150 Nhà thơ Nga

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 109 bài trong đề mục
Tác giả Bài
cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 09.10.2009 16:11:26
KHÔNG CÒN EM
 
Không còn em u sầu và đỏng đảnh
Nhưng anh trao mình cho em đã từ lâu
Chính vì thế mà rất nhiều cuộc sống
Em biết cách bằng y chí gom vào.
 
Và ngày hôm nay bầu trời màu xám
Ngày qua trong cơn mê sảng rã rời
Sau cửa sổ, trên vườn hoa ướt sũng
Trò nhảy cừu những đứa trẻ không chơi.
 
Em ngắm nhìn những bức hình đã cũ
Và em đưa tay đỡ lấy mái đầu
Những hình dáng buồn cười vô nghĩa quá
Đi theo hàng thật buồn bã biết bao.
 
Em hãy nhìn, có thấy – một con chim
Và người kị sĩ, ngựa nhanh chân bước
Nhưng thật lạ lùng, vì sao bực tức
Và chau mày cau có một ông quan.
 
Rồi em đọc anh nghe chuyện ông hoàng
Rất đằm thắm, sáng trong và mộ đạo
Đầu ngón tay út của em chạm phải
Tay áo của anh khi lật từng trang.
 
Nhưng khi âm thanh của ngày lặng im
Trăng chiếu sáng trên bầu trời thành phố
Thì em bỗng vặn tay bất chợt quá
Và trở nên tái nhợt vẻ u buồn.
 
Đứng trước em anh luống cuống vô cùng
Anh lặng im, ao ước về chỉ một:
Sao cho vĩ cầm hát lên ngào ngọt
Để em nghe cõi cực lạc bằng vàng.
 
 CÂY LIỄU TRẮNG

Cây liễu trắng đen thẫm ở thân trên
Những con quạ nhẹ nhàng trong vội vã
Trong thung lũng bầu trời xanh – xanh quá
Những đám mây như những chú cừu non.
Trong mắt em ánh lên vẻ ngoan hiền
“Em yêu anh mất rồi” – em bảo thế
Cả bốn phía cỏ hoa như biển cả
Đấy là một giờ sau buổi trưa êm.
 
Anh hôn lên những lưu bút ngày xanh
Bóng hoa cỏ trong màu hồng đôi má
Ngày vui ánh sáng thơm ngào ngạt quá
Thơm trên màu đồng của mái tóc xoăn.
Và anh cứ ngỡ em là ước mong
Là xứ sở mà anh chưa từng có
Có vẻ như đấy là miền đất hứa
Của bài ca, của rượu, của hân hoan.
 
 
TRÊN NHỮNG CON ĐƯỜNG
 
Trên những con đường mặt đất màu xanh
Anh hạnh phúc với phận mình tối mịt
Còn thơ ca? Em đọc chúng cho anh
Khi cúi xuống trên người anh bí mật.
 
Em xưa là nỗi cuồng điên của anh
Hay là trí khôn vô cùng kì lạ
Một khi nào đó thiên thần hung dữ
Từng nói cho con rắn đượm vẻ buồn:
 
“Rồi sẽ trôi qua bóng tối nghìn năm
Ngươi sẽ đánh nhau trong lồng chật hẹp
Rồi Đức Thánh linh và cả Chúa con
Sẽ đi đến đây trước giờ phán xét.
 
Đấy là những đấng cao hơn ta, và chỉ
Khi hạn kì đã định sẽ trôi đi
Thì ngôi sao buổi sớm lỗi lầm kia
Ngươi đến đây, kẻ có mắt buồn ạ.
 
Người anh em của ta dịu dàng, có cánh
Xưa từng chúa tể hay kẻ khốn cùng
Vườn cực lạc ở sau những bức tường
Ta tìm thấy là khu vườn tuyệt đỉnh.
 
Nơi dòng nước ngọt ồn ào tí tách
Bàn tay ta kết gắn những bàn tay
Và ngôi sao buổi sớm dễ thương này
Ta không nhớ về chia ly kiếp trước.
1917
 
 

 
 
CÔ BÉ
 
Thời gian không xua đi được nỗi buồn
Không còn sức để nhìn và để thở
Lấy bàn tay khép vào đôi mắt mở
Và anh bắt đầu mơ ước về em.
 
Không về cô bé mỏi mệt, thanh thanh
Như tất cả nhìn ra em như thế
Mà cô bé khiêm nhường và lặng lẽ
Trên cuốn sách của Musset cúi mình.
 
Cái ngày em biết được lần đầu tiên
Ấn Độ lạ kì của bao kì lạ
Có những cây cọ thiêng, có hổ
Giờ đối với anh ngày ấy vẫn còn.
 
Đôi khi em nhìn biển cả mênh mông
Còn bão tố đổ dồn trên biển cả
Đấy là trong hiện tại niềm đau khổ
Che mờ đôi mắt bằng một màn sương.
 
Tại vì sao trên bờ biển lặng im
Không chói ngời lên màu vàng cung điện?
Tại sao trên những luồng sóng sáng
Thiên thần lại không đi đến với em?
 
Anh biết rằng trong chiếc chăn trẻ con
Em không ngủ trong những chiều như vẫn.
Con tim thổn thức, đôi mắt ngời sáng
Em mơ về số phận lớn lao hơn.
 
Và khi vùi đầu kín mít trong chăn
Em muốn trở thành mặt trời sáng chói
Để cho loài người rồi đây sẽ gọi
Em là hạnh phúc, hi vọng của mình.
 
Thế gian này không xảo quyệt với em
Em bất thình lình xuyên qua bóng tối
Trở thành ngôi sao vô cùng chói lọi
Dù chẳng cho người – mà chỉ riêng anh.
 
Nhưng bây giờ em đã khác, em quên
Những gì buổi ấu thơ từng suy nghĩ
Hi vọng đâu? Thế gian là ngôi mộ
Hạnh phúc ở đâu? Anh thở nhọc nhằn.
 
Và người đối thoại của em bí huyền
Anh trao lòng mình cho em tất cả
Vì cái tạp dề của em hồi nhỏ
Vì con búp bê đã vỡ của em.
1917
 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 13:57:19
150 Nhà thơ Nga (Phần 2)



Andrei Bely (tiếng Nga: Андрей Белый) là bút danh của Boris Nikolaevich Bugaev (16 /10 /1880 – 8/2/1934) là nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình, một đại diện tiêu biểu của trường phái ấn tượng Nga.

Tiểu sử:
Andrei Bely sinh ra trong gia đình giáo sư toán học Nicolai Vasilevich Bugaev và sống những năm tháng đầu đời ở đường phố Arbat, trung tâm của Moskva. Những năm 1891 – 1899 học ở trường gymnazy Polivanov nổi tiếng mà những năm cuối rất say mê Phật giáo và thuyết huyền bí cùng với văn học. Andrei Bely chịu ảnh hưởng của Dostoievsky, Soloviev, Ibsen, Nietzsche. Năm 1903 tốt nghiệp khoa toán-lí, Đại học Moskva. Các năm 1904-1905 học tiếp ở khoa lịch sử và ngôn ngữ của trường này. Sự làm quen với những thành tựu mới nhất của vật lí, toán học và các môn khoa học khác (khái niệm về thời gian, không gian, về cấu trúc vật chất…) được Andrei Bely thể hiện trong các hình tượng văn học cũng như trong những tác phẩm triết học về văn hóa.

Năm 1904 Andrei Bely làm quen với Aleksandr Blok và họ trở thành những người bạn thân của nhau. Thời gian này vợ của A. Blok là Lyubov Mendeleeva, con gái của nhà bác học vĩ đại D. I. Mendeleev thường than phiền với Andrei Bely về chuyện Blok có quan hệ với rất nhiều cô gái xinh đẹp, dễ tính mà đâm ra chểnh mảng với cô. Thế rồi điều gì phải đến đã đến, một hôm Lyubov Mendeleeva thổ lộ tình yêu của mình với Andrei Bely và nhận được tình cảm đáp lại. Họ trở thành những người tình. Năm 1906, A. Blok viết vở kịch nổi tiếng Quán ván (Балаганчик) về một tam giác tình yêu làm cho Lyubov Mendeleeva rất khó xử, quyết định tạm chia tay với người tình để trở về với chồng. Thời gian này Andrei Bely từng có ‎định tự tử nhưng không thành. Cuối cùng Andrei Bely cũng đủ can đảm để chia tay với người tình để đi ra nước ngoài.

Thời gian hai năm sống ở nước ngoài Andrei Bely sáng tác hai tập thơ, chủ yếu viết về người tình và A. Blok. Trở về nước Nga, Andrei Bely cưới Asya Turgeneva và họ cùng nhau đi du lịch sang Sicilia – Tunisia – Ai Cập – Palestine và chỉ trở về Nga năm 1916. Sau cách mạng tháng Mười, Andrei Bely dạy lí thuyết văn học cho các nhà văn cách mạng ở trường Đại học Văn hóa vô sản Moskva.

Năm 1918 Asya Turgeneva bỏ Andrei Bely để đi lấy chồng khác. Mãi đến năm 1929 ông mới lấy vợ khác – là một người phụ nữ bỏ chồng của mình và tự nguyện đến với ông. Andrei Bely chết trên tay người vợ này ngày 8 tháng 2 năm 1934.

Andrei Bely là người thành công trong cả văn xuôi cũng như thơ. Ông được người đến nhớ đến như hình tượng của một Hoàng tử Buồn trong văn học.

Tác phẩm:
Văn xuôi:
*Симфония, 1902
*Северная симфония, 1904
*Возврат, 1905
*Кубок метелей, 1908
*Серебряный голубь, 1909
*Трагедия творчества. Достоевский и Толстой, 1911
*Символизм, 1910
*Луг зелёный, 1910
*Арабески, 1911
*Котик Летаев, 1914-1915
*Рудольф Штейнер и Гёте в мировоззрении современности, 1917
*Крещёный китаец, 1921
*На перевале, 1918-1919
*Москва («Московский чудак», «Москва под ударом», 1926)
*Маски, 1932
*Ритм как диалектика и „Медный всадник, 1929

Các tập thơ:
*Золото в лазури, 1904
*Пепел, 1909
*Урна, 1909

Thư mục:
*А. В. Лавров. Белый Андрей // Русские писатели. 1800—1917: Биографический словарь, гл. ред. П. А. Николаев, Т. 1: А — Г. - М., 1992. С. 225—230.
*К. А. Кедров. Многоочитая сфера Андрея Белого // К. А. Кедров. Поэтический космос. 1989 (то же: Метаметафора, 1999; Паралельные миры, 2002; Метакод, 2005).
*Моника Спивак. Андрей Белый — мистик и советский писатель. — М.: РГГУ, 2006. 578 с.





TÌNH YÊU

Giờ dịu êm. Sóng vỗ dưới bàn chân
Em mỉm cười, thì thầm lời giã biệt:
“Mình gặp lại nhau… trước ngày hẹn gặp…”
Hai đứa mình đều hiểu đấy dối gian.

Rằng chúng mình vĩnh biệt đến ngàn năm
Cả bầu trời cháy lên màu đỏ thắm
Những cánh buồn trên con tàu nổi giận
Tiếng hải âu kêu trên sóng dập dờn.

Anh nhìn xa, ngực nhói một nỗi buồn
Trên con tàu giữa hoàng hôn rẽ sóng
Như chim thiên nga giăng ra đôi cánh
Giữa dịu dàng, giữa bọt sóng màu lam.

Và con tàu đi về chốn vô biên.
Giữa nền trời một màu vàng tái nhợt
Bỗng hiện ra một đám mây mờ mịt
Và bừng cháy lên màu tím thạch anh.


GỬI ASYA
(Trong lần giã biệt)

Màu thanh thiên bỗng tái nhợt xanh xao
Những tảng đá như đang nhìn vào bóng
Từ trong đêm đen chuyển vào ngày nắng
Những đỉnh núi cao ánh sáng lập lòe.

Ngày nối theo ngày, giờ tiếp theo giờ
Thời gian gắn hai ta vào muôn thuở
Đôi con mắt của em như rực lửa
Lửa rực trong bờ mi vẫn khép hờ.

Người bạn thủy chung, cuối cùng, muôn thuở
Đừng trách chi sự im lặng của anh
Trong im lặng có sợ hãi, đau buồn
Và hiểu biết của tình không thể tả.







Sasha Cherny (tiếng Nga: Саша Чёрный là bút danh của Aleksandr Mikhailovich Glickberg) (13/10/1880 – 5/7/1932) – nhà thơ thế kỉ bạc, nhà văn, dịch giả, nhà phê bình Nga.

Tiểu sử:
Sasha Cherny sinh ở Odessa trong một gia đình Do Thái đông con. Bố mẹ phải làm lễ rửa tội ở nhà thờ rất sớm cho Aleksandr để được vào học trường gymnazy nhưng cậu bé thường xuyên bỏ học đi ăn mày. Chuyện này được đăng trên báo và một quan chức có tên là K. K. Rochet hay làm từ thiện ở Zhitomir đã nhận Aleksandr về nuôi dạy. K. K. Rochet là người có ảnh hưởng đến việc phát triển năng khiếu thơ ca của Sasha Cherny.

Từ năm 1900 đến năm 1902 Sasha Cherny phục vụ trong quân đội và một thời gian ngắn làm việc trong ngành hải quan. Năm 1905 chuyển về Saint – Petersburg và in thơ trào phúng ở các tạp chí: «Зритель», «Альманах», «Журнал», «Маски», «Леший»… Sasha Cherny bắt đầu nổi tiếng từ thời kì này và, như nhà văn Korney Chukovsky viết: “hễ mua được tờ tạp chí mới thì trước hết bạn đọc đi tìm đọc thơ của Sasha Cherny…”

Từ năm 1906 đến năm 1908 sống ở Đức, học tại Đại học Heidelberg. Trở về Saint-Petersburg Sasha Cherny cộng tác với nhiều tạp chí và báo in hai tập thơ và trở thành nhà văn thiếu nhi cũng nổi tiếng không kém thơ. Những năm Thế chiến I ông tham gia quân đội và viết tập thơ Chiến tranh (Война). Năm 1920, không thừa nhận chính quyền cách mang, ông cùng vợ đi sang sống ở châu Âu (đầu tiên ở Kovno - Litva, sau ở Berlin – Đức) in tác phẩm ở các tạp chí Nga hải ngoại. Từ năm 1924 sống ở Paris và tham gia tích cực vào đời sống văn học của cộng đồng Nga ở Pháp. Năm 1929 ông mua đất xây nhà ở làng La Favière, vùng Provence, miền nam nước Pháp làm nơi qua lại của nhiều văn nghệ sĩ Nga sống ở Pháp.

Sasha Cherny qua đời ngày 5 tháng 7 năm 1932 sau khi chạy sang giúp chữa cháy ở một trang trại gần nhà, khi trở về ông nằm nghỉ và mãi mãi không còn ngồi dậy. Phần mộ ông hiện ở nghĩa trang Lavandou, miền nam nước Pháp. Ngoài sáng tác thơ văn, ông còn để lại nhiều bản dịch tác phẩm của Heirich Heine, Dehmel Rixard, Knut Hamsun… Đỉnh cao sáng tạo của ông là tập thơ được nhạc sĩ thiên tài Shostakovich phổ nhạc.

Tác phẩm:
*Разные мотивы, 1906
*Сатиры, 1910
*Тук-Тук, 1913
*Жажда, 1923
*Сон профессора Патрашкина, 1924
*Дневник фокса Микки, 1927
*Кошачья санатория, 1928
*Несерьезные рассказы, 1928
*Чудесное лето, 1929
*Румяная книжка, 1930
*Кому в эмиграции жить хорошо, 1931–1932
*Белка-мореплавательница, 1932
*Солдатские сказки, 1933



TÌNH YÊU PHẢI TRỞ THÀNH HẠNH PHÚC

Tình yêu phải trở thành hạnh phúc
Đấy là quyền của tình yêu.
Tình yêu phải là tình yêu đẹp
Đấy là trí tuệ của tình yêu.
Thế anh nhìn thấy tình yêu như thế ở đâu?
Có phải ở các ông nam tào bắc đẩu?
Hay người ca sĩ trên sân khấu
Ép vào áo ngực chiếc găng tay
Đánh lên váng sữa
Từ tình yêu của họa mi và của ánh trăng?
Chứ trong những dòng thơ trữ tình
Thì tình yêu được gieo vần với máu
Và hầu như đói khát thường xuyên?...

Anh quì xuống dưới chân Thần ái tình
Đặt vòng hoa đáng thương kết từ ngải cứu
Mà anh hái từ trong những mảnh vườn hoang…






BÀI THƠ ỨNG KHẨU

Ngày xưa ta như Tin – Tin
Nghe lời tiên ta đi tìm chim xanh!
Và khi người đặt vào cho ta bấc
Ta say sưa, đắm đuối với chim xanh.

Ta đuổi theo biết bao dặm đường
Rồi ta trở về với con Chim Đen!
Còn Chim Xanh mà ta hằng mong mỏi
Ở nước ngoài có gặp hở Tin - Tin?
____________
*Tin-Tin (Tyltyl) là nhân vật trong tác phẩm “Chim xanh” của Maurice Maeterlinck (giải Nobel Văn học năm 1911). Bé trai Tyltyl và bé gái Mytyl là con của một tiều phu theo lời tiên Bérylun đi tìm Chim xanh. Nhưng con chim mà họ cho là chim xanh, thực ra không phải như họ nghĩ. Chim xanh ở trong xứ sở Hoài Niệm đã chết từ lâu. Bà ngoại cho họ con chim sáo mà họ cứ ngỡ là Chim xanh nhưng khi họ giã từ xứ sở này thì Chim xanh trở thành đen. Ở trong vương quốc Bóng Tối họ tìm thấy trong vườn Ước Mơ và Ánh sáng ban đêm rất nhiều Chim xanh nhưng những con chim mà họ bắt được đều chết - Tyltyl và Mytyl đã không tìm được con Chim xanh có thể mang lại ánh sáng ban ngày.


KHÔNG KÌM NÉN ĐƯỢC

Người vợ hiền của nhà thơ đã chết
Từng yêu vợ hơn nhuận bút của mình!
Một nỗi đau điên cuồng và khủng khiếp
Nhưng nhà thơ không chết bởi đau thương.

Chôn vợ xong nhà thơ đi về nhà
Một cảm xúc mới trong lòng dâng ngập
Và ông vội vàng viết một bài thơ:
“Người vợ hiền của nhà thơ đã chết”.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:01:09


Nikolai Alekseevich Klyuev (tiếng Nga: Никола́й Алексе́евич Клю́ев) (22/10/1884 – 25/10/1937) – là nhà thơ Nga, một đại diện của trường phái “thơ nông thôn” của thi ca Nga thế kỉ XX.

Tiểu sử:
Nikolai Klyuev sinh trong một gia đình nông dân ở làng Koshtugy, tỉnh Olonets. Hồi nhỏ học ở làng quê, sau đó học trung học ở Vytegra và Petropavlovsk. Nikolai Klyuev đi tham quan nhiều nơi ở nước Nga và tham gia nhiều giáo phái khác nhau của đạo Thiên Chúa. Ông cũng là người tích cực hưởng ứng cách mang trong những năm 1905 – 1907.

Nikolai Klyuev in những bài thơ đầu tiên từ năm 1904, sử dụng phong cách thơ của nhóm hình tượng. Tập thơ đầu tiên Tiếng thông reo (Сосен перезвон) in năm 1911. Thơ của Nikolai Klyuev được các nhà thơ nổi tiếng đương thời như Aleksandr Blok, Valery Bryusov đánh giá cao. Aleksandr Blok có sự ảnh hưởng lớn đến sáng tạo của Nikolai Klyuev.

Nikolai Klyuev cũng là người có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với nhà thơ nổi tiếng Sergei Esenin. Những năm 1915 – 1916 hai người thường xuyên cùng nhau đọc thơ trước công chúng. Sergei Esenin gọi Nikolai Klyuev là “cha đạo dịu dàng” và là người thầy của mình trong những bước đầu tiên. Mặc dù sau đó quan hệ hai người có lúc căng thẳng và phức tạp nhưng Nikolai Klyuev là người có ảnh hưởng đến sáng tạo của Sergei Esenin. Năm 1925 Sergei Esenin tự tử, Nikolai Klyuev in tập thơ Khóc Esenin (Плач по Есенин) in năm 1927.

Năm 1927 ông in trường ca Làng (Деревня) bị phê bình gay gắt vì nỗi buồn nhớ về một “thiên đường” làng quê bị công cuộc công nghiệp hóa giết chết. Năm 1932 Nikolai Klyuev chuyển từ Leningrad về sống ở Moskva. Năm 1934 bị bắt vào trại cải tạo ở Tomsk. Năm 1937 ông bị kết tôi thành lập tổ chức tôn giáo chống chính quyền Xô Viết và bị xử bắn ngày 25 tháng 10 năm 1937 ở Tomsk.

Tác phẩm:
*Сосен перезвон, 1911
*Братские песни, 1912
*Лесные были, 1913
*Мирские думы, 1916
*Избяные песни, 1920
*Ленин, 1923
*Изба и поле, 1928
*Плач по Есенину, 1927
*Заозерье, 1927


Thư mục:

1. Клюев Н. Сочинения, тт. 1-2. Мюнхен, 1969
2. Клюев Н. Стихотворения и поэмы. Л., 1977
3. Клюев Н. Стихотворения и поэмы. Архангельск, 1989
4. Михайлов А.И. Пути развития новокрестьянской поэзии. Л., 1990
5. Азадовский К.М. Николай Клюев: Путь поэта. Л., 1990
6. Базанов В.Г. С родного берега: О поэзии Клюева. Л., 1990
7. Клюев Н. Стихотворения. М., 1991
8. Шенталинский В. Рабы свободы: В литературных архивах КГБ. М., 1995
9. Николай Клюев: Исследования и материалы. М., 1997
10. Клюев Н. Сердце Единорога: Стихотворения и поэмы. СПб, 1999


Một số bài thơ:


BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC

Tình yêu ta giữa mùa hạ bắt đầu
Rồi kết thúc giữa mùa thu tháng chín.
Trong trang phục thiếu nữ rất đơn giản
Em đến bên anh với một lời chào

Trao cho anh trứng phục sinh màu đỏ
Màu tượng trưng của máu thắm, của tình
Em đừng vội về phương bắc, chim non
Hãy đợi mùa xuân ở phương nam nhé!

Khu rừng nhỏ màu xanh nghi ngút khói
Anh và em đều hồi hộp, lặng im
Phía xa xa như có những bức mành
Không nhìn thấy mùa đông đang tàn lụi.

Có những màn sương – con tim linh cảm –
Và âm u chuyển động của rừng xanh
Những dối gian không tránh khỏi, tất nhiên –
Của những buổi chiều âm u màu tím.

Em đừng bay vào sương như chim non
Năm tháng đi vào sương mù màu bạc
Em sẽ trở thành nữ tu tội nghiệp
Vào góc sâu tu viện, trước bậc thềm.

Và có thể khi đó anh đi ngang
Cũng gầy gò và đáng thương như vậy…
Em hãy cho anh đôi cánh thiên thần
Để bay theo em mà không nhìn thấy.

Nên em ơi chớ lảng tránh câu chào
Để rồi sau không có gì hối hận…
Tình yêu ta giữa mùa hạ bắt đầu
Rồi kết thúc giữa mùa thu tháng chín.



N. Klyuev và S. Esenin


KHÔNG TIN

Hồn không tin vào tiếng gọi màu đen
Với bóng ma của đêm không gặp gỡ.
Em như mùa thu, tốt lành, sáng sủa
Nhưng nghiêm hơn, âu yếm cũng ngắn hơn.

Những con sếu khi bay qua cánh đồng
Với tiếng kêu lê thê dài, thảm thiết
Và đoạn đầu đài sẽ không cách biệt
Em với nỗi buồn như với thiên nhiên.

Và mùa thu không chỉ có một lần
Khóc về em – xa xôi không còn nữa
Sau chén rượu say sưa, người đao phủ
Cúi xuống mái đầu nghiệt ngã đáng thương.



NGƯỜI TA BẢO ANH RẰNG EM ĐÃ CHẾT

Người ta bảo anh rằng em đã chết
Cùng với mùa thu lá rụng màu vàng
Và bây giờ rực rỡ ánh hào quang
Ngự trị cơn mưa rừng chưa từng biết.

Anh sẵn sàng quên như người lữ thứ
Từng ngỡ như em to lớn vô cùng
Màu lá đỏ của mùa thu đã sang
Biết bao lần đã cùng anh ngắm nghía.

Nghe nói rằng em đã không còn nữa
Nhưng liệu có phai tia nắng của tình:
Chẳng lẽ ánh mắt – không âu yếm của em
Và tia sáng – không nụ hôn em đó?






Natalia Rogacheva (?)

GỬI NGƯỜI YÊU DẤU

Hãy tha thứ cho em vì vẻ giả vờ
Vì lòng kiêu hãnh của em tuổi trẻ
Vì sự mãn nguyện thành tâm mà dối trá
Hãy bỏ quá lỗi lầm như một mục sư.

Hãy tha thứ cho em vì em đã sợ
Không biểu lộ ra tình cảm của mình
Và em đã không vĩnh biệt với tình
Đã không biết căm ghét điều hèn hạ.

Nhưng anh hãy tha thứ cho em một lần
Mặc dù anh có thể không, em không biết
Rằng em đã không kể ra điều bí mật
Không biết cách chiến thắng sự nhát gan.

Và bởi vì em chưa nói với anh
Vì nụ cười mà con tim thổn thức
Và với anh từ lần đầu gặp mặt
Niềm hạnh phúc mù trong ngực lâng lâng.

Và tiếp xúc, em cũng chưa nói rằng
Dù tiếp xúc chỉ là trong thoáng chốc
Vậy mà em nghẹt thở trong lồng ngực
Hoa tháng năm như nở giữa con tim.

Trong chia ly em đã giấu diếm anh
Rằng cõi lòng của em giờ đã chết
Mơ bờ môi anh trong đêm vắng ngắt
Vì thế mà em đã sống đó anh.

Khi gặp em anh không hề biết rằng
Em không nhìn mà quay đi kiêu hãnh
Chỉ buổi chiều hè nghe em cầu khẩn
Giấu nước mắt buồn qua một màn sương.

Tha cho em, em chưa nói một lần
Rằng hi vọng trong em từ dạo đó
Em đi tìm giữa đám đông xa lạ
Người mặc áo quần, đầu tóc như anh.

Đêm năm mới trên cây thông sáng đèn
Là mong ước về anh, em đã viết
Và giấu mình vào mũi kim ấm áp
Trong đó là thời tuổi trẻ của em.

Tha cho em, thật nghiệt ngã vô cùng
Thật lỗi lầm để trôi theo ngày tháng
Chờ ngày gặp nhau, khát khao thời hạn
Và để dập tắt ngọn lửa vô hình.

Và để chết. Và lại sẽ hồi sinh
Với ước mơ, với van nài duy nhất
Để dù một lần với anh thú thật
Để dù phút giây gặp lại cùng anh.

Tha cho em, thật khó nhọc để quen
Để mở ra đớn đau và dục vọng
Nhưng em phải gào lên trong điên loạn
Rằng EM YÊU ANH SUỐT CUỘC ĐỜI MÌNH!

Em biết rằng em bây giờ đã khác
Anh hãy quên đi câu chuyện của mình
Em tha thứ, vì đã nói với anh
Vì yêu anh – bây giờ em thú thật.

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:04:39


Alexander Semenovich Kushner (tiếng Nga: Александр Семёнович Кушнер) sinh ngày 14 tháng 9 năm 1936 – là nhà thơ, nhà văn Nga.

Tiểu sử:
Alexander Kushner sinh ở Leningrad (nay là Saint-Petersburg) trong một gia đình gốc Do Thái. Bố là đại tá hải quân. Tốt nghiệp Đại học sư phạm, Alexander Kushner đi dạy môn tiếng Nga và văn học trong 10 năm (từ 1959 đến 1969). Từ cuối thập kỉ 60 chuyển sang hoạt động văn học chuyên nghiệp.

Ông là hội viên Hội nhà văn Liên Xô (1965), hội viên Hội văn bút quốc tế Nga (1987). Từ năm 1992 là tổng biên tập của tạp chí Thư viện của nhà thơ (Библиотеки поэта), từ năm 1995 là tổng biên tập của Thư viện mới của nhà thơ (Новая библиотека поэта), đồng thời là thành viên hội đồng biên tập của các tạp chí “Звезда”, “Контрапункт”, “Арт-Петербург”… Hiện tại ông sống và làm việc ở Saint – Petersburg.

Phong cách thơ của Alexander Kushner gần gũi với Innokenty Annensky, Boris Pasternak và các nhà thơ phái Đỉnh cao (Asmeism). Nhà thơ Joseph Brodsky (giải Nobel Văn học năm 1987) viết về ông như sau: “Alexander Kushner là một trong số những nhà thơ trữ tình hay nhất của thế kỉ XX, tên anh đặt bên cạnh những tên tuổi đáng quí nhất đối với mọi trái tim coi tiếng Nga là tiếng mẹ đẻ”. Thơ của Alexander Kushner được dịch nhiều ra tiếng Anh, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Nhật, Hebrew, Séc, Bulgari… và gần đây bắt đầu được dịch ra tiếng Việt.

Giải thưởng:
- Giải thưởng Nhà nước Liên bang Nga (1995)
- Giải “Cây cọ phương Bắc” (1995)
- Giải của tạp chí “Thế giới mới” (1997)
- Giải quĩ Pushkin A. Tepfera (1998)
- Giải thưởng Pushkin Liên bang Nga (2001)
- Giải nghệ thuật nông nghiệp Nga hoàng (2004)
- Giải thưởng “Nhà thơ” (2005)
- Giải thưởng Korney Chukovsky
- Giải “vì hoạt động tích cực khuyến khích trẻ đọc sách và đọc văn học thiếu nhi trong nước” (2007)


Tác phẩm:
Thơ:
• Первое впечатление. 1962.
• Ночной дозор. 1966.
• Приметы. 1969.
• Письмо. 1974.
• Прямая речь. 1975.
• Голос. 1978.
• Таврический сад. 1984.
• Дневные сны. 1986.
• Живая изгородь. 1988
• Ночная музыка. 1991.
• На сумрачной звезде. 1994.
• Тысячелистник. 1998.
• Летучая гряда. 2000.
• Кустарник. 2002.
• Холодный май. 2005.
• В новом веке. 2006.
• Времена не выбирают (пять десятилетий), «Азбука-классика». 2007.

Văn xuôi:
• Аполлон в снегу
• Волна и камень


Một số bài thơ:

CHIA TAY EM NHÉ

Chia tay nhé, chia tay đến ngày mai
Đến ngày kia, đến mùa đông lạnh giá.
Chia tay nhé, chia tay đến tháng ba.
Ta đón mùa đông hai người riêng lẻ.

Sẽ gặp gỡ và sẽ tiễn đưa riêng.
Chia tay em chờ đến ngày vui nhé.
Đến mùa xuân. Đôi mắt ta không nhìn.
Đến mùa xuân. Và muộn hơn thế nữa.

Chia tay nhé, chia tay đến mùa hè
Em vân vê găng tay làm chi thế
Chia tay đến “bằng cách nào”, “đâu đó”
Đến “một khi nào”, thôi thế em nghe.

Em lần lữa đứng trước cửa làm gì
Có thể nào chính xác hơn dược nữa?
Ta chia tay đến tận đường biên nhé
Biên giới tận cùng. Và sau đó em nghe.





NGỦ CHUNG

Hạnh phúc biết bao, thật là sung sướng
Hai đứa cùng nằm, hai đứa trùm chăn
Rồi ngủ say khi có em bên cạnh
Và sáng ra thức giấc cùng em.

Và trong khi ta ngủ, anh và em
Trong khu vườn có tiếng xào xạc lá
Giữa bầu trời, cả những miền đen đúa
Cũng sáng lòa, cũng nhấp nháy long lanh.

Và trong khi ta ngủ, bên chiếc bàn
Tay gàn cãi nhau với cơn thiu ngủ
Nhưng anh ngủ và cả em cũng ngủ
Chỉ giấc mơ của thơ phú đứng lên.

Ta ngủ say sưa, tất cả ngang bằng
Với tình yêu và với điều bất tử
Cho không biếu không khi trong giấc ngủ
Còn ban ngày – bằng sốt sắng nhiệt tâm.

Ta ngủ say sưa, cứ để mặc lòng
Bất chấp hết, ta cứ say sưa ngủ
Đi vào chi tiết, hoa văn giấc ngủ
Và đi vào trong từng mớ tóc xoăn.

Má kề bên má. Ta ngủ suốt đêm
Với sự cả tin của con chim nhỏ
Và trong vẻ không có gì che chở
Sự lớn lao sẽ đến với chúng mình.

Tiếng sấm tan vào giấc ngủ suốt đêm
Và suốt đêm câu trả lời sấm đợi
Giấc ngủ hai người – hạnh phúc biết mấy!
Ai cho mình làm như vậy hả em?





Nikolai Platonovich Ogarev (tiếng Nga: Николай Платонович Огарёв) (24 tháng 11 năm 1813 – 31 tháng 5 năm 1877) – là nhà thơ, nhà văn, nhà cách mạng Nga.

Tiểu sử:
Nikolai Ogarev sinh ở Saint-Petersburg, trong một gia đình có nguồn gốc quí tộc lâu đời. Mẹ mất sớm, tuổi thơ của Nikolai Ogarev trôi qua trong trang trại của bố ở tỉnh Penzenskaya. Từ năm 1820 sống ở Moskva. Năm 1826 bắt đầu kết bạn với Aleksandr Herzen – một nhà cách mạng dân chủ nổi tiếng, vừa là một người có họ hàng xa vừa là đồng chí trong tư tưởng của cuộc khởi nghĩa tháng Chạp. Thời gian học ở Đại học Moskva, Nikolai Ogarev là một trong những người tổ chức các nhóm chính trị trong sinh viên. Năm 1834 bị đi đày về tỉnh Penzenskaya. Những năm 1840 – 1846 sống ở nước ngoài, tham dự các giờ học ngoại khóa ở Đại học Berlin. Năm 1846 trở về trang trại ở tỉnh Penzenskaya cưới vợ. Năm 1850 bị bắt nhưng không lâu sau đó được trả tự do.

Năm 1856 Nikolai Ogarev vượt biên sang Anh, sống ở London, cùng với A. Herzen lãnh đạo “Nhà in Nga tự do”. Ông là một trong những người sáng lập và biên tập tuần san Quả chuông (Колокол). Ông cũng là người vạch ra chương trình thủ tiêu chế độ nông nô bằng cuộc cách mạng của nông dân, phát triển lí thuyết “chủ nghĩa xã hội Nga” do A. Herzen đề xướng.

Nikolai Ogarev là tác giả của nhiều trường ca và nhiều bài thơ lãng mạn nổi tiếng đến tận ngày nay có lẽ phần nào xuất phát từ cuộc đời riêng của ông. Nhà cách mạng, người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho tự do và hạnh phúc của nhân loại là một người bất hạnh trong đời tư. Người vợ thứ nhất sống với ông được 4 năm, người vợ thứ hai – 8 năm rồi cũng bỏ. Chỉ cô gái người Anh không biết chữ trở thành người nội trợ, người chị, người bạn, người tình chung thủy của ông trong suốt 18 năm cuối cùng. Ông mất ở Greenwich (Anh) ngày 31 tháng 5 năm 1877. Hiện phần tro mai táng tại một nghĩa trang ở Moskva.

