Người Lính - Những suy ngẫm của một người lính Đức, 1936-1949
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 13 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 183 bài trong đề mục
khikho007 04.06.2008 14:30:50 (permalink)
0
 
Chương 7
 
Bình minh đến mau, và chúng tôi phải nuốt viên thuốc đắng ngắt của việc đầu hàng. 5: 55 sáng ngày 2 tháng 5 năm 1945, súng ống được chất lại và mọi người sắp hàng trong mưa phùn xám xịt của Berlin. Chúng tôi là các nhân viên bộ tư lệnh quân đoàn và các nhân viên thông tin (nhân viên vô tuyến và điện thoại) đang có mặt tại Bendlerstrasse và một số nhân viên của Bộ Tư Lệnh tối cao còn sót lại. Sự tàn phá xung quanh chúng tôi. Thành phố vẫn cháy dưới cơn mưa phùn, và khói cay xồng tấn công mắt và mũi chúng tôi.
 
Widling đã đi bằng xe đến tổng hành dinh của tướng Chuikov gần sân bay Tempelhof. Tôi bận rộn sắp lính vào hàng và chắc chắn không một ai mang vũ khí. Đại tá von Dufving, Đại tá Refior, Thiếu tá Wolff và tôi dẫn đầu hàng lính kéo dài đến đường Bendlestrasse, phía khu phố bên kia, quân Nga chờ đợi chúng tôi bên kia kênh kào Landwehr. Kênh đào rộng khoảng 100 ft (30 mét) với dốc xi măng dốc 2 bên bờ. Nó được dùng cho xà lan đi ngang thành phố. Cây cầu bắt qua kênh đào đã bị phá huỷ, nhưng bó các dây cáp lớn treo ngang vẫn còn lơ lững. Đây là bó dây điện, điện thoại - đủ các loai dây lớn nhỏ đủ màu. - chúng bắt xuống đất ở hai đầu cầu. Với đường kính khỏang 3 ft, bó dây được cột lại với nhau tạo thành một cây cầu có thể đi qua lại được. Và một sĩ quan Nga cao cấp bước qua phía chúng tôi. Von Dufving chào và báo cáo với ông ta.
 
Vị sĩ quan Nga nói chuyện với von Dufving rồi quay về bên kia cầu. Khoảng 2 tá binh lính Nga với súng máy đợi bên kia cầu, bên cạnh mấy chiếc xe Jeep của Mỹ. Chúng tôi bước qua cầu dây điện theo một hàng thẳng. Khi tôi bước qua bên kia cầu, tôi có cảm giác cuộc đời của tôi đã chấm dứt. Tất cả những người lính Nga đều mở to nụ cười nhạo báng khi chúng tôi qua bên kia. Một trong số họ nói "Hitler Kaput" (Hitler tiêu rồi) và cả bọn cười hể hả. Họ vui mừng chiến thắng hả hê, như bất cứ người lính thắng trận nào.
 
Von Dufving nói chuyện với viên sĩ quan Nga rồi nói với Refior, Wolff và tôi là chúng tôi sẽ được đưa tối chỗ tướng Chuikov cách đó khoảng 3 cây số. Nhưng trước hết, chúng tôi được đưa đến bộ tư lệnh sư đoàn và các nhân viên ở đó tò mò nhìn chằm chặp vào chúng tôi. Tổng hành Dinh của tướng Chiukov nằm trên một con đường gần sân bay Tempelhof, trong một khu nhà giàu.
 
Văn phòng nằm ở tầng dưới của một chung cư lớn được xây dựng khoảng đầu thế kỷ. Vài sĩ quan trẻ đưa chúng tôi và môt căn phòng rộng nơi tướng Weidling chờ chúng tôi, và von Dufving báo cáo lại việc đầu hàng ở chỗ cây cầu. Cuối cùng, sĩ quan tham mưu của Chuikov bước vào, và vài phút sau tướng Chuikov đi vào phòng. Chúng tôi đứng lên chào, và ông ta chào lại. Chuikov nói tướng Weidling viết một mệnh lệnh cho các binh sĩ Đức vẫn còn chiến đấu trong thành phố ngừng bắn. Một máy đánh máy bằng tiếng Đức được mang ra, và tôi đánh máy theo lời đọc của Weidling (tác giả người Nga Iiya Ehrengurg đã viết sai trong một bài mà tôi đọc được sau này là một nữ thư ký tóc vàng đánh máy mệnh lệnh - Tôi cũng tóc vàng, nhưng là nam và là một thiếu tá tham mưu). Tôi làm thêm vài bản than (carbon copies), theo lời yêu cầu của người Nga, tướng Weidling ký chúng. Người Nga giữ 1 bản và đưa số còn lại cho Wolff và tôi. Weidling, von Dufving, và Refior được mời vào buổi tiệc với Chuikov trong khi Wolff và tôi đem lệnh của Weidling đến những nơi quân Đức còn chiến đấu. Đó là buổi tiệc mừng chiến thắng. Tôi chắc là Weidling, von Dufving và Refior không còn lòng dạ nào để ăn, và họ ở vị trí khó từ chối lời mời.
 
Tôi đi trên một chiếc xe Jeep Mỹ, với một viên đại uý Nga, đến bộ tư lệnh một quân đoàn, rồi sau đó đến một sư đoàn. Cả hai nơi, tôi bị nhìn chằm chặp và tò mò cao độ. Một sĩ quan Nga nói tiếng Đức ở bộ tư lệnh quân đoàn hỏi về Hitler và Goring, tôi trả lời là Hitler đã chết và tôi không biết Goring ở đâu. Tôi có ấn tượng là họ cũng mất thời giờ để nhận ra rằng họ đã thật sự đánh bại nước Đức và Berlin đang nằm dưới chân họ.
 
Một sĩ quan ở bộ tư lệnh sư đoàn hỏi tôi bằng tiếng Đức, "Anh phải nói thế nào về Auschwitz?". Khi tôi hỏi anh ta về ý nghĩa của câu nói đó, anh ta nói giận dữ "Còn Bergen-Belsen thì sao? Và Treblinka? Và Buchenwald nữa" Mặt anh ta đỏ lên vì giận. Tôi không biết những tên này, và tôi không hiểu tại sao anh ta lại giận dữ. Cuối cùng anh hét lên "Đừng giả vờ là anh không biết!" Rồi bước nhanh ra khỏi phòng.
 
Người đại uý Nga và tôi đi đến một bộ chỉ huy tiểu đoàn ở ga xe lửa Anhalter, nơi vẫn còn đánh nhau. Tôi được đưa đến một nhóm tù binh Đức, tôi chọn ra 2 người tron số họ để chuyển đạt lệnh của Weidling và nói họ đưa đến những người lính còn chiến đấu. Người Nga hứa với họ là sẽ thả họ ra sau khi họ chuyển lệnh. Tôi sau này nghiệm ra rằng không nên tin vào những lời hứa này, nhưng bây giờ tôi không có lý do gì để không tin họ. Với sự khích lệ này, có nhiều người xung phong đi, tôi chọn ra hai người feldwebels (thượng sĩ?) Tôi đưa 1 bản sao của lệnh đầu hàng và một lá cờ trắng cho họ. họ đem nó đến vị chỉ huy Đức ở Europa Hause, một toà nhà lớn gần đó. Tôi nhìn họ khuất sau đoạn đường rầy ở ga xe lửa, hướng đang có tiếng súng. Sau đó người đại uý và tôi đi đến một tiểu đoàn khác, và chúng tôi lại làm tương tự, và tiếp tục. Ngày nay tôi chắc chắn rằng người Nga không bao giờ thi hành lời hứa đối với những người lính đó, vì sau này tôi nhanh chóng nhận ra rằng người Nga sẽ hứa bất cứ điều gì khi họ muốn ai đó làm gì họ muốn và sau đó lờ đi lời hứa đó. Và đó là một công việc nguy hiểm, vì những lính Đức còn chống lại có thể là lính SS đã quyết định chiến đấu đến người cuối cùng và họ có thể bắn bất cứ ai cố ngăn chặn.
#31
    khikho007 04.06.2008 14:40:30 (permalink)
    0
     
    Sau đó người đại uý đưa tôi về lại chỗ tướng Chuikov. Trên đường đi, chúng tôi đi ngang qua một khu vực đánh nhau dữ dội ngày hôm trước. Đường phố đầy những xe tăng bị cháy, ngựa, người chết. Xác lính Đức và Nga nằm lẫn lộn vào nhau. Tôi đặc biệt nhớ hai người lính Nga chết ở một ban công nhìn trừng trừng vào chúng tôi bằng những đôi mắt vô hồn, máu của họ chảy loang xuống bức tường bên dưới ban công. Vì ngồi bên người đại uý Nga, nên tôi cảm thấy rất khó chịu, trong một mức độ nào đó, tôi có trách nhiệm đến cái chết của 2 những lính Nga kia; dù tôi không trực tiếp chiến đấu ở ngoài đường phố, sĩ quan tham mưu chúng tôi là những người tổ chức và thêm dầu vào bộ máy chiến tranh để nó hoạt động. Tôi cảm giác khó chịu hơn bao giờ hết, nhưng người sĩ quan Nga hình như khoong để ý đến những cảnh tượng đó. Nhìn chung, thái độ của người sĩ quan Nga khá đứng đắn. Dĩ nhiên, họ thấy tướng Chuikov và cấp trên của họ đối xử tốt với chúng tôi, và họ cũng làm theo như vậy.
     
    Khi chúng tôi đến nơi, Weidling không có đó, nhưng Refior và von Dufving vẫn còn. Tôi được đưa vào phòng tiệc, trên bàn la liệt những thức ăn ngon, và họ mời tôi ăn. Các món ăn có champagne, caviar (trứng cá Nga), bánh trái cây, đủ loại thịt và cheese, và vô số các món khác. Thiếu tá Wolff đã về trước tôi, và chúng tôi tranh thủ tận hưởng các món ăn, vì chúng tôi không biết khi nào mới được ăn lại. Sau đó, chúng tôi được lấy các vật dụng cá nhân, và chở đi bằng xe Jeep đến một đoàn tù binh. Chúng tôi xuống xe và nhập vào đoàn người.
     
    Wolff và tôi đi cùng đoàn tù binh suốt ngày hôm đó. Tôi bị 1 phen sợ khi một lính canh Nga gọi tôi ra khỏi đoàn và đi vào lùm cây và ra hiệu bắt tôi tháo giày. Tin rằng tôi không thể nào sống sót nếu không có giày, tôi liều mạng la mắng anh ta, tôi nói anh ta là nếu là một người lính Đức sẽ không bao giờ làm những chuyện đó. Có tác dụng! Anh ta lật đật đứng nghiêm cứ như tôi là sĩ quan Nga, tôi lập tức phóng về đoàn người trước khi anh ta trấn tỉnh trở lại. Đây là "ván bài thấu cáy" - và có thể ngu ngốc nữa- bởi vì anh ta có thể bắn tôi và lấy đôi giày mà không ai quan tâm đến.
     
    Đến tối, chúng tôi đến một trạm tù tạm thời khá lớn rào bằng dây thép gai. Đây là một nhà máy xi măng cũ và có một hầm đá lớn. Nó nằm ở ngoại ô Berlin, trong khu vực Ruderdorf. Hơn 1000 tù binh được đưa vào trại. Trong trại có vài toà nhà lớn, và chúng tôi có thể chạy vào nếu trời mưa. Wolff và tôi chọn một góc và đợi để xem điều gì sẽ xảy ra. Cả hai chúng tôi mang theo lương thực nên có đồ ăn (người Nga không cung cấp thực phẩm trong vài ngày đầu).
     
    Trại tù khá lớn, chúng tôi được cung cấp nước và nhà vệ sinh. Không thật vệ sinh hoàn toàn, nhưng người Nga ráng làm những gì họ có thể, vì họ rất sợ bệnh dịch phát sinh. Dù chúng tôi không có phòng tắm và xà phòng, nhưng chúng tôi được cung cấp nước máy không hạn chế, và lửa được đốt để có nước nóng.
     
    Wolff và tôi đi khắp nơi trong trại tù. Sau đó thì không có gì làm cả. Sau những nhịp sống chóng mặt mấy tháng vừa qua, bỗng nhiên lại ăn không ngồi rồi thì gần như là một sự hành hạ thần kinh. Tôi phải chống chọi với sự thôi thúc tìm sự bận rộn. Gần như không thể chấp nhận được rằng không có việc gì để làm. Tôi cố gắng đè nén những suy nghĩ về sự thất trận, về tương lai gần, về những điều sẽ đến.
     
