Nhà thơ, nhà viết kịch, nhà lý luận, phê bình văn học
Thomas Stearns Eliot sinh ra trong một gia đình tư bản Anh di cư sang Mỹ từ thế kỷ 17. Bố – Henry Ware Eliot là một doanh nhân thành đạt, mẹ – Charlotte Champe Stearns là người viết văn và làm thơ sùng đạo. Ông học triết học và ngôn ngữ ở đại học Harvard, sau đó học tiếp văn học và ngôn ngữ ở Đại học Sorbonne (Paris, Pháp), Đại học Marburg (Đức), Đại học Oxford (Anh). Từ năm 1914 thường xuyên sống ở Anh. Năm 1917, T. S. Eliot làm trợ lý giám đốc một tạp chí thuộc “phái hình tượng” - tờ
Người vị kỷ (The Egoist). Tập thơ đầu tiên của ông là
Prufrock và những bài thơ khác (1917) chịu ảnh hưởng rõ rệt của chủ nghĩa tượng trưng. T. S. Eliot viết phê bình văn học từ quan điểm thuần mỹ học, gạt bỏ xuống hàng thứ yếu những khía cạnh thuộc về tiểu sử của tác giả.
T. S. Eliot trở nên nổi tiếng như một nhà thơ ngay sau khi trường ca
Đất hoang (1922) ra đời với sự giúp đỡ to lớn của E. Pound, trong đó ông chẩn đoán trạng thái tinh thần của Châu Âu sau Thế chiến I, cho thấy sự trống rỗng tâm hồn của cả một thế hệ. Hình thức ngắt đoạn của trường ca này, lần đầu xuất hiện trên tạp chí
The Criterion do T. S. Eliot sáng lập, càng làm tăng thêm ấn tượng về sự mất định hướng của con người.
Tại Anh, ông làm việc cho nhà băng Lloyd, rồi làm giám đốc Nhà xuất bản
Faber & Gweger (sau đổi thành Faber & Faber). Năm 1927, T. S. Eliot nhập quốc tịch Anh và cải sang Anh giáo. Năm sau ông viết tiểu luận
Lanczenot Endrus đánh dấu bước ngoặt mang tính tôn giáo. Cùng với tập thơ xuất bản năm 1930 là
Ngày thứ Tư tro bụi (Ash Wednesday), tư tưởng tôn giáo bắt đầu hiện diện thường xuyên trong tất cả các tác phẩm của ông.
Vở kịch
Vụ giết người trong nhà thờ (1935) đánh dấu bước khởi đầu công việc thực sự của ông trong lĩnh vực sân khấu. Những năm 1949-1959 ông cho ra đời một loạt các vở kịch.
Eliot là người cả đời luôn làm lại mình, bắt đầu lại, sáng tạo lại: từ người Mỹ làm thành người Anh, từ công dân nước cộng hòa thành công dân nước theo chế độ quân chủ lập hiến, từ người theo đạo Tin lành thành tín đồ Anh giáo, từ người theo đuổi cách sống tự do, phóng túng thành người theo đuổi chủ nghĩa khổ hạnh. Và ông không thả mình theo cảm hứng của thơ ca mà bắt thơ ca đi theo tư tưởng của mình. Đã từng có một thời vì Eliot mà thế giới thơ ca Anh-Mỹ có sự phân rẽ sâu sắc: 3/4 các nhà thơ chịu sự ảnh hưởng thơ hoặc lý thuyết thơ của Eliot, 1/4 còn lại nhất quyết phản đối thi pháp mà Eliot đưa ra. Tuy vậy, một cuộc cách mạng thi ca mới đã không xảy ra. Không xảy ra vì trong thơ ca Anh-Mỹ vai trò chủ đạo thuộc về thơ ca bác học, mà thơ ca bác học ủng hộ Eliot. Ông là nhà cách tân thi ca, mặc dù vẫn tự nhận là học trò của Ezra Pound (1885-1972) – người phát hiện và cổ vũ, khuyến khích nhiều nhà thơ, nhà văn, trong số họ có nhiều người rất nổi tiếng như James Joyce (1882-1941), Robert Frost (1874-1963), Ernet Hemingway (1899-1961). Vinh quang đến với Eliot kể từ sau chiến tranh thế giới I trong khuôn khổ của dòng văn học “thế hệ mất mát” (lost generation). Eliot viết về sự mất mát của văn minh phương Tây, của cả nhân loại nhưng ngay từ đầu vẫn quan niệm đấy là bi kịch của thế hệ mất mát…
Sáng tác của Eliot T. S. có thể chia làm ba giai đoạn: từ 1909-1920, viết những tác phẩm có khuynh hướng bài tư bản và tôn giáo. Đây là thời kì tìm kiếm hình thức thể hiện và chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng. Năm 1917 ông làm biên tập tạp chí