Thư mục:
1. Огарев Н.П. Избранные социально-политические и философские произведения, тт. 1-2. М., 1952-1956
2. Путинцев В.А. Н.П.Огарев: Жизнь, мировоззрение, творчество. М., 1963
3. Огарев Н.П. Стихотворения и поэмы. М., 1980
4. Конкин С.С. Н.Огарев. Саранск, 1982
5. Огарев Н.П. Избранное. М., 1984
6. Либединская Л. С того берега. Повесть о Н.Огареве. М., 1985
7. Елизаветина Г.Г. Н.П.Огарев. М., 1988
8. Огарев в воспоминаниях современников. М., 1989
9. Н.П.Огарев: Библиографический указатель. Саранск, 1991


Một số bài thơ:





GỬI M. L. OGAREVA

Ta chia tay – có thể đó là cần
Mà có thể, cứ phải là như thế
Đã từ lâu ta không còn chia sẻ
Ra hai phần của một cuộc đời chung.

Và có thể hai người sẽ sống riêng
Với tháng năm bằng một cách nào đấy
Thu xếp cuộc đời không hề đáng ngại
Thậm chí nghỉ ngơi bằng cả tấm lòng.

Anh sẵn lòng chịu quở trách của em
Cho dù chúng đắng cay như thuốc độc
Đã đành anh từng có nhiều thói tật
Đã đành anh trong nhiều thứ lỗi lầm.

Nhưng có thời – bởi vì anh đã tin
Bởi vì yêu nên đã từng hạnh phúc
Anh đo tương lai của mình rộng khắp
Cuộc đời anh từng sâu rộng thênh thang.

Nhưng đời anh chết lặng giữa nỗi buồn
Và hai ta ai là người có lỗi
Anh chăng, em chăng, chuyện đau phải vậy
Cuộc đời không còn quay lại đâu em.

Nghĩ về quá khứ để nước mắt tuôn
Để con tim co mình trong băng giá
Nghĩ về quá khứ như bên ngôi mộ
Thời trẻ con trong đau khổ đã tàn.

Gấp sách lại – câu chuyện của chúng mình
Đã được đọc cho đến dòng cuối tận
Nhưng lời anh sẽ không làm xao xuyến
Không hề làm em cắn rứt lương tâm.

Những khoảnh khắc ngày cũ – anh mang ơn
Khi anh đã tin, đã yêu như vậy
Anh không cho phép mình quên điều ấy
Còn đắng cay – anh rất sẵn lòng quên.

Anh đâu phải kẻ thù – đưa tay cho anh!
Vĩnh biệt em! Mong em không biết đến
Không đau khổ của tâm hồn trống vắng
Không âu lo của những chuyện sai lầm…

Vĩnh biệt em! Biết đâu ta lại nhìn
Vào cuộc đời với nụ cười lần nữa
Và với thế giới rồi đây mình sẽ
Nhớ về nhau trong giờ phút lâm chung.
1844






VĨNH BIỆT EM

Anh cho em hạnh phúc chưa đầy đủ
Trong nhiều điều chưa thực sự hiểu em
Từng hành hạ em và tự mình đau khổ
Giờ anh ra đi trĩu nặng trong lòng.
Vĩnh biệt! – trong nước mắt anh nói với em
Không một ai từng yêu em như thế
Anh cầu nguyện cho em, xin em hãy nhớ
Chớ giận hờn, đừng trách mắng chi anh
Để cho anh quên những phút đau buồn
Hãy nhớ rằng từng yêu em tha thiết
Anh buồn bã nói với em: vĩnh biệt!
Rồi lang thang về xứ sở xa xăm
Thật nặng nề. Những năm tháng của anh
Còn trẻ thế, nhưng trong đời đau khổ
Anh vung phí tình, vung phí lòng tin
Giờ anh sống bằng phần lớn cô đơn
Cho chính mình. Nhưng em đừng quên nhé
Rằng anh đã từng yêu em như thế
Với nỗi buồn anh nói: vĩnh biệt em!..



YÊU KỈ NIỆM NGÀY XƯA

Cô chưa bao giờ yêu anh ấy cả
Còn anh bí mật yêu cô
Nhưng tình yêu anh chẳng nói ra
Mà chỉ thiêng liêng trong lòng gìn giữ.

Cô làm đám cưới với người xa lạ
Còn anh vẫn qua lại như xưa
Và lặng lẽ nhìn trộm gương mặt cô
Rồi khổ sở rất lâu sau đó.

Cô ấy chết. Đêm cũng như ngày
Anh ấy thường xuyên đi ra ngôi mộ
Cô chưa bao giờ yêu anh ấy cả
Còn anh vẫn yêu kỉ niệm ngày xưa.
1842

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:07:31



Vadim Sergeevich Shefner (tiếng Nga: Вадим Сергеевич Шефнер) (13 tháng 1 năm 1915 – 5 tháng 1 năm 2002) – là nhà thơ, nhà văn Nga – Xô Viết.

Tiểu sử:
Vadim Shefner sinh ở Petrograd trong gia đình một sĩ quan. Ông nội là thuyền trưởng Alexei Shefner – người đầu tiên thành lập ra cảng Vladivostok. Phần lớn cuộc đời của Vadim Shefner chủ yếu sống ở thành phố Petrograd – Leningrad (nay là Saint – Petersburg). Sau khi học xong phổ thông Vadim Shefner học trường trung cấp rồi làm việc ở nhiều nhà máy khác nhau của thành phố Leningrad. Năm 1938 được kết nạp vào nhóm các nhà thơ trẻ của Hội nhà văn.

Thời gian đầu của Thế chiến II Vadim Shefner tham gia quân đội, phục vụ tại sân bay Leningrad. Từ năm 1942 làm phóng viên mặt trận của báo Ngọn cờ chiến thắng (Знамя победы). Sau khi chiến tranh kết thúc ông được tặng 3 huân chương.

Vadim Shefner làm thơ từ bé. Năm 1933 in bài thơ đầu tiên trên tạp chí Dao khắc (Резец). Tập thơ đầu tiên in vào năm 1940. Tiếp đó cứ vài ba năm lại in một tập thơ. Từ năm 1952 ông bắt đầu viết văn bao gồm các thể loại: truyện thiếu nhi, truyện viễn tưởng, truyện chiến tranh… Các nhà phê bình cho rằng rất khó phân biệt giới hạn giữa các tác phẩm viễn tưởng của ông và các tác phẩm có chất viễn tưởng ở thể loại khác, kể cả trong thơ ca. Ngoài làm thơ viết văn, ông còn dịch thơ từ tiếng Hán, tiếng Phạn và các thứ tiếng của các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ.

Năm 1985 ông được tặng giải thưởng Nhà nước mang tên Gorky. Năm 1999 được tặng giải Truyện viễn tưởng Paladin (Паладин Фантастики). Năm 2000 được tặng giải Aelita (Аэлита). Vadim Shefner mất tại Saint – Petersburg năm 2002.

Tác phẩm:
Văn xuôi:
• Жаркое лето (рассказ, 1940)
• Наследница (рассказ, 1943)
• Неведомый друг (рассказ, 1944)
• Привал в Нежданном (рассказ, 1945)
• Черта города (рассказ, 1946)
• Холодная ковка (рассказ, 1952)
• Никто не умрёт (рассказ, 1953)
• Кто видит море (рассказ, 1954)
• Облака над дорогой (повесть, 1954)
• Чужедомье (рассказ, 1957)
• Дальняя точка (рассказ, 1959)
• Лесное чудо (рассказ, 1959)
• Ход времени (рассказ, 1960)
• Ночное знакомство (рассказ, 1961)
• Тихая просьба (рассказ, 1961)
• Ныне, вечно и никогда (Сегодня, завтра и никогда)(рассказ, 1961)
• Людская единица (рассказ, 1962)
• Змеиный день (рассказ, 1962)
• Скромный гений (1963)
• Девушка у обрыва, или Записки Ковригина (повесть, 1963)
• Счастливый неудачник (повесть, 1964)
• Человек с пятью «не», или Исповедь простодушного (повесть, 1966)
• Запоздалый стрелок, или Крылья провинциала (повесть, 1967)
• Сестра печали (повесть, 1968)
• Дворец на троих, или Признание холостяка (повесть, 1968)
• Круглая тайна (полувероятная история) 1969)
• Курфюрст Курляндии (ненаучно-фантастический рассказ) (1970)
• Миллион в поте лица, или Любовь на развалинах (маленькая повесть) (1971)
• Фиалка Молчаливая (рассказ на вечную тему) (1972)
• Когда я был русалкой (рассказ, 1972)
• Имя для птицы, или Чаепитие на жёлтой веранде: Летопись впечатлений (1975)
• Дядя с большой буквы, или Великая пауза (рассказ, 1976)
• Записки зубовладельца (рассказ, 1978)
• Лачуга должника: Роман случайностей, неосторожностей, нелепых крайностей и невозможностей (1981)
• Отметатель невзгод, или Сампо XX века (рассказ, 1981)
• Рай на взрывчатке (повесть, 1983)
• Кончина коллекционера: Сказка для умных (1984)
• Небесный подкидыш, или Исповедь трусоватого храбреца (повесть, 1989)
• Съедобные сны, или Ошибка доброго мудреца (повесть, 1992)
• Бархатный путь: Летопись впечатлений (1993)
• Последний суд (рассказ)
• Гость с балкона (рассказ; вероятно, неокончен)

Các tuyển tập:
• Избранные произведения в 2-х томах. (Л.,Худ.лит, 1975)
• Избранные произведения в 2-х томах. (Л,Худ.лит, 1982)
• Собрание сочинений в 4-х томах. (Л.,Худ.лит, 1991)

Các tập thơ:
• Светлый берег (Л.,Гослитиздат,1940)
• Защита (Л.,Гослитиздат,1943)
• Пригород (ЛМ.,Сов.писатель,1946)
• Московское шоссе (Л.,Сов. Писатель,1951)
• Взморье (Л.,Сов.писатель,1955)
• Стихи (Л.,Сов.писатель,1956)
• Нежданный день (Л.,Сов.писатель,1958)
• Стихи (М.-Л.,Худ.лит.,1960)
• Знаки земли (Л.,Сов.писатель,1961)
• Рядом с небом (Л.,Детгиз,1962)
• Стихотворения (Л.,Лениздат,1965)
• Своды (Л.,Сов.писатель,1967)
• Стихи о Ленинграде (Л.,Лениздат,1967)
• Стихотворения (Л.,Худ.лит.,1968)
• Избранная лирика (М.,Молодая гвардия,1969)
• Запас высоты (Л.,Сов.писатель,1970)
• Стихотворения (Л.,Лениздат,1972)
• Цветные стекла (Л.,Дет.лит.,1974)
• Переулок памяти (Л.,Лениздат.,1976)
• Сторона отправления (М,Современник,1979)
• Северный склон (Л,Сов.писатель,1980)
• Вторая память (Л,Сов.писатель,1981)
• Годы и миги (М.,Современник,1983)
• Личная вечность (Л,Сов.писатель,1984)
• Годы и миги (М.,Сов. Россия,1986)
• В этом веке (Л.,Лениздат,1987)
• Ночная ласточка (Л.,Дет.лит.,1991)
• Архитектура огня (СПб.,Петербургский писатель,1997)
• Стихотворения. (СПб.,Академический проект 2005)

Các tập hồi kí:
• Облака над дорогой (Л.,Сов.писатель,1957)
• Ныне, вечно и никогда (Л.,Лениздат,1963)
• Счастливый неудачник (М-Л.,Сов.писатель,1965)
• Запоздалый стрелок (Л.,Сов.писатель,1968)
• Облака над дорогой (Л.,Дет.лит,1969)
• Сестра печали (Л.,Лениздат,1970)
• Девушка у обрыва (М.,Знание,1971) (2-е изд. — 1991)
• Сестра печали (М.,Сов. Россия,1973)
• Скромный гений (М.,Молодая гвардия,1974)
• Имя для птицы (Л.,Сов.писатель,1976)
• Имя для птицы (Л.,Сов.писатель,1977)
• Круглая тайна (Л.,Дет.лит,1977)
• Сестра печали, Счастливый неудачник, Человек с пятью «не» (серия «Повести ленинградских писателей», Л.,Лениздат,1980)
• Имя для птицы (Л.,Сов.писатель,1983)
• Лачуга должника (Л.,Лениздат,1983)
• Сказки для умных (Л.,Лениздат,1985)
• Сказки для умных (Л.,Худ.лит,1987)
• Запоздалый стрелок (Л.,Сов.писатель,1987)
• Сказки для умных (Л.,Лениздат,1990)
• Лачуга должника (М.,Терра,1994)
• Сказки для умных (С-Пб.,Худ.лит,1995)
• Лачуга должника (С-Пб.,Худ.лит,1995)
• Сестра печали (СПб.,Библиополис,1995)
• Скромный гений (М.,Рипол-Классик,1997)
• Дядя с большой буквы (М.,Рипол-Классик,1998)
• Бархатный путь (С-Пб.,Блиц,1999)
• Девушка у обрыва (М.,АСТ,2002)
• Рай на взрывчатке (С-Пб.,Азбука-классика,2004)
• Лачуга должника (С-Пб.,Terra Fantastica,2004)
• Листопад воспоминаний (С-Пб.,Logos,2007)


Một số bài thơ:

THỨ NĂM

Tình yêu là buổi thứ năm của ngày đêm
Không buổi sáng, buổi chiều, buổi tối, buổi đêm.
Em đi đến – thì nửa đêm vẫn sáng
Em đi về - buổi sáng tối hơn đêm.

Tình yêu là mùa thứ năm của năm
Không mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông
Mà tình yêu là mùa nào em muốn
Và tất cả mùa phụ thuộc vào em.

Tình yêu không giống thứ gì ở trần gian
Không tuổi thơ, tuổi già, tuổi trẻ, trung niên
Tình là quãng thứ năm trong cuộc sống.
1962



KHOẢNH KHẮC

Đừng để quen với những cái tuyệt trần
Hãy biết lấy làm ngạc nhiên với chúng!
Đừng bao giờ để quen với trời xanh
Mà đôi mắt về trời xanh hướng đến.

Hãy ngó nhìn những đám mây xa ngái
Và hãy lắng nghe tiếng hót của chim
Hãy ghé sát nghe những mạch nước ngầm
Mà xem – không thứ gì lặp lại.

Mỗi khoảnh khắc, mỗi bước chân sau
Hãy biết lấy làm kinh ngạc
Tất cả giống – và tất cả khác
Ngay trong một khoảnh khắc sau.
1964





KẺ THÙ RIÊNG

Đừng chơi với những người bạn dở
Thà cứ chơi với kẻ thù
Kẻ thù thường xuyên để ý hơn, và
Khuynh hướng nghiêm khắc của nó.

Kẻ thù làm mắt sáng tỏ
Đấy là quà tặng trời ban
Trước hiểm nguy không ngờ tới
Đòn sẽ giáng trả đòn.

Nhưng ở đời có điều thấy được:
Cái xấu trở thành cái tốt
Đôi khi trở nên bạn bè
Kẻ trước đấy là thù nghịch.

Đừng sợ chi đời, nhưng để ý
Nhìn vào con đường đang đi
Đừng chơi với những người bạn dở
Thà cứ chơi với kẻ thù.



ANH ĐEM TRỒNG RÊU XÁM

Anh đem trồng rêu xám lên trên đá
Nơi em qua. Anh sẽ đợi trong vườn
Như những cánh hoa của táo màu hồng
Rất lặng lẽ lên vai em anh ngã.

Và bằng cành phong trong tia chớp lóe
Anh gõ vào cửa sổ. Giữa ban ngày
Nhớ về em bằng im lặng ngất ngây
Như đám mây hướng mặt trời anh chạy.

Nhưng nếu như em buồn không chịu nổi
Thì anh không làm đá nặng đè lên
Mà khẽ chạm làn khói vào đôi mắt em
Em hãy khóc một hồi – và rồi quên nhé…
1944



GẦN TRỜI

Tất cả chúng ta, như Thượng Đế, gần trời
Chúng ta sống trên hành tinh tốt nhất.
Và Thượng Đế vẫn dùng mưa và tuyết
Để quét đi những dấu vết của ta.

Nhưng mà những đám mây giăng
Bỗng đột ngột giữa bầu trời vây kín
Và xuyên qua những sự việc bình thường
Những điều kì lạ vẫn luôn nhìn ngắm.

Và ánh trăng thanh trên những mái nhà
Trên băng giá – có vẻ như đặt trước
Và những cuộn hào quang từ phương bắc
Được mở tung ra là để cho ta.

Bằng kí ức về điều kì lạ chung
Những ngôi sao trong màn sương ngái ngủ
Ánh lên để cho con người luôn nhớ
Rằng sống trên mặt đất tuyệt vô cùng.
1961

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:11:51


Vsevolod Alexandrovich Rozhdestvensky (tiếng Nga: Всеволод Александрович Рождественский) (10 tháng 4 năm 1895 – 31 tháng 8 năm1977) – là nhà thơ Nga những năm 20 thế kỉ XX tham gia trường phái thơ Đỉnh cao.

Tiểu sử:
Vsevolod Rozhdestvensky sinh ở Hoàng thôn, học ở trường gymnazy do nhà thơ nổi tiếng Innokenty Annensky làm hiệu trưởng. Học xong gymnazy, vào học khoa lịch sử và ngôn ngữ Đại học Saint – Petersburg. Thế chiến I xảy ra, chàng sinh viên năm thứ ba Vsevolod Rozhdestvensky bị điều động vào quân đội. Những bài thơ đầu tiên in ở tạp chí Học trò (Ученик) năm 1910, tập thơ đầu tiên Những năm tháng học trò (Гимназические годы) in năm 1914.

Những năm sau cách mạng tháng Mười Aleksandr Blok mời ông tham gia nhà xuất bản “Văn học thế giới”, chuyên dịch thơ cổ điển thế giới. Năm 1921 in hai tập thơ ЛетоЗолотое веретено. Những năm Thế chiến II ông làm phóng viên mặt trận ở nhiều chiến trường, in các tập thơ Голос родины (1943), Ладога (1945). Sau chiến tranh ông làm thơ về công cuộc xây dựng lại ở Leningrad và ca ngợi thiên nhiên phương bắc. Theo các nhà phê bình, Vsevolod Rozhdestvensky, khác với phong cách Đỉnh cao, là nhà thơ thành công khi viết về cuộc sống thôn dã hay về những tình yêu bình dị, cũng như trong việc chuyển dần từ sự cách tân trở về thơ truyền thống.

Ngoài thơ, ông còn là tác giả của một số vở opera, lời bài hát, thơ dịch và hồi kí. Ông là thành viên ban biên tập của các tạp chí ЗвездаНева. Ông được tặng thưởng huân chương Lao động và huân chương Sao đỏ. Vsevolod Rozhdestvensky mất ở Leningrad năm 1977.

Tác phẩm:
Các tập thơ:
*Гимназические годы» (1914).
*Лето (1921)
*Золотое веретено (1921)
*Большая Медведица (1926)
*Гранитный сад (1929)
*Земное сердце (1933)
*Окно в сад (1939)
*Голос Родины (1943)
*Ладога (1945)
*Страницы жизни (hồi kí, 1962 – 1974)

Một số bài thơ:




TÌNH YÊU

Chớ đem ra làm trò với ngôn từ
Sáu chữ cái này, dù người đời quen vậy.
Chúng là lửa. “Tình” gieo vần với “máu”
Là ngôn ngữ tinh, vượt trội của ta.

“Tình” và “máu”. Một khi tim còn đập
Đưa máu chảy trong cơ thể ấm nồng
Bạn như uống từ giếng mạch ngàn năm
Rồi biến ước mơ trở thành hiện thực.

Từ những ngày buồn trong đời thay đổi
Khi mà trong tim tất cả giá băng
Niềm vui của tình mang bạn vào trong
Thế giới diệu kì của bao thay đổi.

Người phụ nữ có biết bao ánh sáng
Là bạn đường trong những bước chông gai
Và con tim lập tức bảo: người này
Vâng, người này – tia sáng trong số phận!

Hãy để nàng là sáng tạo của ước mơ
Là tưởng tượng, là hình dung của bạn
Cùng hơi thở của vĩnh hằng ấm nóng
Đã đặt vào trong tồn tại từ xưa.

Như lời kêu gọi vọng tới ngàn năm
Như ánh sáng bừng sau miền bóng tối
Và ngọn lửa ta truyền cho cháu con
Để đi vào bất tử, như ta vậy.
1946



TÌNH YÊU, TÌNH YÊU

Tình yêu, tình yêu – một lời bí ẩn
Liệu có ai hiểu được nó tận cùng?
Trong tất cả - cũ và mới thường xuyên
Mệt mỏi của hồn hay là sung sướng?

Là không thể bù cho mình phí tổn
Hay sự mở mang giàu có không cùng?
Ngày ấm nồng không hề có hoàng hôn
Hay là đêm làm cho tim trống vắng?

Mà có thể, em chỉ là nhắc nhở
Rằng vẫn chờ ta cái lẽ tất nhiên:
Ánh hào quang với bất tỉnh, thiên nhiên
Và sự tuần hoàn của đời muôn thuở.
1976





TÔI MƠ THẤY

Tôi mơ thấy điều… không thể nói
Trong cái đêm ngột ngạt đã mơ
Đã nhìn thấy lại đường phố ấy
Có những con chim trong tổ đung đưa.

Tôi đã nghe những cây phong đen
Như đang đứng chuyện trò trong im lặng
Tôi hình dung nức nở của vàng anh
Và lửa trại trên đồng tắt ngấm.

Tôi nhìn thấy nhà mình, trên cửa sổ
Ngọn nến cháy bùng, ngọn nến lung linh
Những cây bạch dương đung đưa trước gió
Chạm mái tóc ánh bạc lên vai mình.

Từ cánh đồng xuyên qua làn mây trắng
Lướt như dao cắt cỏ ở trên đồng
Những vì tinh tú – những mắt sống động –
Ngó nhìn vào gương nước lặng trên sông.

Anh có thể kể về rất cặn kẽ
Em đã ra sao trong buổi chiều kia
Váy áo của em xạc xào to nhỏ
Và ánh trăng thanh lộng lẫy chói lòa.

Và để cho hơi thở ngập ngừng
Bằng hơi mát trong đêm tĩnh lặng
Ngày hôm ấy, em tròn mười chín
Anh cũng chừng ấy tuổi, bấy nhiêu em.
1933






Irina Vladimirovna Odoyetseva (tên thật là Iraida Gustanovna Heinike, tiếng Nga: Ираида Густавовна Гейнике. Tiếng Latvia: Iraīda Heinike) (2 tháng 11 năm 1895 – 14 tháng 10 năm 1990) – là nữ nhà văn, nhà thơ Nga.

Tiểu sử:
Người đẹp Irina Odoyetseva sinh ra trong gia đình một luật sư ở Riga. Là thành viên của “Xưởng thơ” (Цех поэтов), học trò của nhà thơ nổi tiếng Nicolai Gumilyov. Irina Odoyetseva làm cho mọi người gặp cô đều yêu mến và cảm phục tài thơ, kể cả Nicolai Gumilyov. Từ nhỏ đã viết những bài thơ xuất sắc.

Năm 1922 Irina Odoyetseva cùng chồng ra sống ở nước ngoài, phần lớn cuộc đời bà sống ở Paris. Thời gian này bà ít làm thơ mà chủ yếu là viết tiểu thuyết: "Ангел смерти" (1927), "Изольда" (1931), "Зеркало" (1939), "Оставь надежду навсегда" (1949). Sau chiến tranh bà trở lại làm thơ và viết nhiều hồi kí. Từng là thành viên của nhiều nhóm văn chương khác nhau, Irina Odoyetseva quen biết với nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Nicolai Gumilyov, Osip Mandelstam, Andrei Bely, Zinaida Gippus, Ivan Bunin và nhiều người khác.

Năm 1987 bà quay trở về sống ở nước Nga. Bà mất ngày 14 tháng 10 năm 1990 ở Leningrad.

Tác phẩm:
Двор чудес, thơ 1920–1921, Изд. Мысль, Петроград, 1922
Ангел смерти 1927, tiểu thuyết
Изольда 1931, tiểu thuyết
Зеркало 1939, tiểu thuyết
Оставь надежду навсегда 1954, tiểu thuyết
Год жизни 1957, tiểu thuyết
На берегах Невы 1967, hồi kí
На берегах Сены 1983, hồi kí
На берегах Леты - hồi kí viết dở


Một số bài thơ:




BÀI BALLAD VỀ GUMILYOV

Trên đường phố Preobrazhen vắng ngắt
Ngọn gió tru và tuyết xoáy giữa trời
Tôi gõ cửa nhà thơ Gumilyov
Và nhà thơ ra mở cửa cho tôi.

Một bếp lò cháy trong phòng làm việc
Phía đằng sau cửa sổ thấy đen trời.
Nhà thơ bảo: “ Em viết bài ballad
Về tôi và về cuộc sống của tôi!

Đấy quả thực là đề tài rất tuyệt”
Nhưng mà tôi liền đáp: “Không bao giờ
Làm sao em viết được bài ballad?
Anh đâu phải anh hùng, chỉ nhà thơ”.

Ánh phản chiếu phân kì từ lò sưởi
Chiếu ánh hồng lên gương mặt nhà thơ.
Đấy là trong một buổi chiều sương khói
Trước đêm Giáng sinh ở Pê-téc-bua…

Giờ tôi thường xuyên nhớ đến nhà thơ
Cứ môi ngày nỗi buồn thêm tràn ngập.
Và bây giờ tôi viết bài ballad
Về nhà thơ và để tặng nhà thơ.

Gumilyov từng khao khát Bôxpho
Và tới châu Phi, vương quốc kì lạ
Nghĩ về những anh hùng trong quá khứ
Dưới lều căng rộng mở của bầu trời.

Những ngôi sao từng rơi xuống, cắt ngang
Bằng một sợi chỉ mỏng manh của lửa
Và với mỗi ngôi sao anh từng nói:
“Sao hãy biến ta thành một anh hùng!”

Từng sống ở châu Phi hàng nửa năm
Tựa hồ như người sống trong địa ngục
Từng săn sư tử, và Gumilyov
Từng đánh nhau với những thú rừng.

Từng gặp cái chết không chỉ một lần
Dưới “bầu trời khác” và trên sa mạc
Khi nhà thơ trở về nhà, gặp mặt
Những bạn bè đã an ủi anh rằng:

“Ái chà, châu Phi! Quả là kì lạ
Lửa trại và những cô gái da đen
Những con hà mã là bạn của anh
Những hươu cao cổ vô cùng tao nhã”.

Mặc áo đuôi tôm, một chút nghi ngờ
Anh bước ra giữa gian phòng sáng tỏ
Cúi xuống hôn một bàn tay phụ nữ
Một quí bà mặc váy kiểu Pa-ri.

“Tôi viết tặng em cả một trường ca
Về dòng sông Nin cho em tôi kể
Và tôi sẽ tặng cho em da hổ
Cọp gấm này tôi giết ở châu Phi”.

Chiếc quạt màu hồng lúc lắc đung đưa
Nàng có vẻ không thích Gumilyov
“Em không yêu thơ. Thì em đâu biết
Bộ lông thú kia dùng để làm gì”…

Trong ngày kẻ thù tuyên bố chiến tranh
Gumilyov lên đường đi chiến đấu
Ra trận, bỏ lại Hoàng thôn yêu dấu
Mẹ, đứa con trai cùng với vợ hiền.

Gan dạ nhất trong những người gan dạ
Và có lẽ chăng, vì chính điều này
Mà đạn bom thù cảm thấy thương thay
Không chạm đến người anh hùng như thế.

Nhưng những bạn bè luôn nhìn hằn học
Vào cây thập ác Georgy*
“Tặng Gumilyov? Lố bịch nhường kia!”
Sự mỉa mai làm miệng cười méo xệch.

Những người lính cùng đại đội kị binh
Những huân chương thế này đâu có được
Nghe nói anh kết bạn cùng với sếp
Qua rượu chè mà gạ gẫm cho mình.

Không lâu trước ngày từ giã trần gian
Anh rất tin tưởng nói rằng: “Chính xác
Trong tình yêu, chiến tranh, trong bài bạc
Tôi sẽ là người hạnh phúc thường xuyên!...

Không trên biển cả, chẳng trên đất liền
Đối với tôi – không có gì nguy hiểm…”
Và anh đã từng là người bất hạnh
Như mọi nhà thơ sống ở trần gian.

Sau đó người ta trói anh vào tường
Và xử bắn anh liền ngay sau đó**
Cho đến bây giờ ở trên phần mộ
Cả gò đất lẫn thập ác đều không.

Nhưng những thiên thần vẫn từng yêu anh
Bằng cả tấm lòng tìm anh bay đến
Và những ngôi sao giữa trời lên tiếng:
“Vinh quang cho ngươi, cho một anh hùng!”
_________
*Huân chương Thập ác Georgy (croix de Saint-Georges) của Đế chế Nga dùng để tặng cho sĩ quan và những người lình có thành tích xuất sắc trong chiến đấu.
**Gumilyov bị bắt vì bị nghi ngờ tham gia vào “Tổ chức vũ trang Tagantsev” và bị xử bắn cùng với 60 người khác.






TÔI KHÔNG LÀ NGƯỜI NỔI TIẾNG

Không, tôi sẽ không là người nổi tiếng
Tôi sẽ không đạt đến vinh quang.
Giống như chức trưởng tu viện
Là thứ tôi chẳng dám màng.

Cả Gumilyov hay báo chí
Không gọi tôi là tài năng
Tôi chỉ là nữ nhà thơ nhỏ bé
Với chiếc nơ thắt khiêm nhường.


NGÀY HÔM NAY TÔI VUI

Ngày hôm nay tôi vui từ sáng sớm
Rặng trúc đào cười với tôi trong gương
Bên cửa sổ rặng trúc đào cúi xuống.
Thế giới này quả tuyệt đẹp… Nhưng

Nếu như không có trên đời những chiếc gương
Thì thế giới này vô cùng tẻ nhạt

Nếu thơ không tồn tại ở trần gian
Thì sẽ nhiều hơn: lỗi lầm, nước mắt

Và có lẽ tôi sẽ buồn bã hơn
Cả bệnh đau dây thần kinh ngày tháng
Và trò mèo chuột loăng quăng tán loạn
Nếu như tôi không có mặt trên trần.

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:15:42


Aleksandr Yakovlevich Yashin (họ thật là Popov) (14/3/1913 – 11/7/1968) là nhà thơ, nhà văn Nga.

Tiểu sử:
Aleksandr Yashin sinh ở làng Bludnovo, tỉnh Vologda trong một gia đình nông dân. Năm 1931 học xong trường trung cấp sư phạm đi dạy học ở làng quê. Bắt đầu in thơ từ năm 1928. Tập thơ đầu tay Песни Северу (Những bài ca gửi miền bắc) in năm 1934. Từ năm 1935 ông sống ở Moskva. Năm 1941 tốt nghiệp trường viết văn mang tên Gorky. Trong những năm thế chiến II Aleksandr Yashin tình nguyện ra mặt trận làm cán bộ chính trị và làm báo. Ông tham gia chiến đấu bảo vệ Leningrad, Stalingrad và giải phóng Crime.

Sau chiến tranh ông đi về phương bắc, về miền Altai, về các công trình xây dựng nhà máy thủy điện và sau đấy là các vùng đất khai hoang, phản ánh cuộc sống xây dựng đất nước sau chiến tranh. Ông được tặng huân chương Sao đỏ và nhiều huân huy chương của nhà nước Xô Viết. Ông mất ở Moskva ngày 11 tháng 6 năm 1968.

Tác phẩm:

Thơ:
*«Песни Северу» (1934)
*«Свежий хлеб» (1957)
*«Совесть» (1961)
*«Босиком по земле» (1965)
*«День творенья» (1968)
Trường ca
*«Город гнева» (1943)
*«Алёна Фомина» (1949)

Văn xuôi:
*«Рычаги» (1956)
*«Вологодская свадьба» (1962)
*«Сирота» (1962)
*«Угощаю рябиной» (1965)


NẾU MÀ EM BỊ NGÃ XUỐNG SÔNG

Nếu mà em bị ngã xuống sông
Thì anh xuống tìm tận đáy
Trước sóng biển chẳng kinh hoàng
Hay bóng tối hoàng hôn cũng vậy.

Dù thú dữ mang em vào rừng
Hay giấu em trong hang gấu
Thì anh vẫn tìm ra con đường
Dù từ muôn vạn nẻo.

Và anh sẽ tìm ra con đường
Đến con rắn mười đầu hung dữ
Và anh vẫn sẽ cứu được em
Dù trong tay Kaschei* đáng sợ…

Nhưng em không ngã xuống sông
Nước sông không hề có lỗi
Mà em ngã vào tim anh
Thì anh – chứ em đâu ngại.

Dù sông có sâu hay không
Con tim này không đủ sức
Và từ đáy này muôn kiếp
Anh không thể tìm được em.
________
*Kaschei – biểu tượng của sức mạnh hung dữ và khắc nghiệt trong văn học dân gian Nga.






CHUYỆN NHƯ THẾ

Chuyện như thế em tha thứ đã từng
Và em từng biết cách yêu như thế
Và em đã biết quên đi rất dễ
Điều mà người ta không thể nào quên.

Em bước đi với thanh thản nhẹ nhàng
Với siêu thoát vào bần cùng, thiều thốn
Và với vẻ con người Nga nhẫn nhịn
Thập ác của người phụ nữ em mang.

Em từng hiểu bằng tất cả tấm lòng
Nỗi đau của người và điều tai họa
Và lẽ tất nhiên là em từng ở
Trong buồn vui: địa ngục lẫn thiên đàng.

Không than van mà cũng chẳng thở dài
Chỉ mong sao trong nhà mình hạnh phúc
Em biện hộ ngay cả dù cái chết
Và em bỏ qua tất cả cho người.

Chỉ không chịu được giả dối mà thôi
Không một điều gì dối gian chịu được
Và tha thứ nó em không biết cách
Không thể hiểu ra gian dối trên đời.
1959


VỀ TÌNH YÊU ĐƠN PHƯONG

Thà tình không lời đáp
Chỉ mong được yêu thương
Mong sao trên thế gian
Ta vẫn còn dấu vết.

Hoa cỏ mùi thuốc sắc
Sẽ ngửi trong lều tranh
Chỉ mong sao trong lòng
Không có giờ chết ngắt.

Bằng đất hay bằng trời
Theo người ta yêu quí -
Nghĩa là ta mua vé
Để đi về tương lai.

Dù sống trong hắt hủi
Nhưng giây phút bất kỳ
Từ dưới chân hiện ra
Theo tiếng kêu tình ái.

Số phận người cô đơn
Không có gì đau khổ
Nếu biển là biển cả
Và đất toả mùi hương.

Ta sẽ sống như chim
Và hát, như dòng suối
Chỉ mong cho còn lại
Những đêm cứ chong đèn.

Dù tình yêu đơn phương
Dù tình không đáp lại
Sẽ bằng cách nào đấy
Với gánh nặng hoà mình.

Chẳng than thân trách phận
Miễn là được yêu thương.
Hãy trao tình đơn phương
Cho cái người đáng nhận.

Nhưng mà ai sẵn lòng
Để leo vào đống lửa?
Vẫn còn có thời gian
Để mà xem xét nữa.
1962-1964





Georgi Victorovich Adamovich (tiếng Nga: Гео́ргий Ви́кторович Адамо́вич) (7-4/1892 – 21-2/1972) là nhà thơ, nhà phê bình, dịch giả.

Tiểu sử:
Georgi Adamovich sinh ra trong gia đình một sĩ quan quân đội, học khoa lịch sử - ngôn ngữ Đại học Saint Petersburg. Năm 1914 bắt đầu làm quen với những nhà thơ phái Đỉnh cao và sau đó tham gia „Xưởng thơ” (Цех поэтов). Là một trong số những học trò của Nikolai Gumilyov. Quyển thơ đầu tiên của Adamovich, Những đám mây (Облака,1916) được Gumilyov đánh giá cao.

