150 Nhà thơ Nga
Thay đổi trang: << < 78 > | Trang 7 của 8 trang, bài viết từ 91 đến 105 trên tổng số 109 bài trong đề mục
cacbac 14.05.2010 15:21:11 (permalink)


Vasily Dmitryevich Fedorov (tiếng Nga: Василий Дмитриевич Фёдоров, 23 tháng 2 năm 1918 – 19 tháng 4 năm 1984) – nhà văn, nhà thơ Nga Xô Viết.

Tiểu sử:

Vasily Fedorov sinh ở Kemerovo, là con thứ 9 trong một gia đình công nhân đông con. Tuổi thơ và tuổi trẻ sống ở làng quê. Làm việc ở nông trường rồi vào học trường trung cấp hàng không ở Novosibirsk. Năm 1938 tốt nghiệp trường trung cấp hàng không được phân công đến làm việc ở nhà máy chế tạo máy bay Yarkutsk. Từ năm 1938 đến năm 1947 liên tục làm việc ở các nhà máy vùng Siberia. Năm 1939 in một số bài thơ ở báo Sự thật thanh niên của tỉnh. Sau đó tiếp tục in thơ ở các tạp chí vùng Siberia.

Năm 1944 vào học hệ tại chức trường viết văn M. Gorky. Sự làm quen với Aleksandr Tvardovsky và sự đánh giá cao của dư luận về trường ca mới nhất lúc đó Марьевская летопись đã giúp cho Vasily Fedorov được chuyển sang hệ chính qui. Năm 1947 in cuốn sách đầu tiên: Лирическая трилогия. Năm 1950 ông tốt nghiệp trường viết văn M. Gorky. Năm 1955 in quyển sách thứ 2: Лесные родники. Hai tác phẩm: Третьи петухиСедьмое небо được tặng Giải thưởng mang tên M. Gorky của Liên bang Nga năm 1968.

Thơ trữ tình của Vasily Fedorov không chỉ nổi tiếng ở Nga mà cả ở nhiều nước khác. Ông được tặng 2 huân chương Cờ đỏ và 1 huân chương Cách mạng Tháng Mười. Năm 1979 ông được tặng Giải thưởng Nhà nước Liên Xô. Vasily Fedorov mất ngày 19 tháng 4 năm 1984.

Tỉnh Kemerovo đã thành lập giải thưởng Vasily Fedorov để trao cho các nhà thơ trẻ tài năng của vùng Siberia. Ở làng quê của ông người ta đã lập bảo tàng về ông.

Tác phẩm:
*Лирическая трилогия, 1947
*Лесные родники, 1955
*Марьевские звезды, 1955
*Зрелость, 1953
*Добровольцы, 1955
*Ленинский подарок, 1954
*Дикий мед, 1958
*Белая роща, 1958
*Третьи петухи, 1966 год
*Седьмое небо, 1967
*Проданная Венера»(1958),
*Женитьба Дон-Жуана, 1977



Một số bài thơ:

PHỤ NỮ VÀ CÁI CHẾT

Nghe đã quen
Như trong cổ tích
Những người phụ nữ bỏ ta đi mất.
Họ ra đi
Và mang theo mình
Vẻ lạnh lùng
Của biết bao đôi mắt.

Một thuở dịu dàng
Say đắm, yêu thương
Đã từng lâu lắm
Ta say đắm, ngất ngư.
Thế mà chẳng lẽ
Trong con người kia
Không còn một giọt nhỏ
Một giọt rượu của ta?

Yêu làm gì?
Đau khổ để làm gì?
Đôi mắt người khác
Nhìn vào để làm chi?
Than ôi! Trí tuệ không hiểu ra
Hai điều bí mật:
Phụ nữ và cái chết!





SAY TÌNH

Cơn say tình
Với tôi dễ thương và thân thiết
Nhưng thật buồn cười
Cho một người
Chàng đào hoa này đã lập
Một danh sách dài
Những chiến tích
Những “tình yêu”.

Marina
Nina
Sasha
Masha.
Tuy thế
Những khi gặp gỡ
Giống như gặp gỡ của chim
Với người này tất cả
Vẫn là một người như thế
Được nhân lên thành
Một trăm phụ nữ.

Tôi mừng vui khôn xiết
Vì tôi có một niềm vui khác
Số phận của tôi
Không giống với người:
Thay đổi
Nhưng không đổi thay
Cả một trăm người phụ nữ
Tôi thấy trong một người.


GIÁ NHƯ…

Giá như
Ta là Thượng Đế
Thì ta sẽ
Biết được điều là
Ta tạo ra phụ nữ.

Giá như
Ta là nhà điêu khắc
Thì ta sẽ gọt
Từ đá trắng tạo ra
Một người phụ nữ!

Giá như
Phẩm màu được người cho
Thì ta đã vẽ
Bằng bút lông của ta
Một người phụ nữ!

Nhưng
Không phải cái người phụ nữ xưa đã từng
Cũng không phải người phụ nữ đã trở thành
Người vợ!

#91
    cacbac 28.05.2010 13:08:49 (permalink)


    Vasily Ivanovich Lebedev-Kumach (tiếng Nga: Васи́лий Ива́нович Ле́бедев-Кума́ч) (5 tháng 8 năm 1898 – 20 tháng 2 năm 1949) – nhà thơ Nga Xô Viết, tác giả lời của nhiều bài hát nổi tiếng thời Liên Xô như: Đất quê ta mênh mông (Широка страна моя родная), Cuộc chiến tranh thần thánh (Священная война), Cơn gió hát (Веселый ветер).

    Tiểu sử:
    Vasily Lebedev-Kumach sinh ở Moskva trong gia đình một thợ đóng giày. Làm thơ từ năm 13 tuổi, bắt đầu in thơ từ năm 1916. Những năm 1919 – 1922 vừa học tại khoa Lịch sử - ngôn ngữ Đại học Quốc gia Moskva và làm ở phòng tuyên huấn của quân đội, cộng tác viên của các tờ báo Беднота, Гудок, Рабочая газета, Крестьянская газета, Красноармеец và tạp chí Крокодил.

    Từ năm 1929 Lebedev-Kumach tham gia viết phê bình sân khấu và lập một số nhóm văn nghệ nghiệp dư của công nhân. Năm 1934 cùng với nhạc sĩ Isaak Dunaevsky viết bài hát Марш веселых ребят cho bộ phim Веселые ребята và trở thành nhà thơ nổi tiếng viết lời bái hát. Thời kỳ Chiến tranh Vệ quốc ông làm cán bộ chính trị trong quân chủng hải quân, cộng tác với báo Красный флот. Thời kỳ này ông viết nhiều bài thơ được phổ nhạc thành những bài hát động viên toàn dân đánh giặc và ca ngợi lòng dũng cảm của các chiến sĩ ngoài mặt trận như В бой за Родину!, Будем драться до победы, Вперед к победе!, Комсомольцы-моряки. Đặc biệt bài thơ – bài hát Cuộc chiến tranh thần thánh (Священная война) trở thành một kiểu «Bài ca chính thức” về chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Bài thơ này được Lebedev-Kumach viết hai ngày sau khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, ngay lập tức được nhạc sĩ Alexander Vasilyevich Alexandrov phổ nhạc và được các nhạc công, ca sĩ biếu diễn 5 lần ngay trong ngày hôm đó. Thập niên 1990 Lebedev-Kumach bị kiện về chuyện đạo văn liên quan đến phần lời của bài hát này nhưng cuối cùng tòa xử cho ông thắng kiện trong vụ án này.

    Lebedev-Kumach được tặng Giải thưởng Stalin (Giải thưởng Nhà nước Liên Xô) và nhiều huân, huy chương của nhà nước Liên Xô. Ông mất ở Moskva.

    Tác phẩm:
    *Развод, 1925 г.
    *Чаинки в блюдце, 1925 г.
    *Со всех волостей, 1926 г.
    *Печальные улыбки, 1927 г.
    *Людишки и делишки, 1927 г.
    *Книга песен, 1938
    *Моим избирателям, 1938
    *Газетные стихи 1938 г. (1939),
    *Песни, 1939; 1947
    *Колючие стихи, 1945
    *Стихи для эстрады, 1948
    *Петина лавка, 1927
    *Про умных зверюшек, 1939
    *Под красной звездой, 1941


    Thư mục:
    *Лебедев-Кумач В. Лирика. Сатира. Фельетон. М. — Л., 1939
    *Лебедев-Кумач В. Песни на стихи Василия Ивановича Лебедева-Кумача. М., 1980
    *Данилин Ю. Воспоминания о Лебедеве-Кумаче. — Москва, 1982, № 9
    *Лебедев-Кумач В. Избранное: Стихотворения. Песни. М., 1984
    *Минералов Ю.И. Так говорила держава: XX век и русская песня. М., 1995

    Một số bài thơ:

    CUỘC CHIẾN TRANH THẦN THÁNH

    Hãy đứng lên, đất nước rộng mênh mông
    Hãy đứng lên, vào trận đòn quyết tử
    Với phát xít, với sức mạnh tối đen
    Với bè lũ đến muôn đời nguyền rủa.

    Hãy để cho cơn cuồng nộ thiêng liêng
    Sục sôi lên như là ngọn sóng
    Đang diễn ra cuộc chiến tranh nhân dân
    Cuộc chiến tranh thần thánh!

    Giống như hai thái cực – âm và dương
    Trong tất cả mọi thứ đều thù nghịch
    Ta đấu tranh – vì ánh sáng, hòa bình
    Vì vương quốc bóng tối – quân phát xít.

    Ta giáng trả những kẻ hòng bóp nghẹt
    Ý tưởng tự do như lửa cháy bừng
    Ta giáng trả bọn áp bức, lũ cướp
    Giáng đòn đau lên những kẻ bạo hành.

    Những đôi cánh màu đen không thể dám
    Bay trên bầu trời Tổ quốc yêu thương
    Và những cánh đồng quê ta rộng lớn
    Không cho quân thù giày xéo, giẫm lên.

    Với lũ phát xít quỉ ma, thối nát
    Đạn ta xuyên vào giữa trán quân thù
    Cho lũ cặn bã, cho loài ruỗng mục
    Của loài người – dành sẵn những mồ ma.

    Hãy đứng lên, đất nước rộng mênh mông
    Hãy đứng lên, vào trận đòn quyết tử
    Với phát xít, với sức mạnh tối đen
    Với bè lũ đến muôn đời nguyền rủa.

    Hãy để cho cơn cuồng nộ thiêng liêng
    Sục sôi lên như là ngọn sóng
    Đang diễn ra cuộc chiến tranh nhân dân
    Cuộc chiến tranh thần thánh!




    NHỮNG LỜI GIẢN DỊ

    Tình yêu và sự dịu dàng
    Như đàn chim bay về vui sướng
    Hãy nhớ, khi người ta hỏi: “Anh của em?”
    Và nói rằng: “Em của anh!” với bạn.

    Những lời giản dị
    Những lời buồn cười
    Ở khắp nơi và muôn đời vẫn thế
    Nhưng khi tình lên ngôi
    Thì tất cả rồi đều lại sẽ
    Như lá mùa xuân, thật thắm tươi!

    Thật dễ chịu buông bàn tay yêu mến
    Anh cất bước đi làm
    Khi ở nhà vẫn còn người bạn
    Và sẽ thì thầm cùng anh.

    Những lời giản dị
    Những lời buồn cười
    Ở khắp nơi và muôn đời vẫn thế
    Nhưng khi tình lên ngôi
    Thì tất cả rồi đều lại sẽ
    Như lá mùa xuân, thật thắm tươi!

    Dù lúc này đang đau khổ
    Dù vẫn có những giận hờn
    Nhưng giờ khắc khó chịu đi nhanh
    Và những bờ môi yêu thương sẽ có.

    Những lời giản dị
    Những lời buồn cười
    Ở khắp nơi và muôn đời vẫn thế
    Nhưng khi tình lên ngôi
    Thì tất cả rồi đều lại sẽ
    Như lá mùa xuân, thật thắm tươi!

    Một khi hãy còn mùa xuân
    Và con tim hãy chưa ngừng đạp
    Một khi còn mặt trời, mặt trăng
    Thì chúng sẽ vang lên như tiếng nhạc.

    Những lời giản dị
    Những lời buồn cười
    Ở khắp nơi và muôn đời vẫn thế
    Nhưng khi tình lên ngôi
    Thì tất cả rồi đều lại sẽ
    Như lá mùa xuân, thật thắm tươi!


    HÃY GÌN GIỮ TÌNH YÊU

    Nếu nụ cười âu yếm đã không còn
    Và bờ mi mảnh mai chau lại
    Và nếu như người bạn đã quay lưng
    Thì nghĩa là đã đến thời gian
    Và tình sẽ ra đi mãi mãi.

    Hãy đuổi theo tình
    Hãy níu lấy tình
    Hãy giữ gìn, bênh vực
    Không thì hạnh phúc sẽ quay lưng
    Và sẽ nói với bạn rằng: “Vĩnh biệt!”

    Nếu cái miệng xinh không nở nụ cười
    Và đôi má đã không còn đỏ lại
    Nếu con tim yêu thương không sục sôi
    Thì nghĩa là niềm vui sẽ chia tay
    Và tình sẽ ra đi mãi mãi.

    Hãy đuổi theo tình
    Hãy níu lấy tình
    Hãy giữ gìn, bênh vực
    Không thì hạnh phúc sẽ quay lưng
    Và sẽ nói với bạn rằng: “Vĩnh biệt!”


    BẠN THÂN YÊU

    Bạn thân yêu, xin bạn đừng hốt hoảng
    Bởi hôm nay bạn nhìn thấy tôi buồn
    Vì mặt trời không muôn đời tỏa sáng
    Vì lúc này đang có bóng mây đen.

    Nếu trong cơn nóng không có mưa dông
    Và cỏ hoa không nở trên đồng cỏ
    Vẫn biết nước mắt làm nhẹ nỗi buồn
    Nhưng tuôn nước mắt thì tôi không thể.

    Tôi không thể, không phải loài như vậy
    Chỉ một lần tôi để nước mắt tuôn
    Đấy là một lần, khi trong trận chiến
    Khi những bạn bè đồng đội tôi chôn.

    Còn bây giờ đừng sợ, người anh em
    Nỗi buồn tôi sẽ qua như sương sớm
    Lên vai tôi, hãy đấm như mọi lần
    Và tôi lại sẽ mỉm cười với bạn.

    Bạn đừng nhát gan, bạn đừng lùi bước
    Nơi đâu cần sẽ có những anh hùng
    Còn bây giờ… bạn cùng tôi hãy hát
    Vì điều này, bài hát được trời sinh.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.06.2010 13:47:10 bởi cacbac >
    #92
      cacbac 28.05.2010 13:11:20 (permalink)


      Victor Fedorovich Bokov (tiếng Nga: Ви́ктор Фёдорович Бо́ков, 6 tháng 9 năm 1914 – 15 tháng 10 năm 2009) – nhà thơ, nhà văn Nga và Xô Viết.

      Tiểu sử:
      Victor Bokov sinh ở làng Yazvitsy, tỉnh Vladimir (nay thuộc tỉnh Moskva) trong một gia đình nông dân. Học trung cấp sư phạm, từng làm thợ tiện, kỹ sư chăn nuôi và phục vụ trong quân đội. Năm 1938 tốt nghiệp trường viết văn M. Gorky. Năm 1942 nhập ngũ nhưng chỉ được mấy tháng thì bị bắt giam vì tội “tuyên truyền” và bị cho đi cải tạo ở Siberi đến năm 1947.

      Victor Bokov in những bài thơ đầu tiên từ năm 1930 ở báo Вперед. Năm 1935 in thơ ở các tạp chí Колхозные ребята, Дружные ребята. Thơ ông tiếp tục truyền thống thơ của Koltsov, Nekrasov, Yesenin, Klyuev, Tvardovssky, Isakovsky – nhưng trước hết là mang đậm phong cách của thơ ca dân gian Nga.

      Bokov là Hội viên Hội Nhà văn Liên Xô từ năm 1941. Từ năm 1985 ông là thành viên của Ban thư ký Hội Nhà văn, thành viên Hội đồng kiểm duyệt (1986 – 1991), thành viên Ban biên tập báo Nước Nga văn học (Литературная Россия). Từ năm 1994 ông là thành viên của Hội đồng sáng tác Hội Nhà văn Nga. Ông được tặng thưởng nhiều huân, huy chương của Nhà nước Liên bang Nga.

      Victor Bokov mất ở Moskva năm 2009, hưởng thọ 95 tuổi.

      Tác phẩm:
      *Яр-Хмель: стихи.- М.: Молодая гвардия, 1958. — 208 с.: ил.
      *За́струги: стихи.- М.: Сов. писатель, 1958. — 287 с.: ил.
      *Над рекой Истермой:: Записки поэта: Книга прозаических миниатюр.- М.: Сов. писатель, 1960. — 208 с.: ил. — То же. — М.: Сов. писатель, 1963. — 207 с.: ил., портр.
      *Весна Викторовна: книга стихов.- М.: Молодая гвардия, 1961. — 303 с.
      *Ветер в ладонях: новая книга стихов.- М.: Сов. писатель, 1962. — 288 с.: портр. на суперобл.
      *Лирика.- М.: Худож. лит., 1964. — 287 с.
      *Лирика. — М.: Правда, 1964. — 32 с.
      *На Дону: стихи. — Ростов н/Д: Кн. изд-во, 1965. — 20 с.
      *У поля, у моря, у рек: стихи. — М.: Сов. писатель, 1965. — 155 с.: ил.
      *Избранная лирика. — М.: Молодая гвардия, 1966. — 32 с.
      *Лето-мята: стихи. — М.: Сов. Россия, 1966. — 214 с.: ил.
      *Алевтина: новая книга стихов.- М.: Сов. писатель, 1968. — 159 с.
      *Свирь: поэма и стихи.- М.: Моск. рабочий, 1968. — 96 с.: портр.
      *Избранное.- М.: Худож. лит., 1970. — 479 с.: ил., портр.
      *Когда светало: новая книга стихов.- М.: Современник, 1972. — 127 с.: ил., портр.
      *Стихотворения и песни.- М.: Худож. лит., 1973. — 222 с.: портр.
      *Избранные произведения: в 2-х т. — М.: Худож. лит., 1975. Т. 1. Стихотворения. — 270 с.: портр. Т. 2. Стихотворения. Песни. Над рекой Истермой: записки поэта. — 334 с.
      *Три травы: новая книга стихов.- М.: Сов. писатель, 1975. — 302 с.: ил.
      *В трех шагах от соловья: новая книга стихов.- М.: Молодая гвардия, 1977. — 32 с.: ил., портр.
      *Лирика.- М.: Правда, 1977. — 160 с.
      *Луговая рань: избранные стихи.- Грозный: Чеч.-Инг. кн. изд-во, 1978. — 256 с.: ил.
      *Ельничек-березничек: стихи.- М.: Современник, 1981. — 319 с.: 11 л. ил.
      *Стихотворения.- М.: Сов. Россия, 1982. — 208 с.
      *Собрание сочинений: в 3 т.- М.: Худож. лит., 1983—1984. Т. 1. Стихотворения. — 607 с.: ил. Т. 2. Стихотворения. — 655 с. Т. 3. Песни. Поэмы. Над рекой Истермой: записки поэта. — 462 с.
      *Стежки-дорожки: новая книга стихов.- М.: Сов. писатель, 1985. — 191 с.: ил.
      *Про тех, кто летает: стихи.- М.: Дет. лит., 1986. — 24 с.
      *Весенние звоны: новая книга стихов.- М.: Моск. рабочий, 1989. — 237 с.
      *День за днем: стихотворения.- М.: Молодая гвардия, 1991. — 158 с.
      *Стою на своем!: стихи.- М.: Сов. писатель, 1992. — 272 с.: фото.
      *Около дома: стихотворения.- М.: РБП, 1993. — 7 с.
      *Любовь моя Россия!.- М.: Эллис Лак, 1994. — 208 с.
      *В гостях у жаворонка: новая книга стихов.- Грозный: Чеч. госиздат, 1994. — 150 с.
      *Боковская осень: стихи.- М.: Совр. писатель, 1996. — 320 с.: фото.
      *Россия в сердце не случайна: литературное приложение.- Ставрополь: изд-во СКИПКРО, 1997. — 190 с.
      *Травушка-муравушка: новая книга стихов.- Оренбург: ДИМУР, 1997. — 260 с.: ил.
      *Жизнь — радость моя: избранное.- М.: Эллис Лак, 1998. — 672 с.: фото.
      *Стихи из Переделкино. — М.: Сов. писатель, 1999. — 240 с.
      *Чистый четверг: стихи, песни.- М.: ЭКСМО-Пресс, 2001. — 384 с.: ил.
      *Амплитуда: книга стихов.- М.: Раритет, 2002. — 349 с.
      *Повечерье: новая книга лирики.- М.: Эллис Лак, 2002. — 479 с.: ил.
      *Лик Любви: избранное.- М.: НП «Закон и Порядок», 2004. — 415 с..

      Một số bài thơ:


      YÊU NHỮNG ĐỘNG TỪ CỦA EM

      Anh rất yêu những động từ của em
      “Anh đừng đợi”, “đừng khóc”, “em không đến”.
      Anh thấy yêu những bàn tay của em
      Những bàn tay bắt bóng.

      Anh thấy yêu mỗi khi em cười
      Môi mở to – tuyết trong cửa miệng
      Khi bỗng nhiên em bước vào trò chơi
      Môn bóng chuyền hoặc là môn bóng ném.

      Anh thấy yêu vẻ lấp lánh gót chân
      Yêu dáng vẻ của bé con tinh nghịch
      Yêu ngọn gió thổi làm bay mớ tóc
      Buông lòa xòa trên vầng trán của em.

      Anh sẽ không làm chủ với em đâu
      Không mùa hè, chẳng mùa đông băng giá
      Chỉ giá mà có em khắp mọi ngả
      Chỉ giá được em hát ở mạn tàu.

      Chỉ giá có em vui vẻ đùa chơi
      Để mái tóc trên mạn tàu buông thõng
      Để giống như mặt trời con chiếu sáng
      Cho anh, cho tất cả, và chẳng cho ai!




      TƯỞNG NHỚ ESENIN

      Trên nghĩa địa Vagankovsky mùa thu và đất vàng
      Bầu trời chia hai – màu xanh và xám
      Tiếng xẻng cuốc nhưng đất không thành hoang
      Mẹ hiền có nghe tiếng nhạc đời sống động.

      Những người đang sống ra mộ nhà thơ
      Với nỗi buồn và với niềm khoái chá
      Anh là Hy vọng, Sự thăng hoa của nước Nga
      Bởi anh đủ sức làm điều bất tử.

      Anh là ai?
      Thần thánh hay kẻ vô thần?
      Thiên thần hay thổ phỉ?
      Sao anh vẫn làm rung động con tim
      Mọi con người trong thời nguyên tử?
      Tất cả bậc thang của sự vinh quang
      Cấp bậc và bảng hàm
      Trước một danh hiệu giản đơn:
      Anh – linh hồn của người trần thế!

