Bát Tiên Đắc Đạo
Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 7 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 93 bài trong đề mục
bevanng 30.06.2008 14:24:23 (permalink)
Khuyết Danh
Dịch : Nguyễn Bá Lân
text version : bevanng
Bát Tiên Đắc Đạo
Lời Nói Đầu

Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc nằm trong mảng "Văn học cổ điển Trung Quốc", gồm những tác phẩm được giới bình dân ưa chuộng, hoan nghênh đã lâu năm, truyền từ đời này sang đời nọ. Một đặc điểm khó phủ nhận là: mảng văn học đó có tính chất "văn học truyền khẩu", "văn học dân gian". Lúc đầu có thể do một hoặc một số người có văn tài, dựa vào truyền thuyết, huyền thoại hoặc lịch sử để kể lại sự tích của các anh hùng, liệt nữ, hoặc các vị thần tiên, đề cao trung hiếu, tiết nghĩa, mà sáng tác ra. Nhưng rồi, qua quá trình kể lại cho giới bình dân nghe, lại được sự sửa chữa, góp ý của những người này, nên cuối cùng bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là sự đóng góp của tập thể, không mang tên người sáng tác. Ngay cả những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng, như "Tam Quốc Chí" của La Quán Trung, "Thuỷ Hử truyện" của Thi Nại Am, "Tây du ký" của Ngô Thừa Ân, "Phong thần diễn nghĩa" của Hứa trọng Lâm..., lúc đầu người ta cũng không biết tên tác giả, sau này giới nghiên cứu tìm tòi mải, mới nêu ra được danh tính La Quán Trung, Thi Nại Am..vừa nêu trên, nhưng cũng không chắc lắm, vì có người cho rằng "Tam Quốc Chí" là của Thi Nại Am, hoặc của 2 thầy trò La và Thi cùng sáng tác. Vả lại, "tiểu truyện" của các tác giả cũng rất sơ sài và mơ hồ, có khi chỉ được ghi rất vắn tắt: kẻ ẩn dật đời Minh, ông già ở ẩn đời Thanh... ngoài ra, các bộ tiểu thuyết khác đều là "khuyết danh".
Bát Tiên Đắc Đạo cũng nằm trong trường hợp đó : tác giả không biết là ai, sống vào thời đại nào, nhưng qua những lời tác giả tự nhận là "Kẻ làm sách này" thỉnh thoảng lên tiếng, ta có thể đoán chừng đó là một nhà văn ở thời cận đại, có thể là ở cuối đời nhà Thanh, và đầu đời Dân Quốc. Đây chỉ là lời phỏng đoán, không lấy gì làm chắc chắn lắm. Nhưng thiết nghĩ việc đó cũng chẳng quan trọng gì.
Truyện này thuật lại sự tích của tám vị tiên, được dân gian truyền tụng. Đó là 1. Lý Thiết Quài 2. Hán Chung Ly 3.Lam Thái Hoà 4.Trương Quả Lão 5.Hà Tiên Cô 6. Lã Động Tân 7. Hàn Tương Tử 8.Tào Quốc Cửu. Tám vị thần tiên này sống ở nhiều thời đại khác nhau, ẩn cư ở Bồng Lai đảo, kết thành nhóm bạn, kéo nhau ra biển Đông Hải (Bát Tiên quá hải), giao chiến với vợ chồng lão long vương, đánh bại họ. Để kết nối Bát tiên lại với nhau, tác giả đã cho họ sống qua nhiều kiếp.
Truyện này gồm có 100 hồi , do nhà sách Xuất Bản Văn Học (Hà Nội ) Ấn Hành (2005), chuyển đổi thành text và trình bày bởi bevanng.


Hồi THứ 1



Mượn long đan, người tiên giúp hiếu tử
Nãy lòng tham, quan ác đòi thần châu


Người xưa thường nói: "Các vị thần tiên chẳng qua cũng chỉ là 1 những người phàm tục. Phàm nhân ai cũng có thể trở thành thần tiên, chỉ sợ lòng không kiên định mà thôi". Điều đó cho thấy tiên, phàm hai giới vốn chỉ là một. Đã có người phàm, tại sao người phàm lại không thể tu luyện để trở thành thần tiên ? Nếu các vị độc giả không tin, kẻ làm sách này xin đưa ra những chứng cứ, để mọi người cùng nghiên cứu nhé. Từ xưa đến nay, các vị thần tiên vốn cũng nhiều, nhưng các vị thần tiên được người đời nghe biết tới, ai nấy đều ngưỡng mộ, thì không đâu bằng tám vị thần tiên ở tám động phủ, mà người ngày nay xưng tụng là "Bát tiên".

Người làm sách này từ nhỏ vốn chuộng Đạo, đã từng đọc qua những kinh sách, những "thiên đình bí kíp" mà người đời ít ai được xem qua, đã từng đọc qua nhiều "kỳ thư”, đã biết tới những cố sự của các vị thần tiên, nói ra vị tất đã mấy ai tin. Thôi thì tôi xin kể lại sự việc "Bát tiên đắc đạo" từ đầu chí cuối ra sao, thuật lại hầu quí vị nghe chơi. Những sự tích này có lẽ ngay cả đàn bà, con trẻ cũng đã từng nghe qua, có lẽ còn rành hơn cả kẻ làm sách này nữa.

Việc Bát tiên đắc đạo trải qua rất nhiều năm, muốn kể lại cho có đầu có đuôi thì không gì bằng mượn sự tích của hai vị long quân, tức hai con rồng, làm dẫn chứng. Hai con rồng đó, một con ở Tây Thiên, một con ở Nam Hải.

Nguyên vào đời thái cổ, một dải đất Nam Thiềm Bộ Châu toàn là thủy quốc. Nơi đó có tên là Quán Khẩu, chính là nơi mà Ngọc Hoàng thượng đế phong cho người cháu gọi bằng cậu của ngài, là thần Nhị Lang cai quản. Vì thế, người ta thường gọi vị thần này là “Quán Khẩu Nhị Lang”. Ngày nay ở vùng Tứ Xuyên có một nơi tên là huyện Quán, chẳng biết có liên quan gì tới đất Quán Khẩu của thần nhị Lang hay không? Vào thời Nhị Lang trấn thủ Quán Khẩu, ngài thường hiển thần linh, giúp đỡ dân chúng, nên nhân dân ở vùng đất liền phụ cận rất sùng bái ngài, lập đền thờ, miếu mạo, bốn mùa hương khói. Nào ngờ ở thủy quốc đó lại có một lão long (rồng già), vì sợ oai linh của thần Nhị Lang mà suốt năm không dám xuất đầu lộ diện, cứ ẩn mình ở dưới đáy biển mà tu luyện, thọ tới hàng ngàn hàng vạn năm, đạt được tấm thân bất hoại. Nhị Lang thần thông quảng đại, việc gì cũng biết, sự gì cũng hay, nhưng thấy lão long khổ tu đã lâu năm, lại không hề xuất hiện hại người, nên cũng bỏ qua, chẳng lý tới hắn làm chi. Ở bờ biển gần đó, có một chàng hiếu tử, họ Bình, tên Hòa, vốn mồ côi cha từ nhỏ, nhờ bà mẹ góa Vương thị thủ tiết nuôi con, vỗ về chàng trở nên một thanh niên dũng mãnh. Nhưng bà Vương thị vì phải làm lụng quá vất vả để nuôi con, nên dần dà hai mắt mù tịt. Bình Hòa tìm trăm phương ngàn kế, cầu Thần khấn Phật, tìm đủ cách chữa trị mắt cho mẹ , nhưng cuối cùng vẫn không có kết quả. Chàng phẫn uất nói :

- Mẹ ta là người quá tốt, sao đến nỗi chịu thảm cảnh này ? Còn có thiên đạo nữa không ? Thần Phật còn linh thiêng nữa chăng ?

Vương thị biết con là người quá hiếu thảo, tìm đủ cách trị bệnh cho mẹ mà không được, nên quá phẫn uất mới nói những lời như vậy chứ hàng ngày con bà vẫn chịu thương chịu khó, không ngại vất vả kiếm tiền nuôi mẹ. Vì thế, bà rất được an ủi trong lòng. Thấy con thường có lời oán trời, trách người, bà tìm lời ngăn cản, khuyên can :

- Con ơi, mẹ tuy mù cả hai mắt, nhưng được người con hiếu thảo như con, chẳng những lo chữa mắt cho mẹ, còn vất vả kiếm tiền nuôi mẹ, mẹ cảm thấy rất hài lòng, dẫu hai mắt không nhìn thấy gì, cũng có sao đâu ?

Bình Hòa nói :

- Mẹ đừng nói vậy. Làm con mà hiếu thuận cùng cha mẹ là lẽ đương nhiên, là bổn phận của người làm con, chứ mẹ một đời trung hậu, trinh tiết, há nên chịu cảnh thảm thương thế này ? Con nhất định dẫu phải lên trời, xuống đất, cũng tìm cách chữa trị cho mẹ, bất luận thế nào cũng cầu xin được thuốc tiên, chữa cho mẹ sáng cặp mắt, con mới cam tâm !

Vương thị nghe con nói vậy đành cười xòa, bỏ qua. Trong khi đó Bình Hòa một mặt vẫn cần cù lao động, kiếm tiền nuôi mẹ, mặt khác vẫn không quên nghĩ cách trị khỏi bệnh mắt cho mẹ.

Một ngày kia, trong nhà hết sạch củi đun, Bình Hòa dậy thật sớm, lên núi chặt những cành cây khô, bó lại thành một bó, vác lên vai, tử từ xuống núi. Đi được nửa đường, chợt thấy một đạo nhân, tướng mạo thanh kỳ, tinh thần phiêu dạt. Qua các hành động, dường như từ con người ông ta toát ra một điều gì đặc biệt - gọi là thụy khí - nên Bình Hòa hiểu ngay ông này có một lai lịch rất lớn, vội hạ bó củi xuống, tiến lại gần, ngỏ lời chào hỏi :

- Tiên trưởng từ đâu tới đây ?

Đạo nhân cười, đáp :

- Ta không phải người tiên, chẳng qua chỉ là biết về y thuật, nên đi khắp nơi tìm người bệnh chữa trị làm phước thôi !

Bình Hòa xúc động trong lòng, vội hỏi :

Chẳng hay tiên sư có thể chữa lành cho người bị mù hai mắt đã lâu năm hay không ?

- Bệnh gì ta cũng có thể chữa được, chỉ trừ có bệnh mắt mà thôi?

Bình Hòa nghe vậy, bất giác thở "Phì ?" một tiếng, nhặt bó củi, vác lên vai, định đi. Đạo nhân liền cười, nói :

- Thằng bé này sao nóng nẩy quá vậy ?

Bình Hòa đáp :

- Trong nhà tôi chỉ còn một mẹ già. Mẹ tôi hoàn toàn khỏe mạnh. chỉ phải cặp mắt mù tịt, mà đạo nhân nói rằng bệnh gì cũng chữa khỏi, ngoại trừ bệnh mắt, hỏi sao tôi không thất vọng ? Có chuyện gì để nói với ông nữa chứ ?

Đạo nhân lại cười. đáp :

- Ta tuy không chữa được bệnh mắt, nhưng há lại không biết các thầy thuốc giỏi chữa mất hay sao ? Nếu ta không tiến cử, làm sao anh tìm ra được ?

Bình Hòa nghe có thầy thuốc giỏi, vội hạ bó củi xuống, hướng về phía đạo nhân chắp tay vái, nói :

- Tiểu tử rời khỏi nhà từ lâu, sợ mẹ trông mong, muốn về cho sớm, nên vừa rồi nói năng thất thố, xin đạo trưởng đừng trách.
Đạo trưởng là người xuất gia, giầu lòng từ bi, nếu quả thật biết được thầy thuốc giỏi, xin rộng lòng chỉ bảo cho tiểu tử được biết để tiểu tử tới thỉnh cầu ông ta. Nếu quả bệnh của mẹ tôi được chữa lành thì trước là đạo trưởng tích chứa được nhiều âm công, sau là tiểu tử nhất định sẽ có lễ tạ trọng hậu để đền ơn đạo trưởng.

Đạo nhân gật gù, mỉm cười, nói :

- Anh là một người nghèo rớt mồng tơi, suốt ngày phải kiếm tiến nuôi mẹ, gia cảnh chẳng khấm khá gì, lấy tiền đâu mà nói chuyện đền ơn ta ? Vả chăng, người xuất gia lấy từ bi làm gốc, ta cũng chẳng tính chuyện ơn nghĩa gì đâu. Thôi thôi, chúng ta gặp nhau đây, hẳn cũng là có duyên kiếp trước, bần đạo lại kính trọng anh hiếu thảo, mẹ anh tiết nghĩa, sẽ chỉ cho anh một chỗ mà đi tìm. Cách núi này chừng mười lăm dặm là vùng biển cả, ở đó có một con nghiệt long, tu luyện đã lâu năm. Mỗi ngày, cứ vào hai giờ tý và ngọ, nó lại ngoi đầu lên mặt nước để hít thở, đón lấy tinh hoa của mặt trời, mặt trăng. Miệng nó phun ra một hạt hồng châu, chiếu sáng khắp mặt nước. Đó là viên long đan do nó luyện lâu năm mà thành. Anh hãy tới ẩn nấp ở chỗ bờ nước, đợi khi rồng phun hạt châu lên cao, anh hãy niệm câu thần chú : "úm lý hống, lý hống ", đồng thời đưa tay ra vẫy một cái, hạt châu kia nhất định sẽ rơi vào tay anh. Anh có thể đem về cất kỹ trong nhà, treo hạt châu trong một căn phòng. Anh muốn cầu xin điều gì, chỉ việc đứng trước hạt châu, lâm râm khấn vái, tức thì điều ước muốn của anh sẽ được thực hiện. Về phần bệnh mắt của mẹ anh, chỉ cần cho bà tiếp xúc với ánh sáng do hạt châu phát ra, hai mắt bà sẽ được sáng tỏ trở lại.

Bình Hòa nghe vậy, tin chắc đây là một vị thần tiên, vội phục xuống lạy. Đạo nhân cười, đỡ dậy, nói :

- Chẳng cần đa lễ. Nhưng phải nhớ kỹ câu thần chú, sẽ nắm được viên hạt châu trong tay ! Nhưng nghiệt long thấy hạt châu rơi vào tay anh, nhất định sẽ tìm cách cướp đoạt lại. Khi đó, ta sẽ ở trong bóng tối giúp đỡ anh, không để xảy ra việc lầm lỡ, và anh chỉ việc can đảm chạy đi là xong !

Câu nói vừa dứt, một trận gió nổi lên, đạo nhân biến ra một luồng kim quang, giây lát mất tăm. Bình Hòa vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi, hướng lên thinh không vái tạ. Sau đó, chàng vác bó củi lên vai, trở về nhà. Vì sợ mẹ kinh hãi, chàng không dám nói tí gì cho biết.