Sau cách mạng Tháng Mười, cũng giống như nhiều nhà thơ khác cùng phái Đỉnh cao, Adamovich tập trung cho dịch thuật. Ông dịch các nhà thơ, nhà văn Pháp: Voltaire, Baudelaire, Heredia, dịch các nhà thơ Anh : Thomas Moore, Byron. Năm 1923 ông ra sống ở nước ngoài, đầu tiên sang Berlin, sau đó sang Pháp. Thời kỳ này ông dịch Jean Cocteau, Saint – John Perse và Albert Camus. Năm 1934 ông làm biên tập của tạp chí Gặp gỡ (Встречи) và thành lập nhóm thơ Nốt nhạc Paris (Парижская нота).

Tháng 9 năm 1939 ông gia nhập quân đội Pháp, tham gia phong trào kháng chiến chống phát xít. Năm 1947 ông viết cuốn Một quê hương khác (Другая родина) thể hiện sự ủng hộ Stalin và chính quyền Xô Viết bị coi là sự phản bội đối với những văn nghệ sĩ sống ở nước ngoài. Năm 1967 ông xuất bản cuốn Phê bình (Комментарии) tập hợp nhiều bài phê bình được đánh giá cao. Quyển thơ thứ hai của ông Ở phương Tây (На Западе) in vào năm 1939. Quyển thơ cuối cùng Thống nhất (Единство) in năm 1967 tại Mỹ. Georgi Adamovich mất ngày 21 tháng 2 tại Nice, Pháp.

Tác phẩm:

Thơ:
Những đám mây (Облака,1916)
Tĩnh ngục (Чистилище, 1922)
Ở phương Tây (На Западе, 1939)
Thống nhất (Единство, 1967)

Phê bình:
Một quê hương khác (Другая родина, 1947)
Sự cô đơn và tự do (Одиночество и свобода, 1955)
Về những cuốn sách và tác giả (О книгах и авторах, 1966)
Phê bình (Комментарии, 1967)

Một số bài thơ:




TƯỞNG NHỚ MARINA TSVETAEVA

Ta hãy trò chuyện, dù bây giờ, Marina
Khi sống thì không cần. Giờ chị không còn nữa.
Nhưng mà tôi vẫn nghe giọng thiên nga
Như người báo tin mừng, người đưa tin tai họa.

Khi sống thì không cần. Tôi không buộc tội.
Văn chương là đi vào địa ngục thôi mà
Cửa đi vào – mừng vui không giấu nổi
Nhưng chẳng một ai tìm thấy đường ra.

Tôi không có lỗi. Đời đớn đau nhiều thế.
Và tôi cũng không trách chị điều gì.
Tất cả đều ngẫu nhiên, tất cả đều nô lệ
Sống thật diệu kỳ. Ta sống chẳng ra chi.


THÔI TRÒ CHUYỆN

Thôi trò chuyện và bỏ uống rượu vang
Bỏ lại ngôi nhà, bỏ lại vợ con
Bỏ bạn bè. Linh hồn anh phải hiểu
Rằng không quay lại nữa - cái đã từng.

Thôi yêu quá khứ. Và rồi sau đó
Đến một ngày thôi yêu cả thiên nhiên
Ngày lại ngày hờ hững cùng tất cả
Tuần lại tuần và năm lại theo năm.

Và ngay lập tức sẽ chết những ước mơ
Bóng tối khắp nơi. Và trong đời mới
Khi đó anh sẽ rõ ràng nhìn thấy
Thập ác gỗ và một chiếc mũ gai.



NGƯỜI TA CẦU XIN…

Người ta cầu xin sự bố thí của em
Người ta nghèo – chìa bàn tay ra đó
Em hãy đáp lại nỗi lòng đau khổ
Bằng nụ cười, bằng ánh mắt, lặng im.

Vả lại, khổ đau vẫn có hân hoan
Em không hiểu. Sự hân hoan chịu nhục
Những đêm không ngủ, có trời biết được
Sung sướng buổi mai, tha thứ gì chăng.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:19:27


Boris Alekceevich Chichibabin (tiếng Nga: Бори́с Алексе́евич Чичиба́бин, họ thật là Polyshin – 09/01/1923 – 14/12/1994) là nhà thơ Nga đoạt giải thưởng Nhà nước Liên Xô 1990. Trong các thập niên từ 1950 đến 1980, Chichibabin là nhà thơ nổi tiếng nhất ở thành phố Kharkov. Từ cuối thập niên 1950 bản thảo thơ của ông được phổ biến khắp Liên Xô cũ. Sự thừa nhận chính thức chỉ đến với ông gần cuối đời, thời kỳ cải tổ.

Tiểu sử:
Boris Chichibabin sinh ở Kremenchuk trong gia đình một sĩ quan quân đội. Học phỏ thông ở Chuguev, tỉnh Kharkov. Họ Chichibabin được lấy từ họ của ông dượng đằng mẹ, viện sĩ Aleksey Evgenyevich Chichibabin – một nhà khoa học trong nghành hóa học. Năm 1940 Boris Chichibabin học khoa sử Đại học Tổng hợp Kharkov nhưng bỏ dở chừng để vào lính, phục vụ tại mặt trận Kapkage.

Năm 1945 ông vào học khoa ngôn ngữ Đại học tổng hợp Kharkov nhưng đến năm 1946 bị bắt đi cải tạo 5 năm vì “tuyên truyền chống lại chính quyền Xô Viết”. Từ năm 1951 làm việc tại nhà hát kịch, sau đó làm ở phòng điều hành tắc-xi, học lớp kế toán và làm việc ở phòng điều hành tàu điện thành phố.

Boris Chichibabin được kết nạp vào Hội Nhà văn Liên Xô năm 1968, đến năm 1973 bị khai trừ vì những phát biểu ở một ngày lễ tại Kharkov, năm 1987 được phục hồi. In thơ từ năm 1958. Đã in các tập thơ: Tuổi trẻ (Молодость, 1963), Giá lạnh và mặt trời (Мороз и солнце, 1963), Hài hòa (Гармония, 1965), Chiến hạm Rạng đông đang đi (Плывет “Аврора”, 1968), Quả chuông (Колокол, 1989), Những người bạn thập kỷ 1960 (Мои шестидесятые, 1990), Thơ và văn xuôi (В стихах и прозе, 1995). Thời kỳ Xô Viết tác phẩm của ông còn được in ở các tạp chí tiếng Nga ở nước ngoài như: “Глагол”, “22”, “Поиски”, “Континент”.

Các thập niên 1970 – 1980 thơ của Boris Chichibabin được giới trí thức yêu mến vì sự thẳng thắn, không hề giả dối. Thời kỳ cải tổ thơ của ông được các báo và tạp chí in liên tục. Năm 1990 ông được tặng Giải thưởng Nhà nước Liên Xô cho tập thơ Quả chuông. Tác phẩm của Boris Chichibabin được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Belarus, tiếng Ukraine, tiếng Ý, tiếng Séc… và gần đây được dịch ra tiếng Việt.

Boris Chichibabin mất ngày 14 tháng 12 năm 1994 tại Kharkov. Thành phố này đã dựng tượng và đặt tên ông cho một đường phố ở trung tâm thành phố.

Tác phẩm:
- Tuổi trẻ (Молодость, 1963)
- Giá lạnh và mặt trời (Мороз и солнце, 1963)
- Hài hòa (Гармония, 1965)
- Chiến hạm Rạng đông đang đi (Плывет “Аврора”, 1968)
- Quả chuông (Колокол, 1989)
- Những người bạn thập kỷ 1960 (Мои шестидесятые, 1990)
- Thơ và văn xuôi (В стихах и прозе, 1995)
- Dù sao ta đã là một nhà thơ… Những gì sống động không hề xa lạ (И все-таки я был поэтом... Всему живому не чужой..., 1998) tuyển tập thơ, văn xuôi, thư từ và những bài viết về Boris Chichibabin.


Thư mục:
Мороз и солнце. — Харьков, 1963.
Молодость. — М.: Советский писатель, 1963.
Гармония. — Харьков, 1965.
Плывет Аврора: Книга лирики. — Харьков: «Прапор», 1968.
Колокол: Стихи. — М.: Известия, 1989; М.: «Советский писатель», 1991
Мои шестидесятые. Киев: Дніпро, 1990.
Цветение картошки: Книга лирики. — М.: Моск. рабочий, 1994
82 сонета + 28 стихотворений о любви. М., 1994
В стихах и прозе. Харьков: СП «Каравелла», 1995; Харьков: Фолио, 1998





GIỮA NỖI BUỒN VÀ KHÔNG GÌ CẢ

Giữa nỗi buồn và không gì cả
Chúng ta đã chọn nỗi buồn.
Ai đấy hỏi: “để làm gì thế?”
Còn ai đấy rằng: “thật đáng thương”.

Hoặc làm dân đen, hoặc để biết
Và cười lên và vẫy bàn tay.
Không phải thời để đi giải thích
Hoặc về tĩnh lặng nghĩ suy.

Ta trong đời cho hàng trăm năm
Ta trong đời cho hàng ngàn mảnh đất
Trong ta không tắt ánh sáng thiên đàng
Và men say của trời không khô kiệt.

Và ta sẽ nhận về dấu triện
Của sự chia ly và sự truy lùng
Bằng ánh lửa trả lời tia sáng
Tiếng nhạc lòng đáp lại âm thanh.

Bằng sự tuyệt vọng cho cây thập ác
Và uống vào cả những đắng cay
Ta chuộc lại sự lăng xăng tíu tít
Và thô bạo ở cuộc đời này.

Ta sẽ bỏ lại nơi đây linh hồn
Để Chúa Trời một khi nào đấy
Tha cho thói kiêu căng sáng tạo
Và tha cho thân xác than phiền.

Và chúng ta vẫn cứ đi như thế
Một khi còn đập những con tim
Và biết rằng con đường kia chẳng có
Những giới hạn hay điểm cuối cùng.

Khi thiên thần vào ta áp sát
Vỗ về bằng sự lặng yên
Thì ta chỉ cần trong mấy phút
Ta sẽ quên đi linh hồn.

Và sau bản trường ca – lần nữa
Sau bút vẽ và sau cả dương cầm
Giữa nỗi buồn và không gì cả
Ta đã chọn lấy nỗi buồn.
1977






Velimir Khlebnikov (tiếng Nga: Велими́р Хле́бников - là bút danh của Viktor Vladimirovich Khlebnikov) (09 tháng 11 năm 1885 – 28 tháng 6 năm 1922) là nhà văn, nhà thơ Nga thế kỷ bạc, là một trong những người sáng lập phái Vị lai và là nhà thơ xuất sắc, nhà cách tân ngôn ngữ thơ ca Nga thế kỷ XX.

Tiểu sử:
Velimir Khlebnikov sinh ở làng Malye Derbsty, tỉnh Astrakhan. Bố là nhà sinh vật học, người lập ra khu bảo tồn sinh vật học đầu tiên ở Liên Xô. Những năm 1903 – 1911 học ở khoa toán – lý Đại học Kazan rồi học tiếp khoa ngôn ngữ - lịch sử ở Đại học Saint – Petersburg. Từ năm 1905 bắt đầu in các bài báo khoa học tự nhiên và từ năm 1908 bắt đầu in văn thơ. Năm 1909 tham gia Học viện thơ (Академия стиха). Năm 1910 tham gia nhóm văn học Hylea (Гилея). Những năm 1912 – 1913 cùng với Mayakovsky, Burliuk… thành lập trường phái thơ Vị lai và cùng ký bản tuyên ngôn đòi “vứt Pushkin, Dostoesky, Tolstoy và những người khác khỏi con tàu hiện đại”. Năm 1912 ông xuất bản cuốn Thầy và trò (Учитель и ученик) – đặt cơ sở cho khái niệm triết học Buletlyanstvo – đánh giá vai trò của những người tương lai, những người sáng tạo có khả năng thay đổi xã hội đồng thời thống nhất những người này với nhau như một cộng đồng của những người cùng chí hướng.

Thế chiến I xảy ra Khlebnikov bắt đầu đi nghiên cứu về qui luật của chiến tranh trong lịch sử để dự đoán cuộc chiến này. Thời kỳ này ông viết Những trận đánh 1915 – 1917 (Битвы 1915-1917 гг), Học thuyết mới về chiến tranh (Новое учение о войне), Cuộc chiến trong bẫy chuột (Война в мышеловке). Thái độ căm ghét chiến tranh là chủ đề xuyên suốt của các tác phẩm viết trong thời kỳ này. Năm 1916 ông bị gọi vào quân đội mà theo lời ông thì “đã trải qua những nỗi kinh hoàng nơi địa ngục” nhưng sau đó nhờ một bác sĩ quen biết giúp đỡ, ông đã xin được ra quân.

Thời kỳ sau cách mạng Tháng Mười Khlebnikov tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật và đi rất nhiều nơi. Ông làm ở nhiều tờ báo khác nhau, đi về Ukraine rồi về miền Kapkage, làm cán bộ chính trị ở hạm đội biển Caspien. Ông còn sang cả Ba Tư làm thầy cho các con của lãnh chúa vùng Tehran. Thời kỳ này ông viết nhiều bài thơ được đánh giá là xuất sắc nhất. Năm 1921 ông quay lại Moskva gặp những người bạn cũ cùng phái Vị lai xưa như Kruchenykh, Mayakovsky, Burniuk trở thành thành viên chính thức của Liên minh các nhà thơ (Союза поэтов). Mùa xuân 1922 vì bệnh nặng nên ông về sống với vợ con ở tỉnh Novgorod. Ông mất ở Santalova, Novgorod ngáy 28 tháng 6 năm 1922. Năm 1986 bảo tàng Khlebnikov được xây dựng ở làng Ruchi tỉnh Novgorod. Hàng năm tại đây diễn ra các cuộc đọc thơ. Một tiểu hành tinh do nhà thiên văn học Xô Viết Nikolai Stepanovich Chernykh tìm ra năm 1977 được đặt tên 3112 Velimir.

Sáng tạo của Velimir Khlebnikov đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà thơ lớn thế kỷ XX như Mayakovsky, Mandelstam, Tsvetaeva, Pasternak… đặc biệt là về sự phát triển những khả năng mới – nhịp điệu, sáng tạo ngôn từ và tính dự báo – của thơ ca. Nhà thơ Mayakovsky gọi Khlebnikov là bậc thầy của thi ca và nói về ý nghĩa to lớn của những thử nghiệm để tạo ra một ngôn ngữ thơ ca mới.

Thư mục:
*Собрание произведений Велимира Хлебникова, тт. 1-5 (предисл. Ю.Тынянова). Л., 1928-1933
*Степанов Н. Велимир Хлебников. Жизнь и творчество. М., 1975
*Григорьев В. Грамматика идиостиля: Велимир Хлебников. М., 1983
*Хлебников В. Творения. М., 1986
*Хлебников В. Стихотворения. Поэмы. Драмы. Проза. М., 1986
*Дуганов Р. Велимир Хлебников. Природа творчества. М., 1990
*Перцов В., О Велимире Хлебникове, "Вопросы литературы", 1966, № 7
*Харджиев Н., Маяковский и Хлебников, в кн.: Харджиев Н. и Тренин В., Поэтическая культура Маяковского, М., 1970
*Степанов Н., Велимир Хлебников. Жизнь и творчество, М., 1975
*Дуганов Р. В., Краткое "искусство поэзии" Хлебникова, "Изв. АН СССР. ОЛЯ", 1974, т. 33, № 5




Một số bài thơ:

QUẢ ĐẤT CÓ QUAY TRÒN

Quả đất có quay tròn hay không tôi không biết được
Điều này phụ thuộc vào lời có đặt được vào hàng
Tôi không biết có từng có ông và bà của tôi hay không
Là những con khỉ, vì rằng tôi không biết tôi muốn chua hay là ngọt.
Nhưng tôi biết rằng tôi muốn sôi và muốn cho cơn run chung
Hòa nhập mặt trời và gân tay của tôi làm một.
Nhưng tôi muốn cho tia sáng ngôi sao hôn tia sáng của mắt mình
Như nai với nai (ô, những đôi mắt nai tuyệt đẹp!).
Nhưng tôi muốn tin rằng có cái gì đấy vẫn còn
Khi bím tóc của người yêu được thay, thí dụ, bằng thời gian.
Tôi muốn đưa ra ngoài dấu ngoặc của số nhân chung hòa nhập
Tôi, mặt trời, bụi của ngọc và trời xanh.



KHI NGỰA CHẾT

Khi ngựa chết – ngựa thở dốc
Khi hoa cỏ chết – hoa cỏ khô
Khi mặt trời chết – mặt trời tắt
Khi người chết – người hát bài ca.



CON NGƯỜI, BỘ TỘC

Con người, bộ tộc, tháng năm
Ra đi mãi mãi
Như nước kia cứ chảy
Trong tấm gương uyển chuyển của thiên nhiên
Ta là cá, những ngôi sao – là lưới
Còn thánh thần là ảo ảnh giữa bóng đêm.





ĐÃ TỪNG THỔN THỨC

Đã từng thổn thức, từng yêu, từng gọi người
Mà vẻ hồn nhiên đã đi vào cổ tích
Người mà đã từng sống về tôi
Và dâng chúng tôi cho niềm hạnh phúc…
Nhưng người bẫy chuột la lên với chuột
Lao vào đuổi chuột rồi gào lên
Và thế rồi tội nghiệp những đôi chân
Và ánh nến chập chờn bên nấm mộ.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:22:49


Dmitri Borisovich Kedrin (04 tháng 2 năm 1907 – 18 tháng 9 năm 1945) – là nhà thơ Nga – Xô Viết.

Tiểu sử:
Dmitri Kedrin sinh ở làng Scheglovka vùng Donbass (nay là Ukraine). Bố là kế toán trong ngành đường sắt, mẹ là thư ký ở trường học. Dmitri Kedrin học trường trung cấp thương mại, sau đó học tiếp trường cao đẳng đường sắt ở Dnepropetrovsk. Năm 1924 làm cộng tác viên văn học của báo Komsomonskaya pravda của địa phương. Từ năm 1931 ông chuyển đến Moskva, từ năm 1933 đến 1941 cộng tác với nhà xuất bản “Đội cận vệ trẻ” (Молодая гвардия).

Những năm Thế chiến II ông ra mặt trận, làm phóng viên của một tờ báo quân đội. Chiến tranh kết thúc ông trở lại Moskva tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Mặc dù đã rất nổi tiếng từ sau bài thơ Búp bê (Кукла, 1931), Maxim Gorky đã khóc khi đọc bài thơ này, nhưng mãi đến năm 1940 ông mới in được tập thơ Những người chứng kiến (Свидетели) – tập thơ duy nhất được in khi ông còn sống.

Dmitri Kedrin là tác giả của nhiều trường ca lịch sử và nhiều bài ballade nổi tiếng. Ông cũng là một bậc thầy của thơ trữ tính. Bài thơ Những kiến trúc sư (Зодчие) của ông được nhà điện ảnh Andrei Tarkovsky dựng thành bộ phim Andrey Rublev và nhiều bài thơ khác của ông đựoc các nhạc sĩ phổ nhạc. Ngoài sáng tác, ông còn dịch thơ từ tiếng Ukraine, Litva, Estonia, Gruzia và nhiều thứ tiếng khác.

Ngày 18 tháng 9 năm 1945 Dmitri Kedrin bị những kẻ ghen ghét ném vào bánh tàu hỏa. Thi hài ông được mai táng ở nghĩa trang Vvedensky, Moskva.

Thư mục:
1. Сельвинский И. Стихи Дмитрия Кедрина. — Новый мир, 1957, № 8
2. Кедрин Д. Избранное. М., 1957
3. Широков С.Е. Дмитрий Кедрин: Критико-биографический очерк. Днепропетровск, 1961
4. Тартаковский П.И. Дмитрий Кедрин: Жизнь и творчество. М., 1963
5. Красухин Г. Дмитрий Кедрин. М., 1976
6. Кедрин Д. Соловьиный манок: Стихотворения и поэмы. М., 1990
7. Кедрин Д. Дума о России. М., 1990
8. Кедрин Д. Избранное: Стихотворения и поэмы. М., 1991
9. Кедрина С.Д. Жить вопреки всему: Тайна рождения и смерти Дмитрия Кедрина. М., 1996

Một số bài thơ:




TÌNH YÊU

Nhột bờ môi và hàm răng ớn lạnh
Ngọn lửa lang thang trong bóng tối xác thân
Mồ hôi giữa ngực… Và đấy gọi là tình?
Đấy là tất cả những gì em muốn?

Niềm say mê tối đen trong đôi mắt!
Đêm qua nhẹ nhàng như một con chim…
Còn anh cứ nghĩ tình là rượu vang
Thứ rượu mà muôn đời say cũng được!



BUỔI XẾ BÓNG

Buổi xế bóng của cuộc đời. Chiều muộn.
Lạnh lẽo và không chút lửa trong nhà.
Bóng tối vây. Ngọn đèn giờ tắt ngấm.
Biết lấy gì để xua bóng tối ra.

Ánh bình minh, hãy nhìn vô cửa sổ!
Thiên thần của đêm! Xin hãy thương tôi
Tôi muốn nhìn thấy mặt trời lần nữa
Mặt trời trước giờ chính ngọ của ngày!


NGÀY NÀO ĐẤY

Ngày nào đấy trong con tim trai trẻ
Ước mơ về hạnh phúc cứ ngân nga
Giờ hồn tôi giống như một ngôi nhà
Người ta mang đứa bé ra từ đó.

Còn tôi bây giờ phân vân, nổi loạn
Trao cho đất đai tất cả ước mơ…
Thật giống như một bà mẹ điên rồ
Vẫn lắc lư chiếc nôi giờ trống vắng.


EM NÓI RẰNG

Em nói rằng ngọn lửa đà tắt ngấm
Rằng anh và em – hai đứa đã già
Em hãy nhìn xem, bầu trời xanh thắm!
Bầu trời kia còn lớn tuổi hơn ta…





Denis Vasilyevich Davydov (tiếng Nga: Дени́с Васи́льевич Давы́дов, 27/07/1784 – 04/05/1839) – là vị tướng quân đội Nga Hoàng, anh hùng của cuộc chiến tranh vệ quốc 1812, là nhà sử học, nhà lý luận quân sự, nhà thơ, nhà văn Nga.

Tiểu sử:
Denis Davydov sinh ra trong một gia đình quí tộc lâu đời ở Moskva. Từ nhỏ đã được giáo dục rất đến nơi đến chốn. Từ năm 1801 phục vụ trong trung đoàn kỵ binh Nga Hoàng, tham gia vào các cuộc chiến tranh với Pháp (1806 – 1807), với Thụy Điển (1808 – 1809), với Thổ Nhĩ Kỳ (1809 – 1812). Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812 ông là người đề xuất phương án tổ chức chiến tranh du kích trong lòng địch và đã rất thành công với cuộc chiến tranh này. Năm 1814 ông được phong hàm tướng, năm 1823 ra quân và đến năm 1826 trở lại phục vụ quân đội ở vùng Kapkage. Năm 1832 ông về hưu sống ở trang trại tại tỉnh Simbirsk và mất ngày 04 tháng 5 năm 1939 tại đây.

Denis Davydov chưa bao giờ tự nhận mình là một nhà thơ hay nhà văn, ông viết: “Tôi không phải là nhà thơ mà là người du kích, người lính Cô-dắc, tôi là nhà thơ không theo vần điệu mà theo tình cảm tự nhiên”. Mặc dù vậy, ông đã để lại cho đời sau một sự nghiệp văn học đáng kể cả thơ trữ tình lẫn văn xuôi. Nhà phê bình Vissarion Belinsky viết về Denis Davydov: “Ông là một nhà thơ từ trong tâm hồn, đối với ông cuộc đời là thơ ca và thơ ca là cuộc đời, ông thi ca hóa tất cả mọi thứ, những gì mà ông chạm đến… Như một nhà thơ, ông thuộc hàng những vì sao sáng nhất trên bầu trời thi ca Nga… Như một nhà văn, ông có quyền ngồi chung chiếu với những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Nga”.

Những tác phẩm xuất sắc nhất của Davydov còn giá trị đến ngày nay là mảng thơ trữ tình. Mặc dù là một vị tướng và các bạn bè của ông, trong số họ có cả Aleksandr Puskin, khuyên ông làm thơ lính nhưng thơ ông hầu như không nói gì về chiến tranh mà chỉ viết về rượu, về tình yêu, về những cuộc truy hoan… mà một số bài thơ trích giới đây cho thấy điều đó.

Thư mục:
• Русский биографический словарь, изд. Русского исторического общества, - СПб., 1905 (ст. А. Петрова).
• Садовский Б., «Русская Камена», - М., 1910
• Жерве В. В., Партизан-поэт Давыдов, СПб., 1913.
• Розанов И. Н., Русская лирика. От поэзии безличной к исповеди сердца, - М., 1914.
• Мезьер А. В., Русская словесность с XI по XIX ст. включительно, ч. II, - СПб., 1902.
• Венгеров С. А. Источники словаря русских писателей, т. II, - СПб., 1910.
• Словарь русских генералов, участников боевых действий против армии Наполеона Бонапарта в 1812-1815 гг. // Российский архив : Сб. — М.: студия «ТРИТЭ» Н.Михалкова, 1996. — Т. VII. — С. 374-375.
• Глинка В.М., Помарнацкий А.В. Давыдов, Денис Васильевич // Военная галерея Зимнего дворца. — 3-е изд. — Л.: Искусство, 1981. — С. 100-102.
• Геннадий Серебряков Денис Давыдов (ЖЗЛ)


Một số bài thơ:

TÔI YÊU EM

Tôi yêu em như cần phải yêu em
Bất chấp số phận hay người đời thêu dệt
Bất chấp cả chuyện có thể em mỏi mệt
Vì cuộc đời tôi đến nghiệt ngã, vô thần.

Tôi yêu em – chẳng phải là vì em
Đẹp hơn tất cả, dáng hình thanh mảnh
Ánh nhìn phương Đông, bờ môi ướt mọng
Em là thơ ca – từ đầu tới bàn chân!

Tôi yêu em không sợ, chẳng kinh hoàng
Mạc Tư Khoa, Penza hay bầu trời, mặt đất
Tôi yêu em dù điếc tai, mù mắt…
Tôi yêu em vì người đó chính là em!

Tôi yêu chẳng cần lý lịch gia đình
Khô héo vì ghen hờn của bao kẻ dở
Tôi kính trọng và tôi nài xin họ
Đừng bận tâm và hãy xéo cho nhanh!







TÔI NHỚ

Tôi nhớ - sâu vô cùng
Ánh mắt của tôi sâu thẳm
Như tia nắng xuyên đồi thông, rừng vắng
Và tôi ôm cả thảo nguyên rộng mênh mông

Nhưng ánh mắt sắc sảo, mắt tinh
Em đã làm cho sầu úa…
Tôi trông em là thiếu nữ của tình
Tôi khóc vì em trong những đêm không ngủ.



KHÚC LÃNG MẠN

Em tàn nhẫn, sao hành hạ gì anh?
Sao quyến rũ bằng những lời âu yếm?
Sao tình yêu rực sáng trong mắt em
Còn trong tim lại vội vàng, nóng giận.
Anh chỉ cần một chút em yên lặng
Còn anh thì đau khổ muôn đời
Anh trút bỏ những gì mơ mộng
Của cõi lòng đã tan nát em ơi…

Đây là vương quốc đăm đuối mê hồn
Nơi bao lần số phận đuổi xua anh
Anh đã yêu mà người không yêu lại
Đã đau khổ mà người không thương hại
Nơi mà anh từng đau khổ vô cùng
Vì phụ bạc bởi dầu môi chót lưỡi
Và nơi mà không một ai hiểu nổi
Cõi lòng anh với nức nở lặng câm!





EM TÔI

Em tôi nhẹ nhàng và em vui vẻ
Em hân hoan như buổi sáng tháng năm
Em đùa giỡn và đã không còn nhớ
Lời thề nào đã hứa hẹn cùng anh!...

Em có lý. Làm sao khi hân hoan
Trong cơn ngất ngây thì quên không dễ
Lời hẹn ước đó chỉ là có thể
Em đánh mất vì do quá vội vàng.

Còn anh chỉ trách số phận của mình
Ôm gối khóc sụt sùi như con trẻ
Vật vã trên giường, vì tình đau khổ
Anh nghĩ về em… và chỉ về em!

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:26:26


Lev Ivanovich Oshanin (tiếng Nga: Лев Ив`а́нович Оша́нин, 17 tháng 5 năm 1912 – 31 tháng 12 năm 1996) - nhà thơ Nga Xô Viết, tác giả lời của rất nhiều bài hát nổi tiếng, người đoạt giải thưởng Nhà nước Liên Xô, giải thưởng Liên hoan sinh viên Thế giới.

Tiểu sử:
Lev Oshanin sinh ở thành phố Rybinsk, tỉnh Yaroslavl. Từ năm lên 10 tuổi sống ở Moskva. Từ năm 16 tuổi bắt đầu làm công nhân ở nhà máy và làm phóng viên của nhiều tờ báo và tạp chí. Những năm 1936 – 1939 học trường viết văn M. Gorky nhưng không tốt nghiệp vì lý do sức khỏe. Năm 1941 vào Hội nhà văn Liên Xô. Thời kỳ Thế chiến II, Lev Oshanin làm ở nhiều tờ báo của quân đội, thường đến các mặt trận đọc thơ cho những người lính đang chiến đấu.

Từ năm 1954 ông giảng dạy ở trường viết văn M. Gorky (được phong hàm giáo sư từ năm 1973). Ngoài giảng dạy và sáng tác, ông còn tổ chức những cuộc hội thảo (seminar) thường xuyên dành cho các nhà thơ trẻ và điều hành những cuộc hội thảo này cho đến cuối đời. Lev Oshanin là một trong những nhà thơ, tác giả lời của nhiều bài hát nổi tiếng nhất. Bài thơ Những nẻo đường hành quân (Дороги) được phổ nhạc đã trở thành một trong những bài hát được yêu thích nhất. Khi người ta hỏi tướng Giu-cốp về những bài hát hay nhất của Thế chiến II, vị tướng vĩ đại nêu tên 3 bài hát mà ông yêu thích nhất, trong đó có bài hát này.

Những năm đầu tiên của chiến tranh lạnh, ông viết Bài ca thanh niên dân chủ thế giới (Гимн демократической молодежи мира, 1947). Thập niên 1950 – 1960 ông có các bài Hãy để mặt trời luôn chiếu sáng (Пусть всегда будет солнце), Bài ca về tuổi trẻ âu lo (Песня о тревожной молодости)… và nhiều bài hát nổi tiếng khác. Ngoài những bài thơ hay được phổ nhạc, Lev Oshanin còn nổi tiếng ở mảng thơ trữ tình mà bài thơ Nếu yêu thì đi tìm (Если любишь – найди) trích dưới đây là một ví dụ.

Lev Oshanin được tặng nhiều giải thưởng của nhà nước Liên Xô. Thành phố Rybinsk dựng tượng ông cầm cuốn sách nhìn ra sông Volga. Ông mất ở Moskva ngày 31 tháng 12 năm 1996.

Tác phẩm:
*Этажи (1930)
* Песнь о Куэльпоре (1937)
*Твое личное дело (1953)
*Я тебя найду, 1957)
* Мой друг Борис (1944).
*Дети разных народов (1950)
*Стихи о любви (1957)
*Я и ты (1962)
*Просто я работаю волшебником (1966)
*Шел я сквозь вьюгу (1970)
*Островитяне (1972)
*Издалека - долго (1977)
* Самолеты и соловьи (1982)
*Пока я дышать умею (1985)
*Баллады (1987)
*Осколки любви (1992)


Một số bài thơ:


BÀI CA VỀ TUỔI TRẺ ÂU LO

Mối quan tâm của ta thật giản đơn
Mối quan tâm của ta là như vậy:
Sao cho đất nước này sống mãi
Và không còn sự lo lắng nào hơn!

Dù những vì sao rơi rụng trong đêm…
Và dù tuyết rơi, và cơn gió thổi
Con tim này vẫn luôn vẫy gọi
Ta đi vào sự lo lắng xa xăm.

Thì cứ để mặc cho anh và em
Tai họa này tiếp theo tai họa khác
Nhưng tình bạn của hai chúng mình
Mãi theo anh cho đến ngày anh chết.

Một khi anh hãy còn biết đi
Một khi hãy còn biết cách nhìn ngó
Một khi anh hãy còn biết thở
Thì anh chỉ đi về phía trước kia.

Và mỗi người trong cuộc đời vẫn thế
Tình yêu mà ta đã gặp một lần
Cùng với bạn, và như bạn, can trường
Tình yêu sẽ cùng vượt qua bão tố.

Chớ nghĩ rằng tất cả đã hát xong
Rằng bão tố tất cả giờ im lặng.
Bạn hãy sẵn sàng cho mục đích lớn
Và sẽ tìm ra bạn giữa vinh quang.

Dù những vì sao rơi rụng trong đêm…
Và dù tuyết rơi, và cơn gió thổi
Con tim này vẫn luôn vẫy gọi
Ta đi vào sự lo lắng xa xăm.

Link bài hát:
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=-TN8RGf_IN
http://www.youtube.com/watch?v=12ij-RX_tVY





NẾU YÊU THÌ ĐI TÌM

Trong điệu nhảy vũ hội buổi tối này
Bàn tay anh lên tay em khẽ chạm
Và bỗng nhiên như từ đâu cơn nóng
Cơn nóng rần rần trong những ngón tay.

Sau đó ở đâu anh không còn nhớ
Chỉ nhớ bờ môi trong phút lặng im
Và chỉ những lời em nói với anh
Những lời thì thầm trước lúc từ giã:

Nếu yêu thì đi tìm
Nếu muốn thì đến gặp
Cho ngày còn dấu vêt.
Nhưng nếu chẳng có tình
Thì gọi em vô ích
Anh chẳng tìm thấy em.

Và từng đêm tôi mơ chẳng vô tình
Về chiếc ghế trong đêm dài giá lạnh
Và làn da dịu dàng khi khẽ chạm
Lên bàn tay trần sạm nắng của em.

Chẳng lẽ không còn quay lại nữa chăng
Cái đêm hè mơ màng thiu thiu ngủ
Giọng nói thân thương thì thào to nhỏ
Và êm đềm hơi thở nhẹ của em:

Nếu yêu thì đi tìm
Nếu muốn thì đến gặp
Cho ngày còn dấu vêt.
Nhưng nếu chẳng có tình
Thì gọi em vô ích
Anh chẳng tìm thấy em.





HÃY ĐỂ MẶT TRỜI LUÔN CHIẾU SÁNG

Một vầng thái dương
Bầu trời vòng quanh –
Đấy là bức tranh một cậu bé
Cậu bé vẽ trên tờ giấy nhỏ
Và bên góc ký tên mình:

Hãy để mặt trời luôn chiếu sáng
Hãy để cho bầu trời mãi xanh
Hãy để cho có mẹ thường xuyên
Và hãy để cho em mãi mãi.

Hỡi người bạn mến thương
Hỡi người bạn tốt
Nhân loại muốn hòa bình.
Và ở tuổi ba lăm
Con tim không mỏi mệt
Chỉ muốn nhắc lại rằng:

Hãy để mặt trời luôn chiếu sáng…

Người lính hãy lặng im hơn
Hãy nghe này anh lính trẻ
Loài người sợ vô cùng tiếng nổ.
Hàng nghìn đôi mắt mở
Hàng nghìn đôi mắt nhìn bầu trời
Lặp đi lặp lại những đôi môi:

Hãy để mặt trời luôn chiếu sáng…

Chúng ta phản đối tai nạn
Chúng ta chống lại chiến tranh
Ta đứng lên theo những cậu bé của mình.
Mặt trời muôn măm! Hạnh phúc muôn năm –
Đấy là lời con người ra lệnh.

