soi vào đôi lứa. Ðó chính là " suối nhạc nhiệm màu " cứ thầm thì, thầm thì mê đắm mãi.
Nếu ta chưa đọc Pautôpxky - Thì ta chưa hiểu về chuyện con mèo "Ackhip", tiếng chuông rung và những sự thần kỳ trong truyện "Tuyết"! Nhưng đâu có cần cứ phải đọc Pautôpxky mới hiểu được thơ cơ chứ? Chỉ cần nghe lời và những âm hưởng của tình thơ, ta cũng có thể mơ hồ hiểu: Trong sâu thẳm, cái mối tình thuở ban đầu mà nhà thơ gợi ra ấy đã đẹp, trong sáng, say mê, mơ mộng đến chừng nào. Thế cũng đủ cho ta phải yêu rồi:
Có thể ngày mai ta cũng đi qua
Một cánh cửa nao lòng trong truyện "Tuyết"?
Có tiếng chuông rung và con mèo "Ackhip"
... Xa xôi sao... Thời thơ ấu sau lưng!
Sang khúc (2):
Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao
Câu thơ kết khúc ấy, phải chăng nó đã gói trọn bao niềm tâm tư, tình yêu và khát vọng, hạnh phúc cùng những đớn đau của nhà thơ? Nhưng cũng phải chăng, như nhà thơ muốn nói: Tình yêu của anh và em đã không vượt được qua không gian, thời gian? Bởi vì:
Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
Biển cả cuộc đời thì đầy bão tố phũ phàng. Mà tình yêu ấy dẫu khát khao, trong suốt như giọt nước ban mai rơi xuống tuổi thanh xuân, thì còn quá yếu đuối, mỏng manh. Biển mặn mòi sôi sục bao nhiêu, nhưng khi em đến bên anh: lúc sóng không yên, gió không lặng, tựa như đang cả triều dâng. Nhưng chính tuổi trẻ - Phải! Tuổi trẻ đã vượt lên trên cả sự tan vỡ và thử thách đó. Chỉ có tuổi trẻ mới:
Thu hết xa khơi vào trong lồng ngực trẻ
Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời
Tôi thích đôi câu thơ mà tác giả đã ví:
Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt đến
Dấu đen rầm khi đáy bóng đêm trôi...
Cuộc sống là như thế! Khi khát vọng ước mơ đến trong ta, nó như cả một bầu trời cao xanh vời vợi và ánh hồng chan chứa nơi nơi. Lòng ta mở rộng đón chờ với bao niềm vui khó tả. Nhưng cái gì mà chẳng có mặt trái của nó: Ước vọng càng cao thì đầy dữ dằn, bão tố, muốn vùi dập ta vào trong bóng đêm trôi choán ngợp cả bầu trời. Hai câu thơ đã vạch lên trên đường chân trời của cuộc đời rằng: Đấy là thử thách mà tuổi trẻ cần phải vượt qua! Không có con đường hạnh phúc nào đi đến toàn bằng phẳng, thênh thang. Trong cả tình yêu lứa đôi của anh và em, hạnh phúc đòi hỏi phải trả giá. Sự tan vỡ ban đầu ấy, phải chăng cũng là lẽ tất nhiên? Tình yêu và cuộc sống vẫn đang đón đợi ta ở phía xa kia! Nhà thơ lại ru mình và ru em:
Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất
Anh qua cả màu không gian ngây ngất
Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao
Ðúng như vậy. Tình yêu như một vùng nắng mới với cả màu không gian ngây ngất, trong những chiều của ngàn lá cây rung, mà những tiếng nói thầm của người yêu vẫn lao xao trong đó. Ðẹp - Đẹp quá, nhà thơ ạ! Tôi đã nghe thấy tiếng nói thầm ấy, rung động và bay xa lắm. Nó vượt lên trên cả bão tố dữ dằn và sóng gió mịt mùng kia. Tiếng nói thầm đáng yêu, tưởng chừng có thể làm nứt vỡ trái tim ta!
Ðây là khúc thơ chính của bài. Giọng thơ say sưa. Lời thơ đằm thắm. Thơ được dùng nhiều ngôn ngữ hình tượng, màu sắc sinh động. Trong thơ có nhạc, lắng càng sâu càng thấy hay. Ðôi khi anh sử dụng một cách nói rất thông thường, bên cạnh những câu thơ có ngôn ngữ thanh cao, để thơ khỏi rơi vào sự mượt mà, bóng bẩy. Thí dụ như:
Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn.
Những câu thơ mộc mạc như thế, âu... cũng là những sự chấm phá cần thiết, tạo nên một sự gồ ghề, thô ráp nhất định. Như những nét trạm đơn giản, mà tôn tạo hình ảnh của các câu thơ khác cao lên. Khúc cuối:
Ðưa em đi... Tất cả thế xong rồi
Ta đã lớn. Và Pautôpxky đã chết!
Nhà thơ đã kết thúc bài thơ một cách dữ dằn như thế đấy! Nhưng câu thơ không phải để nói về Pautôpxky nhà văn Nga quá cố đâu. Mà là tình yêu trong sáng, lãng mạn, mộng mơ thuở đầu đời của anh và em đã không còn. Như tác giả viết:
Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm
Hay là:
Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao!
Đọc thơ anh sau ngót nửa thế kỷ đã trôi qua, tôi vẫn thấy như đang gặp một Bằng Việt cứ nguyên như mơ mộng, nhẹ nhàng và bay bổng của thuở đã xa xưa. Tôi không nói về Bằng Việt của tuyên huấn, làm chính trị... mà là một Bằng Việt của nhà thơ, trong thơ, mới thật đáng yêu sao!
Phải - Hồi đó, thuở ấy... anh đã khóc, khi tiễn mối tình thơ dại với người con gái ban đầu của cuộc đời anh:
Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện "Tuyết"
Dẫu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!
Về thi pháp nghệ thuật: Có thể nói, " Nghĩ lại về Pautôpxky " là một bài thơ đã viết trong mối giao cảm, được hoà nhập bởi hai dòng thơ - Một của dòng thơ lãng mạn thuần tuý viết tràn theo cảm xúc, như thời "thơ mới" Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ... - Một nữa, ảnh hưởng của dòng thơ tượng trưng, cấu trúc đã súc tích hơn.
Ta hãy nghe tác giả cứ để cảm xúc mình chảy tràn ra, rơi lệ xuống cả trang thơ:
Pautôpxky là dĩ vãng trong em
Thành dĩ vãng hai ta. Bây giờ anh ngoảnh lại
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu, anh hiểu rằng không phải...
Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời!
Tôi nghĩ, đã đến lúc có thể gấp lại bài bình ở đây. Bởi, thơ anh viết như thế cũng đã quá đủ rồi, còn cần gì nữa để tôi phải nói thêm.
 
PHẠM NGỌC THÁI
                   Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:
         
http://tranmygiong.blogtiengviet.net/2014/09/27/b_ng_vi_t_v_i_bai_th_tinh_hay_ph_m_ng_c_
http://www.bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3832
http://vandanvn.net/vi/news/Cam-nhan-tac-pham/Bang-Viet-voi-bai-tho-tinh-hay-Bai-viet-Pham-Ngoc-Thai-4599/
http://vannghequangtri.blogspot.com/2014/09/bang-viet-voi-bai-tho-tinh-hay-pham.html
http://vannghesongcuulong.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13572
http://www.datvietjsc.net.vn/index.php?act=newsdetail&pid=8&cid=52&id=1810
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=14922
http://datdung.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=5081#axzz1h2jOnDrf
http://phamngochien.com/view/pham-ngoc-thai-binh-bai-tho-quotnghi-lai-ve-pautopxkyquot-cua-bang-viet/1429
 http://tongocthach.vn/ve-tho-van-ban-be1/bang-viet-voi-bai-tho-tinh-hay-808.html
http://sacmauthoigian.wordpress.com/2012/01/18/nghi-l%E1%BA%A1i-v%E1%BB%81-pauxt%E1%BB%91pky-th%C6%A1-b%E1%BA%B1ng-vi%E1%BB%87t-l%E1%BB%9Di-binh-ph%E1%BA%A1m-ng%E1%BB%8Dc-thai/
http://4phuong.net/ebook/48832802/nghi-lai-ve-pauxtopky-mot-bai-tho-dac-sac.html
http://binhtrung.org/a26900/nghi-lai-ve-pautopxky
http://blog.zing.vn/jb/dt/tranmygiong/20282769?from=my
http://nhatkydinhquan.blogspot.com/2014/09/nghi-lai-ve-pautopxky.html
http://huongnguyenhoang.blogspot.com/2014/09/nghi-lai-ve-paustovsky-tho-bang-viet-l.html#more
http://vannghetroinam.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=12609
http://nghiathuc.wordpres...-voi-bai-tho-tinh-hay/
http://www.quansuvn.info/...0_6-1_17-15_14-2_15-2/
http://www.danchimviet.info/archives/48968
http://to-quoc01.blogspot...tho-tinh-hay-pham.html
http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_9.php
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.03.2015 10:49:55 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 28.04.2015 12:37:16
 
                      ẤN TƯỢNG PHẠM NGỌC THÁI VÀ THƠ
                                                                                    Nguyễn Khôi



     Qua tác phảm rồi gặp con người cụ thể - Nguyễn Khôi có cảm tưởng về tính cách như thấy ở Thái một Vladimir Maiakovsky Việt Nam: hiên ngang, luôn đứng trên tầm thời đại, dám tự khẳng định mình bằng những bài thơ, dòng thơ trữ tình (ở Maia là “phản trữ tình”) đều vì tình yêu lớn lao. Ước vọng sâu sắc nhất của anh.

     Phạm Ngọc Thái lớn lên ở cái xã hội mà ở tầng lớp trên thi đàn là các “nhà thơ Quốc Doanh” ngự trị. Họ Hàn lâm đấy (nghĩa là có học thức và được đào tạo cẩn thận) để mặc đồng phục, cùng đeo một thứ huy hiệu, cùng một lối viết, một giọng điệu ngợi ca “tô hồng” của “một nền văn học minh họa” - Nói theo kiểu nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu. Còn lớp dưới thi đàn là các Hợp Tác Xã (câu lạc bộ) sản xuất thơ “nhiều, nhanh, rác, rẻ”… quanh năm ca ngợi mùa xuân vĩnh cửu của nhân loại ?!  
     Riêng Phạm Ngọc Thái “Nhà thơ của tự do”, không ăn lương và lệ thuộc vào bất cứ một tổ chức thi nhân nào. Bằng một thi tài bẩm sinh (trời cho) cùng với sự khổ luyện (lao tâm khổ tứ) để "Ta khoả lòng ta đằm sương gió" - Để rồi:
                          Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu…
     Thơ tình Phạm Ngọc Thái viết với một dung lượng lớn, tới vài trăm bài nhưng đọc không nhàm chán, vì anh luôn tạo được ý mới, tứ lạ, ngôn ngữ thơ tinh luyện, hình tượng thơ ĐẸP và sống động. Cái “thơ” đan trong cái “mộng” - cái “ảo” diệu huyền để hiện lên cái thực thấm vầo tâm can người đọc. Từ trữ tình kiểu Xuân Diệu, thơ Phạm Ngọc Thái đã vượt lên cái tượng trưng, siêu thực của Bích Khê: 
                         Làn da trắng vòm ngực nàng hưng phấn
                         Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân...
                                                    (cây thầm tiếc bóng)
                         Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai!
                         Người đàn bà ai mà định nghĩa?
                         …..
                         Khúc thơ tình anh lại viết về em
                         Người đàn bà ngậm cả vầng trăng…
                                                   (người đàn bà trắng)




     Vừa gần đây, nữ thi sĩ trẻ Nồng Nàn Phố (Phạm Thiện Ý – sinh 1988) viết rất bạo: Anh ng thêm đi, em phi dy ly chng/ - Còn anh với Hồ Xuân Hương tái lai - 2012 và tập sách Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại - 2014,  đã viết rất thời sự, rất trẻ, rát đời thường:
                         Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
                         Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?
                        …..
                         Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
                         Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
                                      (dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ)
     Hoặc là:
                        Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                        Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
                                               (khóc bên Hồ Núi Cốc)
                        Anh lại có một cô áo trắng
                        Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời
                        Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm
                        Bầu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi.
                                              (cô áo trắng)



                                  Nhà thơ Phạm Ngọc Thái

     Thơ trữ tình Phạm Ngọc Thái HAY vì anh luôn bám vào cuộc sống đầy máu thịt đang sinh sôi:
                        Trong sân gạch sư già quét lá
                        Bước người đi thầm lặng cõi hư hao…
                        Chiều hồ Tây - Chiều Tây Hồ lộng gió
                        Ta và người cõi mộng khác chi nhau
                        Người quên hết! Còn ta yêu tất cả
                        Trong tiếng lá bay chầm chậm bóng ta theo.
                                             (một góc hồ Tây)
     Chao ôi, “yêu” làm nên động lực cho hồn thơ cất cánh, cho ngọn thần bút ( hay bấm chuột @ ) khởi sắc:
                        Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ
                        Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay
                                           (trước núi Mỹ Nhân)
     “thơ yêu” Phạm Ngọc Thái là tiếng lòng, tiếng con tim luôn ngân vang một giai điệu như “mưa rơi” vào miền ký ức sâu thẳm:
                        Nghe không em lại mưa lên phố
                        Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi
                                          (Em ơi! Thành phố lại mưa)
                        Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy
                        Dẫu chỉ thấy còn bong bóng vỡ đầy môi
                                                     (trong mưa)
     Chao ôi, thơ là đời, là tâm huyết máu thịt của thi sĩ. Không có tình yêu lớn lao -  chân thực thì không thể có những vần thơ tuyệt tác là thế.
-   Một tài năng lớn… với những giá trị văn học tuyệt vời!
     Mong rằng “thơ Phạm Ngọc Thái” sẽ được người đời (trong và ngoài nước) thưởng thức, đánh giá một cách trân trọng, đúng mực…
     Gì thì gì, với ấn tượng của Nguyễn Khôi thì: đọc thơ tình Phạm Ngọc Thái làm cháy bỏng con tim, cho ta trẻ lại của một thời “yêu” và “mộng”.
 
Phố Vọng - Hè 2015
Nguyễn Khôi
Nhà văn Hà Nội
 
                     Đã đăng trên những trang mạng trong nước và thế giới:
http://to-quoc01.blogspot...hai-va-tho-nguyen.html
http://www.saimonthidan.c...?c=article&p=10555
http://www.bichkhe.org/ho...cat_id=147&id=4166
http://lengoctrac.com/?65...amp;657=7030&654=4
  https://badamxoevietnam2....pham-ngoc-thai-va-tho/
  http://tranmygiong.blogti...thai_va_th_nguy_n_khoi
  http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_21.php
https://nghiathuc.wordpre...ai-va-tho-nguyen-khoi/
http://www.hung-viet.org/...pham-ngoc-thai-va-tho/
http://lexuanquang.org/post/9161/



<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2015 11:36:52 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 28.05.2015 11:44:38
 
             Chế Lan Viên với ba bài thơ phê phán sâu sắc
                                                                  PHẠM NGỌC THÁI
 


   Trong lời giới thiệu tập sách " Chế Lan Viên - Thơ chọn lọc", Nxb Văn học 2014 - Dương Phong, người tuyển chọn... khi nói về ba bài thơ này đã viết:
 
-    Ba thi phẩm nổi tiếng công bố muộn mằn của Chế Lan Viên - in trong Di cảo Chế Lan Viên - chính là:  "Ai ? Tôi!"  -  "Bánh vẽ"  -  "Trừ đi"... là những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời.
     Thực ra, nếu nói  "Đó là... những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời", là Dương Phong đã lựa lời nói cho nhỏ nhẹ đi, tránh khâu kiểm duyệt, sợ không cho xuất bản. Theo tôi, xác đáng hơn thì phải nói: Ba thi phẩm đó đã... lật trái lại mặt sau của xã hội và chính trị - Người đã tự phê phán. Thậm chí tự lên án mình! Cả ba bài thơ đều nằm trong Di cảo. Khi còn sống Người đã không cho xuất bản, không dám công bố. Tôi xin phân tích từng bài một.
 