      Trong anh đã từng có tất cả
      Sự ngang tàng, vẻ tĩnh lặng, nhún nhường
      Chỉ sông Volga đánh giá sự ngang tàng như thế
      Có phải vậy chăng mà mỗi bài thơ
      Như sự thừa nhận của chú bê
      - Ta yêu loài hoa cỏ!

      Ánh hoàng hôn và cánh đồng tuyết trắng
      -Hãy thay lời! – chúng lặng lẽ cầu xin
      Có phải thế mà anh giữ vẻ hờn ghen
      Mỗi lời Nga bằng bình minh chiếu sáng.

      Giờ vinh quang đã điểm cho thiên tài
      Anh xứng với điều này, con họa mi đồng ruộng.
      Ngôi mộ này, con đường dài vô tận
      Tôi quì lên để những giọt lệ rơi!

      #93
        cacbac 28.05.2010 13:15:31 (permalink)


        Ilya Lvovich Selvinsky (tiếng Nga: Илья́ Льво́вич Сельви́нский) (12 tháng 10 năm 1899 – 2 tháng 3 năm 1968) – nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch Nga Xô Viết, một đại diện tiêu biểu của nhóm văn học Constructivist (tạo dựng), chủ trương đưa ra một cách tiếp cận khoa học vào lĩnh vực thơ ca.

        Tiểu sử:
        Ilya Selvinsky sinh ở thành phố Simferopol, vùng Krym. Bố là người tham gia cuộc chiến tranh Nga – Thổ năm 1877. Sau chiến tranh bố trở thành người buôn da thú và theo tiểu sử tự thuật của Selvinsky thì “lúc đầu là thương gia, sau khi phá sản, là thợ thuộc da”. Nhà thơ tương lai học trường gymnazy ở Evpatoria. Từ năm 1915 bắt đầu in tác phẩm ở các tờ báo địa phương.

        Những năm Nội chiến Selvinsky tham gia Hồng quân. Thời kỳ Cách mạng tháng Mười bị Bạch vệ bắt ở Krym nhưng sau đó được trả tự do nhờ sự can thiệp của một số người bạn. Sau khi chính quyền cách mạng được thiết lập ở Krym, Selvinsky tham gia công tác xã hội đồng thời học ở khoa luật Đại học Tavrisky. Năm 1920 chuyển lên học ở Đại học Quốc gia Moskva và tốt nghiệp năm 1923. Năm 1926 xuất bản tập thơ đầu tiên Рекорды. Selvinsky trở thành chủ soái của nhóm Constructivist, gồm các nhà thơ, nhà văn như Eduard Bagritsky, Vera Inber, Vladimir Lugovskoy…

        Những năm 1927 – 1930 tham gia cuộc bút chiến với Vladimir Mayakovsky. Sau khi nhóm Constructivist giải thể, ông đi làm thợ hàn ở nhà máy điện. Năm 1933 làm phóng viên báo Sự Thật (Правда), đi nhiều nước Tây Âu và viết nhiều về những chuyến đi này. Thời kỳ Chiến tranh Vệ quốc ông làm phóng viên chiến trường. Sau chiến tranh ông tiếp tục sáng tác ở nhiều thể loại, hướng dẫn hội thảo ở trường viết văn, có những bài thơ ông viết chỉ 2 ngày trước khi từ giã cõi đời. Ilya Selvinsky mất ngày 2 tháng 3 năm 1968 ở Moskva.

        Tác phẩm:

        Thơ:
        *Гимназическая муза». Цикл стихов
        *1926 — «Рекорды». Поэтический сборник
        *1930 — «Декларация прав поэта»
        *1931 — «Электрозаводская газета» (стихи)
        *Тихоокеанские стихи»
        *Зарубежное»
        *Военные стихи (в том числе «Родина», «Кто мы?», «Я это видел!», «О ленинизме», «Аджи-Мушкай»; «Фашизм» (1941))
        *1947 — «Крым, Кавказ, Кубань». Сборник.
        Trường ca:
        *1920 — «Юность». Корона сонетов (поэма).
        *1923—1924, опубликована 1927 — Улялаевщина. Поэма
        *1927 — «Записки поэта». Поэма (стихотворная повесть, включает сборник стихов «Шелковая луна»)
        *1927—1928, опубликован 1929 — «Пушторг». Роман в стихах
        *1937—1938 — «Челюскиниана» поэма
        *1956 — вторая редакция «Улялаевщины»
        *1960 — «Арктика» роман
        *Три богатыря» (свод русских былин).
        Kịch:
        *1928 — «Командарм 2». Трагедия (в стихах)
        *1932 — «Пао-Пао». Драма
        *1933 — «Умка — Белый Медведь». Пьеса
        *1937 — «Рыцарь Иоанн». Трагедия (в стихах).
        *1941 — «Бабек» (Орла на плече носящий). Трагедия (в стихах).
        *Россия». Драматическая трилогия.
        *1941—1944 — 1. «Ливонская война» (в стихах).
        *1949 — 2. «От Полтавы до Гангута».
        *1957 — 3. «Большой Кирилл».
        *1943 — «Генерал Брусилов»,
        *1947 — «Читая Фауста». Трагедия
        *1962 — «Человек выше своей судьбы». Пьеса
        *Царевна-Лебедь». Лирическая трагедия
        *Тушинский лагерь»
        Văn xuôi:
        *1928 — «Кодекс конструктивиста»
        *1959 — «Черты моей жизни» Автобиографическая рукопись
        *1962 — «Студия стиха». Книга опубликовано в 1966 — «О, юность моя!» Роман (автобиографический).

        Một số bài thơ:

        VỀ TÌNH YÊU

        Nếu anh chết, nếu như anh biến mất
        Em đừng khóc. Em không thể nào đâu.
        Anh trong cuộc đời em, xin nói thật
        Anh không hề chiếm góc lớn nào đâu.

        Trong tim em có con chim gõ kiến
        Đục khoét tình đâu phải để cho anh.
        Anh là ai, về bản chất? – Người bạn
        Nhưng mà anh có đòi hỏi của mình.

        Có tình yêu vô hạn hơn đường vòng
        Tình yêu kia điên rồ và cuồng loạn
        Lại có – bồ câu bạn gái trở thành
        Chỉ cần bồ câu vuốt ve âu yếm.

        Chỉ quyến rũ bằng bờ môi dịu êm
        Bằng hơi thở ngọt ngào vây lấy nó
        Nhìn vào tim – thẳng thắn và thô lỗ
        Nghe vang lên trống ngực đập thình thình.

        Nhưng có tình bạn ở trên mặt đất
        Tình cảm này vẫn có ở trần gian
        Khi tiếng thỏ thẻ là không cần thiết
        Như cái bắt tay trong mỗi gia đình.

        Khi không cần gặp gỡ hay thư từ
        Nhưng mắt em mãi mãi nhìn ánh mắt
        Có vẻ như là trong cơ thể kia
        Một dây thần kinh mới vừa có mặt.

        Dù điều gì có xảy ra với em
        Và dù lời em có từng nguyền rủa
        Em cùng với số phận mình tàn phế
        Vẫn gặp nguyên ấm áp ánh mắt nhìn.

        Gặp nhau không như những kẻ hân hoan
        Nhưng thẳm sâu và trinh nguyên quá đỗi
        Đấy không phải là vì em tuyệt đối
        Mà chỉ giản đơn, em – chính là em.



        SONNET

        Bất tử không có. Vinh quang là sương khói
        Nhả khói dù cho đến cả ngàn năm
        Nhưng sẽ có người thay bạn nơi nào đấy
        Thiên tài ơi, bạn sẽ biến mất tăm.

        Vì lịch sử đã từng cần đến bạn
        Có thể chỉ là mấy phút giây thôi
        Nhưng thiên tài tội nghiệp đừng tuyệt vọng
        Hỡi người cô đơn buồn bã trên đời.

        Như ngày trước, bạn khao khát vĩnh hằng!
        Hãy để ý tưởng không xa rời bạn
        Rằng tiếng vọng từ tương lai xa xăm
        Bạn cần hơn huân chương và danh tiếng.

        Bất tử không có. Nhưng cuộc sống vẫn đầy tràn
        Khi cái chết được cuộc đời ban tặng.

        HẠNH PHÚC

        Thật hay khi hạnh phúc có nguyên nhân
        Trúng xổ số hay là thăng cấp bậc
        Sự phục thù giữ trong điều bí mật
        Gặp gỡ hay những vần thơ tài tình
        Phận số ở trong chiến công của mình
        Quả ô liu lớn lên trong bão táp
        Nhưng
        không có
        thứ gì hạnh phúc hơn
        Niềm hạnh phúc mà không có nguyên nhân.





        Varlam Tikhonovich Shalamov (tiếng Nga: Варла́м Ти́хонович Шала́мов) (18 tháng 6 năm 1907 – 17 tháng 1 năm 1982) – nhà thơ, nhà báo, nhà văn Nga, người có những tác phẩm viết về những trại cải tạo thời Xô Viết.

        Tiểu sử:
        Varlam Shalamov sinh ở Vologda. Bố là linh mục, mẹ là người nội trợ. Năm 1914 vào học trường gymnazy và học xong trung học sau khi cách mạng đã thành công. Năm 1923 lên Moskva làm thơ ở nhà máy. Từ năm 1926 đến 1929 học khoa luật Đại học Quốc gia Moskva (MGU). Thời kỳ này bắt đầu làm thơ và tham dự các nhóm văn học, dự các buổi hội thảo về văn học và tích cực tham gia các hoạt động xã hội, có liên hệ với các nhóm Trotsky của MGU, tham gia vào cuộc tuần hành kỷ niêm 10 năm Cách mạng tháng Mười với khẩu hiệu “Đả đảo Joseph Stalin!” và phổ biến những câu thêm vào “Di chúc của Lenin”. Ngày 19 tháng 12 năm 1929 Varlam Shalamov bị bắt, bị kết án 3 năm tù ở trại cải tạo Vishesky vùng Uran. Năm 1931 được ra tù và dược phục hồi danh dự. Năm 1932 trở về Moskva làm việc ở một số cơ quan báo chí.

        Tháng 2 năm 1937 Shalamov lại bị bắt vì “hoạt động phản cách mạng” và bị kết án 5 năm cải tạo ở Kolyma. Ngày 22 tháng 6 năm 1943 ông lại bị kết án thêm 10 năm nữa vì tội “tuyên truyền chống chính quyền Xô Viết” và tội gọi Ivan Bunin là nhà văn cổ điển Nga (… я был осуждён в войну за заявление, что Бунин — русский классик). Năm 1951 ông được ra trại nhưng vì bệnh tật nên không thể về Moskva ngay mà mãi đến năm 1956. Năm 1957 ông làm phóng viên ngoài biên chế của tạp chí Moskva, khi đó đã in thơ của ông. Năm 1961 xuất bản tập thơ Огниво. Năm 1979 ông bị mù và điếc, đi lại rất khó khăn.

        Tác phẩm của Shalamov được xuất bản ở London năm 1978 (bằng tiếng Nga), năm 1980 và 1982 ở Paris (bằng tiếng Pháp), năm 1981- 1982 ở New York (bằng tiếng Anh). Shalamov trở nên nổi tiếng khắp thế giới sau khi tác phẩm của ông được xuất bản ở nước ngoài.

        Varlam Shalamov mất ngày 17 tháng 1 năm 1982 ở Moskva.

        Thư mục:
        *Тимофеев Л. Поэтика лагерной прозы. — Октябрь, 1991, № 3
        *Шкловский Евг. Шаламов. М., 1991
        *Шаламов В. Колымские рассказы, тт. 1-2. М., 1992
        *Шаламов В. Колымские тетради. М., 1994
        *Шаламов В. Несколько моих жизней. Проза. Поэзия. Эссе. М., 1996

        Một số bài thơ:

        NGƯỜI TA BẮN VÀO TÔI

        Người ta bắn vào tôi trên đường biên
        Đường biên giới của lương tâm mình
        Máu của tôi tuôn chảy trên trang giấy
        Và đã làm cho bè bạn ưu phiền.

        Một khi để lạc mất con đường
        Ở giữa những ngọn đồi tua tủa
        Thì bạn bè bỏ qua rất nhiều thứ
        Họ đưa ra bản án rất nhẹ nhàng.

        Nhưng mà vẫn còn đây những tháp canh
        Chúng phụng sự cho mơ ước của mình
        Chúng dõi nhìn xuyên qua hàng thế kỷ
        Những đớn đau, mất mát, những hoài công.

        Khi ở trong rối loạn, mất tinh thần
        Hướng cái vùng kinh hoàng, tôi bước đến
        Chúng bám theo một cách rất ngoan ngoãn
        Một khi tôi còn ở giữa tầm nhìn.

        Khi tôi bước vào vùng như thế kia
        Không còn phía ta - mà là phía khác
        Thì người ta hành động theo luật pháp
        Hành động động theo luật pháp phía bên ta.

        Và để cho đau khổ ngắn ngủi hơn
        Không nghi ngờ gì nữa là để chết
        Tôi trao cho những bàn tay của mình
        Như vào tay xạ thủ cừ khôi nhất.





        EM ĐỪNG VỘI

        Em đừng vội cài khuy
        Đừng vội đi ra phố
        Đôi con mắt rộng mở
        Nhíu lại bớt chút đi.

        Hoa cỏ buổi bình minh
        Ngời giọt sương – dòng lệ
        Chẳng lẽ em có thể
        Bước chân đất trên sương.

        Giẫm chân lên dòng lệ
        Và em cười ầm vang
        Khi chưa đổ khỏi giường
        Cơn cảm hàn nghiệt ngã.

        #94
          cacbac 28.05.2010 13:23:37 (permalink)


          Aleksandr Petrovich Sumarokov (tiếng Nga: Алекса́ндр Петро́вич Сумаро́ков, 25 tháng 11 năm 1717 – 12 tháng 10 năm 1777) – nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch Nga.

          Tiểu sử:
          Aleksandr Sumarokov sinh ra trong một gia đình quí tộc lâu đời ở Saint Petersburg. Từ bé đến năm 15 tuổi chỉ học ở nhà. Từ năm 1732 đến 1740 học ở trường bộ binh và đã làm thơ từ đây. Tốt nghiệp trường này năm 1740, Sumarokov phục vụ trong quân đội Nga hoàng. Aleksandr Sumarokov bắt đầu nổi tiếng kể từ khi in vở kịch thơ Хорев năm 1747. Năm 1756 được cử làm giám đốc nhà hát và thường xuyên viết các vở kịch cho nhà hát. Những năm 1755 – 1758 ông là cộng tác viên tích cực của tạp chí Ежемесячные сочинения. Năm 1759 thành lập tạp chí Трудолюбивая пчела, là tờ tạp chí tư nhân đầu tiên ở Nga. Từ 1762 đến 1769 ông in nhiều tập truyện ngụ ngôn, từ 1769 đến 1774 – in nhiều tập thơ.

          Sáng tạo của Sumarokov đạt đến đỉnh cao trong thời cầm quyền của Nữ hoàng Ekaterina II của Nga. Mặc dù được các nhà quí tộc ủng hộ và tài trợ, được độc giả khen ngợi nhưng Sumarokov cho rằng công lao của ông chưa được đánh giá đúng mức. Ông thường than phiền về kiểm duyệt và trình độ thưởng thức của công chúng. Năm 1761 ông mất quyền lãnh đạo nhà hát. Năm 1769 ông chuyển về sống ở Moskva, không còn có sự tài trợ như trước. Ông tỏ ra thất vọng và sa vào nghiện ngập. Ông mất ngày 12 tháng 10 ở Moskva.

          Tác phẩm:
          Thơ, văn:
          *Соч.: Полн. собр. всех соч. в стихах и прозе, 2 изд., ч. 1—10, М., 1787;
          *Стихотворения. [Вступ. ст. П. Н. Беркова], Л., 1953;
          *Избр. произв. [Вступ. ст. П. Н. Беркова], Л., 1957.
          Kịch:
          * Хорев, 1747
          * Гамлет, 1748
          * Лжедмитрий, 1771
          * Мстислав, 1774
          *Прессотинус, 1750
          * Чудовища, 1750
          * Опекун, 1765
          * Вздорщицы, 1772
          *Роговец по воображении, 1772

          Thư mục:
          *Гуковский Г. А., О сумароковской трагедии, в кн.: Поэтика. Сб. ст., в. 1, Л., 1926;
          *Берков П. Н., Сумароков. 1717-1777, Л.— М., 1949;
          *Серман И. 3., Русский классицизм, Л., 1973;
          *История русской литературы XVIII в. Библиографический указатель, Л., 1968.

          Một số bài thơ:

          SONNET

          Đừng lãng phí thời gian, ơi người đẹp
          Thiếu tình yêu tất cả chỉ phù vân
          Hãy thương tiếc, đừng để mất vẻ đẹp
          Sau khỏi sầu vì đã mất thời gian.

          Em hãy yêu, khi tim còn say đắm
          Tuổi trẻ qua, em sẽ chẳng là em.
          Dạo vườn xuân và trời thu u ám
          Hãy kết hoa thành vương miện cho mình.

          Em hãy để ý bông hoa màu hồng
          Khi cánh hoa đã phai tàn, héo úa
          Sắc đẹp cũng như hoa vậy thôi em.

          Đừng phí thời gian một khi còn trẻ
          Hãy nhớ rằng đến lúc chẳng ai nhìn
          Như hoa hồng kia, khi đà quá lứa.
          _____
          *Đây là đề tài quen thuộc từng được các nhà thơ Pierre de Ronsard (Gửi Helène), Paul Fleming (Ode), Jean-Baptiste Rousseau (Bài học tình yêu)… thể hiện rất thành công trước đó.


          HƠI THỞ CỦA TA

          Hơi thở của ta hãy bay đến người yêu
          Hãy tả nỗi buồn đau, nói rằng ta chịu đựng
          Hãy ở trơng tim nàng, làm dịu ánh mắt kiêu hãnh
          Và sau đó rồi hãy quay trở về đây
          Nhưng hãy mang về cho ta một tin vui
          Hãy nói rằng cho ta vẫn còn hy vọng
          Ta có thể chịu đựng lâu, không ai oán
          Người đẹp có nhiều nhưng người khác tìm đâu.


          BÀI CA

          Em làm khổ con tim
          Hy vọng em trao anh
          Nhưng rồi em thay đổi
          Niềm hy vọng tan tành.

          Niềm vui đã không còn
          Vì em ta khốn khổ
          Lẽ nào đem xử tử
          Vì ta vẫn yêu em?

          Ta khát khao, mệt mỏi
          Hãy nhìn nỗi buồn thương
          Người yêu ơi hãy nhìn
          Nước mắt ta tuôn chảy.

          Ta căm thù ngày sáng
          Đi ngủ với nỗi buồn
          Thấy em trong giấc mộng
          Ta tỉnh dậy, kêu lên.

          Chịu đựng những cơn đau
          Tình yêu ta gìn giữ
          Những giây phút ngọt ngào
          Giờ đây không còn nữa.

          Ta sẽ không tính sổ
          Những niềm vui cho mình
          Dù rằng ta muôn thuở
          Sẽ vẫn nhớ về em.





          Vladimir Alekseyevich Soloukhin (tiếng Nga: Влади́мир Алексе́евич Солоу́хин) (14 tháng 6 năm 1924 – 4 tháng 4 năm 1997) – nhà thơ, nhà văn Nga Xô Viết.

          Tiểu sử:
          Vladimir Soloukhin sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Alepino, tỉnh Vladimir. Mẹ là một người yêu thơ ca, thuộc lòng nhiều trường ca của Nicolay Nekrasov, Aleksey Tolstoy nên có ảnh hưởng đối với cậu con trai đã thích đọc thơ từ năm lên 4 tuổi. Học xong trường phổ thông, Soloukhin vào học trường trung cấp cơ khí trong các năm 1938 – 1942. In những bài thơ đầu tiên ở báo Призыв của tỉnh Vladimir năm 1939. Tốt nghiệp trường trung cấp, Soloukhin làm việc ở đơn vị bảo vệ pháo đài Kremli. Năm 1951 tốt nghiệp trường viết văn làm biên tập của báo Молодая Гвардия (1958 – 1981), đồng thời là biên tập của tạp chí Наш современник.

          Đề tài chính trong tác phẩm của Sloukhin là làng quê Nga. Ông là một đại diện tiêu biểu của “các nhà văn nông thôn”. Đầu tiên thơ của Soloukhin theo thể thơ truyền thống càng về cuối thơ của ông càng phá cách và gần gũi với thơ văn xuôi. Đề tài tôn giáo cũng chiếm một mảng lớn trong sáng tác của ông. Soloukhin phê phán thế giới quan cộng sản, quốc tế và vô thần mặc dù ông cũng từng là người đã đứng trên nhân sinh quan cộng sản để phê phán tác phẩm Bác sĩ Zhivago của Boris Pasternak.

          Vladimir Soloukhin đi nhiều nơi trên thế giới, tác phẩm của ông cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Ông được tặng nhiều huân, huy chương và nhiều giải thưởng của Nhà nước Liên Xô và Liên bang Nga.

          Vladimir Soloukhin mất ở Moskva ngày 4 tháng 4 năm 1997, an táng ở làng quê Alepino.

          Tác phẩm:
          Thơ:
          *Дождь в степи (1953)
          *Разрыв-трава (1956)
          *Журавлиха (1959)
          *Колодец (1959)
          *Как выпить солнце (1961)
          *Имеющий в руках цветы (1962)
          *Жить на земле (1965)
          *С лирических позиций (1965)
          *Не прячьтесь от дождя (1967)
          *Аргумент (1972)
          *Разрыв-трава (1972)
          *Славянская тетрадь (1972)
          *Седина (1977)
          Văn xuôi:
          *Рождение Зернограда (1955)
          *Золотое дно (1956)
          *Владимирские просёлки (1957)
          *Терновник (1959)
          *Капля росы (1960)
          *Григоровы острова: Заметки о зимнем ужении рыбы (1963)
          *Мать-мачеха (1964)
          *Письма из Русского музея (1966)
          *Третья охота (1967)
          *Чёрные доски: Записки начинающего коллекционера (1969)
          *Трава (1972)
          *Прекрасная Адыгене (1973)
          *Олепинские пруды (1973)
          *Посещение 3ванки(1975)
          *Приговор (1975)
          *Последняя ступень: Исповедь вашего современника (1976, издана в 1995)
          *Слово живое и мёртвое (1976)
          *Камешки на ладони (1977)
          *Время собирать камни (1980)
          *Продолжение времени (1982)
          *Смех за левым плечом (1989)
          *Древо (1991)
          *При свете дня (1992)
          *Солёное озеро (1994)
          *Чаша (1998, опубликованы посмертно)

          Một số bài thơ:

          HÌNH NHƯ MƯA

          Hình như mưa đã làm em không đến
          Mà anh thì vẫn đứng ở vườn hoa
          Anh đợi em tới mười hai giờ khuya
          Và đợi đến một giờ khuya, chịu đựng.

          Anh đi tìm sự thanh minh cho em:
          “Giá như mà cơn mưa kia không đến!”
          Và nếu như đã có một nỗi buồn
          Một nỗi buồn về bầu trời trong sáng.