    Wolff và tôi hiểu nhau nhiều hơn về tính cách của nhau. Anh ta cỡ 28, 29, dưới 6 feet 1 chút, tóc nâu, mắt xanh và cười luôn miệng. Wolff mang theo cà phê và một hộp cigar, buổi chiều lúc 4 giờ, chúng tôi lấy 1 ít nước sôi pha cà phê và hút cigar. Chúng tôi cảm thấy thích thú nên quyết định chiều nào cũng làm vậy trong thời gian ở đây. Chúng tôi không biết điều gì sẽ đến, bao lâu chúng tôi sẽ ở đây, và chúng tôi còn sống được bao lâu - nên cứ 4 giờ chiều, chúng tôi lại lấy nước nóng pha cà phê và hút cigar Dutch Rittmeester. Đó là giờ yên tịnh nhất trong ngày, chúng tôi nói chuyện về gia đình, về quê hương, về tương lai - chuyện gì sẽ đến, khi nào chúng tôi được về nhà. Tôi không hút thuốc, nhưng những ngày đầu tiên trong tù, trong giờ đó, với những kỷ niệm và những câu chuyện về nhà và tương lai, nó trở thành một điều gì đó thật đặc biệt. Nếu không, cuộc sống trong trại sẽ đơn điệu và nhàm chán. Chúng tôi nói chuyện với những người tù khác, rồi điểm danh... Chúng tôi ngủ trên đất, nhưng được vào nhà khi trời xấu. Không có trách nhiệm với bất cứ công việc gì, tôi bổng thích ngủ và cảm thấy không ngủ đủ.
    #32
      khikho007 08.06.2008 16:34:04 (permalink)
      0
       
      Khoảng 2 tuần sau, loa phóng thanh gọi tên tôi: "Thiếu tá Knappe, trình diện ở cổng." Tôi nghĩ: "Thế là hết! Tôi bị đem đi bắn." Tôi hoàn toàn không cảm thấy gì đặc biệt về viễn cảnh của cái chết. Quá nhiều người đã chết, và tôi chỉ là một người nữa. Tôi bắt tay Wolff và lấy đồ dùng. Anh có địa chỉ của tôi trong trường hợp anh được thả. Tôi xách túi đi ra cổng. Người trưởng trại và một thiếu tá đợi tôi bên 1 chiếc xe Jeep. Người trưởng trại chỉ nói: "Đi với Thiếu tá." Chúng tôi lên xe và đi đến Kopenick. Ngoài viên thiếu tá và tôi, còn có người tài xế và một người lính bảo vệ với súng tiểu liên.
       
      Họ dừng xe ở trước một khi chung cư 5 tầng. Tôi được đưa lên tầng 3 hay 4 gì đó, với một dòng chữ, hình như "Nhà tù Nam" cho sĩ quan Đức. Tôi không biết có bao nhiêu người, nhưng có thể khoảng 1 tá. Vài tướng lãnh,vài sĩ quan tham mưu, và sĩ quan thông tin. Ở đây, chúng tôi được đối xử rất tốt. Có giường ngủ và có bếp ở từng chung cư, và chúng tôi được cung cấp thức ăn để tự nấu. Ở đây tốt hơn trại hầm đá rất nhiều, nơi có hàng nghìn tù binh và bụi bặm cũng như tình trạng đông đúc nên ít có cơ hội tắm rửa.
       
      Tất cả chúng tôi đều khó hội nhập vào tình trạng thụ động sau nhiều tháng hoạt động như điên. Chúng tôi nói chuyện với nhau về những ngày tháng cuối cùng, nhưng hầu như không có việc khác để làm ngoại trừ nấu nướng và làm quen. Mỗi ngày chúng tôi được phép đi dạo xung quanh sân khoảng 1 tiếng đồng hồ. với vài lính canh trông chừng. Tôi thay quần lính bộ binh và mặc quần sĩ quan tham mưu với vạch đỏ 2 bên quần. Lính gác luôn chào tôi khi tôi đi ra ngoài, có lẽ họ nghĩ tôi là một sĩ quan cấp tướng. Chắc họ phải ngạc nhiên lăm khi thấy 1 tướng Đức trẻ đến như vậy!
      Một trong những tù nhân ở đây là một viên tướng già khoảng 70, ông đã về hưu nhiều năm trước. Ông sống ở Berlin, và có ai đó hàng xóm của ông báo cho người Nga là ông là một tướng lãnh, nên họ bắt ông mặc quân phục vào và đưa đến đay. Cũng may mắn cho ông, thấy ông tuổi cao, họ đưa đến đây, nơi có điều kiện thoải mái. Và hình như họ đối đãi sĩ quan cấp tướng tốt hơn các trường hợp khác.
       
      Từ cửa sổ chung cư, chúng tôi có thể nhìn xuống đường phố. Phía sau của toà nhà là sông Spree, giữa con sông và toà nhà là một khu vườn. Từ toà nhà ra đến sông khoảng vài trăm mét. Đoạn sông chỗ này rộng khoảng 200 mét. Tôi quyết định cố trốn thoát và bơi qua sông. Tôi không biết những gì sẽ chờ đợi ở phía bên kia, nhưng cũng có thể quân Nga không có bên đó. Từ đó, tôi có thể ẩn nấp ban ngày và di chuyển vào ban đêm (khoảng chừng 200 km từ đây đi Leipzig). Có nhiều nông trại bên kia sông, và các nông trại đều có nhà kho, tôi nghĩ tôi có thể nấp trong các nhà kho trong ngày đầu. Tôi hy vọng có thể tìm được vài bộ đồ dân từ những người sống ở đó. Chung cư của tôi là căn chung cư cuối cùng của khu chung cư. Chúng tôi được tự do đi lại trong toà nhà, nên tôi bắt đầu quan sát để lên kế hoạch trốn thoát. Trên gác mái, tôi tìm được mấy sợi dây đủ để thòng xuống đất, và tôi có thể tháo vài viên ngói - có chỗ để tôi cột dây và thả dây dọc theo bức tường cuối toà nhà.
      Tôi bắt đầu theo dõi lính gác để biết giờ giấc của họ. Họ cắt 1 người gác phía trước và 1 người gác phía sau. Tôi để ý nhiều lần 2 người lính gác đến 1 góc nhà vào một lúc và để trống phái bên kia. Tôi cũng để ý rằng họ thay lính gác trước và sau cùng một lúc và lính gác thường nói chuyện với nhau vài phút. Lính gác đi lại phía trước và phía sau, nhưng không đi ra 2 bên. Tôi theo dõi họ cẩn thận và tính thời gian. Tôi thấy nếu tôi chọn đúng thời điểm, tôi có thể leo xuống dây, nấp vào bụi cây cao ở cuối toà nhà cho đên khi 2 người lính đi qua phía bên kia, hay đến khi thay gác, rồi chạy đến bờ sông, bơi qua bên kia, rồi trốn trong nhà kho, và phải là đêm không trăng. Nhưng không may, lúc này là lúc trăng sáng. Tôi chỉ có thể đợi đến khi đêm không trăng. Mọi thứ khác đều được chuẩn bị.
       
      Cuối cùng, thời gian sắp đến, đêm mai là đêm không trăng. Sáng hôm đó, khi chúng tôi đang ăn điểm tâm. Người sĩ quan Nga bước vào với nụ cười lớn trên môi. Khi anh ta thấy tôi, mặt anh ta rạng rỡ hơn. "Thiếu tá Knappe, anh là người may mắn," anh ta nói, "Anh sẽ đi Moscow!"
       
      Với người Nga, được đi Moscow là niềm hạnh phúc, tuy nhiên, với tôi thì không hẳn vậy. Thay vào việc bơi qua sông để tìm tự do đêm mai, tôi lại phải có mặt tại Moscow. Anh ta nói tôi chuẩn bị để đi lúc 10 giờ sáng. Tôi vội viết 1 lá thư cho Lilo và đưa cho người tướng già, ông được tha và hứa sẽ đưa thư cho tôi.
       
      Ở sân bay tempelhof, tôi được đưa lên một chiếc máy bay vận tải Mỹ DC-3 chất đầy đồ đạc lấy từ Đức đem về Moscow. Hành khác, khoảng chừng 1 tá sĩ quan và binh lính Nga và tôi. Ngồi xuống 1 cuộn thảm đắt tiền (tôi tự hỏi có phải là bộ thảm mà tướng Weidling và tôi từng bước lên trong hầm của dinh Quốc Trưởng). Những người lính Nga nhìn chằm chằm vào tôi thi họ bước lên máy bay, nhưng sau đó thì họ không ngó ngàng gì đến nữa.
       
      Chiếc máy bay cất cánh trong ánh nắng tháng sáu rực rỡ và bay về hướng Đông, về hướng nước Liên Bang Sô Viết rộng lớn. Tim tôi trĩu nặng khi thấy cơ hội vượt thoát cuối cùng của tôi tắt ngấm, và hình như máy bay càng bay cao, hy vọng tự do càng lu mờ. Chặn dừng kế tiếp là Moscow - và số mạng mờ mịt.
       
      Chúng tôi bay trên cùng mặt đất mà tôi đã đi qua khi chúng tôi tấn công nước Nga tháng 6 1941 - 4 năm về trước - vớ tư cách là pháo đội trưởng pháo binh, một trung uý. 1941, Chúng tôi mất 6 tháng để vượt qua khỏi vùng đất trên lưng ngựa và đi bộ, vùng đất mà bây giờ chỉ mất vài tiếng đồng hồ máy bay. Chúng tôi vừa đi vừa chiến đấu, tất nhiên, nhưng những trận đánh rời rạc cho đến khi chúng tôi vượt qua Smolensk trên đường đi Moscow.
       
      Tôi suy nghĩ tôi còn có cơ hội trở về không? Vì tôi nghĩ rằng chắc chắn tôi sẽ bị bắn sau khi người Nga lấy được những gì họ cần từ tôi.
       
      Đầu óc tôi quay trở về quá khứ, về năm 1936. Năm tôi tốt nghiệp trung học từ trường trung học Petri, chuyến đi trượt tuyến ở khu núi Sudeten với 4 người bạn sau khi tốt nghiệp...
      #33
        khikho007 08.06.2008 16:47:06 (permalink)
        0
         
        Phần II
         
        Thời Kỳ Nắng Ấm
         
        1936-1939

         
        Chương 8
         
        Con đường trở nên dốc và quanh co hơn, quang cảnh qua mổi khúc quanh thêm càng ngoạn mục. Năm chúng tôi trên xe - Werner Friedrich, Hans Liebelt, Siegfried Ebert, Ernst Michaelis, và tôi - vừa tốt nghiệp trung học (nguyên văn: gymnasium) mới tuần qua, ngày 6 tháng 3 năm 1936. Chúng tôi cùng vào trung học với nhau 9 năm trước, lúc 10 tuổi, và 2 năm trước chúng tôi đã bắt đầu bàn về chuyến đi trượt tuyết để mừng tốt nghiệp trung học.
         
        Friedrich hớn hở, như mọi khi, luôn miệng thách đố chúng tôi đua khi đến nơi truợt tuyết và chắc ăn rằng chúng tôi sẽ thua cuộc. Chúng tôi đã háo hức mong đợi chuyến đi này từ lâu. Cuối cùng, chúng tôi lượn khúc cua rất dốc và gấp, và đằng kia, hơi phía dưới chúng tôi, ẩn mình trong sườn núi Sudeten, vùng Silesia, là ngôi làng trượt tuyết. Chúng tôi tìm chỗ đậu xe, một chiếc xe 4 cửa của Bố Liebelt, và vừa chạy vựa quăng tuyết vào nhau đến văn phòng. Mặt chúng tôi chắc phải đỏ rực, vừa do không khí lạnh vừa do chạy, đối với người đàn ông chúng tôi chạm phải khi chạy bổ vào văn phòng.
         
        "Xin chào," Ông nói. "Tôi có thể làm gì cho các cháu?" Ông chăm chú nhìn chúng tôi qua chiếc mắt kính rộng vành.
         
        "Chúng cháu có đặt thuê một phòng cabin của ông," Ebert nói. "Tên cháu là Siegfried Ebert."
         