    Nhà thơ Chế Lan Viên

     Trong bài "Ai? Tôi!" - Bài thơ viết vào những ngày sau khi nước nhà đã hoàn toàn giải phóng. Có lẽ một thực trạng xã hội đã tác động vào tâm can, tư tưởng, dầy vò làm ông đau đớn. Ông chạnh nghĩ về những hy sinh của những người lính trong cuộc chiến tranh xưa. Những bi thương mà dân tộc đã phải trả giá. Bắt đầu vào thơ... bằng sự phê phán chính mình, ông chỉ ra:
                    Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
                  Chỉ một đêm, còn sống có 30
                      Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                     Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                     Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                  trong mọi cuộc xung phong
    Cái nguyên nhân đó chỉ là sự tự vấn lương tâm. Người tự kết tội mình: Vì những câu thơ cổ võ của Người làm cho những người lính xung phong, nên mới để 2.000 người đi thì 1.700 người bỏ mạng không trở về. Nhưng tại sao Người nói vậy???
    Ta vẫn biết thơ Chế Lan Viên là loại thơ bình luận. Thơ triết lý. Về phương diện nghệ thuật, nó có tính triết học cao. Tính tư tưởng trong thơ rất sâu sắc về ý nghĩa cuộc sống, cũng như sự phê phán xã hội và cuộc đời. Mỗi câu thơ ông đều hàm súc ý nghĩa ở bên trong. Thơ đọc càng sâu càng thấm thía. Về tính nhân văn, ông là một nhà thơ của nhân dân.
    Nhà thơ của nhân dân ấy từng viết những bài thơ nổi tiếng một thời, như: Sao chiến thắng, Người đi tìm hính của nước... Ông đã sáng tác cả một tập "Ánh sáng và phù sa" danh tiếng. Đầy hoài vọng với một tương lai huy hoàng của đất nước về ngày chiến thắng:
                      Xưa phù du mà nay đã phù sa
                     Xưa bay đi mà nay không trôi mất
                    Cho đến được... lúa vàng đất mật...
                     Anh đã mất gì? Đã mất bóng đêm.
      Không tiếc lời ca ngợi lãnh tụ. Ca ngợi Đảng quang vinh:
                    Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
                     "Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
                      Hình của Đảng lồng trong hình của nước
                                    (Người đi tìm hình của nước)
     Hết lời ca ngợi chủ nghĩa. Tin vào ngọn cờ khi theo Đảng quang vinh:
                     Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
                     Khi tự do về chói ở trên đầu
                      ......
                     Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
                     Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
                      Sao vàng bay theo liềm búa công nông
   Thế mà giờ đây, những năm tháng sau chiến tranh, đất nước đã hoà bình. Một thực tế xã hội với bao nhiêu mảng đen về sự bất công, thiếu nhân quyền. Đầy rẫy những quan lại tham nhũng đủ kiểu, tiếp tay cho chính quyền địa phương chèn ép, chiếm đoạt cả đất đai của dân lành, đẩy họ vào sự cùng quẫn. Chính quyền như thế đâu có phải còn của dân? Cái băng rôn Nhà nước do dân, vì dân... âu cũng chỉ là khẩu hiệu? Tâm hồn ông bị đổ vỡ. Người đổ vỡ về Đảng chăng?... Người thất vọng về chủ nghĩa chăng?...  Người không nói. Nhưng rõ ràng đọc: "Ai?Tôi!", lật mặt sau của những câu thơ ta thấy: Cái thần tượng về một Đảng mác-xít trong ông đã bị sụp đổ. Ông không còn niềm tin thật sự vào thể chế của ngày hôm nay nữa.
       Nghĩ lại cuộc chiến xưa. Bao sinh mạng những người lính xung phong cho sự tốt đẹp của đất nước, hạnh phúc của dân tộc... lại như thế này sao? - mà chính thơ ông đã góp phần thúc giục họ xung phong. Hàng vạn, hàng vạn người lính chết cho một cuộc chiến... đã trở thành phi lý ư? Ông đau đớn mà thốt lên. Không, phải nói là ông đã thét lên khi viết những câu thơ:
                     Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                     Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                     Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong
      Ở đây ta thấy một Chế Lan Viên quay ngược lại hoàn toàn, không còn phải là tâm hồn như khi Người đã viết "Ánh sáng và phù sa" nữa. Trái tim ông quằn quại. Sau đó Người lý giải về kết quả những câu thơ mà Người đã cổ võ những người lính xung phong đó: 2.000 người đi... thì 1.970 người bỏ mạng, chỉ 30 người sống sót. Để cuối cùng dân tộc được gì?... Tổ quốc được gì?... Thông qua một hiện thực cuộc sống, Người viết:
                      Một trong ba mươi người kia
                                               ở mặt trận về sau mười năm
                     Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
                     Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
                     Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
                      Ai chịu trách nhiệm vậy?
                     Lại chính là tôi!
                     Người lính cần một câu giải đáp về đời
                     Tôi ú ớ
                     Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
                     Mà tôi xấu hổ
                     Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                     Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ                     
                    Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
    Ta đặt câu hỏi: Nếu sự hy sinh kia... cũng vì Tổ quốc, tại sao Người lại phải xấu hổ?... dẫu cho là chính thơ Người cũng đã cổ võ những người lính ấy xung phong chăng nữa. Vấn đề là ở chỗ, bật ra những câu thơ như thế, Trong thẳm sâu trái tim Người đã phải rên rỉ, đớn đau vì tình hình của đất nước hôm nay. Mặc dù ông chỉ giải nghĩa nguyên nhân làm ông xấu hổ, rằng:
                     Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                      Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
    Hay là:
                      Người lính cần một câu giải đáp về đời
                     Tôi ú ớ
    Chỉ có thể giải thích rằng: mặc dù đất nước đã hoà bình nhưng tình hình xã hội lại ngày càng suy. Rền xiết trong ông một nỗi niềm u uẩn: về chế độ còn nhiều sự giả trá, bất công chăng? Thực tế một Nhà nước xã hội chủ nghĩa đâu có được tốt đẹp trong tâm hồn như ông hằng tâm niệm. Ông trăn trở... máu dân tộc đã đổ cho cuộc chiến ấy, chỉ để giành lại một chính thể phi lý này ư? Thế mà 1.970 người lính phải chết trong một đêm Mậu Thân - đấy mới chỉ là một cuộc xung phong. Nếu nói đến mọi cuộc xung phong thì phải hàng vạn, hàng vạn những người lính nữa đã phải chết... cho một cuộc sống với bao sự phi nghĩa như thế này?
     Ta lật lại mặt kia của câu thơ: Nếu như sự xung phong của những người lính, là để giành lại độc lập, tự do cho một đất nước... có một xã hội công bằng, ấm no và hạnh phúc của dân tộc. Thì việc gì Người phải xấu hổ? Như Người từng viết:
                       Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
                      Như cha mẹ ta, như vợ như chồng
                       Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
                      Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...
                                                     (Sao chiến thắng)
       Máu của dân tộc đã đổ. Cái chết của những người lính ngoài chiến trận, cho ngày hôm nay ra sao?
 -  Vì một Đảng cộng sản quang vinh ư?...  Khi trung ương và chính phủ đầy những quan tham nhũng. Một xã hội tràn lan bao lớp quan lại địa phương cấu kết với quan trên chèn ép, ức hiếp dân lành. Chỗ nào cũng bất công. Chỉ chết những kẻ thấp cổ, bé họng - có oan trái mà không tiền, đi kiện cáo cũng chẳng ai thèm quan tâm.
-   Vì một Đảng cộng sản quang vinh ư?... Khi những "đầy tớ của dân" ấy thì giàu nứt đố, đổ vách. Có nguyên Tổng bí thư Đảng làm hai khoá cả chục năm. Đứng đầu của một Đảng cộng sản quang vinh - Thời ông ta còn đương nhiệm... thì Đảng yếu kém, xã hội tạp dịch bung bét, kinh tế quốc dân sa sút. Nếu không tham nhũng mà khi ông ta mãn nhiệm trở về, giàu như một đế vương? Nhà cửa, biệt thự nguy nga như cung vua phủ chúa, sàn lát đá hoa cương. Đạo lý chẳng khác gì những kẻ tha hoá? Cha thì đoạt lấy nhân tình, bồ bịch của con trai. Nhân cách rất rẻ tiền. Con gái với mẹ kế cũng bới móc, kiện cáo nhau vì giành giật tiền bạc của nả. 
-   Một nhà nước, một chính thể chân chính của dân, do dân, vì dân ư? Ngay cuối tháng 3/2015 vừa qua, trong bài viết "Chả lẽ ông Chủ tịch thành phố Hà Nội không có lỗi gì trong vụ chặt cây", đăng trên laokhoa.blogtiengviet.net - chính nhà thơ Trần Đăng Khoa đã lên tiếng cảnh báo những lãnh đạo Đảng và Nhà nước, rằng:
   ... Bởi chúng tôi chỉ là nhân dân. Nhân dân là mác là chông. Là sông là núi nhưng cũng không là gì... Vâng nhân dân là thế đấy. Khi có giặc thì chúng tôi là mác là chông, là sông là biển ngăn giặc, đánh giặc, rồi hy sinh thành hàng vạn, hàng triệu những nấm mồ vô danh ở Điện Biên, ở Thạch Hãn, ở Hoàng Sa, Trường Sa, ở Biển Đông, ở khắp mọi nơi trên đất nước này. Còn khi yên hàn, chúng tôi chẳng là gì cả.
     Liên tưởng những năm qua - Ở ngoài biển đảo thì bọn Tàu khựa cướp biển, cướp đảo ta. Chúng hung hăng bắn giết những người dân đánh cá và chiến sĩ ta... đang phải ngày đêm canh giữ biển trời. Khắp nơi trong nước, nhất là ở các thành phố... nhân dân xuống đường biểu tình lên án giặc Tàu - Thì chính quyền lại đi trấn áp, bắt bớ. Rồi hăm dọa, tống giam cả các bloger yêu nước.
     Ta trở lại với bài thơ của Chế Lan Viên: Trong thẳm sâu tâm linh của Người, điều làm cho Người xấu hổ - Như Người nói, bởi chính thơ Người đã kêu gọi những người lính kia... và họ đã phải chết đi trong những cuộc xung phong ấy?... cho tương lai của đất nước với một thể chế thiếu nhân đạo như hôm nay.