Đợi tới trống canh ba, còn lại một mình, Bình Hòa mở cửa sau ra đi, chạy như bay tới chỗ mà đạo nhân đã chỉ dẫn cho biết. Chọn được một khu lau sậy san sát, chàng ẩn thân trong đó, không dám thở mạnh, căng mắt nhìn về phía bờ nước. Tới đúng giờ tý, quả thấy một luồng hồng quang, từ dưới nước dâng lên, khiến các loài tôm cá kinh hãi chạy tán loạn, mất tăm. Luồng hồng quang vọt lên khỏi mặt nước. cao hơn một trượng, hướng về phía mặt trăng. Nó cứ lên lên, xuống xuống như thế mấy lần, đồng thời bên trong luồng sáng hồng đó lại xuất hiện một vật gì, mầu trắng như bạc. Bình Hòa núp đã lâu, thấy viên hồng châu xuất hiện, liền rời khỏi chỗ núp, định thần giây lát, nhớ lại câu thần chú : “úm lý hống, lý hống !", liền cất tiếng niệm, đồng thời đưa tay vẩy một cái, liền cảm thấy luồng hồng quang bay về phía mình, ánh sáng đập vào mắt chói lòa. Bình Hòa đưa cả hai tay ra hứng, cảm thấy một vật rơi vào tay Nhìn kỹ, quả thấy một viên hồng châu nằm trong tay, chiếu ánh sáng lung linh. Bình Hòa mừng không biết để đâu cho hết, liền nắm chặt lấy viên hồng châu, xoay mình tính bỏ đi. Bỗng đâu từ dưới đất, một trận cuồng phong nổi lên, nhắm hướng khóm lau sậy bay tới. Giây lát, trời đất tối tăm, mặt trăng mất ánh sáng. Bên tai nghe tiếng ầm vang như tiếng sấm, nhắm ngay đầu Bình Hòa lao xuống. Bình Hòa nắm chặt lấy viên hồng châu, đồng thời nằm phục xuống mặt đất, miệng hô to :

- Tiên sư cứu mạng ! Tiên sư cứu mạng !

Chợt nghe trên không trung có tiếng người hô to :

- Nghiệt long không được vô lễ ! Hãy nghe pháp chỉ của ta đây. Ta chính là Cứu Thiên Phiếu Diểu đạo nhân, xét ngươi tu luyện đã nhiều năm mà không thành chính quả, lại nghĩ tình Bình Hòa hiếu thuận, cảm động tới trời, nên ta muốn mượn viên long đan của ngươi, đem về chữa mắt cho mẹ anh ta, sau đó lại dùng viên long đan đó để cứu nhân độ thế, lập nhiều công đức. Sau khi ngươi mất long đan, thân xác khó nỗi bảo toàn, vậy sinh hồn ngươi cứ nương tựa chỗ này, không được dời xa nửa bước. Ba năm sau, Bình Hòa sẽ gặp tai nạn. Lúc đó, hồn anh ta sẽ nhập vào xác ngươi, cả hai sẽ hợp thân làm một và đều có kết quả tốt. Như thế chính là nhất cử lưỡng đắc, ngươi đừng đem lòng thù oán với anh ta nữa.

Câu nói vừa dứt, gió liền lặng, sấm liền ngưng một vầng trăng sáng lại treo lơ lửng trên bầu trời. Ở chỗ viên hồng châu xuất hiện lúc nãy, người ta thấy dưới nước ló ra một đầu rồng, vọng lên không trung mà lắc lư, gật gật vài cái, tỏ ý ưng thuận, rồi toàn thân rồng chìm xuống nước, không thấy đâu nữa. Bình Hòa ngơ ngác giây lát, vọng lên không trung kính cẩn vái lạy, rồi bò ra khỏi vùng lau sậy, mang hạt châu về nhà.

Lúc đó, phương Đông vừa rạng sáng, mặt trời lên cao, bà mẹ Bình Hòa đang ở trên giường mò mò mẫm mẫm tìm chiếc áo để khoác lên mình. Bình Hòa không dám làm kinh động tới mẹ. nhưng theo thói quen thường ngày, chàng chạy vào phòng mẹ thăm hỏi. Chàng chợt "A” lên một tiếng, vì thấy mẹ mở lớn hai mắt, nhìn trừng trừng, và cất tiếng hỏi :

- Con à, con cầm thứ gì trong tay đấy ? Nó có mầu hồng hồng, coi đẹp ghê !'

Bình Hòa thấy mẹ nhìn rõ mọi vật, vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Chàng xòe tay, đưa hạt hồng châu ra, để mẹ coi cho rõ. Bà nhảy xuống giường, đứng thẳng, nói to tiếng :

- Con à, con kiếm đâu ra bảo bối này ? Mẹ vừa nhìn thấy, đến sáng tỏ hai mắt, chẳng khác gì năm xưa !

Bà vừa nói, vừa đưa tay ra, có ý muốn đòi hạt hồng châu. Bình Hòa vội nói :

- Mẹ đừng nói vội, bảo bối này không phải thứ đồ chơi đâu. Để con nghĩ ra một cách đem treo nó lên, lúc đó mẹ tha hồ nhìn ngắm. Bảo đảm hai mắt mẹ từ nay sẽ sáng tỏ. không bao giờ mắc lại bệnh mù lòa nữa đâu.

Bà mẹ nghe lời, cùng Bình Hòa tiến vào căn phòng giữa nhà. Bình Hòa dùng một sợi dây, tìm cách treo hồng châu lên giữa phòng, liền thấy một luồng sáng hồng hồng tỏa ra, soi sáng cả căn phòng.

Từ đó về sau, chẳng những Vương thị sáng tỏ hai mắt, mà hai mẹ con còn luôn luôn tráng kiện, tinh thần lúc nào cũng sảng khoái. Lại thêm hạt minh châu này là như ý châu : hễ cần thứ gì, chỉ việc đứng trước hạt châu lâm râm khấn nguyện, là vật đó hiện ra ngay. Việc ăn uống, may mặc, mẹ con chẳng còn phải lo đến nữa.

Nhưng Bình Hòa vốn tính cứng cỏi, trong nhà dẫu có báu vật đó, chàng cũng không muốn ăn không ngồi rồi, mà hàng ngày vẫn lao động cần cù, dù ngày mưa hay nắng, lạnh hay nóng, chàng vẫn không hề nghỉ ngơi.

Một hôm, Vương thị nói với con trai :
- Con à, nay nhờ trời thương. đường y thực nhà ta không thiếu. cuộc sinh hoạt cũng thảnh thơi, sung túc, mà con nay tuổi cũng chẳng còn nhỏ, hãy để tâm tìm kiếm một vị cô nương tài mạo song toàn, mà sớm tính chuyện hôn nhân. Đó là tâm nguyện lớn nhất của mẹ.

Bình Hòa nghe vậy liền đáp :

- Lệnh của từ mẫu, hài nhi đương nhiên phải tuân theo. Nhưng từ lúc đội ơn người tiên ban cho hạt châu, chữa lành mắt cho mẹ con đã từng phát lời tâm nguyện là phải lập được năm trăm việc công đức, sau đó mới nghĩ tới chuyện hôn nhân. Từ lúc về nhà đến nay đã hơn một tháng, con nghĩ mãi mà chưa tìm ra dược việc công đức nào có thể thi triển, cho xứng đáng đây.

Vương thị nghe vậy hoát nhiên tỉnh ngộ, nói :

- Con à, việc đó chẳng khó gì. Theo mẹ nghĩ, điều mà tiên gia coi là quí báu nhất chính là cứu người giúp đời. Con đã có dụng cụ đó trong tay, sao không mau đem ra thi thố ? Chẳng những con có thể tích chứa được nhiều âm đức, mà còn giúp cho vị tiên sư và lão long gia lập được công hành.

Nghe mẹ nói, Bình Hòa mừng rỡ, nhẩy cỡn lên, thưa :

- Quả nhiên mẹ có kiến thức rất cao. hài nhi không sao nghĩ tới! Từ nay con sẽ đi khắp nơi, làm nghề thầy thuốc. Hễ gặp ai mắc chứng bệnh gì, con sẽ lấy viên hồng châu ra soi, bảo đảm bệnh gì cũng khỏi. Vả lại, thấy nhà nào quá nghèo khổ, đường y thực thiếu thốn đủ điều, con sẽ khấn nguyện trước hồng châu xin tiền bạc gạo thóc đem cho. Như vậy, không đầy một năm con sẽ lập được số công đức, đúng như lời tâm nguyện.

- Tốt lắm ! Con ta thấy việc nghĩa, hăng hái làm ngay, chẳng hề trễ nải ! Đã nghĩ ra được, nên làm ngay hôm nay, nhất định được lắm đó !

- Bảo bối đã trị được bệnh cho mẹ, đương nhiên sẽ trị được bệnh cho người khác. Con xin nghe lời mẹ, thực hiện ngay việc cứu giúp những người khốn khổ.

Từ đó, ngày ngày Bình Hòa mang theo viên hồng châu, đi du hành khấp nơi, hễ gặp người bệnh nào, liền đem hồng châu ra soi, bệnh gì cũng khỏi cấp kỳ.

Lúc đầu chữa bệnh cho những người quanh vùng, sau rồi đi xa hơn, chữa cho cả những người ở xa tít mù tắp. Bình Hòa thật lòng cứu người, chẳng những không đòi tiến chữa bệnh, đôi khi còn chu cấp cho con bệnh nghèo là khác.

Qua ba năm, Bình Hòa nổi danh thầy thuốc giỏi. xa gần đều nghe biết. Chàng lại vốn tính thẳng thắn, chẳng biết giấu giếm, dối gạt ai bao giờ. Hễ có người hỏi chàng học ở đâu mà có được bản lãnh cao như thế, Bình Hòa liền thú nhận mình chẳng có tài năng gì, mọi việc đều nhờ vào công lực của hồng châu mà thôi. Lại có người hỏi chàng kiếm đâu ra viên hồng châu đó, Bình Hòa cũng không giấu giếm, đem sự thực kể ra hết. Việc đó đã lôi cuốn sự chú ý của một người Người đó chẳng phải ai khác, mà là vị trưởng quan của địa phương Quán Khẩu, họ Mao tên Hổ. Nghe trong chỗ trị nhậm của mình có chuyện lạ kỳ như vậy, hắn kêu Bình Hòa tới hỏi cho biết. Nếu quả thực có vật báu đó, hắn sẽ dựa vào thế lực trưởng quan của mình mà đòi hỏi viên hồng châu. Nghĩ vậy rồi, hắn bàn bạc với vợ là Hồ thị. Hồ thị nói :

- Nếu được báu vật đó, trước hết có thể dùng để trị bệnh cho con gái chúng ta, nhưng nên đem nhiều tiền bạc mua chuộc anh kia thì hay hơn. Nếu cưỡng bức mà chiếm đoạt, e rằng dân chúng sẽ bàn tán, chê cười.

Mao Hổ nghe lời, phái hai sai nhân xuống làng thôn, truyền gọi Bình Hòa. Bình Hòa hỏi lý do, sai nhân nói :

- Tiểu thư của bản quan mắc phải chứng bệnh mê lẫn, mất trí. Nghe trong quí phủ có viên thần châu trị khỏi mọi chứng bệnh, quan lớn đặc biệt sai chúng tôi tới mời tiên sinh đem thần châu tới chữa thử một phen. Nếu quả thật tiểu thư chúng tôi được chữa lành bệnh, ắt có trọng thưởng.

Bình Hòa vào từ biệt mẫu thân để ra đi. Vương thị nghe nói có quan vời gọi, bất giác nhíu mày, nói :

- Con à việc dính dáng tới quan tư chẳng dễ dàng đâu. Con đi lần này nên cẩn thận.

Bình Hòa ứng tiếng đáp : - "Con đã hiểu”, và theo chân sai nhân, cùng về nha môn.

Mao Hổ nghe nói đã mời được thầy thuốc có thần châu, mừng rỡ trong lòng, đích thân ra cửa nghênh đón, tiếp đãi tử tế. Hỏi tới nguyên do có thần châu, và hiệu quả của nó thế nào, Bình Hòa cứ thật tình bẩm báo. Mao Hổ nghe nói, cũng bán tín bán nghi, mời Bình Hòa vào nhà trong, trị bệnh cho con gái. Bình Hòa theo chân quan tiến vào phòng trong, thấy tiểu thư sắc mặt trắng bệch như tờ giấy. Định thần nhìn kỹ, thấy rõ ràng cô gái bị yêu ma ốp vào thân. Bình Hòa lấy hồng châu ra, chiếu vế phía cô gái. Viên hồng châu này là vật linh thiêng, sơn tinh, dã quỉ nào mà chịu cho nổi ánh hồng quang do hạt châu phát ra ? Chỉ nghe một tiếng "ôi chao!", tiểu thư liền ngã vật ra phía sau. Bình Hòa vội thu linh châu và tiểu thư lại đứng bật dậy. Thấy cha mẹ đều đứng một bên, nàng bỗng khóc to tiếng, nói :

- Cha mẹ ơi, con đau đớn quá !

Vợ chồng Mao Hổ mừng rỡ quá lòng mong ước, hướng về phía Bình Hòa bái tạ :

- Tiểu nữ mắc chứng bệnh này đã được nửa năm, cứ ngơ ngẩn chẳng biết gì. Ngay cả người thân trong gia đình, nó cũng không nhận biết. Nay đội ơn tiên sinh đem thần vật chiếu vào, cháu lập tức tỉnh lại. Tiên sinh quả là ân nhân của gia đình chúng tôi.

Bình Hòa vội khiêm tốn từ tạ. Tiếu thư lại tự kể chuyện mình :

- Mùa xuân vừa rồi, tôi ở vườn hoa đằng sau ngoạn cảnh, bỗng một trận gió nổi lên, mang theo một mùi tanh tưởi xông vào mũi lên thẳng trên óc. Từ đó về sau, tôi làm gì, nói gì, cũng không có chủ ý, chẳng hiểu chuyện này ra sao nữa.

Bình Hòa nói :

- Chẳng cần nhắc tới nữa. Đây là một loại yêu tinh, không rõ là yêu tinh gì, đã ốp vào thân thể tiểu thư, để hưởng những thức ăn của nhân gian.

Mao Hổ mời Bình Hòa ra ngoại sảnh, sai bày tiệc thết đãi. Trong tiệc, hắn hỏi Bình Hòa có đồng ý bán lại hạt châu hay không. Bình Hòa cười đáp :

- Tiểu dân tuy được hạt châu này. nhưng không thể coi nó là của riêng tư. Sau này, hết hạn kỳ, vị tiên sư kia sẽ thu hồi lại, đem trả cho lão long. Vì thế. tiểu dân không thể nào đem hồng châu bán lại cho người khác. Vả lại. lão gia có nắm hạt châu này, cũng chẳng giữ được bao lâu, hà tất phải đòi hỏi vào lúc này ?

Mao Hổ cho rằng Bình Hòa tìm cách thoái thác. nên ráng tìm lời thương lượng thêm vài lần nữa, Bình Hòa còn giữ tính trẻ con, giận dữ lên tiếng :

- Tiểu dân được hạt châu này, trước là chữa bệnh mắt cho mẹ, sau là chữa trị cho người, cứu giúp người khốn khó, lập chút công đức Nếu nay để lại thần châu trong phủ lão gia, lão gia làm gì có thời giờ rảnh rỗi để đi khắp nơi chữa trị cho người đời, há chẳng phải uổng phí linh châu lắm sao ? Lão gia là người đại quí, đồ ăn thức mặc thứ gì cũng có, vật dụng thường ngày thứ gì mà chẳng toại nguyện ? Nay được vật này, chẳng qua cũng chỉ trân trọng cất kỹ một nơi, có dùng được vào việc gì đâu ? Như vậy chỉ khiến tiểu dân lầm lỡ việc hành đạo, lập công đức. Những việc như thế chỉ tổn hại cho người, chẳng lợi ích cho mình, tiểu dân dám khuyên lão gia chớ nên làm !

Mao Hổ nghe vậy, đùng đùng nổi giận, ra lệnh cho sai nhân bắt giữ Bình Hòa, cướp đoạt hạt châu, vu cho chàng tội yêu ngôn hoặc chúng, ra ngoài làm những chuyện bất qui. Bình Hòa thấy sai nhân tiến lại, định bắt mình, tức thì nổi giận, rời khỏi bàn tiệc, đưa chân phải đá phốc, trúng một người, lại tung một chưởng đánh ngã người nữa. Các sai nhân cất tiếng la ó, cùng cầm binh khí xông lại. Bình Hòa sợ có điều thất thố, cầm chắc hạt châu trong tay, miệng hô to :

- Lão gia bất tất phải giận dữ ! Các vị ca ca chẳng cần động thủ. Hãy nghe tiểu nhân nói một lời.