Hãy để mặt trời luôn chiếu sáng
Hãy để cho bầu trời mãi xanh
Hãy để cho có mẹ thường xuyên
Và hãy để cho em mãi mãi.
_____
*Theo nhà thơ K. Chukovsky trong cuốn “Ọ dvux do piat” thì điệp khúc của bài thơ này là những lời của một cậu bé 4 tuổi viết năm 1928.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:29:44


Konstantin Yakovlevich Vanshenkin (tiếng Nga: Константи́н Я́ковлевич Ванше́нкин sinh ngày 17 tháng 12 năm 1925) – là nhà thơ, nhà văn Nga Xô Viết, tác giả của những bài hát nổi tiếng như Ta mến yêu người, ơi cuộc sống (Я люблю тебя, жизнь), Điệu Vals giã từ («Вальс расставания) vv…

Tiểu sử:
Konstantin Vanshenkin sinh ở Moskva, trong gia đình một kỹ sư yêu thơ ca. Năm 1942 đang học lớp 10 thì tình nguyện ra trận. Sau chiến tranh vào học trường Đại học mỏ được một năm thì chuyển sang học trường viết văn M. Gorky và tốt nghiệp năm 1953. Bài thơ đầu tiên viết về đất nước Hungari được Hồng quân giải phóng và in sau chiến tranh. Những tập thơ đầu tiên: Песня о часовых (1951), Подарок (1952), Лирические стихи (1953), Портрет друга (1955), Волны (1957), Лирика (1959).

Thơ của Konstantin Vanshenkin giản dị, gần gũi với những nhà thơ thế hệ chiến tranh Vệ quốc, viết về những đề tài như: tình đồng chí, về những cậu bé đi vào cuộc chiến từ những ngày tuổi thơ, về cuộc sống riêng tư của mỗi con người và cuộc sống của cả đất nước, nghĩa vụ đối với tổ quốc... Nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc và trở thành những bài hát nổi tiếng. Vợ ông – Inna Goff cũng là nữ nhà thơ, nhà văn, tác giả của bài hát Cánh đồng Nga (Русское поле) nổi tiếng. Con gái Galina hiện nay cũng là một họa sĩ nổi tiếng ở Nga.

Konstantin Vanshenkin được tặng Giải thưởng Nhà nước Nga (Лауреат Государственной премии Российской Федерации) năm 2001 và nhiều huân, huy chương các loại của Liên Xô và Nga.

Tác phẩm:
• Песня о часовых, 1951
• Подарок, 1952
• Лирические стихи, 1953
• Портрет друга, 1955
• Волны, 1957
• Надпись на книге, 1960
• Окна, 1962
• Армейская юность, 1964
• Другу, 1965
• Соловьиный коридор, 1967
• Избранное, 1969
• Прикосновение, 1972
• Характер, 1973
• Наброски к роману. Статьи, 1973
• Избранные произведения в 2 т., 1975
• Лица и голоса, 1978
• Повести и рассказы, 1976
• Дорожный знак, 1977
• Десятилетье, 1980
• Поздние яблоки, 1980
• Ветка, 1981
• Рассказ о потерянном фотоальбоме, 1982
• Жизнь человека, 1983
• Собрание сочинений в 3 т., 1983-84
• Графин с петухом, 1985
• Далекий свет, 1985
• Поиски себя: Воспоминания, заметки, записи, 1985
• Зимняя дорога, 1986
• Жизнь человека, 1988
• Любовь по переписке, 1988
• Писательский Клуб, 1998
• Женщина за стеной, 2003
• Шепот. Интимная лирика, 2008



Một số bài thơ:




TA MẾN YÊU NGƯỜI, ƠI CUỘC SỐNG
Tặng M. Bernes

Ta mến yêu người, ơi cuộc sống
Tự nhiên thôi, mới mẻ gì đâu
Ta mến yêu người, ơi cuộc sống
Ta yêu rồi yêu lại lần sau.

Những ô cửa sổ đèn đã sáng
Ta về nhà mỏi mệt bước chân
Ta mến yêu người, ơi cuộc sống
Và mong người sẽ tốt đẹp hơn.

Cuộc đời đã cho ta không ít
Mặt đất trải rộng, biển mênh mông
Và ta đã từ lâu được biết
Vô tư tình bạn của đàn ông.

Trong tiếng ngân vang của mỗi ngày
Ta hạnh phúc rằng ta bận bịu!
Một tình yêu trong tim ta đây
Yêu là gì chắc người đã hiểu.

Tiếng họa mi hót hay biết bao
Buổi hoàng hôn, nụ hôn buổi sớm
Con trẻ ơi, đỉnh của tình yêu
Đấy là điều diệu kỳ quá lớn!

Ta lại cùng các con qua đấy
Tuổi thơ, tuổi trẻ và bến tàu
Và sau đấy là bao đứa cháu
Tất cả như lặp lại từ đầu.

Chao ôi, ngày tháng trôi nhanh quá
Nhìn lên tóc bạc, bỗng thấy buồn
Đời ơi có nhớ bao người lính
Không về để bảo vệ đời chăng?

Thì hãy vui lên và thể hiện
Trong tiếng kèn khúc hát mùa xuân!
Ta mến yêu người, ơi cuộc sống
Và được người yêu lại, ta mong!


MÙA XUÂN

Mưa dông đầu mùa trên thành phố
Mưa kêu trong ống xối vang rền.
“Chẳng ai trên đời yêu ta cả”
Cô bé nhà ai dối chính mình.

Nước trên vỉa hè rơi tung tóe
Bé con trong căn hộ một mình
Bé con khoác lác vì vui quá
Hân hoan bên cửa sổ mở toang.

Mưa tuôn ào ào trên đường phố
Mưa trên nóc xe điện ầm vang.
“Chẳng ai trên đời yêu ta cả”
Giọng ai hạnh phúc vẫn ngân vang.


TÔI VỚI NÀNG

Tôi với nàng chia tay đã nhiều năm.
Lùi lại tháng năm theo đường phố cũ
Tôi bất chợt lại đi về nơi đó
Nơi mà tôi thường gặp gỡ với nàng.

Chỉ nhớ ra dưới ánh những ngọn đèn
Xung quanh nhà nàng và treo trước cửa…
Thật giống cảnh những ngày đầu tháng giêng
Người ta đề trong thư ngày năm cũ.





Konstantin Mikhailovich Fofanov (tiếng Nga: Константин Михайлович Фофанов, 18 tháng 5 năm 1862 – 17 tháng 5 năm 1911) là nhà thơ Nga.

Tiểu sử:
Konstantin Fofanov sinh ra trong một gia đình tiểu thương ở Saint Petersburg. Fofanov không được học hành đến nơi đến chốn nhưng rất ham mê đọc sách và biết làm thơ từ nhỏ. Năm lên 14 tuổi làm thơ bắt chước Nekrasov và năm lên 16 tuổi làm thơ theo những đề tài trong Kinh Thánh. Năm 1881 in bài thơ đầu tiên ở báo Người Nga Do Thái (Русский еврей), bài thơ Bí ẩn của tình yêu (Таинство любви) viết năm 1885 in ở tạp chí Người quan sát (Наблюдатель) năm 1888.

Từ năm 1887 Fofanov thường xuyên in thơ ở báo Thời Mới (Новое время) của nhà báo, nhà phê bình và chủ nhà in Aleksei Sergeevich Suvorin. Sau khi in tập thơ đầu tiên Стихотворения vào năm 1887, Suvorin cho in tập thơ thứ 2 cũng với tên gọi như vậy vào năm 1889. Những tập thơ này gây được tiếng vang mạnh mẽ, được các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng thời đó như Yakov Petrovich Polonsky, Apollon Nikolayevich Maykov , Lev Nikolayevich Tolstoy ủng hộ. Họa sĩ Ylya Repin vẽ chân dung của Konstantin Fofanov sau khi đọc Cтихотворения. Nhà thơ Polonsky đề cử tập thơ này cho giải thưởng Puskin của Viện Hàn lâm khoa học nhưng sau đó đã không được trao giải vì một số điểm tự do về ngôn ngữ và phong cách của tác giả không được ban giám khảo tán thành.

Thập niên 1890 Fofanov nghiện rượu nặng và mắc bệnh tâm lý, những năm cuối đời sống trong cảnh nghèo túng nhưng ông vẫn sáng tác đều đặn. Ông đã chuẩn bị bản thảo một số cuốn sách nhưng không tìm được nhà in nào ủng hộ. Konstantin Fofanov được thừa nhận là một hiện tượng của thơ ca Nga cuối thế kỷ 19. Ông mất ngày 17 tháng 5 năm 1911 ở Saint Petersburg.

Tác phẩm:
*Стихотворения, 1887
*Стихотворения, tập 2, 1889
*Тени и тайны», 1892
*Барон Клакс, 1892
*Стихотворения (в пяти частях), 1896
*Иллюзии», 1900



Một số bài thơ:




TÌNH YÊU ĐI QUA

Tình yêu đi qua, bão tố đi qua
Nhưng một nỗi buồn vẫn còn hành hạ
Và hãy còn đây một giọt lệ nhòa
Giọt nước mắt cuối cùng, chắc lẽ thế.

Còn nơi kia – khi trả hết nợ đời
Anh quên tất cả, những gì một thuở
Anh sẽ lên đường bằng một chuyến bay
Về cái nơi không còn quay lại nữa.

Dù sẽ chết, sức lực sẽ không còn
Nhưng cái chết không hẳn là mất cả.
Hãy nhớ rằng anh đã từng yêu em
Yêu như thế, không ai còn có thể!

Và cùng với bài ca cuối của tình
Đôi mắt buồn bã kia anh khép lại…
Em hãy tạ ơn giấc mơ của anh
Giống như anh sẽ mang ơn em vậy!


CÓ VẺ NHƯ

Có vẻ như chúng mình đang yêu nhau
Nhưng tại sao đôi khi ta chạy trốn
Những lời dịu dàng giống như bệnh hoạn
Tránh xa và xấu hổ, tại vì sao?

Tại vì sao ta quen sự gièm pha
Sao ta muốn hành hạ nhau cho đã?
Chẳng lẽ sôi lên vì một tình yêu
Thì hai con tim thấy cần ghét bỏ?





KỶ NIỆM

Chứa chất trong lòng lời trách cay đắng
Vì câu chuyện buồn ngày tháng xa xăm
Vì lầm lỡ, vì giấc mơ cuồng loạn
Tôi nhìn kỹ hơn bức ảnh của nàng.

Tôi lại yêu, khổ đau mà say đắm
Và lại giống như ngày ấy phật lòng
Đôi mắt nàng nhìn sang tôi hờ hững
Và cứ thế lặng im.

Tôi như người bị vô tình trói chặt
Không làm sao rời ánh mắt khỏi nàng…
Trong lặng im này có điều bí mật
Là kỷ niệm về ngày tháng xa xăm…


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:33:50


Aleksandr Nikolayevich Radishchev (tiếng Nga: Алекса́ндр Никола́евич Ради́щев) (31 tháng 8 năm 1749 – 24 tháng 9 năm 1802) – là nhà văn, nhà triết học, nhà thơ Nga, hiệu trưởng trường hải quan Saint Petersburg, người tham gia soạn nhiều bộ luật và từng bị đày đi Siberia.

Tiểu sử:
Aleksandr Radishchev là con đầu lòng của quí tộc Nicolai Radishchev (1728—1806). Thuở nhỏ từng được những đầy tớ trong nhà kể cho nghe những câu chuyện về nổi khổ của tầng lớp nông dân. Những câu chuyện này khơi dậy trong lòng cậu bé sự căm ghét chế độ áp bức. Năm lên 7 tuổi được một người Pháp dạy ngôn ngữ và những khái niệm đầu tiên về triết học. Năm 1762 vào học trường Thiếu sính quân ở Saint Petersburg. Từ năm 1766 đến 1770 học luật ở Đại học Leipzig, Đức. Những năm học ở Đức, Aleksandr Radishchev say mê môn triết học, ông nghiên cứu chủ nghĩa kinh nghiệm nhất nguyên và các nhà triết học tiêu biểu của Thế kỷ Ánh sáng.

Sau khi trở về Nga, ông làm việc ở Thượng viện sau đó ở Phòng thương mại và tham gia tích cực vào đời sống văn học của thủ đô. Aleksandr Radishchev in nhiếu tác phẩm dịch và sáng tác nhưng tất cả bỗng thay đổi sau khi in Cuộc hành trình từ Peterburg về Moskva (Путешествие из Петербурга в Москву) vào năm 1790. Đấy là tác phẩm phê phán mạnh mẽ chế độ nông nô và mô tả những cảnh đau thương và bất công trong xã hội Nga lúc đó. Radishchev bị coi là tên tội phạm quốc gia, bị tòa kết án tử hình, sau được đổi thành chuyến đi đày ở Siberia, ở tháp Ilimsk trong 10 năm. Thời gian này ông tiếp tục sáng tác và viết các tác phẩm triết học như Về cái chết và sự bất tử của con người (О человеке, о его смертности и бессмертии,1790-1792), Câu chuyện tóm lược về chuyện sở hữu Siberia (Сокращенное повествование о приобретении Сибири).

Năm 1796 hoàng đế Pavel I cho Radishchev về trang trại của mình ở Kaluga. Năm 1801 hoàng đế Aleksandr I cho phép ông chuyển về thủ đô Saint Petersburg. Những năm cuối đời ông soạn một số bộ luật, nếu ra sự cần thiết phải cải cách và xóa bỏ chế độ nông nô. Aleksandr Radishchev mất ở Saint Petersburg ngày 24 tháng 9 năm 1802.

Thư mục:
Радищев А. Н. Путешествие из Петербурга в Москву. — СПб.: б. и., 1790. — 453 с.
Радищев А. Н. Полное собрание сочинений А. Радищева / Ред., вступ. ст. и прим. В. В. Каллаша. Т. 1. — М.: В. М. Саблин, 1907. — 486 с.: п., То же Т. 2. — 632 с.: ил.
Радищев А. Н. Полное собрание сочинений. Т. 1 — М.; Л.: Академия наук СССР, 1938. — 501 с.: п. То же Т. 2 — М.; Л.: Академия наук СССР, 1941. — 429 с.
Радищев А. Н. Стихотворения / Вступ. ст., ред. и примеч. Г. А. Гуковского. Ред. коллегия: И. А. Груздев, В. П. Друзин, А. М. Еголин [и др.]. — Л.: Сов. писатель, 1947. — 210 с.: п.
Радищев А. Н. Избранные сочинения / Вступ. ст. Г. П. Макогоненко. — М.; Л.: Гослитиздат, 1949. — 855 с.: П, к.
• Радищев А. Н. Избранные философские сочинения / Под общей ред. и с предисл. И. Я. Щипанова. — Л.: Госполитиздат, 1949. — 558 с.: п.
Радищев А. Н. Путешествие из Петербурга в Москву. 1749—1949 / Вступит. статья Д. Д. Благого. — М.; Л.: Гослитиздат, 1950. — 251 с.: ил.
Радищев А. Н. Избранные философские и общественно-политические произведения. [К 150-летию со дня смерти. 1802—1952] / Под общ. ред. и со вступит. статьей И. Я. Щипанова. — М.: Госполитиздат, 1952. — 676 с.: п.
Радищев А. Н. Путешествие из Петербурга в Москву / [Вступит. статья Д. Благого]. — М.: Дет. лит., 1970. — 239 с. То же — М.: Дет. лит., 1971. — 239 с.
• Шеметов А. И. Прорыв: Повесть об Александре Радищеве. — М.: Политиздат, 1974 (Пламенные революционеры) —— 400 с, ил. То же. — 2-е изд., перераб. и доп. — 1978. — 511 с, ил.


Một số bài thơ:

NHỮNG DÒNG THƠ SAPPHO

Đêm dịu mát, bầu trời như ánh lên
Sao dập dờn, dòng suối trôi lặng lẽ
Gió thổi nhẹ, lao xao từng chiếc lá
Trắng xóa những hàng dương.

Em đã thề chung thủy đến ngàn năm
Thề với anh trong cái đêm thần thánh
Cơn gió phương bắc một lần thổi mạnh
Thề nguyện biến mất tăm.

Tại vì sao em thề nguyện dối gian
Thà nghiệt ngã nhưng trong lòng thấy nhẹ
Em quyến rũ bằng say mê đáp trả
Khiến người khác bỏ mình.

Giết đời đi, hỡi số kiếp dữ dằn
Hoặc nhắc nàng nhớ lời thề chung thủy.
Hãy hạnh phúc, nếu như người có thể
Sống cuộc sống thiếu tình.





TA ĐI VỀ THÁP ILIMSK

Ngươi muốn biết: ta là ai? ta là gì? ta đi đâu?
Ta là kẻ đã từng và sẽ sống theo thế kỷ.
Không súc vật, chẳng cây, không nô lệ, nhưng người!
Ta đi trên con đường chưa từng có dấu vết chân ai
Dành cho những ai gan dạ ở trong văn và thơ cũng vậy
Chân lý và những con tim nhạy cảm làm cho ta sợ hãi
Ta đi về tháp Ilimsk.






Ilya Grigoryevich Erenburg (tiếng Nga: Илья́ Григо́рьевич (Ги́ршевич) Эренбу́рг, 27 tháng 1 năm 1891 – 31 tháng 8 năm 1967) – nhà thơ, nhà văn Nga Xô Viết.

Ilya Erenburg sinh ở Kiev, trong một gia đình Do Thái giàu có. Năm 1895 gia đình chuyển đến Moskva. Erenburg học ở trường gymnazy cùng với Nikolai Ivanovich Bukharin. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1905. Cuối năm 1908 sang Pháp hoạt động văn học, kết bạn với Picasso, Louis Aragon, Alexis Leger (Saint-John Perse).. và in các tập thơ: «Стихи» (1910), «Я живу» (1911), «Будни» (1913). Các năm 1914 – 1917 làm phóng viên cho một số tờ báo.

Cuối năm 1919 cùng với Osip Mandelstam đi về vùng Cremia, sống ở nhà Maximilian Alexandrovich Voloshin. Bị bắt nhưng nhờ sự can thiệp của Bukharin nên được trả tự do. Từ năm 1921 đến năm 1924 sống ở Berlin, Đức. Thời kỳ Nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 – 1939) Erenburg làm phóng viên chiến trường của báo Izvestya, sau khi những người cộng hòa thất bại, ông sang Pháp. Năm 1940 ông trở về Liên Xô. Thời kỳ chiên tranh Vệ quốc ông làm phóng viên của các tờ báo Sự Thật (Правда), Tin Tức (Известия), Ngôi sao đỏ (Красная звезда). Từ năm 1942 ông tham gia “Ủy ban Do Thái chống phát xít” rất tích cực và đã thu thập được nhiều tài liệu về cuộc tàn sát chủng tộc đối với người Do Thái (Holocaust).

Trong mục trích các bài thơ của Erenburg có bài thơ “Hãy giết” nổi tiếng của ông. Erenburg viết bài thơ này trong những ngày tháng khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh Vệ quốc. Cũng trong thời kỳ này ông viết bài “Hãy giết người Đức” đăng trên báo Ngôi sao đỏ ngày 24 tháng 7 năm 1942.

Nguyên cớ của bài báo là cuộc tấn công của quân Đức vào vùng sông Đông, hai tuần trước mệnh lệnh số 227 của Tổng tư lệnh Stalin: “Không lùi một bước!” ra đời, theo lời của tác giả, là những bức thư từ Đức mà người ta tìm thấy trong túi áo của những lính Đức tử trận về ý định của người Đức “biến dân Nga thành những kẻ nô lệ”. Erenburg viết:

“Chúng ta hiểu rằng: người Đức không phải là những con người. Kể từ nay từ “người Đức” đối với chúng ta là sự nguyền rủa kinh hoàng nhất. Kể từ nay từ “người Đức” tháo đạn. Ta sẽ không nói gì thêm. Ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên. Ta sẽ giết. Nếu như một ngày mà anh không giết dù chỉ một người Đức thì một ngày của anh đã mất. Nếu anh nghĩ rằng người hàng xóm sẽ giết người Đức thay anh thì anh không hiểu ra mối hiểm họa khôn lường. Nếu anh không giết người Đức, người Đức sẽ giết anh. Người Đức sẽ bắt những người thân của anh và sẽ hành hạ họ ở nước Đức khốn nạn của mình. Nếu anh không thể giết người Đức bằng viên đạn thì hãy giết người Đức bằng lưỡi gươm. Nếu vùng đất của anh lặng yên, nếu anh đang chờ trận đánh thì hãy giết người Đức trước khi trận đánh xảy ra. Nếu anh để cho người Đức sống thì người Đức sẽ treo cổ người Nga và làm nhục phụ nữ Nga. Nếu anh đã giết một người Đức rồi thì hãy giết thêm những người Đức nữa. Với chúng ta, không có niềm vui nào lớn hơn xác người Đức. Anh đừng tính ngày. Đứng đếm dặm vesta. Hãy đếm một điều là: bao nhiêu người Đức mà anh đã giết. Hãy giết người Đức! – đấy là điều đang van vỉ mẹ già. Hãy giết người Đức! – đấy là điều đang năn nỉ con thơ. Hãy giết người Đức! – đấy là điều quê hương đang gào thét kêu la. Đừng bắn trượt. Đừng bỏ qua. Hãy giết!”

Bài viết này sau đó đã bị dư luận nước ngoài chỉ trích và trở thành đối tượng của nhiều cuộc tranh luận. Nhà văn Anh Antony Beevor trong cuốn Berlin sụp đổ (Berlin:The Downfall 1945) cho rằng những khẩu hiệu kiểu như vậy khiêu khích bạo lực của Hồng quân đối với dân thường Đức trong những năm 1944 – 1945. Ilya Erenburg đã viết những lời giải thích sau đây:

“Tôi nhớ “cuộc chiến lạ lùng” – lễ chôn cất phi công Đức, tiếng gào của loa phóng thanh… Chiến tranh là kinh hoàng và đáng ghét nhưng không phải chúng ta đã phát động nó mà là kẻ thù rất mạnh và vô cùng tàn ác. Tôi biết rằng nghĩa vụ của tôi là chỉ ra bộ mặt thật của lính phát xít, những kẻ chép vào sổ tay điều vô lý khát máu và dị đoan về sự ưu việt của chủng tộc mình, những thứ trâng tráo, bẩn thỉu và tàn ác có khả năng làm cho kẻ mọi rợ bất kỳ nào cũng phải bối rối. Tôi phải cảnh báo những người lính chúng ta rằng chớ trông chờ một cách vô ích vào sự đoàn kết giai cấp của tầng lớp công nhân Đức, vào điều rằng những người lính Đức sẽ thức tỉnh lương tâm, đây không phải là lúc đi tìm “những người Đức tốt bụng” ở đội quân thù địch đang tấn công mà đem dâng những thành phố, những làng quê của mình cho cái chết. Và tôi đã viết: Hãy giết người Đức!”.

Ilya Erenburg là đại biểu Xô Viết tối cao Liên Xô các nhiệm kỳ 3 – 7. Từ năm 1950 là Phó chủ tịch Hội đồng hòa bình Thế giới. Hai lần ông được tặng Giải thưởng Stalin (1942, 1948). Năm 1952 được tặng Giải thưởng Lenin vì “sự nghiệp củng cố hòa bình giữa các dân tộc”. Ông mất ngày 31 tháng 8 năm 1967 ở Moskva.

Tác phẩm:
* 1918 — Молитва о России
* 1922 — Портреты русских поэтов. Берлин. «Аргонавты».
* 1922 — Необычайные похождения Хулио Хуренито
* 1923 — Жизнь и гибель Николая Курбова
* 1923 — Тринадцать трубок
* 1923 — Трест «Д. Е.»
* 1924 — Любовь Жанны Ней
* 1925 — Рвач
* 1926 — Лето 1925 года
* 1927 — В Проточном переулке
* 1928 — Белый уголь или Слёзы Вертера
* 1928 — Бурная жизнь Лазика Ройтшванеца
* 1929 — Заговор равных
* 1933 — День второй
* 1934 — Затянувшаяся развязка
* 1941 — Падение Парижа ; Сталинская премия первой степени (1942)
* 1947 — Буря ; Сталинская премия первой степени (1948)
* 1950 — Девятый вал
* 1954 — Оттепель
* 1961—1965 — Люди, годы, жизнь (книги 1—7)



HÃY GIẾT

Như máu trên thái dương của anh đang dồn dập
Như tháng năm trong máu, như tính sổ những hờn căm
Như say vì đau khổ mà không có rượu vang
Và giống như sự yên lặng mênh mang
Sau những viên đạn, sau những quả mìn
Và một trăm pút, vào một khoảnh khắc
Như cuộc đời này – anh đừng uống, đừng ăn
Và đừng thở - chỉ một điều: hãy giết!
Vì cái miệng của vợ anh mím chặt
Vì những tháng năm giặc đem thiêu đốt
Vì không còn giấc ngủ, không thành quách
Vì tiếng khóc con trẻ, tiếng kêu tử đinh hương
Vì một điều, thậm chí sự hình dung
Những con mắt của mình khóc sướt mướt
Vì nỗi đau của những con ong bị sỉ nhục
Vì một điều rằng nó tự tìm đến anh
Và vì chính anh – đừng uống và đừng ăn
Như máu trên thái dương – chỉ một điều: hãy giết!


KHÔNG AI NÓI VỚI TÔI

Không ai nói với tôi trong giờ học: “hãy lắng nghe”
Không ai nói với tôi trong bữa ăn: “hẵy ăn đi”
Và chẳng có ai gọi tên tôi là Ilya
Và không ai có thể dịu dàng âu yếm
Như mẹ hiền âu yếm đứa con thơ.


ĐAU KHỔ CỦA NGƯỜI KHÁC

Đau khổ của người khác - nó như con ruồi
Em xua đuổi nó, và em lại ngồi
Em muốn bước ra, bước ra rất muộn
Đau khổ là không khí ướt và rất nóng
Và dù em có thở thì vẫn cứ oi.
Đau khổ không nghe, đau khổ là cuồng loạn
Đau khổ đến và hằng đêm than vãn
Biết làm gì với nó – đau khổ của người ta.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:41:49


Aleksei Aleksandrovich Surkov (tiếng Nga: Алексе́й Алекса́ндрович Сурко́в, 13 tháng 10 năm 1899 – 14 tháng 6 năm 1983) – nhà thơ Nga Xô Viết, nhà hoạt động chính trị, trung tá quân đội, anh hùng lao động, người hai lần được Giải thưởng Stalin (tức Giải thưởng Nhà nước Liên Xô).

Tiểu sử:
Aleksei Surkov sinh ở làng Serednevo, tỉnh Yaroslavl trong một gia đình nông dân. Từ năm 12 tuổi đã lên thủ đô Saint Petersburg kiếm sống. Năm 1918 tự nguyện gia nhập Hồng quân, tham gia nhiều trận đánh ở các mặt trận khác nhau. Sau khi Nội chiến kết thúc Surkov trở về làng quê làm thư ký tòa soạn báo tỉnh. Năm 1925 được kết nạp vào Đảng cộng sản. Những năm 1924 – 1926 làm công tác Đoàn thanh niên ở tỉnh Rybinsk. Các năm 1926 – 1931 biên tập báo Người đoàn viên Phương Bắc (Северный комсомолец) ở tỉnh Yaroslavl.

Các năm 1931 – 1934 học trường Đại học Khoa học xã hội Mác-xít (Институте красной профессуры - Institute of Red Professors). Từ năm 1934 đến năm 1939 dạy học ở các trường Đại học Xuất bản và Viết văn, làm Phó tổng biên tập tạp chí Học văn (Литературная учеба) do Maxim Gorky lãnh đạo. Các năm 1940, 1941 ông là Tổng biên tập của tạp chí Thế giới mới (Новый мир) nổi tiếng. Thời kỳ Thế chiến II Aleksei Surkov làm phóng viên chiến trường của các tờ báo Sự thật Hồng quân (Красноармейская правда) Ngôi sao đỏ (Красная звезда). Tổng biên tập Báo văn học (Литературная газета) trong các năm 1944 – 1946, tạp chí Ngọn lửa nhỏ (Огонек) trong các năm 1945 – 1953. Từ năm 1962 là Tổng biên tập Từ đển Văn học (Краткая литературная энциклопедия). Nhiều năm là Hiệu trưởng Trường viết văn Gorky.

Aleksei Surkov là Ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô (1952- 1956), là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị (1956 – 1966), Đại biểu Quốc hội Nga và Liên Xô trong nhiều nhiệm kỳ, thành viên Hội đồng Hòa bình Thế giới, Phó tổng thư ký, Tổng thư ký Hội Nhà văn Liên Xô. Ông được phong Anh hùng lao động (1969) và được tặng nhiều huân, huy chương các loại của Nhà nước Liên Xô, Liên bang Nga và Bulgari. Aleksei Surkov mất ngày 14 tháng 6 năm 1983 ở Moskva.

Những bài thơ nổi tiếng nhất của Aleksei Surkov là Ngọn lửa trong lò sưởi (Бьется в тесной печурке огонь) và Bài ca bảo vệ Moskva (Марш защитников Москвы). Bài thơ Ngọn lửa trong lò sưởi được nhạc sĩ Konstantin Listov phổ nhạc năm 1942 và trở thành bài hát rất nổi tiếng ngoài mặt trận. Trong bài thơ có câu: Đến cái chết – bốn bước chân, gần lắm/ Còn đến với em – không chút dễ dàng làm cho nhiều người lính từ mặt trận viết thư cho tác giả yêu cầu: “Anh hãy viết cho những người này rằng đến cái chết là bốn nghìn dặm Anh, còn chúng tôi thì xin để yên – vì rằng chúng tôi biết rõ bao nhiêu bước đến cái chết” (Напишите вы для этих людей, что до смерти четыре тысячи английских миль, а нам оставьте так, как есть, — ведь мы-то знаем, сколько шагов до смерти).

Bài thơ này đã được dịch ra tiếng Việt.


NGỌN LỬA TRONG LÒ SƯỞI

Ngọn lửa trong lò sưởi nhỏ cháy bừng
Nhựa trên củi giống như là nước mắt
Đàn phong cầm trong căn hầm đang hát
Về nụ cười, về ánh mắt của em.

Những bụi cây từng thủ thỉ về em
Trên những cánh đồng Mátxcơva trắng tuyết
Anh rất muốn để cho em nghe được
Giọng nói của anh sống động đang buồn.

Em bây giờ đang ở rất xa xăm
Giữa hai ta tuyết trắng và tuyết trắng.
Đến cái chết – bốn bước chân, gần lắm
Còn đến với em – không chút dễ dàng.

Đàn hãy hát lên bão tuyết coi thường
Hãy gọi về niềm hạnh phúc thất lạc.
Trong hầm lạnh anh vô cùng ấm áp
Bởi tình yêu đang rạo rực trong lòng.


LINH CẢM MÙA XUÂN

Con đường ta là thế - đã rõ ràng
Sống trên đời để đi vào trận chiến
Nước róc rách, dưới bàn chân đang ngấm
Tổ chim én treo lơ lửng trên tường.

Những ngọn cây thông giữa trưa ánh vàng
Của mặt trời vang – vùng còn nguyên vẹn
Mà bởi do rừng cho nên pháo lớn
Cứ gầm vang, gầm vang mãi không ngừng.

Ai giữa trưa cấm được chúng gầm vang?
Chúng biết gì nỗi đau từ mầm mống?
Chúng đâu có nghe mùa xuân đang đến
Trong mỗi cành hoa ngọn cỏ tưng bừng.

Dù phận ta không hợp với bình yên
Ta không vì áp bức mà hóa dại.
Vì niềm vui, vì nở hoa kết trái
Ta làm cho sắt thép phải kêu lên.

Dù thời của ta ác liệt, dữ dằn
Hãy chịu đựng! Đừng lấy tay nhổ đất.
Vì lớp trẻ - từ tiếng kêu sắt thép
Ta luyện bài ca trong sáng của tình.





Mikhail Arkadyevich Svetlov (tiếng Nga: Михаи́л Арка́дьевич Светло́в, họ thật là Sheinman – Ше́йнкман) (17 tháng 6 năm 1903 – 28 tháng 9 năm 1964) – là nhà viết kịch, nhà thơ Nga Xô Viết.

Tiểu sử:
Mikhail Svetlov sinh ở Ekaterinoslav (nay là Dnepropetrovsk, Ukraina). Gia đình làm nghề thủ công và rất nghèo. Bắt đầu in thơ từ năm 1917. Năm 1919 được cử làm trưởng phòng báo chí của tỉnh đoàn thanh niên tỉnh Ekaterinoslav. Năm 1920 tình nguyện gia nhập Hồng quân và chiến đấu trong thời kỳ Nội chiến. Một thời gian ông về sống ở Kharkov và từ 1922 chuyển lên sống ở Moskva. Năm 1926 ông viết bài thơ Гренада (Grenada) được 20 nhạc sĩ ở nhiều nước khác nhau phổ nhạc.

Năm 1928 ông bị khai trừ khỏi đoàn Côm-sô-môn vì ủng hộ tư tưởng xét lại của Trốt-xky. Thời kỳ thế chiến II ông làm phóng viên chiến trường của báo Красная звезда (Ngôi sao đỏ). Bài thơ nổi tiếng nhất của ông thời chiến tranh là bài Итальянец (Người Italia). Sau chiến tranh một thời gian sáng tác của ông bị coi là có vấn đề. Trong Đại hội II của Hội Nhà văn ông được các nhà thơ Semen Isaakovich Kirsanov, Olga Berggolts ủng hộ. Tập thơ Стихи последних лет, 1967 được tặng Giải thưởng Lê-nin.

Mikhail Svetlov mất ngày 28 tháng 9 năm 1964 tại Moskva.

Tác phẩm:
* Рельсы (1923)
* Стихи (1924)
* Корни (1925)
* Гренада (1927)
* Ночные встречи (1927)
* Горизонт (1959)
* Охотничий домик (1964)
* Стихи последних лет (1967)


Thư mục:
* Шкловский В. О сказке. — Детская литература, 1940, № 6
* Макаров А. Перед новым приливом. — В кн.: Макаров А. Разговор по поводу. М., 1959
* Любарева Е. Михаил Светлов. М., 1960
* Светлов М. Стихотворения и поэмы. М. — Л., 1966
* Светов Ф. Михаил Светлов. М., 1967
* Паперный З. Человек, похожий на самого себя. М., 1967
* Игин И. Улыбка Светлова. Л., 1968
* Светлов М. Беседа. М., 1969
* Светлов М. Собрание сочинений, т. 1-3. М., 1974-1975
* Асеев Н. Михаил Светлов. — В кн.: Асеев Н. Родословная поэзии. М., 1990
* Светлов М. Избранное. М., 1990


Một số bài thơ:


NGƯỜI ITALIA

Cây thập ác màu đen nằm trên ngực
Không vết khắc, không bóng, chẳng hoa văn
Gia đình anh, dòng họ anh nghèo hèn
Và anh là đứa con trai duy nhất…

Hỡi người Napoli còn rất trẻ trung
Sao chết trên cánh đồng Nga trắng tuyết?
Sao không thể làm một người hạnh phúc
Ở vùng vịnh xanh nổi tiếng của mình?

Ở ngoại ô Mozdok, ta giết anh
Miền núi lửa xa xăm từng mơ ước!
Ta đây ở vùng Volga bát ngát
Từng mơ một lần dạo với du thuyền!

Nhưng bởi vì ta không mang súng lục
Đến cướp bóc mùa hè Italia
Vì trên đất Thánh Raffaelo
Đạn của ta không bao giờ gầm rít.