        Tôi xin nói tiếp sang bài thơ "Bánh vẽ".
                          BÁNH VẼ
                     Chưa cần cầm lên nếm,
                                                 anh đã biết là bánh vẽ
                     Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
                     Cầm lên nhấm nháp.
                      Chả là nếu anh từ chối
                     Chúng sẽ bảo anh phá rối
                      Đêm vui
                     Bảo anh không còn có khả năng nhai
                      Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
                      Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
                      Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
                    Như không có gì xảy ra hết
                     Và những người khác thấy anh ngồi,
                      Họ cũng ngồi thôi
                    Nhai ngồm ngoàm...
     Chả cần phải khó nghĩ ta cũng hiểu ngay: Những "bánh vẽ" mà Chế Lan Viên nói ở đây thuộc các chủ trương, chính sách hay đường lối của Nhà nước, của Đảng. Có những thứ bánh vẽ chỉ gây tổn hại lớn nhỏ đối với nền kinh tế hay đời sống dân sinh, làm cho nhân dân đói khổ. Nhưng cũng có loại bánh vẽ thì lại làm... chết người. Có khi giết hàng nghìn, hàng vạn người lương thiện và vô tội.
    Xin lược lại mấy cái bánh vẽ đã gây ra những tội ác kinh hoàng trong lịch sử của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chúng ta. Như cái bánh vẽ:
-   Về Cải cách ruộng đất của Đảng và chính phủ 1946-1957.
-   Sự kiện hay còn gọi là "vụ án nhân văn giai phẩm" 1955-1958.
                   1.  Sơ lược về thảm hoạ của cuộc Cải Cách Ruộng Đất. 
     Cái bánh vẽ của Đảng Lao động VN (tức Đảng Cộng sản VN bây giờ) và Chính phủ nước VN Dân chủ Cộng hòa - Người ta gọi đó là "chiến dịch đấu tố thảm sát tàn bạo". Nồi da xáo thịt kinh hoàng. Đồng bào, đồng loại thảm sát, tận diệt lẫn nhau. Những người cùng huyết thống trong gia đình bị tuyên truyền, cưỡng chế vu cáo ám hại nhau. Con đấu tố cha, vợ vu cáo chồng... là địa chủ cường hào, là phản động, là bóc lột. Giẫm đạp lên luân thường đạo lý. Người ta chưa biết thật chính xác về số người đã bị giết trong CCRĐ. Có nguồn tin thì nói khoảng 120.000 người bị giết, nhưng cũng có thông tin những người bị giết lên đến trên 170.000 người. Vậy chí ít cũng phải trên chục vạn người bị giết ở cuộc CCRĐ ấy. Trong đó, cứ 10 người đem ra kết án rồi bắn chết thì có 7 người bị vu oan.
     Bao nhiêu người cách mạng - hy sinh cả một đời, hy sinh cả gia đình, cống hiến của cải cho kháng chiến... cuối cùng cũng bị đội cải cách của chính phủ qui tội, xử bắn rất tàn ác. Nói về những hành động giết chóc khủng khiếp thời kỳ ấy, thấy nổi trôi trên mạng mấy vần thơ của nhà thơ Tố Hữu - một ông quan cách mạng mà sau này lên tới chót đỉnh, uỷ viên trong Bộ chính trị của Đảng cộng sản, viết tuyên truyền trong thời ký CCRĐ. Thơ rằng:
                      Giết! Giết nữa bàn tay không phút nghỉ,
                     Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
                     Cho Đảng bền lâu cùng rập bước tơ lòng
                      Thờ Mao Chủ tịch, thơ Sít-ta-lin bất diệt!
     Chẳng hiểu có đúng vậy không? Nghe vần thơ, giọng thơ thì rất giống thơ Tố Hữu. Nếu đúng thế thì - Chao ôi!  Một ông quan cấp cao của Đảng cộng sản nhưng thơ khát máu quá!... mà lại là máu cùng đồng loại, giống nòi.
                  2.  Đôi nét về vụ nhân văn giai phẩm.
-   Là phong trào đấu tranh của những văn nghệ sĩ đòi dân chủ, tự do văn hoá và trong sáng tác văn học nghệ thuật.
-   Những văn nghệ sĩ trong Nhân văn giai phẩm tuyên bố: văn học nghệ thuật không để phục vụ cho chính trị, đó là quyền tự do sáng tác của họ. Với khẩu hiệu "trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ".
-   Họ phản đối sự chuyên chính của Đảng, đòi xoá bỏ sự đảng trị, độc đoán trên lĩnh vực văn hoá và sáng tác văn học nghệ thuật. Theo họ, chủ nghĩa cộng sản là không nhân văn, chà đạp con người. Họ chống sùng bái cá nhân. Phong trào nhân văn giai phẩm này đã bị Đảng và Nhà nước dùng bạo lực thanh trừng, bắt bớ, tù đầy. Hàng loạt các văn nghệ sĩ phải đi cải tạo, hoặc bị quản thúc, cấm sáng tác... kéo dài hàng chục năm. Trần Dần phẫn uất cứa cổ tự tử mà không chết. Từ một trào lưu đấu tranh đòi dân chủ, tự do trong văn học nghệ thuật - trở thành một vụ án "nhân văn giai phẩm", đẩy thành một vụ án chính trị. Phong trào được khởi xướng 1955 và chính thức bị dập tắt tháng 6/1958. Đến khi được cởi trói cho văn nghệ sĩ thì nhiều người đầu đã bạc, kẻ thì bệnh hoạn ốm đau... nào bại liệt, tâm thần, hoặc chết trước khi được cởi trói. Như nhạc sĩ Văn Cao được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh một năm sau khi mất (1996). Tháng 2/2007 các nhà văn trong nhóm Nhân văn giai phẩm như Phùng quán, Trần Dần, Yến Lan, Lê đạt, Hoàng Cầm thì được tặng giải thưởng Nhà nước... vì đã có công trong sự nghiệp sáng tác văn học của nước nhà.
    Chao ôi, mới thấy kiểu lãnh đạo của chế độ XHCN chúng ta, có khác gì bánh vẽ? Đúng là những thứ trò. Thậm chí những thứ trò và bánh vẽ ấy đầy giả tạo, lừa dân và vô nhân thất đức... "cởi ra rồi lại buộc vào như không".
     Xin quay trở lại với bài thơ "Bánh vẽ" của Chế Lan Viên. Tại sao một nhà thơ lớn của chúng ta cũng như bao văn nghệ sĩ khác, biết là "bánh vẽ" rồi... mà vẫn phải ngồi vào bàn, vẫn phải... ăn??? Như Người đã viết:
                     Chả là... nếu anh từ chối
                    Chúng sẽ bảo anh phá rối
                      .....
                    Và đưa anh ra khỏi bàn tiệc
   Nghĩa là: nếu anh không ăn cái bánh vẽ của chúng, thì chúng sẽ "đánh"anh. Sẽ qui tội và sẽ... triệt anh. Cũng như "vụ án Nhân văn giai phẩm" vậy thôi.
     Ngay như Nguyễn Khải - một nhà văn có danh tiếng và tầm vóc. Đương thời ông đã phải kìm nén, nhẫn nhịn biết bao sự nhiễu nhương của thể chế. Sự vô đạo của những kẻ điều hành xã hội - Ông có dám viết lên cái hiện thực ấy đâu? Đến khi mất, ông mới để lại một cuốn di cảo, tập tùy bút chính trị... gọi là "Đi tìm cái tôi đã mất". Phê phán, phanh phui những cái mất tự do, dân chủ, chưa có nhân quyền của chế độ. Như người ta nói: Nguyễn Khải chết rồi mới dám nói thật.
    Không phải chỉ Chế Lan Viên, Nguyễn Khải... mà cùng bao văn nghệ sĩ khác thời nay - Nếu muốn còn được cầm bút để viết. Nếu muốn còn được sống để hoạt động văn học nghệ thuật, thì phải chấp nhận ăn... "bánh vẽ". Lương tri dẫu bị dằn vặt? Họ vẫn phải - như Chế Lan Viên đã viết:
                     Rốt cuộc anh lại phải ngồi vào bàn
                    Như không có gì xẩy ra hết
    Và:
                    Nhai ngồm ngoàm...
    Nếu anh không chịu ngồi vào bàn nhai cái bánh vẽ ấy? Nếu trái tim nhà văn bức bối mà không kìm nén được nữa, cố viết nó ra - thì sẽ bị... triệt ngay. Thí dụ như cuốn tiểu thuyết "Thời của thánh thần" của nhà văn Hoàng Minh Tường chẳng hạn?
    "Thời của thánh thần", Nxb Hội nhà văn 2008 - Là một cuốn tiểu thuyết, một bức tranh tổng thể của xã hội. Nhà văn phục lại những hiện thực, ... qua những số phận chìm nổi của một gia đình. Những trận đấu tố đầy chất bi hài. Những chiến dịch cưỡng bức nhuộm máu... để tái hiện lại sự đen tối của thời Cải cách ruộng đất. Vụ án Nhân văn giai phẩm... những người trí thức và văn nghệ sĩ bị nhà cầm quyền vùi dập, bắt tù đầy, khủng bố tư tưởng, bị vô hiệu hoá trở thành những cái bóng dặt dẹo. Rồi cuộc đấu tranh với xét lại hiện đại đến vấn đề Hoà hợp dân tộc?...  Các nhà bình luận nhận xét rằng: "Thời của thánh thần" là bi kịch của một gia đình thông qua tấn đại bi kịch của dân tộc. Đọc Thời của thánh thần phải rùng mình vì sự bất ổn của một xã hội, trong cơn bão loạn thời thế. Bạo lực được xây dựng trên những thứ triết lý không tưởng, vừa cuồng tín vừa tàn bạo.
     Sách bị qui là bôi xấu chế độ. Mới phát hành được vài ngày thì bị Nhà nước ra sắc lệnh thu hồi. Nghe nói ngày 28/8/2008, chính nhà văn Hoàng Minh Tường đã phải đi tất cả các cửa hiệu gửi... để thu hồi sách.
   Năm qua, nhà văn Đỗ Hoàng cũng một lần nữa lên tiếng vạch trần những hành động phi nhân nghĩa của ông Trưởng ban tư tưởng văn hoá trung ương một thời - Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Uỷ viên Bộ chính trị của Đảng cộng sản. Khi còn đương chức đương quyền, ỷ thế vào bộ máy quyền lực của Đảng đã bóp nghẹt sự tự do dân chủ các văn nghệ sĩ và thẳng tay trấn áp những ai không chịu... "ăn bánh vẽ" của Đảng. Trong bài "Thơ vô lối Nguyễn Khoa Điềm" đăng trên trang vannghecuocsong.com - Nhà văn Đỗ Hoàng vạch rõ:
     " Nguyễn Khoa Điềm - Ông trùm tư tưởng văn hoá của Đảng cộng sản Việt Nam, đứt gánh giữa chừng... phải về vườn - Thời còn Trưởng ban tư tưởng văn hoá,  Nguyễn Khoa Điềm để lại nhiều tiếng không hay: Ông ta trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng, cấm internet, đốt thành tro bụi những tập sách Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyên kể năm 2000 của Nguyễn Ngọc Tấn, Chúa trời ngủ gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngăn cản nhiều nhà văn tài năng vào Hội nhà văn Việt Nam... Ký duyệt nhiều dự án tiêu hàng triệu đô là tiền ngân sách, thuế dân đóng để phe nhóm hưởng lại quả nhưng hiệu quả không là bao như: Phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công, (phim bỏ kho) 1 triệu đô, phim Dòng sông phẳng lặng (phim bỏ kho)..." v.v.
    Như thế có thể thấy rằng: cái bánh vẽ mà Đảng và Nhà nước XHCN của chúng ta vẫn liên tục vẽ ra suốt từ hồi CCRĐ đến giờ. Các văn nghệ sĩ muốn tồn tại bình yên thì đều phải... ăn. Như cách nói của Chế Lan Viên:
                      Và những người khác thấy anh ngồi,
                     Họ cũng ngồi thôi
                     Nhai ngồm ngoàm...
    Nếu ai không "nhai ngồm ngoàm..." thì Đảng sẽ cho chính quyền đến... "hỏi thăm"? Sự tự do, dân chủ của chế độ ta vẫn chỉ là giả hiệu: như việc đàn áp, đe nẹt, bắt bớ những người biểu tình chống giặc Tàu. Những kẻ quá khích chỉ là số ít. Chủ yếu đó là dân tình và những trí thức yêu nước. Bóp nghẹt nhân quyền sống của con người qua việc trấn áp, giam hãm tù đầy các bloger yêu nước... dám nói lên sự thật.
       Giờ tôi xin nói thêm ít lời về bài "Trừ đi":
                      Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
                     Có phải tôi viết đâu? Một nửa
                     Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
                     Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
                     Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ,
                     Tôi giết cái cánh sắp bay... trước khi tôi viết
                      Tôi giết bão táp ngoài khơi
                                             cho được yên ổn trên bờ
                     Và giết luôn mặt trời trên biển,
                     Giết mưa và giết luôn cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
                      Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
                    Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
                     Và thơ này rơi đến tay anh
                      Anh bảo đấy là tôi?
                     Không phải!
                     Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
                    Đã giết đi bao nhiêu cái
                      Có khi không có tội như mình!
       Đọc mấy câu thơ kết trong bài 'Trừ đi" này, thấy tâm trạng Chế Lan Viên có khác gì Nguyễn Khải và một số văn nghệ sĩ?... chỉ dám viết một nửa sự thật - Còn một nửa thì phải viết theo sự cưỡng chế của... Đảng và chế độ - Người nói:
                     Thơ này rơi đến tay anh
                    Anh bảo đấy là tôi?
                    Không phải!
     Người phủ nhận chăng? Không, để rồi cũng chính Người thừa nhận:
                    Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
    Câu thơ viết thổ lộ như thế - để nói lên những xót xa trong lòng ông, trăn trở và đau đớn. Có thể nói đó là sự quằn quại, dầy vò lương tâm của những người cầm bút, những văn nghệ sĩ sống bằng lương tri. Những con người yêu đất nước và dân tộc - Nay chỉ vì thờ phụng cho một chính thể đã mọt ruỗng mà phải giết đi bao nhiêu cái tốt đẹp. Giết đi cả những tình cảm, lòng nhân ái và tư tưởng trong sáng. Cái tội ấy của nhà thơ, nhà văn... còn lớn hơn cả bao nhiêu thứ mà Người đã qui tội kia? Người - tức Chế Lan Viên đã bảo vậy:
                   Chính tôi đã giết đi bao nhiêu thứ
                    Có khi không có tội như mình!
    Đấy, ông đã viết như thế đấy! Vậy "trừ đi" là trừ đi cái gì? Ông nói, sau này đọc thơ ông thì hãy trừ đi một nửa - Chỉ đúng một nửa thôi, còn lại là giả...
    Có phải cái "giả" mà ông muốn nói ấy... có khi là cả những bài thơ mà ông đã từng ca ngợi chế độ, ca ngợi Đảng? Bởi vì: nếu ông phê phán Đảng, lên án chế độ, thì ông sẽ bị... "đánh", bị triệt... như vụ án Nhân văn giai phẩm. Gia đình, vợ con sẽ khốn khổ, khốn nạn theo ông. Nghĩa là, nếu ông mà nói thật... thì Đảng và Nhà nước cũng lắm tội lắm chứ!?
   Tôi xin dừng lại bài bình luận về ba bài thơ của Người ở đây.
-----------------
                             Hai bài "Bánh vẽ" - "Trừ đi" đã viết đầy đủ như ở trong bài bình.
                            Chỉ xin chép lại toàn bộ bài thơ "Ai? Tôi!" dưới đây, để bạn đọc xem cho mạch lạc:

                                   AI? TÔI!
   
                        
   Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
                      Chỉ một đêm, còn sống có 30
                      Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                      Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                      Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong

                     Một trong ba mươi người kia
                                               ở mặt trận về sau mười năm
                      Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
                    Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
                     Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
                    Ai chịu trách nhiệm vậy?
                     Lại chính là tôi!
                     Người lính cần một câu giải đáp về đời
                      Tôi ú ớ
                     Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
                    Mà tôi xấu hổ
                     Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                     Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
                      Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
           PNT.
Hà Nội, tháng 4/2015   

                Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới:   
     http://to-quoc01.blogspot...tho-phe-phan.html#more
http://www.tiengchimviet....n-vien-voi-ba-bai.html
https://badamxoevietnam2....i-ba-bai-tho-phe-phan/
http://vietpho.com/saigon_bao.php?id=608
http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_3.php
https://nghiathuc.wordpre...-tho-phe-phan-sau-sac/
  http://thotanhinhthuc.org...tl_pnt_chelanvien.html
  ( chỉ đăng 1 bài “Ai?Tôi!” ) link:         http://goldonline.vn/Tran.thu-gian/Tho/Ai-Toi.aspx
  http://thachda.blogtiengv..._bai_th_phe_phan_sau_s
http://nhatkydinhquan.blo...ai-tho-phe-phan_9.html
http://binhtrung.org/a314...i-tho-phe-phan-sau-sac
http://www.chinhluanvn.co...-bai-tho-phe-phan.html
http://www.vanews.org/201...n-vien-voi-ba-bai.html
  http://www.saimonthidan.c...?c=article&p=10461
  http://www.danchimviet.in...e-phan-sau-sac/2015/04
  http://hung-viet.org/blog...-tho-phe-phan-sau-sac/
http://www.banvannghe.com...ac-pham-ngoc-thai.html
http://lexuanquang.org/post/9505/
http://trankytrung.com/read.php?817
http://vandoanviet.blogsp...-bai-tho-phe-phan.html
  http://chuvuongmien.blogs...phe-phan-sau.html#more
http://vuottuonglua.org/2...-tho-phe-phan-sau-sac/
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.08.2015 23:23:36 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 09.07.2015 12:43:07
                           
              Phạm Ngọc Thái với bích phẩm thi ca
                                                             TRƯƠNG VŨ TIẾN
 


                TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN  
         Núi Mỹ Nhân nằm giữa biển Nha Trang gần Hòn Chồng. Truyền kể: Nàng Mỹ Nhân nằm ở đó nhiều năm tháng, chung thuỷ chờ chồng. Chồng nàng là một tướng cướp trẻ , dẫn theo một đạo quân cướp bể. Thuyền bè của họ bị bão biển đánh đắm, đi đã không về.
Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều
Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ...
Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.

Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây
Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.

Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời
Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ
Xin lỗi những mảng đời ta đang có
Đôi lúc thèm được bám rêu xanh.

Gió hút Hòn Chồng, bể sóng mênh mông
Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân?

Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non
Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại
Cây-thánh-giá-cuộc-đời anh đặt dưới chân em!

Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
Anh nguyện với nàng cả đời vui thú
Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi!

Cô gái bán hàng trong quán gió chơi vơi
Cứ nhìn khách đôi mắt tròn đen láy
Đã kể tôi nghe chuyện về nàng Mỹ Nhân thuở ấy!
Nghe trong chiều gió cuốn bụi đường bay...
                                Phạm Ngọc Thái


 
      Lời bình:  Đứng trên Hòn Chồng vào buổi sớm mai, khi mặt trời lan toả những ánh nắng vàng rực rỡ. Nhìn ra một dải núi nằm giữa biển Nha Trang người ta thấy nổi lên đôi gò núi, trông giống như đôi gò vú của một nàng thiếu nữ. Nàng đang ngả mình phơi nắng. Triền núi xanh thoai thoải làm nên thân thể nàng. Khe núi xanh chạy dài xuống mặt sóng như mái tóc nàng xoã ra biển. Người Sài Gòn lên chiêm ngưỡng cảnh đẹp, gọi là Núi Mỹ Nhân! Nàng Mỹ Nhân đã nằm ở đó chung thuỷ chờ chồng. Chồng nàng là một tướng cướp trẻ của đạo quân cướp bể. Trong một chuyến đi xa, thuyền bè của họ đã bị bão biển đánh đắm. Xác dạt vào bờ hoá thành bãi sỏi đá, hiện vẫn còn dấu tích tại đó:
      Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều
      Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
      Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ...
      Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay. 

      Cái bóng nàng Mỹ Nhân vẫn nằm ở đó để làm một tượng thần trong trắng, giữa chốn đời thường xô bồ mà tạc vào năm tháng: 
      Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
      Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời 

      Những ngày sau chiến tranh nhà thơ đã lên đây. Anh còn là một người lính trong những năm chiến trận đầy máu lửa. Bài thơ đã được anh nhớ lại để viết vào gần 20 năm sau đó. Đứng trước tượng thần Mỹ Nhân trong trắng kia, anh chính là sự minh chứng của lịch sử. Những thương tích chiến tranh, dù bao bom đạn đã bắn vào thân thể anh cũng chỉ là nỗi đau thể xác, nhưng nỗi đau nơi nhân tình thế thái này đã bắn vào cả trái tim, tâm hồn anh còn đau đớn nặng nề hơn. Đó mới chính là vết đạn ngàn thu bao giờ lành lại được? Cho nên dừng chân nghỉ lại trước bờ biển đầy sóng gió mênh mang, ngước nhìn nàng Mỹ Nhân anh mới thốt lên rằng: 
      Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
      Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
      Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân? 

      Anh muốn ngả vào lòng nàng, trong vòng tay êm ái của tình yêu nàng. Phải! Chỉ có nàng, chỉ có tình yêu của người đàn bà mới xoa bớt được vết thương sâu nhói tận trái tim anh: 
      Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời
      Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ.

      Nhưng trong cuộc đời thực này, tình yêu của nàng Mỹ Nhân âu lại cũng chỉ là mộng ảo? Dẫu vậy, anh vẫn muốn ngủ trong tình yêu ấy để quên đi chốn nhân tình thế thái, quên hết đi cái cõi đời mệt mỏi, hỗn loạn và đầy rẫy những lo âu: 
      Xin lỗi những mảng đời ta đang có
      Đôi lúc thèm được bám rêu xanh... 