        "Để coi..." Ông ta lật cuốn tập trong như một mớ giấy lộn. "Đây rồi!" ông nói. "Tên tôi là Hoffer." Ông chìa tay ra, và chúng tôi lần lượt bắt tay. Cái bắt tay khá chặt so với tuổi và dáng dấp của ông. Chúng tôi để tiền lên quầy. Ông ta chậm rãi đêm tiền và cẩn thận để vào một hộp gỗ và khoá lại, rồi lục từng cái trong 1 đống chìa khoá cho đến khi tìm được chìa khoá ông muốn tìm. "Mày đây rồi," Ông mỉm cười, đôi mắt già nua lấp lánh sau mắt kiếng khi ông lúc lắc chiếc chìa khoá trước mặt Ebert. "Chúc các cháu vui vẻ"
         
        Ebert đón lấy chìa khoá, và chúng tôi chen nhau ra khỏi phòng, nôn nóng bắt đầu chuyến "phiêu lưu". Chúng tôi tháo dụng cụ trượt tuyết ra khỏi xe, quăng xuống đất thành 1 đống.
         
        "Này, mang cái này," có tiếng ra lệnh, tiếp theo là 1 cái thúc vào lưng tôi.
         
        Tôi biết đó là Friedrich mà không cần quay người lại. Như mọi khi, anh ta dẫn đầu nhóm và chia từng thứ để mang vào cabin.
        Sau khi mang vác mọi thứ lên vai theo ý của Friedrich, chúng tôi bắt đầu leo lên núi, về phía cabin. Mặc dù nhiệt độ khoảng 28 độ F, nhưng leo núi làm chúng tôi mồ hôi đầm đìa.
         
        Cabin là 1 căn phòng hình chữ nhật lớn với 2 cửa sổ, một quay về hướng đông, hay phía trước, và 1 hướng về dốc núi phía tây. Bức tường phía Bắc là một lò sưởi khá lớn, cái xiên nướng thịt, đồ treo ấm nấu nước, một cái vĩ sắt, nồi, chảo, và các dụng cụ làm bếp để trên mặt lò sưởi. Tường phía Nam là 2 cái giường tầng. Chúng tôi được báo trước là phải đem theo túi ngủ và gối.
        "Đi trượt tuyết đi!" Friedrich hét lên.
         
        Vội vàng, chúng tôi lấy đồ trượt tuyết ra. Chỉ vài đoạn là đến ngay dốc trượt. Chúng tôi phóng xuống, rồi lại bò lên, rồi không thể dằn lòng, lại phóng xuống thêm lần nữa. Chúng tôi cứ thêm lần nữa cho đến khi lết hết nỗi. Cuối cùng, chúng tôi quay về cabin. Chúng tôi quyết định ăn trong làng vì quá mệt để nấu ăn.
         
        Mùi thức ăn từ quán ăn lập tức trêu chọc cơn đói từ những cái bụng lép xẹp. Không có khách hàng, và cũng không có nhân viên. Tất cả chúng tôi đều bồn chồn vì đói. Friedrich và tôi ngã người lên ghế và dựa vào tường trên 2 chân ghế.
         
        "Coi chừng gãy ghế!" tiếng nói quen thuộc vang lên cùng lúc với Herr (Ông) Hoffer thình lình vọt vào phòng như từ đất chui lên. Chúng tôi lập tức ngồi ngay ngắn trên 4 chân của ghế. "Chào các cháu. Không chịu được đồ ăn tự nấu à? Không sao, Bà Hoffer sẽ cho các cháu ăn." Một giây sau đó, bà Hoffer ào vào phòng và hỏi chúng tôi muốn ăn gì.
         
        Trong khi chờ đợi thức ăn, chúng tôi ổn định trở lại. Tôi nhìn ra cửa sổ. Từ chỗ bàn, chúng tôi chỉ thấy chân núi mờ mờ và im lặng trong ánh đèn nhạt nhoà của vài ngọn đèn đường. Một màng tuyết lười biếng rơi xuống, với những bông tuyết thoảng bay trong không gian. Trong quán ăn ấm cúng, với mùi thức ăn thơm lừng, chúng tôi thích thú với cảm giác dể chịu. Bên ngoài, một cậu nhà quê khoảng tuổi chúng tôi ngồi trên một chiếc xe ngựa chổ rơm đi chậm chạp trên đường. Ông già Hoffer và một người đàn ông khoảng tuổi ông bắt đầu chơi cờ bên bàn gần đó, vừa chơi vừa nói chuyện chính trị.
        #34
          khikho007 08.06.2008 16:52:41 (permalink)
          0
           
          Bà Hoffer đẩy một xe đầy thức ăn từ bếp lên. Bà khéo léo để những tô thức ăn lên bàn và đưa mỗi đứa một cái đĩa và dao nĩa. Không ai nói ai, chúng tôi tận lực ăn mọi thứ bà mang ra. Đến khi chúng tôi dựa lưng ra ghế và vẻ mặt thoả mãn, Bà Hofer lại hiện ra với chiếc xe đẩy. Bà nhanh chóng dọn bàn và để chúng tôi trò chuyện. Bỗng chúng tôi nghe tiếng ông Hoffer trở nên lớn hơn.
           
          "Hitler sẽ đem chúng ta vào một cuộc chiến khác!" Ông nói một cách chắc chắn.
           
          "Tại sao ông nói vậy?" Người bạn chơi cờ hỏi lại.
           
          "Vì Hitler là một con bạc, và một con bạc thì sẽ không nghỉ chơi cho đến khi hắn ta thua."
           
          "Tôi không biết làm thế nào ông có thể nói như vậy," người kia nói. "Ông ta đã đem tới cho nhân dân việc làm, ông ta đã tái lập nền kinh tế, ông ta chấm dứt các cuộc cãi vã chính trị trên đường phố, ông ta xây dựng xa lộ (autobanhs), ông ta xé tan hiệp ước Versailles và vực vậy niềm hãnh diện quốc gia, và ông ta còn lấy lại vùng Rhineland." Ông ta dừng lại để lấy hơi thở.
          "Và làm thế nào để ông ta làm những điều đó?" Herr Hoffer hỏi lại. "Ông ta đem tới việc làm bằng cách xây dựng công nghiệp chiến tranh. Anh nghĩ ông ta sẽ làm gì với những vũ khí đó? Ngắm nhìn chúng à? Và ông ta tái lập trật tự trên đường phố bằng cách bỏ hết các đối thủ chính trị - và nhiều dân Do Thái - vào trong các trại tập trung."
           
          Tất cả chúng tôi liếc nhanh về phía Michaelis, anh ta là người Do Thái.
           
          "Thế thì tại sao anh nói Hitler là một con bạc?" Người đàn ông hỏi.
           
          "Anh nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu người Pháp cản trở lính chúng ta tiến vào Rhineland?" Herr Hoffer hỏi. "Lực lượng tội nghiệp của chúng ta sẽ bị quét sạch. Nhưng Hitler đang chơi xì phé, và ông ta đang chắc là đối thủ của ông ta không biết ông ta đang thấu cáy. Ông ta thắng ván bài đó, và ông ta có thể thắng thêm nữa - nhưng ông ta sẽ đi quá đà, vì một con bạc không bao giờ ngừng chơi khi hắn ta đang thắng. Chúng sẽ tiếp tục tố cho đến khi chúng thua."
           
          "Nhưng ông ta chỉ lấy lại những gì hiệp ước Versailles lấy đi từ chúng ta," người bạn phản đối.
           
          Herr Hoffer đứng lên và đi về phía lò sưởi, ông ta rảy tàn từ ống điếu. "Ông ta sẽ không dừng lại ở đó," ông nói, "Ông ta sẽ tiếp tục cho đến khi ông ta mang chúng ta vào một cuộc chiến. Và ở cái giá nào?" Ông quay lại và đưa tay về phía chúng tôi. "Cái giá là mạng sống của những đứa trẻ này, không những thế, mà còn sinh mạng của hàng triệu người khác."
           
          "Một ông già bẳn tính!" Friedrich thì thầm với chúng tôi.
           
          "Tôi không chắc là ông ta không đúng," Michaelis lên tiếng nói nhỏ.
           
          Không ai trả lời. Michaelis là người Do Thái làm chúng tôi cảm thấy khó chịu về nội dung của câu chuyện kia.
           
          Chúng tôi quay về cabin, mau chóng đốt lửa lò sưởi, vì trời khá lạnh.
          #35
            khikho007 09.06.2008 14:10:37 (permalink)
            0
             
            Sáng sớm hôm sau, chúng tôi ăn sáng, uống trà, rồi leo lên núi với đồ trượt tuyết gần 1 giờ. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống, cảnh vật cả hai phía Tiệp và Đức đều mê hồn. Chúng tôi trượt tuyết suốt ngày, hết lao xuống dốc tuyết trắng lấp lánh rồi lại bò lên với bộ đồ trượt. Sau đó chúng tôi trượt theo tuyến mà chúng tôi đã lên kế hoạch tối qua.
             
            Đến chiều, chúng tôi quyết định dừng và trượt về phía cabin. Đốt lửa lên, chúng tôi đổ đậu vào ấm, đổ đày nước, và treo lên bếp lửa. Rồi gọt vỏ khoai tây và luộc. Nửa tiếng đồng hồ sau, khoai tây đủ mềm và ăn được, nhưng đậu thì vẫn cứng đơ. Chúng tôi lấy khoai tây ra và chờ món đậu, nhưng 1 giờ sau nữa đậu vẫn không mềm chút nào.
             
            "Bạn mua đậu kiểu gì vậy Knappe?" Friedrich hất hàm
             
            "Thì đậu chớ đậu gì. Mà sao? Có đậu khác à?" Tôi lúng túng.
             
            "Tôi không biết, nhưng mà bạn có chắc là loại đậu này nấu được không? Nảy giờ đã hơn 1 tiếng rưởi rồi"
             
            "Ăn khoai tây đi," Ebert đề nghị, "chúng ta sẽ ăn đậu khi chúng chín".
             
            Chúng tôi chia đều khoai tây và ăn ngốn nghiến với bánh mì, bơ, và uống trà. Chúng tôi cảm thấy khỏe hơn sau khi ăn, dù khoai tây không đủ cho mấy cái bụng đói. Chúng tôi chậm chạp dọn dẹp, cho thêm củi, và thêm nước vào nồi đậu.
             
            "Muốn ăn bắp nổ Mỹ không?" Liebelt lên tiếng, tay đưa ra một gói hạt nhỏ và cái chảo. "Chú của tớ ở Mỹ gởi về từ Chicago. Đun hạt trên chảo và chúng sẽ nổ ra. Ngon lắm. Đem món đậu ngu ngốc đó qua 1 bên đi. Không bao giờ ăn được đâu." Cậu ta bỏ một ít bơ vào chảo, tráng, và đổ những hạt màu vàng lên 1 nửa chảo.
             
            Liebelt cẩn thận để cái chảo lên lò. Một lúc sau, bắp bắt đầu nổ, lúc đầu 1 vài hạt, sau đó nổ rất nhanh.
             
            "Lấy nắp ra," Liebelt kêu lên khi thấy bắp nổ văng ra khỏi chảo. Tôi vội đậy lại, nhưng đã quá trể, bắp nổ quá nhanh và dâng đầy miệng chảo và tràn vào lò. Liebelt đã đổ quá nhiều bấp vào chảo. Những hạt bắp văng vào lò lửa và khói bốc ra và làm cabin đầy mùi bắp cháy.
             
            "Mở cửa ra," ai đó nói. Libelt kéo cái chảo ra khỏi lò, nhưng bắp vẫn tiếp tục nổ và văng tung toé khắp sàn. Dù sao, cũng còn ăn được. Chúng tôi bắt đầu thọc tay vào.
             
            "Ngon quá" Friedrich khen.
             
            Có tiếng gõ cửa. Ông Herr Hoffer.
             
            "Bà Hofer nghĩ là các cháu có thể thích loại bánh này," ông nói. Khi ông nhìn thấy nồi đậu, ông cười to. "Các cháu định nấu món đậu mà không ngâm nước à?"
             
            Chúng tôi nhìn ông ta "Ngâm nước?"
             
            "Các cháu phải ngâm đậu qua một đêm trước khi nấu chúng," ông nói, "sai lầm cơ bản."
             
            Chúng tôi nhìn nhau và rủa thầm.
             
            Sáng hôm sau, chúng tôi dậy sớm và leo lên núi. Bửa nay là cuộc thi trược tuyết. Chúng tôi đua nhau phóng xuống núi, coi ai trở lên đỉnh núi nhanh nhất. Và khi mặt trời xuống núi, chúng tôi mệt nhoài nhưng hồ hởi. Về cabin, chúng tôi ăn đồ nguội và uống trà, nghỉ ngơi bên cạnh lò lửa ấm áp.
             
            "Mai là ngày cuối rồi." Ebert nói giọng tiếc nuối.
             