          Ngày hôm nay đâu có ai ngăn cản
          Mà anh thì vẫn đứng ở vườn hoa
          Lại đợi chờ đến mười hai giờ khuya
          Sang một giờ bỗng hiểu ra cay đắng:

          Lời thanh minh giờ biết tìm đâu ra
          Những ngôi sao và bầu trời trong sáng
          Nếu như nỗi buồn về em chắc chắn
          Thì nỗi buồn càng điên loạn – về mưa!




          EM ĐỪNG TRÁCH ANH

          Em đừng trách anh những khi u ám
          Đừng trách rằng anh có những khi buồn
          Đấy chỉ là những ngày mưa ảm đạm
          Khi trên đầu có những đám mây đen.

          Mà bởi vì em vẫn cứ tin anh
          Anh sẽ vượt qua phút giây u ám
          Ở đâu đó, trong vùng rất sâu thẳm
          Có bầu trời xanh trong suốt vĩnh hằng.


          NGÀY XỬA NGÀY XƯA

          Từ xa xưa đã rõ một điều rằng
          Khi hai con người sống trong ly biệt
          Thì mạnh mẽ hơn người nào yêu ít
          Ai yêu nhiều hơn – kẻ đó yếu hơn.

          Nhưng tôi có thể nói ra điều khác
          Đi xuyên qua khiếp đảm của tháng năm:
          Ai yêu nhiều hơn, người đó giàu hơn
          Và nghèo hơn – những kẻ nào yêu ít.

          Giữa cái đêm oi bức, giữa đêm dài
          Bỗng xuất hiện một tiếng kêu trong máu:
          Xin trời tha cho người tôi yêu dấu
          Một chút tình xin gửi đến em tôi.

          #95
            cacbac 28.05.2010 13:31:55 (permalink)


            Konstantin Konstantinovich Sluchevsky (26 tháng 7 năm 1837 – 25 tháng 9 năm 1904) – nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, dịch giả Nga.

            Tiểu sử:
            Konstantin Sluchevsky sinh ở Saint Petersburg, trong một gia đình quí tộc. Năm 1855 tốt nghiệp trường lục quân Cadet và phục vụ trong Đội vệ binh Hoàng gia. Năm 1859 vào học tại Học viện Sĩ quan Tham mưu (Academy of the General Staff) nhưng đến năm 1861 ông từ bỏ binh nghiệp để đi ra sống ở nước ngoài. Trong nhiều năm ông học ở Paris, Berlin và Heidelberg, kết quả là năm 1865 được nhận bằng Tiến sĩ Triết học (Doctor of Philosophy). Trở về Nga, ông làm việc tại Bộ Ngoại giao và tài sản Quốc gia. Từ năm 1891 đến năm 1901 làm Tổng biên tập của tờ Thông tin Chính phủ (Правительственный Вестник). Những năm cuối đời ông vẫn tham gia công việc của Bộ Nội vụ, Ủy ban báo chí và xuất bản.

            Những bài thơ đầu tiên ký bút danh K.C là những bản dịch thơ Victor Hugo, Lord Byron đăng ở tạp chí Общезанимательный вестник năm 1857. Năm 1860 bắt đầu in các bài viết ở các tạp chí Современнике, Отечественных записках và đã tạo được sự chú ý của giới phê bình. Các nhà thơ, nhà văn như Apollon Aleksandrovich Grigoryev, Ivan Sergeyevich Turgenev đánh giá cao thơ văn của Sluchevsky. Ngoài thơ văn, ông còn sáng tác nhiều vở kịch.

            Konstantin Sluchevsky mất ở Saint Petersburg ngày 25 tháng 9 năm 1904.

            Tác phẩm:
            *От поцелуя к поцелую, 1872
            *Виртуозы, 1882
            *Застрельщики, 1883,
            *Тридцать три рассказа, 1887
            *Исторические картинки, 1894
            *Профессор бессмертия,1892
            *В снегах, 1878
            *По северу России, тт. 1-3, 1886-1888, и По северо-западу России, 1897
            *Город упраздняется, 1899
            *Поверженный Пушкин, 1899
            *Книжки моих старших детей, 1892
            *Государственное значение св. Сергия и Троицко-Сергиевской лавры, 1889
            *Сочинений К.К.Случевского в шести томах, 1898


            Thư mục:
            *Коринфский Ап. Поэзия К.К.Случевского. СПб, 1900
            *Случевский К. Стихотворения и поэмы. М. — Л., 1962
            *Смиренский В. К истории "пятниц" К.К.Случевского. — Русская литература, 1965, № 3
            *Случевский К. Стихотворения. М., 1984

            Một số bài thơ:

            NGƯỜI TA TẶNG EM CHO TÔI TRONG MỘNG

            Người ta tặng em cho tôi trong mộng
            Tôi tỉnh giấc thì đã chẳng còn em!
            Nghe thấy tiếng đồng hồ chạy trên tường
            Tôi đứng dậy vì mọi người đã đứng.

            Suốt cả ngày như kẻ gàn thơ thẩn
            Nhìn nơi nao cũng thấy mọi người cười
            Tôi cứ ngỡ rằng thiên hạ cười tôi
            Bởi vì lẽ ra tôi đừng thức tỉnh.


            CÒN QUÁ SỚM

            Còn quá sớm! Hãy ngủ tiếp đi em
            Hãy quay lại giấc mơ còn dang dở
            Đêm như kẻ khổng lồ trên trần thế
            Bóng tối như bưng trên ruộng, trên rừng.

            Nhưng khi – đợi không lâu – đến bình minh
            Thì đồng ruộng, núi đồi đều hiện rõ
            Rừng sáng lên – kẻ khổng lồ gục ngã
            Thì anh sẽ thức, anh sẽ thức em…


            TÔI TỪNG MƠ

            Tôi từng mơ thấy những giấc mơ vàng
            Khi tỉnh giấc tôi nhìn vào cuộc sống
            Tôi cứ ngỡ thế giới này u ám
            Có vẻ như đang nhuốm một màu tang.

            Tôi từng thấy một giấc mơ tồi tàn
            Khi tỉnh giấc – tôi nhìn vào thế giới
            Tôi trầm ngâm, một màu tang vây lấy
            Thế giới này, so với trước, đen hơn.

            Và tôi suy nghĩ: giá như được là
            Lý trí trong ta, trong con người mạnh mẽ
            Để đừng nhìn giấc mơ như thực tế
            Và đừng nhìn đời như ở trong mơ!





            NGƯỜI ĐẸP CỦA NÚI RỪNG

            Em là người đẹp của núi rừng
            Cây linh lan diệu huyền, vẻ ngoài tái nhợt
            Tôi lặng lẽ thò bàn tay, tôi bứt
            Trong ánh trăng, trong khoảnh khắc diệu huyền.

            Biết làm sao? Tôi đâu có quyền hành!
            Tôi biết rằng – rồi đây em sẽ chết
            Cái chết – là vì em tỏa mùi hương
            Cái chết này – là nhân danh cái đẹp!


            TÔI CHẲNG TIẾC

            Tôi chẳng tiếc – cứ lấy đi tất cả
            Nhưng chỉ một điều không trả cho ai
            Đấy là tôi từng hạnh phúc với người
            Khi bắt đầu yêu, bắt đầu đau khổ!

            Và những trang tình ái đẹp tuyệt vời
            Lần thứ hai trong đời không gặp nữa
            Giống như bầy chim giang hồ tứ xứ
            Bờ biển kia không ghé lại lần hai.

            Những con sóng khác rồi sẽ phôi thai
            Chúng mang theo thủy triều bao bóng khác
            Và mặt trời mọc lên, khi xuống thấp
            Sẽ già cũ hơn cả một năm dài.

            Mà loài chim chỉ bay có hạn thôi
            Rồi đến lúc phải đành mang tổn thất
            Theo thời gian sẽ giảm dần lữ khách
            Và sẽ để mất họ dọc đường dài…




            Nicolai Makarovich Oleynikov (tiếng Nga: Никола́й Мака́рович Оле́йников, 5 tháng 8 năm 1898 – 24 tháng 11 năm 1937) – nhà thơ, nhà văn Nga Xô Viết.

            Tiểu sử:
            Nicolai Oleynikov sinh ra trong một gia đình Cô-dắc giàu có vùng sông Đông (nay là tỉnh Rostov). Học trường trung cấp Donetsk. Tháng 3 năm 1918 tình nguyện tham gia Hồng quân và chiến đấu với Bạch vệ. Vào đảng Bôn-sê-vích năm 1920. Làm biên tập báo Красный казак và sau đó là báo Всероссийская кочегарка. Năm 1925 được Trung ương Đảng phân công về làm việc tại báo Sự thật Leningrad (Ленинградская правда) và cộng tác với tạp chí Новый Робинзон. Năm 1928 tổ chức xuất bản tạp chí Ёж (Ежемесячный Журнал) dành cho thiếu nhi. Năm 1930, theo sáng kiến của Oleynikov, tạp chí dành cho thiếu nhi Чиж — (Чрезвычайно Интересный Журнал) ra đời.

            Sinh thời Oleynikov chỉ mới in có 3 bài thơ: Служение науке, МухаХвала изобретателям. Năm 1934 ông in những bài thơ này ở tạp chí 30 дней của thủ đô nhưng bị một bài trên Báo Văn học (Литературная газета) phê phán và từ đó không được in thêm những bài khác. Ngày 3 tháng 7 năm 1937 ông bị bắt vì tội “hoạt động phản cách mạng và phá hoại trong văn học thiếu nhi”. Tòa soạn các tạp chí dành cho thiếu nhi bị đóng cửa. Nicolai Oleynikov bị xử bắn như là “kẻ thù của nhân dân” ngày 24 tháng 11 năm 1937 ở Leningrad sau nhiều tháng bị tra tấn cực hình. Năm 1957 được phục hồi danh dự và người ta bắt đầu in tác phẩm của ông từ năm 1964.

            Thư mục:
            *Флейшман Л. Маргиналии к истории русского авангарда. — В кн.: Олейников Н.М. Стихотворения. Bremen, 1975
            *Лосев Л. Ухмылка Олейникова. — В кн.: Николай Олейников. Иронические стихи. Нью-Йорк, 1982
            *Олейников Н. Пучина страстей. Л., 1991

            Một số bài thơ:

            TÌNH YÊU

            Đi-văng uể oải
            Hai người ở đây.
            Một tao ân ái
            Là em hết đời.

            Thì em đã sợ
            Đã sợ anh yêu
            Và em chống đỡ
            Suốt cả buổi chiều.

            Anh hôn âu yếm
            Lên đôi môi em
            Và bàn tay anh
            Áo quần tính đếm.

            Hóa ra chỉ một
            Mỗi một chiếc quần.
            Thế là mở màn
            Phong ba bão táp!

            Nhưng bỗng chán chường
            Một giờ sau đấy
            Cánh tay của anh
            Người em ôm lấy.

            Anh cảm thấy chán
            Ôm choàng lấy em
            Và anh can đảm
            Dịch chuyển sang bên.

            Em quay lưng lại
            Còn anh lặng im
            Em bỗng giật mình
            Còn anh thiu ngủ.

            Sau trong buổi sớm
            Anh nhìn sang em
            Phấn son không còn
            Con mắt đã nhắm.

            Thở dài thèm khát
            Anh ôm lấy em
            Và lại kinh hoàng
            Đi-văng cót két.

            Nhưng lần sau đó
            Đã không phải tình
            Trong người anh chỉ
            Máu nóng sôi lên.

            Bước đi vội vã
            Trong ánh sáng bừng
            Ánh mắt thùy mị
            Em nhìn sang anh.

            Hôm qua thắm thiết
            Anh đã yêu em
            Dây xích bỗng đứt
            Anh vội quên em.

            Tình yêu như thế
            Không dành cho anh
            Tình là thiêng liêng
            Vâng! Tình phải thế.





            GỬI NATASHA

            Nếu không Natasha
            Thì anh đã về nhà
            Nếu không Natasha
            Đã suốt ngày rượu chè.

            Một ngày không có em
            Là một ngày tiêu tan
            Để làm gì cơ chứ
            Linh lan với hoa hồng!

            Nhưng mà khi có em
            Trong vòng vây của em
            Anh yêu mã tiền thảo
            Và yêu cả ngưu bàng.


            #96
              cacbac 28.05.2010 13:39:11 (permalink)


              Lev Adolfovich Ozerov (tiếng Nga: Лев Адо́льфович О́зеров, họ thật là Goldberg – Гольдберг) (10 tháng 8 năm 1914 – 18 tháng 3 năm 1996) – nhà thơ, dịch giả Nga.

              Tiểu sử:
              Lev Ozerov sinh ở Kiev, trong một gia đình công chức. Tốt nghiệp Đại học Văn – Sử - Triết học Moskva năm 1939 và năm 1942 bảo vệ phó tiến sĩ. Những năm học ở đây, ông là một trong số những học sinh xuất sắc như Aleksandr Tvardovssky, Yuri Levitansky, David Saymonlov, Konstantin Simonov… Từng viết nhiều luận văn xuất sắc về Aleksandr Puskin, Feodor Tyutchev, Afanasy Fet, Boris Pasternak.

              Bút danh Lev Ozerov lần đầu tiên xuất hiện trên các tạp chí Новый мирОктябрь năm 1935, gắn liền với việc học tập ở trường Đại học Văn – Sử - Triết học, nghiên cứu về các “nhà thơ vùng hồ Anh - Lake Poets” (Ozero tiếng Nga nghĩa là hồ). Cuốn sách đầu tiên Приднепровье in năm 1940 và tiếp theo là các cuốn Ливень (1947), Признание в любви (1957), Светотень (1961).

              Những năm Chiến tranh Vệ quốc, Ozerov làm phóng viên chiến trường của báo Победа за нами. Từ năm 1943 cho đến cuối đời ông dạy học ở trường Đại học Quốc gia Moskva và Trường viết văn M. Gorky. Ông là Giáo sư từ năm 1979 và Tiến sĩ khoa học. Ngoài sáng tác thơ ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách nghiên cứu có giá trị về các nền thơ ca Ukraina, Litva cũng như về các nhà thơ lớn của Nga. Ông cũng là một dịch giả nổi tiếng với các bản dịch thơ của các nước cộng hòa (Liên Xô cũ), đặc biệt là các nhà thơ của Ukraina và Litva. Bài viết Thơ Anna Akhmatova (Стихотворения Анны Ахматовой) của ông đăng trên Báo Văn học ngày 23 tháng 6 năm 1959 được coi là sự lên tiếng đầu tiên về thơ ca của Anna Akhmatova sau nhiều năm im lặng. Ông cũng là người có công lớn trong việc tập hợp và in tác phẩm của các nhà thơ cùng thế hệ nhưng đã hy sinh ngoài chiến trường, bị chết trong cuộc Đại thanh trừng hoặc những người chết sớm vì những lý do khác nhau.

              Lev Ozerov được tặng danh hiệu Nhà hoạt động văn hóa công huân của Litva năm 1980 và giải thưởng của tạp chí Orion năm 1994. Ông mất năm 1996 ở Moskva. Thơ của ông đã được dịch ra 29 thứ tiếng của thế giới, trong đó có tiếng Việt.

              Tác phẩm:
              Sách thơ:
              *Приднепровье. — Киев, 1940.
              *Ливень. — Москва, 1947.
              *Признание в любви. — Москва, 1957.
              *Светотень. — Москва, 1961.
              *Дороги новый поворот. — Москва-Ленинград, 1965.
              *Лирика. 1931—1965. — Москва, 1966.
              *Неземное тяготение. — Москва, 1969.
              *Осетинская тетрадь. — Орджоникидзе, 1972.
              *Вечерняя почта. — Москва, 1974.
              *Избранные стихотворения. — Москва, 1974.
              *Далекая слышимость. — Москва, 1975.
              *За кадром. — Москва, 1978.
              *Думаю о тебе. — Москва, 1981.
              *Золотая свирель. — Орджоникидзе, 1985.
              *Земная ось. — Москва, 1986.
              *Аварийный запас. — Москва, 1990.
              *Бездна жизни. — Москва, 1996.
              *Портреты без рам. — Москва, 1999.
              *Dar ne vakaras. Lyrika. Versta iš rusų kalbos. Vilnius: Vaga, 1975.

              Sách viết về thơ:
              *Павло Тычина. — Киев, 1943.
              *Работа поэта. — Москва, 1963.
              *Труд, страсть, вдохновение. — Москва, 1966.
              *В мастерской стиха. — Москва, 1968.
              *А. А. Фет. — Москва, 1970.
              *Мастерство и волшебство. — Москва, 1972 (2-е изд. 1976).
              *Поэзия Тютчева. — Москва, 1975.
              *Стих и стихи. — Москва, 1975.
              *Биография стихотворения. — Москва, 1981.
              *Необходимость прекрасного. — Москва, 1983.
              *Двойной портрет (О советской школе поэтического перевода). — Москва, 1986.
              *Начала и концы. — Москва, 1989.
              *О Борисе Пастернаке. — Москва, 1990.
              *Дверь в мастерскую. Борис Пастернак. Анна Ахматова. Николай Заболоцкий. — Париж — Москва — Нью-Йорк, 1996.
              *Страна русской поэзии. Статьи разных лет. — Москва, 1996.

              Một số bài thơ:

              ANH NGHĨ VỀ EM

              Khi anh muốn nghĩ về em. Anh nghĩ về em.
              Khi không muốn nghĩ về em. Anh nghĩ về em.
              Khi muốn nghĩ về người khác. Anh nghĩ về em
              Khi không muốn nghĩ về một ai. Anh nghĩ về em.


              CẢ CUỘC ĐỜI TÔI

              Cả cuộc đời tôi tập trung để sống.
              Cả cuộc đời trôi qua trong sự đợi chờ
              Và chỉ những gặp gỡ rất chi là ngắn
              Khi mà không thể nào quyết định
              Rằng thế nào là nên hoặc không nên
              Giữa khoảnh khắc nhận thức kiêu căng
              Và khoảnh khắc biệt ly cay đắng
              Tôi sống mà không sẵn sàng để sống.


              THÀ LÀM NGƯỜI YÊU DẤU

              Thà làm người yêu dấu của nhà thơ
              Còn hơn làm vợ của nhà ngoại giao già
              Nhưng sẽ là rất tuyệt
              Làm người yêu dấu của nhà ngoại giao già
              Nếu nhà ngoại giao này là nhà thơ Fedor Tyutchev.


              CON NGƯỜI KHÔNG CHẾT

              Khi làm việc tôi khó tin vào cái chết
              Đơn giản là tôi không tin.
              Công việc làm cho tôi trở thành người không chết
              Hòa vào với hoàn vũ vĩnh hằng.
              Công việc làm cho tôi trở thành một hành tinh
              Hoặc con đường, hay thác nước.
              Người ta vẫn nói rằng ta sẽ chết
              Nhưng con người không chết.





              GIÓ KHÔNG CÓ MÀU

              Gió không có màu? Gió mong chứng tỏ
              Thế giới bên ngoài lẫn ở bên trong
              Gió màu xanh, nếu như gió trên cành
              Và màu đỏ rực, nếu như trong lửa.


              HAI ĐỨA NGỒI ĐỐI DIỆN

              Hai đứa ngồi đối diện —
              Về hai phía của chiếc bàn
              Nỗi đau của anh như chiếc bóng
              Nằm trên trán của em.

              Dù có ẩn giấu vẫn cứ tiềm tàng —
              Luôn luôn hai đứa
              Và trên bờ vai của anh vẫn có
              Nỗi bất hạnh của em.





              Pavel Davydovich Kogan (tiếng Nga: Па́вел Давы́дович Ко́ган, 4 tháng 7 năm 1918 – 23 tháng 9 năm 1942) – nhà thơ Xô Viết theo trường phái lãng mạn.

              Tiểu sử:
              Pavel Kogan sinh ở Kiev (nay là thủ đô Ukraina), tuổi thơ sống ở Moskva. Năm 1936 vào học trường Đại học Văn, Sử, Triết học Moskva, năm 1939 học ở trường viết văn Maxim Gorky. Tham gia nhóm các nhà thơ trẻ cùng với Aleksandr Yashin, Ilya Selvinsky và một số nhà thơ khác. Những bài thơ viết ở thời kỳ này thể hiện quan điểm địa chính trị của nhà thơ. Theo Pavel Kogan, lãnh thổ Liên Xô sẽ mở rộng từ Nhật Bản đến Anh và từ Bắc cực đến sông Hằng.

              Năm 1941, khi Chiến tranh Vệ quốc nổ ra, Pavel Kogan tình nguyện gia nhập Hồng quân. Ngày 23 tháng 9 năm 1942 bị giết chết trong một trận đánh ở ngoại ô Novorossiysk. Thơ của ông chỉ được in ra trong nửa cuối thập niên 1950. Sau đó được tập hợp thành tập Гроза (1960). Trong hợp tuyển gồm nhiều tác giả: Сквозь время (1964) có truyện thơ Первая треть đang viết dở của Pavel Kogan.

              Một số bài thơ:


              NGƯỜI TA KHÔNG ĐỂ Ý

              Người ta không để ý khi tuổi thơ kết thúc
              Họ chỉ buồn khi tuổi trẻ không còn
              Họ rầu rĩ khi tuổi già đến gần
              Và khiếp sợ khi đợi chờ cái chết.

              Khi tuổi thơ không còn, tôi hoảng hốt
              Và tôi u sầu khi tuổi trẻ không còn
              Thì chẳng lẽ tôi đón tuổi già bằng một nỗi buồn
              Và chẳng lẽ tôi sẽ không nhận ra cái chết?




              GIỐNG NHƯ PARIS

              Giống như Paris từ thời thượng cổ
              Tôi đi theo nàng Helen của mình…
              Mùa thu rảo bước trên những vườn hoa thành phố
              trên những hy vọng của tôi
              trên cát…
              Vũ trụ bao la
              bốn biên độ
              bốn khoảng bao la
              Cách tôi bốn bước
              Một nỗi buồn đang theo sát.
              Tôi đứng
              giữa vũ đài rộng lớn
              bồi hồi vò, như chiếc khăn tay
              một nỗi kinh hoàng đã đến…
              Buổi chiều.
              Lạnh.
              Tôi đi theo nàng Helen của mình.
              Như Paris từ thời thượng cổ
              tôi đi theo nỗi bất hạnh của mình.


              EM THẤY ĐẤY

              Có thể, anh đã thô bạo với em
              Có thể, đấy là lòng nhiệt tình con trẻ
              Anh đã hiểu rằng – sẽ không được quên
              Thế mà rồi lại quên, em thấy đấy.
              Nhưng một chút lời coi khinh còn lại
              Nhưng vẻ độc ác của cái cắn môi
              Anh nhắc đi nhắc lại – “quên ngay!”
              Thế mà không thể quên. Em thấy đấy.

              #97
                cacbac 28.05.2010 13:43:24 (permalink)


                Maxim Gorky (tiếng Nga: Макси́м Го́рький, tên khai sinh: Aleksei Maksimovich Peshkov - Алексей Максимович Пешков) (28 tháng 3 năm 1868 – 18 tháng 6 năm 1936) – nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Nga, người đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực trong văn chương, một trong những nhà văn lớn của thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Maxim Gorky từng được coi là “con chim báo bão của cách mạng”, là “nhà văn vô sản vĩ đại”, là “người sáng lập chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”.