     Tôi xin đi sâu phân tích vào đoạn thơ thứ năm của bài:
      Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non
      Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
      Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại... 

      Hình ảnh của đỉnh núi Mỹ Nhân nằm giữa biển khơi xanh, chờ người chồng đi xa mãi mà không trở về? Tình của nàng chỉ có vầng nguyệt tháng năm soi tỏ. Dù sông cạn đá mòn nàng vẫn thuỷ chung. Ôi, sự hoang dại tạo hoá chẳng phải là đỉnh cao hùng vĩ muôn đời, trong thế giới hỗn mang mà chúng ta đang sống hay sao? Đó cũng là chính kiến của nhà thơ trứơc thần tượng vĩnh hằng! Sự thần tượng tình yêu với người đàn bà đã được tác giả dồn nén vào trong câu thơ cuối đoạn: 
      Cây-thánh-giá-cuộc-đời anh đặt dưới chân em! 
      Người Nhật thì đặt thanh gươm trên đầu người đàn bà. Người Pháp lại đặt thanh gươm dưới chân người đàn bà. Cho nên, nhà thơ mới phát biểu quan niệm, chính kiến của mình về sự tồn tại trong thế giới này: Cây-thánh-giá-cuộc-đời anh đặt dưới chân em!/- Đến đây tình thơ đã được đẩy cao lên ý nghĩa thời đại, hình ảnh thơ bốc lửa và cháy sáng. Cùng với đoạn thơ thứ sáu, làm thành hai đoạn thơ trung tâm cốt lõi nhất của bài. Tôi phân tích tiếp về đoạn thơ thứ sáu ấy: 
      Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
      Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi! 

      Đàn bà, đúng là cuộc sống không thể thiếu được họ. Thiếu họ, cuộc đời ta sẽ trở nên hoang tàn, vô nghĩa. Nhưng chính đàn bà cũng đem đến cho ta bao mệt mỏi. Có nhiều khi ta chỉ muốn vào quách trong chùa để đi tu, để sống yên. Có họ và không có họ đều dở cả. Họ là thiên đường trong cuộc đời ta, nhưng cũng là âm phủ. Họ vừa là tiên nữ, lại vừa là quỉ dạ xoa. Chả trách, thi sĩ Tản Đà đã từng một thời tìm đường lên núi định tu tiên, định dứt bỏ chốn hồng trần, nhưng rồi ông vẫn lại phải quay về với cõi đời thường để sống tiếp cuộc đời với bao nỗi đoạ đầy. Vì lẽ đó, đứng trước đỉnh núi Mỹ Nhân thanh cao, nhà thơ mới thốt lên: 
      Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
      Anh nguyện với nàng cả đời vui thú 

      Tình chan chứa, hình ảnh sinh động làm cho bài thơ sâu sắc nghĩa đời, gắn liền vào cuộc sống. Trước Núi Mỹ Nhân thật sự là một bích phẩm, tình thơ cũng rất viên mãn.

Trương Vũ Tiến
* Trích trong Tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại" tr. 298-302
 
          Dã đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới:
http://www.nhuygialai.com...-bich-pham-thi-ca.html
  https://nghiathuc.wordpre...thi-ca-truong-vu-tien/
http://datdung.com/module...id=14688#axzz3e8xgRCsk
http://vannghequangtri.bl...ng-vu-tien-oc-tho.html
http://tapchisongba.com/t...am-ngoc-thai-1178.html
http://www.vandanviet.com...-bich-pham-thi-ca.html
http://vannghesontay.com/...bich-pham-thi-ca-1321/
http://huongnguyenhoang.b...am-ngoc-thai.html#more
  http://tranmygiong.blogti..._m_t_bich_ph_m_thi_ca_
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
  http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4267  
http://hung-viet.org/blog...-mot-bich-pham-thi-ca/
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.07.2015 12:33:33 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 14.08.2015 12:44:42
                   
 
            PHẠM NGỌC THÁI THÁCH ĐẤU
        CẢ HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
                           Bài viết đây xem như một món quà
          - Phạm Ngọc Thái "Nhà thơ của tự do" gửi biếu Đại hội IX - HNVVN
 


Về chân dung văn học nói chung và... tầm vóc chân dung nhà thơ của nền văn hiến Thăng Long, nói riêng.
     Cuộc thách đấu của Phạm Ngọc Thái lấy ý nghĩa và giá trị đối với cả nền thi ca của nước nhà... trường cửu tới mai sau.
         Nội dung thách đấu gồm hai phần:
1.   Phạm Ngọc Thái thách 50 nhà thơ đương đại của HNVVN 
2. Thách phản biện tập sách "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại",
Nxb Văn hoá Thông tin 2014

          Trước khi nói cụ thể về hai mục thách đấu trên - Xin bàn đến:
MỘT NGUYÊN TẮC CƠ BẨN TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ HAY
     Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thi ca, phải thông qua việc đánh giá số bài thơ hay, khá hay, hoặc sâu sắc có được trong tác phẩm thi ca đó. Nhưng muốn đánh giá được thế nào mới là một bài "thơ hay" thực sự của thi đàn trong nền văn học nước nhà? - Nguyên tắc trước hết phải nhận định bài thơ đó có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, sống lâu dài với nghìn năm văn hiến Thăng Long hay không? Nếu bài thơ hoặc tác phẩm thi ca mà không có khả năng sống trường cửu với đời, chỉ để làm văn nghệ cổ động phong trào nhất thời, hoặc phục vụ mục đích chính trị - Thì đó là loại thơ rồi sẽ ra... "rác".
     Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có khả năng tồn tại hay không? Bởi vì, thơ đã không thể tồn tại, dù có vì ý nghĩa gì?... trước sau cũng vứt đi. Đã là thơ vứt đi, thử hỏi lấy cớ gì để xác định chân dung nhà thơ đó trong nền văn hiến Thăng Long? cho nên một bài thơ, một tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng sống lâu dài với tháng năm, thì không thể coi thi phẩm ấy có một giá trị đích thực được. Tức là không thể đánh giá hay xếp hạng chân dung thi nhân đó, khi thơ của anh ta không có khả năng tồn tại.