Mao Hổ cho rằng Bình Hòa tình nguyện hiến dâng hạt châu, vội bảo mọi người ngừng tay coi Bình Hòa định nói gì. Chàng thung dung bẩm báo :

- Lão gia là quan trưởng của tiểu nhân, lão gia đã có mệnh lệnh, tiểu nhân há dám cãi ? Nhưng quả thật hạt châu này tiểu nhân không có quyền chiếm giữ lâu ngày. Nếu tiểu dân đem dâng cho lão gia, mai mốtt người tiên trách cứ, lão long đòi lấy lại, tiểu dân không tránh đâu khỏi cái chết, còn mang tội danh là giữ gìn không cẩn thận nữa. Nếu không chiều theo ý lão gia, tiểu dân cũng chẳng tài nào ra thoát khỏi nha môn. Đàng nào thì cũng phái chết, chẳng thà tiểu dân chết trong quí phủ. Vỉ như chết đi còn có hiểu biết, tiểu dân còn có thể cầu xin tiên sư lượng thứ. Lão gia hãy coi đây, tiểu dân sẽ lập tức nuốt hạt châu này vào bụng. Sau đó nếu tiểu dân không chết, lão gia muốn chém, muốn giết tùy ý, tiểu dân chẳng dám có một lời oán thán.

Bình Hòa nói rồi, há rộng miệng, bỏ viên hồng châu to bằng trái mơ vào miệng, nuốt xuống. Mao Hổ thét sai nhân cướp đoạt lại, nhưng không còn kịp nữa. Chỉ thấy Bình Hòa biến đổi sắc mặt, lợt lạt như tờ giấy vàng, hai mắt mở trừng trừng, cập chân vội vã tiến ta khỏi cửa, đi mất. Mao Hổ cũng không dám ngăn cản, để mặc cho Bình Hòa rời khỏi nha môn.

Bình Hòa chạy thẳng về nhà, gặp mẹ liền phủ phục xuống đất, khóc lớn tiếng :

- Mẹ ơi, sao số mẹ khốn khổ thế này ? Hiện nay con không còn sống để phụng dưỡng mẹ nữa !

Vương thị kinh ngạc hỏi tại sao, Bình Hòa chỉ nói được một câu:

- Con đã nuốt hồng châu vào bụng mất rồi !

Vương thị nghe chưa hết câu, liền kinh hãi thất sắc, mặt lợt như đất thó, chỉ nói vắn tắt được một câu :

- Không xong rồi ! Hạt châu đó là long đan, con nuốt vào bụng sẽ biến thành rồng mất thôi !

Nói chưa dứt lời, đã thấy một trận gió lốc nổi lên, mây đen kéo tới Vương thị thấy trước mắt kim quang sáng lòa, và giữa không trung dường như có tiếng rồng ngâm. Định thần nhìn kỹ, quả nhiên thấy một con rồng vàng, uốn lượn giữa không trung. Nhìn lại chỗ Bình Hòa, chẳng thấy đâu nữa.

Hồi Thứ 2

Hai hàng nước mắt rồng nhỏ xuống, biển thành vũng "Ngóng Mẹ "
Một mũi gươm đâm lẩm, mớ mắt cho con rồng mù.


Thần Nhị Lang chợt cảm thấy máu nhồi lên tim, liền bấm đốt tay biết rõ việc Bình Hòa đang biến thành rồng. Lại thấy một luồng oán khí xông thẳng lên trời, ngài hiểu được Bình Hòa đã bị trưởng quan ức hiếp, ắt sẽ nghĩ tới chuyện báo thù rửa hận. Vạn nhất rồng kia uốn mình chuyển động, ắt là cả một vùng đất Quán Khẩu chu vi hai ngàn dậm sẽ hoàn toàn biến thành biển cả. Ngài vội ra lệnh cho Hoàng cân lực sĩ và thần binh hộ pháp mau chóng bắt con nghiệt long nhấn xuống đầm sâu, không đề cho nó tàn hại sinh linh. Lực sĩ và thần binh phụng pháp chỉ, vọt ngay lên không trung, đúng lúc nhìn thấy rồng đang giận dữ, mở mắt trừng trừng, ở trên nóc nhà của họ Bình, đăm đăm nhìn xuống bên dưới, có vẻ như lưu luyến không nỡ rời xa. Lực sĩ và thần binh vừa tính thi triển pháp lực, chợt thấy Phiếu Diểu chân nhân cưỡi mây bay đến. Chân nhân tươi cười nhìn đám lực sĩ, nói :

- Các vị chẳng cần phí công sức quan tâm tới chuyện này. Tiểu đạo cùng con vật kia có một mối quan hệ nhân quả, xin các vị cứ giao việc này cho tôi giải quyết, và trở về phục mệnh cùng thần Nhị Lang đi.

Đám lực sĩ thấy chân nhân tiến lại, có ý nể nang, chẳng dám cãi lời, liền cúi chào, rút lui. Phiếu Diều chân nhân dẫn dụ con rồng tiến về phía mặt nước, miệng niệm lâm râm, rồi hét to lên :

- Hỡi lão long ở dưới đáy nước kia, hóa thân của ngươi đã tới rồi, sao ngươi chưa xuất hiện, còn đợi tới chừng nào ?

Câu nói vừa dứt, một trận cuồng phong nổi lên trên mặt biển, từ dưới nước sâu thẳm, dường như có một con rồng bay lên, nhưng chỉ có hình bóng lờ mờ, chứ không phải thân xác đích thực. Hai con rồng gặp nhau, tỏ vẻ thân thiện, như đã từng quen biết.

Chân nhân đẩy cho hình bóng rồng tiến sát đầu con rồng đang ở giữa không trung, rồi vỗ tay ba cái. Giây lát, hình bóng rồng tiêu tan, hai con rồng nhập làm một. Chân nhân lên tiếng dặn dò :

- Từ nay ngươi hãy tạm ở đây tu luyện chừng năm chục năm, sau đó có thể lên thiên đình nhận sắc phong. Nếu ngươi có hành vi xằng bậy, ngang ngược, ta nhất định dùng phi kiếm chém ngươi đứt làm hai khúc.

Con rồng nhận pháp chỉ, gật đầu lạy tạ. Lúc sắp hạ xuống nước, nó tỏ ý lưu luyến không nỡ rời xa mẹ, cứ quay đầu lại ngó chừng ba lần, rồi hai hàng nước mắt rồng nhỏ xuống, biến thành một vũng biển. Ngày nay ở vùng Quán Khẩu, còn lại di tích của vũng biển đó, ngàn năm lưu truyền, gọi là vũng "Ngóng Mẹ".

Phiếu Diểu chân nhân giải quyết xong vụ công án, tính cưỡi mây bay đi, trở về động phủ. Đám mây vừa di động, chợt có một đám mây ngũ sắc từ từ bay tới. Phiếu Diểu chân nhân ngửng nhìn, chợt nhận ra vị sư huynh của mình, là Hỏa Long chân nhân. Hai vị tiên tiến lại gặp nhau, Hỏa Long chân nhân hỏi :

- Sư đệ tới đây làm gì ?

Phiếu Diều cười đáp :

- Vì việc nghiệt long, tôi phải tới đây. Vụ công án cũng vừa kết thúc tôi tính trở về động phủ ở núi Hành Sơn, để đợi sư huynh, hỏi thăm cho biết sư huynh đã giải quyết xong long án của mình chưa. Tình cờ lại gặp nhau đây, xin hỏi công việc của sư huynh hiện giờ ra sao ?

Hỏa Long cười đáp :

- Công việc chú giải quyết liên quan tới hóa long, tức là con rồng đã trưởng thành, đạt được linh tính, nên chú giải quyết cũng dễ dàng. Trái lại, ta phải giải quyết một con thằng long, tức là rồng chưa thuần thục, cần phải quan tâm câu thúc, vì thế mất nhiều công sức đó. Hiện giờ, ta phải đi Đông Hải, để giải quyết cho xong công án này đây.

- Đúng là cần giải quyết vụ này cho nhanh. Chẳng bao lâu nữa chốn hạ giới sẽ gặp phải thủy kiếp lớn lao, các vị thánh nhân trị thủy (1) cần mau chóng ra đời. Trong tương lai, sông nước và đất liền phân ranh rạch ròi. Lúc đó, hai con nghiệt long mới có dịp để xuất đầu lộ diện. Nếu để diên trì, anh em ta không tránh khỏi tội. Trước mặt tổ sư, chúng ta lấy gì để bẩm báo đây ?

- Đúng vậy ! Ta không có thời giờ để nói giỡn chơi với sư đệ nữa, phải nhanh chóng đi lo giải quyết công việc của ta đây.

Hai vị tiên chắp tay chào từ biệt nhau, Hỏa Long chân nhân vội vã tiến về phía Đông Nam, tới thẳng bờ biển miền Đông Hải, để lo cho xong công việc của mình.

---------------------------
(1) Trị Thủy : theo truyền thuyết, đời thượng cổ nước ngập tràn lan khắp nơi, vua Nghiêu mới sai ông thuần trị thủy, tức là khơi dòng chảy cho sông ngòi, đào nhiều kênh đào, dẫn nước vào sông lớn đổ ra biến. Nhờ vậy, dân chúng mới có đất đề canh tác và cất nhà ở. Sau vua Thuấn lại ông Hạ vũ tiếp tục công việc trị thủy trong nhiều năm.

Con thằng-long mà Hỏa Long chân nhân đề cập tới ở bên trên, xuất hiện ở phía Tây miền Đông Hải, nằm ngay trên sông Tiền Đường, nay thuộc bộ phận tỉnh Chiết Giang. Nơi đó nằm ở hạ lưu sông Tiền Đường, chỗ mà người ngày nay gọi là "Thất lý lung thủy, - dòng sông chảy xiết dài bảy dặm. Ở chỗ này, sông chảy qua một vùng núi non lởm chởm, tạo nên nhiều thác ghềnh. Có chỗ, nước từ trên cao đổ xuống, tạo nên một vực thẳm, sâu hun hút, người xưa gọi là "Phục long đàm" - đầm nước rồng ẩn. Đó chính là chỗ ẩn núp của thằng-long.

Tương truyền con rồng đó đã có được một cơ thể rồng vẩy giáp quanh mình, có mũi có miệng, lại thêm râu đầy đủ, chỉ sai một điểm duy nhất là cặp mắt, tu luyện không đủ thời gian, nên chưa mở ra được, để nhìn thế giới tươi đẹp, chúng sinh đông đảo. Vì rồng là con vật to lớn rềnh ràng, những loài tôm cá làm sao kháng cự lại được ? Mỗi khi gặp lúc rồng mù há miệng ra, những loài động vật kia cứ tự động chui vào bụng nó. Mỗi năm, nó tàn sát sinh vật không biết bao nhiêu mà kể. Cũng may, con rồng này đã sớm thông linh tính. lại có túc căn rất tốt : nó chỉ ăn no những loài tôm cá thôi, chứ không tấn công các thuyền bè qua lại trên sông, để nuốt người Tuy nhiên, vì thân thể quá lớn, mỗi khi nó chuyển mình, không tránh khỏi gây ra những đợt sóng dữ dội, gió nổi cuồn cuộn, nên tác hại cũng không nhỏ.

Không biết vào thời đại nào. tháng nào, năm nào, vị Hỏa Long chân nhân nói trên, đã cùng hai vị quan lớn trong triều đình, ngồi thuyền đi qua chỗ thác hềnh. gặp đúng lúc rồng mù xuất hiện. Chỉ trong giây lát, trời tối tăm, mặt trời mất ánh sáng con thuyền chân nhân đang ngồi chao đảo dữ dội. Chân nhân nổi giận, nói :

- Nghiệt súc nào dám ở đây mà hưng yêu tác quái ?

Liền gọi các thần thổ địa hai bên bờ sông tới hỏi, họ mới đem tình hình và đặc tính của con rồng kể hết cho chân nhân nghe.
Chân nhân nói :

- Cái thứ ti tiện, tu luyện chưa thành, sao dám vô lễ như thế ?

Hai vị tể quan mới hỏi :

- Có cách gì trị nó được không ?

Chân nhân gật đầu, đáp :

- Thứ súc vật nhỏ nhoi đó làm sao đương nổi một nhát kiếm của tôi ? Chỉ thương cho nó tu luyện đã lâu năm, lại chưa từng làm những chuyện bại hoại, nên tôi không nỡ trừ khử nó thôi !

Hai vị tể quan đều nói :

Thứ súc sinh đó làm gì có lòng tốt ? Hiện thời, hai mắt chưa mở ra, nên nó chưa gây ra những điều tệ hại. Đợi tới lúc nó tu thành cặp mắt sáng, khác nào cọp mọc đôi cánh, người phàm sao có thể chế ngự nổi nó ? Vì thế, nếu pháp sư muốn thu thập nó, thì không gì dễ dàng bằng làm ngay lúc này.

Chân nhân than rằng :

- Tội trạng chưa rõ, việc ác chưa thành, nỡ lòng nào mà khai sát giới ?

Tế quan rất có lòng thương dân, nghe chân nhân nói vậy, vẫn không đành bỏ qua cho rồng mù, mới nói :

- Tiên sư không chịu sát giới, nhưng hai chúng tôi là đại thần của triều đình, có trách nhiệm vì dân trừ hại, vậy xin pháp sư cho mượn gươm báu một lát. Nếu trời có trách phạt, chúng tôi tình nguyện cùng nhau chịu tội, không can dự gì tới pháp sư. Được không?

- Các vị đại nhân vì dân vì nước, làm gì có tội lớn ? Hai ngài đã nói vậy, bần đạo đành cho mượn thanh kiếm đeo bên mình.

Chân nhân nói rồi, lấy ra một thanh kiếm nhỏ, dài chừng một tấc. Nhưng vừa ra trước gió, nó liền biến thành hai. Chân nhân chỉ dẫn:

- Đây là thư kiếm, và đây là hùng kiếm. Theo thần thổ địa nói, thì con rồng này tu luyện thành rồng cái, nên ta phải sử dụng thư kiếm, mới chém nổi nó. Đại nhân nhất thiết không được lầm lẫn.

Tể quan tiếp nhận hai thanh kiếm, cầm trong tay, xem xét kỹ một hồi, thấy kiếm đó tuy chỉ dài một tấc, nhưng phát ra ánh sáng lấp lánh, một luồng khí lạnh xông tới tận mặt, lạnh buốt. Nhưng tể quan vẫn cất tiếng chê bai :

- Rồng lớn, kiếm nhỏ, làm sao sử dụng cho thích đáng ?

Chân nhân cười lớn tiếng, nói :

- Đại nhân đừng coi thường kiếm này. Bần đạo đã từng theo bà Nguyên Nữ học được "Thiên độn kiếm pháp", biết thanh kiếm này đã phải trải qua ba ngàn năm tôi luyện mới thành, có thể lớn có thể nhỏ, có lúc ẩn, có lúc hiện, tùy theo ước muốn của người sử dụng, luôn luôn được như ý. Bình thời không dùng tới, nó có thể nhỏ vô cùng; nay cần dùng tới, đại nhân muốn dài bao nhiêu, nó dài chừng đó, đến chừng muốn ngắn lại cỡ nào, nó ngắn cỡ đó. Vung tay ném một cái, nó bay vút đi, nhanh như gió, mà mũi kiếm lại vô cùng bén nhọn, quả là vật báu kỳ lạ của tiên gia, trên đời không có nổi đâu !