Ta bắn ở đây! Nơi ta sinh ra
Ta tự hào với bạn bè thân thiết
Nơi bài Bylina về nhân dân ta
Không bao giờ vang lên qua bản dịch

Chẳng lẽ ở nơi sông Đông uốn khúc
Người nước ngoài đã học, đã hiểu ra?
Đất của ta – Nước Nga, Nga-la-tư
Chẳng lẽ anh từng gieo trồng, cày cuốc?

Không! Người ta chở anh đến bằng xe lửa
Để chiếm làm những thuộc địa xa xăm
Để cây thập ác trong rương gia đình
Lớn bằng thập ác ở trên mộ chí.

Ta không cho phép biến quê hương ta
Thành khoảng bao la của bờ bến lạ!
Ta nổ súng – không có điều chính nghĩa
Nào chính nghĩa hơn viên đạn của ta.

Ở nơi này anh chưa sống, chưa từng
Nhưng bỏ mạng trên cánh đồng tuyết trắng
Để bầu trời Italia xanh thắm
Lắp kính trong đôi con mắt vô sinh…




BÀI CA

Để em không khổ sở vì bụi bặm
Để gió không trùm dấu vết của em
Anh đã bế em trên tay cẩn thận
Rồi đặt người yêu vào giữa mây xanh.

Rồi khi anh đuổi theo gió, lao nhanh
Khi anh đang vội vàng thôi thúc ngựa
Thì em trên cao hãy dồn mây xanh
Và hãy nhìn sang phía anh, em nhé!..

Anh không là chồng hay bạn của em
Anh chỉ có việc làm theo dấu vết
Hôm nay trao em cả bầu trời xanh
Còn ngày mai anh sẽ trao quả đất!


CÁI CHẾT

Cây hạnh nhân nở hoa hằng năm
Và hạnh nhân tàn lụi…
Hàng tỷ người trên hành tinh
Đã kịp trở về cát bụi…

Chúng ta tiếc thương gì người đã chết!
Với tôi – không chút mảy may!
Xin hãy thương cho tôi đây!
Vì tôi hãy còn phải chết!


NGỤ NGÔN

Huyền thoại xưa kể rằng như vậy
Rằng đã có từ hàng tỷ năm:
Sấm là chàng trai của một ngôi làng
Còn chớp là cô gái.

Ai biết được khi nào và tại sao
Chớp lóe sáng còn sấm đì đùng nổ?
Nhờ khoa học đã cho ta biết rõ
Về cái điều mà ta vẫn phân vân.

Sấm và chớp đã hẹn ngày gặp nhau
(Ngày gặp này – vẫn là điều bí ẩn).
Trước mặt họ là thế giới tình yêu
Chỉ có điều cứ mỗi ngày một lớn.

Khoảng trời xanh mênh mông tỏa sáng
Những chú voi đang gặm cỏ bên thềm
Dân chài lưới chuẩn bị cho bữa sáng
Đang làm lòng những con ngư long.

Và dòng nước cũng vô cùng to lớn
Tất cả đều to, nhưng có một điều:
Những con họa mi bên sông im tiếng
(Chưa bao giờ có chuyện thế kia).

Trên đầu họ cả trăm năm chuyển động
Lúc bấy giờ quá sớm để thành hôn…
Rồi theo dòng thời gian vụt đến
Và giờ khắc mong muốn được thành hôn.

Người quen biết và không quen uống rượu
Những người khách lử lả với hơi men
Và ngay cả những ai còn tỉnh táo
Vẫn hô to những tiếng: Hôn! Hôn!

Chàng Sấm ngồi với vẻ mặt trầm ngâm
Nghĩ rằng có lẽ nên cần nói nhỏ?
Còn nàng chớp với vẻ ngượng ngùng
Có thể, vẻ khiêm nhường chưa đủ?

- Nào uống mừng tân hôn! Xin chúc mừng!
Cơn giông đầu tiên ra đời như vậy.
Tia chớp lóe sáng, sấm nổ đì đùng
Hàng tỷ năm họ hai người thế đấy…

Hãy để tình yêu ở trong vũ trụ
Sẽ nhắc về chung thủy ở trần gian
Hỡi người vợ thân yêu và người mẹ
Lóe sáng lên, anh sẽ nổ đì đùng!


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:44:58


Boris Petrovich Kornilov (tiếng Nga: Бори́с Петро́вич Корни́лов, 29 tháng 7 năm 1907 – 21 tháng 2 năm 1938) – nhà thơ Nga Xô Viết, tác giả của bài thơ nổi tiếng Bài ca gặp gỡ (Песня о встречном - The Song of the Meeting).

Tiểu sử:

Boris Kornilov sinh ở làng Pokrovskoye, huyện Semyonov, tỉnh Nizhny Novgorod. Bố mẹ là những giáo viên trường làng. Năm 1922 lên thị trấn Semyonov làm thơ và tham gia tích cực vào công tác Đội và Đoàn Côm-sô-môn. Những bài thơ đầu tiên in ở báo tường và sau đó là báo huyện rồi báo tỉnh. Năm 1925 Boris Kornilov viết đơn lên huyện đoàn đề nghị xin đi học “ở một trường báo chí hoặc trường viết văn nào đấy”. Kết quả là cuối năm 1925 được cử đi học ở Leningrad. Boris Kornilov hy vọng sẽ được gặp và đọc thơ mình cho Sergei Yesenin nghe nhưng điều này đã không thành hiện thực – khi Kornilov đến Leningrad thì Esenin đã không còn.

Kornilov tham gia nhóm Смена và được thừa nhận là một trong những nhà thơ trẻ tài năng nhất của nước Nga. Năm 1926 làm đám cưới với Olga Fyodorovna Berggolts (cũng là một thành viên của nhóm này). Cuộc hôn nhân này không được lâu nhưng nó là nguồn cảm hứng của một số bài thơ nổi tiếng của Olga Berggolts, từng được dịch ra tiếng Việt và được bạn đọc Việt Nam yêu thích. Có thể là do bạn đọc Việt Nam thương cảm cho số phận nghiệt ngã của những nhà thơ tài hoa mà bạc mệnh của nước Nga. Olga Berggolts có hai đời chồng nhưng có thể nói những bài thơ viết về Boris Kornilov, hoặc qua người khác nhưng nhắc tới Boris Kornilov là những tình cảm chân thành và xúc động nhất.

Năm 1928 Kornilov in tập thơ đầu tiên Молодость. Năm 1933 in 2 tập: Книга стиховСтихи и поэмы. Thập niên 1930 Kornilov in nhiều trường ca và đặc biệt là Bài ca gặp gỡ - là tác phẩm nổi tiếng nhất của Kornilov được nhạc sĩ Dmitry Shostakovich phổ nhạc, trở thành biểu tượng của một thời đại.

Giữa thập niên 1930 Kornilov sa vào một cơn khủng hoảng tinh thần và đâm ra nghiện rượu nặng. Năm 1936 bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn. Năm 1937, trong cuộc Đại thanh trừng, Kornilov bị bắt tại Leningrad và bị xử bắn ngày 21 tháng 2 năm 1938. Hiện không rõ phần mộ ở đâu. Sau khi chết được phục hồi danh dự và thành viên Hội Nhà văn. Tại thành phố Semyonov có tượng đài và bảo tàng Boris Kornilov, còn ở Nizhny Novgorod có đường phố mang tên ông.

Tác phẩm:
* Молодость, 1928
* Первая книга, 1931
* Стихи и поэмы, 1933
* Новое, 1935
* Триполье // «Звезда», 1935, № 1
* Моя Африка // «Новый мир», 1935, № 3
* Стихотворения и поэмы, 1957, 2-е изд. — 1960
* Стихотворения и поэмы, 1966
* Продолжение жизни, 1972
* Избранное, 1977
* Поэмы, 1984.

Thư mục:
* Цурикова Г., Борис Корнилов, М.— Л., 1963;
* Берггольц О., Борис Корнилов. 1907—1938. Продолжение жизни, в кн.: Русские поэты. Антология, т. 4, М., 1968.
* Казак В. Лексикон русской литературы XX века = Lexikon der russischen Literatur ab 1917. — М.: РИК «Культура», 1996. — 492 с. — 5000 экз. — ISBN 5-8334-0019-8


BÀI CA GẶP GỠ

Buổi sáng đón ta bằng luồng hơi mát rượi
Sông đó ta bằng ngọn gió của sông.
Cô gái tóc xoăn, sao em chẳng vui mừng
Với khúc ca vui của còi tầm đang thổi?
Em đừng ngủ nữa, thức dậy đi em gái!
Trong xưởng máy ngân vang
Đất nước thức dậy với niềm vinh quang
Đón chào ngày mới.

Và niềm vui không dứt đang hát lên
Và bài ca đang bước ra gặp gỡ
Và nhân dân đang cười vui hớn hở
Và mặt trời chào đón đang bước lên.
Hùng dũng và nóng bừng
Cho anh phấn khích thêm.
Đất nước thức dậy với niềm vinh quang
Đón chào ngày mới.

Tổ lao động đón ta bằng việc làm
Hãy mỉm cười với bạn bè em nhé
Cùng lao động, cùng chung mối quan tâm
Và gặp gỡ, và cuộc đời – phân nửa.
Và ở sau miền ngoại ô thành phố
Trong ánh lửa và trong tiếng sấm rền
Đất nước thức dậy với niềm vinh quang
Đón chào ngày mới.

Cùng đất nước đi đến miền thắng lợi
Em, tuổi trẻ của ta, rồi sẽ đi qua
Một khi tuổi trẻ còn chưa đi qua
Thì tuổi trẻ với em đón đợi.
Thành đám đông vào cuộc đời sẽ chạy
Thay thế cha anh mình.
Đất nước thức dậy với niềm vinh quang
Đón chào ngày mới.

Và niềm vui không thể nào giấu nổi
Khi mà tiếng trống đang vang lên
Những bạn trẻ Tháng Mười sau ta bước lên
Hát những bài ca hãy còn ngọng ngịu.
Đả đớt và gan dạ
Họ bước đi, ngân vang
Đất nước thức dậy với niềm vinh quang
Đón chào ngày mới.

Bằng lời tuyệt vời như vậy
Em hãy nói lên sự thật của mình.
Ta bước ra với cuộc đời gặp gỡ
Với lao động, với tình!
Yêu là lỗi lầm chăng, em gái
Một khi đang vang lên
Đất nước thức dậy với niềm vinh quang
Đón chào ngày mới.


Olga Berggolts viết về Boris Kornilov:

GỬI BORIS KORNILOV

…Và tất cả đổi thay, em bây giờ đã khác
Em hát khác rồi, khóc cũng khác ngày xưa…

B. Kornilov.

1

Ồ vâng, em khác hẳn ngày xưa!
Sao cuộc đời kết thúc nhanh quá vậy…
Em đã già mà anh đâu nhận thấy
Mà, có thể là anh vẫn nhận ra?

Em sẽ chẳng cầu xin sự tha thứ đâu mà
Hay thề thốt, cũng là vô ích vậy
Nhưng nếu em tin rằng anh còn quay trở lại
Nhưng nếu như anh còn có thể nhận ra.

Thì sẽ quên hết giận hờn, ta lại cùng ta
Ta lại cùng ta, như ngày xưa, sánh bước
Hai chúng mình sẽ khóc và chỉ khóc
Về điều gì ư – chỉ ta biết thôi mà.


2

Em bây giờ lục tìm trong ký ức
Em nhớ về những câu hát đầu tiên:
“Ngôi sao trên sông Nêva cháy lên
Và hoạ mi miền ngoại ô đang hót…”

Nhưng cay đắng và ngọt ngào hơn, năm tháng đã qua
Trái đất này mênh mông bát ngát, bao la
Anh có lý – bây giờ em mới biết
Anh – người đầu tiên của em và anh đã mất
“Em hát khác rồi, khóc cũng khác ngày xưa…”

Lớp trẻ lớn lên, lại vẫn giống như ta
Lại vẫn sông Nêva, ánh chiều tà, sóng nước
Vẫn hồi hộp, say mê trong từng câu hát
Và tuổi thanh xuân vẫn có lý như xưa.





BUỔI TỐI EM ĐÃ ĐỂ MẤT MỘT LỜI

Gửi B. K

Buổi tối em đã để mất một lời
Dành riêng cho anh mà em đã nghĩ.
Và em lại đã bắt đầu lần nữa
Bài ca này – hết giận rồi thương…
Rồi thiếp đi trong nước mắt, không tin
Điều em thấy trong mơ khi gần sáng
Sao anh tìm ra mất mát của em
Khi bắt đầu viết bài hát về em.


XIN ĐỪNG NHÌN NGOÁI LẠI

Ôi, xin đừng nhìn ngoái lại
vào tảng băng này
vào bóng tối này
có ánh mắt ai
đang nhìn ở đấy
không thể nào không đáp lại ánh mắt đâu.

Ngày hôm nay tôi ngoái nhìn … và bỗng thấy:
người bạn của tôi đang nhìn từ tảng băng
ánh mắt của người bạn tôi sống động vô cùng
người duy nhất của tôi – muôn đời, mãi mãi.

Chuyện là thế mà tôi đã không biết rằng
Tôi đã nghĩ rằng tôi thở bằng người khác
Nhưng, tử hình của tôi, niềm vui của tôi, mơ ước
tôi chỉ sống được bằng ánh mắt của anh!

Tôi vẫn hãy còn chung thủy chỉ với anh
và chỉ với điều này tôi vẫn đúng:
tôi là vợ anh – với những người còn sống
là góa phụ của anh – với tôi và anh.


NGẢI CỨU

Tôi mím miệng một cách bướng bỉnh
Giữ lại tất cả mọi lời
Ngải cứu, ngải cứu, hoa cỏ của tôi
Hoa cỏ của tôi đã lớn.

Ta đã không thể tha thứ cho nhau bằng hết
Mà mọi điều ta lại đã giấu nhau
Anh lấy của tôi chiếc khăn màu
Giật tung đường viền cạp…

Anh làm gì với chiếc khăn đã rách
Anh làm gì với những đường viền?...
Còn tôi cần gì con tim đã mòn
Vì những bước đi trên đất?...

Tôi đâu có cần những lời dễ thương
Từ những người không yêu, người xa lạ?...
Hoa cỏ của tôi, ngải cứu, ngải cứu
Nằm trên tất cả mọi con đường…

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:50:03


Yevgeniy Aronovich Dolmatovsky (tiếng Nga: Евге́ний Аро́нович Долматовский, 22 tháng 4 năm 1915 – 10 tháng 9 năm 1994) – nhà thơ, nhà văn Nga Xô Viết.

Tiểu sử:
Yevgeny Dolmatovsky sinh ra trong gia đình một luật sư, phó giáo sư Đại học Luật Moskva. Trong thời gian học ở trường trung cấp sư phạm đã in thơ ở nhiều tờ báo thiếu nhi. Từ năm 1929 làm phóng viên của các tạp chí thiếu nhi: Дружные ребята, Пионер, Пионерская правда. Trong các năm 1932 – 1934 Yevgeny Dolmatovsky làm việc ở công trường xây dựng metro của thành phố Moskva. Các năm 1932 - 1937 học Trường Viết văn M. Gorky. Quyển thơ đầu tiên in năm 1934.

Tháng 3 năm 1938 bố của Yevgeny Dolmatovsky bị bắt giam vì tội tham gia vào tổ chức phản cách mạng và bị xử bắn tháng 2 năm 1939. Đến tháng 12 năm 1954 ông được phục hồi danh dự.

Từ năm 1939 đến năm 1945 Dolmatovsky làm phóng viên chiến trường ở nhiều mặt trận khác nhau. Năm 1941 ông bị bắt làm tù binh nhưng trốn thoát và lại tiếp tục ra mặt trận. Ông nổi tiếng không chỉ vì văn, thơ mà còn bởi những bài hát phổ thơ ông được dùng trong rất nhiều bộ phim nổi tiếng. Vì những đóng góp của mình, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước và rất nhiều các loại huân, huy chương của Nhà nước Nga và Xô Viết.

Yevgeny Dolmatovsky mất ở Moskva ngày 10 tháng 9 năm 1994.

Tác phẩm:
Thơ:
* Лирика (1934, сборник стихов);
* День (1935, сборник стихов);
* Феликс Дзержинский (1938, поэма);
* Дальневосточные стихи (1939, цикл стихотворений);
* Московские рассветы (1941, цикл стихотворений);
* Степная тетрадь (1943, цикл стихотворений);
* Вера в победу (1944, цикл стихотворений);
* Письма издалека (1945, цикл стихотворений);
* Одна судьба (1942—1946, поэтическая трилогия);
* Слово о завтрашнем дне (1949, цикл стихотворений);
* Песнь о лесах (1949, текст оратории);
* Сталинградские стихи (1952, цикл стихотворений);
* Добровольцы (1956, роман в стихах);
* Последний поцелуй (1967, поэма);
* Верность (1970, цикл баллад);
* Руки Гевары (1972, поэма);
* Чили в сердце (1973, поэма);
* Побег (1974, поэма);
* Хождение в Рязань (1975, поэма);
* Письма сына (1977, поэма);
* У деревни «Богатырь» (1981, поэма).

Văn xuôi:
* Зеленая брама. Документальная легенда об одном из первых сражений Великой Отечественной войны (1979—1989).

Phê bình văn học:
* Из жизни поэзии (1965);
* Молодым поэтам (1981).

Bài hát trong phim:
* 1939 — Истребители — «Любимый город»
* 1941 — Морской ястреб - «Уходит от берега «Ястреб морской»»
* 1949 — Встреча на Эльбе
* 1954 — Мы с вами где-то встречались… — «Песня Ларисы»[2]
* 1957 — Екатерина Воронина — «Здесь у нас на Волге»
* 1958 — На дорогах войны — «Песня о Севастополе»[3]
* 1958 — Добровольцы — «Комсомольцы-добровольцы» «А годы летят…»
* 1963 — Мечте навстречу
* 1964 — Армия трясогузки
* 1971 — Молодые


NỖI ĐAU VIỆT NAM

Những quả bom rơi gần –
ngay chính giữa con tim.
Chúng ta không quên, không được quên, đồng chí.
Tuổi già bị ném bom
tuổi thơ tan tành –
Một vết thương của cuộc đời ta nhức nhối –
Việt Nam.
Tôi không muốn quên
và không dám quên.
Tôi thấy những túp lều tranh
và thấy những hào cong.
Thú dữ trong rừng rậm
và trong rừng có rắn
Nhưng những vị khách không mời còn độc ác hơn.
Những thanh niên to lớn –
như những cầu thủ trong đội bóng chày.
Nhưng họ chỉ với cái chết đang chơi
mà không phải bóng.
Nhìn rừng cháy mà không hề đau đớn
Tên đao phủ
chỉnh tề
đã học xong đại học.
Đây dấu vết của những tên can thiệp –
nước mưa không sao xóa hết.
Thế giới gióng lên hồi chuông báo động Việt Nam.
Những Sullivan, Smith đang hóa thành
Những người lính vô danh
những người lính vô danh.
Trên sông Elba tôi đã từng phải
gặp với cha anh của họ
Họ chiến đấu chống phát xít
ai cũng rõ.
Con cháu họ đã chứng tỏ mình ở Việt Nam.
Tự các ngươi lỗi lầm
rằng lời “ami” tốt đẹp
Giống như điều sỉ nhục
như một lời nguyền rủa vang lên.
Tôi không vui trước cái chết của những người rừng
Nỗi đau của những người mẹ không thể nào nguôi được.
Nhưng
Người trồng lúa và xạ thủ - ngắm càng chính xác.
Chúng đã dội bom? Rồi bay đi mất?
Không, không thể nào thoát được!
Máu nhuộm đỏ ròng
những ngọn sóng Mê-kông
Nhưng Việt Nam chiến đấu đến thắng lợi sẵn sàng.
Thưa ngài Johnson!
Chẳng lẽ những chiếc thuyền mành
Đe dọa chiến hạm của ngài chăng?
Đối mặt
với mãnh thú nhe răng
Là những gương mặt bất khuất kiên cường
Và những thân hình nhỏ thấp
Và tiếng nói vang như tiếng hót của chim
Chúng tôi biết rằng:
ai chiến đấu vì chính nghĩa
đi vào trận
có thừa sự anh hùng
Rót thép vào những thân hình nhỏ thấp
Làm cho những kẻ ưa mạo hiểm phải kinh hoàng.

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:51:59


Rimma Fyodorovna Kazakova (tiếng Nga: Ри́мма Фёдоровна Казако́ва, 27 tháng 1 năm 1932 – 19 tháng 5 năm 2008) – nữ nhà thơ Nga Xô Viết, tác giả của rất nhiều bài hát nổi tiếng thời Liên Xô.

Tiểu sử:
Rimma Kazakova sinh ở thành phố quân cảng Sebastopol. Bố là một sĩ quan quân đội, mẹ làm nghề thư ký đánh máy. Lúc đầu bố mẹ đặt tên là Remo (Рэмо), đấy là viết tắt của các từ: Cách mạng, Điện khí hóa, Tháng Mười thế giới (Революция, Электрификация, Мировой Октябрь). Năm lên 20 tuổi mới đổi thành Rimma.

Sau khi tốt nghiệp phổ thông Rimma thi vào khoa sử Đại học Tổng hợp Leningrad và tốt nghiệp năm 1954. Bảy năm làm nghề giáo viên, biên tập báo và làm ở xưởng phim vùng Viễn đông. Năm 1958 xuất bản tập thơ đầu tiên: Ta gặp nhau ở Phương Đông (Встретимся на Востоке) ở thành phố Khabarovsk. Năm 1959 được kết nạp vào Hội Nhà văn Liên Xô. Năm 1964 kết thúc khóa cao học do Hội Nhà văn tổ chức. Các năm 1976 – 1981 là thư ký của Hội Nhà văn Liên Xô. Sau đó được bầu làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Moskva cho đến cuối đời.

Rimma Kazakova là tác giả của một số tập thơ và lời của nhiều bài hát nổi tiếng. Ngoài sáng tác thơ bà còn dịch thơ của các nước thuộc Liên Xô (cũ) ra tiếng Nga. Bà mất ngày 19 tháng 5 năm 2008 và được mai táng tại nghĩa trang Vagankovskoye nổi tiếng ở Moskva.

Tác phẩm:
* Nơi anh đang ở - There, where you are «Там, где ты»
* Thơ - Verses / «Стихи»
* Thứ sáu - Fridays / «Пятницы»
* Không khóc trong rừng Taiga - In Taiga Nobody Cries / «В тайге не плачут»
* Thông xanh - Fir-trees Green / «Елки зеленые»
* Bà già tuyết - Snow Babe / «Снежная баба»
* Nhớ - I Remember / «Помню»
* Trắng xóa - On White / «Набело»
* Xứ sở tình yêu - Country named Love / «Страна Любовь»
* Đá thử - Touchstone / «Пробный камень»
* Từ trên đồi - Out of Mind / «Сойди с холма»
* Chuyện của niềm hy vọng - Plot of Hope / «Сюжет надежды».


ANH HÃY YÊU EM

Anh hãy yêu em!
Nhút nhát, thẹn thùng
Yêu em trong sợ hãi
Có vẻ như mình làm đám cưới
Bởi con người và bởi thánh thần…

Anh hãy yêu em tự tin
Tổ chức cướp bóc
Rồi đưa đi mất
Thế là anh bắt được em!

Anh hãy yêu em kiên gan
Ác ôn và lỗ mãng.
Quay vòng em một cách lãnh đạm
Giống như mái giầm.

Hãy yêu em như cha đối với con
Dạy dỗ và rèn giũa
Như trong truyện ký
Hãy biết cách yêu em…

Hãy yêu em một cách sai lầm
Không cần giáo dục
Không cần lô-gích
Không mục đích rõ ràng…

Anh hãy yêu em mơ màng
Muôn năm và trái ngược
Em sẽ là tiếng vang, là đồ vật
Là người rửa bát, hầu bàn.

Là gối dưới tay anh
Là ghế dài trong bóng…
Khi nào muốn động đến
Hãy giơ tay nhé anh!

Em sẽ là nữ hoàng
Cúi lưng làm nô lệ!
Con tàu trên biển cả
Khi người ta đã cắt thang…

Sẽ là quả táo địa đàng
Với nhánh cành khắc khổ…
Và em sẽ là cô bé
Là người phụ nữ của anh.

Thì anh hãy cười lên
Và đề phòng cương quyết
Hãy giận dữ,
hãy tự hào,
hãy dại dột…

Và chỉ yêu em.
Chỉ yêu em nhé anh!





MÙA THU

Trong thiên nhiên tất cả đều nghiêm chỉnh
Trong thiên nhiên mọi thứ thật đắm say.
Dù chạm đến hay dù không chạm đến
Thì vẫn rất đáng sợ cái điều này.

Thật đáng sợ làm quả không ai hái
Bị bỏ quên trên hoa cỏ trong vườn
Làm thứ quả không ai người chạm tới
Bị bỏ quên trên lối nhỏ vườn hoang.

Thật đáng sợ khi làm một quả lê
Một quả lê ngọt ngào trong tháng tám
Làm một quả lê – một thứ đồ chơi
Bị vứt bỏ sau khi người đã cắn…

Nghiêm khắc và say đắm của ta ơi
Với các người – ta trong vòng tù hãm.
Ta sẽ không bao giờ chìa bàn tay
Cho một ai để được mong chạm đến.

Nhưng bởi vì ta là thanh lương trà
Là thứ đồ ngọt mê say rực lửa!
Từng chút nhỏ của hồng ngọc ru bi
Hễ người chạm đến là ta sẽ đổ.

Nhưng bởi vì ta đây như hội chợ
Có bao nhiêu trưng bày hết ra ngoài.
Ta như quả táo trên cây chín đỏ
Hễ ai chạm vào – ta đổ xuống ngay!

Giờ đồng cỏ đang ngào ngạt mùi hương
Và khu rừng trầm trồ trong lặng lẽ.
Chao ôi phụ nữ khốn khổ vô cùng
Khi thiếu vắng những bàn tay tin cậy!

Ta bẻ cây, làm gãy những nhánh cành
Rồi xếp lại và đốt lên ngọn lửa…
Ta bây giờ sẽ đi hành hạ mình
Và ta hành hạ cả anh nữa đó.
- Hãy chạm đến! Có?..
...Hoặc không!..


TÔI SẼ ĐẾN

Tôi sẽ đến nơi mà tôi sẽ đến
Nếu lỗi lầm, sẽ là lỗi lầm thôi
Đừng hỏi gì sự cho phép của ai
Về cái điều tôi muốn, tôi yêu mến.

Tôi tự đến, rồi ra đi cũng thế
Tôi chịu mọi điều trách nhiệm về tôi
Về cái khôn, cái dại của con người
Về những quả táo ở trong vườn lạ.

Tâm hồn tôi đớn đau, thì cứ mặc
Dù nỗi đau không một chút nào vơi
Lạy Chúa tôi! Chuyện đã xảy ra rồi
Thôi đành để quả táo này chua chát.

Tôi mong muốn cái điều tôi khao khát
Không có gì cấm đoán được với tôi
Điều gì đã hát – thì đã hát rồi
Mặc con tim – cho dù không đủ sức.

Tôi vẫn yêu người mà tôi yêu nhất
Bằng sự dịu dàng ngoan ngoãn lạ lùng
Và bài thơ này sẽ vẫn hát lên
Để kéo dài cái không thành hiện thực…

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:54:04


Margarita Iosifovna Aliger (tiếng Nga: Маргари́та Ио́сифовна Алиге́р - họ thật là Zeiliger, 24 tháng 9 năm 1915 – 1 tháng 8 năm 1992) – là nữ nhà thơ Nga đoạt Giải thưởng Stalin năm 1943.

Tiểu sử:
Margarita Aliger sinh ở thành phố cảng Odessa trong một gia đình công chức. Sau khi học xong trường trung cấp làm việc ở một nhà máy theo chuyên môn. Những năm 1934 – 1937 học trường viết văn M. Gorky. Bắt đầu in thơ từ năm 1933.

Năm 1942 viết trường ca Zoya (Зоя) về nữ du kích Zoya Anatolyevna Kosmodemyanskaya, người phụ nữ đầu tiên được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đây là tác phẩm xuất sắc nhất của bà được tặng Giải thưởng Stalin năm 1943. Số tiền 50.000 rúp của giải thưởng được Aliger gửi tặng các chiến sĩ Hồng quân đang chiến đấu ngoài mặt trận.

Ngoài sáng tác, Margarita Aliger còn dịch thơ Pablo Neruda, Edna St. Vincent Millay và nhiều nhà thơ lớn của các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ ra tiếng Nga. Ví những thành tựu trong dịch thuật bà được tặng giải thưởng Pablo Neruda năm 1989.

Margarita Aliger có hai đời chồng và hai người con nhưng bất hạnh. Người con gái đầu của bà là một dịch giả tài năng nhưng chết sớm. Người chồng thứ hai của bà tự tử. Người con gái với người chồng thứ hai cũng tự tử năm 1991. Margarita Aliger cũng kết kiễu cuộc đời mình một cách không bình thường ở ngoại ô Moskva năm 1992.

Tác phẩm:
* Год рождения, 1938
* Зоя, 1942
* Сказки о правде, 1945
* Ленинские горы, 1953
* Из записной книжки, 1957
* Несколько шагов, 1962
* Стихотворения и поэмы. В 2-х тт., 1970
* Зоя. Поэмы и стихи, 1971
* Стихи и проза. В 2-х тт., 1975
* Тропинки во ржи. Статьи, 1980
* Четверть века, 1981
* Собр. соч. В 3-х тт., 1984



GỬI NGƯỜI ĐANG Ở TRÊN ĐƯỜNG

Em muốn làm người yêu dấu của anh
Muốn trở thành sức mạnh của anh
Là cơn gió mát
Là cơm ăn áo mặc
Bầu trời xanh lướt trên đầu anh.

Nếu như anh bị lạc
Thì em làm lối nhỏ dưới chân anh
Anh bước đi không cần để mắt nhìn

Nếu như anh bị khát
Thì em làm dòng suối mát
Anh hãy cúi mình uống đã khát thì thôi.

Còn nếu như anh muốn nghỉ ngơi
Trong đêm khuya vắng
Thì không quan trọng
Ở trên đồi hay ở trong rừng
Em sẽ là làn khói trên mái nhà tranh
Là ánh lửa đêm bừng sáng
Để cho anh sẽ nhận ra em.

Em muốn được trở thành
Những gì anh yêu ở nơi trần thế.
Buổi bình minh anh hãy đến bên cửa sổ
Trong mọi điều anh hãy đoán ra em.

Đấy là em quyết dấu
Với những cọng cỏ khô em quyết sống còn
Làm một cây mao lương bên bờ giậu
Để cho anh cảm thấy thương em.

Đấy là em hóa thành một con chim
Một con chim vành khuyên lấp lánh
Và em sẽ hót vang trong buổi sớm
Để cho anh nghe ra tiếng của em.

Đấy là em trong tiếng hót lạ
Của chim.
Xòe ra bao chiếc lá
Trên những cánh hoa – giọt sương
Đấy là em.

Đấy là em.
Những đám mây trong vườn
Liệu anh có thích?
Nghĩa là ở rất gần
Tình yêu của em đang ở bên anh!

Trong đám đông em nhận ra anh
Những con đường chúng mình không riêng biệt
Anh có hiểu không, con người của em?
Dù ở đâu anh vẫn gặp em
Dù sao thì anh vẫn biết
Và sẽ yêu em đến mãi ngàn năm.





Novella Nikolayevna Matveeva (tiếng Nga: Нове́лла Никола́евна Матве́ева - sinh ngày 7 tháng 10 năm 1934) – là nữ nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch Nga, ca sĩ hát những bài hát do chính bà sáng tác.

Tiểu sử:
Novella Matveeva sinh ở thành phố Puskin, ngoại ô Leningrad. Bố là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử vùng Viễn Đông và mẹ cũng là một nữ nhà thơ. Những năm 1950 – 1957 làm ở một nhà trẻ của thủ đô Moskva. Các năm 1960 – 1962 học cao học ở trường viết văn Gorky. Biết làm thơ từ nhỏ và in những bài thơ đầu tiên vào năm 1958. Xuẩt bản tập thơ đầu tiên Лирика năm 1961 và trong năm này được kết nạp vào Hội Nhà văn Liên Xô.

Novella Matveeva hầu như trở nên nổi tiếng ngay lập tức sau khi xuất hiện trên thi đàn. Bà là một trong những người đầu tiên trong số các nhà thơ – ca sĩ phổ nhạc thơ mình và biểu diễn với cây đàn ghi-ta. Thập niên 1960 những bài hát của Novella Matveeva được sinh viên cả nước hát. Năm 1998 bà được tặng Giải thưởng Puskin trong lĩnh vực thơ. Năm 2002 bà được tặng Giải thưởng Nhà nước của Liên bang Nga.

Novella Matveeva hiện sống và làm việc ở thủ đô Moskva.

Tác phẩm:
* Лирикa (1961)
* Кораблик (1963)
* Душа вещей (1966)
* Солнечный зайчик (1966)
* Ласточкина школа (1973)
* Река (1978)
* Закон песен (1983)
* Страна прибоя (1983)
* Кроличья деревня (1984)
* Избранное (1986)
* Хвала работе (1987)
* Нерасторжимый круг (1991)
* Мелодия для гитары (1998)
* Кассета снов (1998)
* Сонеты (1998)
* Караван (2000)
* Жасмин (2001).





CÔ BÁN QUÁN

Anh sợ tình yêu của em thật phí
Em yêu anh đâu đến nỗi kinh hoàng!
Bởi vì em chỉ cần nhìn thấy anh
Chỉ cần gặp nụ cười anh là đủ.

Và nếu như anh bỏ theo ai đó
Hoặc không biết anh đang ở nơi nào
Thì em chỉ cần một chút làm sao
Áo anh treo trên chiếc đinh là đủ.

Còn nếu như khi người khách vội vàng
Anh lao nhanh đi tìm số phận mới
Thì em chỉ cần sao cho còn lại
Chiếc đinh sau khi treo áo của anh.

Bầu trời mù sương và mưa và gió
Ngày trôi đi, xào xạc của tháng năm…
Chuyện trong nhà – không gì đáng sợ hơn:
Từ trên tường chiếc đinh người ta nhổ.

Và tiếng mưa rơi và sương và gió
Ngày trôi đi, xào xạc của tháng năm
Có một điều quá đủ đối với em
Là còn lại từ chiếc đinh – vết nhỏ.

Còn khi vết của đinh không còn nữa
Dưới vết sơn của người thợ ngày xưa
Đối với em quá đủ một điều là
Dấu vết đinh của ngày qua – thấy rõ.

Anh sợ tình yêu của em thật phí
Em yêu anh đâu đến nỗi kinh hoàng
Bởi vì em chỉ cần nhìn thấy anh
Chỉ cần gặp nụ cười anh là đủ!

Trong cơn gió ấm tìm ra lần nữa
Tiếng đàn khóc, tiếng của trống tang đồng…
Từ điều này em có được gì chăng?
Chuyện đó anh không bao giờ hiểu cả.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:55:39


Yevhen Pavlovych Hrebinka (tiếng Ukraina: Євген Павлович Гребінка; tiếng Nga: Евге́ний Па́влович Гребёнка, 2 tháng 2 năm 1812 – 15 tháng 12 năm 1848) – là nhà thơ, nhà văn Ukraina và Nga. Ông sáng tác bằng tiếng Ukraina và tiếng Nga.

Tiểu sử:
Yevhen Hrebinka sinh ở Ubizhyshche, tỉnh Poltava trong một gia đình địa chủ. Những năm 1825 – 1831 học ở trường gymnazy Ubizhyshche và bắt đầu làm thơ, viết kịch và truyện ngụ ngôn. Từ năm 1831 đến năm 1833 phục vụ trong trung đoàn Cô-dắc của vùng tiểu Nga. Từ năm 1834 chuyển về Saint Petersburg dạy học ở các trường của quân đội Nga hoàng. Tham gia các nhóm văn học, làm quen với nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình nổi tiếng ở Saint Petersburg. Hrebinka là một trong những người đầu tiên đánh giá cao tài năng của Taras Shevchenko và cùng tham gia bỏ tiền mua tự do cho Taras Shevchenko.