                                 MINH HOẠ ĐÔI NÉT VỀ HÀN MẶC TỬ:
      Về thi pháp để tạo nên những bài thơ hay của Hàn Mặc Tử không giống như Xuân Diệu, Huy Cận và các nhà thơ khác trong phong trào "thơ mới" thời tiền chiến? Hầu hết đều theo khuynh hướng thơ lãng mạn thuần túy. Với Hàn Mặc Tử, nếu kể các bài thơ hay của ông như: Mùa xuân chín, Bn lnĐây thôn V D... là bài thơ điển hình, thi nhân đã sử dụng hài hoà thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp. Theo thuyết "tương ứng cảm quan" do Charles Baudelaire (1821-1867), nhà thơ bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu lúc đó chủ xướng. Nghĩa là: những hình ảnh, biểu tượng để tượng trưng đều dựa vào cảm thụ của các giác quan, hay từ trong tâm linh - gọi là cảm quan. Cho nên thỉnh thoảng vẫn xen những ngôn ngữ mơ hồ và... ảo. Như Chế Lan Viên đã viết:
                                    Anh phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia đấy
                                                    Bờ bên kia hư ảo - bờ thơ
                                                                  (trích Di cảo)
     Tuy nhiên, trong thơ ca không phải bài thơ hay nào ngày một, ngày hai cũng đánh giá ngay được. Như bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử , thuộc trong ít bài thơ hay nhất thế kỷ XX, thế mà phải gần năm mươi năm sau kể từ khi nó ra đời, mới được thi đàn ngợi ca để trở thành bài thơ nổi tiếng. Thậm chí cả trong Thi Nhân Việt Nam của nhà nghiên cứu bình luận thi ca danh giá Hoài Thanh, khi trích đăng một số bài thơ tiêu biểu của Hàn Mặc Tử, ông lại chưa phát hiện ra được... nên để sót không đăng bài thơ tình hay nhất đó của thi nhân.
     Theo tôi, Hàn Mặc Tử là nhà thơ lớn nhất thời tiền chiến với ba bài thơ hay nổi tiếng như đã nói trên. Nhưng với tuyển thơ trên trăm bài thi nhân đã để lại cho nền văn học nước nhà, nhất là những tập "Mt đng - Máu cung và hn điên" - Thiên tài Hàn Mặc Tử thăng hoa để sáng tác ra những vần thơ, trang thơ kiệt xuất. Hoài Thanh từng có nhận định trong Thi Nhân Việt Nam, rằng:
    " Hàn Mc T đi trong trăng, há ming cho máu tung ra làm bin c, cho hn văng ra và rú lên nhng tiếng ghê ngưi... Mt tác phm như thế, ta không có th nói hay hay d; nó đã ra ngoài vòng nhân gian; nhân gian không có quyn phê phán. Ta ch biết trong văn thơ c kim không có gì kinh d hơn ".
     Lại nói về giai đoạn phong trào "thơ mới" thời tiền chiến - Đã được văn đàn nhận định như là thời kỳ phục hưng của thi ca Việt. Xuất hiện hàng loạt các nhà thơ lớn: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính... cùng nhiều bậc thi nhân xuất sắc khác như Bích Khê, Yến Lan, Vũ Hoàng Chương, Quách Tấn, Nguyễn Nhược Pháp v.v... Những thi nhân ấy đã để lại cho nền văn hiến Thăng Long cả một kho tàng thi ca viết vào giai đoạn trước cách mạng, muôn màu và đầy hương sắc.
                                LỜI VỀ XUÂN DIỆU:
      Tuyển tập thơ Xuân Diệu cũng tới vài ba trăm bài, gồm hai mảng thơ: Mảng thơ tình trước cách mạng, như tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió, khoảng trên dưới 70 bài. Tất cả còn lại là mảng thơ thi nhân đã sáng tác vào thời kỳ sau cách mạng. Nhưng sở dĩ Xuân Diệu được xác định là một thi nhân lớn, chủ yếu lại chính nhờ vào mấy chục bài thơ tình mà ông đã sáng tác từ trước cách mạng ấy. Chỉ với hai tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió... viết trước cách mạng đó thôi, đã có thể nói rằng: Chúng ta đã có một nhà thơ chiếm một vị trí đặc biệt trong thơ tình của Việt Nam. Như Thế Lữ trước kia đã từng nói về ông rằng: Chúng ta đã có mt Xuân Diu!
     Mấy trăm bài thơ Xuân Diệu viết sau cách mạng, có bài thơ "biển" là đứng được với thời gian. Hầu hết thơ viết sau cách mạng của ông thuộc loại thơ của một thời. Có lẽ vào giây phút chót cuộc đời, Xuân Diệu cũng đã nhận ra điều đó, cho nên trong bài "Giã từ" cuối cùng ông đã viết để lại rằng:
                             Nếu để cho tôi được giã từ
                             Kính chào cõi thực để vào hư
                             Trong hơi thở chót dâng trời đất
                             Xuống đến suối vàng vẫn ngất ngư.
     Hai tập Thơ thơ, Gi hương cho gió ấy, là thơ tồn tại !
                               HUY CẬN:
     Cũng như Xuân Diệu - Huy Cận được xác định vào hàng các nhà thơ lớn của nền văn học, chủ yếu nhờ tập "Lửa thiêng" mà thi nhân đã sáng tác trước cách mạng. Ông nổi tiếng với tràng Giang, một bài thơ tuyệt hay!... và bài Ngậm ngùi được xem là mẫu mực của thể thơ lục bát. Mặc dù sau cách mạng Huy Cận cũng đã viết hàng trăm các bài thơ khác... cũng chỉ là thơ của một thời. Bài thơ đáng nói nhất của Huy Cận viết vào giai đoạn sau cách mạng, là bài "các v La hán chùa Tây Phương". Bài thơ khá dài, 15 đoạn 60 câu. Nó nói về kiếp khổ hạnh thời xưa cũ, thông qua gương mặt các vị La Hán ấy. Hình tượng thơ sinh động, sâu sắc và tương đối khúc triết. Giọng thơ nhuần nhụy, dễ nghe. Có sức thuyết phục bởi ý tưởng thơ thấm đẫm được nỗi đau đời. Cái đoạn kiếp luân hồi chốn trần gian. Bài thơ có khả năng đứng được với thời gian. Chỉ tiếc là... tuy thơ nói về nỗi khổ hạnh nơi trần thế, nhưng đến cuối bài, tác giả có phần nắn theo khuynh hướng chính trị. Nó mang tính khẩu hiệu: cái mới tất cả là "hảo hảo", tốt tốt hết? Chủ nghĩa nhân văn của tình thơ vì thế giảm đi phần nào. Sự sung mãn của bài thơ cũng yếu đi. Như hai đoạn thơ kết này chẳng hạn:
                         Các vị La Hán chùa Tây Phương
                         Hôm nay xã hội đã lên đường
                         Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
                         Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.
                         Cha ông yêu mến thời xưa cũ
                         Trần trụi đau thương bỗng hoá gần
                         Những bước mất đi trong thớ gỗ
                         Về đây tươi lại dặm đường xuân.
      Theo tôi, giá như thi nhân không dùng hai đoạn kết ấy, bài thơ Các Vị La Hán Chùa Tây Phương vẫn đủ sự viên mãn mà lại còn hay hơn.
      Tóm lại, Thơ viết trước cách mạng của Huy Cận với tập Lửa thiêng thuộc loại thơ tồn tại !
      Nếu tôi có dẫn giải thêm về Chế Lan Viên và Nguyễn Bính thì cũng tương tự như vậy.
                        CHẾ LAN VIÊN:
      Nói tới Chế Lan Viên người ta nghĩ ngay đến Điêu tàn, thơ viết trước cách mạng. Là tập thơ đầu tay được sáng tác khi thi nhân mới chỉ ở vào tuổi thiếu niên. Hoài Thanh đã từng nhận xét trong Thi Nhân Việt Nam:
     "Quyn Điêu tàn đã đt ngt xut hin ra gia làng thơ Vit Nam như mt nim kinh d... Nó dng lên mt thế gii... cái thế gii l lùng và rùng rn y, ai có ng trong tâm trí mt cu bé mưi lăm mưi sáu tui. Cu bé y đã khiến bao ngưi ngc nhiên. Gia đng bng văn hc Vit Nam na thế k hai mươi, nó đng sng như mt cái tháp Chàm, chc chn và l loi, bí mt".
     Đồng thời - tầm vóc Chế Lan Viên cao lên còn nhờ vào cả một khối Di cảo thơ đồ sộ tới năm sáu trăm bài viết tự do. không theo một yêu cầu nào về mặt chính trị, cũng không để cổ động cho một phong trào văn hoá, văn nghệ nào. Nghĩa là, những bài trong Di cảo đó thi nhân sáng tác theo nhu cầu cảm xúc tự thân. Không ít bài còn ở dạng dang dở trong bản thảo, được xuất bản sau khi thi nhân đã qua đời.
     Như đã nói, thơ Chế Lan Viên là loại thơ triết lý. Những trang Di cảo thơ đó Người hoàn toàn sáng tác tự do, tự do tung phá...  sâu sắc tính nhân văn. Thậm chí kể cả những bài mang tính phản biện về mặt chính trị cũng rất quí. Nhiều bài đặc sắc. Nhờ có khối Di cảo thơ đồ sộ này, tầm vóc chân dung thi nhân lớn của Chế Lan Viên cao lên nhiều.
     Như thế có thể nói: Trong tuyển thơ Chế Lan Viên có hai mảng viết hoàn toàn tự do - Hai mảng tự do đó đã được thăng hoa, phát tiết... tạo nên một tầm vóc thi nhân lớn, sừng sững - Chính là Điêu tàn và Di cảo thơ! Hai loại tác phẩm thi ca ấy sẽ còn sống mãi với non sông và nền văn học nước nhà. Đó là "thơ tồn tại" !
     Tuy nhiên, riêng về Chế Lan Viên - Vì thơ có tính triết lý cao, nên trong mảng thơ sáng tác sau cách mạng, với những áng thi ca thấm đẫm màu sắc triết học, nhất là những bài về chủ đề Tổ quốc - Nhân dân...  vẫn được đời ngưỡng mộ. 
                     NGUYỄN BÍNH:
     Nói đến Nguyễn Bính người ta nhớ nhiều những bài thơ trong tập: Lc sang ngang (1940), Tâm hn tôi (1940), Hương c nhân (1941), i hai bến nưc (1942)... với các bài như: Mưa xuân, Lc sang ngang, Cô hái mơ, cô lái đò, Viếng hn trinh n, Chân quê, Nhng bóng ngưi trên sân ga, v.v...  Và một số bài thơ lẻ, thi nhân đã viết trước cách mạng - Thí dụ bài Mt tri quan tái:
                          Chiều lại buồn rồi, em vẫn xa
                          Lá rừng thu đổ, nắng sông tà
                          Chênh vênh quán rượu mờ sương khói
                          Váng vất thôn sâu quạnh tiếng gà.
                          ........
                          Chiều nay thương nhớ nhất chiều nay
                          Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
                          Tôi uống cả em và uống cả
                          Một trời quan tái, mấy cho say!
     Hay là Đường rừng chiều:
                          ... Chim nào kêu mỏi ngàn cây
                          Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe
                          Đồi sim dan díu nương chè
                          Trắng phau khói núi, xanh lè áo ai...
     Những bài thơ ấy, những trang thơ ấy đời sẽ còn nhớ mãi. Thơ sau cách mạng Nguyễn Bính viết cũng nhiều, nhưng người ta cũng đã quên nhiều.
                          BÍCH KHÊ:
     Tuy chưa phải là nhà thơ lớn nhưng Bích Khê đã thuộc vào bậc tài danh thời tiền chiến. Cùng với tập "Tinh hoa" - "Tinh huyết" của thi nhân được nhiều người biết đến. Hoài Thanh đã từng khen trong Thi Nhân Việt Nam:
   "Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam:
                          Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
                          Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông ".
     Đặc biệt với bài Tranh lõa thể nổi tiếng, Hàn Mặc Tử ca ngợi hết lời: " Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo. Nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu... ".
     Cũng giống Hàn Mặc Tử, thơ Bích Khê đậm màu sắc của dòng thơ tượng trưng Pháp như Baudelaire, Verlaine. Thi ca của ông huyền ảo đến mức mà chính Hoài Thanh đã nói: " Thơ Bích Khê mới đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc ". Người các thời gọi ông là "Thi sĩ của thần linh ".
     Mỗi khi nhắc về thời tiền chiến, các nhà lý luận phê bình văn học vẫn tìm tòi, nghiên cứu thế giới tâm linh cũng như ngôn ngữ nghệ thuật thơ ông.
                 SƠ QUA VỀ CÁC NHÀ THƠ HNVVN ĐƯƠNG ĐẠI
    Tôi từng nói với nhà viết " Chân dung và đối thoại " Trần đăng Khoa rằng: Các nhà thơ đương đại của HNVVN có chân dung thấp nhất trong lịch sử thơ ca !
     Nếu thời tiền chiến được coi là giai đoạn phục hưng của thơ ca Việt Nam, đã ra đời hàng loạt các nhà thơ lớn và nhiều bậc thi nhân tài danh, như đã nói - Thì, chân dung các nhà thơ đương đại của HNVVN ngày nay, có lẽ thuộc vào loại thấp kém nhất so với các thời kỳ của cả nghìn năm văn hiến Thăng Long? Khoảng nửa thế kỷ trở lại đây không có được một nhà thơ lớn nào, đã đành. Cả một Hội nhà văn Việt Nam đương đại có đến mấy trăm nhà thơ, mà nhìn đi nhìn lại vẫn không thấy một chân dung nào khả dĩ, có thể chọn được một tập thơ lưu lại cho đời? Phần lớn thơ của họ, như người ta thường nói là "thơ mậu dịch quốc doanh". Thơ làm phong trào, hay phục vụ chủ trương chính sách, rồi thì... sẽ ra "rác". Thảng cũng có được nhà thơ có một đôi bài kha khá - chứ thơ hay thực sự của thi đàn như các thi nhân mà tôi đã dẫn giải trên, thì... không có. Hầu như chân dung các nhà thơ có tên tuổi của đương đại, kể cả ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh, chủ yếu do được thổi lên, sơn son thếp vàng.
    Phần này tôi sẽ dẫn giải chi tiết sau - Giờ xin trở lại với hai nội dung thách đấu đã nói trên.
I-  PHẠM NGỌC THÁI THÁCH  50 NHÀ THƠ ĐƯƠNG ĐẠI CỦA HNVVN
     Tùy ý do Hữu Thỉnh Chủ tịch Hôị nhà văn tuyển lựa. Mỗi người chọn lấy một bài thơ hay nhất của mình.
     Thí dụ - Hữu Thỉnh có thể chọn Thơ viết ở biển, Sang thu, hay Năm anh em trên một chiếc xe tăng...
      ( Mở ngoặc nói thêm về các trường ca của Hữu Thỉnh, như "Đường tới thành phố" hay "Trường ca biển"...  viết còn dông dài, dặm lời nghĩa ít. tầm vóc làng nhàng. Viết để phô trong phong trào thơ ca văn nghệ, chính trị. Các loại trường ca này không thể tồn tại được với thời gian. Không lưu được vào nền văn học nước nhà. Cho nên với ý nghĩa của văn hiến Thăng Long, nó không có giá trị ).
- Vũ Quần Phương có thể chọn bài "Đợi" hay nhất của ông ta - Bằng Việt, Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN đương thời, chọn với Bếp lửa hoặc Nghĩ lại về Pautôpxky... là bài thơ tình hay nhất của Bằng Việt - Thanh Nhàn thì chọn Hương thầm v.v...
      Nghĩa là, 50 nhà thơ với 50 bài thơ hay nhất, cao nhất của HNVVN đương đại - Một mình Phạm Ngọc Thái, tôi cũng sẽ chọn đủ 50 bài thơ hay nhất của tôi đã xuất bản.
      Tất cả tổng cộng 100 bài.
a/. BAN GIÁM KHẢO ĐỂ BÌNH LUẬN VÀ ĐÁNH GIÁ:
      Tôi giành cho Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội nhà văn tuỳ chọn ban giám khảo, phán xét đối với cuộc thách đấu này. Thí dụ: Vũ Quần Phương, được Hội nhà văn coi là nhà bình thơ số 1 ở đương thời; hay nhà viết Chân dung và đối thoại Trần đăng Khoa...  muốn chọn ai cũng được -  Một mình Phạm Ngọc Thái chơi tay vo, không cần ai giúp.
     Với những người viết bài phân tích, bình luận, thẩm định thơ hoặc phản biện tác phẩm - phải ghi rõ "chính danh". Chủ tịch Hữu Thỉnh cũng phải chịu trách nhiệm về cái danh đó. Không được bịa ra một cái tên tào lao, rồi phân tích lý luận vớ vẩn, xiên xẹo, thậm chí là nhận thức thi ca còn dốt nát mà vẫn bình láo... cũng chẳng ai biết là "ai"?
b/. ĐĂNG THƠ:
     100 bài thơ đó ( Phạm Ngọc Thái 50 bài - 50 nhà thơ của Hội nhà văn 50 bài ), có thể đăng trên Tuần báo Văn nghệ hiện do nhà văn Khuất Quang Thụy làm tổng biên tập. Tạp chí thơ, Tạp chí Văn, hay trên  vanvn.net của Hội. Còn bài viết của các tác giả đánh giá hay phản biện... có thể đăng trên mọi phương tiện truyền thông. Từ báo chí đến các trang mạng Việt trong nước và hải ngoại khắp toàn cầu.
c/.   ĐẶT GIẢI THÁCH ĐẤU:
-   Nếu 50 bài thơ của 50 nhà thơ HNVVN thắng được 50 bài thơ của Phạm Ngọc Thái - Nghĩa là tầm vóc, chân dung thơ của Hội nhà văn cao hơn thơ tôi:
      . Phạm Ngọc Thái sẽ mất cho HNVVN hai mươi triệu đồng ( 20.000.000đ )
-   Nhưng nếu thơ của 50 nhà thơ Hội nhà văn lại thấp kém hơn thơ Phạm Ngọc Thái, thì:
     . Hữu Thỉnh với cương vị Chủ tịch Hội sẽ phải chi cho tôi năm mươi triệu đồng ( 50.000.000đ ) - Vì một mình Phạm Ngọc Thái chấp cả 50 nhà thơ của Hội nhà văn cơ mà.
 * Tôi xin lưu ý những người trong ban giám khảo là phải bình cụ thể vào bài thơ hay, chỉ ra số bài thơ hay, thơ sâu sắc... có trong tập, trong các tác phẩm của tác giả. Không được lý thuyết suông, triết lý kiểu sách vở tràn lan, vô tội vạ... mà đánh giá chẳng ra cái trò gì ???  Giá trị của một bài thơ thực sự hay lưu lại được cho nền văn hiến Thăng Long là vô giá trong cuộc đời của một nhà thơ. Huống hồ cả một tập thơ hay và... một đời thơ lớn. Không biết thì dựa cột mà nghe, còn muốn bình thì phải bình cho xác đáng -  Bài nào hay? Hay như thế nầo? Vì sao bài thơ đó có khả năng tồn tại trường cửu?... Vị nào không biết bình mà vẫn cố tình - khi đó tôi có quyền phản biện, chỉ ra sự sai sót, yếu kém. Bài viết chẳng những không có giá trị, hoặc cố tình bình bậy - Không phải chỉ người viết, cả ông Chủ tịch Hữu Thỉnh  cũng phải chịu trách nhiệm.
      Tôi từng viết bài luận bàn về chân dung nhà thơ Hữu Thỉnh, nhiều lần đem thơ dở, bình thường, để lấy đủ các thứ giải thưởng quốc gia, quốc tế. Nay xin tóm lược lại cho ngắn gọn, làm dẫn chứng về việc bình phẩm thơ ca như đã nói trên - Tít đề như sau:
                      "THƯƠNG LƯỢNG VỚI THỜI GIAN"
             MỘT TẬP THƠ DỞ. NHIỀU BÀI  VIẾT HỎNG.
Ông Chủ tịch Hội nhà văn đem ra để lấy giải thưởng lớn
      Hữu Thỉnh làm nhiều bài thơ còn ẩu. Tư duy bừa rồi tìm những từ hay, hình ảnh hoa hoét... ghép lại. Có bài mới đọc lên cứ tưởng?... Cũng thấy là lạ, nhưng gấp sách lại nghĩ, nghĩa thơ chỉ màng màng như một lớp sương khói, hoặc một ý tưởng không rõ ràng. Tôi có thể nêu các kiểu làm thơ tạp-pí-lù ra đây, đến vài chục bài trong tập thơ trên năm mươi bài của ông.
    Thí dụ bài "Bóng mát":
Tôi như cây biết giấu lá vào đâu
Giữa gió bụi cõi người
Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát
Bóng mát mà không che nổi chính tôi.
    Mới đọc thì có vẻ nỗi đời, nỗi người, nỗi trần ai đây? nhưng ngẫm kỹ thì bài thơ rất lung bung. "gió bụi cõi người" nghe cũng đoạn trường đấy chứ? nhưng gắn với hình ảnh "lá" ở câu trên - "lá" kia biểu tượng cho cái gì của anh ta? Cũng chẳng rõ. Nếu nó đã làm thành bóng mát thì tại sao lại phải dấu? Ta lại xem câu kết:
      Bóng mát mà không che nổi chính tôi
     Tại sao có bóng mát rồi mà lại không che nổi chính anh ta? - Thế là, tất cả vẫn mới chỉ là một mớ ý nghĩ còn mơ hồ, lộn xộn, thậm chí hình ảnh đá nhau, chưa định hình để lập được thành tứ và nghĩa. Hữu Thỉnh vơ hết vào làm thành một bài cho xuất bản. Chẳng cần biết để nó diễn đạt cái gì? Bài thơ trở thành...vô nghĩa.
     Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ rất ẩu chính là vậy
    Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài bất cần tính lô-gich trong tư duy triết lý, dù chỉ là một bài thơ ngắn vài câu. Thí dụ một bài thơ khác:
Đôi luống thời gian/   Ai ải mùi đời/ 
Hì hục câu thơ/  Gieo chỗ không người/
Tấm chăn ngôn từ/  Dầy sao không ấm/  
Thi nhân dậy chưa/  Gà đang chuyển sớm.
 ( Mồ hôi đón ngõ )
Đọc lên cũng đã thấy cái thời gian ai ải mùi đời kia... chắc là thời gian như cuộc đời thum thủm toàn phân tro chăng? Mấy từ "ai ải mùi..." mà tác giả sử dụng cốt chỉ để thơ cho có vẻ hình tượng "kêu" đấy thôi. Nhưng đó là cách sử dụng bất kể ý nghĩa. Sau đó tự nhiên chuyển sang ý thi nhân làm thơ gieo vào chỗ không người... rồi đến gà qué báo sáng, thế là hết thơ! Cũng chẳng biết "cái thời gian ai ải mùi đời" kia với người thi nhân làm thơ nó có quan hệ với nhau thế nào? Nó được đưa vào trong bài thơ để nói lên ý nghĩa gì? cũng đã được thêm một bài. Hữu Thỉnh làm thơ rất nhiều bài đại loại nham nhúa như thế!
      Cũng có khi chỉ do một ý tưởng nào đó chợt vụt đến, thoáng qua mà tác giả vội ghi lại. Đáng lý nó mới chỉ là tư liệu trong một bản nháp. Nhưng Hữu Thỉnh đã sử dụng ngón nghề của một tay thơ chuyên nghiệp, thêm dăm ba chữ mắm muối vào đó hoặc tìm đại vài hình ảnh cho có vẻ kêu kêu. Bất cần hình ảnh đó ý nghĩa có hợp với bài thơ không, xào xáo nó lên... lại được thêm một bài thơ nữa. Gộp nó lại thành tập lấy giải thưởng văn chương.
Ví dụ bài "Những người đi lại phía tôi":
Những người đi lại phía tôi
Bao nhiêu bóng mát một lời lá bay
Mặc ai xô dạt mỗi ngày
Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm.
Hình ảnh thì cũng có vẻ hoa mỹ, nỗi mình, nỗi đời. Nhưng bài thơ nói gì nhỉ? Nếu kết lại thì hình như là... vô nghĩa. Nó "vô nghĩa" bởi vì nó tư duy theo kiểu vơ váo và lắp ghép nhằng. Tôi xin phân tích hình ảnh "bao nhiêu bóng mát" kia là gì? Có phải bao nhiêu người đang đi lại phía nhà thơ đã đem cho ông ta bóng mát chăng? Nếu thế thì cũng có tính nhân văn đấy chứ? nhưng liền ngay sau đó lại là hình ảnh:
Chả lẽ để đáp lại "những bóng mát" mà người đời đã đem lại cho ông, tức là những danh lợi mà ông đã được hưởng, ông chỉ đáp lại cho họ, cho cộng đồng "một lời lá bay" ư? Nghĩa là, tao cũng chả cần phải trả cho chúng mày nhiều. Một đôi lời ve vuốt suông hay chút bổng lộc gì đó cỏn con thôi, sau đó ông thoảng qua như... lá bay! Và ông cứ ung dung hưởng "những bóng mát" mà người đời mang lại cho ông. Bởi vì ngay câu thơ thứ ba viết:
Mặc ai xô dạt mỗi ngày...
Thể theo sự liên kết trong tư duy bài thơ: Ông cứ mặc cho cuộc sống những kẻ đã mang lại bóng mát cho ông bị xô dạt, chìm nổi. Ông mặc xác tất cả. Rồi bài thơ kết:
Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm
Hình ảnh "múc đau lòng giếng" có vẻ ghê, nhưng để nói cái gì? Ta giả sử nếu cái giếng kia biểu thị cho đời. Ông cứ việc múc đau lòng đời. Tức là ông cứ việc vơ vét, hưởng thụ những lợi lộc của đời mang lại... cho đến cuối đời ông. Bởi vì hình ảnh "sao hôm" sẽ biểu thị cái nửa đời chiều của ông mà: "vẫn đầy sao hôm" là vậy.
     Còn nếu ta giả sử, hình ảnh "cái giếng" kia để chỉ bản thân nhà thơ! Ông múc đau ông. Nghĩa là ông sẵn sàng hy sinh bản thân cho hạnh phúc của mọi người - Thì sao câu thơ trên ông lại viết: "Mặc ai xô dạt mỗi ngày"??? Thế là bài thơ trở thành khập khiễng, ý thơ phi lý. Hình ảnh như những cánh hoa giấy đẹp nhưng lung tung. Bài thơ này cũng chỉ là một bài... thơ rác.
      Có lẽ không phải là Hữu Thỉnh không biết cái hạn chế trong sáng tác thơ của mình?... và cũng không phải là không biết sự thấp kém của tập thơ "Thương lượng với thời gian"? Cho nên cũng đã có lúc ông tự thú.Ta hãy đọc bài "Người làm mùa" thì rõ:
Những gié vàng lại tụ hội vàng tươi
Mùa hoàn hảo? Thiên nhiên bầy kiệt tác
Sao với ta vẫn chỉ vài nét phác
Tẩy xoá hoài người vẽ mãi chưa xong?
       Ý muốn liên hệ với "mùa thi ca" của ông ta đây! Đã biết thơ mình mới chỉ là những nét phác, nhạt nhẽo, nông cạn. Còn với mình thì "tẩy xoá" mãi vẫn không viết nổi một bài thơ hay - Thế mà vì lòng tham, ông Chủ tịch đã 05 lần lấy giải thưởng quốc gia. Lần này vẫn mang ra lấy tiếp cái giải thưởng Hồ Chí Minh kèm với mấy trăm triệu đồng cơ đấy!
Tôi lại ví dụ thêm bài nữa. Bài "Vô thanh":
Tôi ngồi nhặt sỏi đếm buồn
Gió đi tìm khói chon von mấy đồi
Mây kia ham sự nhất thời
Bao nhiêu oan nghiệt mắt người ngước lên.
      Thực ra bài thơ mới chỉ là mấy sự lắp ghép ý chợt đến ở dạng bản thảo. Tư duy nửa chừng chưa ra đâu vào đâu, nên chưa nói được cái gì? Đây cũng đích thị là một bài thơ để...loè đời! Cái ngón nghề mà Hữu Thỉnh tìm ra trong quá trình sáng tác thơ của mình chính là thủ thuật rất xảo ấy. Đã thành sở trường trong quá trình làm thơ của ông. Trong bài viết Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ hay lấy "râu ông nọ cắm cằm bà kia" là vậy.    
    Đấy là tôi mới ví dụ một số bài thơ ngắn cho dễ đọc. Để bạn đọc khỏi nhàm chán, chỉ xin ví dụ thêm một bài thơ dài hơn, nhưng cũng viết ẩu làm nhàm như thế. Đó là bài "Lời mẹ" - Nói về mẹ thường là những bài thơ rất máu thịt, da diết. Nhưng Lời mẹ của Hữu Thỉnh, phải nói thơ viết hồ đồ đến mức độ... hơi nhăng nhít. Bài thơ chia làm ba khúc. Mỗi khúc 8 câu. Tổng cộng toàn bài 24 câu.
Khúc I-  Khúc đầu tiên này thì nó còn kể lể có chuyện một tý. Tuy cũng chỉ viết nôm na tung hứng bừa đi thôi, chẳng có gì gọi là chắt lọc hay nghệ thuật tinh tuý. Nhưng thôi, ta chấp nhận như thế, tạm gọi là cũng được:
Mẹ đã sinh ra tôi/  Đặt tên cho tôi nữa/
Một cái tên nõn nà/  Hồn nhiên như sói nhỏ/
Cái cối và cái chày/  Con mèo và con cún/
Yêu mấy vẫn chưa vừa/  Thoắt trở thành người lớn.
Mấy câu sau là tác giả đã nhặt nhạnh bừa đi rồi đấy, ghép lại thành một khúc. Chưa thể gọi là ăn nhập với nghĩa trong cả bài. Ta cứ đọc tiếp sẽ thấy. Đến khúc thứ hai, thứ ba mới thật là thứ thơ... hô khẩu hiệu. Mà đây là khẩu hiệu rất sáo rỗng, nhạt nhẽo. Nhưng tác giả không phải chỉ hô khẩu hiệu một lần đâu? Hai khúc thơ, mỗi khúc 8 câu, chỉ có hai câu đầu là khác, còn sáu câu sau lặp lại y hệt nhau. Ý tứ vơ váo. Chợt nghĩ được cái gì là đưa luôn vào. Cứ như là viết đại cho xong. Đọc chối không chịu nổi. Để bạn đọc thấy rõ xin chép lại cả hai khúc sau ra đây:
Khúc II -  Tôi bước ra ngoài ngõ/  Gió thổi. Nước triều lên.../
Đi hoài không gặp tiên/  Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/  Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/  Xong rồi, chơi với cây!
Khúc III-   Tôi lại bước dưới trời/   Không tiếc mòn tuổi trẻ/...
(6 câu sau giống hệt ở khúc hai)
Đi hoài không gặp tiên/  Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/  Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/  Xong rồi, chơi với cây!
     