Tể quan mừng lắm. ông đang tìm kiếm xem rồng mù ở đâu, rồng ta đã chuyển động, chiếc thuyền lại một phen chao đảo. Chân nhân ngồi ở cuối thuyền, chỉ chỉ trỏ trỏ, hướng dẫn cho tế quan biết đầu rồng ở chỗ nào, vị tế gian cầm kiếm chợt hoang mang, bao nhiêu lời dặn dò của chân nhân lúc nãy quên sạch. ông ta vừa đưa tay ra ném, thanh hùng kiếm liền lao ra trước nhất. Chỉ thấy một luồng sáng xanh nhắm đầu rồng bay tới, chân nhân vội kêu lên :

- Lầm rồi ! Lầm rồi ? Sao lại sử dụng hùng kiếm ?

Nói chưa dứt lời, thanh kiếm kia đã trở lại trong tay tể quan.Chỉ trong giây lát, sóng gió nổi lên, trên mặt nước đột nhiên xuất hiện một đầu rồng cực kỳ to lớn, ở giữa đám mây mù, hướng về phía chân nhân và hai vị tể quan mà gật gật mười mấy lần liên tiếp sau đó rồng mới co mình lại, chìm dần xuống chỗ nước sâu thẳm, mất hút.

Hai vị tể quan chưa hết bàng hoàng, hôn mê thần trí, không thốt ra được nửa lời. Chân nhân cất tiếng than thở :

- Quả là có số định trước, sức người không thể vãn hồi. Nghiệt súc này ẩn thân dưới đáy nước, tu luyện đã nhiều năm, sinh ra đã sẵn thiện căn, chẳng dám hung hăng làm càn, nên được trời thương, miễn cho kiếp nạn. Vừa rồi, bần đạo không chịu trừ khử nó, cũng là thể hiện đức hiếu sinh của thượng đế, chẳng phải thứ nhân nghĩa nhỏ nhoi của người đời có thể sánh kịp. Nhưng hai ông lại không chịu nghe theo, cứ một mực muốn vì dân trừ hại. Ai ngờ trong lúc thảng thốt, không phân biệt giữa trống và mái, đã dùng lầm thanh kiếm của ta, hóa ra muốn hại nó lại trở thành thương tiếc nó, muốn giết nó lại là thành toàn cho nó. Số là con vật này đã luyện thành đầy đủ bộ phận trong cơ thể chỉ thiếu có cặp mắt. Nếu muốn luyện thành đôi mắt, nó phải mất ít ra là năm trăm năm công hạnh. Nay mũi kiếm đâm một nhát, đã phá vỡ hai hốc mắt, khiến cặp mắt rồng mở ra được. Há chẳng phải chúng ta đã giúp nó giảm bớt được năm trăm khổ công tu luyện đó sao ?

Hai vị tể quan nghe nói, cứ ngớ người ra nhìn nhau, chẳng biết nói sao. Chân nhân thu hồi kiếm báu; vừa rơi vào tay, hai thanh kiếm hợp lại làm một. Lúc đó, sóng đã lặng, gió đã yên, mặt trời đang chiếu sáng trên cao.

Định thần hồi lâu, tể quan mới cất tiếng hỏi :

- Làm sao pháp sư biết được nhát kiếm vừa rồi đã mở mắt cho rồng mù ? Vả lại, một nhát kiếm sao có thể phá được hai hốc mắt?

Chân nhân cười, đáp :

- Âm dương cảm thông nhau mà vạn vật sinh ra. Nếu là hai âm, hoặc hai dương, cùng tên gọi gặp nhau, thường thường chỉ sinh tai hại. Con vật kia tu luyện thành cơ thể rồng cái, đại nhân lại dùng dương kiếm đâm nó, thì dương khí vừa tới, ắt có âm khí tiếp ứng, tính là "tương cảm nhi sinh". Mũi kiếm của đại nhân đâm tới há chẳng có một tiến, một lui, đâm trúng hai hốc mắt hay sao ? Tất cả đều có số định trước, con vật này có lẽ chưa tới số tuyệt mạng, còn được ngồi mà hưởng phúc về sau, nên mới khiến bần đạo và hai vị đại nhân rong chơi ngày hôm nay, đâm lầm một nhát kiếm giúp cho mở hai mắt, há chẳng phải chuyện kỳ lạ lắm sao ?

Hai vị tế quan đều nói :

- Nếu đã nói vậy, trong tương lai nó hại đời, gây họa cho người, mọi tội lỗi đổ lên đầu chúng ta đó ? Pháp sư phải nghĩ cách thi thố phép thuật, diệt trừ nó đi, đừng để nó lưu độc trong nhân gian, mà tăng thêm tội trạng !

Chân nhân nói :

- Việc đó thì chưa hẳn. Hai vị đại nhân há chẳng thấy con rồng kia, trước khi thu mình nhập vào trong nước, đã hướng về phía chúng ta gật đầu nhiều lần đó sao ? Nó tỏ ra mười phần cảm kích, thành thật thi lễ. Chúng ta đã nhận lễ của nó, còn thù ghét nó làm chi ? Vả lại con vật này sẵn có thiện căn, không dám làm ác, hôm nay lại được hường phúc duyên, cho thấy nó không thuộc loại hung hăng làm ác. Còn chuyện tương lai, chúng ta bất tất phải quá lo nghi. Nếu nó tung hoành bạo ngược, tự nó sẽ gây nên họa, không tránh khỏi báo ứng.

Hai vị tể quan nghe vậy, lặng yên không nói. Chân nhân lại lên tiếng :

- Tuy nói vậy, bần đạo cũng phải đề phòng nó làm ác, sẽ thi thố chút pháp thuật để vời gọi nó lên đây, khuyên nhủ vài câu.

Nói rồi, đưa tay ra, nhắm về phía đáy nước vẫy gọi. Con rồng lớn tử tử nhô mình lên, lần này tỏ ra mười phần cẩn thận, và kính cẩn. không gây ra chút sóng gió nào. Nó nghiêng đầu, chào chân nhân. Hỏa Long chân nhân cất tiếng dặn dò :

- Ngươi tu luyện lâu năm, đạt được thân rồng, hôm nay lại được một mũi kiếm của bần đạo khai sáng hai mắt, phải nói rằng ngươi có phúc duyên không nhỏ đâu. Tử nay về sau, ngươi càng phải phấn chấn tinh thần, đừng nên trễ nải, biếng nhác, càng không được sát hại sinh linh quá nhiều, gây họa cho những lữ khách. Nếu ngươi cậy có chút tài năng, làm những điều xằng bậy, tính mạng ngươi khó nỗi bảo toàn, mà sau khi chết đi còn bị giam hãm dưới chín tầng địa ngục, vĩnh viễn không được siêu thăng ! Bây giờ, để giúp ngươi gắng gỏi thăng tiến, sớm đạt đại đạo, ta sẽ thiết lập một đập nước ở chỗ cách đây một trăm dặm. Tử nay về sau, ở trên sông này, bất cứ sinh vật nào tu đạo đều phải vượt qua được đập nước đó, mới có thể thoát ly trần tục, tiến lên tiên giới. Nếu không khổ công luyện tập, đừng nghĩ tới chuyện thừ thách. Vì đụng phải đập nước đó. mả không đủ tài năng để vượt qua, lập tức bị chém đứt đôi, mình một nơi. đầu một nẻo. Chẳng phải ta làm khó các ngươi. mà chỉ muốn giúp các ngươi cố gắng trong việc tu luyện, sớm đạt được tấm thân bất hoại, so với thần tiên không chút sai biệt.

Thằng long kính cẩn nghe lời huấn dụ. liên tiếp gật đầu mấy cái tỏ ý tâm phục. Chân nhân hét lên một tiếng : - Đi mau!, rồng kia lại gật đầu lần nữa, rồi mới từ từ lặn xuống.

Chân nhân làm xong công việc trên. chia tay cùng hai vị tể quan, trở về động phủ.

Phiếu Diểu chân nhân điềm hóa cho Bình Hòa ở Quán Khẩu, hợp nhất với lão long, cùng với Hỏa Long chân nhân, thành toàn cho rồng mù trên đây, đều là môn hạ của Lão Quân tổ sư. Hai vị chân nhân thành toàn cho hai con rồng, đều là do tình cờ, vô ý, sớm đã được Lão Quân hay biết, chấp thuận cho hai rồng, một bên Đông, một bên Tây, đều nhờ tay hai vị chân nhân uốn nắn mà thành đại đạo.

Hễ là loài vật mà thành tiên, đều phải trước nhất chuyển qua thân người. Phiếu Diểu chân nhân đã dùng phép hợp nhất hai hồn, để thành toàn cho lão long ở Quán Khẩu. Hỏa Long chân nhân cũng phải đặt ra một phép, làm sao có thể đem được rồng mù đầu thai vào bụng một người phàm để chuyển kiếp.

Sau khi từ biệt cùng Phiếu Diểu chân nhân, Hỏa Long chân nhân đã vội vã cười mây bay đi, tới thẳng Thất Lý Lung, biết được rồng mù sau khi được khai sáng hai mắt, đã nghiêm chỉnh tu hành, khổ công luyện tập được bảy, tám năm. Lúc đầu nó cũng chưa tránh khỏi nuốt các loài sinh vật vào bụng, về sau nó luyện tập dần dần, chỉ ăn những loài rong, cỏ, cũng không thấy đói. Nó lại luyện dược một số tài năng, có thể lớn, có thể nhỏ tùy ý, rõ ràng đã trở nên một thần long đắc đạo, thông huyền. Hoả Long chân nhân thấy vậy mừng lắm, liền dùng khẩu quyết vời nó lên khỏi mặt nước. Thần long gặp lại chân nhân, vui buồn lẫn lộn. tự kể lại những tuyệt chiêu của mình cho chân nhân nghe. Chân nhân ngỏ lời khen ngợi, dẫn nó ra chỗ đập nước. Thần long quả nhiên có thể thu nhỏ bằng một con lươn, vượt qua đập nước, hoàn toàn bình an.

Hồi Thứ Ba


Thử đạo tám, đã ra đập "Nghênh Rồng "
Giãi phàm thế nhập vào bụng hiếu nữ để đầu thai


Thần long muốn vượt qua cửa đập, điều thiết yếu là phải tuân thủ lời dặn dò của Hỏa Long chân nhân trước đây, tu luyện sao cho có thể biến hóa pháp thân cực nhỏ. Vượt qua được cửa đập mới kể như tu đạo thành công. Không vượt qua nổi, chẳng những toàn thể công lực đều vất đi hết, mà còn mất mạng dưới đao nhọn. Đó quả thực là chỗ vô cùng nguy hiểm. Có người nói Hỏa Long chân nhân đặt ra đập nước này là để thử thách lòng tu đạo của sinh vật, chung qui chỉ là khuyến khích chúng cố gắng phấn đấu, kiên trì luyện tập. Thật ra, đập nước này đối với các sinh vật chân thành tu đạo, chưa từng hại tới sinh mạng của chúng bao giờ. Trái lại những loài tà ma dưới đáy sông, luyện thành tà thuật, nghĩ chuyện lên bờ hại người, ắt phải qua cửa đập nước này. Cửa đập một khi đóng lại, tính mạng chừng khó nỗi bảo toàn. Người ta đồn rằng từ sau khi có đập nước này, vô số ác ma đã bị trừ khử. Về sau, các yêu vật đó biết được đập nước có đao nhọn lợi hại, mà không đi qua đập nước này cũng chẳng tài nào lên thoát mặt nước, nên chúng đành từ bỏ tà niệm, để tu theo chính đạo. Đó chính là công của Hỏa Long chân nhân khi thiết lập đập nước.
Thần long quả nhiên đạo hạnh viên mãn, chỉ thử một lần đã vượt qua được đập nước, chẳng chút thương tích nào. Thật tình, chân nhân đâu nỡ nhẫn tâm đẩy nó vào chờ chết ? Vì thế, lại có lời tương truyền rằng : đập nước này chẳng phải khí cụ đồ long (giết rồng), mà thật tình là nấc thang nghênh đón rồng bay lên trời. Vậy nên, người ta thường gọi đập nước này là đập "Nghênh Rồng”. Đập đó nằm ở trong Thất lý lung. Sau này, người ta ngoa truyền, nói rằng nó nằm ở nơi giang khẩu (chỗ sông đổ ra biển) sông Tiền Đường. Sự thật thế nào, ngày nay cũng chẳng biết đâu mà khảo chứng.
Bấy giờ, Hỏa Long chân nhân đứng ở trên mây nhìn xuống, thấy thần long đã vượt qua cửa đập, lòng rất vui mừng, liền đưa tay vẫy gọi. Thần long vội nhảy vọt lên, chân nhân mới dặn bảo :
- Ngươi đã khổ công tu luyện mấy trăm năm, công hạnh mười phần đã được tám, chín. Nay là lúc ngươi nên chuyển đổi sang thân xác người mới có thể lên trời nhận sắc phong, đứng vào hàng tiên ban.
Thần long tự động ngửng đầu lên, chân nhân đưa hai tay vịn chắc đầu rồng, nhắm chỗ cổ nó ấn mạnh, tìm ra được long châu, giữ trong tay. Lại phất tay áo một cái, đẩy cái xác cục mịch của nó xuống chỗ phục long đàm sâu thẳm nhất. Lại niệm chú dời non, đưa một trái núi lớn tới, đè xuống xác rồng, nát thành bùn. Từ đó về sau, chỗ "Phục long đàm" sâu muôn trượng mọc lên một trái núi cao. Những tảng đá nhỏ trên núi bay lả tả, rơi xuống lòng sông. Một dải đất quanh núi xuất hiện vô số thác ghềnh, là chỗ mà ngày nay người ta gọi là "Thất lý lung". Chuyện xảy ra từ đời xa xưa, người ta truyền miệng kể lại, không nhất thiết giống nhau.
Nhắc lại chuyện trước, xác rồng bị đè nén rồi, thần hồn của rồng còn há miệng rộng toác hoác, hướng về phía bàn tay chân nhân nắm long châu mà ngó đăm đăm, quấn quít bên mình chân nhân. Mắt thấy xác rồng bị núi đè nén rồi, chân nhân đột nhiên vỗ tay, cất tiếng cười vang. Cúi nhìn xuống, thấy hồn rồng vẫn quay đầu về phía đầm sâu, chân nhân lập tức đưa tay ra, đập lên đỉnh đầu rồng một phát, hét lên :
Ngươi còn chưa từ bỏ được cái xác thối tha, xấu xí đó hay sao?
Hồn rồng nghe vậy, vội lùi lại, lẽo đẽo đi theo chân nhân, mờ mờ ẩn ẩn du hành được hơn ba trăm dặm. Lúc đó, trời vừa rạng sáng, trong thôn làng nhiều người đã dậy sớm. Chân nhân hạ thấp đám mây xuống. chỉ tay về phía bờ sông, đang có một cô gái giặt quần áo, cất tiếng bảo rồng :
- Nghiệt súc, ngươi có thấy cô nương bên bờ sông kia hay không ? Cô gái đó tuổi vừa cài trâm (l), chính là một thiếu nữ. Hôm nay, ta sẽ đưa ngươi vào trong bụng cô gái, khiến cô cảm thụ mà hoài thai, chẳng khác nào trường hợp Ngọc Nữ hoài thai mà sinh ra tổ sư(2)
Như vậy, một là ngươi không bị ô uế pháp thân, hai là tỏ rõ ngươi sinh ra đời không giống với mọi người. Chừng nào cơ duyên đưa đến, ta lại tới, độ cho ngươi sinh ra yên ổn.
Nói rồi, chân nhân đưa cao long châu, hướng về phía cô gái ném xuống. Tức thì, giữa không trung mây mù giăng giăng, một trận kim quang bay thẳng vào miệng cô gái. Cô gái kinh hãi quá chừng, kêu lên một tiếng "ôi chao", ngã ngất ở bờ sông. Chân nhân bước lại gần bên cô, ghé tai dặn bảo :
- Hồ Tú Xuân nghe đây. Niệm tình cô thuần hiếu, ta đưa thần long tới làm con gái cô, cô hãy khéo dưỡng dục nó, trong tương lai sẽ được tốt lành.
Trong cơn hôn mê, Tú Xuân nghe lời dặn dò, gật đầu mà tỉnh. Tỉnh lại, cô thấy mặt trời chiếu trước mặt, nhiều người trong thôn tụ tập bên sông, bàn luận lăng xăng về chuyện khi không sấm nổ giữa trời. Thấy Tú Xuân cô nương ngồi ngơ ngác, tay nắm lấy vạt áo, họ xúm lại, hỏi cô :
- Cô có nghe thấy tiếng sấm hay không ?
Tú Xuân còn đang hoang mang, nghe hỏi tíu tít, nhất thời không thể trả lời. Mọi người thấy cô thần sắc kỳ dị, đều nói :
- Không xong rồi ! Nhất định là sét đánh đã khiến cô mê lú ! Mau mau đưa cô về nhà đi !
Vài người phụ nữ xúm vào, người dìu kẻ đỡ, cùng đưa Tú Xuân về nhà. Cha cô là Hồ Lão Nhi, mẹ cô là Thẩm thị, đang vì chuyện Tú Xuân đi giặt áo đã lâu, chưa thấy về, lại nghe có tiếng sấm nổ nữa, nên rất sợ con gái có chuyện, đang bàn tính việc ra bờ sông tìm kiếm. Nay thấy mọi người đưa cô về, ông bà vừa mừng vừa lo. Tú Xuân về tới nhà, thần trí đã ổn định lại. Lại vì sợ cha mẹ lo lắng, cô làm ra vẻ không gặp phải chuyện gì, quay nhìn lại mọi người. ngỏ lời cảm tạ. Lại nói với cha mẹ :
- Vừa rồi, một tiếng sấm vang lên, con nghe như có muôn ngàn tia kim quang chui vào trong bụng. khiến con hôn mê, ngã ra ! Cũng may có mấy chị em đưa con về nhà. Con đã ổn định tinh thần, cha mẹ bất tất phải quá lo lắng.
 