                Tiểu sử:
                Maxim Gorky sinh ở Nizhny Novgorod, mồ côi khi lên chín tuổi nên người có ảnh hưởng nhiều nhất đến nhân cách của ông là người bà. Sau khi bà mất, cuộc sống của Gorky rất khó khăn, đã thế, tình yêu không được đáp lại cùng với việc thi không đậu vào Đại học Kazan đã khiến Gorky nảy ra ý định tự tử ngày 25 tháng 12 năm 1887, tuy vậy, vụ tự tử đã không thành công. Sau đó, suốt 5 năm trời ông đi bộ khắp nước Nga, tích lũy kiến thức và những ấn tượng để thể hiện trong các tác phẩm của mình.

                Sáng tạo của Maxim Gorky có thể chia làm 3 thời kỳ. Thời kỳ đầu tiên (1892 – 1902), thời kỳ này Gorky mô tả những sự hỗn loạn của xã hội, xây dựng những hình tượng của các nhân vật chống đối. Nhân vật thường là những kẻ lang thang, những kẻ trộm và gái điếm… Những truyện: Челкаш, Однажды осенью, На плотах, Супруги Орловы и Двадцать шесть и одна; các tiểu thuyết: Фома ГордеевТрое; các vở kịch: МещанеНа дне là những tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ này.

                Thời kỳ thứ hai (1902 – 1913) đánh dấu sự hợp tác chặt chẽ với các tổ chức của cách mạng. Tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ này là tiểu thuyết Người Mẹ (Мать, 1907). Năm 1905 Gorky sang Mỹ. Một thời gian dài (từ 1906 đến 1913) ông sống ở đảo Capri.

                Thời kỳ thứ ba (từ 1913 đến cuối đời), Gorky in một loạt tự truyện, những tác phẩm tiểu biểu nhất trong số đó là: Детство (1913–1914), В людях (1916), Мои университеты (1923) và Заметки из дневника. Воспоминания (1924). Tiểu thuyết sử thi Жизнь Клима Самгина đang viết dở.

                Tác phẩm thơ ca của Maxim Gorky không nhiều, không đồ sộ như văn xuôi, tuy nhiên một số tác phẩm kịch thơ của ông như Песня о Буревестнике Песня о Соколе xứng đáng được coi là “những bài ca về Cách mạng Nga”.

                Bậc thầy ngôn ngữ, người theo chủ nghĩa hiện thực, người trung gian của hai thế giới, Maxim Gorky được coi là mắt xích kết nối giữa nước Nga cũ và mới. Ông mất ngày 18 tháng 6 năm 1936 ở Moskva.

                Tác phẩm:
                Tiểu thuyết:
                *1899 — «Фома Гордеев»
                *1900—1901 — «Трое»
                *1906 — «Мать» (вторая редакция — 1907)
                *1925 — «Дело Артамоновых»
                *1925—1936— «Жизнь Клима Самгина»
                Truyện:
                *1908 — «Жизнь ненужного человека».
                *1908 — «Исповедь»
                *1909 — «Городок Окуров», «Жизнь Матвея Кожемякина».
                *1913—1914— «Детство»
                *1915—1916— «В людях»
                *1923 — «Мои университеты»
                Ký:
                *1892 — «Макар Чудра»
                *1895 — «Челкаш», «Старуха Изергиль».
                *1897 — «Бывшие люди», «Супруги Орловы», «Мальва», «Коновалов».
                *1898 — «Очерки и рассказы» (сборник)
                *1899 — «Песня о Соколе» (поэма в прозе), «Двадцать шесть и одна»
                *1901 — «Песня о буревестнике» (поэма в прозе)
                *1903 — «Человек» (поэма в прозе)
                *1913 — «Сказки об Италии».
                *1912—1917— «По Руси» (цикл рассказов)
                *1924 — «Рассказы 1922—1924 годов»
                *1924 — «Заметки из дневника» (цикл рассказов)
                Kịch:
                *1901 — «Мещане»
                *1902 — «На дне»
                *1904 — «Дачники»
                *1905 — «Дети солнца», «Варвары»
                *1906 — «Враги»
                *1910 — «Васса Железнова» (переработана в декабре 1935-го)
                *1930—1931 — «Сомов и другие»
                *1932 — «Егор Булычов и другие»
                *1933 — «Достигаев и другие»
                Các bài viết:
                *1906 — «Мои интервью», «В Америке» (памфлеты)
                *1917—1918 — цикл статей «Несвоевременные мысли» в газете «Новая жизнь» (в 1918 вышел отдельным изданием)
                *1922 — «О русском крестьянстве»

                Một số bài thơ:

                BẠN ĐỪNG TRÁCH

                Bạn đừng trách chi Nàng thơ của tôi
                Tôi chưa từng, chưa biết nàng thơ khác
                Và bài ca ngày qua tôi không viết
                Mà tôi ca bài hát của tương lai.

                Trong cái bài ca rất giản dị này
                Tôi hát về sự khát khao ánh sáng
                Hãy đối xử với Nàng như người bạn
                Và như nhà thơ tự học – với tôi.

                Hãy cứ để cho bài ca ngân vang
                Bằng một nỗi buồn dịu êm, sâu lắng
                Tiếng thổn thức của cõi lòng cô đơn
                Có thể phần nào làm vơi lòng bạn.

                Và bạn đừng đón Nàng thơ của tôi
                Với vẻ bàng quan, thờ ơ, lãnh đạm
                Trong cuộc đời này đớn đau, bất hạnh
                Tôi ca vang bài hát của tương lai.

                AI ĐANG ĐI

                Ai đang đi trên đầm lầy, trên rừng
                Thành một đám đông?
                Những người Bê-la-rút.
                Họ mang gì trên những đôi vai gầy
                Họ nâng gì trên những đôi tay gầy?
                Điều lầm lẫn.
                Thế họ mang điều lầm lẫn đi đâu
                Thế họ mang điều lầm lẫn cho ai?
                Đến ánh sáng Chúa Trời.
                Thế ai dạy cho họ mang điều lầm lẫn
                Hàng triệu người – ai đã thức giấc mộng?
                Nỗi khổ, bần cùng.
                Thế điều gì họ mong muốn giờ đây
                Những người điếc và câm, bị áp bức hàng thế kỷ?
                Được gọi là những con người.




                VĨNH BIỆT

                Vĩnh biệt! Lòng tràn ngập nỗi buồn
                Ta bây giờ lại cô đơn như trước
                Và cuộc đời ta giờ lại tối tăm
                Ngọn lửa sáng của ta ơi, vĩnh biệt!..
                Vĩnh biệt!

                Xin vĩnh biệt! Giờ ta đã căng buồm
                Ta đang đứng bên vô-lăng buồn chán
                Những tiếng kêu của hải âu bay nhanh
                Và những dải nước biển ngời bọt trắng –
                Đấy là những gì mặt đất đang dùng
                Để từ biệt cùng ta.. Xin vĩnh biệt!

                Biển khơi xa hứa hẹn điều bất hạnh
                Một nỗi buồn đang gặm nhấm lòng ta
                Và dữ dằn gào thét con sóng trắng
                Nhưng – dù tất cả nước trên biển lớn
                Không thể xua em khỏi trái tim ta!..
                Xin vĩnh biệt!

                HUYỀN THOẠI VỀ MARKO

                Rừng bên sông, xưa có một nàng tiên
                Nàng tiên thường hay xuống dòng sông tắm
                Có một lần vì tiên không cẩn thận
                Bị mắc vào lưới cá của người ta.

                Những người đánh cá vô cùng khiếp đảm
                Nhưng có chàng trai tên gọi Marko
                Chộp lấy nàng từ lưới của người ta
                Và chàng trai hôn nàng tiên cháy bỏng.

                Còn nàng tiên như cành cây mềm mỏng
                Trong đôi bàn tay vạm vỡ uốn mình
                Vào đôi mắt chàng trai trẻ ngắm nhìn
                Có điều chi khiến tiên cười lẳng lặng.

                Suốt cả ngày tiên âu yếm Marko
                Chỉ có điều khi màn đêm buông xuống
                Thì nàng tiên vui tươi kia chợt biến…
                Mặc chàng trai với một nỗi buồn lo…

                Còn Marko đêm cũng như ngày
                Đi vào rừng trên bờ sông Đa-nuýp
                “Em ở đâu?” chàng tìm, chàng thổn thức
                “Không biết đâu!” Những ngọn sóng cười to
                Chàng kêu lên: “Các người dối lừa ta!
                Chính các người âu yếm nàng dưới nước!”
                Rồi chàng trai dại dột đã băng mình
                Vào dòng sông Đa-nuýp để tìm tiên…
                Tiên vẫn tắm trên dòng sông Đa-nuýp
                Như ngày xưa, thuở chưa có Marko
                Còn Marko không còn nữa bây giờ…
                Nhưng dù sao
                Marko để lại cho đời bài hát
                Còn các người đang sống trên mặt đất
                Như loài giun lầm lũi, mịt mù
                Câu chuyện về các người không được kể ra
                Và bài hát về các người không ai hát.




                Sergei Antonovich Klychkov (tiếng Nga: Серге́й Анто́нович Клычко́в, họ thật là Leshenkov) (1 tháng 7 năm 1889 – 8 tháng 10 năm 1937) – nhà thơ, nhà văn, dịch giả Nga.

                Tiểu sử:
                Sergei Klychkov sinh ở làng Dubrovka, tỉnh Tver, là con trai của một người thợ đóng giày. Học phổ thông ở Taldoma và sau đó, Moskva. Năm 1905 tham gia Khởi nghĩa Tháng Chạp ở Moskva. Năm 1906 viết nhiều bài thơ về đề tài cách mạng. Năm 1908 được Tchaikovssky giúp đỡ về tài chính, đã đi sang Ý. Ở đây Klychkov đã gặp Maxim Gorky. Tháng 9 năm 1908 vào học ở khoa Sử và Ngôn ngữ, Đại học Quốc gia Moskva nhưng không tốt nghiệp. Những năm 1919 – 1921 sống ở vùng Krym, năm 1921 về Moskva và cộng tác với tờ tạp chí Красная новь.

                Klychkov tự nhận mình là nhà thơ nông dân, gần gũi với Sergei Yesenin, Nicolai Klyuev. Những tập thơ đầu: Песни: Печаль-радость. Лада. Бова (1911) và Потаенный сад (1913) mang phong cách riêng của trường phái này. Cùng với sáng tác thơ, Klychkov còn viết tiểu thuyêt, truyện, phê bình và dịch thơ của các nhà thơ cổ điển Gruzia.

                Sergei Klychkov bị bắt theo lời tố giác sai là đã tham gia vào tổ chức chống chính quyền Xô Viết ngày 8 tháng 10 năm 1937 và bị xử bắn ngay trong ngày hôm đó. Năm 1956 được phục hồi danh dự.

                Tác phẩm:
                *Песни, 1911
                *Потаенный сад. Стихи, 1913, 2-е изд. — 1918
                *Дубрава. Стихи, 1918
                *Гость чудесный. Стихи, 1923
                *Домашние пес¬ни. Стихи, 1923
                *Сахарный немец, 1925
                *Чертухинский балакирь, 1926
                *Последний Лель, 1927
                *Та¬лисман. Стихи, 1927
                *Князь мира, 1928
                *В гостях у журавлей. Сти¬хи, 1930
                *Сараспан. Обработки фольклора и переводы, 1936


                Thư mục:
                *Воронский А. Лунные туманы. — В кн.: Воронский А. Избранные статьи о литературе. М., 1982
                *Клычков С. Стихотворения. М., 1985
                *Клычков С. Автобиография. Сахарный немец. Чертухинский балакирь. Князь мира. М., 1988
                *Клычков С. Переписка. — Новый мир, 1989, № 9
                *Михайлов А.И. Пути развития новокрестьянской поэзии. Л., 1990
                *Клычков С. Стихотворения. М., 1991
                *Клычков С. Стихотворения. Ставрополь, 1992
                *Солнцева Н. Последний Лель: О жизни и творчестве Сергея Клычкова. М., 1993

                Một số bài thơ:

                TÌNH YÊU

                Tình yêu – là một đứa trẻ rất gàn –
                Tình rất cần sự quan tâm chăm sóc
                Từ lọt lòng cho đến lên tám năm
                Không được bỏ rơi mà cần vồ vập.

                Và để tránh hiềm khích hay chửi mắng
                Cần khôn ngoan, thong thả chọn vú nuôi
                Và để người Digan không ăn trộm
                Bỏ tình lên xe nhỏ kéo theo người!

                Nuôi bằng sữa mẹ từ buổi lọt lòng
                Còn khi ngủ đặt tình ngay giữa ngực
                Không đặt lên bàn mà thiếu đề phòng
                Những thứ cay: như ớt hay mù tạc!

                Còn nếu không, có thể sẽ như vầy
                Để vấy bẩn lên tay và trang phục
                Rồi mùi mù tạc bốc suốt cuộc đời
                Mà cay đắng sau vòng tay ôm ấp!

                Còn khi có sự chăm sóc thật tốt
                Thì con trai, con gái sẽ ra đời
                Và đôi bờ mi dựng đứng buông lơi
                Còn đôi má hồng tươi và phục phịch.

                Nhưng mà ta cần biết một điều rằng
                Hạnh phúc sẽ không kéo dài mãi mãi
                Có thể sẽ theo chồng – cô con gái
                Và cậu con trai có thể ra riêng!

                Đứa bé con yếu đuối và gầy còm
                Qua tất cả cùng em bằng phận số
                Sống cùng em cho đến ngày xuống mộ
                Và sẽ nằm vào trong mộ cùng em!

                Cùng với tình, chỉ không cần tã lót
                Cho người ta không thấy sự hân hoan
                Tình yêu – là một đứa trẻ rất gàn
                Nó cần được trông nom và chăm sóc!




                TÌNH RA ĐI

                Tình ra đi với gương mặt dễ thương
                Với nụ cười nhìn xuống từ đôi mắt
                Em đã sống hết và anh sống hết
                Trăng sáng kia không phải để chúng mình.

                Trăng đẹp xinh như vương miện trong sương
                Trăng soi sáng, trăng nằm trên mây gió
                Nhưng với em trăng không còn quyến rũ
                Và trăng không còn bùa phép với anh.

                Những bài hát vui ngày hội không còn
                Những bó lúa giờ chất đầy trước cổng
                Và những bông tuyết im lìm rơi xuống
                Trên thái dương em, trên trán của anh.

                Giờ băng giá đang ngày một mạnh lên
                Anh rất cần, và cả em cũng thế
                Ta cần vội vàng xua đi dòng lệ
                Dòng lệ nằm trên những bó lúa vàng.

                Và ta không hiểu những tin màu đen
                Chảy thành luồng vào buổi chiều chồng chất
                Khi cây chổi chôn vào trong ngũ cốc
                Một bông hoa có những cánh vô hồn.

                #98
                  cacbac 28.05.2010 13:47:51 (permalink)


                  Georgy Vladimirovich Ivanov (tiếng Nga: Гео́ргий Влади́мирович Ива́нов, 29 tháng 10 năm 1894 – 26 tháng 8 năm 1958) – nhà thơ, nhà văn Nga, một trong những nhà thơ hải ngoại lớn nhất của Nga.

                  Tiểu sử:
                  Georgy Ivanov sinh ở Kovno (Kaunas, Litva), là con trai của một sĩ quan. Học trường sĩ quan lục quân ở Saint Petersburg. In thơ từ năm 1910, năm 1911 in tập thơ đầu tiên: Отплытие на остров Цитеру, tiếp đó là các tập Горница (1914) и Вереск (1916). Thơ Ivanov chịu sự ảnh hưởng của Igor Severyanin , Nikolai Stepanovich Gumilyov, Mikhail Alekseevich Kuzmin. Là thành viên của Xưởng thơ (Цех поэтов) từ năm 1917 và là cộng tác viên thường xuyên của tạp chí Apollo.

                  Tháng 9 năm 1922 Ivanov đi sang Đức. Từ tháng 10 năm 1922 đến tháng 8 năm 1923 ông sống ở Berlin. Tháng 10 năm 1923 ông gặp vợ - nữ nhà thơ Irina Vladimirovna Odoyetseva cũng đã ra nước ngoài từ tháng 8 năm 1922. Sau khi chuyển sang Pháp, Ivanov trở thành một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất trong cộng đồng Nga lưu vong ở Pháp. Thập niên 1930 ông cùng với Georgi Victorovich Adamovich thành lập tạp chí Числа. Thời kỳ Thế chiến II gia đình ông sống trong vùng bị phát xít Đức chiếm đóng. Từ năm 1955 cho đến cuối đời ông sống ở Hyeres, miền nam nước Pháp.

                  Tác phẩm:
                  Thơ:
                  *Отплытье на о. Цитеру. Поэзы. (1911, по названию картины Ватто Embarquement pour l'ile de Cythere)
                  *Горница (1914)
                  *"Памятник славы", Изд. Лукоморье, обложка Е. Нарбута, Петроград (1915)
                  *Вереск (1916, 2-е изд. в другом составе текстов 1923)
                  *"Сады", третья книга стихов, Изд. Петрополис, Петербург (1921)
                  *"Лампада" книга первая, Изд. Мысль, Петроград (1922)
                  *Розы (1931)
                  *Отплытие на остров Цитеру. Избранные стихи (1937)
                  *Портрет без сходства (1951)
                  *1943-1958. Стихи (1958)
                  *Несобранное, Orange/CT. 1987
                  Văn xuôi:
                  *Петербургские зимы (1928) В воспоминаниях Иванова дана художественная, написанная без соблюдения хронологии, картина литературной жизни и портреты близких ему писателей. При этом реальные события и факты Иванов вольно совмещал с легендами, слухами и собственными фантазиями, что вызвало резко негативные отклики некоторых современников, в частности М.Цветаевой и А.Ахматовой.
                  *Третий Рим. Роман, ч. 1 // «Современные записки», №39-40, 1929; фрагменты из ч. 2 // «Числа», №2-3, 1930
                  *Распад атома (1938)
                  *Книга о последнем царствовании. Исторические эссе, Сост. В. Крейд, Orange/CT., 1990
                  Các tuyển tập:
                  *Иванов Георгий. Стихотворения. Третий Рим (роман). Петербургские зимы. Китайские тени. Литературные портреты. Сер: Из литературного наследия. М. "Книга" 1989
                  *Иванов Г. Собрание сочинений, тт. 1-3. М., 1994
                  *Иванов Г. Закат над Петербургом. М., 2002 («ОЛМА-ПРЕСС»)
                  *Иванов Г. Стихотворения. СПб., 2004 («Новая библиотека поэта»)
                  *Иванов Г.В. Название: "Стихи. Проза". Город: Екатеринбург. Из-во: "У-Фактория". Серия: "Российская поэзия". Год: 2007.

                  Một số bài thơ:

                  TIẾNG CHIM HỌA MI

                  Tiếng chim họa mi trên rặng trúc đào
                  Cửa bờ giậu đóng vào nghe buồn bã
                  Trăng ghé vào sau đám mây. Còn ta
                  Đang kết thúc con đường trần đau khổ.

                  Đường đau khổ ta từng thấy trong mơ
                  Với lưu đày, tình yêu và lầm lỡ.
                  Nhưng không quên điều với ta đã hứa
                  Hồi sinh bằng thơ về lại nước Nga.



                  NHỮNG CƠN LẠNH ĐANG ĐẾN

                  Những cơn lạnh đang đến
                  Những chiếc lá lìa cành
                  Nước sẽ thành băng cứng
                  Còn em, tình của anh?

                  Và tuyết trắng, tuyết trắng
                  Sẽ bao phủ mặt sông
                  Đời không còn sung sướng...
                  Còn em, tình của anh?

                  Nhưng với xuân yêu thương
                  Tuyết sẽ tan trở lại
                  Ánh sáng quay trở lại
                  Còn em, tình của anh?

                  MÙA XUÂN

                  Mùa xuân không thể nói gì cùng ta
                  Có thể là, mùa xuân không tìm được.
                  Chỉ quãng đường u ám giữa nhà ga
                  Những ngọn đèn sáng lên trong phút chốc.

                  Chỉ ai đó cúi đầu trên sân ga
                  Chào ai đó giữa trời đêm xanh biếc
                  Chỉ vương miện sáng lên rất yếu ớt
                  Phía trên mái đầu bất hạnh của ta.

                  ANH KHÔNG XIN TÌNH

                  Anh không xin tình, chẳng hát về mùa xuân
                  Nhưng em hãy nghe anh hát chỉ một mình.

                  Chẳng lẽ anh đã có thể làm gì, em tự xét
                  Không điên cuồng khi đưa mắt nhìn tuyết.

                  Khu vườn giản đơn, một ngày bình thường
                  Nhưng vì sao khắp nơi tiếng chuông ngân.

                  Họa mi hót vang và hoa trên tuyết
                  Em hãy nói vì sao, hay em chẳng biết?

                  Chẳng lẽ anh đã có thể làm gì, em hãy xem
                  Không điên cuồng khi nhìn vào mắt em?

                  Anh không nói “hãy tin” và “hãy nghe” gì hết
                  Nhưng biết rằng em cũng đang nhìn tuyết.

                  Tình yêu của anh nhìn qua bờ vai em
                  Vào thiên đường tuyết, nơi có hai chúng mình.





                  Sergey Mitrofanovich Gorodetsky (tiếng Nga: Серге́й Митрофа́нович Городе́цкий, 5 tháng 1 năm 1884 – 7 tháng 6 năm 1967) – nhà thơ, nhà văn Nga.

                  Tiểu sử:
                  Sergei Gorodetsky sinh ở Saint Petersburg trong một gia đình gia giáo, bố là nhà chính trị vừa là nhà văn. Học trường gymnazy và năm 1902 vào học Đại học Saint Petersburg nhưng không tốt nghiệp. Thời kỳ học Đại học, Sergei Gorodetsky làm quen với Aleksandr Blok và cảm thấy yêu thích thơ ca từ đây. Các năm 1906 – 1907 in các tập thơ Ярь, Перун, Дикая воля – là những tác phẩm thơ mang âm hưởng dân gian.

                  Năm 1911 Gorodetsky trở thành một trong những người thành lập ra Xưởng thơ (Цех поэтов). Trong một cuộc họp của Xưởng thơ, Gorodetsky được bầu là người cầm đầu cùng với Nicolay Gumilyov. Từ đây bắt đầu một thời kỳ mới trong sáng tác của ông. Năm 1916 Gorodetsky đến Petrograd làm phóng viên cho báo Русское слово. Sau Cách mạng Tháng Mười ông đi về vùng Kapkage. Năm 1921 quay về Moskva làm ở Nhà hát Cách mạng (Театр Революции) đến năm 1924 và làm báo Sự Thật (Известия) đến năm 1932.

                  Thời kỳ Chiến tranh Vệ quốc ông đi về các nước cộng hòa vùng Trung Á như Uzbekistan, Tajikistan dịch các nhà thơ vùng Trung Á ra tiếng Nga. Năm 1958 in cuốn truyện tự thuật Con đường của tôi (Мой путь), thập niên 1960 ông làm thơ về các nhà du hành vũ trụ. Những năm cuối đời ông dạy học ở trường viết văn Maxim Gorky, chủ yếu dạy những người học ngoại khóa. Sergei Gorodetsky mất ở thành phố khoa học Obninsk, tỉnh Kaluga ngày 7 tháng 6 năm 1967.