Xin phân tích một chút ở câu thơ cuối khúc - Sao lại kết "Xong rồi chơi với cây"? Nếu là những người chán sự thế, chán chốn quan trường đi ở ẩn như Nguyễn Khuyến chẳng hạn? hay như thi sĩ Tản Đà chán chốn hồng trần tìm đường lên núi "tu tiên" đã đành?... Đằng này Hữu Thỉnh còm ham danh lợi thế cơ mà? Đọc thơ ta có thể hiểu:
Mẹ từng dặn anh ta rằng: con người nó hay lừa lọc, gian xảo lắm. Tốt thì ít mà xấu thì nhiều. Đừng nên "chơi" với con người mà chỉ nên chơi... với cây thôi!
     Nhưng mẹ lại cũng dặn anh ta:
-   Phải làm một con người cao thượng. Con người tuy xấu thế đấy, nhưng lúc họ gặp nạn... thì phải đến cứu vớt họ (như ở câu thơ trên đó đã viết "Đến với ai gặp nạn") - Xong rồi lại về..."chơi với cây"!
      Đây là một bài thơ viết cẩu thả. Cái đoạn lặp đi lặp lại dài đến 6 câu, nào có hay gì? có nghệ thuật thi ca gì cho cam? chỉ là cách nói đạo lý sáo rỗng.
      Câu thơ: Đi hoài không gặp tiên/ - Hình ảnh ấy chắc Hữu Thỉnh chợt nhớ về chuyện cổ tích: Có cô bé hoặc cậu bé nghèo khổ đã mơ thấy ông tiên hay bà tiên hiện về. Thế là bê luôn vào thơ. Mà lại là bài thơ nói về nỗi đời, đoạn trường người lớn hẳn hoi. Một bài viết về mẹ thuộc dạng nhàm chán nhất, nhì... đối với một nhà thơ chuyên nghiệp mà tôi từng được đọc.
     Thế đấy! Thơ ông Chủ tịch đã lãnh đạo Hội nhà văn đến ba khoá của chúng ta hôm nay là thế đấy?
      Nói dài, bình thêm làm gì nữa cho bạn đọc càng nhàm chán. Quá đủ để nhìn nhận về  tập thơ "Thương lượng với thời gian" còn rất thấp.
-    Không phải là không có lý - Trong lần ông được giải quốc gia đầu tiên với tập trường ca "Đường vào thành phố", đã bị nhà thơ Xuân Diệu phê phán ngay trên báo Văn nghệ là dở vô cùng. Là không biết làm thơ. Là tào lao chi khươn... (trích bài TMH).
-    Cũng không phải là không có lý - Trong lần thứ hai ông ăn giải Hội nhà văn với tập thơ "Thư mùa đông", đã bị nhà văn Tô Hoài viết bài chê bai rằng: Thơ Hữu Thỉnh chỉ là một gánh chè chai đồng nát.
                 MẤY BÀI THƠ CHƯA HAY CỦA ÔNG CHỦ TỊCH
            ĐƯỢC HỘI NHÀ VĂN THỔI PHỒNG THÀNH THƠ HAY
    Có người sẽ bảo: Cứ cho rằng cả đời thơ Hữu Thỉnh quá nhiều là những thơ tạp, câu cú lắp ghép nhiều khi còn bừa. Nhưng ông ta cũng có mấy bài thơ được gọi là hay đấy chứ? như các bài "Thơ viết ở biển" hoặc "Sang thu" chẳng hạn.
     Xin thưa: Hữu Thỉnh không có một bài thơ nào thực sự là thơ hay của thi đàn.
     Rất nhiều các bài thơ Hữu Thỉnh đều không hoàn tứ, hoàn nghĩa. Không đứng được với thời gian. Song cũng có đôi bài thơ được đánh giá là khá. Đó chính là hai bài thơ vừa nói trên. Nhưng kể cả hai bài thơ đó, vẫn không có bài thơ nào đủ sự viên mãn, hoàn bích để đậu thành thơ hay - Chưa muốn nói rằng: thực ra bài "Thơ viết ở biển" mà nhiều người khen là bài thơ hay nhất của Hữu Thỉnh, lại chính là bài thơ viết... hỏng. Nếu đem phân tích nó sẽ lộ ra những yếu điểm rất non yếu của một quá trình tư duy sáng tác.
              1/. "THƠ VIẾT Ở BIỂN" - 
     Bài thơ chứa rất nhiều khuyết tật? Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
                      Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
                      Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
     Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn"? Hình ảnh thơ dùng không đúng nghĩa nên tính lô-gích của ý thơ bị kém đi.
     Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh? Nghe chừng hình tượng ví von này còn gượng gạo. Tại sao em lại là "chiều"? "chiều" - không có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ. Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa chính xác, cũng không ổn. Mặc dù hai câu đó đọc lên người ta vẫn hiểu... nhưng về phương diện sáng tác thi ca, nhất là đối với một nhà thơ chuyên nghiệp, sử dụng hình tượng như thế là... dùng bừa.
    Mấy hình ảnh thơ đầu thì hay:
                    Anh xa em / Trăng cũng lẻ / Mặt trời cũng lẻ
      Nhưng đến hai câu sau:
                  Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
                  Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
     Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này khá. Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt.  Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái. Trong văn học người ta thường ví: "em là biển cả mênh mông", "tình em biển cả", hay "trên biển cả tình em... anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi" v. v... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong bài thơ Hữu Thỉnh? Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" -  thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em!
     Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví: "anh như biển cả - còn em như... cánh buồm ??? Sự ví von lộn ngược thơ như thế hơi buồn cười, khập khiễng.
     Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết:
                 Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
                 Vì sóng đã làm anh /  Nghiêng ngả /  Vì em...
     Cảm xúc viết thơ đến đây của Hữu Thỉnh bị bí, thơ hơi quẩn. Vì là một bài thơ viết ở biển, nên tác giả mới lấy hình tượng "sóng" để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng hình ảnh:
                 Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
      Như phân tích ở đoạn trên - "biển", tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai, mà sóng cũng chính là biển - tức là "anh" rồi! Thành ra nghĩa ở câu này sẽ là:
                     Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em???...
     Hữu Thỉnh hay mắc một thứ bệnh tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tùy tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em" - Nỗi thơ chưa được đẩy tới tột cùng, cho nên không viên mãn. Bài thơ kết bị đuối.
     Tóm lại: về phương diện tư duy nghệ thuật thi ca - "Thơ viết ở biển" của Hữu Thỉnh là bài thơ viết... hỏng.
            2/.  ĐÔI NÉT VỀ "SANG THU" -
      "Sang thu" cũng là một trong đôi bài thơ được đánh giá là xuất sắc nhất của Hữu Thỉnh. Tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
                   Vẫn còn bao nhiêu nắng
     Nhưng:
                  Sương chùng chình qua ngõ
                  Hình như thu đã về.
     Tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở dạng một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự tả đó khéo và có hương sắc. Nào là:
                  Bỗng nhận ra hương ổi
                  Phả vào trong gió se
     Rồi:
                  Sông được lúc dềnh dàng
                  Chim bắt đầu vội vã
                  Có đám mây mùa hạ
                  Vắt nửa mình sang thu
     Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
                   Sấm cũng bớt bất ngờ
                   Trên hàng cây đứng tuổi
      Tức là tác giả mới cam cảm về một khung cảnh thiên nhiên, rồi lấy những sự vật xung quanh mà vẽ nó ra. Tuy sự tả có gợi... nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, chưa có tư duy trong. Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử... học sinh phải tán cho hay lên - Rất có hại cho việc nhận thức thơ ca bị lệch lạc của học trò.
    Trong nền văn hiến của nghìn năm Thăng Long, xưa nay chưa từng có bài thơ nào chỉ tả cảnh suông, nỗi đời và tình người chứa trong cảnh không có hoặc nhạt nhẽo... mà lại được gọi là thơ hay? Xin ví dụ vài bài thơ tả cảnh đặc sắc của các thi nhân xưa:
* "MÙA XUÂN CHÍN" CỦA HÀN MẶC TỬ - Cũng chỉ là tả cảnh mùa xuân, nhưng nỗi lòng cô quạnh về tình duyên... vì bệnh tật mà thi nhân không được hưởng. Đứng trước cảnh đời chứa chan hạnh phúc của bao thôn nữ... quấn quít với nỗi nhớ làng quê da diết trong hồi ức của Người:
                        Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
                        Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
                        - Chị ấy năm nay còn gánh thóc
                       Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
      Nỗi tình trong cảnh thơ chứa chất... đã đẩy nghĩa thơ đi đến sự viên mãn tột cùng, mới tạo thành một áng thi ca hoàn bích để lại cho thế gian.
*  "THU ĐIẾU" CỦA NGUYỄn KHUYẾN -   Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình hiu hắt với lòng người ẩn sĩ cô liêu, khi ông chán nơi quan trường trở về nương náu chốn thôn hương. Ta thấy hình ảnh thơ ôm bọc đời sống bên trong rung động. Nhất là trong hai câu kết:
                        Tựa gối buông cần lâu chẳng được
                        Cá đâu đớp động dưới chân bèo...
      Một tâm trạng khắc khoải, chênh vênh  trong đêm thu. Thơ như có thần. Sâu sắc vậy nên Thu điếu mới trở thành bài thơ hay.
*   "QUA ĐÈO NGANG" CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN - Tức là một bài thơ tả cảnh Đèo Ngang, nhưng chứa đầy nỗi lòng của người nữ sỹ:
                             Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                             Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
    Cũng là mượn cảnh vật để mô tả... nhưng đã trở thành biểu tượng về nỗi nước, tình nhà của Bà Huyện Thanh Quan. Cuối cùng tác giả lại trở về với cõi lòng da diết giữa chốn đèo Ngang hoang vu, hạ một câu kết tuyệt bút:
                            Một mảnh tình riêng ta với ta
    Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu, hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích. Cho nên nó mới sống mãi với nền văn học nước nhà.
    Trở lại với bài thơ Hữu Thỉnh: Đọc Sang thu muốn cảm nhận ra một nỗi đời, hoặc một ý tình trắc ẩn nào đó... dù của nhà thơ hay nhân tình thế thái, là không có? Bài thơ không đủ sự viên mãn cần thiết để được coi là một bài thơ hay?
           3/. "NĂM ANH EM TRÊN MỘT CHIẾC XE TĂNG" -  Một bài thơ viết theo kiểu hùng tráng của một thời. Giọng điệu từa tựa như đồng ca, hò vè. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường. Qua thời gian thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.
     Tôi không muốn nhắc lại bài thơ "Hỏi" ở đây - Những năm qua Hữu Thỉnh bị văn đàn đàm tiếu rất nhiều, tố cáo đã đạo bài thơ Hỏi đó từ bản dịch bài "Thượng đế tạo ra mặt trời" của nữ văn sĩ người Đức Christa Reinig ?
       Kết luận: Mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng quốc gia hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ. May ra có vài ba tình thơ đứng lại được trong những năm tháng nào đó, nhưng cũng nhạt nhòa. Nếu đã không có nổi một tập thơ tồn tại đối với nền văn học, thì khi ấy không biết nên xếp chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào?
       II-   THÁCH PHẢN BIỆN LẠI TẬP SÁCH
" PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG NHÀ THƠ LỚN THỜI ĐẠI "
     Trong tập " Phm Ngc Thái chân dung nhà thơ ln thi đi " dày 372 trang sách, gồm hai phần:
a/.  PHẦN 1: Thơ - Với tên đề "Bu tri thơ tình hay và l". Cả thảy có 120 bài thuộc những bài thơ tình hay, khá hay hoặc đặc sắc nhất, được chọn ra từ trong các tập thơ đã xuất bản của đời tác giả.
b/.  PHẦN 2: Bình luận "Thế gii thi ca Phm Ngc Thái" với những bài viết của nhiều tác giả là các văn nghệ sĩ, nhà giáo, hay những độc giả hâm mộ. Phần này hơn 200 trang, gồm 35 bài... vừa là các bài bình thơ hay, khá hay, hoặc sâu sắc điển hình - Cùng với tiểu luận chân dung. Như bài "Phm Ngc Thái mt nhà thơ tình ln ca dân tc", do nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc viết. Bài Phm Ngc Thái ngưi hai ln thi sĩ; Phm Ngc Thái vi chùm thơ hay v tình yêu và đàn bà; nhng tình thơ áo trng; My nét tình s v bài thơ Ngưi đàn bà trng; Phm Ngc Thái và mt k tác thi ca v.v...
     Quí vị có thể tham khảo bài tổng hợp và đánh giá thơ hay của anh Trần Tứ Đức - nguyên Cán bộ Viện ngôn ngữ và văn hoá dân gian, nhan đề:
       "Phm Ngc Thái vi 3 tuyt tác - 20 tình thơ hay hoc khá hay "
      Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới. Mở đọc qua đôi link sau:
Trong nước:
 http://www.nhuygialai.com/2014/03/pham-ngoc-thai-voi-3-tuyet-tac-20-tinh.html 
Hải ngoại:
 http://www.chinhluanvn.com/2014/03/pham-ngoc-thai-voi-3-tuyet-tac-20-tinh.html
     Trong lời giới thiệu tập sách "Phm Ngc Thái chân dung nhà thơ ln thi đi" ấy, cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - Giảng viên trường Đại học Sư phạm đã viết:
   " Theo đánh giá vi mt bình din rt rng trên văn đàn mng: Phm Ngc Thái là mt trong nhng nhà thơ ln ca nn văn hc nưc nhà.... Phm Ngc Thái không ch sáng tác đưc nhiu thơ tình hay. Thơ v ni đi nhân gian, kiếp ngưi ca ông, không ít bài cũng đt s viên mãn đ to thành nhng thi phm súc tích. Có bài đến hoàn bích như " Làm ma em v "; mang tính hin thc đin hình như "Ni trăn tr ngưi đi tìm vàng"; hoc nhng bài thơ đi sâu sc khác không kém phn hay:
          Cô quét lá đêm h, Em bán xoài, Khóc Hàn Mc T, Em bé cu bơ, Chiu hoàng hôn, C hoang...
     Đúng như s đánh giá trên văn đàn: Thi ca Phm Ngc Thái dù là thơ tình hay thơ đi, nhng bài đt đ viên mãn v ý tưng nhân văn cũng như ngôn ng ngh thut là rt nhiu. Mc đ hay ca mi bài khác nhau, song nhng tình thi đó đu có th làm rung cm trái tim ta. Chưa tng có thi nhân nào sáng tác đưc nhiu thơ tình hay đến thế ! Ri mai sau ông s có c trăm bài thơ tình đng trưng cu vi đi và nn văn hiến Thăng Long ".
     TRỞ LẠI VỚI PHẦN THÁCH ĐẤU:
     Người nào phản biện trên cơ sở những bài bình thơ, hoặc hoàn bích đến độ tuyệt tác, hoặc thơ hay, khá hay, thơ sâu sắc - cùng các tiểu luận về chân dung tác giả... đã đăng trong tác phẩm - Nghĩa là phủ định tập sách và... phủ định tầm vóc nhà thơ lớn.
    Nhân đây cũng xin khẳng định: Theo nhận định của tôi - Hội nhà văn Việt nam đương đại, kể từ Hữu Thỉnh đến các nhà thơ khác... hiện không có nhà thơ lớn !
-   Nếu bài viết phản biện của vị nào đó của Hội nhà văn đánh giá xác đáng - Phạm Ngọc Thái chấp nhận mất cho người đó và Hội nhà văn hai mươi triệu đồng ( 20.000.000đ ).
-   Nhưng nếu bài viết sai... do kiến thức thẩm định thi ca còn non kém, hoặc không biết nhìn thơ mà cứ cố tình bình bừa, bình láo - Tôi sẽ phản biện lại: sai ở đâu? Thấp kém thế nào? nghĩa là sẽ vạch rõ cho vị đó thấy sự ngu muội về thơ, không đủ khả năng thẩm định tác phẩm thi ca - Khi ấy, không phải chỉ vị đó... mà chính Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội nhà văn cũng phải chịu trách nhiệm chi trả cho Phạm Ngọc Thái hai mươi triệu đồng ( 20.000.000đ ).
     Đã gọi là cuộc thách đấu thì tất cả hai bên ai tham gia, giữa Phạm Ngọc Thái và Hội nhà văn đều phải có luật ! Ai thấy đủ gan thì trao đổi, bàn luận với Hữu Thỉnh để vào... "cuộc chơi"?
       Phạm Ngọc Thái thách đấu cả Hội nhà văn Việt Nam đương đại.
Viết ti đt nghìn năm văn hiến Thăng Long
Tháng 7-2015
PHẠM NGỌC THÁI
        Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & hải ngoại:
http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=11033
http://to-quoc01.blogspot...au-ca-hoi-nha-van.html
  http://tranmygiong.blogti...ch_u_c_h_i_nha_v_n_vi_
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php
  http://dangxuanxuyen.blog...-ca-hoi-nha-van_3.html
  https://nghiathuc.wordpre...an-viet-nam-duong-dai/
  http://nguoidongbang.blog...au-ca-hoi-nha-van.html
http://www.quansuvn.info/...0_6-1_17-18_14-2_15-2/
http://www.vanews.org/201...au-ca-hoi-nha-van.html
http://www.tiengchimviet....au-ca-hoi-nha-van.html
http://www.nhuygialai.com...au-ca-hoi-nha-van.html
http://www.truclamyentu.i...nha-van-duong-dai.html
http://anlacminh.blogspot...ng-mang-hoang-phi.html
http://dannam.org/Blog/?p=4953
  http://hung-viet.org/blog...van-viet-nam-duong-dai
  http://vietinfo.eu/thu-vi...m-duong-da%CC%A3i.html
http://kontumquetoi.com/2...ng-dai-pham-ngoc-thai/
  http://thachda.blogtiengv..._ach_u_c_h_i_nhav_n_vi
  http://chuvuongmien.blogs...-hoi-nha-van.html#more
http://lexuanquang.org/post/9595/
http://www.vandanviet.com...au-ca-hoi-nha-van.html
http://baotoquoc.com/2015...an-viet-nam-duong-dai/