-----------------
 (1) cài trâm :  con gái chừng 15 tuổi bắt đầu cài năm (không để tóc xỏa như con nít nửa).
(2) Lão Tử (tôn xưng Lão Quân tổ sư) là tổ sư Đao giáo, nên các tín đồ bịa đặt cho ra vẻ ngài là người khác phàm, nói rằng ngài từ bên nách của mẹ ngài là bà Ngọc Nữ, mà chui ra. Truyền thuyết ấy không mấy ai tin, nên cũng ít được nhắc tới.

 
Vợ chồng Hồ lão nghe con nói chẳng khác bình thời, cảm thấy như được cất đi một khối đá trong lòng, vội mời mọi người vào nhà trong, pha trà thết đãi. Mọi người bàn bạc lăng xăng một hồi, ai cũng nói khi không sấm nổ ngang trời, ắt có điềm lạ gì đây. Rồi tự giải tán, ra về.
Tú Xuân không dám đem những lời người tiên dặn dò bẩm báo với cha mẹ. Nhưng từ hôm đó trở đi, cô thỉnh thoảng cảm thấy dường như trong bụng có cái gì động đậy. Lòng cô hoảng hốt, liệu rằng lời tiên đã dạy ắt không sai lầm. Cha mẹ ta đang nóng lòng trông một đứa con trai, nhân dịp này ta sẽ thề không lấy ai, ở vậy suốt đời để an ủi cha mẹ. Con gái là con nhà người, làm sao tiếp nối dòng hương hỏa ? Hết kiếp sống này, huyết mạch cha mẹ ta đành chấm dứt. Xét cho cùng, đó vẫn chưa phải chính lý. Nay căn cứ theo lời người tiên, dường như ta không chồng mà vẫn mang thai. chẳng là tốt đẹp lắm sao ? Tuy đứa bé sinh ra là con gái, nhưng nó lớn lên, ta cũng có thể kén được rể hiền, cũng có thể nói là tiếp nối được huyết mạch của tổ tiên. Há chẳng phải là điều lưỡng toàn hay sao ? Chỉ có điều rằng người khác không biết suy xét ta lại không thể thổ lộ thực tình, sau khi ta sinh con, hàng xóm láng giềng tha hồ nghị luận lăng xăng. Lúc đó, ta có trăm miệng cũng không thể biện bạch, há chẳng thẹn chết hay sao ?
Mỗi ngày cô cứ lo nghĩ như thế, rầu rĩ không an.
Qua năm sáu tháng, bụng cô ngày một lớn. Tú Xuân bồn chồn, không biết đường nào mà đi. Sớm chiều lo nghĩ thành bệnh, ăn uống không vô mặt vàng võ thân gầy tóp đi, tứ chi bải hoải.
Chứng bệnh đó so với mấy bà mang bầu cũng chẳng sai nhau bao nhiêu. Vợ chồng Hồ lão dường như có nhận biết, nhưng thấy Tú Xuân suất ngày ở trong nhà làm việc nội trợ, mỗi đêm đi ngủ chung giường với mẹ, làm gì có thời giờ mà làm chuyện tư tình ám muội ? Vì thế, ông bà chỉ nghi cô mắc chứng phình bụng. Thẩm thị thường tìm cách hỏi riêng con gái, nhưng Tú Xuân chỉ nói là sau hôm nghe sét đánh cô có mắc bệnh xoàng, trước sau vẫn không dám khai ra lời tiên dạy. Tới chừng đủ mười tháng, bụng cô đã lớn tướng, ai cũng đoán chắc cô đã có tin mừng. Tú Xuân nghe phong thanh, thẹn thùng chẳng dám đặt chân ra khỏi cửa.
Ngày khai hoa nở nhụy đã gần kề. Tú Xuân biết không thể dấu nổi nữa, đã đem lời tiên dặn dò bẩm báo với Thẩm thị, nhưng  cũng chỉ nói mí mí. Thẩm thị nghe con nói, nửa mừng nửa lo, vội nói lại cho Hồ lão hay. Hồ lão là người đọc sách, biết chuyện Ngọc Nữ hoài thai Lão Quân, mới gật gù, nói :
- Việc lạ trong thiên hạ xưa nay cũng nhiều. Nếu quả như lời Tú Nhi nói, đa phần là đứa bé sắp sinh là người có căn cơ rất lớn. Vả lại lúc Ngọc Nữ lâm bồn, Lão Quân tổ sư đã từ bên sườn mẹ mà chui ra. Nếu con gái chúng ta cũng ở trường hợp như thế, biết tìm đâu ra bà đỡ đặc biệt để giúp đỡ nó ?
Thẩm thị mừng rỡ, nói :
- Quả thật là người tiên giáng thai rồi. Nhất định sẽ được người tiên chiếu cố, sợ gì mà sợ ? Nhưng con gái chúng ta tuổi còn trẻ tính cả thẹn, mà không chồng mà chửa là chuyện hiếm có trên đời ông nói cứ như thể hoa trên trời rơi xuống, ai chịu tin chúng ta chứ ? Mai này, Tú Xuân không còn mặt mũi nào mà nhìn người khác đâu.
- Quả là chuyện nan giải. Hiện tại chỉ còn cách vợ chồng ta cứ đem nguyên nhân nói rõ cho mọi người cùng biết, người ta có đàm tiếu cũng chịu thôi. Không ai tìm ra chứng cứ gì, cũng không thể làm bại hoại danh tiếng Tú Nhi.
Thẩm thị nhận là phải. Vì thế, trước mặt mọi người, cặp vợ chồng già cứ đem tình thật ra nói. Chỉ vài ngày, chuyện đồn um lên, cả xóm đều biết. Có người tin có người không tin. Xét cho cùng, chuyện chẳng can dự gì tới mình, ai hơi đâu mà điều tra cho biết thật hay giả ? Cuối cùng, những người nghi ngờ Tú Xuân, vì không tìm ra danh tính gian phu, đành không dám phê bình bậy bạ. Bất quá mọi người chỉ hoài nghi trong dạ thôi.
Hôm đó tới lúc Tú Xuân lâm bồn. Như các sản phụ bình thường, cô cũng đau, xé gan xé ruột. Thông thường, các bà cảm thấy có vật gì từ trên rơi xuống, Tú Xuân lại cảm thấy đau từ dưới đau lên. Vợ chồng Hồ lão mời được một bà già trong thôn, có kinh nghiệm đỡ đẻ lâu năm, về lo cho Tú Xuân. Hỏi bà đỡ lý do tại sao, bà ta cũng không biết đường nào trả lời, chỉ nói :
- Tiểu thư được tiên thai, hoặc giả có điều khác thường, so với mọi người. cũng chưa biết được.
Hồ lão cũng có chút hiểu biết, nghĩ rằng bà đỡ này, ngay cả lý do sinh nở kỳ lạ cũng không biết, rõ ràng không thể đỡ đẻ được rồi. Vạn nhất rơi vào trường hợp từ mạng sườn sinh ra, ta thử tìm tòi vùng quanh đó, có thấy lỗ hổng lớn nào đâu ? Đem chuyện đó nói lại với Thẩm thị, Thẩm thị cũng phát hoảng.
Trong khi đó, Tú Xuân đau đớn đã tới lúc khẩn thiết. Từ sáng sớm tới giữa trưa, cô cảm thấy thai nhi đã vượt qua khỏi bụng. Cô cắn chặt hàm răng chịu đựng, rồi bỗng trợn trừng hai mắt, mê man bất tỉnh. Vợ chồng Hồ lão quính lên, chỉ biết cầu trời khấn Phật, và thiết lập một bàn thờ ông Thiên giữa sân, thành khẩn cầu xin ông tiên đã đưa tiên thai tới cho con gái mình, hãy mau mau cứu mạng ! Đang lúc náo loạn như thế, chợt nghe ngoài cửa có người lắc trước bản leng keng, miệng rao to tiếng :
- Chuyên đỡ đẻ khó đây ! Chuyên tiếp nhận quái thai đây !
Hồ lão nghe vậy mừng quá, nói :
- Đang lo là con gái ta sinh quái thai, lại được người này tự xưng là chuyên tiếp nhận quái thai, quả là may mắn lạ kỳ ! Có lẽ là con gái ta hiếu thuận, lòng thành đã thấu tới trời, nên trời mới sai người tiên xuống cứu nó đây !
Thẩm thị cũng mừng, vội ra cửa ngó xem. Thì ra là một đạo cô đã lớn tuổi, què quặt lại đen nhẻm, vừa khua leng keng, vừa rao lớn tiếng, đã đi xa được chừng mười bước. Thẩm thị vội vã đuổi theo, năn nỉ tiên cô cứu mạng :
- Xin tiên cô mau cứu mạng con gái tôi !
Đạo cô hỏi :
- Là đẻ bình thường, hay sinh quái thai ? Nếu là sinh đẻ bình thường, sao không để nó tự nhiên từ bên dưới chui ra ? Ta không can thiệp vào những chuyện này đâu. Nếu quả thật là quái thai, ta mới giúp cho một tay.
Thẩm thị vội nói :
- Đúng là quái thai ! Đúng là quái thai ! Là quái thai cực kỳ kỳ lạ ? Sư phụ mau mau vào đây. Để chậm trễ , không cứu nổi nữa đâu!
Đạo cô cười :
- Sinh trai đẻ gái, thì cũng như trái cây tới lúc chín phải rụng, việc gì mà quýnh lên thế ? Thôi thôi, bần đạo hôm nay từ xa tới, cũng chẳng có ý đỡ đẻ gì cả, tình cờ qua nhà ông bà lại gặp được quái thai này, cũng kể là có duyên với nhau, để ta theo bà vào xem thử.
Nói rồi chống nạng, khập khiễng quay trở lại. Thẩm thị sợ bà kia đi không nổi, có ý tới nâng đỡ, nào ngờ đạo cô tuy đi từ từ, Thẩm thị theo không kịp. Bà ta đi trước mấy bước, tới trước cửa nhà Thẩm thị, chẳng cần chỉ dẫn, đi thẳng vào nhà. Thẩm thị đuổi kịp, mới biết đạo cô là một dị nhân.
Thẩm thị dẫn đạo cô vào phòng. Vừa tới cửa đã nghe tiếng Tú Xuân từ bên trong kêu to : - Đau chết đi được !
Thẩm thị nghe kêu, hồn vía lên mây, không ngó tới đạo cô, lật đật tiến vào phòng, chạy tới chỗ Tú Xuân xem thử. Chỉ thấy cô hai mắt trợn ngược, chân tay buông thõng, nằm như cái xác không hồn. Thẩm thị không thể tự chủ, cất tiếng gào khóc :
- Tú Xuân con ơi ! Con nỡ lòng nào bỏ cha bỏ mẹ mà đi ? Hu hu, con hỡi là con ! Sao con chết khổ thế này ?
Bên ngoài, Hồ lão cùng một số bà con thân thích, bạn bè lối xóm ùn ùn kéo vào, bỏ mặc đạo cô, không thèm ngó ngàng tới. Hồ lão đang lúc thương tâm, chợt ngừng lên thấy đạo cô đang đứng trước thi hài Tú Xuân mà cười nhạt. Hồ lão nổi giận, nói :
- Đạo cô này chẳng chút lương tâm. Nhà người ta có người chết, đang lúc thương tâm, ngươi còn ở đó mà cười vui ? Còn chút nhân tính nào không đây ?
Đạo cô cất tiếng cười to hơn, nói :
- Nhà mấy người mời ta tới, không thèm hỏi han ta một tiếng, để mặc ta đứng lẻ loi, không chút đoái hoài, để bu quanh một người, tường đâu đã chết, mà khóc bù lu bù loa. Những cử động như thế, chẳng tức cười sao ?