                  Tác phẩm:
                  *Ярь. 1907
                  *Перун, 1907
                  *Ия. Стихи для детей. 1908
                  *Кладбище страстей. Рассказы, т. 1, 1909
                  *Цветущий посох, 1914
                  *Ангел Армении. 1918
                  *Стихотворения, 1956
                  *Стихотворения и поэмы, 1974


                  Một số bài thơ:

                  NỖI ÂU LO

                  Em đi tìm tĩnh lặng chỉ hoài công
                  Không lặng yên trong thiên nhiên sống động.
                  Cây nở hoa, cái chết của anh hùng
                  Sảng khoái của cơn dông, mặt trăng tru rống.

                  Những luồng tích điện ở đám mây đen
                  Từ bầy ong mùa xuân bay thành đám
                  Tiếng núi lửa, tiếng vỗ bờ của sóng
                  Trong người em rất bí ẩn ngang bằng.

                  Khắp nơi đau khổ. Chẳng có Niết bàn!
                  Giờ vẫn đang gào lên bên ngưỡng cửa
                  Con nước triều đêm của sự hỗn mang.

                  Em đừng sợ nơi Chúa bị đóng đinh
                  Cả thế giới sống bằng cơn bão táp
                  Như những dòng thơ Sonnet của em.


                  THƯ TỪ MẶT TRẬN
                  ------[Gửi A. A. Gorodetskaya

                  Hãy tha thứ, một khi anh lầm lỗi
                  Khi mà anh phạm tội đối với em
                  Hãy an ủi khi anh cần an ủi
                  Nụ cười trẻ trung hãy sưởi ấm anh.

                  Em hãy hát về một niềm hạnh phúc
                  Khi anh phụng thờ vẻ đẹp thần tiên
                  Hãy hân hoan với anh ở thiên đường
                  Và túng thiếu với nhau khi cùng cực.

                  Chia sẽ cùng anh khổ đau, mơ ước
                  Sẻ chia lao động, máu lửa cùng anh
                  Ta bị gông cùm bởi một mối tình
                  Và bước đi vác chung cây thập ác.

                  Một ngôi sao trên đầu ta sáng tỏ
                  Những con đường ta đan kết, giao nhau.
                  Chỉ một mình em trên thế gian này
                  Anh có thể thốt lên: “Hãy tha thứ!”




                  Sergei Sergeyevich Orlov (tiếng Nga: Сергей Сергеевич Орлов, 22 tháng 8 năm 1921 – 7 tháng 10 năm 1977) – nhà thơ Nga Xô Viết.

                  Tiểu sử:
                  Sergei Orlov sinh ở Vologda. Cả bố và mẹ đều là những giáo viên trường làng. Bài thơ thiếu nhi Тыква được giải thơ học sinh toàn Liên bang Xô Viết năm 1938. Những bài thơ đầu tiên in các tờ báo địa phương. Năm 1940 vào học tại khoa sử Đại học Petrozavod. Sau khi Chiến tranh Vệ quốc bùng nổ, Orlov chiến đấu trong trung đoàn sinh viên tình nguyện ra mặt trận. Năm 1944 suýt chết cháy trong chiếc xe tăng bị cháy. Kết quả là sau này ông để râu rất dài để che các vết sẹo. Năm 1946 in quyển thơ đầu tiên Третья скорость.

                  Năm 1954 tốt nghiệp trường viết văn Maxim Gorky. Từ năm 1958 tham gia ban lãnh đạo Hội Nhà văn Liên bang Nga, phụ trách mảng thơ ca của tạp chí Нева và tham gia Hội đồng biên tập của tạp chí Аврора. Tập thơ Верность của ông được tặng Giải thưởng Nhà nước Liên bang Nga mang tên Maxim Gorky năm 1974. Sau đó ông trở thành thành viên Ban giám khảo Hội động xét Giải thưởng Lenin và Giải thưởng Nhà nước.

                  Sergei Orlov mất ngày 7 tháng 10 năm 1977 ở Moskva. Tên của ông được đặt cho một đường phố ở trung tâm Vologda.

                  Tác phẩm:
                  *Третья скорость (1946)
                  *Поход продолжается (1948)
                  *Радуга в степи (1952)
                  *Городок (1953)
                  *Стихотворения (1954)
                  *Голос первой любви (1958)
                  *Стихотворения. 1938—1956» (1959)
                  *Одна любовь (1963)
                  *Колесо и Созвездье (1965)
                  *Лирика (1966)
                  *Страница (1969)


                  Thư mục:
                  *Левин Л. "Гомер гвардейского полка…": О Сергее Орлове. — В кн.: День поэзии. М., 1978
                  *Орлов С. Стихотворения. М., 1978
                  *Орлов С. Собрание сочинений, т. 1-3. М., 1979-1980
                  *Сергей Орлов: Воспоминания современников. Неопубликованное. Л., 1980
                  *Дементьев В. Мой лейтенант: Книга о Сергее Орлове. М., 1981
                  *Михайлов Ал. Биография поколения. — В кн.: Михайлов Ал. Портреты. М., 1983
                  *Панкеев И. Сергей Орлов: Судьба и творчество. М., 1988
                  *Орлов С. Избранное. М., 1988

                  Một số bài thơ:

                  GIỌNG TÌNH ĐẦU CỦA TÔI

                  Giọng tình đầu của tôi – phí uổng, muộn màng
                  Bỗng kêu lên, bắt lặng ngừng phút chốc
                  Vang đến bây giờ hứa hẹ niềm hạnh phúc
                  Giọng tình đầu, sao ngươi vẫn còn nguyên?..

                  Trên đất bỏng, từ Moskva đến Berlin
                  Bụi trên đường, sống khó hơn là chết
                  Thanh lương trà rỉ máu, bạch dương băng trắng toát
                  Giọng tình đầu, sao ngươi vẫn còn nguyên?

                  Trên cổng ván có bông tuyết cây dương
                  Cơn lạnh đầu trên môi – vết bỏng không chùi được..
                  Tháng năm trôi, như quả đồi không xê dịch
                  Giọng tình đầu, sao ngươi vẫn còn nguyên?!

                  BÀI CA

                  Con người ta lạnh lẽo thiếu bài ca
                  Mặt đất mở ra cho tất cả gió
                  Tôi không biết: liệu trên đời còn chỗ
                  Nơi con người không tin những bài ca.

                  Bài ca không viết ra ở trần gian
                  Chỉ đơn giản đội quân qua thành phố
                  Những cô gái ước ao và buồn bã
                  Và giản đơn ai đấy dạo phong cầm.

                  Cây bạch dương màu trắng rũ sạch tươm
                  Và đứng dậy trong làng, bên cửa sổ
                  Con tim đáp lời con tim đâu đó
                  Và bài ca trên mặt đất vang lên.

                  Như rừng ầm ĩ, con người sinh ra
                  Như mưa khóc, như hoàng hôn rực lửa
                  Bài ca trên đời ngàn năm vẫn thế
                  Và bài ca không cần phải viết ra.





                  #99
                    cacbac 02.08.2010 14:25:35 (permalink)
                     


                    Vasily Stepanovich Kurochkin ([tiếng Nga]: Васи́лий Степа́нович Ку́рочкин, 28 tháng 7 năm 1831 – 15 tháng 8 năm 1875) – nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội, người dịch Pierre-Jean de Béranger nổi tiếng của Nga.

                    Tiểu sử:
                    Vasily Kurochkin sinh ở Saint Petersburg. Làm thơ từ những ngày còn học ở trường sĩ quan nên gây được sự chú ý của thầy giáo I Vvedensky. Từ năm 1849 đến năm 1852 phục vụ trong quân đội Nga hoàng. In thơ từ năm 1848. Năm 1856 ra quân và chỉ hoạt động văn học. Năm 1858 in cuốn thơ dịch của Pierre-Jean de Béranger và trở thành nổi tiếng từ đó. Năm 1859 tham gia thành lập tạp chí Искра và bị Bộ trưởng Bộ nội vụ cách chức biên tập tạp chí này năm 1864. Vasily Kurochkin là người ủng hộ nhà cách mạng dân chủ Nikolay Gavrilovich Chernyshevsky và tích cực tham gia vào cách hoạt động bí mật, kết quả là năm 1866 phải ngồi tù 4 tháng ở pháo đài Petropavlovsky.

                    Vasily Kurochkin là nhà thơ nhạy cảm với những thay đổi trong xã hội và tích cực đấu tranh cho những thay đổi này. Cùng với Nicolay Nekrasov, Dmitry Minaev và nhiều nhà thơ khác, ông đã có đóng góp lớn trong việc phá bỏ những luật lệ của thơ ca quí tộc. Ngoài sáng tác thơ, ông còn viết những bài phê bình sắc bén và đặc biệt, rất thành công với những bản dịch thơ Pierre-Jean de Béranger, Victor Hugo, Henri-Auguste Barbier. Bản dịch của Pierre-Jean de Béranger đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Vasily Kurochkin mất ở Saint Petersburg.

                    Thư mục:
                    * Добролюбов Н. А., Песни Беранже. Переводы В. Курочкина, Собр. соч., т. 3, М. — Л., 1962
                    * Михайловский Н. К., Литература и жизнь, Полн. собр. соч., т. 7, П., 1909
                    * Ямпольский И. Г., В. Курочкин, в кн.: История русской литературы, т. 8, ч. 2, М. — Л., 1956;
                    * История русской литературы XIX в. Библиографический указатель, М. — Л., 1962.


                    MỐI ÂU LO SAY ĐẮM

                    Mối âu lo say đắm
                    Mang anh đến với tình
                    Anh muốn nói cùng em
                    Nhiều, thật nhiều, nhiều lắm.

                    Nhưng con tim hà tiện
                    Lời với người yêu thương
                    Con cừu non đang nhìn
                    Dại, dại khờ, dại lắm.

                    Trong lòng cơn giá buốt
                    Trên đôi má – hoa hồng
                    Còn trong mắt để phòng
                    Nước, nước mắt, nước mắt.


                    XA CÁCH

                    Ta chia tay: không nói lời, không rơi lệ
                    Em không lộ ra dù chỉ một chút buồn
                    Ta xa nhau muôn đời… nhưng giá mà với anh
                    Em gặp lại còn có thể!

                    Trước số phận cúi mình, không than phiền, không rơi lệ
                    Không biết được rằng: làm nhiều cái ác cho em
                    Anh có yêu em… nhưng giá mà với anh
                    Em gặp lại còn có thể!


                    TIỀN

                    Tôi sẽ dựng lâu đài trên sóng bạc
                    Sẽ đếm bao nhiêu cát ở thảo nguyên
                    Sẽ dùng trăng để kéo cả vầng trăng
                    Nếu trên đời tôi gặp dù chỉ một
                    Một người phụ nữ mà không hám tiền!
                    Những nhà thơ, nhà văn hay thư ký
                    Có thể ghét tiền bằng cả tấm lòng
                    Nhưng phụ nữ thì không, không hề có!
                    Phụ nữ - đối với những người đàn ông –
                    Là quả chuông, chỉ vang lên một thứ.
                    Ở khắp nơi ta đều nghe tiếng ngân:
                    “Tiền! tiền! tiền!” – chỉ tiềng vang như thế.
                     
                     
                      


                    Yuri Davydovich Levitansky (tiếng Nga: Ю́рий Дави́дович Левита́нский, 22 tháng 1 năm 1922 – 25 tháng 1 năm 1996) – nhà thơ, dịch giả Nga.

                    Tiểu sử:
                    Yuri Levitansky sinh ở thị trấn Kozelets, tỉnh Chernigov, Ukraina. Sau một thời gian gia đình chuyển lên Kiev rồi Donetsk. Học xong phổ thông ở Donetsk, Levitan lên Moskva học trường Đại học Văn, Sử, Triết học (IFLI). Thời kỳ Chiến tranh Vệ quốc, Levitansky ra trận, lúc đầu làm lính, sau làm phóng viên mặt trận và bắt đầu in ở các tờ báo mặt trận từ năm 1943. Sau khi Đức Quốc xã đầu hàng, Levitansky chuyển sang mặt trận phía đông, tham gia trận Mãn Châu với Nhật. Ông được tặng thưởng rất nhiều huân huy chương cho cả hai mặt trận. Năm 1947 ông ra quân, bắt đầu in các tập thơ: Встреча с Москвой, 1949, Самое дорогое, 1951, Секретная фамилия, 1954…

                    Các năm 1955 – 1957 Levitansky học cao học ở trường Viết văn Maxim Gorky. Vào Hội Nhà văn năm 1957. Năm 1963 in tập thơ Trời của Đất (Земное небо) và trở thành nhà thơ nổi tiếng từ đó. Ngoài sáng tác, ông còn dịch thơ và làm thơ mô phỏng thơ của các nhà thơ nổi tiếng như L. Martynov, A. Voznesensky, B. Akhmadulina.... Nhiều bài thơ của Levitansky được phổ nhạc trở thành những bài hát nổi tiếng hoặc hát trong những bộ phim nổi tiếng. Bộ phim Moskva không tin vào nước mắt là một ví dụ.

                    Yuri Levitansky mất ngày 25 tháng 1 năm 1996 ở Moskva.

                    Tác phẩm:
                    *Солдатская дорога: Стихи. — Иркутск, 1948;
                    *Встреча с Москвой: Стихи. — Иркутск, 1949;
                    *Самое дорогое: Стихи в защиту детей. — Иркутск, 1951;
                    *Наши дни: Книга стихов. — Москва, 1952;
                    *Утро нового года: Стихи. — Новосибирск, 1952;
                    *Листья летят: Стихи. — Иркутск, 1956;
                    *Секретная фамилия. — Иркутск, 1957;
                    *Стороны света: Стихи. — Москва, 1959;
                    *Земное небо. — Москва, 1963;
                    *Теченье лет: Стихи. — Иркутск, 1969;
                    *Кинематограф: Книга стихов. — Москва, 1970;
                    *Воспоминанье о красном снеге: Стихи. — Москва, 1975;
                    *День такой-то: Книга стихов. — Москва, 1976;
                    *Сюжет с вариантами: Книга пародий. — Москва, 1978;
                    *Два времени: Стихи. — Москва, 1980;
                    *Письма Катерине, или Прогулка с Фаустом. — Москва, 1981;
                    *Избранное. — Москва, 1982;
                    *Годы: Стихи. — Москва, 1987;
                    *Белые стихи. — Москва, 1991;
                    *Меж двух небес: Стихи. — Москва, 1996;
                    *Когда-нибудь после меня. — Москва, 1998;
                    *Зелёные звуки дождя. — Москва, 2000;
                    *Сон об уходящем поезде. — Москва, 2000;
                    *Чёрно-белое кино. — Москва: Время, 2005.

                    Một số bài thơ:


                    MỖI CON NGƯỜI TỰ CHỌN LẤY CHO MÌNH

                    Mỗi con người tự chọn lấy cho mình
                    Một tôn giáo, con đường, người phụ nữ
                    Sẽ phụng sự tiên tri hay quỉ sứ
                    Mỗi con người tự chọn lấy cho mình.

                    Mỗi con người lựa chọn theo sức mình
                    Lời để cho tình, lời cho cầu nguyện
                    Gươm để đánh nhau, kiếm cho đấu kiếm
                    Mỗi con người lựa chọn theo sức mình.

                    Mỗi con người lựa chọn theo sức mình
                    Những mảnh vá, trượng, khiên, áo giáp
                    Và mức thanh toán, trả thù dứt khoát
                    Mỗi con người lựa chọn theo sức mình

                    Mỗi con người tự chọn lấy cho mình.
                    Tôi cũng chọn – theo cách mà tôi biết.
                    Tôi không đòi hỏi điều gì ai hết.
                    Mỗi con người tự chọn lấy cho mình.


                    CHỐC LÁT VÀ MÃI MÃI

                    Rụng xuống những chiếc lá trong vườn thu
                    Hạt của chúng nằm lên trên mặt đất
                    Điều gì còn mãi, điều gì chốc lát
                    Không một ai có thể hiểu ra.

                    Nét vẽ trắng trên bức vẽ vô danh
                    Một dòng của nét hoa văn cổ đại.
                    Điều gì chốc lát, điều gì còn mãi
                    Đấy là điều bí ẩn lớn vô cùng.

                    Ngọn lửa tắt và dòng suối khô lòng
                    Và cây cối trên mặt đất đổ xuống…
                    Điều bí mật này khôn ngoan và đơn giản
                    Và sống động đến ngàn năm…

                    Thế thì tại sao lại hò rea chiến thắng
                    Ở đâu đấy trên mặt tuyết tan –
                    Tất cả vẫn còn! Tất cả vẫn còn! –
                    Một giọng trẻ trung cất tiếng?

                    Và tại vì sao ngân vang và dễ vậy
                    Trong những cành lá bện giữa rừng dày –
                    Tất cả còn đây! Tất cả còn đây!
                    Tiếng chim họa mi nhắc đi nhắc lại?


                    ĐIỀU GÌ TIẾP THEO

                    Thế tiếp theo là gì? Điều gì tiếp theo
                    Sau đường nét kia, sau lời dẫn nhập?
                    Thì tiếp theo sẽ là tình tiết khác
                    Và bằng lời kết thúc khác khép vào.

                    Không xa lánh tình tiết ngày hôm qua
                    Khi tình tiết khác lại bắt đầu xảy
                    Khoảnh khắc này là không còn lặp lại
                    Trong vẻ ngoài mới mẻ chẳng diễn ra.

                    Và có một điều trở nên rõ ràng
                    Trong khi khai phá một con đường mới
                    Đã có mầm mống ở trong phần cuối
                    Mầm đã phôi thai ở đoạn mở màn.

                    Và trong vườn lại cơn mưa đổ xuống
                    Vườn trở nên cần và sáng chói lòa.
                    Điều này ở hay không ở cùng ta
                    Về bản chất, không phải là quan trọng.

                    Ai đó kêu lên: - Không, đừng đi đâu!
                    Tôi mất hút, đi lần theo dấu vết!...
                    Điều này ở cùng ta hay kẻ khác
                    Suy cho cùng, cốt lõi chẳng ở đây.

                    Ai đấy ngạt thở vì sự giận hờn
                    Ai đó lặng người đi vì hoan hỉ…
                    Điều này ở cùng ta hay ai đó –
                    Cũng chẳng hề ý nghĩa – suy cho cùng. 
                    #100
                      cacbac 02.08.2010 14:30:45 (permalink)
                       


                      Mikhail Aleksandrovich Zenkevich (tiếng Nga: Михаи́л Алекса́ндрович Зенке́вич, 9 tháng 5 năm 1886 – 14 tháng 9 năm 1973) – nhà thơ, dịch giả Nga.

                      Tiểu sử:
                      Mikhail Zenkevich sinh ở thị trấn Nikolaiev, tỉnh Saratov. Bố và mẹ làm nghề dạy học ở trường Cao đẳng và trường gymnazy. Sau Cách mạng Tháng Mười, vì mong muốn cho ít tuổi hơn, Zenkevich đã khai năm sinh là 1898, 1899 và sau đó là 1891. Sau khi tốt nghiệp trường gymnazy Saratov, Zenkevich sang Đức học triết học hai năm ở các trường Friedrich-Schiller-Universität Jena và Đại học Berlin. Từ năm 1907 Zenkevich sống ở Saint Petersburg. Năm 1914 tốt nghiệp Khoa Luật, Đại học Saint Petersburg.

                      Bài thơ đầu tiên của Zenkevich in ở tạp chí Жизнь и школа của các nhà cách mạng vùng Saratov. Từ năm 1908 bắt đầu in thơ ở các tạp chí của thủ đô như: Весна, Образование, Современный мир… Năm 1909 làm quen với nhà thơ Nicolay Gumilyov và sau đó đã trở thành một trong những người sáng lập Xưởng thơ (Цеха поэтов). Tháng 3 năm 1912 Zenkevich in tập thơ đầu tay Дикая порфира được nhiều nhà thơ nổi tiếng đương thời viết bài phê bình cho tập thơ này. Cuối năm 1917 Zenkevich trở về sống ở quê hương Saratov và in tập thơ thứ hai: Четырнадцать стихотворений.

                      Thời kỳ Cách mạng Tháng Mười, Zenkevich gia nhập Hồng quân, chiến đấu ở mặt trận Kapkage. Từ năm 1923 ông chuyển về sống ở Moskva, làm việc ở nhiều tạp chí và nhà xuất bản khác nhau. Trước Thế chiến II ông đã in các tập thơ: Под пароходным носом, 1926, Поздний пролет, 1928, Избранные стихи, 1932, Набор высоты, 1937. Thời kỳ chiến tranh ông sơ tán về Chistopol ở tỉnh Kazan, sau đó trở về Moskva.

                      Sau Thế chiến II ông chủ yếu thơ nước ngoài, mà đặc biệt là thơ ca Mỹ. Các tập thơ dịch của ông gồm có: Из американских поэтов, 1946, Поэты ХХ века: Стихи зарубежных поэтов в переводах Мих. Зенкевича, 1965, Американские поэты в переводах М. Зенкевича, 1969.

                      Mikhail Zenkevich mất ở Moskva.

                      Tác phẩm:
                      *Дикая порфира, 1912
                      *Четырнадцать стихотворений, 1918
                      *Пашня танков, 1921
                      *Под пароходным носом, 1926
                      *Набор высоты, 1937
                      *Сквозь грозы лет, 1962

                      Một số bài thơ:


                      ĐỊNH LÝ

                      Tôi ngỡ cuộc đời là cô giáo dạy
                      Gọi học trò lên đứng trước bảng đen
                      Cô cầm viên phấn bên bàn tay phải
                      Còn trong tay kia tấm giẻ cô cầm.

                      Trong sự tận tụy bối rối, vụng về
                      Cô đang cố chứng minh điều gì đấy
                      Cô viết ra bằng viên phấn trắng kia
                      Rồi đem chùi bằng giẻ, và viết lại.

                      Viết chùi, sửa… và tất cả chúng ta
                      Như những ký hiệu viết bằng phấn trắng
                      Ta đứng lên ở trong từng phép tính
                      Trên mặt bằng của tấm bảng đen to.

                      Biết bao nhiêu nhạo báng và kịch liệt
                      Vô ích cho ai đấy, để làm gì
                      Cần gì bao chứng cứ hiển nhiên kia
                      Được lấy từ định đề đơn giản nhất?

                      Vì sau bao nhiêu phép tính hạ hành
                      Luôn còn lại một điều trong kết quả:
                      Là không bao giờ đổi thay số tử
                      Mà luôn ngang bằng cùng với số sinh.


                      TẠI VÌ SAO

                      Tại vì sao anh lại đem rượu cũ
                      Rót vào bình da mới hở nhà thơ?
                      Từ xa xưa đã nói về tất cả
                      Vần điệu không hề đổi mới cho thơ.

                      Rất cổ xưa những thổ lộ của anh
                      Đạo văn không mang lại điều gì hết:
                      Quyển “Nhã Ca” đã nói hết về tình
                      Quyển “Truyền Đạo” đã nói về cái chết.