Yevhen Hrebinka bắt đầu in sách từ năm 1831 (dịch chương 1 trường ca Poltava của Puskin ra tiếng Ukraina, dịch đầy đủ năm 1836). Năm 1835 in một số truyện như: Малороссийское преданиеСто сорок пять… bắt đầu gây được sự chú ý của dư luận. Thơ lãng mạn của Hrebinka mang màu sắc hoài cổ và một tình yêu quê hương, tình hữu nghị của hai dân tộc: Nga và Ukraina. Những bài thơ nổi tiếng nhất của Hrebinka được phổ nhạc, có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp trong xã hội Nga và đã được dịch ra tiếng Việt dưới đây.

Tác phẩm:
* Будяк та коноплиночка
* Ведмежий суд
* Горобці да вишня
* Дядько на дзвониці
* Кулик (1840)
* Лебедь і гуси
* Пшениця
* Рибалка
* Українська мелодія
* Чайковський (1843)
* Човен (1833
* Записки студента (1841)
* Нежинский полковник Золотаренко (1842)
* Богдан (1843)
* Приключения синей ассигнации (1847)


Các tuyển tập:
* Полное собрание сочинений под ред. Н. Гербеля, т. 1—5, Санкт-Петербург 1862;
* Твори, т. 1—5, К., 1957;
* Вибране, К., 1961;
* Избранное, вступ. ст. С. Зубкова, К.. 1964.






NHỮNG ĐÔI MẮT ĐEN

Những đôi mắt đen, đôi mắt đắm đuối!
Những đôi mắt đen tuyệt đẹp, cháy bừng!
Ta yêu mến và ta sợ hãi!
Khi nhìn mắt trong giờ phút dữ dằn!

Không ngẫu nhiên mắt đen hơn vực thẳm!
Theo lòng mình ta nhìn thấy màu tang
Thấy ngọn lửa trong mắt đầy chiến thắng
Và một con tim tội nghiệp cháy bừng.

Nhưng mà ta không đau khổ, chẳng buồn
Bởi vẫn từng an ủi ta phận số:
Rằng những gì tốt đẹp nhất trần gian
Ta hiến dâng cho đôi mắt rực lửa!


BÀI CA

Ngày ấy tôi là thiếu nữ ngây thơ
Ngày quân đội hành quân đi đâu đó
Một buổi chiều. Tôi đứng trước cổng nhà
Đội kỵ mã đang tiến trên đường phố.

Chàng quí tộc đến gần bên cánh cổng
“Người đẹp ơi, uống nước!” – chàng bảo tôi
Chàng uống nước và chàng bắt tay tôi
Và hôn tôi, tấm lưng chàng cúi xuống.

Rồi chàng đi… tôi nhìn theo bước chân
Nóng trong người, đôi mắt tôi vẩn đục
Tôi không làm sao ngủ được suốt đêm
Và suốt đêm mơ về chàng quí tộc.

Một ngày gần đây – tôi thành góa phụ
Bốn cô con gái đã đi lấy chồng
Có vị tường ghé thăm nhà một hôm
Đầy vết thương, tôi nghe người than thở…

Tôi nhìn xem – và bỗng thấy rùng mình
Đấy chàng quí tộc trẻ trung ngày trước
Vẫn giọng nói, vẫn lửa trong ánh mắt
Chỉ có điều mái tóc chẳng còn xanh.

Thế là tôi lại không ngủ suốt đêm
Suốt đêm tôi lại trở thành thiếu nữ.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:57:05


Wilhelm Küchelbecker (tiếng Nga: : Вильге́льм Ка́рлович Кюхельбе́кер, 21 tháng 6 năm 1797 – 23 tháng 8 năm 1846) – là nhà thơ, nhà văn Nga, bạn học của nhà thơ Puskin, người tham gia khởi nghĩa Tháng Chạp.

Wilhelm Küchelbecker sinh ở Saint Petersburg trong một gia đình quí tộc gốc Đức. Tuổi thơ sống ở Livland vùng Baltic. Năm 1808 học trường Pasion ở Võru (nay là Estonia). Từ năm 1811 được nhận vào học tại Tsarskoye Selo Lyceum cùng với Puskin. Sớm bộc lộ năng khiếu thơ ca và bắt đầu in thơ từ năm 1815 ở một số tạp chí. Năm 1817 tốt nghiệp Lyceum Hoàng thôn với huy chương bạc.

Sau khi học xong Lyceum Hoàng thôn, Küchelbecker làm việc ở Bộ Ngoại giao, dạy tiếng Nga và tiếng Latin ở trường Sư phạm. Tháng 8 năm 1820 đi sang Đức và Pháp. Năm 1821 đọc các bài giảng về ngôn ngữ Slavơ và văn học Nga ở Paris nhưng bị Đại sứ quán Nga phản đối nên Küchelbecker quay trở về Nga. Những năm 1821 – 1822 ông phục vụ ở vùng Kapkage dưới quyền tướng Ermolov. Tháng 7 năm 1823 ông trở về Moskva dạy học và năm 1825 trở về Saint Petersburg.

Wilhelm Küchelbecker tham gia cuộc khởi nghĩa Tháng Chạp ngày 14 tháng 12 năm 1825. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, ông chạy ra nước ngoài nhưng một tháng sau bị bắt ở Warszawa và bị dẫn độ về Saint Petersburg. Tháng 7 năm 1826 ông bị xử tù 20 năm và bị đày đi nhiều nơi khác nhau. Tháng 3 năm 1846 ông được phép đến Tobolsk để chữa bệnh.

Wilhelm Küchelbecker mất ngày 23 tháng 8 năm 1846 ở Tobolsk vì bệnh lao phổi. Phần nhiều thơ của ông trong một thời gian dài không được biết đến và chỉ được in đầy đủ thời Xô Viết.

Tác phẩm:
* Разлука, 1817
* Поэты, 1820
* Смерть Байрона», 1824
* К Прометею, 1820; 1926
* Тень Рылеева», 1827
* Аргивяне», 1822—1825
* Греческая песнь, 1821; 1939
* Прокофий Ляпунов», 1834
* Ижорский» (опубл. 1835, 1841, 1939)
* Вечный жид», (опубл. 1878)
* Последний Колонна», роман (1832—1843; опубл. в 1937 году)
* Дневник» (написан в заключении, опубл. в Ленинграде в 1929 году)
* Собрание стихотворений декабристов. — Лейпциг, 1862. — Т. 2.
* Избранные произведения: В 2 т. — М., 1939
* Избранные произведения: В 2 т. — М.; Л., 1967


Thư mục:
* Тынянов Ю. Н., Архаисты и новаторы, Л., 1929
* Базанов В. Г., Поэты-декабристы, М. — Л., 1950
* Семенко И. М., Поэты пушкинской поры, М., 1970
* История русской литературы XIX в. Библиографический указатель, М. — Л., 1962



THỨC TỈNH

Sự quên lãng tốt lành
Bay ra từ mí mắt
Hành hạ trong lồng ngực
Những hy vọng tan tành.

Ngày sau có điều chi?
Hoa của ta tàn lụi
Ta giờ nghe tiếng gọi
Mơ ước của lòng ta!

Chúng bay thành đám đông
Kỷ niệm mang theo mình
Niềm vui và tĩnh lặng
Cuộc đời với mùa xuân.

Thần hộ mệnh trao tình
Thiêng liêng cho ta đó!
Bay đi giấc mơ vàng
Mùa xuân thì héo úa!


TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI TÙ

Kẻ mang đến hạnh phúc và đau khổ
Có phải ta một lần nữa gặp ngươi?
Cả trong bóng đêm ở nơi giam giữ
Ngươi đã tìm ra ta đó, tình ơi!

Than ôi! Lời chào để làm chi vậy?
Nụ cười kia cho ta để chi tình?
Tinh cầu của người làm ta ấm lại
Liệu đời ta có lần nữa hồi sinh?

Không! Thời của những ước mơ đã hết
Giờ là lúc của hy vọng, của tình
Vì băng giá những gì đau khổ nhất
Máu trong người ta giờ bỗng lạnh tanh.

Liệu bóng đêm, vẻ hân hoan, ánh sáng
Của mắt ích gì cho kẻ tù nhân?
Tia sáng tắt trong tiết trời u ám
Vẻ đẹp hãy quên kẻ đau khổ cho nhanh!


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:58:49


Vladimir Semyonovich Vysotsky (tiếng Nga: Влади́мир Семёнович Высо́цкий, 25 tháng 1 năm 1938 – 25 tháng 7 năm 1980) – là nhà thơ, ca sĩ Xô Viết gốc Do Thái nổi tiếng thế giới, ông là tác giả những bài hát do chính ông thể hiện với cây đàn ghi ta. Vladimir Vysotsky được coi là một trong những nhà thơ lón nhất của Nga thế kỷ XX. Tên của ông đã được đặt cho các vệ tinh.

Tiểu sử:
Vladimir Vysotsky sinh và mất đều ở thủ đô Moskva. Nguồn gốc và chủng tộc hiện vẫn có những ý kiến khác nhau. Từ thời ông bà, và ngay cả bố của Vysotsky vẫn có hai giả thiết. Họ là người ở tỉnh Bretsk, một tỉnh giáp với Ba Lan và nay thuộc cộng hòa Belarus.

Tuổi thơ ở thủ đô Moskva. Những năm thế chiến II, từ 1941 đến 1943, sơ tán về tỉnh Chkalov (nay là tỉnh Orenburg). Năm 1947 bố và mẹ ly dị, Vladimir về sống với bố và vợ hai của bố. Những năm 1947 – 1949 sống ở Đức – là nơi mà bố của Vladimir làm việc. Ở đây Vladimir bắt đầu học đàn dương cầm.

Năm 1956 học trường Đại học Kỹ sư xây dựng nhưng được một học kỳ thì bỏ. Sau đó vào học trường Nghệ thuật Moskva từ 1956 – 1960. Sau khi tốt nghiệp Vladimir Vysotsky bắt đầu cuộc đời nghệ sĩ đầu tiên ở nhà hát Pushkin, sau đó là nhà hát Taganka. Vladimir Visotsky tham gia hàng chục vai diễn trong hàng chục bộ phim, trong đó có nhiều bộ phim nổi tiếng thế giới.

Vladimir Vysotsky biết làm thơ từ nhỏ. Ông sáng tác tất cả hơn 600 bài thơ và bài hát. Trong số này có rất nhiều bài hát viết cho phim và kịch. Ngoài thơ, ông còn viết văn xuôi, kịch bản sân khấu, phim và chuyện cổ tích. Ông sáng tác nhạc từ năm 1960 cho những bài thơ của mình. Những bài hát của ông được tuổi trẻ cả nước hát và ông cũng thường xuyên đi biểu diễn ở nước ngoài, đặc biệt là ở các nước Phương Tây.

Vladimir Vysotsky kết hôn ba lần. Hai người vợ đầu tiên được khoảng 5 năm. Người cuối cùng, từ năm 1970 đến cuối đời. Người vợ đầu tiên có một đứa con trai và mang họ Vysotsky nhưng thực ra là con của người đàn ông khác.

Những năm cuối đời ông trở thành thần tượng của giới trẻ Xô Viết, đặc biệt nổi tiếng ở thập niên cuối cùng. Vladimir Vysotsky mất ngày 25 tháng 7 năm 1980 ở Moskva. Cả nước khóc cái chết của ông. Đám tang của ông có hàng chục nghìn người tham dự. Mặc dù vậy, sự thừa nhận chính thức chỉ đến với ông sau khi chết. Ông được công nhận Nghệ sĩ công huân của Liên bang Nga năm 1986. Năm 1987 ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước Liên Xô.

Sau khi mất, toàn bộ sáng tác của ông được in thành sách và ghi thành nhiều bộ đĩa cả ở Liên Xô cũng như ở nhiều nước trên thế giới. Thơ và bài hát của ông hiện tại đã được dịch ra 52 thứ tiếng trên thế giới. Tiếng Việt có bản dịch của Nguyễn Viết Thắng với khoảng 30 bài.

Một số phim tham gia:
• 1959 — Sverstnitsy (Сверстницы) - Mosfilm; Director: V. Ordynskii
• 1961 — Karyera Dimy Gorina (Карьера Димы Горина) – M. Gorkii Studio Director: F. Dovlatyan & L. Mirskii
• 1962 — 713-iy Prosit Posadku (713-й просит посадку) – Lenfilm; Director: G. Nikulin
• 1962 — Uvol'neniye na bereg (Увольнение на берег) – Mosfilm; Director: F. Mironer
• 1963 — Shtrafnoy udar (Штрафной удар) – M. Gorkii Studio; Director: V. Dorman
• 1963 — The Alive and the Dead (Живые и мёртвые) – Mosfilm; Director: Aleksandr Stolper
• 1965 — Na zavtrashney ulitse (На завтрашней улице) – Mosfilm; Director: F. Filipov
• 1965 — Nash dom (Наш дом) – Mosfilm; Director: V. Pronin
• 1965 — Stryapuha (Стряпуха) – Mosfilm; Director: E. Keosyan
• 1966 — Ya rodom iz detstva (Я родом из детства) – Belarusfilm; Director: V. Turov
• 1966 — Sasha-Sashen'ka (Саша-Сашенька) – Belarusfilm; Director: V. Chetverikov
• 1967 — Vertikal' (Вертикаль) – Odessa Film Studio; Director: Stanislav Govorukhin & B. Durov
• 1967 — Korotkiye vstrechi (Короткие встречи) – Odessa Film Studio; Director: Kira Muratova
• 1967 — Voyna pod kryshami (Война под крышами) – Belarusfilm; Director: V. Turov
• 1968 — Interventsiya (Интервенция) – Lenfilm; Director: Gennady Poloka
• 1968 — Khozyain taygi (Хозяин тайги) – Mosfilm; Director: V. Nazarov
• 1968 — Two Comrades Were Serving (Служили два товарища) – Mosfilm; Director: E. Karyelov
• 1969 — Opasnye gastroli (Опасные гастроли) – Odessa Film Studio; Director: G. Yungvald-Hilkevich
• 1969 — Bely vzryv (Белый взрыв) – Odessa Film Studio; Director: Stanislav Govorukhin
• 1972 — Chetvyorty (Четвёртый) – Mosfilm; Director: A. Stolper
• 1973 — Plohkoy khoroshy chelovek (Плохой хороший человек) – Lenfilm; Director: I. Heifits
• 1974 — Yedinstvennaya doroga (Единственная дорога) – Mosfilm & Titograd Studio; Director: V. Pavlovich
• 1975 — Yedinstvennaya (Единственная) – Lenfilm; Director: I. Heifits
• 1975 — Begstvo mistera Mak-Kinli (Бегство мистера Мак-Кинли) – Mosfilm; Director: M. Shveitser
• 1976 — Skaz pro to, kak tsar Pyotr arapa zhenil (Сказ про то, как царь Пётр арапа женил) – Mosfilm; Director: Alexander Mitta
• 1977 — Ők ketten (Они вдвоём) – Mafilm; Director: M. Mészáros
• 1979 — The Meeting Place Cannot Be Changed (Место встречи изменить нельзя); directed by Stanislav Govorukhin
• 1979 — Little Tragedies (Маленькие трагедии); directed by Mikhail Shveytser

Thư mục:
• Wladimir Wyssozki. Aufbau Verlag 1989 (DDR) : Zerreißt mir nicht meine silbernen Saiten....
• Vysotsky, Vladimir (1990): Hamlet With a Guitar. Moscow, Progress Publishers. ISBN 5-01-001125-5
• Vysotsky, Vladimir (2003): Songs, Poems, Prose. Moscow, Eksmo. ISBN
• Vysotsky, Vladimir / Mer, Nathan (trans) (1991): Songs & Poems. ISBN 0-89697-399-9
• Vysotsky, Vladimir (1991): I Love, Therefore I Live. ISBN 0-569-09274-4
• Vlady, Marina (1987): Vladimir ou Le Vol Arrêté. Paris, Ed. Fayard. ISBN 2-213-02062-0 (Vladimir or the Aborted Flight)
• Влади М. Владимир, или Прерванный полет. М.: Прогресс, 1989.
• Vlady, Marina / Meinert, Joachim (transl) (1991): Eine Liebe zwischen zwei Welten. Mein Leben mit Wladimir Wyssozki. Weimar, Aufbau Verlag. ISBN


Một số bài thơ đã dịch ra Tiếng Việt:

NGƯỜI ĐẸP ĐƯỢC YÊU THƯỜNG XUYÊN, CẦN MẪN HƠN

Người đẹp được yêu thường xuyên, cần mẫn hơn
Ít, nhưng nhanh hơn – với người vui vẻ
Hiếm khi được yêu – những người lặng lẽ
Nhưng nếu được yêu thì mạnh mẽ hơn.

Bạn đừng gào lên những lời dịu dàng
Mà hãy giữ chúng trong vòng tù hãm
Mặc những con tàu gào rống trong đêm
Nhưng còn bạn thì giữ bề im lặng
Vội vã – thì đi tìm gió ngoài đồng.

Nàng đang đọc những cuốn tiểu thuyết buồn
Để nàng so sánh, bạn thì tin tưởng
Vì rằng có những bông tuy líp đen
Để người ta ngỡ trắng hơn màu trắng.

Bạn đừng gào lên những lời dịu dàng
Mà hãy giữ chúng trong vòng tù hãm
Mặc những con tàu gào rống trong đêm
Nhưng còn bạn thì giữ bề im lặng
Vội vã – thì đi tìm gió ngoài đồng.

Lời chạy nhảy, bị gò bó – thế nhưng
Bạn đừng bao giờ sợ rằng chậm trễ.
Lời có nhiều, nhưng nếu như có thể
Chỉ nói khi bạn không thể nào không.

Bạn đừng gào lên những lời dịu dàng
Mà hãy giữ chúng trong vòng tù hãm
Mặc những con tàu gào rống trong đêm
Nhưng còn bạn thì giữ bề im lặng
Vội vã – thì đi tìm gió ngoài đồng.




TÔI YÊU EM BÂY GIỜ...

Tôi yêu em bây giờ
Công khai – không hề bí mật
Cháy trong ánh sáng của em – không “sau”, không “trước”.
Cười hay khóc, nhưng tôi yêu bây giờ
Trong quá khứ - không muốn, còn tương lai – không biết.

Trong quá khứ là “tôi đã yêu em” –
Đau buồn hơn cả ngôi mộ người đã chết
Tất cả sự dịu dàng trong tôi như bị trói tay chân
Mặc dù nhà thơ của mọi nhà thơ từng viết:
“Tôi đã yêu em, và có lẽ tình…”

Người ta nói như thế về cái đã héo tàn
Và trong đó lòng trắc ẩn có nghĩa là độ lượng
Giống như đối với ông vua đã bị truất quyền.
Trong đó có lòng thương về sự khao khát không còn
Nơi mà sự khát khao đã không còn nhanh nhẹn
Và có vẻ như không tin đối với “tôi yêu em”.

Tôi yêu em bây giờ –
Không vết nhơ, không mất mát
Thế kỷ của tôi là bây giờ - tôi không cắt tĩnh mạch!
Trong thời gian, trong sự tiếp tục, bây giờ -
Tôi không thở bằng quá khứ và tương lai không cuồng nhiệt.

Tôi bơi qua, lội qua và đi đến
Với em – dù cho có bị chặt đầu!
Với xích dưới chân và những quả cân trọng lượng
Chỉ mong em đừng bắt ép gì nếu em nhầm lẫn
Để sau “tôi đang yêu” tôi thêm vào “sẽ vẫn còn yêu”.

Có cay đắng trong “tôi sẽ”, mới lạ lùng sao
Chữ ký giả mạo và lỗ đục sâu
Và khe hở rút lui để làm dự trữ
Dưới tận đáy ly sâu nọc độc không màu.
Và giống như điều sỉ nhục cho thì hiện tại
Nghi ngờ “tôi đang yêu” ngay lúc này sao.

Tôi nhìn giấc mơ Pháp
Với đủ kiểu thời gian
Nơi mà cả quá khứ lẫn tương lai đều khác.
Tôi cảm thấy như đang bêu xấu mình
Trước hàng rào ngôn ngữ tôi đành bất lực.

Ái chà, sự khác biệt trong nhiều ngôn ngữ
Không có vị trí – mà thất bại hoàn toàn
Nhưng lối thoát cả hai đứa sẽ đi tìm.
Tôi yêu em và trong những thời gian phức tạp –
Và trong tương lai, và ở trong quá khứ này em.


BÀI BALLAD VỀ TÌNH YÊU

Khi dòng nước của cơn Đại hồng thủy
Quay trở lại lần nữa với bến bờ
Thì từ bọt của dòng nước xưa kia
Tình yêu thoát lên bờ trong lặng lẽ
Và tan trong không khí đến hạn kỳ
Mà hạn kỳ thì có nhiều vô kể.

Và hãy vẫn còn những người ngớ ngẩn
Thở đầy căng cái thứ hỗn hợp này
Họ không chờ hình phạt hay phần thưởng
Mà chỉ nghĩ rằng hít thở vậy thôi
Họ rơi vào nhịp thở không bằng phẳng
Nhịp thở như vầy – nhịp thở chơi vơi.

Tôi trải giường cho những kẻ đang yêu
Để họ hát cả ngoài đời, trong mộng!..
Tôi đang thở – nghĩa là tôi đang yêu!
Tôi đang yêu – nghĩa là tôi đang sống!

Và sẽ có nhiều giang hồ phiêu bạt:
Xứ sở tình yêu, xứ sở mênh mông!
Tình thử thách những hiệp sĩ của mình
Cứ mỗi ngày vặn hỏi càng nghiêm khắc:
Tình đòi hỏi chia ly và khoảng cách
Không nghỉ ngơi, không cho ngủ cho yên.

Nhưng không quay lại những kẻ điên cuồng
Mà họ bằng lòng trả bằng mọi giá
Sẵn sàng mạo hiểm cả cuộc đời mình
Để cho không làm rách và để giữ
Sợi chỉ thần tiên, sợi chỉ vô hình
Mà người ta đã căng ra giữa họ.

Tôi trải giường cho những kẻ đang yêu
Để họ hát cả ngoài đời, trong mộng!..
Tôi đang thở – nghĩa là tôi đang yêu!
Tôi đang yêu – nghĩa là tôi đang sống!

Nhưng có khối kẻ chết ngạt vì tình
Gọi tình yêu nhưng chưa từng gọi đến
Biết bao nhiêu trống vắng với tin đồn
Nhưng tổng số này ngâm trong máu nóng.
Còn ta đặt những ngọn nến đầu giường
Thờ những kẻ chết mà chưa được nhận.

Linh hồn họ trong cỏ hoa thơ thẩn
Giọng nói rồi sẽ hòa nhập cùng nhau
Và một nhịp thở cùng chung vĩnh viễn
Thổn thức trên môi – khi họ gặp nhau
Trên bến đò ngang run rẩy, trên cầu
Và trên những ngã tư đời chật lắm.

Cơn gió mát làm say người được chọn
Quấn bàn chân, làm người chết hồi sinh
Bởi vì rằng, nếu như bạn chưa từng
Yêu – nghĩa là chưa thở và chưa sống.


KHÚC CA VỀ NHÀ TIÊN TRI CASSANDRA

Thành Tơ-roa lâu ngày bị bao vây
Vẫn trở thành một pháo đài đứng vững
Nhưng dân Tơ-roa đã không tin tưởng.
Nếu không, đã còn cho đến ngày nay.

Cô gái cuồng điên nhắc đi nhắc lại:
“Ta thấy Tơ-roa sẽ cháy thành tro… “
Nhưng người mục kích, nhưng nhà tiên tri
Muôn đời nay bị thiêu trên lửa cháy.

Trong cái đêm từ bụng con ngựa gỗ
Cái chết đi ra (như có cánh bay)
Trên đám đông hoảng loạn và cuồng si
Ai đó kêu: “Lỗi lầm do phù thủy!”

Cô gái cuồng điên nhắc đi nhắc lại:
“Ta thấy Tơ-roa sẽ cháy thành tro… “
Nhưng người mục kích, nhưng nhà tiên tri
Muôn đời nay bị thiêu trên lửa cháy.

Trong đêm hoảng lọan, trong cái chết này
Khi lời dự báo trở thành hiện thực
Giá mà đám đông tìm ra một phút
Để trừng phạt cho cái thói quen này.

Cô gái cuồng điên nhắc đi nhắc lại:
“Ta thấy Tơ-roa sẽ cháy thành tro… “
Nhưng người mục kích, nhưng nhà tiên tri
Muôn đời nay bị thiêu trên lửa cháy.

Kết cục giản đơn – dù bất thường, đáng giận:
Một người Hy Lạp tìm ra Cassandra
Nhưng dùng không như Cassandra, mà
Như người chiến thắng giản đơn, nhàm chán.

Cô gái cuồng điên nhắc đi nhắc lại:
“Ta thấy Tơ-roa sẽ cháy thành tro… “
Nhưng người mục kích, nhưng nhà tiên tri
Muôn đời nay bị thiêu trên lửa cháy.

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 14:59:57



KHỞI THỦY LÀ LỜI...

Khởi thủy là Lời khổ đau, buồn bã
Sinh trong khổ đau sáng tạo hành tinh
Những mảng lớn dứt ra từ đất liền
Thành những hòn đảo khắp nơi đâu đó.

Trôi khắp nơi không hàng, không cước phí
Xuyên qua bao thời đại, hàng triệu năm
Kẻ lang thang thay đổi cả dáng hình
Nhưng giữ thiên nhiên và hồn lục địa.

Khởi thủy là Lời, nhưng lời kết thúc
Thủy thủ kéo nhau sống khắp trần gian
Và họ theo những hòn đảo đi lên
Gọi chúng là “tàu” là vì cái đẹp.

Nhưng giữ bờ - tốt hơn là mánh khóe
Những hòn đảo kia quay trở về chăng.
Chúng có trật tự đặc biệt của mình
Nhưng giữ luật và thanh danh lục địa.

Liệu khoa học có tha cho sự song song
Trong sự giải thích có phần tự tiện
Nếu khởi thủy là Lời chốn trần gian
Thì không nghi ngờ lời này là :biển”.


KHÚC LÃNG MẠN

Nàng xưa trắng trong như tuyết mùa đông
Theo quyền phép, theo vết bẩn của chồn…
Nhưng bức thư nàng giờ tay tôi đốt
Tôi nhận ra một sự thật đau lòng.

Tôi chưa nếm khổ đau – vì mặt nạ
Nhưng bây giờ xong vũ hội hóa trang
Vâng, lần này thì tôi thua đậm quá
Hy vọng rằng đây là lượt cuối cùng.

Tôi vẫn nghĩ rằng: sốt ruột chờ mong
Dòng máu xấu chui vào ven, lan rộng
Tôi vò thư, như bóp đầu con rắn
Thấm qua ngón tay chất độc phụ tình.

Khổ đau, hấp hối tôi chửa từng quen
Cơn gió trái chiều không lau dòng lệ
Sự hờn giận không xua đi bầy ngựa
Bão tuyết không hề xóa những vết chân.

Và như thế, tôi bỏ lại sau lưng
Ở dưới bầu trời âm u màu xám
Cẩm chướng trần truồng, ngất ngư hoa tím
Và nước mắt hòa trộn với tuyết tan.

Mátxcơva vào nước mắt không tin
Không nhận gì, không có gì trao cả
Cuộc đấu mới tôi bước vào vội vã
Và như mọi khi, dự định thành công.


VỀ CUỘC GẶP CỦA CHÚNG MÌNH

Về cuộc gặp của chúng mình – ai đó nói
Anh chờ em như người ta đợi thiên tai
Rồi hai đứa lập tức sống chung ngay
Không sợ gì hậu quả, dù nguy hại.

Anh vội co quan hệ em với người
Mặc áo, đi giày, lôi từ rác bẩn
Nhưng kéo theo em một cái đuôi dài –
Cái đuôi dài của những quan hệ ngắn.

Rồi sau anh đánh những bạn bè em
Anh với họ có điều gì khó chịu
Mặc dù, có thể, là trong số đấy
Có những chàng trai xuất sắc, tuyệt trần.

Điều em đòi hỏi – anh làm mau mắn
Cứ mỗi giờ lại muốn tối tân hôn
Anh nhảy vào tàu tự tử - vì em
Nhưng mà may, không được thành công lắm.

Giá mà em cái năm đó đợi anh
Khi người ta cho anh về “nhà nghỉ”
Thì anh đã trộm cả bầu hoàn vũ
Và hai ngôi sao ở điện Kremlin.

Và thề rằng kẻ đê tiện cuối cùng
Không uống rượu, dối gian – xin phụ bạc
Anh tặng cho em Bolshoi nhà hát
Đấu trường thể thao nhỏ bé cho em.

Nhưng chưa sẵn sàng gặp gỡ bây giờ
Anh sợ em, sợ những đêm hoan lạc
Như người dân của những thành phố Nhật
Sợ tái diễn cảnh kinh hoàng ở Hiroshima.


TÔI YÊU PHỤ NỮ

Tôi yêu phụ nữ và thích tán tỉnh
Cứ mỗi ngày với người mới không thôi
Còn thiên hạ lại cứ ưa truyền miệng
Về những chuyện tình, ân ái của tôi.

Có một hôm trên một con đường nhỏ
Gần biển nên không phải chuyện đùa chơi
Tôi đã gặp một người trong số họ
Trên con đường đời sôi nổi của tôi.

Nàng của tôi có tâm hồn rộng mở
Và một tư chất hào phóng, thênh thang
Nàng của tôi – có dáng hình tuyệt mỹ
Nhưng trong túi tôi không có một đồng.

Còn nàng cần nhẫn vàng làm quà tặng
Ăn uống nhà hàng và tặng nước hoa –
Đem đổi lại – một ít nhiều sung sướng
Của dịch vụ nhưng còn lắm nghi ngờ.

Nàng bảo tôi: “Vasya yêu mến
Em trao anh thứ quí giá nhất đời!”
Tôi trả lời: “Có một trăm rúp thôi
Còn nếu hơn – cưa đôi cùng đứa bạn!”

Phụ nữ giống như những con ngựa dữ
Cắn liên hồi hàm thiếc, thở phì phì
Có thể có điều gì tôi không rõ
Nhưng nàng phật lòng nên vội bỏ đi.

…Một tháng sau cơn xúc động dịu đi
Một tháng sau tôi thấy nàng lại ghé
Khi đó tôi có cảm giác như là
Nàng đồng ý với giá mà tôi trả.


MỖI CON NGƯỜI

Mỗi con người với hờn giận của mình
Thời gian trôi đi – người ta quên vội
Nhưng nỗi buồn tôi – như tuyết vĩnh hằng
Không hề tan chảy, không hề tan chảy.

Không tan chảy, ngay cả trong mùa hạ
Ngay giữa buổi trưa nóng bức, oi nồng
Và tôi biết rằng: nỗi buồn như thế
Đành mang theo mình suốt cả trăm năm.





SAO KHÔNG NHƯ THẾ

Sao không như thế? Dù dường như vẫn
Vẫn bầu trời, lại vẫn một màu xanh
Vẫn không khí ấy, vẫn nước, vẫn rừng
Chỉ mình anh không về từ chiến trận.

Giờ tôi không hiểu ai sai ai đúng
Đã từng cãi nhau quên ngủ quên ăn
Nhưng giờ đây tôi thấy thiếu vô cùng
Khi anh không trở về từ chiến trận.

Anh hát theo lỗi nhịp, thường im lặng
Và anh thường xuyên nói chuyện lạc đề
Không cho tôi ngủ, dậy lúc tinh mơ
Nhưng hôm qua không về từ chiến trận.

Không về chuyện ấy – giờ đây trống vắng
Tôi bỗng nhận ra từng có hai người
Giờ với tôi gió tắt lửa mất rồi
Khi anh không trở về từ chiến trận.

Như mùa xuân thoát ra từ tù hãm
Khi tôi nhầm, buột miệng đã kêu lên:
- Dành tớ hút với! – Câu trả lời: lặng im
Anh hôm qua không về từ chiến trận.

Người chết không bỏ ta cùng hoạn nạn
Người ngã xuống – như những người lính canh
Trời phản chiếu trong nước, trong rừng xanh
Và những thân cây màu xanh đang đứng.

Từng đủ chỗ hai người trong đất ấm
Và thời gian trôi cho cả hai người
Chỉ bây giờ khi còn lại mình tôi
Ngỡ như tôi không về từ chiến trận.


ĐÂU CÓ CHUYỆN GÌ ĐỂ NÓI VỚI EM

Đâu có chuyện gì để nói với em!
Em đằng nào cũng nói điều vớ vẩn
Thà anh đi rủ bạn bè đánh chén
Họ có nhiều ý nghĩ trọng đại hơn.

Chuyện trò của họ nghiêm túc đàng hoàng
Thí dụ như chuyện ai người uống giỏi.
Bạn bè anh có tầm nhìn rộng rãi
Từ rương hòm đến tiệm tạp hóa con.

Chuyện của bọn anh thô kệch, thẳng thừng
Mọi vấn đề giải quyết bằng chén rượu:
Như tìm ở đâu mấy đồng còn thiếu
Ai chạy đi mua rượu – nếu đủ tiền.

Biết nghĩ gì cho em để thanh minh!
Khi buổi sáng em cho anh kvas
Trí tuệ chúng mình mỗi người mỗi khác
Em cần nâng học vấn của mình lên!


TA KHÔNG CẦN CỐT TRUYỆN

Ta không cần cốt truyện và tình tiết
Vẫn biết ra tất cả mọi điều mà.
Tôi cho quyển sách trên đời hay nhất
Là quyển sách luật hình sự của ta.

Và nếu như hôm nào không ngủ được
Hay gương mặt không có vẻ cồn cào
Tôi mở bộ luật, bất kể trang nào
Nhưng mà tôi không thể nào đọc hết.

Tôi không khuyên bè bạn những lời khuyên
Nhưng biết họ chiếm đoạt trong danh dự.
Và tôi mới vừa đọc về chuyện ấy:
Không dưới ba, và không quá mười lần.

Những dòng giản đơn, bạn hãy nghĩ xem
Có chuyện tình mọi quốc gia, thời đại
Họ có quán ván, dài như dòng ấy
Có đánh nhau, bài bạc lẫn dối gian.

Giá trăm năm không thấy những dòng này
Sau mỗi dòng tôi thấy từng số phận!
Tôi mừng khi bài viết không đạt lắm
Vì dù sao, có ai đó gặp may…

Và con tim như con chim bị thương
Khi tôi bắt đầu mở bài ra đọc
Thì máu nóng rào rạt trên thái dương
Như khi người ta đến nhà dọn rác.


MỒ CHUNG

Trên mồ chung không có tiếng khóc than
Trên mồ chung không trồng cây thánh giá
Những bó hoa, ai người mang đến đó
Và luôn cháy lên ngọn lửa vĩnh hằng.

Xưa ở đây đất nhô lên thành đống
Còn bây giờ – những tấm đá hoa cương
Ở nơi này không có số phận riêng
Mà tất cả hòa chung cùng số phận.

Thấy trong lửa này xe tăng cháy sáng
Thành phố Smolensk cháy thành tro
Cháy những ngôi nhà gỗ của nước Nga
Nhà Quốc hội Đức và trái tim người lính.

Bên mồ chung không có tiếng khóc than
Đi đến đây chỉ những người mạnh mẽ
Trên mồ chung không trồng cây thánh giá
Nhưng phải đâu vì thế nhẹ lòng hơn?