Hồ lão chưa kịp trả lời, Thẩm thị đã chợt tỉnh ngộ, không ngó tới Tú Xuân nữa, mà nhảy xuống giường, gạt mọi người ra, chạy tới trước mặt đạo cô, quì xuống lạy, cất tiếng nài nỉ. Hồ lão không hiểu ất giáp ra sao, thấy vợ làm vậy cũng vội làm theo. Đạo cô cười nói:
- Đứng dậy đi đứng dậy đi ! Bất tất phải đa lễ. Bần đạo đã tới đây, phải nói rõ cho mọi người biết. Tiểu thư với ta đã có duyên từ trước. Nay mạng sống của cô nằm trong tay ta, lẽ nào ta rũ tay áo đang nhìn, không cứu ?
Lập tức bảo lấy một chén nước lạnh, hường về phía thi hài Tú Xuân phun ra một ngụi nước, rồi cất tiếng hét lên :
 - Con rồng ngang ngạnh kia, sao chưa chịu ra đời, còn đợi chừng nào ?
Nói chưa dứt lời, Tú Xuân đã mấp máy hai mắt, há miệng ra,cử động tay chân. Vợ chồng Hồ lão vui mừng nói :
- Con gái chúng ta được cứu rồi !
 Mọi người đều xưng tụng là chuyện kỳ lạ.
Tú Xuân ngồi bật dậy, "ọe !" lên một tiếng, nôn ra một trái cầu bằng thịt, nhảy tưng tưng trên mặt đất, phát ra thành tiếng, như thể quả cầu bằng kim loại. Lúc đầu, nó chỉ nhỏ bằng một viên đạn. Đạo cô lại phun một ngụm nước, trái cầu thịt phình to gấp mười lần. Mọi người đang bàn tán, cho là chuyện kỳ lạ, chợt nghe một tiếng nổ vang, như trời long đất lở, trái cầu thịt vỡ làm đôi.  Từ bên trong nhảy ra một cô bé, môi đỏ răng trắng mặt mày xinh tươi. Miệng cô bé lại ngậm một hạt châu nhỏ xíu, chỉ lớn bằng hạt cải phát ra ánh sắc năm màu, lấp lánh. Đạo cô vội tiến lại trước mặt cô bé, nhặt lấy hạt châu, bỏ vào miệng mình, nuốt đi. Vợ chồng Hồ lão cùng mọi người đều đứng ngây người ra nhìn.
Đang lúc lộn xộn, bất kỳ sản phụ nằm trên giường cất tiếng kêu đói, đòi ăn. Thẩm thị lúc đó quá vui sướng, hầu như quên cả Tú Xuân, nghe con đòi ăn, vội vã tiến lại, hỏi :
- Con cảm thấy thế nào ?
Tú Xuân lắc đầu, nói :
- Con chẳng thấy gì khác lạ, chỉ thấy đói bụng. Mẹ ơi, mau đem cơm tới cho con ăn đi.
Thẩm thị vội nói :
- Đàn bà mới đẻ thường yếu ớt, sao có thể cho ăn nhiều được ?
Tú Xuân chưa kịp đáp, đã nghe đạo cô nói :
- Không sao đâu ! Không sao đâu ! Ruột rỗng thì phải đói, cứ cho ăn thật no. Chẳng những là tiểu thư, ngay cả bần đạo cũng thèm rượu thịt đây.
Nghe đạo cô nói vậy, Thẩm thị yên tâm, một mặt sai người đi nấu cơm, mặt khác nhặt lấy hai mảnh vỡ của trái cầu thịt. Đạo cô vội ngăn cản, nói :  
- Đừng đựng tới thứ đó. Để bần đạo chỉ cho một chỗ mà cất giữ.
Nói rồi, quay nhìn lại, thấy bên cạnh giường có đặt một thùng gạo bằng gỗ, mới bảo đem trút hết gạo ra. Sau đó, đạo cô nhặt hai mảnh quả thịt cầu, ghép lại làm một. Vừa buông tay ra hai mảnh quả cầu đã khít lại, biến thành một quả cầu. Chỗ ghép liền dấu, chẳng có vết tích gì. Lại nhả từ trong miệng ra một cây kim, dài chừng ba tấc, dùng kim đâm vào quả cầu bảy chỗ, để lại bảy lỗ hổng. Sau đó, mới đem quả cầu bỏ vào trong thùng, nói :
- Trong tương lai, vật này có chỗ đắc dụng. Muốn có bất cứ đồ vật gì chỉ cần nhờ đứa bé thò tay vào lấy, là có ngay tức thời. Nên giữ gìn cẩn thận nhé.
Lúc đó, Thẩm thị đã quấn xong tã lót cho đứa bé, đặt nó lên giường, nằm bên cạnh Tú Xuân.
Sau đó, mọi người kéo nhau ra nhà ngoài ngồi chơi. Hồ lão mới hỏi đạo cô :
- Đạo cô bảo am ở đâu ? Pháp danh là gì ?
Đạo cô cười đáp :
- Người xuất gia xưng tên gì mà chẳng được ? Cần gì phải có pháp danh chứ ? Thí chủ thích gọi ta ra sao, ta đều nhận cả. Còn về chỗ ở, ta cũng không có chỗ ở nhất định. Bốn phương đâu cũng là nhà.
Hồ lão thấy bà ta nói năng có huyền lý, bất giác sinh lòng kính phục, mới hỏi :
- Tiểu nữ không chồng mà chửa. lại nhả thai nhi ra đằng miệng, và sinh ra trứng, chẳng biết lành dữ thế nào ? Xin chỉ bảo cho biết.
Đạo cô cười lớn tiếng, nói :
- Ta chẳng phải người tiên, làm sao biết được đạo lý đó ? Nhưng thiết nghĩ thí chủ giữ lòng trung hậu tiểu thư lại là gái thuần hiếu, ông Trời vốn có lòng từ bi, không thể đem điều bại hoại đến cho gia đình ta, đến nỗi khuynh gia bại sản, tổn hại gia phong đâu.
Hồ lão ngỏ lời cảm tạ.
Không bao lâu, Thẩm thị đã nhờ được người giúp đỡ, đem lên  một bàn tiệc chay, mời đạo cô ăn uống tự nhiên. Đạo cô không khách sáo, rượu rót ra chén uống cạn ngay, thức ăn gắp mời, không chê. ăn uống một hồi sạch bách. Rồi ngỏ lời cảm tạ, ra cửa đi mau. Vợ chồng Hồ lão vội ra theo để đưa tiễn, nhưng vừa tới cửa, đã không thấy tung tích đạo cô đâu nữa.
 Thẩm thị đổ lỗi cho chồng :
- Đạo cô này nhất định là người tiên. Sao ông không giữ bà ngồi lại một hồi, để tôi hỏi thăm vài câu ?
Hồ lão cười đáp :
- Người tiên sao có thể ở lâu trong nhà ta ? Bà thấy đó, bà ta vừa ra khỏi cửa, trong nháy mắt đã biến mất, đủ thấy bà ta vội vã đi ngay giữ lại cũng vô ích. Thiết nghĩ đứa bé mới sinh trong nhà ta, tuy là gái nhưng có phúc phận rất lớn, hơn hẳn con trai nhà khác. Vì thế mới có lai lịch kỳ lạ này, lại được người tiên tới đỡ đẻ cho. Vợ chồng ta chỉ nên nghe lời người tiên dặn bảo, khéo nuôi dưỡng dứa nhỏ, sau này sẽ được hưởng phúc vô cùng, hà tất phải quyến luyến với người tiên ?
Thẩm thị nhận là phải, không nhắc tới nữa.
Vợ chồng già cùng Tú Xuân cưng đứa bé như ngọc báu trên tay. Đứa bé cũng có điều kỳ lạ : sinh ra một tháng đã biết nói. Hồ lão đặt tên cho là Phi Long, đích thân dạy nó học chữ. Chưa đầy mười tuổi, nó đã đọc sách làu làu. Hồ lão vì tuổi già sức yếu, mới đưa nó tới một ông thầy tư thục trong thôn, nhờ thầy chỉ dẫn thêm. Học chung trương có bảy, tám đứa nhỏ, nam có nữ có, đều chừng trên dưới bảy, tám tuổi, chẳng những thiên tư thông tuệ không bằng Phi Long, mà nhân phẩm tính tình cũng thua kém, nên chúng thường mang dạ ganh ghét, thường toa rập nhau, tìm cách công kích khinh miệt cô bé. Phi Long giữ chắc lời mẹ dạy bảo, chỉ lấy việc học làm trọng, không đua hơi với chúng, việc gì cũng nhẫn nhịn cả. Vì thế, trong vòng vài năm, đôi bên tương an, không có chuyện gì xảy ra.
Một hôm, Phi Long học xong bài, ngồi yên trước bàn học, đợi thầy cho về. Bỗng có một bạn đồng học, vì không làm được bài đã nhờ phi Long gà cho vài câu. Phi Long sợ thầy biết được, không dám đáp ứng. Cậu học trò kia chê Phi Long nhát gan, trước còn chửi ngay bản thân cô. Sau thấy Phi Long không thèm trả lời, cậu
ta nói động tới mẹ cô là Tú Xuân, những gì Phi Long có mẹ không cha, mẹ cô không chồng mà chửa, cô rõ ràng là đứa con tư sinh, làm sao xứng đáng ngồi chung lớp với các bạn khác ? Phi Long là người hiếu thuận, biết lễ giáo, thấy vì chuyện riêng mình mà để liên lụy tới mẫu thân phải mang nhục, làm sao chịu nổi ? Ngay lúc thương thể đáp trả, cô đợi tan học mới khóc và thưa với thầy, nói cô không thể thụ nghiệp được nữa. Tiên sinh kinh ngạc hỏi tại sao, Phi Long nhất định giữ kín, không chịu nói. Về tới nhà, cô giấu luôn ông bà ngoại và mẹ, chỉ khóc thầm một mình. Vợ chồng Hồ lão nghi ngờ gạn hỏi :
Cháu ơi, có phải kẻ nào ăn hiếp cháu không ? Mau nói cho ngoại biết, để ngoại la nó một trận !
Phi Long lắc đầu, nói :
- Ông bà ngoại chẳng cần đa nghi. Đây là chuyện riêng của cháu, dẫu chết cháu cũng không nói ra đâu. Nhưng từ nay về sau, cháu cạch cái trường học đó, nhất định không tới đó nữa đâu !
Hồ lão thấy hỏi không ra đầu mối, càng thêm kinh ngạc. Khéo sao ông thầy cũng vừa tới nhà, hỏi chung một vấn đề. Chẳng ai hiểu ra sao, cứ như ở trong đám mây mù.
Phi Long đã quyết ý nghĩ học thì thôi đi, chẳng ai nhắc tới cô nữa. Nào ngờ mấy tháng sau, chuyện lại tùm lum, cũng bởi anh học trò hủy báng Phi Long gây ra.
Thấy Phi Long không tới trường, cậu ta càng tin những điều bịa đặt của mình là sự thật, lại tiếp tục bịa thêm nhiều chuyện động trời. Cậu nói chắc Tú Xuân có ngoại tình, còn bịa thêm những danh tính Trương Tam, Lý Tứ nào đó, đoan chắc đó là những gian phu, từng qua lại với Tú Xuân, và Phi Long là con tư sinh của một trong hai người đó. Vì sự tình đã tiết lậu, mẹ con cô không mặt mũi nào mà nhìn người khác, nên mẹ cô bắt cô bỏ học, không cho tới trường nữa.
Những lời đồn đại nhảm nhí đó tự nhiên cũng có nhiều người tin là thật. Một đồn mười, mười đồn trăm, chẳng bao lâu, câu chuyện đó đến tai vợ chồng Hồ lão. Thẩm thị nhân lúc có hai mẹ con với nhau, đem chuyện kể lại cho Tú Xuân nghe. Tú Xuân lặng lẽ chảy hai hàng nước mắt, không nói một câu.