                      CẢ QUÁ KHỨ TA NGỠ LÀ GIẤC MỘNG

                      Cả quá khứ ta ngỡ là giấc mộng
                      Cả tương lai – chỉ là ước mơ xa
                      Chỉ trong hiện tại là ta đang sống
                      Hiện thực, đủ đầy, đời chóng trôi qua.

                      Những khoảnh khắc tia chớp dài liền mạch
                      Thể hiện trong thực tế của lúc này
                      Như những mắt xích vô cùng khăng khít
                      Mộng về quá khứ, mơ về tương lai.


                      NHÀ THƠ TỘI NGHIỆP

                      Nhà thơ tội nghiệp đang gắng sức
                      Nhưng chẳng hề viết được gì.
                      Cứ để cho nhà thơ gắng sức
                      Biết đâu, sẽ viết được cái gì!
                       
                       
                       





                      Dmitry Dmitryevich Minaev (tiếng Nga: Дми́трий Дми́триевич Мина́ев, 21 tháng 10 năm 1835 – 10 tháng 7 năm 1889) – nhà thơ, nhà báo, nhà phê bình, dịch giả Nga.

                      Tiểu sử:
                      Dmitry Minaev sinh ở Simbirsk. Bố là một nhà thơ và là người chuyển ngữ Cuộc hành binh của Binh đoàn Igor ra tiếng Nga hiện đại, mẹ là một phụ nữ quí tộc học cao và biết nhiều ngoại ngữ. Năm 1847 gia đình chuyển lên Saint Petersburg. Minaev vào học ở trường sĩ quan, làm quen với nhà thơ, dịch giả I. Vvedensky và nhà thơ tương lai Vasily Kurochkin, là người cùng học ở trường này.

                      Năm 1852 tốt nghiệp trường sĩ quan, Minaev trở về Simbirsk làm việc ở cơ quan địa phương của Bộ Nội vụ. Năm 1857 nghỉ việc và chỉ tập trung cho hoạt động văn học. Vasily Kurochkin mời Minaev cộng tác với tạp chí Искра và trở thành một nhà thơ trào phúng có tên tuổi. Năm 1859 in tập thơ Перепевы. Thập niên 1860 ông cộng tác với các tờ tạp chí Современнике, Русском слове, in nhiều bản dịch thơ Anh, Pháp và biên tập tờ Гудка. Minaev gần gũi với trường phái thơ Nekrasov, thể hiện tình cảm của mình đối với làng quê nghèo khổ, phê phán những quan điểm bảo thủ và kiểm duyệt. Sau vụ xử bắn Karakozov (người âm mưu ám sát Nga hoàng Aleksandr II) tháng 4 năm 1866, Minaev bị bắt vì đã cộng tác với các tạp chí Современнике, Русском слове và bị giam ở pháo đài Petropavlov gần 4 tháng.

                      Các thập niên 1860 và 1870 là thời kỳ sáng tạo sung mãn nhất của Minaev. Ông thường xuyên thay đổi các bút danh khác nhau (tất cả có 29 bút danh), nhiều bút danh rất nổi tiếng trong một thời gian dài. Ngoài sáng tác ông còn dịch nhiều tác giả lớn, trong số này có Lord Byron, Percy Bysshe Shelley, Moliere, Victor Hugo, Heinrich Heine, Dante Alighieri, tuy nhiên các bản dịch của Minaev thường được đánh giá là không sát với nguyên bản.
                      Cuối năm 1887 Minaev trở về Simbirsk sống cho đến ngày cuối đời. Ông mất ở đây ngày 10 tháng 7 năm 1889.

                      Tác phẩm:
                      *Перепевы (Санкт-Петербург, 1859)
                      *Думы и песни, 2 части (Санкт-Петербург, 1863 - 1864)
                      *Здравия желаю (Санкт-Петербург, 1867)
                      *В сумерках (Санкт-Петербург, 1868)
                      *Песни и поэмы (Санкт-Петербург, 1870)
                      *Чем хата богата (Санкт-Петербург, 1880)
                      *Всем сестрам по серьгам (Санкт-Петербург, 1881)
                      *Не в бровь, а в глаз (Санкт-Петербург, 1882; 2-е изд., 1898)

                      Một số bài thơ:


                      TÔI KHÓC CHỈ MỘT MÌNH

                      Tôi biết em từ ngày em còn nhỏ
                      Có một lần, khi đó em lên mười
                      Chỉ vô tình búp bê em làm vỡ
                      Mà suốt đêm em khóc mãi không thôi.

                      Rồi tuổi thơ trôi vèo như mây trắng
                      Em của tôi thay đổi với ngày xanh!
                      Em làm vỡ tim tôi ra từng mảng
                      Nhưng giờ đây tôi khóc chỉ một mình!


                      EM ĐANG NGỒI ĐỐI DIỆN

                      Em đang ngồi đối diện
                      Anh cháy lên vì tình
                      Anh mất trí thường xuyên
                      Nếu em ngồi đối diện.

                      Em cứ ngồi đối diện
                      Hoặc gọi lại về mình
                      Ta sẽ ngồi lặng im
                      Suốt đêm ngồi đối diện.


                      BẦU TRỜI SAO DỊU ÊM

                      Bầu trời sao dịu êm
                      Muốn gì, em có biết?
                      Sữa chua và nấm ngọt
                      Trong đêm sao dịu êm.

                      Em ạ, anh yêu em
                      Biết lấy gì giúp đỡ?
                      Ta cùng chơi bài nhé
                      Trong đêm sao dịu êm.

                      Em ạ, anh thông minh
                      Ban ngày – anh suy nghĩ
                      Có một điều nhảm nhí
                      Trong đêm sao dịu êm.


                      CUỘC ĐỜI TA

                      Cuộc đời ta giống như một thao trường
                      Nắng hay mưa đều phơi ra ngoài gió
                      Trên thao trường tập luyện đều bước chân
                      Giống như khi người thanh tra đến ngó.

                      Như tân binh, học cam chịu, an lòng
                      Nhưng đã chạy đừng lăng xăng bận rộn
                      Nếu được khen, thì: “sẽ có gắng thêm!”
                      Không được khen – thì giữ bề im lặng.

                      Khi người ta ra lệnh – hãy gắng làm
                      Biết chịu đựng – là phương sách tối thượng
                      Trong thời gian còn lại nên can đảm
                      Biết cách kiễng chân và cách nhón chân!...    


                      Cherubina de Gabriak (tiếng Nga: Черубина де Габриак – là bút danh của Elisaveta Ivanovna Dmitrieva - Елизавета Ивановна Дмитриева) (31 tháng 3 năm 1887 – 5 tháng 12 năm 1928) – nữ nhà thơ Nga thế kỷ bạc. Nhà văn Aleksei Tolstoy gọi Cherubina de Gabriak “là một trong những gương mặt kỳ diệu và đau buồn nhất của văn học Nga”.

                      Tiểu sử:
                      Cherubina de Gabriak sinh ở Saint Petersburg, trong một gia đình quí tộc. Bố chết sớm vì bệnh lao phổi, Cherubina de Gabriak lên 7 tuổi cũng mắc bệnh này và hậu quả là bị bệnh đi cà nhắc suốt đời. Năm 1904 tốt nghiệp trường gymnazy, năm 1908 tốt nghiệp Đại học sư phạm, chuyên ngành lịch sử trung đại và văn học trung cổ Pháp. Sau đấy bà tiếp tục theo học về văn học Tây Ban Nha và tiếng Pháp cổ ở Đại học Saint Petersburg và Đại học Sorbonne, làm quen với Nicolai Gumilyov ở Pháp.

                      Sau khi trở về Saint Petersburg bà dạy ngôn ngữ ở trường gymnazy chỉ dành cho phái nữ, in thơ dịch từ tiếng Tây Ban Nha ở các tạp chí và trở thành bạn thân của nhà thơ Maximilia Aleksandrovich Voloshin. Mùa hè năm 1909 Cherubina de Gabriak đến trại sáng tác dành cho văn nghệ sĩ của Maximilia Voloshin ở Koktebel (vùng Krym). Chính nơi đây đã sinh ra ý tưởng dùng bút danh Cherubina de Gabriak và ý tưởng văn học mê hoặc của một nữ sĩ, người đẹp Công giáo bí ẩn. Từ năm 1909 thơ của bà thường xuyên được in ở tạp chí Apollo và có được sự thành công vang dội trên văn đàn, được các nhà thơ nổi tiếng đương thời như Innokentiy Fyodorovich Annensky và Vyacheslav Ivanovich Ivanov đánh giá cao.

                      Cuối năm 1909 nhà thơ Mikhail Alekseevich Kuzmin tìm hiểu sự thật của hiện tượng Cherubina de Gabriak và sự việc trở thành một xì-căng-đan. Năm 1911 Cherubina de Gabriak đi lấy chồng và thường xuyên đi du lịch ở Đức, Thụy Sĩ, Phần Lan, Gruzia. Năm 1921 bà cùng với chồng phải rời Petrograd về Ekaterinoda. Ở đây bà làm quen với Samuil Marshak và cùng sáng tác kịch cho thiếu nhi.

                      Năm 1926 bà bị đày về Taskent. Thời gian này bà vẫn tiếp tục sáng tác và dịch thuật. Cherubina de Gabriak mất ngày 5 tháng 12 năm 1928 ở Taskent vì bệnh ung thư phổi.

                      Thư mục:
                      *Калло Е. Четыре имени в русской поэзии. В кн.: «Sub rosa»: Аделаида Герцык, София Парнок, Поликсена Соловьёва, Черубина де Габриак / Сост., коммент. Т. Н. Жуковской, Е. А. Калло. — М., Эллис Лак, 1999. — 768 с. — ISBN 5-88889-038-3
                      *Агеева, Л. И. Неразгаданная Черубина: Документальное повествование. М.: Дом-музей Марины Цветаевой, 2006. — 404 с.
                      *Черубина де Габриак. Исповедь / Сост. Купченко В. П., Ланда М. С., Репина И. А. — М.: Аграф, 1999. — 384 с. (Символы времени).
                      *Из мира уйти неразгаданной: Жизнеописание; Письма 1908-1928 годов; Письма Б.А.Лемана к М.А.Волошину/ Сост., подг. текстов, примеч. Владимира Купченко и Розы Хрулевой. Феодосия; М.: Изд. дом "Коктебель", 2009
                      *Маршак С. Я., Е. И. Васильева. Театр для детей. Краснодар, 1922.

                      Một số bài thơ:


                      ANH CÒN NHỚ VƯỜN XƯA

                      Anh còn nhớ vườn xưa, nơi lần đầu tiên
                      Anh thổ lộ với em trong một ngày đầy nắng
                      Những cây thông non, những cây đoạn dịu dàng
                      Trải lên cát chiếc bóng dài đứt quãng.

                      Đấy chỉ một khoảnh khắc và rồi vụt biến
                      Anh cầm tay em – em rảo bước cùng anh
                      Ngày tháng bảy với ta mỉm cười âu yếm
                      Hai đứa mình – anh ở trong trái tim em.

                      Anh còn nhớ vườn xưa, bây giờ hoa lại nở
                      Như ngày ấy trong mơ cho hai đứa chúng mình
                      Nhưng lời đã quên, lời hạnh phúc ngày cũ
                      Thì anh đã đã không còn nhắc lại cùng em.


                      GỬI MAKOVSKY

                      Những bông hoa của anh… những bông hoa từ người bạn
                      Những bông hoa Tây Ban Nha yêu dấu của em.
                      Em khoanh chúng bằng đường giới hạn tròn
                      Một giấc mơ của mình rất sầu thảm.

                      Em làm say mê bằng ánh mắt đau buồn
                      Mười hai bông hoa cẩm chướng đang rực lửa
                      Để trước mắt em, bên những bông hoa đó
                      Từ bóng tối hiện về hình bóng của anh.

                      Và em sẽ nói… ồ không, không cần
                      Vì em không biết đến những lời lặng lẽ.
                      Và trong giây phút này em rất vui vẻ
                      Trước vẻ lặng im của hoa cẩm chướng dịu dàng.


                      NHỮNG BÔNG HOA MÀU TÍM

                      Những bông hoa gia sấy khô màu tím
                      Mà mỗi ngày anh mang đến tặng em
                      Ôi những bông hoa ngây thơ sầu thảm
                      Những bông hoa của mối tình anh!

                      Đầu óc mê muội của anh không hiểu
                      Khoa học thanh tao, tinh tế của tình
                      Cái miệng nhỏ của em làm cho méo
                      Cả nụ cười chán ngắt của em.

                      Anh đã từng say mê dịu ngọt
                      Thuốc độc xưa của những hồn em
                      Nhưng em bằng ánh mắt mỏi mệt
                      Làm tàn phai những bông hoa không cần. 
                      #101
                        cacbac 02.08.2010 14:34:49 (permalink)
                         


                        Ivan Sergeyevich Turgenev (tiếng Nga: Ива́н Серге́евич Турге́нев) (9 tháng 11 năm 1818 - 3 tháng 9 năm 1883) – nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch nổi tiếng của Nga thế kỉ 19. Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Saint Petersburg.

                        Tiểu sử:
                        Ivan Turgenev sinh ra trong một gia đình quí tộc ở Oryon. Bố là sĩ quan, mẹ là một phụ nữ quí tộc có học, thông minh, chăm lo con cái nhưng đối xử tàn nhẫn với nông nô. Ivan Turgenev được những gia sư người Pháp và người Đức dạy dỗ vì mẹ là người ghét tất cả những thứ của Nga. Năm 1827 gia đình chuyển lên Moskva. Ivan học ở trường Pansion. Năm 1833, mới 15 tuổi, Ivan vào học khoa ngôn ngữ tại Đại học Moskva. Năm sau gia đình chuyển về Saint Petersburg nên Ivan cũng chuyển về học tại Đại học Saint Petersburg, thời gian này Ivan bắt đầu làm thơ.

                        Năm 1838 Ivan Turgenev sang Đức để học lịch sử văn học Hy Lạp và La Mã ở Đại học Berlin, thời gian học ở nhà Ivan học thêm môn ngữ pháp các ngôn ngữ Hy Lạp cổ và Latinh. Năm 1841 Ivan trở về Nga. Năm 1842 bảo vệ luận án tiến sĩ triết học và từ đây bắt đầu hoạt động văn học. Năm 1846 ông bắt đầu in các truyện БретерТри портрета. Năm 1847 Ivan Turgenev sang sống ở Đức và Pháp. Năm 1850 ông về Nga chịu tang mẹ và được thừa hưởng một gia tài lớn, cho phép ông có điều kiện đi du lịch nhiều nơi và sáng tác nhiều hơn. Năm 1852 ông in tập truyện lấy tên chung là Записки охотника. Tiếp đó, ông viết những tác phẩm lớn như: Рудин (1856), Дворянское гнездо (1859), Накануне (1860), Отцы и Дети (1862)…

                        Từ đầu thập niên 1860 Ivan Turgenev sống thường xuyên ở Baden-Baden (Đức) và Paris (Pháp). Ông mất tại Bougival, gần Paris. Theo ý nguyện của ông khi còn sống, thi hài của ông được đưa về mai táng tại nghĩa trang Voncovo ở Saint Petersburg.

                        Tác phẩm:

                        Tiểu thuyết:
                        • 1855 — Рудин
                        • 1859 — Дворянское гнездо
                        • 1860 — Накануне
                        • 1862 — Отцы и дети
                        • 1867 — Дым
                        • 1877 — Новь

                        Truyện:
                        • 1844 — Андрей Колосов
                        • 1845 — Три портрета
                        • 1846 — Жид
                        • 1847 — Бретёр
                        • 1848 — Петушков
                        • 1849 — Дневник лишнего человека
                        • 1852 — Муму
                        • 1852 — Постоялый двор
                        • 1852 — Записки охотника
                        • 1855 — Яков Пасынков
                        • 1855 — Фауст
                        • 1856 — Затишье
                        • 1857 — Поездка в Полесье
                        • 1858 — Ася
                        • 1860 — Первая любовь
                        • 1864 — Призраки
                        • 1866 — Бригадир
                        • 1868 — Несчастная
                        • 1870 — Странная история
                        • 1870 — Степной король Лир
                        • 1870 — Собака
                        • 1871 — Стук… стук… стук!..
                        • 1872 — Вешние воды
                        • 1874 — Пунин и Бабурин
                        • 1876 — Часы
                        • 1877 — Сон
                        • 1877 — Рассказ отца Алексея
                        • 1881 — Песнь торжествующей любви
                        • 1881 — Собственная господская контора
                        • 1883 — После смерти (Клара Милич)
                        • Памяти Ю. Вревской
                        • Как хороши, как свежи были розы…
                        Kịch:
                        • 1848 — Где тонко, там и рвётся[1]
                        • 1848 — Нахлебник
                        • 1849 — Завтрак у предводителя
                        • 1849 — Холостяк
                        • 1850 — Месяц в деревне
                        • 1851 — Провинциалка

                        Tác phẩm chuyển thành phim:
                        • 1915 — После смерти (по мотивам рассказа Тургенева «Клара Милич. После смерти»)
                        • 1943 — Тайны
                        • 1953 — Завтрак у предводителя
                        • 1959 — Отцы и дети
                        • 1959 — Му-му
                        • 1959 — Накануне (фильм)
                        • 1969 — Первая любовь
                        • 1969 — Дворянское гнездо
                        • 1971 — Жизнь и смерть дворянина Чертопханова (по мотивам рассказов Тургенева «Чертопханов и Недопюскин» и «Конец Чертопханова»)
                        • 1975 — Гамлет Щигровского уезда
                        • 1976 — Степной король Лир
                        • 1977 — Рудин
                        • 1977 — Бирюк
                        • 1978 — Ася
                        • 1981 — Затишье
                        • 1983 — Отцы и дети
                        • 1985 — Накануне
                        • 1989 — Вешние воды
                        • 1989 — Поездка в Висбаден
                        • 1992 — Дым
                        • 1995 — Первая любовь
                        • 1998 — Му-му
                        • 2008 — Отцы и дети

                        Các bài viết:
                        • Несколько слов о стихотворениях Ф. И. Тютчева (1854).
                        • Гамлет и Дон-Кихот (1860).
                        • Речь о Шекспире (1864).


                        Một số bài thơ:


                        KHI XƯA

                        Khi xưa em nhìn vào đôi mắt anh
                        Vẻ hân hoan, dịu dàng đằm thắm vậy
                        Và anh bình thản yên lòng nhường ấy
                        Hôn bờ mi dài tuyệt đẹp của em.

                        Có những khi em rụt rè bẽn lẽn
                        Em chập chờn ép vào giữa ngực anh
                        Sắc đẹp trầm ngâm tư lự của em
                        Trong nhút nhát rụt rè anh nhìn ngắm.

                        Và khi ánh trăng chiếu sáng trong vườn
                        Anh và em ngồi im bên cửa sổ
                        Ta bên nhau nhởn nhơ, vô tư lự
                        Hai đứa mình cùng thở một hơi chung.

                        Còn trong phút giây ly biệt u buồn
                        Anh ngẹn ngào với nỗi lòng tê tái
                        Anh lặng lẽ đưa bàn tay run rẩy
                        Ép lên bờ môi, vào giữa ngực mình.

                        Em hãy nói: liệu anh đây có biết
                        Cái điều gì trời đã định cho ta
                        Sẽ chia tay nhau và sẽ căm thù
                        Cái tình yêu mà từ lâu đã chết?


                        KHI ANH CHIA TAY VỚI EM

                        Khi anh chia tay với em
                        Anh không hề muốn giấu
                        Rằng ngày đó đã yêu em
                        Như những gì anh có thể.

                        Nhưng anh không mong gặp gỡ
                        Mà anh kiên nhẫn lặng im
                        Và anh cũng không muốn hiểu
                        Ánh mắt buồn, sâu thẳm của em.

                        Còn em đang giải thích cho anh
                        Về cái miền thương nhớ đó.
                        Nhưng giờ xa lạ đối với anh
                        Niềm hạnh phúc ngày nào, trời ạ!

                        Em hãy tin: anh đã sống vô vàn
                        Từ dạo đó anh đã nhiều chịu đựng
                        Biết bao nhiêu niềm vui anh đã quên
                        Và biết bao dòng nước mắt ngu xuẩn.





                        TÔI THƯƠNG

                        Tôi thương mình, thương những người khác, thương tất cả con người, thương thú, thương chim.

                        Tôi thương con trẻ và người già, thương những người hạnh phúc và người bất hạnh… thương người hạnh phúc nhiều hơn người bất hạnh.

                        Tôi thương những ông vua trăm trận trăm thắng, những nghệ sĩ thiên tài, những nhà thơ, những nhà tư tưởng.

                        Tôi thương kẻ sát nhân và nạn nhân của nó, thương quái gỡ và sắc đẹp, thương kẻ áp bức và người bị áp bức.

                        Biết làm sao để tôi thoát được lòng thương hại này? Lòng thương hại không cho tôi yên sống… Lòng thương hại còn là sự buồn chán.

                        Ô, sự buồn chán, tất cả hòa tan bởi lòng thương! Con người không được phép xuống thấp hơn.

                        Quả thật, giá mà tôi được ghen thì sẽ tốt hơn!

                        Vâng, tôi ghen với đá.


                        KHI MÀ MÀ ANH SẼ KHÔNG CÒN

                        Khi mà anh sẽ không còn, khi mà tất cả những gì thuộc về anh sẽ tan thành tro bụi, - thì em, người bạn duy nhất của anh, người mà anh đã từng yêu sâu sắc và dịu dàng say đắm thế, người mà đang lo lắng cho anh có lẽ - em đừng đi ra ngôi mộ của anh.. Em sẽ chẳng biết làm gì ở đó.

                        Em dừng quên anh nhé… nhưng cũng đừng nhớ về anh giữa những lo toan vặt vãnh của đời thường, giữa sung sướng và cơ hàn… Anh không muốn làm phiền đến cuộc sống của em, không muốn cản trở dòng đời trôi tĩnh lặng của em. Nhưng trong giờ phút cô đơn, khi mà em có một nỗi buồn nhút nhát và không có nguyên nhân, rất quen thuộc với những con tim, thì em hãy lấy một trong những cuốn sách thân quen và em sẽ tìm ra những trang, những dòng, những lời, mà có thể là em còn nhớ? – cả anh và em cùng lúc đã từng có những giọt nước mắt ngọt ngào và lặng lẽ.

                        Em hãy đọc, hãy nhắm mắt và hãy chìa bàn tay cho anh… chìa bàn tay của em cho người bạn đã lìa trần.

                        Và anh sẽ không còn có thể nắm chặt tay em: mà bàn tay sẽ nằm bất động trên mặt đất… nhưng anh bây giờ sung sướng nghĩ rằng, có thể, em sẽ cảm thấy sự lướt nhẹ trong tay mình.

                        Và hình bóng của anh sẽ hiện ra trước mắt em, và từ dưới bờ mi khép lại của đôi mắt em sẽ tuôn ra dòng nước mắt, giống như dòng nước mắt mà khi ta xúc động trước Cái đẹp đã tuôn ra trong những ngày nào, ôi em thân yêu, người bạn duy nhất của anh, ôi em thân yêu, người mà anh đã từng yêu sâu sắc và dịu dàng say đắm thế!