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 15:01:13



GỬI MARINA

Nếu anh giàu có như vua biển cả
“Hãy bắt mồi!” – em kêu thế với anh
Thế giới trên và dưới nước của mình
Anh đổ hết ra không cần do dự.

Nhà pha lê trên đồi – dành cho nàng
Còn mình, như chó, lớn lên – trong xích.
Những mạch nước nguồn của anh có bạc
Và biết bao lớp sỏi cát có vàng!

Nếu anh nghèo khổ, như chó – một mình
Thì trong nhà anh, đem bóng em lăn
Bởi vì em giúp cho anh, trời ạ
Không cho ai tàn phá cuộc đời anh.

Nhà pha lê trên đồi – dành cho nàng
Còn mình, như chó, lớn lên – trong xích.
Những mạch nước nguồn của anh có bạc
Và biết bao lớp sỏi cát có vàng!

Giá anh đem người khác so với em
Dù treo cổ anh, dù đem xử bắn
Hãy để ý cách của anh nhìn ngắm
Em như người đẹp của Raphael.

Nhà pha lê trên đồi – dành cho nàng
Còn mình, như chó, lớn lên – trong xích.
Những mạch nước nguồn của anh có bạc
Và biết bao lớp sỏi cát có vàng!


NẾN ĐƯỢC THẮP CHO TÔI

Nến được thắp cho tôi cứ mỗi chiều
Bóng hình em nhạt nhòa qua làn khói
Tôi không muốn tin thời gian chữa khỏi
Rằng theo thời gian, tất cả đi theo.

Tôi không bao giờ còn có lặng yên
Vì tất cả trong hồn – cho năm tới
Em mang theo mình – thật không hiểu nổi
Ra cảng biển, và sau đó – phi trường.

Nến được thắp sáng cho tôi mỗi chiều
Bóng hình em nhạt nhòa qua làn khói
Tôi không muốn tin thời gian chữa khỏi
Rằng theo thời gian, tất cả đi theo.

Trong lòng tôi là sa mạc hoang tàn
Chớ đứng trên cõi lòng tôi hoang vắng
Chỉ những đoạn bài ca và mạng nhện
Còn em đã mang tất cả theo mình.

Nến được thắp cho tôi cứ mỗi chiều
Bóng hình em nhạt nhòa qua làn khói
Tôi không muốn tin thời gian chữa khỏi
Rằng theo thời gian, tất cả đi theo.

Điểm đến trong lòng không có đường đi
Đào bới lên thì các người chỉ thấy
Một vài nửa câu, nửa vời đối thoại
Còn lại là chỉ Pháp với Paris.

Nến được thắp cho tôi cứ mỗi chiều
Bóng hình em nhạt nhòa qua làn khói
Tôi không muốn tin thời gian chữa khỏi
Rằng theo thời gian, tất cả đi theo.


NẾU THÍCH

Nếu thích thì – quá ít?
Nếu đã yêu – quá nhiều?
Nếu từ đầu mà biết
Nếu mà biết được lâu!

Em đâu, nghèo tưởng tượng
Em đâu, lời dự phòng!
Em dễ thương, âu yếm
Chà, giá được yêu em!


CHUYỆN ĐÃ TỪNG

Chuyện đã từng – tôi yêu và đau khổ
Chuyện đã từng – chỉ mơ ước về nàng
Tôi bí mật thấy nàng trong giấc ngủ
Trên ngựa trắng, như Amazonian.

Để làm chi khôn ngoan những sách buồn
Khi tôi có thể cúi hôn dấu vết
Có điều gì, nữ hoàng bao mơ ước?
Có điều gì, hạnh phúc quá mong manh?

Hồn chúng tôi từng ngập giữa mùa xuân
Những mái đầu chúng tôi bơi trong lửa
Và buồn đau với nàng – thật xa xăm
Và cứ ngỡ rằng sẽ không buồn nhớ.

Thế mà giờ – thà áo quan chuẩn bị
Cười ra nước mắt, khóc thiếu nguyên nhân
Máu tê cứng vì băng giá vĩnh hằng
Sống trong linh cảm chết vì nỗi sợ.

Tôi hiểu rằng – không bao giờ hát nữa
Tôi hiểu rằng – mơ mộng chẳng còn trông.
Tháng ngày trôi theo dòng chỉ dối gian
Sống với nàng – chỉ toàn là ảnh ảo.

Tôi đem đốt hết bao nhiêu quần áo
Bứt dây đàn, giải thoát khỏi mê man
Không nô lệ cho hy vọng hão huyền
Không thần tượng với những phường gian xảo.


NỖI BẤT HẠNH

Tôi mang nỗi bất hạnh của mình
Đi trên băng giá của mùa xuân
Băng giá tan, tâm hồn tôi tan nát
Thành hòn đá và trôi dưới nước
Mà bất hạnh – dù nặng vô cùng
Đã mắc lại trên bờ mép sắc.

Và bất hạnh kể từ ngày đó
Đi tìm tôi khắp cõi trần gian
Cùng với nỗi bất hạnh là tin đồn
Rằng tôi đã không chết
Mặt đất trần truồng cũng biết
Chuyện về chim cút với cút con.

Ai trong số họ đã nói
Với quí ông đáng kính của tôi
Ông ba hoa chuyện dưới đất trên trời
Trong say mê không còn là mình nữa
Và ông đến với tôi
Tai họa và tin đồn đi theo từ đó.

Quí ông đuổi kịp tôi
Ôm chầm lấy trong vòng tay
Nỗi bất hạnh ngồi bên cười đắc chí
Nhưng ông đã không thể nào ở lại
Tất cả chỉ có một ngày
Còn nỗi bất hạnh thì lâu dài, mãi mãi.


TÔI KHÔNG THỂ

Đi ngang qua phụ nữ, tôi không thể
Tôi kể bạn nghe chuyện Baba Yaga(*)
Về cây chổi và nghề của bà ta
Về cái đã có và chưa từng có.

Chuyện bắt người qua đường đem nấu xúp
Mà phần đông họ là những thanh niên
Chuyện bí mật bay trong cối của mình
Rồi khéo léo làm cho nhầm dấu vết.
____
(*)Baba Yaga – là nhân vật dân gian của người Slavơ. Đấy là một bà phù thủy có tài làm yêu thuật và có thể bay trong cối.



GIÃ BIỆT

Những con tàu trên bến chuẩn bị ra đi
Nhưng sẽ trở về, xuyên qua trời u ám.
Chưa đầy nửa năm – và tôi xuất hiện
Để rồi lại ra đi
Để rồi lại ra đi sáu tháng.

Tất cả quay về, trừ những người bạn tốt
Những người yêu nhất, những phụ nữ thủy chung
Tất cả quay về - trừ những người cần.
Tôi không tin số phận
Tôi không tin số phận, mà tin mình – còn ít hơn.

Nhưng không hẳn thế, tôi muốn nghĩ rằng
Nước cờ liều sắp tới đây hết mốt
Tôi sẽ quay về, vì trong mơ ước, bạn bè thân.
Tất nhiên, tôi sẽ hát
Tất nhiên, tôi sẽ hát – chưa đến nửa năm.




SÓNG THẦN

Có một câu tục ngữ rất mỹ miều:
Đừng thán phục chi bầu trời năm trước
Đừng trở lại nơi từng là thiên đường
Mà hãy đến nơi chưa từng có mặt!

Ở nơi đó chỉ ta với thiên nhiên!
Cả tin đồn cũng khó mà đến được.
Ở nơi đó gặp ai là sóng thần
Với bão tố trong lòng và trong óc.

Yên lặng ở đây tiền không mua nổi
Bè bạn bảo anh em sẽ quay về
Em hành động trái với câu tục ngữ
Đến cái nơi đã từng gặp bạn bè!

Ở nơi này chỉ ta với thiên nhiên
Ở đây tin đồn khó mà đến được
Nơi này thỉnh thoảng vẫn có sóng thần
Quét mọi thứ trong lòng và trong óc.

Biển dịu êm nhưng đời không yên ả
Máy rada tìm kiếm giữa trời xanh
Sẽ báo động vì một điều gì đó
Hoặc sẽ kêu lên: Chú ý – sóng thần!

Giờ tôi nâng cốc để chúc bè bạn!
Sóng thần – chỉ là con sóng vô tư
Có những cái còn muôn phần khiếp đảm
Và vui mừng hơn cả sóng thần kia.


NẾU NHƯ

Nếu như thể chất của tôi yếu đuối
Thì chắc là tôi ổn định tinh thần
Không đời nào theo đàn bà con gái
Đồ uống có cồn không một gram!

Nếu như thể chất của tôi khỏe mạnh
Thì chắc là tôi sợ cả nghĩ suy
Và có lẽ là thường xuyên tôi uống
Nhưng theo đàn bà – không nửa bước, tôi thề!

Nhưng nếu như tôi thường thường bậc trung
Thì tôi biết làm gì đây cho phải?
Tất nhiên tôi không thể không theo gái
Không thể không dùng đồ uống có cồn!



AI TRONG LÒNG CHỈ CÓ

Ai trong lòng chỉ có một nỗi buồn lặng lẽ
Làm bằng giấy bồi – thì quả nhẹ nhàng.

Bạn biết không
Có thể, người ta có lý
Ai cười gằn, ai nghi hoặc và cười gằn
Những lần kết hôn
Sự nghiệp không sửa được –
Cái gì đó hỏng, cái gì mất, và áo quần rách toạc.


TRANG GIẤY TRONG BÌ THƯ

Trang giấy trong bì thư đi rất chậm
Thoát ra những dòng cuối cùng!
Nhưng bởi vì đấy là Viễn Đông
Đấy là Phương Đông, xa xôi lắm.

Em chờ đợi mà không còn kiên nhẫn
Một mẩu tin chỉ có mấy lời..
Bọn anh ở đây đón buổi ban mai
Sớm hơn tám tiếng.

Những con tàu ở đây gào đến sáng
Giữa bao la ầm ĩ của đại dương
Không chỉ vì người ta gọi Thái Bình
Biển ở đây quả là yên ả lắm.

Em chờ đợi mà không còn kiên nhẫn
Một mẩu tin chỉ có mấy lời..
Bọn anh ở đây đón buổi ban mai
Sớm hơn tám tiếng.

Em đừng sợ chi những chuyện kể về
Có vẻ như ở đấy là điểm cuối
Phía sau hãy còn Sakhalin, còn sau đấy
Là hành tinh tròn vành vạnh của ta.

Em chờ đợi mà không còn kiên nhẫn
Một mẩu tin chỉ có mấy lời..
Bọn anh ở đây đón buổi ban mai
Sớm hơn tám tiếng.

Tất nhiên ở đây không phải thiên đường
Nhưng thư từ quả là không chịu nổi
Em thân yêu, em hãy mau đến với
Vùng Viễn Đông – thì nơi đó rất gần!

Thư hồi âm tới đây em sẽ nhận
Một mẩu tin chỉ có mấy lời!
Giá mà cùng em đón buổi ban mai
Sớm hơn tám tiếng!


THỜI BUỔI NÀY

Thời buổi này quả vô cùng phức tạp
Người đi qua đường… Anh ta là ai?
Có thể đơn giản là một con người
Mà cũng có thể là tên gián điệp!


TÔI KHÔNG THỂ

Tôi không thể không uống hay mộng mơ
Câu thơ đến, và dâng cao ý tưởng
Xin đừng phiền, hãy để cho sâu đậm
Hãy để yên tôi suy nghĩ một giờ.


SAU KHI CHẾT

Sau khi chết cuộc đời không hề có.
Điều này quả thực dối gian
Đêm tôi nằm mơ thấy quỉ
Từ địa ngục trốn lên.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 15:02:47


Nikolay Alexeyevich Zabolotsky (tiếng Nga: Никола́й Алексе́евич Заболо́цкий, 7 tháng 5 năm 1903 – 14 tháng 10 năm 1958) – dịch giả, nhà thơ Nga.

Tiểu sử:
Nikolay Zabolotsky sinh ở Kazan. Bố là nhà nông học, mẹ là cô giáo trường làng. Thuở nhỏ sống ở làng Sernur (nay là nước cộng hòa Mari El). Năm 1920 học xong trung cấp ở Urzhum, Nikolay Zabolotsky lên Moskva và sau đó đến Petrograd học ngôn ngữ và văn học ở trường Đại học sư phạm. Tốt nghiệp Đại học sư phạm năm 1925. Năm 1926 vào quân đội và ra quân năm 1927. Cũng trong năm này Nikolay Zabolotsky cùng một số nhà thơ khác thành lập nhóm văn học – sân khấu OBERIUS (ОБЭРИУ (Объединение Реального Искусства – Thống nhất Nghệ thuật Hiện thực) tiếp tục truyền thống của phái Vị lai (Futurism).

Năm 1929 in tập thơ đầu Столбцов và có được thành công ngoài sức tưởng tượng của Nikolay Zabolotsky. Tập thơ này cũng đã gây ra nhiều vụ xì-căng-đan trên các tờ báo. Tập thơ Стихотворения. 1926—1932 đã chuẩn bị xong bản thảo nhưng cuối cùng không in được vì bị phê phán là có những liên quan về chính trị. Điều này đã ảnh hưởng đến sáng tác của Zabolotsky một vài năm sau đó. Trong thập niên 1930 ông viết nhiều thơ và truyện cho thiếu nhi.

Ngày 19 tháng 3 năm 1938 Nikolay Zabolotsky bị bắt giam vì tội tuyên truyền chống chính quyền Xô Viết. Bị khai trừ khỏi Hội nhà văn và bị đày đi các trại cải tạo ở vùng Viễn Đông trong một thời gian dài nhưng Nikolay Zabolotsky cũng còn may mắn là chưa bị xử bắn như Boris Kornilov (chồng của nữ thi sĩ Olga Berggolts) và nhiều người khác. Đó là do dù bị chịu những cực hình tra tấn nhưng ông không thừa nhận sự buộc tội trong việc thành lập tổ chức phản cách mạng. Thời gian ở các trại cải tạo ông đã diễn ra thơ tiếng Nga hiện đại tác phẩm Bài ca về Binh đoàn Igor (Слова о полку Игореве) rất thành công, được đánh giá là bản dịch chính xác và hay nhất. Điều này cũng đã phần nào giúp ông được trả tự do và được trở về Moskva năm 1946. Cũng trong năm này ông được phục hồi hội viên Hội Nhà văn và được sống ở thủ đô Moskva.

Dù phải nếm trải những đòn đau của số phận nhưng cuối cùng Nikolay Zabolotsky cũng đã biết cách gìn giữ được tài năng và trung thành với nghiệp văn chương cho đến hết cuộc đời. Ngoài sáng tác thơ, văn ông còn là một dịch giả xuất sắc, nổi tiếng với những bản dịch các nhà thơ Gruzia.

Nikolay Zabolotsky mất ở Moskva.

Tác phẩm:
*Столбцы, 1929
*Вторая книга, 1937
*Стихотворения, 1948
*Стихотворения, 1957
*Стихотворения, 1959
*Избранное, 1960
*Стихотворения. Под общей редакцией Глеба Струве и Б. А. Филиппова. Вступительные статьи Алексиса Раннита, Бориса Филиппова и Эммануила Райса. Washington, D.C.-New York: Inter-Language Literary Associates, 1965.
*Стихотворения и поэмы. М.-Л., Сов.писатель, 1965 (Б-ка поэта. Большая серия);
*Избранные произведения в 2-х тт. М., Худож. литература, 1972;
*Собрание сочинений в 3-х тт. М., Худож. литература, 1983—1984;
*Вешних дней лаборатория. М., Молодая гвардия, 1987.


Thư mục:
*Тарусские страницы. Калуга, 1961;
*Македонов А. Николай Заболоцкий. Л., Сов. писатель, 1968;
*Лотман Ю. М. Н. Заболоцкий. Прохожий. — в кн.: Ю.Лотман. Анализ поэтического текста. Л., Просвещение, 1972;
*Воспоминания о Заболоцком. М., Сов. писатель, 1977;
*Заболоцкий Н. Н. Н. А. Заболоцкий после создания «Столбцов». — «Театр», 1991, № 11, с.153-160.
*Заболоцкий Н. Н. «Жизнь Н. А. Заболоцкого». — М.: Согласие, 1998.
*И. Лощилов. Феномен Николая Заболоцкого, Helsinki, 1997.
*«И ты причастен был к сознанью моему…»: Проблемы творчества Николая Заболоцкого. М.: РГГУ, 2005.
*Альфонсов В. Н. Заболоцкий и живопись // Альфонсов В. Н. Слова и краски. СПб., 2006.


Một vài bài thơ:

EM ĐÃ THỀ YÊU ANH

Em đã thề yêu anh
Cho đến ngày xuống mộ
Hai chúng mình khi đó
Trở thành thông minh hơn.

Hai đứa hồi tâm lại
Ta bỗng hiểu ra điều
Rằng hạnh phúc đến cuối
Sẽ chẳng có, em yêu.

Con thiên nga chần chừ
Trên mặt hồ sóng nước
Nhưng thiên nga bây giờ
Đang bơi vào bờ đất.

Bây giờ lại cô đơn
Mặt nước reo tí tách
Một ngôi sao ban đêm
Đang nhìn vào mắt nước.


THÚ NHẬN

Em yêu dấu, em làm cho mê đắm
Một thuở kết hôn với gió ngoài đồng
Cả người em tựa như ở trong cùm
Người phụ nữ yêu thương và quý mến.

Em chẳng vui mà cũng không buồn chán
Tựa hồ như sa xuống tự trời đêm
Em là bài ca đính hôn của anh
Em là ngôi sao của anh cuồng loạn.

Anh sẽ quì bên đầu gối của em
Ôm đôi bàn chân một cách mãnh liệt
Anh đem những dòng thơ, dòng nước mắt
Để đốt lên vẻ cay đắng, dịu hiền.

Cho anh xem gương mặt giữa trời đêm
Cho đi vào đôi mắt đen u ám
Vào đôi bờ mi phương Đông đen thẫm
Và đôi bàn tay một nửa để trần.

Sẽ chẳng bớt đi cái đã được thêm
Sẽ lãng quên cái không thành hiện thực…
Thì tại vì sao em khóc, người đẹp?
Hay đấy chỉ là tưởng tượng hình dung?

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 15:04:08


Arseny Alexandrovich Tarkovsky (tiếng Nga: Арсений Александрович Тарковский, 25 tháng 6 năm 1907 – 27 tháng 5 năm 1989) – là dịch giả, nhà thơ Nga. Ông được coi là một nhà thơ lớn của Nga thế kỷ XX. Ông cũng là cha của đạo diễn phim nổi tiếng Andrei Tarkovsky.

Tiểu sử:
Arseny Tarkovsky sinh ở Elisavetgrad (nay thuộc tỉnh Kherson, Cộng hòa Ukraina). Bố làm việc ở ngân hàng nhưng tham gia vào các cuộc khởi nghĩa những năm 1880 nên bị đi tù 3 năm và sau đó bị đày đi vùng Sibêri. Khi được trở về Elisavetgrad ông cũng đi làm báo, viết bài cho các báo ở Elisavetgrad và Odessa.

Năm 1923 Arseny Tarkovsky đến Moskva ở với cô (chị của bố). Năm 1925 vào học trường viết văn và tốt nghiệp năm 1929. Thập niên 1920 vừa là cộng tác của báo Гудок, vừa học trường viết văn vừa sáng tác thơ, văn. Năm 1931 làm việc ở Đài phát thanh và viết một số vở kịch. Năm 1933 ông tập trung dịch thơ của các nhà thơ phương Đông và kết quả là đã để lại nhiều bản dịch thơ nổi tiếng của các nhà thơ Ả-rập, Gruzia, Armenia…

Thời kỳ Thế chiến II Arseny Tarkovsky làm ở tờ báo quân đội Боевая тревога nhưng không in thơ của mình mà chỉ đến ngày tròn 50 tuổi ông mới in ra. Hai mươi năm tiếp theo đó ông in 6 tập thơ: "Перед снегом" (1962); "Земле земное" (1966); "Вестник" (1969); "Стихотворения" (1974); "Зимний день" (1980); "Избранное" (1982).

Năm 1983 ông in tập Стихи разных лет gồm những bài thơ hay chưa từng in ở các tập trước đây. Cuốn sách cuối cùng От юности до старости của ông được tặng Giải thưởng Nhà nước Liên Xô tháng 11 năm 1989 (sau khi chết). Tháng 2 năm 2008 Hội đồng thành phố Moskva tuyên bố sẽ xây dựng xong bảo tàng về hai cha con Arseny và Andrei Tarkovsky và sẽ mở cửa vào năm 2011.

Tác phẩm:
*Перед снегом (1962)
*Земле — земное (1966)
*Вестник (1969)
*Волшебные горы (1978)
*Зимний день (1980)
*Избранное (полное прижизненное собрание стихотворений и переводов) (1982)
*Стихи разных лет (1983)
*От юности до старости (1987)
*Быть самим собой (1987)
*Благословенный свет (1993)
*Собрание сочинений в 3-х тт. (1991—1993)



Một số bài thơ:

MƯA ĐÊM

Đấy là chuyện về những giọt mưa rơi
Bay từ trong ánh sáng vào bóng tối.
Theo ý của cái lần đầu tiên ấy
Mình gặp nhau trong một buổi xấu trời.

Và chỉ những cầu vồng trong màn sương
Quanh những ngọn đèn lắt lay, mờ mịt
Chúng đã từng báo cho em biết trước
Một điều rằng thân thiết mối tình anh.

Về điều rằng mùa hè đã qua nhanh
Rằng cuộc sống âu lo và tươi sáng
Và dù em đã sống, nhưng ít lắm
Em hãy còn sống ít ở trần gian.

Những giọt mưa như nước mắt long lanh
Mưa trên gương mặt của em lấp lánh
Mà anh vẫn hãy còn chưa biết đến
Ta sẽ sống qua bao sự điên cuồng.

Anh nghe giọng nói của em xa xăm
Hai chúng mình không giúp gì nhau được
Mưa suốt đêm trên mái nhà gõ đập
Như ngày nào đã từng gõ suốt đêm.


ANH SỢ

Anh sợ là đã quá muộn màng
Để anh đi mơ về niềm hạnh phúc
Anh sợ là đã quá muộn màng
Nhoài người về phía của em
Xa lạ và tối đen như mực.

Anh đã từng biết cái đêm
Cái đêm tôi tăm, không ánh lửa
Và anh đã từng biết đến em
Không lặng yên và rất tươi trẻ
Trong những khi em chẳng có anh.

Anh từng biết, như bao người khác
Trong giờ muộn màng của nỗi buồn anh
Anh từng biết, như bao người khác
Đang nhìn vào đôi mắt rất đen
Những con mắt thật là tai ác.

Và trong cái đêm ghen tỵ của anh
Những gót giày của em gõ nhịp
Và trong cái đêm ghen tỵ của anh
Cơn ấm nồng đầu tiên ngây ngất
Thở dồn trên ngực của em.

Anh từng một thuở trẻ trung
Và em đến từ bao đêm ấy
Anh từng một thuở trẻ trung
Hiểu cái lạnh ngạt hơi đến vậy
Và nước lạnh mùa xuân trong máu của em.





GIÁ ĐƯỢC NHƯ NGÀY XƯA

Giá được như ngày xưa, từng kiêu hãnh
Thì anh đã bỏ lại em đến muôn đời.
Tất cả những gì không đáng mang theo
Và tất cả những gì không nên bỏ lại –
Vương quốc của anh giờ hai nửa chia đôi.

Thì anh sẽ nói rằng:
-Em mang đi theo mình
Một trăm lời hứa, một trăm ngày lễ
Một trăm lời. Cái này thì em có thể mang.

Chỉ còn lại cho anh lạnh lẽo bình minh
Và một trăm chuyến tàu đến muộn
Một trăm giọt mưa trên đường tàu điện
Một trăm ngõ, một trăm phố và một trăm
Giọt nước mưa chạy theo vết của em.

Từ sáng sớm, anh đợi từ hôm qua

Từ sáng sớm, anh đợi từ hôm qua
Em không đến – mọi người đoán thế
Em còn nhớ không, tiết trời khi đó?
Như ngày vui! Anh không mặc bành tô.

Hôm nay em đến, trời dành cho ta
Một ngày âm u rất là đặc biệt
Mưa, và đặc biệt là trong giờ chót
Chạy theo nhánh cành những giọt nước mưa.

Không có lời an ủi, không khăn để lau khô…


NGÀY 25 THÁNG 6 NĂM 1935

Không quan trọng ngày lễ của tôi có màu xám hay màu đỏ
Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng trên cửa sổ luôn có hoa hồng
Không phải là sự biết ơn, mà tình cảm đủ đầy như thế
Trong cái ngày này tôi luôn có được thường xuyên.
Mà nếu tôi không đúng, thì hãy nói vì sao tôi lại cần
Sự yên lặng của cỏ hoa, tình bạn của những khu rừng nhỏ
Những mũi tên của cánh chim, và tiếng suối rì rào thỏ thẻ
Giống như lời tỏ tình của những người vừa điếc lại vừa câm?

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 15:05:21


Mark Samoylovich Lisyansky (tíếng Nga: Марк Самойлович Лисянский, 13 tháng 1 năm 1913 – 30 tháng 8 năm 1993) – nhà thơ Nga, tác giả lời của nhiều bài hát nổi tiếng, trong đó có Bài ca chính thức của Thủ đô Nga (гимн столицы России).

Tiểu sử:
Mark Lisyansky sinh ở Odessa (nay là Cộng hòa Ucraina). Tuổi thơ sống ở thành phố Nikolaiev cho đến ngày học xong trung học. Những năm 1929 – 1932 làm thợ ở nhà máy đóng tàu Nikolaiev. Từ 1932 đến 1934 học ở trường Báo chí Moskva. Sau khi tốt nghiệp làm biên tập ở nhiều tờ báo của các tỉnh Ivanova, Yaroslavl… Năm 1940 xuất bản tập thơ đầu tiên Берег ở Yaroslavl.

Những năm Chiến tranh Vệ quốc Mark Lisyansky phục vụ trong quân đội. Đầu tiên làm trung đội trưởng tháo gỡ bom mìn, sau làm biên tập tờ báo Vào trận đánh vì Tổ quốc (В бой за Родину) và làm phóng viên chiến trường của nhiều tờ báo khác. Thơ viết ở chiến trường in trong các tập Моя земля, 1942; Фронтовая весна, 1942; От имени Черного моря, 1947.

Sau chiến tranh Mark Lisyansky sống ở Moskva. Ông là tác giả của các tập thơ: Моя земля, Золотая моя Москва, За весной весна, Такое время, За горами, за лесами, Спасибо… Ông cũng là tác giả phần lời của rất nhiều bài hát nổi tiếng từ thời chiến tranh cho đến tận ngày nay. Bài thơ Mát-xcơva của ta (Моя Москва) in ở tạp chí Thế giới mới năm 1941 được nhạc sĩ Isaak Dunayevsky phổ nhạc trở thành một biểu tượng của cuộc chiến chống phát xít xâm lược. Ngày 5 tháng 7 năm 1995 Hội đồng thành phố Moskva đã quyết định lấy bài hát này làm Bài ca chính thức của Thủ đô Nga.

Mark Lisyansky mất ngày 30 tháng 8 năm 1993 ở Moskva.

Một số bài thơ:

TÌNH YÊU LÀ GÌ?

Chúng mình chia tay trong ánh hoàng hôn
Còn buổi chiều như ngôi sao xa lắc.
Tình yêu là gì? Đó là gặp mặt
Đến tận cùng, suốt thế kỷ, muôn năm.

Con tàu đang bơi về chốn xa xăm
Không đi khỏi những bàn tay lưu luyến.
Bởi tình yêu không có bờ có bến
Bởi tình yêu không ly biệt cách ngăn.

Không hề có… Giã biệt! Chỉ tiếng vang
Của lời “giã biệt” nhắc đi nhắc lại!
Xa tình yêu không một ai đi khỏi
Không một ai đi khỏi được với tình.

Không ai, không gì thay thế được em
Anh và em – xa mà gần là thế.
Tình yêu là gì? Đó là gặp gỡ
Đến tận cùng, suốt thế kỷ, muôn năm.





MOSKVA CỦA TA
(Bài ca chính thức của Thủ đô Nga)

Thế gian này nhiều nơi đã từng đi
Từng ở rừng, trong chiến hào, công sự
Từng bị chôn sống đôi ba lần có lẻ
Từng yêu trong u sầu, từng hiểu biệt ly.

Nhưng ta quen tự hào về Mát-xcơva
Dù ở đâu ta vẫn luôn nhắc mãi:
Mát-xcơva thành phố vàng của ta
Thủ đô của ta, thủ đô yêu dấu!

Ta yêu những khu rừng nhỏ ngoại ô
Yêu những cây cầu trên sông thành phố
Yêu quảng trường của người – Quảng trường Đỏ
Và ta yêu tiếng chuông của đồng hồ.

Ở những thành phố, ở những vùng xa
Ta nghe tiếng về thủ đô yêu dấu
Mát-xcơva thành phố vàng của ta
Thủ đô của ta, thủ đô yêu dấu!

Ta nhớ về một mùa thu khốc liệt
Lê sáng bừng và tiếng rú xe tăng
Và tiếng thơm còn vọng mãi ngàn năm
Hai mươi tám người con anh dũng nhất.

Và kẻ thù không bao giờ có thể
Bắt cúi đầu nổi thành phố của ta
Mát-xcơva thành phố vàng của ta
Thủ đô của ta, thủ đô yêu dấu!


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 15:07:50


Karolina Karlovna Pavlova (họ trước khi lấy chồng: Jänisch, tiếng Nga: Кароли́на Ка́рловна Па́влова - Каролина Павлова-Яниш)(10 tháng 7 năm 1807 – 2 tháng 12 năm 1893) – là nữ nhà thơ Nga gốc Đức.

Tiểu sử:
Karolina Pavlova sinh ở Yaroslavl. Bố là một giáo sư ngành y rất yêu hội họa và văn học. Karolina được dạy dỗ đến nơi đến chốn. Từ nhỏ đã thông thạo 4 ngoại ngữ và nổi tiếng khắp Moskva là “một thiếu nữ tài năng và đa tài”. Năm 1825 Karolina Pavlova gặp nhà thơ Adam Mickiewicz ở Moskva. Hai người yêu nhau và định làm đám cưới nhưng bố của Karolina phản đối. Ông không muốn con gái mình kết hôn với nhà thơ nghèo lại đang theo đuổi chuyện chính trị (kêu gọi dân Ba Lan khởi nghĩa chống lại ách thống trị của Nga hoàng). Sau đó Adam Mickiewicz rời Moskva và từ đó hai người không còn gặp nhau nữa. Mối tình này được thể hiện trong nhiều bài thơ của Karolina Pavlova. Sau này bà viết cho con trai của Adam Mickiewicz: “Hồi tưởng về tình yêu này là niềm hạnh phúc đối với tôi”.

Năm 1833 in cuốn Das Nordlicht… Proben der neueren russischen Literatur (Ánh sáng phương Bắc. Những hình ảnh của văn học Nga mới) ở Đức gồm các bản dịch thơ của Aleksandr Sergeyevich Pushkin, Vasily Andreyevich Zhukovsky, Evgeny Abramovich Baratynsky, Anton Antonovich Delvig… và một số bài hát dân gian cùng với 10 bài thơ sáng tác bằng tiếng Đức. Năm 1835 đăng trên tạp chí Revue Germanique của Pháp bản dịch Die Jungfrau von Orléans của Friedrich Schiller ra tiếng Pháp. Năm 1839 bà xuất bản ở Paris cuốn Les preludes gồm các bản dịch thơ của các nhà thơ Nga và Anh, Đức sang tiếng Pháp.

Năm 1937 nhờ món tài sản thừa kế rất lớn của người cậu nên Karolina Pavlova mặc dù lúc nhan sắc đã không còn mặn mà nhưng vẫn cưới được nhà văn Nicolay Pavlov đang rất nổi tiếng lúc đó. Sau này chính Nicolay Pavlov đã thú nhận rằng “sai lầm lớn nhất trong đời là cưới vợ vì tiền”. Đến đầu thập niên 1850 thì cuộc hôn nhân này tan vỡ cùng với những vụ xì-căng-đan. Năm 1853 bà đi sang Đức rồi Pháp, Thụy Sĩ. Từ năm 1861 trở về Dresden sống thường xuyên, thỉnh thoảng mới về thăm nước Nga trong vài ngày. Karolina Pavlova mất ở Dresden, Đức.

Thư mục:
*Павлова К. Полное собрание стихотворений. М. — Л., 1964
*Павлова К. Стихотворения. М., 1985
*Файнштейн М.Ш. К.К.Павлова. — В кн.: Файнштейн М.Ш. Писательницы пушкинской поры. Л., 1989
*Кони А.Ф. К.Павлова. — В кн.: Кони А.Ф. Воспоминания о писателях. М., 1989

Một số bài thơ:

EM BÂY GIỜ CÓ SUY NGHĨ VỀ ANH

Em bây giờ có suy nghĩ về anh
Không lầm lỗi, dù có phần buồn bã!
Lòng em hướng về miền đất xa xăm
Về số phận đã từ lâu xa lạ.

Nhiều năm qua – và những ngày đau khổ
Và ngày vui chưa từng gặp một lần
Rất nhiều năm – và còn hơn thế nữa
Biến cố làm thay đổi em và anh.

Anh và em chia tay không như thế
Ta chia tay – thi sĩ, còn nhớ chăng?
Món quà hạnh phúc là do phận số
Mà, có thể là: có, có thể - không!

Ai đã từng có ảo ảnh màu hồng
Những giấc mơ cầu toàn và kiêu hãnh?
Ai từng ngăn lại phút giây xúc cảm
Ánh hoàng hôn, những ngọn sóng triều dâng?

Ai không bảo vệ? Sợ hãi, lặng câm
Trước thần tượng đã không còn uy tín?...


VỀ CÁI CŨ XƯA

Về cái cũ xưa, những gì đã chết
Ý nghĩ lặng câm đè nặng trong lòng
Trong cuộc đời tôi gặp bao cái ác
Và biết bao tình cảm đã xài hoang
Nhiều hy sinh cho mình không đúng lúc.

Tôi lại bước đi sau mỗi sai lầm
Mà lãng quên bài học đời nghiệt ngã
Tôi bất lực, lầm lẫn giữa đời thường
Tin vào nước mắt, nụ cười, lời nói
Trí tuệ không dứt được khỏi trái tim.

Và tâm hồn và số phận cứng đầu
Giữa những khổ đau đã giành phần thắng
Vào thành công tôi hãy còn tin tưởng
Như con bạc kiên nhẫn và đời chờ
Ngày hạnh phúc, tôi dõi theo ngày tháng.

Kho báu này tiếp theo kho báu khác
Tôi vứt ra mà chẳng thấy thành công
Những kẻ hạnh phúc, những kẻ ngồi gần
Nhìn bằng ánh mắt tham lam, ác độc
Liệu hồn kiên gan có đổi thay chăng?




Các nhà thơ của Thế kỷ bạc Nga: Georgy Chulkov, Mariya Petrovykh, Anna Akhmatova, Osip Emilyevich Mandelstam.

Mariya Sergeevna Petrovykh (tiếng Nga: Мари́я Серге́евна Петровы́х, 26 tháng 3 năm 1908 – 1 tháng 6 năm 1979) – là nữ nhà thơ và dịch giả Nga.