<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.10.2015 22:14:07 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 12.09.2015 23:44:59
 
                          
         MỘT BÀI THƠ ĐẶC SẮC VỀ ĐÀN BÀ                    
                  CỦA PHẠM NGỌC THÁI
                                                    Nguyễn Thị Xuân

 
          NGƯI ĐÀN BÀ CHA LINH HN THÁNH LINH
 
 
Người đàn bà anh mãi mãi không quên
Nàng đã lẫn vào trong cát bụi...
Sống nổi trôi hay đang những ngày cảm khoái
Có bồi hồi nhớ lại quãng tình qua?
 
Anh đã yêu từ ánh mắt như sao sa
Cả vòm ngực tiên trắng mềm, nóng hổi
Em mở rộng động trinh,
                để anh vào tận sâu trong hứng khởi
Lúc sướng vui em đã uốn mình.
Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em
                     để gieo hoa cho thế thái nhân tình
Vĩ đại và vô biên...
Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống
Trái tim em chứa linh hồn thánh linh.
Trấn át ác quỉ bạo tàn
Anh khắc hình hài em trong vũ trụ
Biểu tượng lớn lao của chúng sinh
Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
Cả chiến tranh và trong cả hoà bình.
                               PHẠM NGỌC THÁI
                     . Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai",
                         Nxb Văn hoá Thông tin 2012
 


  LỜI BÌNH: Bài thơ gợi cho ta một thế giới: Thế giới đàn bà:
                                 Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em
                                                     để gieo hoa cho thế thái nhân tình
                                Vĩ đại và vô biên...
                               Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống
                               Trái tim em chứa linh hồn thánh linh.
     Đây là khổ thơ thứ ba. Đã tóm bắt từ nhân sinh cho tới vũ trụ của người đàn bà: Vĩ đại và vô biên /- Bởi vì sao?... vì nàng "gieo hoa cho thế thái nhân tình"- Biểu tượng của sự sống bất tử!  Nhưng nàng cũng rất bình dị trong cuộc sống và thân thiết đối với người đàn ông. Là người vợ hiền cơm dẻo canh ngọt, đầu gối tay ấp. Bình dị trong tiếng nói nàng trìu mến, dịu dàng mà chiếm ngự cả trái tim chàng. Bình dị với ánh mắt nàng cười, mang đến mùa thu mát lành, trong xanh.
      Câu thơ "Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em..." - Nó triết lí. Như người ta thường nói, người đàn bà là hoa thơm của đất trời... trái ngọt của sự sống. Ở đây, tác giả chỉ ra rằng "... cái của em để gieo hoa cho thế thái nhân tình" - Về nghĩa đen ta có thể hiểu: "cái của em" vừa để sinh nở, tức là sinh con đẻ cái bảo tồn nòi giống. Duy trì và phát triển trong thế thái nhân tình. Với nghĩa bao trùm: nó còn mang theo tính luyến ái trai gái. Là cội nguồn của cuộc sống. Đồng thời "cái của em" là nhân tố tạo ra cả hoà bình cùng chiến tranh, hạnh phúc và khổ đau của con người.
     "thế thái nhân tình" mà không có hoa thì cũng không thể kết trái. Tất cả sẽ trở thành vô nghĩa. Thế giới sẽ không không...
     Xin liên tưởng đến những thi phẩm khác của tác giả. Như ở bài  "Nguyệt của chị Hằng và nguyệt của em", nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã viết:
                               Nếu như em không có nguyệt
                               Thì loài người cần gì tổng thống nữa, em ơi !
     Hoặc bài "Có một thời như thế", anh cũng có những câu thơ bình luận về "cái của em" thật đặc sắc:
                               Tạo hoá sinh ra kỳ quan vĩ đại
                               Suy cho cùng nhất cái này thôi !
                               Nhân loại tồn sinh phát triển ở nơi này
                               Không có sẽ hư vô phù phiếm cả...
     Trở lại với "Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh". Sau đó nhà thơ trào ra cảm xúc:
                              Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống...
     Bởi vì, không có em thì không có gì cả. Sự luyến ái chính đáng gái trai là cao thượng và thiêng liêng.
 

 
         Cô giáo Nguyễn Thị Xuân

     Nếu nhà thơ Nga vĩ đại Mikhail Lermontov, đã viết những câu thơ bất hủ thần tượng tình yêu đối với người đàn bà:
                             Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                             Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ....
     Thì người đàn bà của tình yêu cũng được nhà thơ Phạm Ngọc Thái nâng lên ý nghĩa thần thánh. Nó đọng lại súc tích trong câu kết của khổ thơ:
                             Trái tim em chứa linh hồn thánh linh.
     Giờ xin trở về với những câu thơ đầu:
                             Người đàn bà anh mãi mãi không quên
                             Nàng đã lẫn vào trong cát bụi...
     Thế mà tất cả còn lại về nàng chỉ là một hồi ức xa xăm. Hình ảnh hai chữ "cát bụi" -  Ý nói, tình yêu thuở xa xưa đã chìm lấp vào trong những tháng năm trôi dạt của cuộc đời. Khắc họa tình yêu trong bối cảnh nổi chìm ở dân dã. Tức là, tác giả đề cập về chủ đề "tình yêu và cuộc sống" chốn nhân quần.  Tôi bỗng nhớ đến bài thơ "Những bóng người trên sân ga" của thi nhân Nguyễn Bính. Ông tả về cảnh chia ly trong nhân tình:
                              Những chiếc khăn màu thổn thức bay
                              Những bàn tay vẫy những bàn tay
                              Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt
                              Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
     Cuộc chia ly trong "những bóng người trên sân ga" của Nguyễn Bính và cuộc chia ly tình yêu với người đàn bà của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, có gì khác nhau? Ta không rõ. Nhưng chắc tâm trạng thì cũng là... "buồn ở đâu hơn ở chốn này"? Chỉ biết rằng, sự chia ly tình yêu đó đã để lại trong lòng nhà thơ một nỗi buồn nhớ khôn nguôi, yêu thương da diết. Như câu thơ đã viết :
                              Người đàn bà anh mãi mãi không quên
     Hoặc một kiểu nuối cảm ở "Hai sắc hoa ti-gôn" của nữ sĩ TTKH chăng?
                              Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
                              Trời ơi, người ấy có buồn không?
                              Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
                              Tựa trái tim phai, tựa máu hồng
    Bởi sau đó nhà thơ đã đặt câu hỏi về nàng?
                              Sống nổi trôi hay đang những ngày cảm khoái
                              Có bồi hồi nhớ lại quãng tình qua?
     Nghĩa là, nhà thơ không còn gặp lại và cũng không biết tin tức về em nữa. Không biết giờ em sống ra sao? Hạnh phúc hay là... "bèo dạt mây trôi"? Đó là ý của câu thơ "Nàng đã lẫn vào trong cát bụi..." - Trái tim nhà thơ thổn thức: em có còn nhớ những tháng năm, khi chúng mình yêu nhau? Người đàn bà ấy đã thành thần tượng của đời anh và của cả thi ca.
     Cũng nỗi cảm hoài trên, có một khổ thơ được tác giả cảm xúc lại giây phút đã cùng nàng tận hưởng những khoái lạc yêu đương. Đó là khổ thơ thứ hai:
                              Anh đã yêu từ ánh mắt như sao sa
                             Cả vòm ngực tiên trắng mềm, nóng hổi
                             Em mở rộng động trinh
                                                   để anh vào tận sâu trong hứng khởi
                             Lúc sướng vui em đã uốn mình.
     Đoạn thơ tả thực... nhưng hình ảnh thì lại mang màu sắc thơ mĩ học. Nào là: ánh mắt như sao sa; vòm ngực tiên trắng mềm; động trinh... Những hình ảnh mĩ học đó giúp cho tác giả dẫu tả thực vào xác thể của người yêu, cảm khoái của tình dục, mà thơ không bị thô. Ta đọc câu cuối của khổ:
                             Lúc sướng vui em đã uốn mình
     Hoặc khi tác giả tả về sự khoái lạc tột cùng: Em mở rộng động trinh... để anh vào tận sâu trong hứng khởi /- Hình ảnh mang tính biểu tượng của thơ tượng trưng.
     Nói về việc sử dụng biểu tượng thơ tượng trưng - Trong thế giới thơ tình của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, phải thừa nhận rằng: Bên cạnh những hình ảnh nhụy nhàng hoa mỹ, có một số bài anh tả  khá sâu vào khoái lạc hay về thân thể người đàn bà, đã đạt được sự thành công. Vẫn đầy tính nghệ thuật ngôn ngữ. Cảm xúc sâu mà thơ huyền ảo, không bị tục. Thí dụ bài "cô áo trắng":
                             Em bọc trong anh không cần quần áo
                             Ôi, nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo
                             Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong
                             Em đừng hỏi vì sao anh yêu em!
     Rồi nhà thơ kết luận:
                             Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm!
                             Bầu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi...
     Hay bài "Người đàn bà trắng" - Một trong những tuyệt đỉnh thi ca của anh, đã tả về cái của người đàn bà như thế này:
                             Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai...
                             Người đàn bà ai mà định nghĩa?
      Thơ Phạm Ngọc Thái thường đi đến tột cùng sự viên mãn của thơ tự do hiện đại. Chính vì vậy mà tác giả đã được mệnh danh là "con đại bàng của thi ca hiện đại Việt Nam".
     Nói về khổ thơ cuối cùng. Sau khi gieo một câu thơ đạt đến điểm đỉnh về người đàn bà: Trái tim em cha linh hn thánh linh /- Tác giả hạ một đoạn thơ kết bài:
                             Trấn át ác quỉ bạo tàn
                             Anh khắc hình hài em trong vũ trụ
                             Biểu tượng lớn lao của chúng sinh
                             Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
                             Cả chiến tranh và trong cả hoà bình.
     Tôi nhớ trong tác phẩm của thi hào Nga Pushkin - Ông từng nói ý rằng: Tình yêu của người đàn bà có thể hoá giải cả hận thù và cải hoá sự tàn ác. Tức là, người đàn bà có thể biến một tên bạo chúa trở nên nhân từ, xoá bỏ vợi đi những tội ác, mang lại lòng nhân ái lớn lao trong cuộc sống con người. Đó là ý nghĩa của câu thơ:
                             Trấn át ác quỉ bạo tàn...
     Hình tượng của khổ thơ kết, nó phản ảnh cả về vị thế cũng như phẩm giá của người đàn bà, trong sự tồn tại của thế giới cộng đồng.
     Nếu hai câu thơ trích của nhà thơ Nga Mikhail Lermontov ở trên: ng th dù đ vn thiêng / Miếu th b vng vn nguyên miếu th /- Được xem là lời tuyên ngôn bất hủ của tình yêu !... thì hai câu kết ở đây, chính là bản tuyên ngôn của bài thơ "Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh" này:
                             Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
                             Cả chiến tranh và trong cả hoà bình.
      Hình tượng đúc kết cả tính vũ trụ, lịch sử và nhân sinh... trong ý nghĩa sinh tồn của xã hội loài người.  Nó có thể đạt đến tầm vóc là một bài thơ đặc sắc mẫu mực của thơ tự do hiện đại, khi xây dựng biểu tượng về người đàn bà.
    