                        ĐƯỜNG ĐẾN TÌNH YÊU

                        Tất cả mọi tình cảm đều có thể dẫn đến tình yêu, đến sự đam mê, tất cả: sự căm thù, luyến tiếc, sự hờ hững, sự tôn sùng, tình bạn, sự sợ hãi, - và ngay cả sự khinh bỉ. Vâng, tất cả mọi tình cảm… ngoại trừ một thứ: sự mang ơn.

                        Sự mang ơn là món nợ; người tử tế sẽ trả những món nợ của mình… nhưng tình – không phải là tiền bạc.
                         
                        #102
                          cacbac 02.08.2010 14:41:19 (permalink)
                           


                          Konstantin (Krill) Mikhailovich Simonov (tiếng Nga: Константи́н (Кири́лл) Миха́йлович Си́монов, 28 tháng 11 năm 1915 – 28 tháng 8 năm 1979) – nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động xã hội, người được tặng Giải thưởng Lenin và 6 lần được tặng Giải thưởng Stalin, đại biểu Xô Viết Tối cao Liên Xô, Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Liên Xô.

                          Tiểu sử:
                          Konstantin Simonov sinh ở Petrograd (nay là Saint Petersburg). Khi khai sinh bố đặt tên là Kirill nhưng sau ông thấy khó đọc rõ ba chữ cái cuối cùng r i l nên đã đổi thành Konstantin. Konstantin không biết mặt bố vì ông bị mất tích ở mặt trận Thế chiến I khi Konstantin còn bé. Sau này Konstantin được bố dượng dạy dỗ, ông là người dạy môn chiến thuật ở các trường sĩ quan. Tuổi thơ của Konstantin là cuộc sống ở các khu gia binh ở Ryazan và Saratov. Kinh tế gia đình chật vật nên học xong lớp 7, Konstantin vào học trường trung cấp ở một nhà máy rồi làm thợ tiện kim loại ở Saratov và sau đó là Moskva. Thời gian này ông bắt đầu làm thơ. Năm 1936 các tạp chí Молодая гвардияОктябрь in những bài thơ đầu tiên của Konstantin Simonov.

                          Năm 1938 ông tốt nghiệp Trường viết văn Maxim Gorky, được kết nạp vào Hội Nhà văn và làm nghiên cứu sinh ở trường Đại học Văn – Sử - Triết. Năm 1939 được cử đi làm phóng viên mặt trận ở Mông Cổ và sau đó đã không còn quay lại để tiếp tục làm nghiên cứu sinh. Năm 1940 ông viết vở kịch Lịch sử một cuộc tình (История одной любви) được nhà hát Đoàn Côm-sô-môn dàn dựng.

                          Thời kỳ Chiến tranh Vệ quốc ông làm phóng viên chiến trường của báo Боевое знамя, năm 1943 được phong trung tá và sau chiến tranh – đại tá. Nhiều tác phẩm của ông viết thời kỳ chiến tranh trở thành những tác phẩm nổi tiếng, đặc biệt, bài thơ Đợi anh về đã rất nổi tiếng ở Việt Nam qua bản dịch của nhà thơ Tố Hữu. 25 năm sau ngày viết bài thơ này Konstantin Simonov đã viết bài thơ Gửi đồng chí Tố Hữu, người dịch “Đợi anh về.

                          Thời kỳ sau chiến tranh ông đi công tác ở nước ngoài rất nhiều lần trong suốt 3 năm liên tục. Từ 1958 đến 1960 ông làm phóng viên thường trú của báo Sự Thật (Правды) ở Taskent, phụ trách các nước cộng hòa vùng Trung Á. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Sinmonov: Đồng đội (Товарищи по оружию) được xuất bản năm 1952, cuốn Người sống và người chết (Живые и мертвые) in năm 1959.

                          Ngoài thơ, văn, kịch, ông còn là tác giả của nhiều kịch bản phim như: Парень из нашего города (1942), Жди меня (1943), Дни и ночи (1943 - 44), Бессмертный гарнизон (1956), Нормандия-Неман (1960, cùng với Ш.Спаакоми, Э.Триоле), Живые и мертвые (1964)… Ông được tặng thưởng nhiều Giải thưởng cao quí và nhiều huân huy chương của nhà nước Liên Xô.

                          Konstantin Simonov mất ở Moskva, theo di chúc của ông, tro hỏa táng được đem rắc trên một cánh đồng ở ngoại ô thành phố Mogilov.

                          Tác phẩm:

                          Thơ và trường ca:
                          • «Победитель» (1937, поэма о Николае Островском),
                          • «Павел Черный» (1938, поэма, прославлявшая строителей Беломорско-Балтийского канала),
                          • «Ледовое побоище» (1938, поэма),
                          • поэма «Суворов», 1939
                          • Если дорог тебе твой дом…
                          • Жди меня (текст)
                          • Песня военных корреспондентов
                          • Сын артиллериста
                          • «С тобой и без тебя» (сборник стихов)
                          • Я знаю, ты бежал в бою…
                          • «Ты помнишь, Алеша, дороги Смоленщины..»
                          • «Майор привез мальчишку на лафете..»
                          • Хозяйка дома
                          • Горят города по пути этих полчищ...

                          Văn xuôi:
                          • «Товарищи по оружию» (роман, 1952; новая редакция — 1971),
                          • «Живые и мертвые» (роман, 1959),
                          • «Солдатами не рождаются» (1963—1964, роман; 2 часть трилогии «Живые и мертвые»; в 1969 — кинофильм «Возмездие» режиссёр Александр Столпер),
                          • «Последнее лето» (роман, 1971).
                          • «Дым отечества» (1947, повесть)
                          • «Южные повести» (1956—1961)
                          • «Из записок Лопатина» (1965, цикл повестей; 1975 — одноимённый спектакль, премьера — Театр «Современник»)

                          Ký, tự truyện:
                          • Симонов К. М. Разные дни войны. Дневник писателя. — М.: Художественная литература, 1982. — Т. 1. — 479 с. — 300 000 экз.
                          • Симонов К. М. Разные дни войны. Дневник писателя. — М.: Художественная литература, 1982. — Т. 2. — 688 с. — 300 000 экз.
                          • «Глазами человека моего поколения. Размышления о И. В. Сталине» (1979, опубликовано в 1988)
                          • «Письма из Чехословакии» (сборник очерков),
                          • «Славянская дружба» (сборник очерков),
                          • «Югославская тетрадь» (сборник очерков),
                          • «От Черного до Баренцева моря. Записки военного корреспондента» (сборник очерков).

                          Kịch:
                          • «История одной любви» (1940, премьера — Театр имени Ленинского комсомола, 1940)
                          • «Парень из нашего города» (1941, пьеса; премьера — Театр имени Ленинского комсомола, 1941; в 1942 — одноимённый кинофильм)
                          • «Под каштанами Праги» (1945. Премьера — Театр имени Ленинского комсомола. Была популярна, с 1946 шла по всей стране. В 1965 — одноимённый телеспектакль, режиссёры Борис Ниренбург, Надежда Марусалова (Иваненкова)
                          • «Русские люди» (1942, опубликована в газете «Правда»; в конце 1942 премьера пьесы с успехом прошла в Нью-Йорке; в 1943 — кинофильм «Во имя Родины», режиссёры — Всеволод Пудовкин, Дмитрий Васильев; в 1979 — одноимённый телеспектакль, режиссёры — Майя Маркова, Борис Равенских)
                          • «Так и будет» (1944, премьера — Театр имени Ленинского комсомола)
                          • «Русский вопрос» (1944, премьера — Театр имени Ленинского комсомола; в 1947 — одноимённый кинофильм, автор сценария и режиссёр Михаил Ромм)
                          • «Чужая тень» (1949)
                          • «Четвёртый»(1961, премьера — Театр «Современник»)
                          • «Левашов» (1963, телеспектакль, режиссёр — Леонид Пчёлкин)
                          • «Мы не увидимся с тобой» (1981, телеспектакль, режиссёры — Майя Маркова, Валерий Фокин)

                          Kịch bản phim:
                          • «Жди меня» (совместно с Александром Столпером, 1943, режиссёр — Александр Столпер)
                          • «Дни и ночи» (1944, режиссёр — Александр Столпер)
                          • «Второй караван» (1950, совместно с Захаром Аграненко, режиссёры-постановщики — Амо Бек-Назаров и Рубен Симонов)
                          • «Жизнь Андрея Швецова» (1952, совместно с Захаром Аграненко)
                          • «Бессмертный гарнизон» (1956, режиссёр — Эдуард Тиссэ),
                          • «Нормандия — Неман» (соавторы — Шарль Спаак, Эльза Триоле, 1960, режиссёры Жан Древиль, Дамир Вятич-Бережных)
                          • «Живые и мёртвые» (совместно с Александром Столпером, режиссёр — Александр Столпер, 1964)
                          • «Если дорог тебе твой дом» (1967, сценарий и текст документального фильма, режиссёр Василий Ордынский),
                          • «Гренада, Гренада, Гренада моя» (1968, документальный фильм, режиссёр — Роман Кармен, кинопоэма; премия Всесоюзного кинофестиваля)
                          • «Случай с Полыниным» (совместно с Алексеем Сахаровым, 1971, режиссёр — Алексей Сахаров)
                          • «Чужого горя не бывает» (1973, документальный фильм о вьетнамской войне),
                          • «Шел солдат» (1975, документальный фильм)
                          • «Солдатские мемуары» (1976, телефильм)
                          • «Обыкновенная Арктика» (1976, Ленфильм, режиссёр — Алексей Симонов, вступительное слово от автора киносценария и эпизодическая роль)
                          • «Константин Симонов: остаюсь военным писателем» ( 1975, документальный фильм)
                          • «Двадцать дней без войны» (по повести (1972), режиссёр — Алексей Герман, 1976), текст от автора

                          Thơ dịch:
                          • Редьярд Киплинг в переводах Симонова
                          • Насими, Лирика. Перевод Наума Гребнева и Константина Симонова с азербайджанского и фарси. Художественная литература, Москва, 1973.
                          • и другие переводы


                          Một số bài thơ:




                          GỬI ĐỒNG CHÍ TỐ HỮU, NGƯỜI DỊCH “ĐỢI ANH VỀ

                          Tôi biết rằng thơ của tôi đang sống
                          Ở đây trong bản dịch đẹp của Anh.
                          Và sẽ sống đến ngày người vợ vẫn
                          Ngóng trông chồng về từ cuộc chiến tranh.

                          Một phần tư thế kỷ súng không ngừng!
                          Những người vợ góa vẫn đi ra mộ
                          Vẫn chờ đợi, thì thơ tôi còn đó
                          Còn sống trong bản dịch đẹp của Anh.

                          Tôi cầu mong ngày ấy đến cho nhanh
                          Trên con đường đến tự do dằng dặc
                          Ngày mà thơ, cũng như người, kết thúc
                          Cuộc hành quân trong bản dịch của Anh.

                          Hãy để ngày, khi không còn trông ngóng
                          Người trở về - yên lặng giữa thiên nhiên
                          Thì thơ tôi sẽ thở phào nhẹ nhõm
                          Rồi chết trong bản dịch đẹp của Anh.


                          ĐÊM ẤY ANH BỎ CHẠY

                          Đêm ấy anh bỏ chạy, ta biết rằng
                          Anh đã phản bội đồng đội của mình.

                          Với anh, ta không có gì để gọi
                          Kẻ hèn nhát – chỉ một lời ngắn ngủi.

                          Anh cứ việc không biết đến điều này
                          Nhưng ngày ấy anh thành kẻ giết người.

                          Cái hào chiến đấu mà anh bỏ lại
                          Tên lính Đức đã ngồi vào đêm ấy.

                          Vì cái chiến hào bỏ lại của anh
                          Mà người lính khác đã phải hy sinh.

                          Để lấy lại chiến hào cho trận đánh
                          Đồng đội đã phơi đầu mình trước đạn.

                          Đừng đi hát về người đã hy sinh
                          Đừng tiếc thương người phụ nữ góa chồng.





                          NẾU BẠN YÊU QUÍ NGÔI NHÀ

                          Nếu bạn yêu quí ngôi nhà của bạn
                          Nơi bạn lớn lên thành một người Nga
                          Nơi ở dưới trần nhà kêu loảng xoảng
                          Khi bạn nằm trên nôi nhỏ đung đưa.
                          Nếu bạn quí những gì trong nhà đó
                          Những góc phòng, lò sưởi, những bức tường
                          Nơi mà cụ cố, cụ ông và bố
                          Đã từng bước đi những bước đầu tiên.

                          Nếu bạn thương khu vườn nghèo xơ xác
                          Có hoa xuân và tiếng những con ong
                          Dưới cây gia từ 100 năm trước
                          Cụ ông xưa đã dựng một chiếc bàn.
                          Nếu bạn không muốn để cho trên sàn
                          Nhà của bạn bước chân thù giẫm đạp
                          Rồi ngồi bên chiếc bàn của cụ ông
                          Và cây cối trong vườn đem phá nát…

                          Nếu bạn yêu quí người mẹ của mình
                          Từng nuôi bạn lớn lên bằng dòng sữa
                          Đã từ lâu dòng sữa không còn nữa
                          Chỉ còn bằng đôi má bạn áp lên.
                          Nếu như khi không còn sức chịu nữa
                          Tên phát xít đến ngôi nhà của mẹ
                          Nó tát vào đôi má mẹ đã nhăn
                          Và quấn tóc mẹ vào bàn tay mình
                          Để chính những bàn tay kia của mẹ
                          Những bàn tay một thuở đưa nôi êm
                          Sẽ giặt quần lót cho tên súc sinh
                          Và bàn tay ấy trải giường cho nó…

                          Nếu người bố mình bạn vẫn chưa quên
                          Người từng bế tung bạn trên tay mình
                          Và đã từng là một người lính tốt
                          Người đã mất ở vùng Karpat
                          Đã hy sinh vì Volga, sông Đông
                          Vì số phận của chính Tổ quốc mình
                          Nếu như bạn không muốn cho phát xít
                          Lật bới tung mọi thứ trong mộ phần
                          Chân dung lính trên những cây thánh giá
                          Tên phát xít đem xé vụn giữa sàn
                          Và trước ánh mắt người mẹ đang nhìn
                          Tên phát xít giẫm chân lên mặt bố…

                          Nếu như bạn không hề muốn đem dâng
                          Người mà bạn đã từng cùng sánh bước
                          Và là người mà bạn đã từng hôn
                          Bạn đã không dám – vì bạn yêu nàng –
                          Mà những tên phát xít bằng bạo lực
                          Bắt ép nàng, kẹp chặt vào trong góc
                          Rồi cả ba thằng cùng cưỡng hiếp nàng
                          Bắt cởi truồng như nhộng nằm trên sàn
                          Mà ba tên chó đẻ thừa hưởng được
                          Nàng trong máu me, khóc than, phẫn uất
                          Bạn giữ gìn những gì là thiêng liêng
                          Bằng sức mạnh tình yêu của đàn ông…

                          Nếu như bạn không hề muốn đem dâng
                          Cho kẻ thù đến muôn đời muôn thuở
                          Ngôi nhà bạn, người mẹ hiền, người vợ
                          Những gì mà ta vẫn gọi quê hương
                          Hãy nhớ rằng: không ai cứu quê hương
                          Nếu như bạn không ra tay cứu vớt
                          Nếu như bạn không giết lũ bạo hành
                          Một khi bạn chưa giết được một thằng
                          Thì về tình yêu bạn nên im lặng.
                          Miền đất bạn lớn lên, ngôi nhà xưa bạn sống
                          Bạn hãy đừng gọi nơi đó quê hương.
                          Thà phát xít bị giết bởi người anh
                          Thà phát xít giết bởi người hàng xóm
                          Đấy là họ đang trả thù báo oán
                          Bạn không hề có được sự thanh minh.
                          Họ không ngồi phía sau lưng người khác
                          Họ không báo thù bằng cây súng khác.
                          Nếu phát xít bị giết bởi người anh
                          Thì bạn không phải lính – mà anh mình.

                          Bạn hãy giết tên phát xít, để không
                          Không phải bạn, mà nó nằm trên đất
                          Để trong nhà bạn không còn tiếng khóc
                          Mà ở trong nhà nó tiếng khóc than
                          Nó muốn như thế - tự nó lỗi lầm –
                          Để không nhà bạn mà nhà nó cháy
                          Hãy để cho không phải người vợ hiền
                          Mà vợ nó sẽ trở thành góa phụ
                          Để mẹ của bạn không phải khóc than
                          Mà là người mẹ đã sinh ra nó
                          Không gia đình bạn, mà gia đình nó
                          Sẽ đợi chờ trong phí uổng, hoài công.
                          Bạn hãy giết ngay dù chỉ một thằng!
                          Bạn hãy giết tên phát xít nhanh lên!
                          Bao nhiêu lần bạn phải nhìn thấy nó
                          Bạn hãy đem giết nó bấy nhiêu lần!


                          EM TỪNG NÓI VỚI ANH

                          Em từng nói với anh rằng “yêu anh”
                          Nhưng đấy là trong đêm, qua hàm răng
                          Còn sáng ra, lời đắng cay “chịu đựng”
                          Đôi bờ môi mím lại đến nhọc nhằn.

                          Anh đã tin đôi bờ môi trong đêm
                          Tin đôi bàn tay nóng bừng, láu lỉnh
                          Nhưng anh không tin lời trong đêm vắng
                          Những lời trong đêm thầm kín, vô hình.

                          Anh hiểu rằng em muốn được yêu anh
                          Anh biết em đã không hề nói dối
                          Chỉ về đêm em thường gian dối vậy
                          Khi xác thân cai trị lấy linh hồn.

                          Nhưng trong giờ tỉnh táo buổi bình minh
                          Khi tâm hồn lại như xưa – mạnh mẽ
                          Thì giá một lần mà em nói “có”
                          Với anh trong niềm hy vọng, chờ mong.

                          Và bỗng chiến tranh, sân ga, ly biệt
                          Nơi không còn một chỗ để ôm em
                          Với toa tàu ở nhà ga ngoại thành
                          Trong toa này anh đi về Brest.

                          Bỗng nhiên cơn gió về đêm vô vọng
                          Về hạnh phúc, về gối ấm chăn êm
                          Không có gì giúp được! – như tiếng vang
                          Là vị của nụ hôn trên áo lính.

                          Để lời trong cơn say, trong đêm vắng
                          Anh không nhầm lẫn với những lời xưa
                          Em bỗng nói với anh rằng “em yêu”
                          Bằng đôi bờ môi hầu như tĩnh lặng.

                          Xưa anh chưa từng thấy em như thế
                          Trước những lời cay đắng buổi chia ly:
                          Em yêu anh… và sân ga đêm khuya
                          Đôi bàn tay lạnh giá vì đau khổ.





                          ANH KHÔNG THỂ LÀM THƠ VỀ EM NỮA

                          Anh không thể làm thơ về em nữa
                          Không em ngày xưa, chẳng của bây giờ.
                          Đã rõ ràng, những lời cay đắng thế
                          Từ lâu rồi không còn đủ cho ta.

                          Điều tốt đẹp – cám ơn! Anh không tính
                          Chuyện nhỏ nhen, bởi một thuở sống cùng
                          Anh chưa đem cho và chưa từng nhận
                          Dù chắc gì anh còn nợ tiếng thơm.

                          Điều ác dữ tựa hồ như gánh nặng
                          Mà bàn tay em đặt xuống vai anh
                          Là của anh! Anh tự mình xác định
                          Đời với anh nghiệt ngã chẳng vô tình.

                          Lời quở trách muộn màng buông ra gió
                          Đừng sợ gì trò chuyện đến bình minh.
                          Chỉ đơn giản không còn yêu em nữa
                          Nên anh không làm thơ nữa về em.


                          LINH CẢM TÌNH YÊU

                          Linh cảm của tình yêu còn kinh hoàng
                          Hơn cả tình. Tình yêu là trận đánh
                          Mắt nhìn mắt, bạn gặp gỡ với tình
                          Không đợi gì, tình yêu cùng với bạn.

                          Linh cảm của tình yêu – như biển động
                          Đã hơi hơi đôi bàn tay ướt dầm
                          Nhưng vẫn hãy còn lặng im, và tiếng
                          Đàn dương cầm nghe rõ sau bức mành.

                          Còn trên áp kế hướng về ma quỉ
                          Tất cả đang rơi, áp lực rơi nhanh
                          Trong nỗi sợ hãi trước ngày tận thế
                          Áp vào bến bờ khi đã muộn màng.

                          Không, tệ hơn. Điều này như chiến hào
                          Nơi bạn ngồi chờ để xông vào trận
                          Còn đằng kia, cách nửa dặm vexta
                          Người cũng chờ để đạn xuyên vào trán…


                          ANH MUỐN ĐƯỢC GỌI EM LÀ NGƯỜI VỢ

                          Anh muốn được gọi em là người vợ
                          Vì người ta không gọi thế bao giờ
                          Vì ngôi nhà anh chiến tranh tàn phá
                          Em đến làm khách lần nữa, chắc gì.

                          Vì anh từng mong cho em điều ác
                          Vì hiếm khi em thấy xót thương anh
                          Vì em đến không cần chi mời mọc
                          Khi tự mình đêm ấy đến với anh.

                          Anh muốn được gọi em là người vợ
                          Không phải để rồi đem nói cùng ai
                          Cũng chẳng phải vì từ lâu em đã
                          Cùng anh trong thêu dệt của người đời.

                          Anh chẳng phải hám danh vì danh tiếng
                          Hoặc hư vinh nhờ sắc đẹp của em
                          Anh chỉ cần vẻ dịu dàng bí ẩn
                          Của tiếng bước chân em đến nhẹ nhàng.

                          Cái chết làm ngang hàng bao tên tuổi
                          Như ga tàu, sắc đẹp sẽ qua nhanh
                          Và người chủ trong những ngày tháng cuối
                          Sẽ ghen tuông với ảnh của chính mình.

                          Anh muốn được gọi em là người vợ
                          Vì những ngày ly biệt có vô vàn
                          Vì sau này những bàn tay xa lạ
                          Vuốt mắt cho nhiều người sống cùng anh.

                          Vì một điều em đã từng chân thật
                          Không hứa với anh quan trọng một điều
                          Buổi chia tay của lính trong giờ chót
                          Em mới lần đầu nói dối – rằng yêu.

                          Em từng là ai? Của anh hay xa lạ?
                          Vì thế mà con tim hãy còn xa…
                          Hãy tha thứ, anh gọi em là vợ
                          Theo quyền những ai có thể không về.


                          HẠNH PHÚC

                          Ngày còn bé. Người ta từng hỏi anh:
                          “Cháu muốn gì để thành người hạnh phúc?”
                          -“Cháu muốn được cưỡi ngựa phóng lên đường
                          Và cháu muốn được thổi kèn tập hợp”.

                          Thành chàng trai. Người ta đã hỏi chàng:
                          “Chàng muốn gì để thành người hạnh phúc?”
                          -“Cháu muốn mình được sống đến trăm năm
                          Và muốn được đi cùng trời cuối đất”.