Hồi Thứ 4

Chịu dèm pha không chồng mà chửa
Giãi lòng nga, liệt nữ nhảy sông.


Tú Xuân nghe mẹ nói, động lòng thương cảm, nước mắt như mưa. Từ hôm đó trở đi, chị kém ăn biếng nói, mặt mày đăm chiêu, trên trán hiện ra nhiều nếp nhăn. Lâu dần, thân hình tiều tụy, rõ ràng trong lòng có niềm tâm sự lớn lao, mà không thể giãi bày cùng người khác. Vài tháng sau, thân thể càng gầy gò, chẳng còn chút hứng thú nào : sống đấy mà chẳng khác chi người đã chết. Cha mẹ khổ công khuyên giải, chẳng chút kết quả.
Nào hay họa vô đơn chí, trong thôn bệnh dịch bỗng hoành hành, người chết không biết bao nhiêu mà kể, vợ chồng Hồ lão tiếp nối nhau qua đời. Mẹ con Tú Xuân khóc lóc bi ai, mua quan tài về tẩn liệm.
Sau đám tang một thời gian, một hôm Tú Xuân bỗng gọi Phi Long tới, hỏi :
- Này con, con có hiểu vì sao mẹ không chịu lấy chồng hay không ? Đã không có chồng, tại sao lại sinh ra con, con có biết hay không ?
Phi Long từ hôm nghe bạn đồng môn hủy báng mẹ cô, cô cũng thắc mắc, không hiểu lai lịch mình ra sao. Cô rất muốn biết vì sao mẹ cô không lấy chồng, lại có thể sinh ra cô. Theo lời người làng kể lại thì rõ ràng là lời của những kẻ hiếu sự, ưa chuyện kỳ quái, không thể nào tin được. Cô rất muốn biết sự thật, nhưng lại không thể mở miệng hỏi mẹ những chuyện như thế. Ngay cả hỏi ông bà ngoại, cô cũng không dám. Vì thế, lòng cô cũng rất phiền muộn, chờ một cơ hội thuận tiện, nhưng cơ hội lại không đến. Nay ông bà ngoại cô qua đời, chuyện này kể như trở thành một nghi án, cô không còn dịp nào để tìm hiểu nữa.
Nay thấy mẹ đột nhiên khơi ra, cô vội quì xuống, cúi đầu, rơi nước mắt, thưa rằng :
- Sao hôm nay mẹ lại hỏi như vậy ? Nếu con có thể hiểu rõ nguyên úy chuyện này, con đã sớm có giải pháp, khiến mẹ khỏi âu sầu ủ dột suốt một thời gian dài vừa qua.
Phi Long nói vậy là rất đắc thể : đã không làm mất mặt mẹ, còn khiến mẹ cô phải đem những điều mà bà hiểu rất rõ, nhưng chưa dám hớ môi với ai, nói lại đầy đủ với cô. Nào ngờ nghe con nói vậy, Tú Xuân đứng phắt dậy. Thấy ái nữ quì trước mặt mình, Tú Xuân không dằn được lòng, đập cho một đập, vừa khóc vừa nói :
- Đồ súc sanh vô tri này, bản thân mày ở đâu chui ra mà mày cũng không biết hay sao ? Mẹ mày là người thế nào, mày cũng không hiểu nữa ư ?
Nói rồi, thổn thức một hồi, mặc cho Phi Long quì gối, chẳng thèm ngó ngàng. Trước tình hình đó, Phi Long chẳng dám đứng dậy, cũng không dám nói thêm một câu. Hồi lâu, mới thấy Tú Xuân, lục trong túi áo, lấy ra một tờ giấy, ném trước mặt Phi Long, nói to tiếng :
- Nếu mày muốn biết chuyện mày ra đời thế nào, cứ đọc tờ giấy này sẽ rõ tất cả. Thật tình, tao chẳng muốn nói ra : vì mày mà trước nay tao phải nghe biết bao điều này tiếng nọ, phải chịu không ít oan khổ trên đời ! Nhưng nay, nếu không đem ruột gan bộc lộ ra hết, lại sợ rằng suốt cuộc đời này, mày vì chuyện của mẹ mà phải chịu tai tiếng oan uổng. Sở dĩ phải nấn ná đến ngày nay, là vì ông bà ngoại con qua đời hết cả rồi, ta mới hết trách nhiệm với bề trên. Còn trách nhiệm đối với con, có thể thư thả.
Nói rồi, không quay đầu nhìn lại, rũ áo, quay về phòng.
Phi Long nhặt tờ giấy, đọc chăm chú. Lúc đó, cô mới hiểu rõ lai lịch xuất thân của mình, cùng nguyên nhân vì sao mẹ cô không chồng mà chữa. Cô biết được tình cảnh của mẹ cô, hơn mười năm ngậm đắng nuốt cay, chịu những lời sàm báng oan uổng. Cuối lá thư còn có một câu quyết biệt. Nhớ tới những lời gay gắt của mẹ vừa rồi, cô càng thấy hiển hiện quyết tâm của mẹ cô, lấy cái chết để giãi tỏ lòng trong sạch.
Quay đầu nhìn lại, không thấy mẹ cô ngồi chỗ cũ, không biết đã bỏ đi từ hồi nào. Phi Long hoảng hồn, lật đật chạy đi tìm mẹ. Tìm khắp nhà, chẳng thấy tung tích mẹ đâu. Lại tưởng nghĩ : trong thời gian ngắn. mẹ ta sao có thể chạy đi xa ? Không hiểu nghĩ sao, cô chạy ra bờ sông tìm kiếm.
Trong lúc gấp gáp, hoang mang, cô đứng ở bờ sông nhìn quanh, chợt để ý tới một mô đất. Cô vội leo lên đó, thì thấy một phong thư của ai vất đó bên ngoài để chữ : "Gửi con gái ta là Phi Long”. Cô vội vã mở coi, thấy mấy câu đầu trong thư viết như sau :
“Nếu mẹ chết sớm, con không thể sinh sống; nhưng nay mẹ không chết, con khó mỗi mở mặt, làm người. Năm xưa mẹ hoài thai con, chính tại gò đất này, nay mẹ rời xa con, cũng tại gò đất đó. Nếu con không nỡ bỏ mẹ, trước hãy ở chỗ này chiêu hồn mẹ. Một hai ngày sau, thi thể mẹ nổi lên, con hãy đem chôn trên chỗ núi cao. Nhà ta quá nghèo, không còn vật gì để lại. Nhớ lại ngày xưa, người tiên có dặn dò : nếu có nhu cẩu khẩn cấp, hãy ở trước vỏ xác con mà cầu xin. Trước đây, mẹ đem hết tâm lực để thờ ông bà ngoại con, và nuôi dưỡng con. Mười năm gian khổ, mẹ chịu đựng hết, không có nhu cầu khẩn thiết. nên chưa lần nào phải cầu xin. Nay biết con gặp khó khăn, mẹ mới nói rõ cho biết : vỏ xác con ở trong thùng đựng gạo, đặt ở cuối giường đó. Con có tiên căn, sau này sẽ làm nên nghiệp lớn. Mẹ là đàn bà kiến thức không nhiểu, không đủ để dạy dỗ con, con tự cố gắng.
Mẹ là Tú Xuân để lại tuyệt bút cho con” .
Phi Long nhìn ra xa trên mặt sông. Mặt nước bình lặng, không một gợn sóng. Những người sốt sắng trong làng, không hiểu nghe được tin tức từ hồi nào, đã kéo tới, đứng đầy trên bờ sông. Phi Long đọc xong di thư của mẹ khóc lóc thảm thiết. Mấy người hàng xóm khuyên giải một hồi dìu cô về nhà. Chừng Phi Long tỉnh lại, lại đòi đi tìm thi hài mẹ cho bằng được.
Bạn bè và người lối xóm vác gậy gộc, theo cô ra bờ sông, cùng giúp cô tìm kiếm. Có người dùng dây thừng đo nước nông sâu, có người dùng sào thăm dò, mò mẫm, có người giỏi bơi lặn, nhảy xuống nước tìm kiếm. Lặn ngập một hồi, không tìm thấy thi thể.
Phi Long khóc lớn tiếng, bỗng tung mình nháy ùm xuống nước, tự mình đi tìm kiếm. Mọi người thấy vậy, kêu ầm lên :
- Long cô nương đừng đi ? Cô không biết bơi, không sợ chết chìm hay sao ?
Nào ngờ Phi Long là chân long hóa thân, tuy đã mang xác người, nhưng bản tính vẫn chưa đổi. Một khi xuống nước, chẳng những cô không thấy khó thở, mà còn cảm thấy thân thể thư thái, so với ở trên cạn còn sảng khoái hơn. Thêm nữa, hai mắt cô sáng tỏ, dẫu xuống tới chỗ sâu nhất, cô cũng nhìn rõ từng cọng cỏ, côn trùng.
Thấy cô chìm dưới đáy nước, những người đứng trên bờ đều lắc đầu, than thở :
- Cô bé hiếu thảo, ngoan đến thế, mà phen này chắc mất mạng!
Mọi người dang ngây người ra đứng xem động tĩnh, mà không cách gì cứu dược cô bé, bỗng thấy mặt nước nổi sóng, kềm theo nhiều bọt trắng xóa. Tiếp theo, có vô số những loài, tôm cá, ba ba.., theo ngọn sóng mà trốn mau về phía hạ lưu. Đó là vì rồng là chúa của thủy tộc, một khi Phi Long xuống nước, những động vật nhỏ làm sao có thể ở yên ? Vừa thấy cô, chúng hoảng hồn hoảng vía, túa ra mà trốn, để giữ lấy mạng.
Mọi người đang bàn tán chuyện lạ, đã thấy Phi Long trồi lên, hai tay nâng một thi thể, bơi về phía bờ sông. Người ta thấy vậy, ai nấy đều mừng, và khen ngợi cô :
- Hiếu nữ ắt có thần linh phù hộ. Cô bé trước nay chưa quen với nước, mà có thể lặn xuống đáy sông tìm dược thi thể của mẹ, chẳng phải có thần trợ giúp thì là gì ?
Họ vừa bàn luận, vừa hoan nghênh cổ vũ. Đợi Phi Long bơi tới bờ, mọi người mới xúm vào giúp cô, đưa thi thể lên bờ, Phi Long tự động nhảy lên, phục xuống bên thi thể, khóc mãi không thôi. Mọi người khuyên can cô, rồi giúp cô khiêng thi thể đi. Không dè chỗ bụng thi thể có buộc một vật gì rất lớn. Nhìn kỹ lại, thì ra một tảng đá. Khi đó, người ta mới biết Tú Xuân đã quyết chí tự tận, đã buộc thêm tảng đá vào người để chìm xuống mau hơn. Mọi người đều than thở :
- Không ngờ vị tỉ tỉ này quyết liệt đến thế !
Họ vội cởi dây cột tảng đá ra. Phi Long vác thi thể lên vai, có bảy, tám người đi hai bên nâng đỡ, cùng khiêng về nhà.
Sau đó, người ta bàn tới việc mua quan tài, liệm cho Tú Xuân. Phi Long đem lá di thư của mẹ đưa cho mọi ngươi coi, dân chúng tới chỗ thùng gạo, đặt phía sau giường của mẹ cô, xem thử. Quả nhiên trong thùng có một trái cầu chiếu sáng lấp lánh. Trên mặt trái cầu có châm bảy lỗ. Hàng xóm có người biết chuyện ngày xưa, lại có người từng được nhìn thấy quả cầu, họ đều nói :
Không sai ! Không sai ! Trước đây, người tiên trước khi ra đi, đúng là có câu dặn dò đó. Huống chi mẹ cô có lời di ngôn, còn sai vào đây ? Long cô nương hãy thành khẩn khấn vái, cầu xin người tiên chiếu cố, ắt có linh nghiệm đó.
Trong khi đó, Phi Long nhìn chăm chú vào quả cầu, như đang xuất thần, không hiểu cô đang nghĩ gì. Có người đụng vào cô một cái, cô mới giật mình, tỉnh trí trở lại, nở một nụ cười, nói :
- Đây là vật riêng của tôi, nên tôi biết rõ.
Nói rồi, thọc một ngón tay vào một lỗ kim châm, lỗ hổng đó liền lớn ra, đủ cho một bàn tay chui lọt. Phi Long thò tay vào thăm dò, quả lấy ra được một nén bạc. Mò vài lần nữa, lấy ra được đồ tang phục trắng, cùng nhang, nến, và giày, mũ..., đủ vật dụng cho một người cư tang. Trừ ra cỗ quan tài là phải dùng ngân lượng để mua. Mọi người trông thấy, ai cũng xưng tụng là chuyện kỳ lạ. Ai cũng nói Long cô nương từ nay không phải lo nghèo túng nữa. Được vật báu hiếm có trên đời thế này, có muốn xây một cung vua, cũng dễ như chơi.
Nghe những lời như thế, Phi Long bất giác khai tâm, ngộ đạo. Nhưng dù sao, cô cũng cần tới mọi người giúp đỡ, nên đã nhờ họ mau mau mua về một cỗ quan tài, để tẩn liệm cho mẹ cô. Sau đó, linh cửu được quàn tại nhà giữa. Mỗi đêm cô đều thức canh, mỗi bữa ăn cô đều tế lễ, và mỗi khi tế lễ, cô lại khóc.
Tới ngày thất tuần, Phi Long lạy trước linh vị, khấn rằng :
- Hài nhi quyết trả thù cho mẫu thân. Con đi tìm kẻ thù đây. Mẹ ở dưới âm ti có linh thiêng, xin phù hộ cho con.
Nói rồi đứng dậy, đi tìm quả cầu, thò tay vào, móc ra một lưỡi dao nhọn. sắc bén, ra cửa đi ngay, chạy như bay tới nhà người bạn đồng môn đã đặt điều hủy báng mẹ cô, lớn tiếng kêu gọi đòi trả thù. Nào ngờ nhà đó là một phú hộ trong miền, nghe được tin Tú Xuân nhảy sông, Phi Long thời thường tuyên bố sẽ đâm chết kẻ thù nên đã dự bị trước. Chúng bỏ ra nhiều vàng, mời được hai vị dũng sĩ về bảo vệ, ra vào đều đi theo, không rời nửa bước. Hôm nay nghe nói Phi Long đã tới nhà, họ tiền bảo hai dũng sĩ ra đối địch. Thương thay Phi Long dẫu có túc căn, nhưng tử lúc đẻ tới giờ chưa từng tập võ, chỉ cậy một lòng hiếu thảo, không thèm quan tâm tới chuyện gì khác, hiên ngang mà tới. Nếu bàn về bản lĩnh, làm sao cô địch nổi hai dũng sĩ ? Mới giao thủ một lần, cô đã bị chúng đánh trúng thương hai chỗ. Cũng may, một trong hai người có chút thiên lương, không nỡ hạ độc thủ. Thấy cô bị thương, anh ta liền ngăn cản bạn mình, nói :
- Chúng ta nhận lộc của người chỉ cần bảo vệ ông ta khỏi bị hiếp đáp, là đủ rồi. Cô bé này quả thật là một hiếu nữ, chúng ta không nên đánh chết cô. Nếu hại mạng cô, ắt bị trời phạt.
Người kia nghe ra, cùng bạn mình khuyên nhủ Phi Long vài câu. Hai người lại giấu chuyện, không cho chủ nhà biết, đưa cô về nhà, còn biếu thuốc trị vết thương, để cô điều trị. Chuyện đó rồi cũng bị chủ nhà phát giác. Lúc hai người trở về, ông ta mắng cho vài câu lập tức đuổi việc, mướn hai người khác về giữ nhà.
Phi Long về tới nhà, nằm ôm quan tài, khóc lóc suốt một ngày một đêm, bất giác hôn mê, tay chân bải hoải. Trong lúc nằm thiêm thiếp bỗng nhiên cô nghe như trong nhà có tiếng người gọi to :
- Hồ Phi Long, sự phụ ngươi đã tới, sao không mau đứng dậy, ra đón ?
Phi Long tròng lòng đang ước mong tìm được danh sư, học lấy chút võ thuật, để đi hành thích lần nữa. Nghe câu nói, cô tưởng chừng như nhận ra giọng sư phụ, vội mở mắt ra. Chỉ thấy khắp phòng khói hương nghi ngút, có bốn đạo đồng, tám người hầu áo xanh, mười sáu Hoàng cân lực sĩ. Bên ngoài chợt nghe tiếng nhạc tiên du dương. Mọi người đứng vây quanh một ông tiên, tay cầm kiếm báu, chân đạp lên một bông sen, dáng vẻ vô cùng trang nghiêm. Phi Long hốt nhiên nhớ lại, vị tiên sư này trông quen quen, dường như đã gặp ở đâu nhưng không nhớ rõ. Không quan tâm tới chuyện đó nữa, cô lết đầu gối, bò tới gần bên chân tiên ông, dập đầu lạy, vừa khóc vừa nói :
- Xin tiên sư cứu con ! Xin sư tôn cứu con !
Tiên ông bảo cô đứng lên, mỉm cười nói :
- Ngươi đã gặp ta ở đâu ? Còn nhớ nổi không ?
Phi Long gợi trí nhớ hồi lâu, vẫn không nhớ ra. Tiên ông thở dài một tiếng, nói :
Xa nhau chưa bao lâu, mà sao ngập sâu vào ma chướng đến thế ?
Nói rồi, bảo đạo đồng lấy ra một tấm gương nhỏ, đưa cho Phi Long tự soi lấy. Phi Long phủ phục dưới đất, hai tay nhận lấy tấm gương. Nhìn vào gương, liền thấy hiện ra sự việc ở Thất lý lung tiếp nối nhau xảy ra : từ lúc ở dưới vực sâu tu luyện thành thân rồng, cho tới lúc Hỏa Long chân nhân đưa hồn rồng đi đầu thai, sau đó chân nhân hóa thành đạo cô, tới đỡ đẻ cho Phi Long, nhặt lấy hạt châu nhỏ, bỏ vào trong miệng.
Phi Long nhìn trong gương, hốt nhiên tỉnh ngộ, dập đầu lạy bôm bốp. Chân nhân nhả trong miệng ra một vật, nói :
- Đồ chơi hiếm có này, ta trả lại cho ngươi đây.
Phi Long nhận lấy, thấy vật đó chiếu sáng lấp lánh, nhỏ như hạt đậu xanh. Phi Long nhớ lại, nhận rõ đó là viên thần châu, tức là long đan mà kiếp trước là rồng, cô đã luyện được. Cô lập tức bỏ vào trong miệng, nuốt đi. Chân nhân lại lên tiếng :
- Hãy vào coi thử xem cái vỏ xác của ngươi có còn ở chỗ cũ hay không ?
Cô vào nhà trong, mở thùng gạo nhìn thử. Lạ thay, trái cầu lớn như thế, biến đi đằng nào chẳng rõ. Cô trở ra, bẩm lại với chân nhân. Ông phì hơi, nói :
- Đã có của thật, còn cần gì của giả đó nữa chứ ?
Phi Long cảm thấy lòng dạ vô cùng sáng suốt. Chân nhân cả mừng, nói :
Từ hôm nay ngươi đã công thành hạnh mãn. Người và tiên hai giới, mặc sức ngươi rong chơi. Chẳng bao lâu còn có sắc chỉ của Ngọc đế ban xuống, cho ngươi và lão long ờ Tây phương phối hợp thành vợ chồng, cả hai cùng nhận chức tước, sinh ra con đàn cháu đống, thống trị bốn biển. Ta còn sợ ngươi pháp thuật quá ít, chẳng khỏi thần tiên chê cười nên hôm nay ta sẽ dạy cho ngươi ngũ hành độn pháp, và ba mươi sáu cách biến hóa, cùng các phép vời thần khiến tướng, đuổi tà trừ yêu. Ngươi sẽ có thể ra vào chốn u minh, lên trời xuống đất, chu du bốn bộ châu, tới lui những chỗ núi non, tùy ý tiêu dao, chẳng gì ngăn cản. Đợi khi ngươi nhận sắc mệnh, ta lại dẫn người đi triều bái Ngọc đế, Nguyên Thủy, Lão Quân tổ sư, cùng các đại kim tiên. Lại có sư thúc của ngươi, là Phiếu Diểu chân nhân, tức là sư phụ của lão long ở Tây Hải, hiện đang truyền thụ nhiều pháp thuật cho lão long để sau này hai người thành vợ chồng, không bên nào kém bên nào. Ngươi nên luyện tập cho tốt, để hết tâm trí vào, đừng phụ lòng kỳ vọng của ta.
Phi Long lại vái lần nữa, nói :
- Đệ tử đội ơn sư tôn, rộng lớn như trời biển, há dám không dụng tâm luyện tập ? Sư tôn đã thành toàn cho, đệ tử chẳng dám phụ lòng. Hỏa Long chân nhân cười, nói :
- Ngươi hiểu và thì tốt rồi. Thầy trò ta gặp nhau, kể là có duyên, chẳng cần phái quá cãm kích. Nhắc tới việc thành toàn làm chi ? Tóm lại một lời, nếu ngươi biết tự trọng, đã là biết ơn ta.
Phi Long khấu đầu, nhận lời chỉ giáo. Chân nhân ngồi bên trên, nhắm mắt, không nói. Những người đứng hầu cùng giữ yên lặng.
Suất đêm hôm đó, những nhà ở gần đó chừng trăm dặm, ngửng nhìn lên đều có thể thấy trên nóc nhà nhà họ Hồ có mây ngũ sắc lửng lơ trên không trung, chiếu sáng tới bên dưới. Lại có một mùi hương lạ, sực nức.
Gần thôn làng, ai cũng biết nhà họ Hổ có tiên giáng phàm. Nhiều người to gan mò tới tận gần nhà để thăm dò. Có người mộ đạo tin tiên cho rằng nếu là thần tiên xuống hạ giới, ắt có thụy khí ánh sáng lành, tự nhiên nảy lòng cầu xin phổ độ, phải tới tận nơi đã xem cho rõ. Trong một đêm, người khắp nơi kẻo về tụ tập, không dưới số trăm, ồn ào cho tới canh năm. Ai nấy đều thấy rõ mây ngũ sắc và mùi hương lạ phát ra từ nhà họ Hồ. Có người ở ngoài hàng rào, nhìn Đông ngó Tây, có người leo lên cây nhìn xuống, nên chẳng trách mỗi người nhìn một kiểu. Có người quả quyết nhìn thấy người tiên ngồi trên cao giảng đạo, trong khi các đệ tử ngồi xếp hàng bên dưới nghe kinh. Có người nói trong nhà hoàn toàn yên tĩnh, không một tiếng nói, quanh nhà có rất nhiều hổ báo, voi, sư tử, đi tuần tra để bảo vệ. Lại có người nói là nhìn thấy một con rồng rất lớn, nằm phục dưới chân thần tiên, để nghe giảng đạo. Mỗi người kể một cách, chẳng ai giống ai. Thật ra sở kiến của những người đó đều không sai, chẳng qua căn cơ của họ không giống nhau, duyên phận có nông, có sâu, cho nên sở kiến của họ mới phân ra gần và xa, trong và ngoài, khác nhau vậy.