            Chúng tôi im lặng nhìn ngọn lửa. Một ngày nữa, và chúng tôi bắt đầu cuộc sống của một người lớn. Tôi sẽ đi phục vụ lao động (Labor Service), Friedrich đi lính (và trở thành sinh viên sĩ quan sau một năm lính, anh ta tránh phục vụ lao động), Michaelis vào đại học (anh ta không phải phục vụ lao động vì là người Do Thái), và Ebert và Liebelt sẽ vào trường y khoa, cũng được miễn lao động.
            Ngày cuối cùng, chúng tôi trượt tuyết theo sở thích. Tôi trượt xa, chậm, ngoằn ngoèo, cố gắng kéo dài những giây phút cuối. Có lúc, tôi dừng lại, lắng nghe tiếng chim trên những cành thông, trong khi chúng bận rộn xây tổ. Nước Đức là một nơi thật đẹp. Với tất cả những lộng lẫy kia, làm sao Herr Hofer có thể đúng được? Làm sao có chuyện sai lầm? Tôi hít sâu vào phóng xuống dốc.
            #36
              khikho007 09.06.2008 14:17:43 (permalink)
              0
               
              Chương 9
               
              Sáng chủ nhật, ngày 4 tháng 4 năm 1936, tôi dậy sớm với sự mong đợi háo hức. Tôi có mặt ở quảng trường Augustus vào 9 giờ và di chuyển bằng xe bus đến nơi nào đó vùng Bavaria, nơi tôi phục vụ 6 tháng cho Reich Labor Service.
               
              Tôi ăn sáng với gia đình. Cậu em trai 14 tuổi, Fritz, lấy làm thích thù về chuyến đi của tôi. Chị tôi, Ingeborg, cao, ốm, tóc vàng và điềm đạm - đã cố thuyết phục tôi là tôi gây ra một sai lầm lớn vì không vào thẳng đại học thay vì tham gia phục vụ lao động hay quân đội. Mẹ tôi quanh quẩn bên tôi, thỉnh thoảng lại lau mắt. Khi chúng tôi ăn sáng, bà lại gắt gỏng với chị tôi khi nói tôi sai lầm. Inge bĩu môi và im lặng. Mọi người cảm thấy ngượng nghịu cho đến khi tôi đứng lên.
               
              "Ba nghĩ đã đến giờ đi rồi" Cha tôi nói, không nhìn thẳng vào tôi.
               
              "Vâng," Tôi trả lời, cảm thấy sự khó chịu của ông nên không tìm ra lời. Cổ họng khô rang, tôi nuốt nước bọt, hy vọng tìm ra hành động thích hợp. Không biết làm gì, tôi chìa tay ra; ông chậm rãi đưa tay và cầm chặt. Rôi ông cầm tay tôi bằng hai tay. Phía sau, mẹ tôi thút thít. Rồi bà choàng vào người tôi. Nói năng một vài lời. Vài lời cần thiết. Tôi nhìn quanh tìm chị tôi, nhưng chị không còn trong phòng. Fritz đấm vào vai tôi. Tôi nhấc túi xách và bước ra cửa. Ra đến đường, tôi bước thật mau, tiếng gia đình nói tạm biệt.
               
              Ở quảng trường Augustus, tôi nhìn quanh trong đám đông, những thanh niên trẻ vào tuổi tôi, hy vọng tìm thấy một khuôn mặt quen, nhưng không tìm ra ai. Tôi thấy một người trong đồng phục phục vụ lao động đưng gần 3 chiếc xe buýt đang đậu. Trước 9 giờ 1 chút, ông ta gầm lên với một giọng lớn không thể tin được: "Được rồi! Chúng ta sẽ lên 3 chiếc xe này từ trước ra sau. Tôi muốn mỗi ghế trên chiếc đầu đầy trước khi có ai bước lên chiếc thứ 2. Khi tôi gọi tên, bước lên xe, 2 người một".
               
              Khi rời Leipzig, chiếc xe chạy qua những con đường mà tôi biết suốt cuộc đời. Tôi cảm thấy chúng tôi lăn qua tuổi thơ và đi vào một cuộc sống người lớn mới. Tôi xa nhà vài lần trong các kỳ nghỉ, nhưng chưa bao giờ 6 tháng dài. Tôi đang chờ đón những kinh nghiệm mới của cuộc sống người lớn.
               
              Đến nơi vào lúc 7 giờ, trời sập tối. Chúng tôi ở làng Burglengenfeld, gần biên giới Tiệp. Trại Phục vụ Lao động có vài toà nhà. Toà nhà chính là một biệt thự cũ được sửa lại làm nhà cho 160 người. Mấy chiếc xe buýt dừng lại trước toà nhà chính.
              Một nhân viên phục vụ lao động ra lệnh chúng tôi tập trung ở hành lang trước toà nhà. Chiếc xe buýt bỏ đi, tôi cảm thấy cô độc trong 160 cậu bé lạ mặt. Khi chúng tôi im lặng, nhân viên kia thông báo, cũng bằng cái giọng to lớn như ông ta đã dùng ở quảng trường, "Thưa quý vị, đây là sĩ quan chỉ huy của trại phục vụ lao động Buglengenfeld, Abteilungsfuhrer Werner." Ông ta đứng nghiêm chào một người đúng tuổi trong bộ đồng phục bước ra.

              Vị chỉ huy tác phong nghiêm chỉnh và rất nhà binh khi ông ta nhìn bao quát chúng tôi trong bộ đồng phục được đặt may vừa vặn và thẳng nếp, tôi có cảm giác ông nhìn vào tận mắt từng người. "Chúc mừng các bạn đến Bruglengenfeld," ông nói bằng giọng nói cũng rất ấn tượng như người phụ tá của ông. "Giờ đây các bạn tự hào là một thành viên của lực lượng phục vụ lao động" Ông ta tiếp tục bài nói, cho chúng tôi biết rằng 4 tuần đầu sẽ là việc tập quân sự, sau đó thì chúng tôi được phép làm việc cho đất nước. Ông kết thúc bằng lời nói "Tôi giao các bạn lại cho người chỉ huy trực tiếp của các bạn, Gruppenfuhrer Brandt." Rôi ông ta quay lưng và bước vào toà nhà.
               
              Sau khi được phân chia số phòng, chúng tôi xếp hàng đi vào toà nhà. Tôi ở phòng số 7, có 4 cái giường, 4 tủ, 1 cái bàn lớn và 4 cái ghế. Những người cùng phòng một anh chàng béo tên Dietl, một cậu nông dân tên Fischer, và một cậu nhỏ con tóc hung tên Zimmermann.
               
              Sáng sớm hôm sau, chúng tôi bị đánh thức một cách thô bạo lúc 5:30 sáng bởi "CÁI GIỌNG", la lớn bằng một to khủng khiếp "dậy, đứng lên!" Ông ta đứng trước phòng của ông ta, ngay bên cạnh phòng chúng tôi, giọng của ông đánh thức cả toà nhà. Chúng tôi vừa tập trung, vừa ngái ngủ, ngơ ngác nhìn nhau. Brandt xuất hiện trước cửa. Dù lùn và bè, hình dáng ông trông rất lớn ở lối ra vào.
               
              "Mỗi phòng một người đi đến phòng ăn lấy đồ ăn sáng về cho phòng mình." Ông ra lệnh.
               
              Đúng 6:30, "CÁI GIỌNG" ra lệnh chúng tôi tập trung ở sân trước toà nhà. Chúng tôi được chia ra làm 4 đội và được giới thiệu người đội trưởng. Đội trưởng của chúng tôi tên Krupp, khoảng 21 tuổi, cao, ngực vạm vỡ, với mái tóc vàng và nét mặt vui vẻ.
              Mỗi đội đến một góc sân bóng đá, đủ xa để lệnh của mỗi đội không ảnh hưởng đến đội khác. Krupp hình như dễ dãi và đằm tính trong cương vị của mình, dễ chịu hơn nhiều so với Brandt lúc nào cũng la hét. Anh ta nhẫn nại dạy chúng tôi đứng nghiêm, nghỉ, giữ khoảng cách trong hàng. Sau đó là tập đi, đứng, rồi quay trái, quay phải, quay đàng sau.
               
              Cuối cùng, chúng tôi đi đều đến nhà kho và nhận đồng phục. Chúng tôi nhận được đồng phục khác nhau: làm việc, diễn hành, tập luyện, thể thao. Sau đó thì đi đều đến phòng ăn để ăn trưa. Trong nửa giờ nghỉ, chúng tôi thử đồng phục vào trao đổi với nhau. Zimmermann đem cách đi đứng ra đùa giỡn, cách làm hề của anh ta làm mọi người thoải mái hơn.
               
              Buổi chiều, chúng tôi học một giờ, chủ yếu là về "Đế Chế Đức mới vĩ đại" Những lời cảnh cáo của Herr Hoffer cứ trỗi dậy trong suy nghĩ của tôi trong giờ học, nhưng tôi gạt sang 1 bên. Sau đó chúng tôi học về kỷ luật, mệnh lệnh, thi hành lệnh. Tất cả đều bổ ích, và tôi cảm thấy thích thú về chúng.
               
              Buổi tập đến, chúng tôi đi đến nhà kho và mỗi người nhận một cái thuổng sáng loáng (xẻng, xuổng ? không biết từ nào cho đúng. NV: spade). Krupp cho chúng tôi đi đều về sân bóng đá. Tôi cảm thấy tôi gần giống 1 người lính hơn, bây giờ tôi có cái gì đó trên vai khi diễn hành. Krupp hô nghiêm và bắt đầu nói về chiếc thuổng.
               
              "Đây là phục vụ lao động, và chiếc thuổng này là biểu tượng cho công việc và sự miệt mài. Cái thuổng này các bạn sẽ mang và không bao giờ được chạm đất; nó chỉ được dùng cho diễn hành và thao diễn. Trong mọi tình huống, cái thuổng phải sáng loáng như chúng làm bằng chrome. Nhưng nó làm bằng thép chứ không phải chrome, nên bị gỉ dễ dàng. Chắc chắn sẽ có những cuộc kiểm tra bất ngờ." Tiếp đó, Krupp bày cách giữ sạch và đánh bóng cây thuổng bằng cát ướt, và anh ta đề nghị là đánh bóng hàng ngày thay vì chờ cho đến khi thép có vết gỉ.
               
              Sau 1 giờ tập luyện với cách diễn hành với cái thuổng trên vai, chúng tôi về phòng và có 1 giờ để tắm rửa và làm quen với nhau.
               
              Trong bữa ăn tối, chúng tôi được thông báo phải có mặt ở hội trường lúc 7 rưỡi. Buổi họp thông bao thời khoá biểu ngày mai và những việc phải làm. Sau đó, các đội trưởng tập hát. Sau đó, chúng tôi có 1 giờ nghỉ ngơi trước khi đèn tắt lúc 10 giờ.
              Chúng tôi trải qua 4 tuần để tập quân sự và các nề nếp. Chức năng quan trọng của việc phục vụ lao động là để quân đội khỏi mất thời gian huấn luyện quân sự căn bản. Bất cứ ai qua khỏi thời gian phục vụ lao động đều có thể bị kêu gọi nhập ngủ, và họ sẽ nhập ngủ với 1 phần huấn luyện.
               
              Chúng tôi không được phép ra khỏi trại trong 4 tuần đầu. Tuy nhiên, chúng tôi có thư viện, phòng sinh hoạt với bàn bóng bàn, cờ, và bài. 4 tuần huấn luyện trôi qua nhanh với tập dượt, thao diễn, và lớp học. Chúng tôi bắt đầu quen với cuộc sống nhà binh. Cuối phần huấn luyện, chúng tôi được kiểm tra bởi chỉ huy trại, sau đó bắt đầu công việc.


              #37
                khikho007 09.06.2008 14:22:26 (permalink)
                0
                 
                Ngày đầu tiên sau thời gian huấn luyện, chúng tôi đi bộ 40 phút đến mỏ than với "thuổng diễn hành" trên vai. Chúng tôi để dựng nhứng cái thuổng với nhau, như súng trường, 4 "khẩu" theo hình kim tự tháp. Tôi hơi lo lắng về cái thuổng của tôi, vì tôi giữ nó hoàn toàn bóng loáng. Tôi ghét phải để chung nó với những người khác trong đội vì sợ có ai đó lấy cái của tôi và để cái của họ lại cho tôi chùi. Sau đó thì chúng tôi được phát 1 cái thuổng làm việc.
                 