Tiểu sử:
Mariya Petrovykh sinh ở Norskii Posad, tỉnh Yaroslavl. Cậu ruột là giám mục giáo xứ Yaroslavl. Một người cậu khác cũng là giám mục và là nhà văn Thiên chúa giáo (nhiều lần bị chính quyền bắt và cuối cùng bị xử bắn trong cuộc Đại thanh trừng). Mariya Petrovykh biết làm thơ từ năm lên 6 tuổi. Từ năm 1922 lên sống ở thành phố Yaroslavl và thường xuyên tham dự các buổi sinh hoạt của các nhà văn địa phương. Năm 1925 lên Moskva học trường viết văn (cùng lớp với nhà thơ Arseny Tarkovsky) và tốt nghiệp năm 1930 tai khoa Văn trường Đại học Tổng hợp Moskva (MGU).

Mariya Petrovykh làm quen với nhà thơ Boris Pasternak năm 1928, làm quen với Anna Akhmatova và Osip Mandelsstam năm 1933. Anna Akhmatova gọi bài thơ Назначь мне свиданье на этом свете (Hãy hẹn gặp em ở trên cõi đời) là “một kiệt tác thơ trữ tình trong những năm gần đây” (шедевром лирики последних лет). Mặc dù vậy, khi còn sống bà rất ít in thơ của mình thành tập riêng. Duy nhất chỉ một lần vào năm 1968 in tập Дальнее дерево ở Erevan.

Ngoài sáng tác thơ, Mariya Petrovykh còn dịch nhiều nhà thơ Armenia, Gruzia, Bulgaria, Ba Lan, Serbia, Séc, Do Thái, Ấn Độ… ra tiếng Nga. Năm 1970 được trao danh hiệu Nhà hoạt động Văn hóa của Armenia và đầu năm năm 1979 được tặng giải thưởng của Hội Nhà văn Armenia. Mariya Petrovykh mất ở Moskva.

Tác phẩm:
*Предназначенье. — М.: Советский писатель, 1983.
*Черта горизонта: стихи и переводы. Воспоминания о М. Петровых. — Ереван, 1986.
*Избранное. — М., 1991.
*Домолчаться до стихов. — М., 1999.
*Прикосновение ветра. — М., 2000.


Thư mục:
*Мкртчян Л. Поэт // Петровых М. Дальнее дерево. — Ереван: Айастан, 1968. — С. 3-15.
*Арс. Тарковский. Тайна Марии Петровых.
*Мкртчян Л. Так назначено судьбой. Заметки и воспоминания о Марии Петровых. Письма Марии Петровых. — Ереван, Изд-во РАУ, 2000.

Một số bài thơ:

HÃY HẸN GẶP EM

Hãy hẹn gặp em
ở trên cõi đời.
Hãy hẹn gặp em
trong thế kỷ hai mươi.
Thiếu tình yêu của anh em khó thở.
Anh hãy gọi em, hãy xem, hãy nhớ
Hãy hẹn gặp em
ở thành phố phương nam
Nơi những ngọn gió
thổi theo đồi vòng quanh
Nơi biển xanh quyến rũ
bằng con sóng bảy sắc cầu vồng
Nơi mà con tim chưa biết đến
một tình yêu đơn phương.
Anh hãy nhớ về lần gặp đầu tiên
Khi hai đứa theo vùng ven rảo bước
Giữa những ngôi nhà san sát
theo những nhánh đường hẹp
Và dân ở đây không nói giọng Nga
Phong cảnh nơi này tiều tụy, hoang sơ
Nhưng anh có nhớ, ngay cả trong hố rác
Những chai lọ thủy tinh và hộp sắt
cũng lấp lánh như kim cương
Ngỡ như ta mơ về điều gì đó tuyệt trần
Con đường nhỏ leo lên trên miệng vực…
Anh có nhớ chăng nụ hôn
nụ hôn dưới trời xanh?...
Em không nhớ gì con số
nhưng kể từ ngày ấy
Anh trở thành không khí và ánh sáng đối với em.
Hãy để tháng năm quay trở lại cho nhanh
Và mình sẽ gặp lại nhau trên phố Lựu…
Hãy hẹn gặp em ở chốn trần gian
Trong con tim ấm nồng và bí ẩn của anh
Như ngày xưa hai chúng mình
sẽ bước ra gặp gỡ.
Một khi ta còn thở
Một khi ta còn nghe
Một khi ta còn nhìn
Thì qua lời nức nở
Em cầu khẩn anh:
hãy hẹn với em ngày gặp gỡ!
Anh hãy hẹn gặp với em
dù chỉ trong phút chốc
Trên quảng trường người chật
dưới cơn bão mùa thu
Em khó thở, em xin người cứu vớt…
Dù chỉ là trong giờ phút lâm chung
Hãy hẹn gặp em bên đôi mắt màu xanh!


TRÊN ĐỜI CÓ MỘT ĐIỀU TỐT ĐẸP

Trên đời có một điều tốt đẹp –
Là trao hết mình và quên
Trao và xóa sạch không còn dấu vết.
Trên đời có con đường thành công:
Là sống vô tư như dòng nước
Dòng nước trẻ trung, trong suốt
Tồn tại mà chẳng nhọc lòng
Dòng nước này và là dòng nước khác
Sinh sôi nảy nở thường xuyên.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 15:09:50


Yaroslav Vasilyevich Smelyakov (tiếng Nga: Яросла́в Васи́льевич Смеляко́в, 26 tháng 12 năm 1912 (lịch mới: 8 tháng 1 năm 1913) – 21 tháng 11 năm 1972) – là nhà thơ, nhà phê bình, dịch giả Nga Xô Viết.

Tiểu sử:
Yaroslav Smelyakov sinh ở thành phố Lutsk (nay là Ukraina) trong một gia đình công nhân đường sắt. Tuổi nhỏ sống ở làng quê, sau chuyển đến Moskva. Năm 1931 tốt nghiệp trường trung học in và làm việc tại nhà máy in. Bắt đầu đăng thơ ở các tờ báo tường được các nhà thơ Mikhail Arkadyevich Svetlov, Eduard Bagritsky chú ý. Năm 1932 in tập thơ đầu Работа и любовь do chính ông tự tay xếp chữ ở nhà in. Năm 1934 do lời buộc tội không có căn cứ đã bị bắt đi cải tạo đến năm 1937. Tiếp đến là một số năm làm việc ở một số tờ báo.

Thời kỳ thế chiến II Yaroslav Smelyakov làm lính trơn, chiến đấu tại mặt trận Karenlia, bị bắt làm tù binh ở Phần Lan và đến năm 1944 mới được ra tù. Sau chiến tranh ông lại bị bắt đi cải tạo một lần nữa. Chỉ đến năm 1956 mới được hưởng ân xá. Cũng trong năm này ông in câu chuyện thơ Строгая любовь viết về thế hệ trẻ thập niên 1920 được thừa nhận là một tác phẩm xuất sắc. Năm 1959 xuất bản tập thơ Разговор о главном và năm 1967 tập День России trở thành một hiện tượng thơ ca, được tặng Giải thưởng Nhà nước Liên Xô. Ngoài thơ ông còn viết phê bình và dịch các nhà thơ của các nước cộng hòa khác ra tiếng Nga.

Ngoài giải thưởng Nhà nước ông còn được tặng 3 huân chương khác của Nhà nước Liên Xô. Yaroslav Smelyakov mất ngày 21 tháng 11 năm 1972 ở thủ đô Moskva.

Tác phẩm:
*Работа и любовь, 1932
*Строгая любовь, 1956)
*Разговор о главном, 1959
*День России (1967; Гос. премия СССР)
*Товарищ Комсомол, 1968
*Молодые люди, 1968
*Мое поколение, 1973
*Служба времени, 1975


Thư mục:
*Дементьев В., Ярослав Смеляков. Сильный, как терн, М., 1967;
*Рассадин Ст., Ярослав Смеляков, М., 1971;
*Урбан А., Открывая книгу стихов, "Звезда", 1975, № 1.

Một số bài thơ:

NGƯỜI GIỜ ĐÃ XA XĂM

Đấy là người phụ nữ
Người phụ nữ khi mà tôi
Đã quên đi về những gì cay đắng
Thì người nhẹ nhàng mang theo gánh nặng
Của tình yêu và của nỗi buồn tôi.

Ngọn gió với chiếc áo màu vàng đùa chơi
Nhưng trông nàng ngay ngắn và chững chạc
Trong trẻo và tinh khiết
Tôi ngỡ nàng bây giờ là vợ của tôi!

Bàn tay hất mái tóc một cách lơ đãng
Đôi mắt không nhìn xuống
Nàng bước đi trên đường
Như mùa thu vừa sang
Như cơn giống mùa hè bất ngờ ập đến.

Tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng
Rằng đã từng sống gần nhau nhiều năm
Với những công việc lăng xăng và bận rộn
Khi đó tôi đã không nhìn ngắm
Bằng ánh mắt tỉnh táo để mà xem!

Hãy tha thứ cho tôi vì những quở trách đáng thương
Vì ngọn lửa phát bùng một cách vô lý
Vì những dòng thơ không hề suy nghĩ
Hỡi người đẹp của tôi giờ đã xa xăm.


NGÀY XỬA NGÀY XƯA

Ngày xửa ngày xưa khi chưa sinh thành
Anh đã biết em, đã yêu, đã đợi
Anh nghĩ ra em, khát khao hướng tới
Em là nỗi buồn, lý tưởng của anh.

Và em đến, nghe được nỗi chờ mong
Biết được anh đã yêu từ trước đó
Giống như hồi tưởng của thời thơ bé
Từ thẳm sâu xa vắng của thời gian.

Tin chắc rằng đấy hình bóng của anh
Được tạo bởi một nỗi buồn hành hạ
Không phải em – người anh đang ngắm nghía
Mà trò chơi của ý nghĩ vô tình.

Anh cám ơn sự tập luyện can trường
Vì ý nghĩ của em, vì tất cả
Vì tất cả những gì mà em
Không chỉ là sự hiện thân nô lệ
Không chỉ bản sao của ước mơ anh.

Với đầy đủ sức mạnh của tinh thần
Em xa xôi với những gì dối trá
Như ánh chớp của những tinh cầu giả
Rất cách xa đời thực của hành tinh.

Và bây giờ anh đang đứng trước em
Rất trinh bạch và chân thành đến vậy
Đến muôn đời anh bị chinh phục bởi
Vẻ đẹp dịu dàng say đắm của nhân gian.

Người mộng mơ đừng xét đoán gì anh:
Anh hôm nay mừng cho hai người đó
Rằng cuộc đời này đã, đang và sẽ
Cao hơn nhiều những tưởng tượng của anh.

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 15:12:03


Leonid Nickolayevich Martynov (tiếng Nga: Леони́д Никола́евич Марты́нов, 9 tháng 5 năm 1905 – 21 tháng 6 năm 1980) – nhà thơ, nhà văn, dịch giả Nga, được coi là một trong những nhà thơ lớn của Nga thế kỷ XX.

Tiểu sử:
Leonid Martynov sinh ở Omsk. Bố làm công nhân đường sắt, mẹ là giáo viên trường làng. Bản thân Martynov chưa học hết phổ thông trung học nhưng từng làm phóng viên của nhiều tờ báo. Năm 1921 in những bài thơ đầu tiên trên một số tờ báo địa phương. Năm 1930 in cuốn văn xuôi đầu tiên. Năm 1932 đưa bản thảo đến nhà in cuốn “Câu chuyện về yêu và ghét trong những năm đầu cải tổ xã hội chủ nghĩa” nhưng không được in và bản thảo bị thất lạc. Cũng trong năm 1932 bị bắt vì tội tuyên truyền chống cách mạng và bị đi miền Bắc cải tạo 3 năm. Nói là cải tạo nhưng ông cũng được phép làm ở tờ báo của tỉnh Vologda và ở đây ông đã cưới được vợ.

Năm 1939 in cuốn thơ đầu tiên Стихи и поэмы (Thơ và trường ca) và trở nên nổi tiếng sau khi in cuốn sách này. Năm 1942 được kết nạp vào Hội Nhà văn. Năm 1943 gia nhập vào một trường bộ binh nhưng vì lý do sức khỏe nên không phải ra trận mà chỉ ngồi viết sách lịch sử của trường. Từ năm 1946 ông chuyển về sống ở Moskva.

Ngoài sáng tác ông còn dịch nhiều nhà thơ nổi tiếng của thế giới. Nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc và trở thành những bài hát nổi tiếng. Leonid Martynov ba lần được tặng huân chương Lao động trong các năm 1964, 1971 và 1975, Giải thưởng Nhà nước của Liên bang Nga năm 1966, Giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1974. Ông mất ở Moskva năm 1980. Ở thành phố Omsk người ta đã dựng tượng ông và có một con đường, một thư viện mang tên ông. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt

Tác phẩm:
Thơ và văn xuôi:
*Грубый корм, или Осеннее путешествие по Иртышу: [Очерки] — М.: Федерация, 1930.
*Стихи и поэмы. Омск: Областное издательство, 1939.
*Крепость на Оми: [Очерки]. — Омск: Омское областное государственное издательство, 1939 (на обложке: 1940).
*Поэмы. Омск: Государственное издательство, 1940.
*Поэмы. М.: Сов.писатель, 1940.
*Мы придем: Книга стихов. Омск: Областное государственное издательство, 1942.
*Жар-цвет: Книга стихов. Омск: Областное государственное издательство, 1944.
*Лукоморье: Книга стихов. — М.: Советский писатель, 1945.
*Эрцинский лес: Книга стихов. — Омск: ОмГИЗ, 1945 (на обложке: 1946).
*Стихи. — М.: Молодая гвардия, 1955.
*Лирика: Книга стихов. — М.: Советский писатель, 1958.
*Стихотворения. — М.: Художественная литература, 1961 (Серия «Библиотека советской поэзии»).
*Первородство: Книга стихов. — М.: Молодая гвардия, 1965.
*Сочинения: В 2-т. — М.: Художественная литература, 1965.
*Людские имена: Книга стихов. — М.: Молодая гвардия, 1969.
*Гиперболы: Книга стихов. — М.: Современник, 1972.
*Во-первых, во-вторых и в-третьих: Книга стихов. — М.: Молодая гвардия, 1972.
*Воздушные фрегаты: Книга новелл. — М.: Современник, 1974.
*Пути поэзии: Книга стихов. — М.: Советская Россия, 1975.
*Земная ноша: Книга стихов. — М.: Современник, 1979.
*Собрание сочинений: В 3 т. — М.: Художественная литература, 1976—1977.
*Узел бурь: Книга стихов. — М.: Современник, 1979.
*Золотой запас: Книга стихов. — М.: Советский писатель, 1981.
*Черты сходства: Новеллы. — М.: Современник, 1982.
*Стихотворения и поэмы. — Л.: Советский писатель, 1986 (Библиотека поэта. Большая серия).
*Дух творчества: Стихотворения, поэмы. — М.: Русская книга, 2000.
*У дверей вечности: Стихотворения. — М.: ЭКСМО-Пресс, 2000.
*«Буря календарь листала…» М.: Молодая гвардия, 2005.
*Дар будущему: Стихи и воспоминания / Сост. Г. А. Сухова-Мартынова, Л. В. Сухова. — М.: Вече, 2008.

Dịch thuật:
*Такташ Х. Стихи/Пер. с татар. Л. Мартынова. М., 1948.
*Мадач Имре. Трагедия человека: Пьеса/Пер. с венг. Леонида Мартынова. М., 1964.
*Поэты разных стран: Стихи зарубежных поэтов в переводе Леонида Мартынова. — М.: Прогресс, 1964. (Серия «Мастера поэтического перевода», вып.2).
*Такташ Х. Письма в грядущее: Стихотворения и поэмы/Пер. с татар. Л. Мартынова. Казань, 1971.
*Ади Э. Стихи/Пер. с венг. Леонида Мартынова. М., 1975.
*Межелайтис Э. Голос/Стихи в пер. Л. Мартынова. Вильнюс, 1977.
*Вёрёшмарти М. Чонгор и Тюнде: Пьеса-сказка/Пер. с венг. Л. Мартынова. М., 1984.

Sách viết về nhà thơ:
*Сын Гипербореи: Книга о поэте. Омск: Инкомбанк, 1997.
*Сухова-Мартынова Г. А. Воспоминания о Леониде Мартынове. М.: Советский писатель, 1989.
*Шайтанов И. О. Леонид Мартынов / Художественные поиски и традиции в современной поэзии //Русская литература XX века. Под ред. В. В. Агеносова. 11 кл. Ч.2. М.: Дрофа, 2007.
*Поварцов С. Над рекой Тишиной. Омск: Омское книжное издательство 1988.
*Красников Г. Н. Время собирать камни мироздания (Вступительная статья) / Л.Мартынов. Буря календарь листала. М., Молодая Гвардия, 2005.

Một số bài thơ:



ANH YÊU EM

Cánh buồm của anh
Vá chặp vá đùm
Nhưng nó phục vụ cho con thuyền chăm chỉ.
Anh yêu em
Quan trọng gì già hay trẻ
Nếu như anh yêu em!

Có thể
Còn lại anh và em
Chỉ anh và em trên thực tế
Anh yêu em là để
Biển nổi sóng, dù vẫn lặng theo thời gian.

Và mây đen giữa trời xanh
Và dây rợ
Cót két kêu lên.
Nhưng em là chủ con thuyền –
Chỉ em.
Và không có gì hay hơn nữa
Rằng anh yêu em!


SỰ DỊU DÀNG

Em giờ úa vàng, còn anh tê tái
Sẽ không hay ta gặp gỡ lúc này
Chỉ sự dịu dàng ngày trước quên ở đây
Đã buộc anh đánh đường quay trở lại.

Anh vào nhà, không chào hỏi, kêu vang:
- Người gác ngủ, cửa nhà em đang mở
Anh không doạ gì đâu, em đừng sợ
Chỉ xin em trả lại sự dịu dàng.

Anh mang lên gác thượng, vào bóng đêm
Nơi bầy chuột trong đôi giày lót ổ
Anh mang lên gác sự dịu dàng xưa cũ
Để trẻ bơ vơ không thể đi tìm.


XƯA Ở NƯỚC NGA

Xưa ở nước Nga hoa súng nở trên đầm
Nơi vẫn đang mơ màng những con cá giếc
Bạn xuống tắm. Và bỗng nhiên cá giếc
Có vẻ như từ dưới đáy nổi lên.

Và bạn hỏi hoa súng trong bóng đen:
“Này hoa! Mày có điên không đấy!
Thế, nếu như ta đưa tay ra hái?”
“Hái đi. Đừng sợ, Ta sẽ hồi sinh!”

Hoa súng nhọc nhằn – lên đến đỉnh.
Hoa kia muốn trở thành bình
Dù là chiếc bình không lớn
Nhưng với linh hồn người trần gian.

Tất cả được bắt đầu
Từ cái chết
Và khi đó sẽ rõ ràng
Ai với ai thân thiết
Ai với ai giao thiệp
Quê hương có tự hào về anh.
Và tất cả trở nên sáng tỏ hơn
Ai chân lý, ai phù vân
Ai nô lệ, ai biết…
Còn nếu tất cả kết thúc bằng cái chết
Thì chẳng có chi để bắt đầu!

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 15:14:57


Nikolay Nikolaevich Aseyev (tiếng Nga: Никола́й Никола́евич Асе́ев, 27 tháng 6 năm 1889 – 16 tháng 7 năm 1963) – nhà thơ Nga Xô Viết.

Tiểu sử:
Nicolay Aseyev sinh ở Lgov, tỉnh Kursk. Thời nhỏ sống với ông nội, là một người yêu thích dân ca, truyện cổ tích và kể chuyện rất hay. Tốt nghiệp trường trung học ở Kursk năm 1907. Học Đại học Thương mại Moskva trong các năm 1909 – 1912. Ngoài ra ông còn dự các khóa học ngôn ngữ ở Đại học Quốc gia Moskva và Đại học Tổng hợp Kharkov. Từ năm 1908 bắt đầu in bài ở các tạp chí Весна, Заветы, Проталинка. Một thời gian làm thư ký tòa soạn của tạp chí Русский архив. Từ năm 1922 chuyển về Moskva và sống ở đây cho đến cuối đời.

Nicolay Aseyev bắt đầu như một nhà thơ theo phái hình tượng. Tập thơ đầu tiên Sáo đêm (Ночная флейта) mang đậm hơi thở của trường phái thơ này. Từ năm 1914, Nicolay Aseyev cùng với Sergey Bobrov và Boris Pasternak là những nhà thơ chủ đạo của nhóm Trung tâm (Центрифуга). Nicolay Aseyev cũng thường xuyên trao đổi về thơ ca với Vladimir Mayakovsky và chịu sự ảnh hưởng của nhà thơ này. Từ năm 1923 ông tham gia nhóm Phái tả (ЛЕФ).

Ngoài thơ, Nicolay Aseyev còn viết các bài về lịch sử thơ Nga, thơ thiếu nhi và dịch thuật. Ông là người dịch thơ của Chủ tịch Mao Trạch Đông ra tiếng Nga. Nicolay Aseyev được tặng Giải thưởng Stalin, Huân chương Lenin và Huân chương Cờ đỏ. Ông mất ngày 16 tháng 7 năm 1963 ở Moskva.

Tác phẩm:
*Ночная флейта: Стихи. / Предисл. и обл. С. Боброва. — М.: Лирика, 1914. — 32 с.
*Зор. / Обл. М. Синяковой. — М.: Лирень, 1914. — 16 с.
*Леторей: Кн. стихов / Обл. М. Синяковой. — М.: Лирень, 1915. — 32 с.
*Ой конин дан окейн! Четвёртая кн. стихов. — М.: Лирень, 1916. — 14 с.
* Оксана. — М.: Центрифуга, 1916. — 88 с.
*Бомба. — Владивосток: Вост. трибуна, 1921. — 64 с.
*Аржаной декрет. — М.: Гиз, 1922. — 20 с.


Thư mục:
*Асеев Н. Собрание сочинений, тт. 1-5. М., 1963-1964
*Молдавский Д. Николай Асеев. М. — Л., 1965
*Карпов А. Николай Асеев. М., 1969
*Воспоминания о Николае Асееве. М., 1980
*Смола О. Лирика Николая Асеева. М., 1980
*Шайтанов И. В содружестве светил: Поэзия Николая Асеева. М., 1985
*Мешков Ю. Николай Асеев: Творческая индивидуальность и идейно-художественное развитие. Свердловск, 1987

Một số bài thơ:

NHỮNG DÒNG GIẢN DỊ

Anh không thể nào sống chẳng có em!
Không có em, ngày mưa – là hạn hán
Không có em trời nắng – anh lạnh cóng.
Không có em – Mátxcơva hóa rừng hoang.

Không có em – một giờ bằng cả năm
Giá mà được đem thời gian băm nhỏ
Và thậm chí, lòng anh đây cứ ngỡ
Bầu trời xanh là đá – nếu không em.

Không điều gì anh muốn biết đâu em –
Sức mạnh của thù, yếu hèn của bạn
Và chẳng có điều chi anh trông ngóng
Ngoài tiếng bước chân quí giá của em.



MÙA HÈ ĐANG VỀ CUỐI

Mùa hè đang về cuối
Những bông hoa ửng hồng
Ánh sáng giờ ít hơn
Đang về gần bóng tối.

Nhưng tia sáng vầng dương
Không thuộc quyền bóng tối
Mình vẫn như ngày ấy
Cháy bỏng và chân thành.


ROMEO VÀ JULIET

Hỡi những con người đáng thương, tội nghiệp!
Cuộc sống thiếu thơ cuộc sống thật buồn
Thiếu khúc dạo đầu, cảm giác hõa huyền
Sống trong thế giới chỉ toàn máy móc.

Thiếu lung linh của muôn loài hoa cỏ
Thiếu ngàn hoa lấp lánh, sáng long lanh
Thiếu ngất ngư khoan khoái của mùi hương
Từ những cái miệng con thơ rộng mở.

Xin các người hãy mở mắt cho rộng
Hãy để ý hơn và hãy lắng nghe
Thế gian có bao nhiêu thứ diệu kỳ
Mà cuộc sống xung quanh ta ban tặng.

Đấy là tia nắng đầu tiên ve vuốt
Những giọt sương trên lá cỏ và hoa –
Cuộc tranh luận về họa mi, sơn ca
Muôn đời của Romeo và Juliet.



<img alt="" src="http://img.encyc.yandex.net/illustrations/krugosvet/pictures/1/14/1006754-A00021E5.jpg">

Eduard Georgevich Bagritsky (tiếng Nga: Эдуа́рд Гео́ргиевич Багри́цкий, họ thật là Dzyubin, 22 tháng 10 năm 1895 – 16 tháng 2 năm 1934) – nhà thơ, dịch giả, nhà viết kịch Nga.

Tiểu sử:
Eduard Bagritsky sinh ở Odessa, trong một gia đình tư sản Do Thái với truyền thống tôn giáo rất nghiêm khắc. Bố mẹ muốn Eduard trở thành một kỹ sư hay bác sĩ nhưng Eduard thì lại mê say chất nghệ sĩ từ nhỏ. Từ năm 1915 lấy bút danh Eduard Bagritsky và bút danh tên phụ nữ Nina Voskresenskaya, bắt đầu in thơ trên các báo, tạp chí ở Odessa và trở thành nhà thơ nổi tiếng nhất trong số những nhà thơ trẻ của Odessa, những người sau này đã trở thành những nhà thơ, nhà văn lớn của Liên Xô như Semen Isaakovich Kirsanov, Vera Mikhaylovna Inber, Yuri Olesha…

Năm 1918 tình nguyện gia nhập Hồng quân, làm chính trị viên và viết nhiều thơ tuyên truyền trong thời kỳ Nội chiến. Sau chiến tranh làm việc tại chi nhánh điện báo Nga ở Ukraina. In ở các báo và tạp chí Odessa với các bút danh: “Некто Вася”, “Нина Воскресенская”, “Рабкор Горцев”.

Năm 1925 Bagritsky đến Moskva, trở thành thành viên của nhóm văn chương Перевал. Năm 1928 in tập thơ Tây Nam (Юго-запад), năm 1932 in tập thứ 2 Người chiến thắng (Победители). Năm 1930 gia nhập Hội các nhà thơ vô sản Nga (РАПП) và sống ở Ngôi nhà Hợp tác xã Văn (Дом писательского кооператива) nổi tiếng ở Moskva. Ngoài sáng tác, ông còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn của thế giới.

Từ năm 1930 ông bị bệnh suyễn (Asthma) hành hạ. Eduard Bagritsky mất ngày 16 tháng 2 năm 1934 ở Moskva. Vợ ông bị bắt đi cải tạo năm 1937 và đến năm 1957 mới được trở về đời thường. Con trai ông cũng hy sinh ngoài mặt trận năm 1942.

Tác phẩm:
*1918, 1926 — «Птицелов»
*1918, 1922, 1926 — «Тиль Уленшпигель»
*1926 — «Дума про Опанаса»
*1927 — «Контрабандисты». Положено на музыку Леонидом Утёсовым, Виктором Берковским и другими бардами.
*1927 — «От черного хлеба и верной жены»
*1932 — «Смерть пионерки»
*1932 — «Последняя ночь»


Thư mục:
*Беспалов И. Поэзия Эдуарда Багрицкого. – В кн.: Беспалов И. Статьи о литературе. М., 1959
*Багрицкий Э. Стихотворения и поэмы. М., 1964
*Багрицкий Э. Избранное. М., 1987
*Лежнев А. Эдуард Багрицкий. – В кн.: Лежнев А. Статьи о литературе. М., 1987
*Адамович Г. Эдуард Багрицкий и советская поэзия. – В кн.: Адамович Г. С того берега. М., 1996

Một bài thơ:



VỀ NGƯỜI YÊU CHIM HỌA MI

Tôi yêu anh
Còn anh thì yêu những con họa mi nào đấy…
Anh không biết rằng tôi không hề có lỗi
Rằng tôi yêu anh
Không búng, không huýt, thậm chí không lời nói
Anh thật khó mà hiểu nổi
Sao con người lại có thể yêu anh
Từ bấy đến giờ yêu anh chỉ những con chim.

Anh dấu yêu! Hãy để cho tôi được ôm anh
Nhìn những mũi tên của bờ mi rủ xuống
Kể với anh về những đau khổ của tình.
Tôi biết anh sẽ hỏi tôi: “Thế ở đâu cái đuôi của em?
Mỏ của em? Và ở đâu rồi đôi cánh?”
Anh yêu ơi! Em không phải chim họa mi, chích chòe
không phải chim sáo hét…
Anh hãy yêu em – yêu CÔ GÁI ĐẸP
hỡi NGƯỜI GIỐNG CHIM

còi cọc… Anh yêu dấu của em!”


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: 108 nhà thơ Nga - 14.05.2010 15:18:59


Nikolai Mikhailovich Karamzin (tiếng Nga: Никола́й Миха́йлович Карамзи́н, 1 tháng 12 năm 1766 – 22 tháng 5 năm 1826) – là nhà văn, nhà thơ, nhà sử học Nga, thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học Saint Petersburg, tác giả của bộ Lịch sử Nhà nước Nga gồm 12 tập, là một trong những công trình sử học tổng hợp đầu tiên của Nga.

Tiểu sử:
Nikolai Karamzin sinh ở làng Mikhailovka tỉnh Simbirsk trong một gia đình giàu có. Biết tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý. Năm lên 14 tuổi được gia đình gửi lên Moskva học ở trường tư do giáo sư của Đại học Quốc gia Moskva, Shaden dạy. Năm 1783, theo lời khuyên của bố, Karamzin vào phục vụ tại trung đoàn kỵ binh Petersburg. Từ tháng 5 – 1789 đến tháng 9 – 1790 đi các nước Đức, Thụy Sĩ, Pháp và Anh. Trong chuyến đi này ông đã gặp nhà triết học Immanuel Kant ở Königsberg và có mặt ở Paris trong những ngày Cách mạng Pháp.

Trở về Moskva ông thành lập Tạp chí Moskva (Московский Журнал) và sớm trở thành một tạp chí có tiếng thời đó. Năm 1802 ông thành lập tạp chí Tin Châu Âu (Вестник Европы) là tạp chí tư nhân đầu tiên ở Nga. Ông đã mời 12 nhà báo nổi tiếng của châu Âu cộng tác và mời những nhà thơ nhà văn nổi tiếng của Nga, trong số này có Gavrila Romanovich Derzhavin, Aleksandr Sergeyevich Pushkin, Vasily Andreyevich Zhukovsky..

Tháng 10 năm 1803 Nga hoàng Aleksandr I ký lệnh phong Karamzin làm người viết sử với mức lương 2000 rúp mỗi năm. Đây là công việc mà ông làm cho đến cuối đời. Bộ Lịch sử Nhà nước Nga ở thời đó in 3000 bản và bán hết trong vòng 25 ngày. Năm 1812 ông sống ở Moskva. Năm 1816 chuyển về Saint Petersburg và sống 10 năm cuối đời ở gần Nga hoàng. Năm 1818 ông được bầu là thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học Saint Petersburg. Năm 1824 ông trở thành cố vấn quốc gia của Nga hoàng Aleksandr I. Sau khi Nga hoàng Aleksandr I mất (tháng 11 năm 1825) Nikolai Karamzin cũng thường xuyên ốm nặng. Đầu năm 1826 ông được Nga hoàng Nicolai I cho tổ chức chuyến đi nghỉ dưỡng ở Pháp và Ý nhưng sức khỏe của ông không cho phép. Nikolai Karamzin mất ngày 22 tháng 5 năm 1826 ở Saint Petersburg.

Tác phẩm:
Thơ:
*К Милости, 1792
*Поэзия, 1792
*Меланхолия, 1802
Văn:
*Евгений и Юлия, 1789
*Письма русского путешественника, 1791/92
*Фрол Силин, 1791
*Бедная Лиза, 1792
*Лиодор, 1792
*Наталья, боярская дочь, 1792
*Остров Борнгольм, 1793
*Юлия, 1794
*Сиерра-Морена, 1794
*Чувствительный и холодный (Два характера)), 1801
*Рыцарь нашего времени, 1802
*Марфа Посадница, или Покорение Новагорода, 1803
*История государства Российского, 1818

Thư mục:
*Карамзин Н.М. Избранные сочинения, тт. 1-2. М., 1964
*Карамзин Н.М. Полное собрание стихотворений. М. — Л., 1966
*Карамзин Н.М. Избранные статьи и письма. М., 1982
*Карамзин Н.М. Письма русского путешественника. Повести. М., 1982
*Эйдельман Н.Я. Последний летописец. М., 1983
*Лотман Ю.М., Успенский Б.А. "" Письма русского путешественника Карамзина и их место в развитии русской культуры. — В кн.: Карамзин Н.М. Письма русского путешественника. Л., 1987



Một số bài thơ:

VĨNH BIỆT

Có ai yêu điên cuồng
Như anh từng yêu em?
Nhưng thở than phí uổng
Anh làm hại đời mình!

Khổ sở hành hạ anh
Say đắm chỉ một mình!
Yêu một cách cưỡng ép
Ai có thể đâu em.

Anh kém cỏi, tầm thường
Sao quyến rũ được em?
Không vui, không ngộ nghĩnh
Lấy gì để yêu anh?

Con tim thì giản đơn
Tình cảm trên thế gian.
Ở nơi cần nghệ thuật
Anh đã không biết đường!

(Nghệ thuật biết oai phong
Nghệ thuật biết tinh nhanh
Thông minh hơn tất cả
Và nói chuyện dễ thương.)

Anh đã không biết rằng
Mù vì tình yêu mình
Nên anh từng can đảm
Mong tình yêu của em!

Anh khóc, em cười anh
Đùa giỡn với tình anh
Em lấy làm tiêu khiển
Nỗi buồn anh chân thành.

Tia hy vọng lụi tàn
Giờ đây trong lòng anh…
Người khác đang làm chủ
Mãi mãi cánh tay em!..

Hãy hãy phúc, yên bình
Và vui vẻ chân thành
Bằng lòng cùng số phận
Và chung thủy với chồng!

Trong bóng tối mơ màng
Anh sống nốt đời mình
Và tuôn dòng lệ bỏng
Anh đợi phút lâm chung.


BÀI CA TỪ TRUYỆN "ĐẢO BORNHOLM"

Luật pháp rồi đây sẽ
Phán xét tình của anh
Nhưng mà ai có thể
Cưỡng lại được con tim?

Luật nào thiêng liêng hơn
Tình của em tha thiết?
Quyền lực nào mạnh hơn
Tình yêu và sắc đẹp?

Người đời nguyền rủa anh –
Anh vẫn yêu và sẽ -
Những tâm hồn nhẫn tâm
Những con tim nghiệt ngã!

Hỡi thiên nhiên thần thánh!
Bạn và con trai em
Em trao anh trái tim
Anh hoàn toàn trong trắng.

Và chính món quà tặng
Trang điểm thiên nhiên mà –
Thiên nhiên! Người đã muốn
Cho ta yêu Lila!

Tiếng sấm ngươi vang rền
Nhưng mà không giết chết
Khi mà ta hạnh phúc
Trong ôm ấp của tình.

Hỡi Bornholm yêu thương
Tâm hồn ta khao khát
Ta hướng về miền đất
Ta khóc thật hoài công.

Mệt mỏi và thở than
Muôn thuở ta cách ngăn
Lời thề nguyền cha mẹ
Với bờ bến của em!

Lila, em hãy còn
Sống trong nỗi buồn anh?
Hay là trên ngọn sóng
Đã kết liễu đời mình?

Hãy hiện ra với anh
Hỡi chiếc bóng thân thương!
Anh tự mình trên sóng
Sẽ chết cùng với em.
_________
* Bornholm – hòn đảo của Đan Mạch nằm trên biển Baltic. “Đảo Bornholm” là một tác phẩm của N. Karamzin, là câu chuyện của một chàng trai trẻ kể về chuyến du hành đến những miền đất lạ mà đảo Bornholm và câu chuyện tình với cô gái trên đảo này là những hoài niệm của nhân vật khi trên đường trở về nước Nga.


Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 109 bài trong đề mục