Nguyn Th Xuân
GV. Trưng Tiu hc, Ba Đình, Hà Ni
 
                    Đã đăng trên một số trang mạng trong nước & thế giới:
  http://to-quoc01.blogspot...-ba-cua-pham-ngoc.html
http://nguyenduyxuan.net/...ngc-thai-nguyn-th-xuan
https://nghiathuc.wordpre...ba-cua-pham-ngoc-thai/
http://www.nhuygialai.com...ua-pham-ngoc-thai.html
http://www.vandanviet.com...an-mot-bai-tho-ac.html
http://tranmygiong.blogti...n_ba_c_a_ph_m_ng_c_t_1
  http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4351
  http://lexuanquang.org/post/10006/
  http://chuvuongmien.blogs...am-ngoc-thai.html#more
http://thachda.blogtiengv..._an_ba_c_a_ph_m_ng_c_t
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_9.php

 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.10.2015 11:20:29 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 10.10.2015 23:28:29
 
                 
                   Bài ca tượng đài HCM
 


Tôi lại viết bài thơ đất nước
Đất nước mạt và buồn
Nhìn lên bầy quan tham
Quốc gia thì băng hoại
Trông xuống oan khuất chốn dân tình
ngập trong bao kiếp đời khổ ải.

Ông Hồ Chí Minh ơi ! Ông khóc hay ông cười?
Chúng đang đua nhau lấy trăm nghìn tỷ
                                             dựng tượng đài ông
Đấy là tiền thuế, máu của nhân dân
Con cháu đang bám vào cái xác của ông
Để đầu cơ chính trị. Tàn phá nước non.

Ông có nghe tiếng dân bao miền oán than
Bao làng quê vẫn vô cùng nghèo khổ
Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc
Trẻ thơ chưa đủ trường để học
Người ốm đau bệnh tật thiếu bệnh xá, thuốc men
Mà chúng còn định dùng 1.400 tỷ
                                                           để dựng tượng đài ông
Máu và nước mắt dân đen ngập tràn trong đó...
Làm sao nuốt nổi, ông ơi !?

Ông khóc hay ông cười?
Bọn tham nhũng đang bám vào tượng đài ông mà phá nước
Đẩy nền kinh tế xã hội tới kiệt cùng
Nợ vay nước ngoài ngày càng chồng chất
Có ai nghĩ: Theo chủ nghĩa Marx - Lenin lại sai đường, lạc bước? (*)
Có ai nghĩ: Chính chủ nghĩa tư bản
                                                     mới là con đường đưa dân tộc đi lên !?
Giá khi đó ông đừng thân Tàu.
                                                  Thân Mỹ có hơn không?

Hôm nay chúng định dùng 1.400 tỷ dựng tượng đài ông
Giáo sư Ngô Bảo Châu thì bảo:
- Nếu không thần kinh cũng là đồ khốn nạn.
Mà không phải chỉ một thằng khốn nạn
Trong chính phủ, trung ương liệu đếm có hết tên?

Ông có thấy không? Những bọn cẩu quan...
Tàn hại giống nòi
Nên khóc hay nên cười?
Chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít
                                      đang hoàn toàn sụp đổ, ông ơi ! (*)
1.400 tỷ để dựng tượng đài
Liệu ông có nuốt trôi?

Mà ông cũng chỉ được một phần
Ai nói chúng sẽ không chia nhau, lại quả?
Hậu duệ giờ quá nhiều "phường mèo mả..."
Ông Hồ Chí Minh ơi !
 
Hà Nội. Tháng 8 - 2015
Phạm Ngọc Thái

(*) Chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nói: đến cuối thế kỉ XXI này, không biết có còn CNXH không?

               Đã đăng trên các trang mạng Việt trong nước và hải ngoại:
http://www.chinhluanvn.co...i-ca-tuong-ai-hcm.html
http://danlambaovn.blogsp...ng-ai-ho-chi-minh.html
https://badamxoevietnam2....tuong-dai-ho-chi-minh/
 https://nghiathuc.wordpre...i-minh-pham-ngoc-thai/
 
http://www.namuctuanbao.net/1010/tho_NamUc.php
 
https://www.danluan.org/t...-tuong-dai-ho-chi-minh
 
http://www.vanews.org/201...a-tuong-ai-ho-chi.html

http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-86_4-6322_15-2/
http://thachda.blogtiengv...hi_minh_ph_m_ng_c_thai
  http://dannews.info/2015/...enin-bi-giat-do-o-nga/
  http://vanghe.blogspot.co.../bai-viet-hay2499.html
  http://hung-viet.org/blog...tuong-dai-ho-chi-minh/
  http://vietlist.us/SUB_An...bandoc1508270012.shtml
 
http://lhccshtd.org/LHCCS...ngdaiHCM_2015AUG26.htm
 
http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=11242
http://www.vietinfo.eu/th...tuong-ho-chi-minh.html
http://baotoquoc.com/2015...tuong-dai-ho-chi-minh/
http://lexuanquang.org/post/9882/
http://chuvuongmien.blogs...inh-tho-pham-ngoc.html
http://huongnguyenhoang.b...nh-pham-ngoc.html#more
http://www.truclamyentu.i...-ca-tuong-dai-hcm.html
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.10.2015 13:16:40 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Một Huyền Thoại Thi Ca - 09.11.2015 10:59:41
 
PHẠM NGỌC THÁI VÀ BẢN TÌNH MƯA TUYỆT VỜI
                                            Hoàng Thị Thảo



 

             MƯA BAY TRONG TIẾNG CHUÔNG

Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện
Nam-mô-a-di-đà!
Trong khúc mưa bay âm vang trời đất
Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là...


Vi vút tầng cao con lá rụng
Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ
Chân ta bước dưới khuông trời thành phố
Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ.


Thoắt tình đã vào xa vắng
Mình anh với bóng nhớ hoài em
Hồn như cánh chim vô định
Mái tóc em bay làn mưa mênh mang.


Ôi, tiếng chuông gảy lên bao ký ức?
Kia không gian thao thiết gót chân mềm
Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm.

                    Thơ PHẠM NGỌC THÁI
           Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai" 2012
 


                 Hoàng Thị Thảo

 
LỜI BÌNH: Trong cái làn mưa bay dưới khuông trời thành phố, có một người thi sĩ đang lang thang nhớ bóng người yêu:
Vi vút tầng cao con lá rụng
Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ
Chân ta bước dưới khuông trời thành phố
Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ

Đọc đến những từ "con lá rụng": Tức là hình ảnh hiu hắt của vài chiếc lá đang bay vi vút giữa tầng không, mà tác giả gọi là "con lá..." - Tôi bỗng liên tưởng đến câu thơ trong KIỀU của Nguyễn Du:
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Đây là hình ảnh của vầng trăng khuyết cô quắt... khi nhớ đến bóng người đi xa. Mảnh trăng cô độc ấy nửa thì lọt qua song cửa soi lên chiếc giường chăn đơn gối chiếc của Kiều, nửa thì dõi theo cái bóng đã khuất dặm trường của chàng Thúc Sinh ở tận phương trời. Trở lại với bài "Mưa bay trong tiếng chuông" - Tuy hình ảnh ở bài thơ này của Phạm Ngọc Thái không đến mức sầu muộn, thê lương như hình tượng câu thơ trong Kiều? Song, những "con lá rụng..." đang bơ vơ bay giữa khuông trời của đêm cô đơn kia, cũng làm cho lòng ta xốn xang cùng với nhà thơ.
Những tiếng sóng bên hồ lao xao vỗ theo bước chân anh. Cảnh mưa đó lại được hoà tấu bằng sự đồng vọng của tiếng chuông chùa buồn. Đó cũng chính là tiếng lòng thương nhớ của anh thi sĩ với người con gái đã xa xăm.
Ba cái cảnh: Trời mưa, tiếng chuông và sự cô đơn... để tạo nên một bản tình xô-nát âm vang trong trời đất. Giọng điệu thi ca trầm... ngân nga... như câu thơ đã viết:
Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ
Tôi trở lại với đoạn thơ đầu:
Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện
Nam-mô-a-di-đà!
Trong khúc mưa bay âm vang trời đất
Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là...

Suốt bài thơ... làn mưa và tiếng chuông chùa cứ thao thiết trong nhau, hoà vào tâm tình của người thi sĩ. Cái tiếng chuông thỉnh lên lời cầu nguyện "nam-mô-a-di-đà" ấy, phải chăng cũng là tiếng khắc khoải nguyện cầu thao thiết trong anh? Anh đi trong khúc mưa bay với một tâm hồn trống trếnh, chơi vơi: Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là... /- Sự mơ màng như thể đang dẫn người đến bên cửa phật. Một bài thơ tình ở chốn thánh thần, làm cho tình thi vừa thân thương lại thêm màu huyền hoặc.
Đến đoạn thứ ba thì người mới thực sự tả về em:
Thoắt tình đã vào xa vắng
Mình anh với bóng nhớ hoài em
Hồn như cánh chim vô định
Mái tóc em bay làn mưa mênh mang.

Bóng của người con gái được hiện ra cũng rất hư hao, chỉ nhìn thấy trong làn mưa mái tóc em đang vương bay. Tâm hồn nhà thơ thì "như cánh chim vô định" - Nghĩa là mông lung, không có bến bờ, ở cõi vô tận vô cùng. Một tâm hồn lạnh lẽo, cô liêu. Hình ảnh thơ như ẩn, như hiện đưa ta hút sâu vào cùng tâm trạng của anh. Cũng chẳng khác là bao với tâm trạng của kẻ nhớ người ở phương trời trong Chinh Phụ Ngâm:
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây

 


Hình tượng thơ của bài "Mưa bay trong tiếng chuông" được sử dụng đầy chất triết luận hoặc hội hoạ: Hồn vô định, mưa mênh mang, khúc mưa bay, vọng giữa mưa đêm, khuông trời, gió... trăng... dìu dặt, người và bóng, bản nhạc thơ v.v.... Không gian thực mà ảo. Hiện tại và quá khứ đan xen trong nhau để nói về nỗi tình da diết của nhà thơ với người thiếu nữ đã xa. Tôi xin bình sang đoạn thơ cuối cùng:
Ôi, tiếng chuông gảy lên bao ký ức?
Kia không gian thao thiết gót chân mềm
Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm.

Những kỉ niệm trong ký ức tràn về theo tiếng chuông. Hình ảnh người con gái từ câu thơ: Mái tóc em bay làn mưa mênh mang /- Đến đây, nhà thơ nhớ lại những ngày cùng dạo bước bên người yêu: Kia không gian thao thiết gót chân mềm /- Cả bóng trăng khuya, con gió dặt dìu, tiếng chuông và làn mưa... cùng hoà trong bản tình xô-nát bên hồ ấy:
Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm...

Hai câu cuối thật hay! Không chỉ với giọng thơ khoan nhặt, mà cả bản tình như được tắm vào trong vũ trụ cuộc sống và tình yêu con người. "Mưa bay trong tiếng chuông" như có tiếng ru thần diệu thấm vào hồn ta, để lòng ta say. Một cái say thâm trầm, da diết. Ngôn ngữ và làn điệu tha thiết. Hình ảnh lại hư hao như ở chốn bồng lai, cõi phật... cuốn hút cảm nhận của ta đắm chìm vào trong đó.
Trong đoạn thơ cuối này, ta thấy cả khoảng không gian của bài thơ đều qui tụ vào đây. Từ gió, ánh trăng cùng làn mưa đêm và tiếng chuông chùa ngân nga... ẩn hiện bóng hình với bước chân thiếu nữ. Đó là một bản tình ca đằm đìa, xao xiết dưới gió trăng - Như câu thơ đã kết:
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm
Nói "Mưa bay trong tiếng chuông" là một bài thơ tình hay hoặc "rất hay!..." cũng đều thoả đáng. Nhưng cảm yêu cái tiếng mưa, những hạt mưa bay đã được thi sĩ Phạm Ngọc Thái gieo suốt bài thơ mà tôi bảo rằng: Đó là một bản tình mưa tuyệt vời !
       10/2015
HOÀNG THỊ THẢO

 
             Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới:
  http://baotoquoc.com/2015...-tuyet-voi/#more-59505
http://datdung.com/pham-n...et-voi-hoang-thi-thao/
http://tranmygiong.blogti...1/p5818586#more5818586
http://www.tiengchimviet....rong-tieng-chuong.html
http://www.diendantrungho...d56a12a44c95f0aea9601f
https://nghiathuc.wordpre...et-voi-hoang-thi-thao/
  http://www.nhuygialai.com...inh-mua-tuyet-voi.html
http://goldonline.vn/Tran...rong-tieng-chuong.aspx
  http://chuvuongmien.blogs...nh-mua-tuyet.html#more
  http://lexuanquang.org/post/10271/
http://thachda.blogtiengv...n_tinh_m_a_tuy_t_v_i_1
http://huongnguyenhoang.b...ong-tho-pham.html#more
http://binhtrung.org/p195a36030/bbb
http://www.vanews.org/201...rong-tieng-chuong.html
http://nguyenduyxuan.net/...-va-bn-tinh-ma-tuyt-vi
http://www.vandanviet.com...-ngoc-thai-va-ban.html
http://vannghequangtri.bl...-ngoc-thai-va-ban.html
  http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_4.php
  http://www.saimonthidan.c...?c=article&p=11610
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4441

 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.11.2015 10:45:07 bởi Nhân văn >
nhanvan

Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 7 của 10 trang, bài viết từ 181 đến 210 trên tổng số 293 bài trong đề mục