                Công việc của cúng tôi là đào những lớp đất sát lớp than đá và đổ đất vào những toa (loại toa xe lửa nhỏ ở hầm mỏ) và chúng được kéo đi bởi một đầu máy nhỏ. Brandt không theo đến chỗ làm việc, nhưng chúng tôi được cảnh cáo là ông ta có thể xuất hiện bất cứ lúc nào để kiểm tra. Chúng tôi có 45 phút nghỉ trưa, Chiều đến, chúng tôi bi bộ về trại, đến nơi lúc 5 giờ. Sau đó tăm rửa, ăn tối, đến hội trường tập hát hay học lịch sử. Chúng tôi thay phiên nhau trực, làm bếp và gác, như trong quân đội.
                Những ngày làm việc đầu tiên rất mệt nhọc, vì thời tiết nóng và ẩm. Cái thuổng làm tay tôi phồng rộp lên, và mồ hôi chảy đầy người, trở thành mục tiêu cho muỗi, ruồi, bọ. Tồi tệ hơn nữa, Brandt xuất hiện trên chiếc xe đạp khi chúng tôi đang ăn trưa. Ông ta bước xuống xe đạp và đi thẳng đến nơi dựng thuổng diễn hành.
                 
                "Các anh goi thế này là sạch à?" Ông ta gào lên, đá đổ những cái kim tự tháp-thuổng. Chúng nằm lẫn lộn trong bùn.
                 
                Tôi thở gấp, biết rằng cái của tôi được giữ sạch, và tôi cố ý làm dấu vị trí để biết cái nào của tôi. Nhưng bây giờ tất cả như những que diêm giống nhau lẫn trong đống bùn.
                 
                "Tối nay, tất cả chúng ta sẽ chùi sáng mấy cái thuổng từ 10 giờ đến nửa đêm. Và chúng ta sẽ làm như vậy hàng đêm cho đến khi chúng sáng lên." Ông ta nói.
                 
                Nhiều tiếng thở dài, chúng tôi mệt nhọc nhìn nhau vì biết rằng chúng tôi còn nửa ngày làm việc trong nóng và ẩm.
                 
                Đúng mười giờ, như đã hứa, chúng tôi được lệnh chùi thuổng. Bắp thịt đau nhừ, bàn tay phồng rộp và đau, và tôi đang cầm cái thuổng cáu bẩn của ai đó. Cặm cụi chùi bằng cát ướt, khuôn mặt của Inge hiện ra trước mặt tôi, cười lớn theo kiểu "nói rồi mà không chịu nghe". Tôi "đuổi" chị ta đi, rồi thì khuôn mặt của Friedrich cũng hiện lên y như vậy. Chỉ duy nhất một điều "tốt" trong 2 giờ lê thê đó là tôi không thấy mặt Brandt.
                 
                Trong tháng 6, chúng tôi được 5 ngày nghỉ phép. Chúng tôi đi xe buýt từ Burglengenfend về Leipzig. Không ai trông chừng chúng tôi ngoài người tài xế, và chuyến đi này thì chúng tôi đều biết nhau. Chúng tôi đùa giỡn ầm ĩ trong xe cho đến khi đến Leipzig. Đến ngoại ô, chúng tôi bắt đầu thấy những chiếc xe điện quen thuộc, với màu xanh-cà phê sữa rất đặc trưng của Leipzig. Tôi không cảm thấy nhớ nhà suốt 3 tháng qua ở trại, nhưng hình ảnh đầu tiên chiếc xe điện làm cổ họng tôi bất ngờ nghẹn lại. Và lần đầu tiên tôi nhận ra tôi nhớ nhà đến dường nào.
                 
                Xe buýt đổ chúng tôi xuống ở quảng trường Augutus, và tôi đón xe điện về nhà, đến nhà lúc chập choạng tối. Tôi không thể diễn tả cảm giác ấm cúng và an toàn ào đến khi tôi lại ở giữa gia đình. Mặt mẹ tôi tươi cười đến mang tai và bà tiếp đồ ăn cho tôi cho đến khi bụng tôi muốn vỡ ra. Fritz liên lục hỏi làm tôi không có cơ hội trả lời chúng, và đồng phục của tôi làm cho cậu bé chộn rộn chờ đủ lớn để tham gia. Dù có thành kiến, Inge cũng ngạc nhiên về tôi. Chị làm tôi thoáng nhớ đến lúc lau chùi thuổng. Ba tôi thì cười vui vẻ và mãn nguyện.
                 
                Sau 3 ngày ở nhà, chúng tôi lại đi xe buýt từ quảng trường Augustus. Chuyến đi Burglengenfeld không còn hăng hái như trước. Tôi không biết làm sao chỉ vài ngày lại khác nhau đến thế, nhưng tôi cảm giác rằng tôi lớn và chững chạc hơn.
                #38
                  khikho007 09.06.2008 14:30:53 (permalink)
                  0
                   
                  Chúng tôi mau chóng trở lại đời sống thường nhật, tập thể dục, chạy bộ sau buổi ăn sáng, đi bộ 40 phút đến mỏ than, vừa đi vừa hát, làm việc suốt ngày, đi về trại, tắm rửa, ăn tối, đến hội trường, đi ngủ.

                  Cuối tuần, chúng tôi được nghỉ từ 4 giờ chiều thứ bảy đến 10 giờ tối chủ nhật. Ba bốn đứa chúng tôi đi xe lửa đến những thành phố quanh đó mà chúng tôi thích. Chúng tôi tham quan nhà thờ hoặc viện bảo tàng hoặc một số kiến trúc tiêu biểu. Sau đó đi ăn ở một nhà hàng rồi đi xem phim hay đi nhảy đầm và gặp gỡ các thiếu nữ. Với tiền ba mẹ cho, chúng tôi có thể tiêu dùng trong những việc đó. Lương của chúng tôi được trả nửa mark một ngày, chỉ đủ để ăn vặt. Chúng tôi được trả mỗi tuần 1 lần.
                  Lực lượng Phục Vụ Lao Động tuyển một số thành viên tham gia một cuộc diễn hành ở một cuộc biểu dương chính trị lớn được chính phủ tổ chức ở Nuremberg ngày 8 tháng 9 năm 1936. Quân Đội, SA, SS, Phục Vụ Lao Động, Thanh Niên Hitler đều tham gia diễn hành trong cuộc biểu dương chính. Hàng chục nghìn người sẽ tham gia vào cuộc diễn hành. Mục đích của cuộc biểu dương chính trị, gọi là Reichsparteitag, là đoàn kết nhân dân Đức và gây ấn tượng với các nước Châu Âu với sức mạnh quân sự và tinh thần thượng võ của nước Đức.

                  Chỉ những ai hăng say lao động và có kỹ năng tập luyện mới được chọn. Tôi và Fischer được chọn trong số 10 phần trăm của phân khu (Abteilung). Những người được chọn đi Nuremberg làm việc ít lại để tập dược cho ngày biểu dương. Chúng tôi tập luyện trong 2 tuần, sau đó đi Amberg tập luyện với các nhóm được tuyển chọn từ các phân khu khác - số người tương đương với một đại đội.

                  Chúng tôi đi Nuremberg, cách đó không xa, bằng xe buýt. Chúng tôi đến nơi một ngày trước ngày diễn hành. Xuống xe, chúng tôi đi đều 2 dặm từ Nuremberg đến "thành phố" lều được dựng sẵn cho những người tham gia, qua những con đường được đánh dấu bằng cờ hiệu, hai bên đầy những người cười nói vui vẻ và các ban nhạc được bố trí ở các góc đường chính đều đánh những bản nhạc quân hành cho chúng tôi đi qua.

                  Hơn 15 nghìn căn lều, mỗi lều cho 6 người, được dựng lên thành những hàng thẳng tắp, với con đường cỏ giữa những hàng lều. Hàng chục nghìn người sẽ tham gia diễn hành, dài suốt 5 ngày. Mỗi người chúng tôi đều được chỉ định số lều, ngay cả vị trí trong căn lều. Chúng tôi đến nơi vào lúc chiều tối, đến khi vào lều, bóng đêm bắt đầu phủ xuống. Chúng tôi đi dến một căn lều rộng lớn làm nhà ăn để ăn tôi. Sau đó đi về lều, và được tự do.

                  Fisher và tôi rủ nhau đi vòng vòng trong thành phố lều. Không khí như là một ngày hội. Mọi người đều phấn khởi khi được tham gia như một cơ hội tốt lành. Mọi người đều biết rằng Hitler, Goring, Goebbels, và tất cả những nhân vật quan trọng đều có mặt trên khán đài coi chúng tôi diễn hành. Sự phấn khởi được nhìn thấy họ làm tôi cảm thấy hãnh diện.

                  Lồng đèn được thắp lên ở các lều. Một số người chơi bài trong lều. Nhiều nhóm thanh niên hào hứng hát những bài hát quân hành.

                  Mùi Kerosense (1 loại sáp - làm chất đốt) bay trong không khí từ những ngọn nến trên những cột cao chừng 3 mét cách khoảng 15-20 mét khắp cả khu trại. Những thanh niên trẻ nói, cười, tập luyện diễn hành. Ai cũng hăng hái và háo hức. Chưa chưa bao giờ thấy đông người như vậy tập trung ở một nơi. Chúng tôi đi ngủ với sự nôn nóng và hồi hộp nghĩ đến ngày hôm sau.

                  Mười giờ sáng, chúng tôi bước đều nghiêm chỉnh vào sân vận động. Chúng tôi đứng trong hàng ngũ và xem cuộc trình diễn của các vận động viên thể thao vừa đi vừa biểu diễn những động tác phức tạp ngang qua khán đài. Sau trưa, sự căng thẳng dâng dần trong chúng tôi vì sắp đến lượt chúng tôi. Chúng tôi vẫn đứng trong tư thế nghỉ, nhìn về khán đài, nơi có một chữ vạn bằng đá hoa cương khổng lồ bên dưới con ó.
                  "Achtung!" Tiếng gọi lớn vang lên trong loa, và chúng tôi lập tức đứng nghiêm. Lệnh kế tiếp, hàng nghìn chiếc thuổng được đưa lên cao, với ánh nắng phản chiếu sáng rực. Những chiếc thuổng được xoay theo mỗi động tác, và ánh phản chiếu di chuyển theo. Theo mệnh lệnh, chúng tôi tạo một hình chữ nhật rộng lớn, rồi biểu diễn một màn với những cái thuổng (xoay, chuyển, đưa lên, rút xuống...) Chúng tôi phải thật cẩn thận để cái thuổng không đụng người phía trước; nó khá nặng, chiếc thuổng khó cầm và thao diễn hơn khẩu súng trường. Đó phải là một cuộc biểu diễn vĩ đại, và những báo cáo sau đó, cuộc biểu diễn của lực lượng phục vụ lao động là cuộc biểu diễn ấn tượng nhất năm đó.

                  Chúng tôi trở lại đội hình, sau một bản nhạc là một bài nói của ai đó. Từ chỗ tôi đứng, tôi khó khăn lắm mới nhìn rõ khán đài, nhưng tất cả chúng tôi đều biết là có Quốc Trưởng Hitler, Thống Chế Goring, và tất cả những viên chức quan trọng của chính phủ đang nhìn xuống chúng tôi. Điều đó đem lại một cảm giác háo hức kỳ lạ trong chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy to lớn và bất diệt! Đó là sự phô trương cao độ nhất, và là sự kiêu hãnh lớn lao về tinh thần quốc gia của chúng tôi. Đó là một cuộc biểu dương với một thông điệp rõ ràng là nước Đức đang hồi sinh. Tôi cảm thấy hết sức tự hào. 


                  Về khu lều, chúng tôi không thể ngôi yên một chỗ. Chúng tôi muốn khuấy động những cảm xúc nóng bỏng này bằng cách làm lan rộng những sự việc xảy ra trong buổi lễ. Tuy nhiên, chúng tôi không được phép rời khỏi trại, vì cấp trên chúng tôi không muốn cho hàng nghìn thanh niên lang thang trên đường phố Nuremberg. Chúng tôi sắp hàng đi đến nơi đậu xe và quay về.
                   
                  Sau cuộc biểu dương tại Nuremberg, chúng tôi quay về Burglengenfeld và kết thúc nghĩa vụ với Phục Vụ Lao Động. Những ngày tháng sau này không có gì đáng kể sau những ngày huy hoàng ở Nuremberg.
                   