                          Thành người lính. Và người ta hỏi anh:
                          “Cậu muốn gì để thành người hạnh phúc?”
                          -“Tôi biết rằng nếu lựa chọn là cần
                          Thì tôi chọn hy sinh vì Tổ quốc”.

                          Anh đã chết. Người ta hỏi vợ anh:
                          “Chị muốn gì để mình không bất hạnh?”
                          -“Tôi muốn, nếu cha chẳng thể hồi sinh
                          Thì con trai muốn điều như cha muốn”.


                          NẾU CHÚA TRỜI

                          Nếu Chúa Trời bằng quyền lực của mình
                          Cho ta đến thiên đường sau khi chết
                          Tôi biết làm gì với tài sản trần gian
                          Nếu như Ngài nói rằng: cần chọn lọc?

                          Tôi không cần nơi thiên đường buồn bã
                          Một người luôn ngoan ngoãn bước theo mình
                          Có lẽ tôi mang theo người như thế
                          Người đã từng sống ở cõi trần gian.

                          Người nông nổi, dữ dằn, hay châm chọc
                          Dù chẳng dài lâu, nhưng vẫn của mình!
                          Người đã từng hành hạ trên mặt đất
                          Sẽ không cho buồn chán ở thiên đường.

                          Những người bất trị, hư thân như thế
                          Chẳng mấy ai mang theo đến thiên đường
                          Vì những người ngoan đạo nơi đó sẽ
                          Để mắt nhìn, và để ý coi trông.

                          Tôi có lẽ mang theo mình khoảng cách
                          Để giày vò mình trước cảnh chia lìa
                          Để nhớ về trong phút giây ly biệt
                          Nỗi đau treo trên cổ của bàn tay.

                          Tôi có lẽ mang mọi điều nguy hiểm
                          Để cho người chờ đợi thủy chung hơn
                          Để đôi mắt em rõ ràng xanh thắm
                          Đang ở nhà không cho kẻ nhát gan.

                          Tôi có lẽ mang theo mình người bạn
                          Để có người cụng chén khi tiệc tùng
                          Và kẻ thù để phút giây ghê tởm
                          Sẽ thù hằn theo kiểu của trần gian.

                          Chẳng tình yêu, buồn chán, chẳng xót thương
                          Ngay cả họa mi Cuốc-xcơ nổi tiếng
                          Cả những gì nhỏ mọn nhất cũng không
                          Không bỏ lại nơi trần gian đã sống.

                          Cả cái chết, nếu điều này có thể
                          Tôi cũng không bỏ lại ở trần gian
                          Tất cả những gì có nơi trần thế
                          Tôi sẽ mang theo hết đến thiên đường.

                          Vì thói tư lợi của người trần thế
                          Chúa sẽ ngạc nhiên mà chửi mắng tôi
                          Tôi tin chắc rằng rồi đây Ngài sẽ
                          Lần nữa đuổi tôi về lại cõi đời.
                           
                          #103
                            cacbac 30.09.2011 12:20:42 (permalink)


                            Iosif Pavlovich Utkin (tiếng Nga: Ио́сиф Па́влович У́ткин, 14 tháng 5 năm 1903 – 13 tháng 11 năm 1944) – nhà báo, nhà thơ Nga gốc Do Thái.

                            Tiểu sử:
                            Iosif Utkin sinh ở ga Khingan, tỉnh Khabarovsk. Sau khi sinh được một thời gian, gia đình chuyển về quê ở Irkutsk. Từ nhỏ đã phải vừa học vừa đi làm để nuôi gia đình vì bố bỏ đi, kết quả là bị đuổi học khi chưa học xong trung học. Sau cách mạng Tháng Mười, Iosif tích cực tham gia công việc xã hội. Đầu năm 1920 vào đoàn Côm-xô-môn và tham gia nhóm thanh niên tình nguyện. Năm 1922 trở thành phóng viên của báo Власть труда và bắt đầu in những bài thơ đầu tiên ở đây. Sau đó là thời gian làm việc ở báo Комсомолия, tham gia tích cực vào các hoạt động của hội văn nghệ địa phương.

                            Năm 1924 được cử đi học trường báo chí ở Moskva. Từ đây bắt đầu một thời kỳ hoạt động văn học sôi nổi của Utkin. Thơ của ông in thường xuyên trên các tạp chí thủ đô như Огонёк, Прожектор, Смена… Năm 1925 xuất bản cuốn sách đầu tiên Повесть о рыжем Мотэле được đánh giá là thành công của một nhà thơ trẻ. Từ năm này Utkin bắt đầu làm ở báo Sự thật Thanh niên. Năm 1927 in Первая книга стихов và cũng trong năm này tốt nghiệp trường báo chí, sống ở ngôi nhà “Hợp tác xã Văn” nổi tiếng ở Moskva.

                            Thời kỳ chiến tranh Vệ quốc, Utkin ra trận, chiến đấu ở Bryansk. Tháng 9 năm 1941 ông bị thương ở Elnya, tỉnh Smolensk bị mất bốn ngón tay ở bàn tay phải. Sau đó ông được chuyển về điều trị ở Taskent. Năm 1942 trở lại chiến trường Bryansk làm phóng viên đặc biệt của các báo: Sự Thật (Правда) và Tin Tức (Известия). Iosif Utkin mất ngày 13 tháng 11 năm 1944 trong một vụ tai nạn máy bay ở ngoại ô Moskva. Ông chết trong tư thế tay đang cầm quyển thơ của Lermontov.

                            Tác phẩm:
                            *Повесть о рыжем Мотэле (1925)
                            *Первая книга стихов (1927)
                            *Милое детство (1933)
                            * Публицистическая лирика (1931)
                            *Стихи (1935)
                            *Лирика (1939)
                            *Фронтовые стихи (1942)
                            *О родине. О дружбе. О любви (1944)

                            Thư mục:
                            *Луначарский А. В., Собр. соч., т. 2, М., 1964, с. 317–19, 327–29, 348–53;
                            *Саакянц А., Иосиф Уткин. Очерк жизни и творчества, М., 1969;
                            *В ногу с тревожным веком. Воспоминания об Иосифе Уткине, М., 1971.


                            Một số bài thơ:


                            NẾU TÔI KHÔNG TRỞ VỀ

                            Em thân yêu, nếu tôi không trở về
                            Những lá thư của em không còn đọc
                            Thì em đừng nghĩ là do ai khác
                            Mà nghĩa là… đất ướt đó em ơi.

                            Có nghĩa là những cây sồi lẻ loi
                            Cúi xuống buồn về tôi trong lặng lẽ
                            Mà chia tay với người yêu như thế
                            Em và quê hương tha thứ cho tôi.

                            Tôi chỉ yêu em và đất nước thôi –
                            Những gì mà tôi đã từng hạnh phúc
                            Chỉ em và quê hương – em có biết
                            Đã từng yêu bằng cả trái tim tôi.

                            Còn một khi lẻ loi những cây sồi
                            Trên mồ tôi chưa mơ màng cúi xuống
                            Thì chỉ em sẽ là người yêu mến
                            Và chỉ người, đất nước dấu yêu ơi.


                            LY BIỆT

                            Ly biệt cuốn tình đi…
                            Kukolnik

                            Gió. Những chiếc lá lượn lờ
                            Và đã hai tuần có lẽ
                            Cơn bão tuyết hình cầu bàng bạc thế
                            Đang om sòm, đùa khắp Moskva.

                            Nhưng thà gió thổi dồn những ngôi nhà
                            Gió và tuyết… Em đừng buồn thế.
                            Vì dù sao, những con đường gặp gỡ
                            Chẳng ai mang nó đi.

                            Và em đã từng ly biệt với anh
                            Vì những đợt tuyết rơi ngắn ngủi
                            Cuộc đời với hai ta đứng giữa
                            Như Vạn lý Trường thành.

                            Nhưng trong bụi bặm con đường thảo nguyên
                            Trong bụi bặm của miệng người đồn thổi
                            Ản anh và em vẫn chưa quên nổi
                            Khí trời của Moskva yêu thương.

                            Thì em hãy đưa bàn tay cho anh!..
                            Và hãy nhìn: cuộc đời đang phá bỏ
                            Đang cuốn đi bức tường cách trở
                            Như Vạn lý Trường thành.


                            TÌNH YÊU GIAO NHIỆM VỤ

                            Tình yêu giao cho ta nhiệm vụ
                            Rằng hai đứa mãi sống cùng
                            Nhưng mà ta đã không thành công
                            Giải bài toán khó.

                            Anh hay em đã từng nhầm lẫn
                            Thái dương của ai trắng hơn –
                            Anh không biết. Nhưng ta đã từng
                            Đứng tám năm trước bảng.

                            Ta chia tay… cổ họng đầy nước mắt
                            Không nước mắt mà máu đó em ơi!
                            Ta như trẻ con đơn giản đem chùi
                            Tình yêu không thể nào giải được…





                            Naum Moiseyevich Korzhavin (tiếng Nga: Нау́м Моисе́евич Коржа́вин tên thật là Emmanuil Mandel – Эммануил Мандель, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1925) – nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, dịch giả Nga gốc Do Thái, từ năm 1974 sống ở Boston, Mỹ.

                            Tiểu sử:
                            Naum Korzhavin sinh ở Kiev (nay là thủ đô Ukraine). Học phổ thông ở Kiev, theo lời của chính Naum Korzhavin thì trước khi Thế chiến II nổ ra ông bị đuổi học vì cãi nhau với hiệu trưởng. Naum Korzhavin làm thơ từ rất sớm, sau đó được nhà thơ Nikolay Nikolaevich Aseyev để ý và đem kể với các nhà văn, nhà thơ ở Moskva. Thời chiến tranh Naum Korzhavin không phải ra trận vì lý do tay ngắn.

                            Năm 1944 ông đến Moskva thi vào trường viết văn Maxim Gorky nhưng không thành công, sau đó thi lần 2 vào năm 1945 mới đậu. Ông ở cùng phòng với nhà thơ Rasul Gamzatov và nhà văn Vladimir Tendryakov. Tuy nhiên Naum Korzhavin học chưa lâu thì nổ ra chiến dịch “đấu tranh với những phần tử cực đoan” (tiếng Nga: Борьба с космополитизмом, tiếng Anh: Rootless cosmopolitan), ông bị bắt giam 8 tháng ở trại tạm giam của Bộ An ninh, sau đó bị xử như một “phần tử xã hội nguy hiểm” và bị cho đi cải tạo ở Siberia 3 năm.

                            Năm 1954 ông được trở lại Moskva, sống bằng nghề dịch thuật, tiếp tục học trường viết văn và tốt nghiệp năm 1959. Thỉnh thoảng thơ của ông mới được đăng ở các tạp chí. Năm 1961 in tập thơ Годы bao gồm những bài thơ sáng tác trong giai đoạn 1941 – 1961. Năm 1967 nhà hát Stanislav dựng vở kịch Однажды в двадцатом của ông.

                            Năm 1973 Naum Korzhavin viết đơn xin xuất cảnh với lý do “không đủ không khí để sống”. Ông được xuất cảnh sang Boston, Mỹ, làm cho tạp chí Continental và thường xuyên phát biểu trước sinh viên các trường đại học, in các tập thơ Времена (1976) và Сплетения (1981) ở Frankfurt am Main, Đức. Thời kỳ cải tổ ông trở lại Liên Xô và Nga nhiều lần theo lời mời của các văn nghệ sĩ nổi tiếng. Hiện ông sống và làm việc ở Boston, Mỹ.

                            Tác phẩm:

                            Thơ:
                            *16 стихотворений // «Тарусские стра¬ницы», 1961
                            *Рож¬дение века. Поэма // «Молодая гвардия», 1962, № 8
                            *Годы, 1963
                            *Поэма греха // «Новый журнал», № 116, 1974
                            *Времена, Frankfurt/M., 1976
                            *Сплетения, Frankfurt/M., 1981
                            *Письмо в Москву (стихи и поэмы, 1991)
                            *Время дано (стихи и поэмы, 1992)
                            *На скосе века (Время, 2008)

                            Văn:
                            *В защиту банальных истин // «Новый мир», 1961, № 3
                            *Лирика Маршака. Статья // «Новый мир», 1963, № 3
                            *Поэзия А. К. Толстого // «Вопросы литературы», 1967, № 4
                            *Судьба Ярослава Смелякова. Статья // «Грани», № 91, 1974
                            *Опыт поэтической биографии. Статья // «Континент», № 2, 1975
                            *Игра с дьяволом. Статья // «Грани», № 95, 1975
                            *Психоло¬гия современного энтузиазма. Статья // «Конти¬нент», № 8, 1976 и № 9, 1976
                            *В соблазнах кровавой эпохи (2005) — воспоминания


                            Một số bài thơ:


                            BÀI CA NGHÌN NĂM TUỔI

                            Bài ca cổ xưa này
                            Đến muôn đời vẫn mới.

                            H. Heine

                            Một bài ca xưa cũ
                            Tuổi đã có nghìn năm:
                            Chuyện chàng yêu một nàng
                            Nhưng nàng thì không không thế.

                            Đổi thay bao thế kỷ
                            Bão tuyết vẫn thét gào
                            Còn con người vẫn nghĩ
                            Những ý nghĩ khác nhau.

                            Nhưng vì sao lại thế
                            Muôn thuở, như kiếp nào
                            Không hiểu tại vì sao
                            Nàng không yêu người đó.

                            Để cho chàng đau khổ
                            Vì chàng rất yêu nàng
                            Nhưng có một điều rằng
                            Chàng là ai cơ chứ?

                            Có thể là hảo hán
                            Mà, có thể, nhà thơ
                            Nhưng nàng là ánh sáng
                            Hạnh phúc của người kia.

                            Chàng tìm chi ở đó
                            Linh cảm của mình chăng
                            Chàng vô cùng hoảng sợ
                            Sống mà chẳng có nàng.

                            Nhưng chàng không thể làm
                            Ở đây điều gì cả…
                            Thì nàng là ai thế
                            Vì sao chẳng yêu yêu chàng?

                            Nàng? Là sự hoàn mỹ
                            Với lại, có điều rằng
                            Chốn trần gian này chỉ
                            Có nàng hiểu được chàng.

                            Nàng luôn thông minh hơn
                            Dịu dàng hơn tất cả
                            Chàng cũng hơn tất cả
                            Cảm nhận được ở nàng…

                            Nhưng dù sao, ngàn năm
                            Đã ngàn năm có lẻ
                            Chàng vẫn luôn yêu nàng
                            Mà nàng thì không thế.

                            Bởi vì con tim nàng
                            Đã phải lòng người khác –
                            Không ám ảnh, điên cuồng
                            Nhưng dù sao, người tốt.

                            Dù người này có phần
                            Buồn chán hơn người nọ
                            (Vì bài ca xưa cũ
                            Không nói dối về chàng).

                            Nhưng bài ca này vẫn
                            Cứ vang lên bây giờ.
                            Còn tôi theo bài ca
                            Đang làm người dẫn chuyện.

                            Quả là không hiểu được
                            Xin thú nhận điều này:
                            Nàng phải lòng người khác…
                            Là tại vì sao đây?

                            Thật dại dột, thơ ngây
                            Vì sao nàng lại chọn?
                            Đâu phải vì buồn chán
                            Nàng đâu sợ điều này?

                            Mà chỉ như người ta
                            Nàng vô cùng muốn sống
                            Và nàng cảm thấy lạnh
                            Với linh cảm phụng thờ.

                            Có thể, không hiểu ra
                            Tôi không là thần thánh.
                            Nhưng chuyện trong bài ca
                            Không một lời. Im lặng.

                            Mà có thể hảo hán
                            Mệt mỏi vì tiếc thương
                            Rồi cuối cùng tự mình
                            Với nàng đâm chán nản.

                            Và rồi cũng trở thành
                            Trở thành con người khác –
                            Không ám ảnh, điên cuồng
                            Nhưng dù sao, người tốt.

                            Và rồi cũng nghe được
                            Lời ngoan ngoãn rằng: “vâng”…
                            Không biết được. Chuyện trên
                            Không bao giờ thấy hát.

                            Bài ca – không biết được
                            Nhưng mà ở trên đời
                            Cả chuyện này chuyện khác
                            Đã từng xảy cùng tôi.

                            Thì sao tôi giận chứ
                            Rằng đã một nghìn năm
                            Có chàng yêu một nàng
                            Còn nàng thì không thế?
                            1958





                            ANH BÂY GIỜ

                            Anh bây giờ vẫn hãy còn chưa hiểu
                            Hai đứa mình có những thứ gì chung.
                            Nhưng mà anh vẫn thường xuyên nhớ lại
                            Ánh sáng từ đôi mắt sáng của em.

                            Ánh sáng này màu xanh và đắc thắng
                            Tựa hồ như ánh lửa chốn thâm sâu.
                            Quả như người Skiff từng đã chẳng
                            Đi qua không để lại dấu vết nào.


                            KHÔNG CẦN ĐÂU ANH Ạ

                            Không cần đâu, anh ạ, chớ kêu ca
                            Vì điều rằng em ra đi nhanh thế
                            Người phụ nữ mà anh đã không ngờ
                            Đã trao anh những gì người có thể.

                            Anh buồn bã nơi trần thế rất lâu
                            Vậy mà anh không thể nào hiểu được
                            Rằng tia chớp thì lóe sáng không lâu
                            Mà chỉ sáng rực lên trong phút chốc.
                            #104
                              cacbac 30.09.2011 12:22:37 (permalink)


                              Aleksandr Sergeevich Kochetkov (tiếng Nga: Алекса́ндр Серге́евич Кочетко́в, 12 tháng 5 năm 1900 – 1 tháng năm 1953) – nhà thơ, dịch giả Nga.

                              Tiểu sử:
                              Aleksandr Kochetkov sinh ở Moskva. Năm 1917 học xong trường gymnazy, sau đó vào học khoa ngôn ngữ Đại học Quốc gia Moskva (MGU). Biết làm thơ từ nhỏ. Thơ của ông không thật nổi tiếng nhưng “Bài thơ về toa tàu mịt mù khói thuốc” của ông với dòng thơ “đừng chia tay với người mình yêu” được phổ nhạc và trở thành bài hát nổi tiếng suốt nửa cuối thế kỷ XX. Bài hát này trong bộ phim Ирония судьбы, или С лёгким паром! – là một trong những bộ phim hay nhất của điện ảnh Xô Viết, có 7 triệu khán giả và đoạt giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1977.

                              Ngoài làm thơ Aleksandr Kochetkov còn dịch thơ, văn của các tác giả Phương Tây và các nước công hòa thuộc Liên Xô cũ.

                              Thư mục:
                              *Впервые «Баллада о прокуренном вагоне» была опубликована Львом Озеровым (со вступительной заметкой о Кочеткове) в сборнике «День поэзии» (1966).
                              *Позже «Баллада» вошла в антологию «Песнь любви» (1967).
                              *Напечатана в «Московском комсомольце» и в различных сборниках и антологиях.
                              *В 1974 году в издательстве «Советский писатель» вышла драма в стихах «Николай Коперник».
                              *Опубликованы одноактные стихотворные пьесы: «Голова Гомера» (о Рембрандте, в журнале «Смена») и «Аделаида Граббе» (о Бетховене, в журнале «Памир»).
                              *Циклы лирических стихотворений в «Дне поэзии», «Памире», «Литературной Грузии».

                              Một vài bài thơ:

                              TUỔI TRẺ ĐI QUA

                              Tuổi trẻ đi qua, chỉ còn trong hoài niệm
                              Say đắm của con tim như bài hát xa xăm
                              Đời khô khan như bụi cây ngải đắng
                              Như bụi cây ngải cứu đắng vô cùng.

                              Nhưng vì sao khi bàn tay đờ đẫn
                              Khẽ chạm lên bàn tay của người tình
                              Thì trong ngực một nỗi buồn trĩu nặng
                              Một nỗi buồn không kìm được ánh lên?

                              Tại sao khi giữa đám đông thơ thẩn
                              Với vẻ thản nhiên tôi bỗng vội vàng
                              Cõi lòng tôi khổ đau và lãnh đạm
                              Bỗng ngời lên niềm hạnh phúc lâng lâng?

                              Ánh mắt này đã mỏi mệt, hoa lên
                              Đang nhìn xuyên qua màn sương thành phố
                              Sao lại nhìn lên hoàng hôn ráng đỏ
                              Như nhìn vào gương mặt đẹp tuyệt trần?


                              TẤT CẢ LẶNG IM

                              Tất cả lặng im: đam mê, nỗi buồn, mất mát
                              Về những ngày mỏi mệt chớ tiếc thương!
                              Chim họa mi sẽ ngừng tiếng sau cùng
                              Bài ca buổi hoàng hôn là bài ca hay nhất.


                              KHÚC LÃNG MẠN

                              Không phải máu, lòng thương hay khao khát
                              Nửa nỗi buồn lười nhác chỉ còn mong:
                              Quyến rũ em và im lặng cuối cùng
                              Giấc mơ cuối của lòng – rồi giết chết.

                              Còn em khao khát hướng về phía trước
                              Theo đam mê, gọi em là của anh
                              Anh buồn về em như đáy đại dương
                              Buồn về cánh buồm phía trên đang lướt.


                              TÌNH YÊU CUỐI

                              Em lại uống say rượu của họa mi
                              Nuôi chúng tôi bằng bánh mì quên lãng
                              Em đã là mùa xuân cuối cùng chưa?
                              Hỡi mùa xuân tuôn trào như thác trắng.

                              Và trong mối âu lo này không dứt
                              Vẫn còn đây vẻ âu yếm dịu dàng –
                              Như tất cả bài ca chưa hát hết
                              Chưa tận cùng mê sảng những nụ hôn.

                              Khát khao – như đôi môi ép chặt
                              Ngân vang – như nước rót vào bình
                              Nặng nề - như xẻng đào xuống đất
                              Ngọt ngào – như chim hót trong rừng.

                              Chúng tôi hướng về bầu trời tối tăm
                              Về tiếng gọi không thể nào cưỡng lại
                              Tình yêu này là tình yêu cuối chăng?
                              Hở tình yêu vì bài ca mệt mỏi!




                              Yevgeny Yurevich Lebeded

                              NGƯỜI YÊU TA

                              Những người yêu ta – với người ta hờ hững
                              Họ tốt bụng, họ nhút nhát, ngoan hiền
                              Họ luôn luôn sẵn sàng nhiều thứ lắm
                              Thế mà lời ta cũng cứ tiếc thương.

                              Người yêu ta là người ta không cần
                              Theo người khác, ta uống chất độc lạ…
                              Để rồi đớn đau, tự mình hành hạ
                              Nhưng người yêu ta không nói gì hơn.

                              Người yêu ta, với người ta có thể tốt hơn
                              Nhưng ta hững hờ với “phút giây hạnh phúc”
                              Tình yêu, than ôi, ngang bướng và cay nghiệt
                              Người yêu ta, ta đào hố để chôn.

                              Người yêu ta bởi để ghét người cần!
                              Ta thấy thương, nhưng giận hờn có thể
                              Người yêu ta không vì điều trái lẽ
                              Nhưng cuốn ta là dòng chảy của sông.
                              22.09.08
                              #105
                                Thay đổi trang: << < 78 > | Trang 7 của 8 trang, bài viết từ 91 đến 105 trên tổng số 109 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9