Egoist. Những năm 20 là một giai đoạn mới trong sáng tác của ông với những tác phẩm tiêu biểu như
Đất hoang (1922);
Những kẻ rỗng tuyếch (1925). Tính qui mô, triết lý sâu sắc và cách thể hiện hình tượng thơ ca độc đáo đã cho phép Eliot trở thành một nhà cách tân có ảnh hưởng lớn nhất đối với văn học Anh-Mỹ những năm 20-30. Năm 1922 Eliot sáng lập tạp chí
Criterion (xuất bản đến năm 1939). Tạp chí này chủ yếu đang tải những tác phẩm của Eliot và những tác giả khác gần gũi về quan điểm với ông. Cuối những năm 20, đầu những năm 30 thế giới quan của Eliot có những thay đổi cơ bản. Cảm hứng phủ nhận và lo lắng được thay bằng cảm hứng tìm kiếm những giá trị đích thực. Tiêu biểu của thời kỳ này là những tác phẩm:
Thứ Tư tro bụi (1930),
Bốn khúc tứ tấu (1943). Trong các tác phẩm này Eliot sử dụng những phạm trù triết học (thời gian, nơi chốn, sự vô tận vv…) cùng với học thuyết của Anh giáo. Và cũng như hai giai đoạn trên, sáng tác thơ ca của ông gắn liền với hoạt động của một nhà lí luận, phê bình văn học, nhà triết học. Những năm 30 Eliot cố gắng thử nghiệm trong hoàn cảnh lịch sử mới một thể loại quen thuộc của thời đại Elizabeth là kịch thơ:
Vụ giết người trong nhà thờ (1935),
Bữa tiệc Cocktail (1950), tuy vậy, sự thành công không mấy đáng kể… Năm 1948 ông được trao tặng giải Nobel văn học với tư cách là một nhà thơ.
Tác phẩm: - Bản tình ca của J. Alfed Prufrock (The love song of J. Alfed Prufrock, 1911), thơ.
- Prufrock và những quan sát khác (Prufrock and other observation, 1917), thơ.
- Suy ngẫm về thơ tự do (Reflexions on vers libre, 1917), tiểu luận.
- Rừng thiêng (The sacred wood, 1920), phê bình.
- Đất hoang (The waste land, 1922), trường ca.
- Những kẻ rỗng tuếch (The hollow men, 1925), trường ca.
- Lanczenot Endrus (1928), tiểu luận.
- Ngày thứ tư tro bụi (Ash wednesday, 1930), thơ.
- Chức năng của thơ ca và chức năng của phê bình (The use of poetry and the use of criticism, 1933), tiểu luận.
- Đá tảng (The rock, 1934), thơ.
- Vụ giết người trong nhà thờ (Murder in the cathedral, 1935), kịch.
- Những tiểu luận cũ và mới (Essays ancient and modern, 1936), tiểu luận.
- Những chú mèo (Old possum's book of practical cats, 1939), thơ.
- Đoàn tụ gia đình (The family reunion, 1939), thơ.
- Bốn khúc tứ tấu (Four quartets, 1943), trường ca.
- Bữa tiệc cocktail (The cocktail party, 1949-1950), kịch.
- Ghi chép hướng tới việc định nghĩa về văn hóa (Notestowards the denfinition of the culture, 1950), tiểu luận.
- Thơ và kịch (Poems and plays, 1951), tiểu luận.
- Thư kí riêng (The confidence clerk, 1954), kịch.
- Về thơ và các nhà thơ (On poetry and poets, 1957), tiểu luận.
- Chính nhân khả kính (The elder statesman, 1959), kịch.
BẢN TÌNH CA CỦA J. ALFRED PRUFROCK(1) S’io credesse che mia risposta fosse
A persona che mai tornasse al mondo,
Questa fiamma staria senza piu scosse.
Ma perciocche giammai di questo fondo
Non torno vivo alcun, s’i’odo il vero,
Senza tema d’infamia ti rispondo.
Nào, ta hãy lên đường, anh và em
Trong buổi chiều lặng lẽ, dịu êm
Như người bệnh đang nằm trên bàn mổ
Ta hãy đi theo từng con phố nhỏ
Nơi vỏ sò chất đống ngổn ngang
ở nơi đó những quán rượu rẻ tiền
Những phòng trọ cho những đêm không ngủ
Đường phố dẫn vào cuộc tranh chấp, cãi cọ
Dẫn ta đến tận nơi
Và cho em, một câu hỏi chết người
Em đừng hỏi rằng “điều gì thế”
Nào, ta hãy đi về nơi đó.
Trong phòng khách những người phụ nữ chuyện trò
Họ nói chuyện về Michelangelo(2).