                  Cuối cùng, ngày 24 tháng 9 năm 1936, chúng tôi làm lễ kết thúc, và Abteilungsfuhrer Werner cảm ơn chúng tôi về sự phục vụ. Chúng ta trả lại đồng phục, thay quần áo dân sự, nhận tiền lương và giải tán. Tôi về nhà bằng xe lửa thay vì xe buýt của trại.
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.06.2008 14:33:16 bởi khikho007 >
                  #39
                    khikho007 09.06.2008 14:37:20 (permalink)
                    0
                     
                    Chương 10
                     
                    Ba tuần sau, ngày 15/10/1936, tôi đi xe lửa từ Leipzig đến Jena, cách khoảng 40km, để bắt đầu một cuộc sống mới, một pháo thủ. Cha tôi là mội sĩ quan Pháo Binh Hải Quân trong cuộc chiến tranh thế giới, và ông đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện lúc tôi còn nhỏ về những khẩu hải pháo to lớn. Bất cứ khi nào tôi nghĩ đến việc đi lính, tôi đều nghĩ đến những khẩu pháo to lớn đầy quyến rũ. Hai năm qua, các tin tức báo chí luôn nói về những kỹ thuật quân sự mới nâng cấp và hiện đại hoá quân đội Đức, bao gồm cả pháo binh, và tôi tình nguyện vào lính với giấc mơ là một pháo thủ trên một khẩu pháo tự hành.
                     
                    Khi xe lửa đến gần Jena, tôi thấy những doanh trại quân đội lớn. Quay qua một người đàn ông đứng tuổi ngồi cạnh, tôi hỏi ông có biết đó là doanh trại gì không? Ông đưa mắt khỏi tờ báo rôi nói tôi đó là những doanh trại bộ binh. Đến gần thành phố, một doanh trại khác hiện ra, tôi lại hỏi ông, ông nhìn ra rồi nói đó là doanh trại pháo binh. Rồi tôi mất hết cả tinh thần khi thấy những chuồng ngựa và ngựa, và tim tôi bắt đầu chùng xuống. Tôi quay lại hỏi người đồng hành.
                     
                    "Ý ông nói là họ vẫn kéo pháo bằng ngựa?" Tôi hỏi, với hy vọng vớt vát.
                     
                    "Vâng, tôi nghĩ vậy," ông nói nhỏ, biết tôi đang thất vọng.
                     
                    Bổng nhiên Pháo Binh mất hết sức lôi cuốn và quyến rũ. Thay vì ngồi trên một khẩu pháo tự hành, tôi lại phải đi chăn ngựa. Tôi chỉ muốn quay về nhà.
                     
                    Vào doanh trại, một viên unterofizier (lance sergeant, sẽ có giải thích sau) ngồi sau bàn. Anh ta hỏi tên tôi, tìm thấy trong danh sách, đánh dấu bên cạnh tên tôi, rồi nói cộc lốc, "Phòng 29". Anh ta trông nhàm chán với công việc đơn điệu này. Khi tôi nhìn anh ta với cặp mắt dò hỏi, anh ta phản ứng, "Tầng 2". Cửa phòng 29 mở, một người lính ngồi trong phòng, thấy tôi bước vào, anh đứng lên và chìa tay ra.
                     
                    "Tôi là Oberkanonier Baresel," (binh nhất, pháo binh) anh nói, "Tôi sẽ là trưởng phòng"
                    Tôi bắt tay anh ta rồi tự giới thiệu. Anh để tôi chọn giường, tôi đặt túi xách xuống và sắp đồ vào tủ ngay sát giường. Phòng có 6 giường, 6 tủ, và 1 cái bàn, 6 ghế. Những người khác lần lượt đến. Người đầu tiên là Ernst, một công nhân ở một nhà máy, tiếp là Peter Wohlthat, một cậu nông dân, kế đến là Boris Weinreich, khá đẹp trai từ Đông Phổ, con một thầy giáo. Cuối cùng là một anh chàng dân thành phố tên Vogel.
                    Tôi đi ngủ với đầy thất vọng về pháo binh với xe ngựa kéo, nhưng cuối cùng ngủ thiếp đi.
                     
                    Tiếng còi huýt lên thô lỗ dựng chúng tôi dậy lúc 5 giờ sáng. "Ra khỏi giường!" Baresel hét lên.
                     
                    "Trời, mới nửa đêm mà," Vogel càu nhàu.
                     
                    "Công việc ở chuồng ngựa trước sẽ mang buổi sáng đến nhanh hơn." Baresel nham nhở, "Các anh có đúng 1 phút để xếp mền và tập trung trước nhà nếu không muốn có thêm công việc."
                     
                    Chúng tôi đều ngẩn mặt lên nhìn anh ta, sửng sốt, rồi cuống quít mặc đồ.
                     
                    Rùng mình trong cơn lạnh buổi sáng sớm và bóng tối, chúng tôi sắp hàng trước nhà. Baresel dẫn chúng tôi đến một khu vực và sắp xếp chúng tôi và đội hình cùng với những người từ các phòng khác. Baresel và những người lính mặc quân phục khác đứng bên ngoài đội hình. Một obergefreiter (hạ sĩ) xuất hiện, kêu chúng tôi đứng nghiêm, và dẫn chúng tôi ra chuồng ngựa. Tôi vẫn không tưởng tượng là tôi đang ở trong đơn vị pháo binh dùng ngựa kéo. Nó quá lạc hậu với thời đại hiện đại!
                     
                    "Mỗi người một ngăn," Viên hạ sĩ chỉ dẫn. Chúng tôi chậm chạp đi về chuồng ngựa.
                     
                    "Nhanh lên!" anh ta hét lên.
                    #40
                      khikho007 09.06.2008 14:43:56 (permalink)
                      0
                       
                      Chúng tôi chạy vào chuồng ngựa, mỗi người chọn một ngăn. Tiếp đó, anh ta ra lệnh chúng tôi tập trung. "Tôi là hạ sĩ Sebastian, và đây là chuồng số 1," Anh ta nói lớn. Anh ta vào khoảng ba mấy, râu quai nón. "Để ý con số trên tường khi các anh giải tán. Đó là số chuồng giao cho các anh dọn sạch từ nay trở đi. Cái xẻng được treo sau lưng các anh. Các anh sẽ không được tin tưởng để dùng chỉa trong vài tuần, cho đến khi chúng tôi chắc chắn các anh sử dụng chúng thành thạo và không đâm vào ngựa. Ngựa trong chuồng đã được tròng cổ và cột lại. Cẩn thận ghi xuống phải tròng cổ ngựa như thế nào và cột vào cái móc ở góc chuồng. Tôi làm cho các anh coi một lần".
                       
                      Anh ta vào chuồng và dắt ra một con ngựa. Anh ta chỉ cho chúng tôi cách tháo tròng và tròng dây vào cổ ngựa, tiếp là cách thắt nút nhanh chóng vào cột, rồi chỉ chúng tôi làm sao đẩy ngựa từ bên này qua bên kia để chùi nền nhà bên dưới. Tôi chỉ hy vọng rằng những chú ngựa khác cũng dễ dàng như chú ngựa này.
                       
                      Mỗi chuồng ngựa có 23 ngăn mỗi bên và một lối đi rộng ở giữa. Ngựa được cột xoay đầu vào tường và đuôi đưa ra ngoài. Mỗi ngăn được ngăn bằng mấy cây đòn từ trần xuống, mỗi con ngựa một ngăn. Chỉ có ngựa của sĩ quan mới được ngăn cách tốt hơn. Vài người lính đẩy 2 chiếc xe cút kít vào.
                       
                      "Khi các anh dọn chuồng ngựa, đem phân đổ vào xe cút kít ở lối đi, rồi để xẻng vào chỗ treo," viên hạ sĩ chỉ bảo. "Nếu ai dọn không sạch nếu bị kiểm tra sẽ phải làm thêm công việc. Giải tán và dọn dẹp!"
                       
                      Tôi quay lại và nhìn cái mông của con ngựa. "Sướng chưa," Tôi nghĩ bụng, "bây giờ tôi là thằng ở cho một con ngựa." Tôi chưa bao giờ đến gần một con ngựa. Nó nặng hơn tôi ít nhất là 1 nghìn pounds. Dường như không thể di chuyển con thú được bằng cách đơn giản là đẩy nó sang 1 bên. Tôi hy vọng con ngựa đã được thuần và cầm chiếc xẻng ngắn bước vào. Tôi nhích chậm đến gần con vật. Rướn người xúc một xẻng đầy phân ngựa rồi vội vã lui ra ngoài lối đi và đổ vào xe. Tôi thở phào khi thấy con ngựa phớt lờ sự có mặt của tôi. Nhớ lời cảnh cáo của viên hạ sĩ về chuyện làm thêm việc, tôi quay lại để chắc rằng không để rơi rớt chút gì trên nền. Con ngựa quay đầu nhìn tôi, hít sâu vào, rồi quay lại đống cỏ. Tôi xúc sạch đống phân rồi treo xẻng và cái kẹp lên chỗ cũ. Chúng tôi sắp vào hàng và viên hạ sĩ dẫn chúng tôi về phòng.
                       
                      Chúng tôi có 1 giờ tắm rửa và ăn sáng.
                       
                      Sau khi ăn sáng, Baresel tập trung chúng tôi thành hàng, rồi dẫn tôi qua một khu nhà khác để cắt tóc. Tiếp đó, chúng tôi được phát mỗi người 2 bộ quân phục -1 bộ để tập dượt và lao động, bộ kia để cho mọi việc khác. Chúng tôi cũng được phát giày đi ngựa và yên ngựa bằng da. Chúng tôi rất hãnh diện khi được phát nón sắt và túi đạn. Chúng làm chúng tôi cảm thấy giống "lính thật" hơn. Họ cố gắng phát cỡ áo quần vừa cho chúng tôi, nhưng một số đồ không vừa, chúng tôi phải nhận chúng và trao đổi với nhau sau.
                       
                      Mặc dù chúng tôi bận rộn trong ngày đầu tiên, nhưng không có gì quan trọng, hầu hết để chúng tôi làm quen. Mọi việc bắt đầu từ sáng hôm sau.
                       
                      Sau khi dọn chuồng ngựa và ăn sáng, chúng tôi tập trung vào đội hình và trình diện với Unteroffizier Max Krall. Anh ta nhỏ con và khoảng 23, tóc vàng xỉn, khỏe mạnh, mặt có sẹo, và mắt xanh lơ. Anh ta bước lên một cái bục gỗ, hít mạnh, hết sức nhướng người lên đến mức cao nhất mà anh ta có thể nhướng với khổ người 1m 62, rồi nhìn xuống chúng tôi qua cái mũi (đang nhướng cao) một lúc lâu.
                       
                      "Tôi là Unteroffizier Krall," anh ta nói không hở răng. da phía sau gáy tôi bắt đầu dựng lên. "Trách nhiệm của tôi là nặn ra những người lính từ những đống rác trước mặt tôi. Rõ ràng họ đòi hỏi một phép lạ từ tôi. Nhưng tôi sẽ làm nên điều đó nếu tôi phải làm việc với các anh ngày đêm trong 365 ngày đến. Từ ánh mắt của các anh, tôi biết tôi phải làm lâu đến thế." Anh ta dừng lại. Rồi ráng ưỡn người lên, anh ta hỏi "Có bao nhiêu trong số các anh là Abiturenten?" anh ta nói sai chữ Abiturient, tiếng Đức cho gymnasium graduate (tốt nghiệp trung học).
                       
                      Tôi đưa tay lên; tôi thấy Weinreich cũng đưa tay lên, và 2 người khác. " Nhìn kỹ tôi đi," anh ta đe dọa. "Tôi có kế hoạch lo thật chu đáo cho các Abiturenten."


                      #41
                        khikho007 09.06.2008 14:48:39 (permalink)
                        0
                         
                        Krall chia chúng tôi ra thành từng tiểu đội rồi giao chúng tôi cho các viên hạ sĩ, kiểu cách và tính cách của họ cũng không khác hơn anh ta bao nhiêu. Họ luyện tập chúng tôi, luôn tỏ ra với chúng tôi rằng phục vụ lao động không là cái gì cả. Chúng tôi không biết đi đều, thậm chí đi cũng không biết luôn. Rồi họ luyện tập cho chúng tôi bằng cách của họ. Những tập luyện từ vụ phục lao động không được công nhận ở đây, họ tập cho chúng tôi các động tác căn bản từ đầu đến cuối thêm lần nữa. Chúng tôi được phát súng trường và được dạy cách lau chùi và bảo quản, cũng như tháo rắp sung. Họ miệt thị chúng tôi bằng cách nói rằng trên vai chúng tôi không phải là cái thuổng nữa. Mặc dù chúng tôi không bao giờ đồng tình với các huấn luyện viên, nhưng cũng hãnh diện được vác súng thay vì vác thuổng. Chiều đến, chúng tôi vào lớp và học về các cấp bậc trong quân đội và lịch sử nước Đức trước khi ra sân tập luyện một lần nữa cho đến tối.
                         
                        Chúng tôi cật lực tập luyện trong 6 tuần lễ. Bao gồm sử dụng súng, tập bắn, thao tác, di chuyển trong chiến đấu, đào hầm... Tất nhiên, bênh cạnh đó là tập đi đều, thao diễn, diễn hành. Chúng tôi giữ nhịp đi bằng cách vừa đi vừa hát những bản quân hành. Chúng tôi cũng tập ném lựu đạn và bắn súng máy. Những bài tập này chủ yểu do Stabsgefreiter * Weizscker, một người rất thích hành hạ bọn gymnasium chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể ráng chịu đựng sự hành hạ của anh ta. Chúng tôi chỉ được huấn luyện bộ binh trong 6 tuần, thay vì 12 tháng như lính bộ binh. Nhưng sự huấn luyện này rất quan trọng, vì lính pháo binh nhiều khi theo các sĩ quan tiền sát ra tuyến trước với bộ binh.
                         
                        Trong thời gian huấn luyện bộ binh, chúng tôi phải dậy vào lúc 5 giờ, dọn chuồng ngựa, ăn sáng, và huấn luyện suốt ngày cho đến tận 10 giờ đêm, lúc chúng tôi kiệt sức lăn ra giường. Việc huấn luyện rất thích thú, được chuẩn bị và tổ chức kỹ càng. Buổi trưa là bữa ăn chính trong ngày. Thức ăn ngon và nấu kỹ. Sau khi ăn, chúng tôi có 15 phút nghỉ ngơi, thay đồ (quân phục được thay đổi cho các hoạt động khác nhau) và đi học tình báo hay lịch sử nước Đức.
                         
                        Chúng tôi thay phiên đi trực chuồng ngựa vào ban đêm. Chúng tôi phải đem theo xe cút kít. Và bất cứ khi nào ngựa ị, chúng tôi phải đem xe đến và xúc ngay vì sợ ngựa nằm lên chúng. Trực chuồng ngựa thật chán và cực nhọc, cũng may là chỉ có hai tiếng đồng hồ cho 1 ca trực.
                         
                        Chúng tôi tập thể dục thường xuyên, và bóng ném nữa; các pháo đội luôn tổ chức thi bóng ném với nhau hoặc với các đơn vị bộ binh bên cạnh.
                         
                        Ngày 1 tháng 12 năm 1936, chúng tôi hoàn tất việc huấn luyện bộ binh và bắt đầu 3 tháng huấn luyện pháo binh căn bản. Chúng tôi được chia làm 2 nhóm: một nhóm lo về ngựa (thường là những người ở thôn quê) và một nhóm lo súng (thường là bọn ở thành phố), nhưng các nhóm phải biết các công việc của nhau. Chúng tôi phải học mọi thứ từ ngựa cho đến súng. Cơ bản là những người lo về ngựa phải học cách chăm sóc ngựa và thắng cương, lái ngựa. Bọn chúng tôi lo về súng thì học cách lăn súng, tháo súng ra khỏi xe, đặt hướng súng, lắp đạn (giả) và thuốc súng (bao đất) vào súng, ngắm mục tiêu, điều chỉnh, và bắn theo lệnh. Chúng tôi luyện tập hàng ngày trong quân trường, thao tác các động tác với đạn giả. Các nhóm tập về ngựa (fahrers) và súng (kanoniers) được tập luyện riêng biệt.
                         
                        Nhóm súng gồm có khẩu dội trưởng (một unteroffizier hoặc một unterwachtmeister (thượng sĩ pháo binh), 5 pháo thủ, và 3 người "ngựa thủ". Người hướng súng là pháo thủ chủ chốt, vì anh ta phải điều chỉnh và ngắm mục tiêu. Những người khác khiêng đạn, lắp đạn, và giúp nguỵ trang súng. Sau vài tuần huấn luyện riêng rẽ, chúng tôi được huấn luyện với nhau lần đầu tiên. Từ đó kanoniers và fahrers tập với nhau hàng ngày, và mỗi tuần một lần, cả 4 khẩu đội tập chung với nhau trong đội hình pháo đội.


                        #42
                          khikho007 09.06.2008 14:54:10 (permalink)
                          0
                           
                          Giáng Sinh đến gần, chúng tôi bắt đầu chờ được nghỉ phép. Một nửa được nghỉ 1 tuần trong tuần lễ Giáng Sinh, nửa kia được nghỉ phép trong tuần đầu năm. Rausche, Wohlthat, và Baresel nghỉ Giáng Sinh, Weinreich, Vogel, và tôi nghỉ đầu năm.
                           
                          Sau khi nhóm đầu đi, chỉ trước ngày Giáng Sinh, mọi vật bỗng dưng rất lạ, vì đội hình của chúng tôi đột nhiên bị vỡ. Chúng tôi phải canh gác và giữ mọi thứ như trước, nhưng hầu hết các hoạt động huấn luyện được dừng lại cho đến sau Tết, và chúng tôi có thì giờ rãnh để nằm dài ra và lười biếng. Hầu hết các sĩ quan đều nghỉ tuần Giáng Sinh, để gần như các stabsgefreiters trông coi. Stabsgefreiters là một cấp bậc có 1 không 2 của quân đội Đức, vì cấp bật này dành cho nhưng kẻ thất bại: những người lính-nghề (career soldier) không đủ trách nhiệm và không bao giờ được thăng cấp cao hơn stabsgefreiters. Kỳ nghĩ lễ là một cơ hội cho họ thao túng, và họ tận dụng nó một cách triệt để.
                           
                          Người stabsgefreiters phụ trách chúng tôi thay thế Krall là Weizsacker, và chúng tôi lo sợ điều đó nhất. Anh ta luôn bày ra những trò quái ác bất cứ lúc nào có cơ hội. Vì Weinreich và tôi là "trí thức", chúng tôi biết chúng tôi sẽ hứng những phiền toái nếu vô phước bị anh ta dỡ trò.
                           
                          Weinreich và tôi trực chuồng ngựa đêm Giáng Sinh. Lúc này chúng tôi đã được phép sử dụng chỉa. Công việc trực nhật là dọn sach chuồng và thay rơm. Rơm không được để quá dơ, nên lớp rơm mới phải được để chồng lên lớp rơm cũ. Lớp rơm cũ dưới cùng phải được chận xuống và phủ lớp rơm mới lên trên để ngựa không bị dơ khi nằm. Nền chuồng ngựa tráng xi măng, và chúng tôi phải biết nên lấy ra bao nhiêu rơm và chừa lại bao nhiêu rơm. Cứ 3 tuần 1 lần, tất cả rơm đều được dọn và nền nhà được rửa với nước, và bỏ rơm mới xuống. Một số lớn rơm sẽ được dùng để làm nệm cho ngựa. Sau khi dọn dẹp lớp rơm củ hôi thối, mùi thơm của rơm mới làm chúng tôi có cảm dễ chịu.
                           
                          Weinreich và tôi vừa chuẩn bị dọn rơm và đang lau chùi nền nhà thì thấy Weizsacker dẫn Vogel bước vào, la hét phạt anh ta làm thêm công việc. Weinreich và tôi dừng lại và nhìn họ coi việc gì xảy ra.
                           
                          Chúng tôi vừa đứng lên, lập tức Weizsacker quay sang chúng tôi. "À! Mấy nhà trí thức lười biếng," anh ta reo lên sung sướng, tạm quên Vogel. "Được rồi, nếu các anh rãnh quá, tôi có 1 giải pháp hoàn hảo cho các anh - đặc biệt dành cho các nhà trí thức và lanh miệng." Quay sang Vogel, anh ta ra hiệu cho Vogel đi về phía chúng tôi. "Bây giờ, để coi các anh lau chỗ này bằng tay không!" Chắc vẻ mặt của chúng tôi lộ vẻ hoảng hốt, vì anh ta có vẻ thích chí hơn. "Đúng vậy," anh ta nói. "Treo mấy cái chỉa lên."
                           
                          Vogel định phản đối, nhưng mau chóng thay đổi ý định. Khuông mặt "nửa vầng trăng" Weizsachker lộ vẻ khoái trá, với cái mũi cũ hành to tướng dính trên mặt, và đôi mắt híp. Rõ ràng anh ta đang tận hưởng cơ hội hiếm hoi này.
                           
                          "Tôi sẽ quay lại trong 30 phút," anh ta nói, "và cái chuồng này phải được sạch sẽ và không có dấu." Anh ta quay đi và bệ vệ bước ra cửa.
                           
                          Vogel bốc một cục phân ngựa và ném theo Weizsacker, may mắn là anh ta không thấy cử chỉ thách thức này. Chúng tôi bắt đầu hốt rơm bằng tay không, ráng tránh mùi hôi của nước đái ngựa bốc ra từ đống rơm, và đem chúng đến xe cút kít. Với sự cố gắng cực độ, chúng tôi dọn sạch sẽ chuồng ngựa và rửa ráy khi Weizsacker quay lại 30 phút sau đó. Anh ta oai vệ đi vào chuồng ngựa, làm ra vẻ quan trọng và tự mãn, trông giống như nhà độc tài Ý, Mussolini, trên một cuốn phim thời sự nào đó. Khi nhìn thấy chuồng ngựa sạch sẽ, anh ta lộ vẻ thất vọng. Dường như anh ta chắc chắn rằng chúng tôi không thể làm được và chuẩn bị bắt chúng tôi làm thêm việc. Anh ta lúng túng vì không tìm ra được lý do để phạt thêm chúng tôi.
                           
                          "Giỏi lắm!" Anh ta lẩm bẩm, ráng không để mất mặt, và bước ra khỏi chuồng ngựa.
                          Năm ngày khốn khổ với bọn stabsgefreiters làm tôi thật sự sẵn sàng cho chuyến nghỉ phép của mình. Được về nhà thật là một niềm hạnh phúc, nhưng quá ngắn. Thiếu vắng các điều luật quân đội lúc đầu làm tôi cảm thấy không tự nhiên và khác lạ. Nhưng nhìn mẹ tôi lăng xăng cung phụng cho tôi bất cứ điều gì tôi muốn làm tôi cảm thấy đang sống trong một thế giới khác, thế giới mơ!. Cha tôi vui vẽ so sánh những kinh nghiệm của tôi và của ông trong hải quân hai mươi năm về trước. Fritz, dĩ nhiên, bị thôi miên với những câu chuyện của chúng tôi. Inge thân thiện với tôi hơn. Ông bà tôi ghé thăm, và tất nhiên, khoe với khắp thiên hạ về đứa cháu lính đẹp trai của ông bà. Ba tôi đã bán đi tiệm tạp hoá, và mở một nhà hàng và nightclub.
                          #43
                            khikho007 09.06.2008 14:59:56 (permalink)
                            0
                             
                            Tôi gặp Liebelt, Michaelis, và Ebert và được biết rằng Friedrich cũng đang nghỉ phép. Tôi rất vui là chúng tôi gặp nhau vào buổi tối trước ngày Friedrich đi Dresden trở lại, nơi anh ta đang học trường sĩ quan. Tất nhiên, vì anh ta đã là fahnenjunker-unteroffizier (1 cấp bậc của sinh viên sĩ quan) và tôi chỉ là một pháo thủ nhỏ nhoi, và anh ta khoái chí ra lệnh tôi.
                             
                            "Chúng ta nên ra kế họach cho 1 chuyến trượt tuyết nữa ở núi Sudeten sau khi Knappe và Friedrich giải ngũ." Liebelt đề nghị.
                             
                            "Tôi không biết ông già Herr Hoffer còn ở đó không," Friedrich nói.
                             
                            "Tôi không biết lúc đó tôi còn ở Đức không," Michaelis buồn rầu lên tiếng. "Ba tôi đang nghĩ đến việc dọn qua Anh. Ông không tin Đảng Quốc Xã lắm, vì chúng tôi là người Do Thái."
                             
                            "Lạy trời, hy vọng lúc đó anh cũng còn ở đây," Ebert nói. "Không có anh thì mọi thứ không còn như xưa nữa."
                             
                            "Cạn ly cho cả 5 chúng ta," Michaelis nâng ly rượu lên. "Cho chúng ta, và cho tương lai."
                             
                            Chúng tôi đều cạn ly.
                             
                            Sau kỳ nghỉ phép tuyệt vời, chúng tôi mau chóng quay lại nề nếp. Tôi cảm thấy thích ứng với những nếp sống quân đội. Chúng tôi hăng say huấn luyện suốt năm qua, với các cuộc thao diễn hàng tháng. Những bài học về kéo súng, hành quân, lúc đầu thì trên đường cái, sau đó là đường đất, rồi đặt súng. Khẩu đội trưởng, một đại uý, sẽ chỉ định nơi đặt súng và người thiếu úy sẽ sắp đặc nhân sự vào các vị trí, sắp đặt từng khẩu pháo một cho các khẩu đội, và nguỵ trang.
                             