Sương màu vàng kì cọ trên mặt kính
Khói màu vàng chạm vào trên mặt kính
Liếm vào mọi góc của buổi hoàng hôn
Bám vào những rãnh mương
Trải lên ống khói
Trên bậc thềm bay nhảy
Nhìn thấy buổi chiều tháng Mười dịu êm
Và ngôi nhà đang ngủ im lìm.
Rồi đây, sẽ đến một thời gian
Trên đường phố làn khói màu vàng
Sẽ chùi lên mặt kính
Rồi sẽ đến một thời gian
Đối mặt phải sẵn sàng
Thời giết chóc và tạo dựng
Thời cho lao động
Câu hỏi này bày trên đĩa của em
Thời cho em và cho anh
Thời của một trăm điều do dự
Một trăm cái nhìn ra và sửa chữa
Khi cầm lấy cốc trà.
Trong phòng khách những người phụ nữ chuyện trò
Họ nói chuyện về Michelangelo.
Quả là sẽ đến một thời gian
Khi ngạc nhiên rằng “Không lẽ ta đã dám?”
Còn thời gian bước xuống bậc thang
Thời gian rảo bước trên mái tóc anh
(Thiên hạ sẽ nói rằng: “Đầu hắn ta đã bạc!”)
Chiếc áo khoác của anh cổ cồn cứng nhắc
Chiếc ca-ra-vát của anh có hình dáng giản đơn
(Thiên hạ sẽ nói rằng: “Hắn đã yếu tay chân!”)
Chẳng lẽ anh đã dám
Làm cho vũ trụ này lo lắng?
Mỗi phút – là thời gian
Để quyết định, nghi ngờ hay lật ngược hoàn toàn.
Điều này anh đã biết từ xưa
Những buổi chiều, những buổi sớm, buổi trưa
Cuộc đời mình anh dùng thìa cà phê đo đếm
Anh nghe những giọng hát từ đâu xa lắm
Nơi mà người ta theo nhạc hát lên
Là bởi vì anh đã dám?
Những điều này từ lâu anh đã biết
Những đôi mắt gắn anh vào công thức
Dán nhãn gim trên tường
Anh nằm trong đó thở than
Và anh bắt đầu
Khạc nhổ từ đầu ghép hai mảnh ván
Chẳng lẽ là anh lại dám?
Và những bàn tay này anh đã biết từ xưa
Những bàn tay đeo vòng, trắng và trọc lóc
Dưới ánh sáng ngọn đèn, có màu nâu mái tóc
Mà cũng có thể là
Mùi nước hoa từ quần áo tỏa ra?
Những bàn tay khăn quàng đem quấn
Chẳng lẽ là anh lại dám?
Và làm sao anh có thể bắt đầu?
………………………………….
Buổi hoàng hôn anh thơ thẩn trên những đường phố nhỏ
Và nhìn khói toả ra từ những ngôi nhà
Của những người cô đơn cúi mình bên cửa sổ?..
Ôi giá mà anh là hai càng cua bờm xờm
Chạy trốn vào trong đáy biển lặng im!
…………………………………….
Và buổi chiều đi vào đêm rồi êm đềm ngủ
Những bàn tay ấp ủ
Mệt mỏi… ngủ say… hay chỉ giả vờ
Ngủ say sưa ở dưới chân ta.
Có thể, sau khi uống trà và ăn bánh ngọt
Không cần đi vào những miền không thể biết?
Nhưng anh đã khóc, ăn chay, đã khóc và nguyện cầu
Và anh nhìn thấy trên mặt đĩa phẳng mái đầu.
Anh không phải nhà tiên tri – và đây không phải là điều gì vĩ đại
Anh nhìn thấy một lần và trước mặt anh lửa cháy
Một Người hầu(3) mặc áo khoác của anh và khúc khích cười
Nói tóm lại là anh đã thôi.
Và liệu có cần gì cho anh, sau tất cả
Sau bánh ngọt, cốc trà, trong lặng lẽ
Nói một điều gì đó về em và anh
Liệu có cần thiết chăng?
Với nụ cười rũ bỏ điều cấm đoán
Ôm cả hoàn cầu trong lòng im lặng
Và xoay quả đất với câu hỏi chết người
Rằng: “Ta là Lazarus từ cõi chết trở về đây
Ta quay trở về để nói ra tất cả” –
Nếu ai đó cái gối trên đầu đã sửa
Và nói rằng: “Không phải thế đâu
Tất cả đều không phải thế”.
Thì anh có cần gì sau đó
Thì anh còn cần thêm gì nữa
Sau những buổi hoàng hôn, sân trước và những đường phố mưa giăng
Sau ấm chén, sách vở, váy áo rải trên sàn
Và điều này, và hơn thế nữa?
Anh cứ ngỡ rằng lời chẳng có
Nhưng giống như khuôn mẫu trên màn hình
Thì liệu có còn cần thiết cho anh
Nếu như ai đó sửa lại khăn và gối
Và quay nhìn vào cửa sổ rồi nói:
“Tất cả không phải thế đâu
Tất cả đều không phải thế”.
……………………………..
Không! Anh không phải là Hamlet và không thể trở thành
Anh chỉ là người hầu, những kẻ ở xung quanh
Là kẻ bị người ta đẩy ra sân khấu
Rồi khuyên bảo phải thế này thế nọ
Người được tôn kính và rất sẵn lòng
Người cẩn trọng và khôn ngoan
Người cao sang nhưng hơi đần một chút
Theo thời gian có lẽ thành lố bịch
Theo thời gian thành kẻ pha trò.
Anh ngày một già thêm
Có lẽ anh phải xắn quần lên.
Liệu anh còn được ăn quả đào? Còn chải tóc trên trán?
Còn đi ra biển mặc quần màu trắng.
Và anh nghe những nàng tiên cá hát vang lên.
Nhưng bài hát này không phải để cho anh.
Anh thấy những nàng tiên cá bơi trên sóng biển
Những con sóng vuốt ve làn tóc trắng
Khi ngọn gió rì rào trên mặt nước trắng và đen.
Ta lang thang trong xứ sở của tiên
Nghe giọng nói của người trần và ta nức nở
Giọng nói gọi ta trở về trần thế, và ta chìm.
_____________
(1)Eliot viết bài thơ này năm 1910, khi đang còn là sinh viên Đại học Harvard, viết xong năm 1911. Bốn năm sau đăng ở tạp chí Poetry (June 1915). Sau đó in trong tập thơ đầu tiên Prufrock and Other Observations (1917). Đề từ của bài thơ này trích từ Thần khúc của Dante:
Giá tôi biết rằng câu chuyện của mình
Nghe thấy được người còn quay trở lại
Thì ngọn lửa của tôi đã không run.
Nhưng bởi vì không còn đường trở lại
Tôi chưa từng nghe chuyện ấy bao giờ
Nên tôi trả lời, xấu hổ chi mà ngại.
(Thần khúc_Địa ngục, khúc ca XXVII, dòng 61-66. Bản tiếng Việt của Hồ Thuợng Tuy)
Ý nghĩa của những dòng thơ này như sau: giá như nhân vật tin chắc rằng câu chuyện của anh ta có ai đó nghe được và sau này quay trở lại trần gian kể cho mọi người những điều đã nghe thì anh ta đã chẳng nói ra. Điều đó có nghĩa là Bản tình ca… của Eliot không ca lên cho tất cả cùng nghe. Đọc bài thơ đến hết ta sẽ hiểu ra rằng Prufrock không hề yêu ai cả - ít ra là trong trường hợp Bản tình ca… này, không yêu một người phụ nữ nào trong những lời độc thoại của mình. “Em và anh” ở đây là Prufrock tự nói với chính mình đấy thôi, còn những người phụ nữ thì chỉ chuyện trò về Michelangelo. Đây là bài ca tình yêu thời hiện đại của chàng sinh viên Đại học Harvard, nếu có thể gọi đấy là tình yêu.
Prufrock, một mặt nào đó cũng giống như Hamlet với “to be, or not to be”(nên hay không nên), rất thận trọng và lưỡng lự, chàng cứ sợ rằng sau lời tỏ tình của mình thì cả thế giới này sẽ sụp đổ. Mặt khác, không biết liệu có nên làm cho thế gian phiền muộn hay không, nếu như đằng nào thì người đời cũng không nghe, không hiểu mình? Và, ngay cả nếu được như Lazarus (La-xa-rơ: Tân Ước_Giăng11: 43,44) từ cõi chết trở về muốn kể lại những điều về cuộc sống, cái chết thì cũng chẳng ai thèm nghe: những người phụ nữ trong phòng khách kia chỉ quan tâm những điều mà họ muốn nói. Thì khi ấy mong ước được trở thành “hai càng cua bờm xờm/ chạy trốn vào trong đáy biển lặng im…” Chủ đề của Bản tình ca… là không yêu được. Từ không yêu được đến không sống được cũng chẳng xa xôi gì, bởi thế ở đoạn cuối ta thấy xuất hiện các nàng tiên cá (các nàng tiên cá tượng trưng cho vẻ đẹp chết người, vẻ quyến rũ của phụ nữ) và bài thơ kết thúc bằng lời “ta chìm” (we drown).
(2)Michelangelo Buonarroti (1475-1564) – nhà điêu khắc, họa sĩ, kiến trúc sư, nhà thơ Italia thời Phục hưng.
(3)Người hầu (the eternal Footman) – ở đây có nghĩa là cái chết, luôn luôn chuẩn bị bộ quần áo cuối cùng cho con người - áo quan.