                            Cuối tháng 1 năm 1937, Weinreich và tôi được huyấn luyện thông tin vì chúng tôi có bằng trung học. Lính tiền sát (những người luôn luôn ở tuyến trước với bộ binh) và các khẩu đội liên lạc với nhau bằng máy vô tuyến và điện thoại. Điều này yêu cầu một nhân viên mang máy và một người trải dây từ đài quan sát đến các khẩu đội. Máy truyền tin vô tuyến là kỹ thuật mới mẽ vào năm 1937, tôi rất tự hào khi trở thành người mang máy vô tuyến, ngay cả cho một đơn vị pháo binh-ngựa.
                             
                            Huấn luyện truyền tin bao gồm việc đo đạc góc, ước lượng khoảng cách, và tất cả mọi việc mà người sĩ quan tiền sát phải biết, để tôi có thể thay thể việc của người sĩ quan trong trường hợp anh ta bị thương hay bị chết. Trong chiến đấu, lính truyền tin đã phải làm việc này khá nhiều, nên chúng tôi luyện tập ngày đêm.
                             
                            Bây giờ tôi là một chuyên viên truyền tin, tôi phải tập cưỡi ngựa. Là dân thành thị, tôi phải làm quen với con thú to lớn này, nhưng không mất nhiều thời gian lắm. Chúng tôi phải tập chải bờm, cho ăn (mỗi người phải lo cho 2 con ngựa) và tháo lắp yên ngựa. Chúng tôi tập cưỡi ngựa mỗi ngày một tiếng đồng hồ trong vòng 10 tuần, dưới dự hướng dẫn của binh nhất Sebastian. Đang mùa đông, nên chúng tôi dẫn ngựa vào trong trường đấu có mái che, và hầu hết chúng tôi đều mới và không có kinh nghiệm về ngựa. Trên sân, chúng tôi đứng cách nhau một khoảng cách trên một đường thẳng ở chính giữa sân. Chúng tôi học cách leo lên yên ngựa, cách cầm cương, những gì nên và không nên làm.
                             
                            Đến hè, cả tiểu đoàn tập chung với nhau (cả ba pháo đội), và cuối hè, chúng tôi tập chung với bộ binh. Khi tập chung, chúng tôi phải rời khỏi Jena, và di chuyển đến khu quân sự ở Juterbog, gần Berlin, nơi chúng tôi có thể tập bắn đạn thật. Tập chung với bộ binh là đỉnh cao nhất của việc huấn luyện.
                             
                            Chúng tôi hiếm khi huấn luyện chung với bộ binh ở doanh trại vì không gian giới hạn, với ruộng đồng xung quanh. Chúng tôi có thể huấn luyện vào mùa thu, sau khi hoa màu thu hoạch, nhưng chúng tôi vẫn gây các thiệt hại cho nông dân và họ không thích. Chúng tôi phải tháo hàng rào xuống rồi lại dựng lên sau khi tập, rất mất thời gian và nhiều khó khăn.
                             
                            Chúng tôi hành quân từ Jena đến Juterbog. Chúng tôi thức dậy từ 4 giờ 30 sáng và có 1 giờ để cho ngựa ăn uống và ăn sáng. Sau đó chia ra cột súng vào xe rồi di chuyển. Bộ binh đi trước, pháo binh theo sau. Bộ binh đi bộ, pháo thủ chúng tôi hoặc cưỡi ngựa, hoặc ngồi trên xe ngựa. Pháo được kéo phía sau, nòng đưa ra phía sau. Pháo đội trưởng cưỡi ngựa dẫn đầu pháo đội 8 của chúng tôi, tiếp theo là sĩ quan tiền sát với các binh sĩ thuộc bộ chỉ huy (BCH) pháo đội, tiếp đến là sĩ quan pháo đội và 4 pháo đội rồi đến các xe chở đạn và quân nhu.
                             
                            Bỗng nhiên chúng tôi nhận lệnh là cánh bộ binh phía trước chạm địch và chúng tôi phải triển khai đội hình và yểm trợ bộ binh. Pháo đội trưởng, sĩ quan tiền sát và binh sĩ của BCH pháo đội tiến lên phía trước và nhập vào quân bộ binh. Sau khi được thông báo kế hoạch tác chiến, pháo đội trưởng quay lại để hướng dẫn sĩ quan pháo đội và chỉ định nơi đặt pháo cho từng khẩu đội. Pháo được tháo ra khỏi xe và kanoniers lo hướng nòng pháo, lính lo ngựa khiêng đạn xuống rồi dẫn ngựa ra phía sau. Người sĩ quan đại đội chọn điểm có thể thấy từ vị trí súng làm điểm tác xạ. Sĩ quan tiền sát chọn mục tiêu tác xạ khác và báo cho sĩ quan pháo đội, viên sĩ quan này ra lệnh cho khẩu đội 2 bắn 1 phát làm đích. Sau mỗi phát đạn, sĩ quan tiền sát gọi về và điều chỉnh. Khi khẩu đội 2 bắn trúng mục tiêu, tất cả các pháo đội đều khai hoả. vào mục tiêu - lần đầu tiên bắn đạn thật- tiếng súng làm tai chúng tôi điếc đặc!
                             
                            Rồi chúng tôi được thông báo tuyến địch rút lui, lính ngựa dắt ngựa quay lại và gắn pháo vào. Nhân viên truyền tin chúng tôi lo xếp dây nhợ và các thiết bị vào thùng và để lên ngựa. Sau đó tiếp tục hành quân, nhưng bây giờ thì hăng hái và kích thích hơn nhiều vì thật sự đi qua các hoạt động phối hợp và được bắn đạn thật lần đầu tiên; chúng tôi cảm thấy ít bị bó buộc trong kỷ luật như trước. Nhưng chỉ 1 thời gian rất ngắn, chúng tôi lại phải trở lại với kỷ luật như trước.
                            #44
                              khikho007 09.06.2008 15:05:04 (permalink)
                              0
                               
                              Trong thời gian chúng tôi ở Juterbog, Hitler ra lệnh tổ chức một cuộc diễn hành lớn chào đón Mussolini, đang viếng thăm nước Đức và Hitler muốn gây ấn tượng với ông ta bằng sức mạnh quân sự. Đây là một trong số ít lần toàn sư đoàn thao diễn. Trong đợt thao diễn này, không may, chúng tôi chỉ thấy toàn bụi, vì một trung đoàn pháo binh với 4 tiểu đoàn, 48 khẩu pháo, mỗi khẩu được kéo bởi 6 con ngựa. Gần 300 con ngựa và 100 bánh xe làm bụi mịt mù. Chúng tôi không chỉ không thấy đường, mà còn thở không muốn nổi.
                               
                              Một tuần sau khi về Jena, chúng tôi được phép ra phố chơi ngoại trừ lúc gác hay dọn chuồng ngựa. Weinreich và tôi trở thành một đôi bạn thân và thường đi chơi với nhau. Cũng như thời phục vụ lao động, cuối tuần chúng tôi thường đi thăm những kiến trúc lịch sử, đi nhảy và gặp gỡ các cô gái trẻ.
                               
                              Một ngày trong mùa xuân năm 1937, tôi được lệnh trình diện ở văn phòng Thiếu Úy Badstubner. Đây là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với sĩ quan. Tôi đến trình diện ông ta, ông thân mật mời tôi ngồi.
                               
                              "Tôi hiểu là anh có kế hoạch học đại học sau nghĩa vụ quân sự," ông ta hỏi.
                               
                              "Jawohl, thưa thiếu uý", tôi trả lời.
                               
                              "Anh nghĩ như thế nào nếu anh được đi học học viện sĩ quan và trở thành sĩ quan dự bị?" Ông ta hỏi. "Thay vì phục vụ 2 năm, anh sẽ phải phục vụ quân đội 3 năm, nhưng anh không phải bị đòi hỏi phải làm bổn phận của lính dự bị và dành toàn bộ thời gian đó cho việc học đại học."
                               
                              Những điều đó có lý, và tôi thích đời quân nhân, tại sao không? " Jawohl, thưa thiếu úy," tôi trả lời. "Tôi thật sự thích điều đó."
                               
                              Weinreich và 2 người có bằng trung học khác cũng được mời vào học viện sĩ quan. Chúng tôi bắt đầu được huấn luyện thêm, và một số công việc của hạ sĩ quan. Thiếu Úy Badstubner nhận trách nhiệm huấn luyện và giao một số công việc đặc biệt cho chúng tôi. Anh ta chỉ lớn hơn chúng tôi 2 tuổi và tốt nghiệp học viện quân sự không bao lâu.
                               
                              Việc huấn luyện quân sự của chúng tôi được nâng cao. Thông thường, năm thứ hai trong quân đội sẽ lặp lại việc huấn luyện ngoại trừ chúng tôi được giao thêm một số công việc kiểm tra lính mới. Nhưng vì chúng tôi là sĩ quan-huấn thụ, chúng tôi bắt đầu học về chiến thuật quân sự. Chúng tôi bắt đầu học các công việc của sĩ quan tiền sát và sĩ quan pháo đội.
                               
                              Chúng tôi được đặt vào vị trí chỉ huy để học cách chỉ huy và dùng giọng như thế nào để chỉ huy lính. Trong việc huấn luyện lính mới, chúng tôi làm việc như một hạ sĩ quan. Một số hạ sĩ quan rất vui vẻ, nhưng một số khác khó chịu ra mặt vì biết rằng một năm sau, chúng tôi sẽ là thiếu uý, còn họ vẫn là hạ sĩ quan năm năm về sau.
                               
                              Có 4 cấp bậc cho sinh viên sĩ quan. Nhỏ nhất là fahnenjunker-gefreiter (tương đương với hạ sĩ), tiếp đó là fahnenjunker-unteroffizier (tương đương với trung sĩ) trước khi chúng tôi đi học ở học viện sĩ quan. Ở giữa khoá học, chúng tôi sẽ đương thăng cấp lên fahnric, và sau khi tốt nghiệp, sẽ là oberhanhrich, gần như là sĩ quan.
                               
                              Ngày 1 tháng 6, với tư cách sinh viên sĩ quan, tôi được thăng chức fahnenjunker-gefreiter (nếu không tôi phải chờ đến tháng 10, đúng một năm sau mới được lên hạ sĩ). Stabsgefreiter Weizsacker rất tức giận vì chỉ sau một thời gian tôi đã ngang lon với anh ta, và anh ta biết rằng chỉ trong vài tháng nữa là tôi sẽ cao hơn anh ta. Tất nhiên, anh ta sẽ không bao giờ lên lon cao hơn Stabsgefrieither không cần biết bao lâu anh ta ở trong quân đội. Tôi có thể thông cảm anh ta, nhưng lúc đó anh ta thật là quá quắt.
                               
                              Fahnenjunker-gefreiter vẫn ở trong chung với những người lính khác như cũ trừ một số giờ giấc chúng tôi được huấn luyện riêng. Những cuộc huấn luyện đặc biệt làm đời sống chúng tôi thích thú hơn. Chúng tôi được tiếp xúc với sĩ quan nhiều hơn. Họ có những cuộc giao tiếp xã hội, thỉnh thoảng chúng tôi được mời theo. Một số cuộc khiêu vũ được tổ chức bởi các thương gia hoặc những người tiếng tăm trong vùng và chúng tôi được phép khiêu vũ với các cô con gái của các sĩ quan hoặc các thương nhân. Những cuộc khiêu vũ hoặc giao tiếp xã hội kia tạo cho chúng tôi có cơ hội học hỏi và phát triển những khả năng giao tế.
                               
                              Cuối tháng 7 năm 1937, chúng tôi cùng với các binh lính ra đồng giúp các nông dân thu hoạch mùa màng. Thật là vui và là một sự giải lao nho nhỏ, và cũng là một sự giúp đỡ lớn cho các nông dân. Tất nhiên, chúng tôi đã quen thuộc với ngựa, và nhiều người lính quen thuộc với việc đồng áng. Chúng tôi vừa làm vừa hát, và thật sự thích thú khi được giúp họ. Họ cũng cảm kích chúng tôi nhiều và đãi chúng tôi ăn no nê.
                              Ngày 1 tháng 9 năm 1937, tôi được thăng cấp lên fahnenjunker-unteroffizier. Ngày 1 tháng 10, đúng 1 năm trong quân ngũ, tôi được 10 ngày nghỉ phép trước khi lên đường đi học viện quân sự ở Potsdam. Weinreich và tôi được gởi đi học ở Kriegsschule Potsdam gần Berlin.

                              #45
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 13 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 183 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9