Hồi Thứ 5

Sông Tiền Đường lưu truyền Long Du cổ tích
Bên bờ Đông Hải, đồ đệ tìm sư tôn.


Hỏa Long chân nhân chính là đại đệ tử của Lão Quân tổ sư, là đại la kim tiên số một, số hai của thượng giới, lần này xuống truyền giáo và độ cho rồng, để kết thúc mối duyên cũ. Ông giáng thế trước sau mấy lần, tình hình có khác. Những lần trước, ông đơn thân xuất hiện, có khi hiển lộ pháp tướng, có khi lại hóa thân làm đạo cô, xuất hiện trong giây lát, không để lại hình tích. Lần này ông dẫn theo một số tiên quan tháp tùng, vời gọi cả hổ báo, sư tử và voi lại có thêm các sơn thần, thổ địa ở địa phương hộ vệ. Táo quân và thần gác cửa của căn nhà họ Hồ cũng tới lui phục dịch, bày ra khí tượng trang nghiêm, long trọng.
Trước hết ông đem lai lịch của Phi Long ra nói rõ ràng, rồi tới lúc nửa đêm ông mới bắt đầu truyền thụ nhiều đạo thuật cho cô, cho phép cô được đi báo thù, nhưng chỉ đồng ý cho cô được đả thương chứ không chấp nhận việc giết người. Công việc hoàn tất. cô sẽ phải tới Đông Hải luyện tập phép tiên, đợi khi lão long ở phương Tây tới, sẽ cùng ứng chiến lên thiên đình.
Chân nhân ở lại tới trống canh năm, mới đặt chân lên bông sen đứng dậy. Rồi mây ngũ sắc lờ lững, tiên nhạc du dương nổi lên, chân nhân dẫn đám tiên quan, tiên lại, nhắm hướng không trung ra đi. Phía sau, tức thì xuất hiện một con rồng lớn, nhe nanh múa vuốt, lắc đầu quẫy đuôi, thành khẩn đi theo, ra vẻ cung kính tiễn đưa. Tới khi pháp giá chân nhân biến đi, mây ngũ sắc tan ra, con rồng đó mới bay trở lại nhà họ Hồ, lắc mình một cái, biến trở lại thành Hồ Phi Long. Từ sau khi nuốt viên long đan, cô bé Phi Long chẳng những có sức mạnh vô địch, còn có thể biến hóa thành rồng hoặc thành người, làm tiên làm thần, tùy ý biến hóa. Sau khi cung kính đưa tiễn Hỏa Long chân nhân, cô trở lại nguyên thân. Những người ở vùng lân cận đều thấy rõ ràng. Vì thế chỗ nhà họ Hổ ngày trước có tên là Long Du, tức là chỗ mà ngày nay gọi là huyện Long Du.
Phi xong được chân nhân truyền thụ phép tiên. Cô vốn có túc căn rất tốt, thông minh hơn người, nên lĩnh hội rất sớm, mà những khẩu quyết, phù chú cô đều biết rõ ràng.
Sau khi chân nhân đi khỏi, cô ở lại trong nhà, lặng yên suy nghĩ chừng vài ngày. Cô phải dự bị cách giải quyết cho xong mọi việc thế tục. Trước hết là việc mẹ cô bị cậu học sinh khinh bạc đặt điều nói xấu, đến nỗi phải tự tận để giải tỏ lòng trong sạch. Thù này không trả không xong. Người tiên đã cho phép gây thương tổn tới thân thể hắn, thì việc này giải quyết cũng dễ.
Lúc này, Phi Long không còn là cô bé yếu đuối, bất tài của ba hôm trước. Sá gì chỉ vẻn vẹn có mấy tay dũng sĩ canh giữ nhà, ngay cả mời được thiên binh vạn mã. Phi Long cũng chẳng coi vào đâu. Cô vốn không muốn làm chuyện kinh hãi thế tục, nhưng bản thân vẫn chỉ là một cô bé con, nên cô đã xồng xộc chạy tới nhà kia khiêu chiến. Hai võ sĩ bị cô tung ba chưởng, đá hai cước, đánh cho phù mỏ, xẹp mũ bò lê bò càng. Cô vừa xông vào nhà trong, đã có ngay một đám gia nhân đông đảo, tất cả đều vác gậy gộc, đao thương, cùng tiến lên một lượt, vây chặt lấy cô. Phi Long cất tiếng cười vang. Rồi chợt để ý nhìn thấy anh bạn đồng môn, núp sau một đạo nhân, rụt rè đi tới.
Số là gia đình anh ta gần đây có nghe chuyện lạ, biết được nhà họ Hồ có tiên giáng hạ, rất sợ Phi Long học được đạo thuật, lại tìm tới trả thù, vài tay dũng sĩ không thể kháng cự nổi. Vì thế mới nhờ bạn bè vào trong thành, mời được một đạo nhân. Nghe đâu đạo nhân này là một vị tán tiên, ngao du chốn nhân gian, tự xưng là Bất Ngu đạo nhân. Dân chúng thấy ông ta thường trổ tài, làm được nhiều trò kỳ quái, nên nhiều người tỏ lòng khâm phục, gọi ông ta là đại tiên. Vị đại tiên nhận lễ vật của gia chủ rồi, liệu rằng họ Hồ chỉ là một người dân bình thường, làm sao mời nổi thần tiên giáng hạ ? Vì thế, ông ta không tin cô bé nhà họ Hồ là chân long hóa thân, chắc chỉ là yêu tinh giả mạo thần tiên, để lừa gạt dân ngu đấy thôi. Chẳng cần lo lắng, ông ta mạnh miệng nhận lời liền, nói rằng sẽ giúp nhà kia hàng yêu, trừ quái. Khi Phi Long đánh ngã hai võ sĩ, chính là lúc đại tiên tới nhà. Cả nhà mừng rỡ vô cùng, vội mời ông ta ra xem thử, coi Phi Long có đúng là chân long hóa thân hay không. Đạo nhân vui vẻ nhận lời, lôi anh bạn học của Phi Long đi theo, ra tới tiền sảnh. Quả thấy một cô bé mi thanh mắt sáng, ôn nhã dễ thương, đang dương oai diệu võ. Thấy cô tay không mà đánh cho đám gia nhân thất điên bát đảo, kêu trời kêu đất, đạo nhân bất giác nhíu mày, đồ chừng Phi Long cũng có bản lãnh, liền nghĩ : "Tiên hạ thủ vi cường", miệng niệm chân ngôn lâm râm, hét lên một tiếng. Tức thì giữa thinh không sấm nổ vang rền, có bảy tám con rồng nhỏ nhằm về phía Phi Long đánh xuống.
Phi Long trước nay chưa hề giao đấu với ai, cũng chưa hề thi thố chút đạo thuật nào. Đạo nhân lại lợi dụng lúc cô không đề phòng đã ra tay trước, quả nhiên Phi Long trở tay không kịp. Ngay cả độn pháp mà sư phụ cô truyền thụ, nhất thời cô cũng quên luôn, không kịp sử dụng. Vì thế, cô bị bảy tám con rồng nhỏ đánh ngã, nằm lăn ra đất. Đạo nhân cả mừng, cầm trong tay một viên đạn đen đen, ném lên không trung, miệng hô to :
- Bảo bối mau đánh vào óc nó !
Nói vừa dứt lời, một đạo hắc quang nhắm đầu Phi Long bay tới. Nói thì chậm, sự việc diễn ra lại nhanh, Phi Long tuy nằm lăn dưới đất, nhưng trí óc cô rất sáng suất. Thấy đạo hắc quang bay tới cô nóng ruột quá chừng. Vừa cảm thấy bị đánh trúng huyệt đạo ở đỉnh đầu, tự động cô há miệng phun ra viên long châu, bay thẳng lên trời. Tức thì, trời đất tối tăm, sấm nổ đùng đùng, cuồng phong ào ào. Trong chỗ tối tăm xuất hiện muôn đạo kim quang, sáng lóe mắt. Bao nhiêu làn hắc khí nho nhỏ đều tan thành khói, mấy con rồng nhỏ cũng trở lại nguyên hình, là những con rồng đan bằng tre. Phi Long đã trấn định tinh thần. trong lòng hiểu rõ mọi việc. Thấy mấy con rồng giả, cô bất giác nổi một trận cười, nghĩ thầm : “Tên đạo sĩ này quá vô lễ. Đem những trò trẻ con này ra doạ ta, quả là không biết tự lượng chút nào". Ai ngờ trận cười của cô đã dẫn tới một trường đại họa.
Nguyên pháp thân của cô vốn là một xác thân cực kỳ to lớn. Tuy nhờ phép thần thông, cô có thể biến nó thành lớn hoặc nhỏ, nhưng vì cô thi thố pháp thuật chưa quen, trong lòng lại đang hoảng hốt, nên xử lý chưa được chu đáo. Vô tri vô giác, cô đã hiển xuất thân xác rồng đích thực của mình. Thân rồng một khi uốn lượn, múa may, đã gây ra những việc phá hoại. Chỉ nghe "Rắc rắc!" một trận, toàn bộ dãy nhà mười căn đổ sụp, biến thành bình địa. Đuôi rồng lại quẫy đạp, lại nghe tiếng "Rắc rắc !”, căn nhà của kẻ thù tan nát, bao nhiêu phòng ốc đều lật nhào, biến thành một đống gạch, ngói đổ nát. Ngay cả những cây cổ thụ trồng quanh nhà cũng bị sét đánh bật gốc.
Phi Long bấy giờ mới hiểu mình đã gây nên đại họa, vội thu hồi long đan, biến trở lại nguyên thân là cô bé con. Quay nhìn lại mặt đất, mới nhận ra khắp nơi nước chảy tràn lan, dần dần biến thành một dòng nước cuồn cuộn, chảy về hướng Đông.
Phi Long không nỡ nhìn cảnh đổ nát đó, buồn bã rời khỏi hiện trường, trở lại nhà. Hồi lâu, tinh thần mới ổn định, hồi tưởng những việc đã làm, bất giác phục xuống linh cửu của thân mẫu mà khóc rống lên. Những tưởng gặp được tiên sư, từ nay có hy vọng xuất đầu lộ diện, ai ngờ trong một lúc thiếu suy nghĩ đã gây họa lớn, liên lụy tới không ít lương dân. Sư tôn là đại la kim tiên. việc gì cũng biết trước cả, mai này giáng tội lên đầu, làm sao ta gánh vác nổi ? Khóc lóc một hồi, bỗng suy nghĩ lại. Hiện nay, thù đã trả xong, họa lại ập tới, tội này nhất định không tránh khỏi, khóc lóc, cũng chẳng ích gì. Việc lớn thứ hai của ta hiện nay là phải an táng cho mẹ. Ta gây ra họa lớn này, cũng vì mẫu thân mà ra, nhưng làm sao có thể nhẫn tâm để quan tài mẹ ta vĩnh viễn ở chỗ này ? Mai này, ta đem thân chịu tội, lấy ai an táng cho mẹ ta ? Nghĩ đến chỗ đó bất giác than dài :
- Con người đã gặp phải số phận đen đủi, chung qui cũng chẳng được tốt lành gì. Đã đến nước này, việc riêng của bản thân đừng để ý tới nữa, mà hãy lo an táng cho mẫu thân trước đã. Sau đó, sẽ tuân lệnh sư phụ tới Đông Hải mà đợi việc định tội.
Vì thế, Phi Long quì trước quan tài của mẹ, khóc lạy một chập. Lúc đó, cô đã đủ tài năng, không phải phiền tới người khác nữa. Cô đọc thần quyết, vời gọi nhiều thiên đinh, lực sĩ, nhờ họ khiêng quan tài lên một ngọn núi cao. Vì cô sẽ phải đi Đông Hải, nên cô đặt quan tài nằm xoay về hướng Đông. Sau đó, cô gọi tới các thổ địa ở chỗ núi đó tới, nhờ họ giúp đỡ, đắp nên một ngôi mộ rất cao. Lại nhổ hơn một trăm cây tùng, cây bách ở những nơi khác, đem về trồng lại chung quanh mộ. Hiện nay, ở phía Tây Bắc huyện Long Du có một ngọn núi rất cao, có tên là Phi Long, chính là nơi an táng Tú Xuân.
Phi Long tiềm thân ở biến Đông, để tập luyện và đợi tội. Lâu dần tới mười năm, không thấy sư tôn tới, cũng chẳng có tin tức gì về việc trị tội, nên cô nửa mừng nửa lo trong lòng. Cô giữ gìn chặt chẽ lời giáo huấn của Hỏa Long chân nhân, chuyên tâm luyện tập, tuyệt đối không can dự tới chuyện bên ngoài.
Cô nhớ lại sư tôn từng nói tới một vị sư thúc của cô, là Phiếu Diểu chân nhân, hiện đang ở phương Tây truyền thụ pháp lực cho lão long. Con cồng này luyện được tấm thân rồng đực, và theo lời sư tôn, thì ta và hắn có duyên phận vợ chồng. Sau này gặp nhau, không biết ai hơn ai kém ? Ta nay dã tu thành đạo pháp, luyện được một số bảo bối, chắc rằng không đến nỗi để sư tôn phải mất mặt. Chẳng hiểu tại sao đến nay sư tôn vẫn chưa tới ? Không lẽ thầy biết ta cãi lời gây họa, nên không thèm nhận ta là đồ đệ nữa? Nếu đúng vậy ta có khổ công luyện tập mấy trăm năm, cũng không thể đứng vào hàng tiên ban, không thể nhận sắc mệnh của Thượng đế.
Suy đi nghĩ lại, cô muốn hóa thành thân người, để đi tìm động phủ của sư tôn, hỏi thăm xem sao. Nhưng sư tôn lúc lâm hành không hề bảo ta tới thăm ông. Vạn nhất ta vừa đi khỏi, sư tôn lại tới đây, há chẳng bị ông trách mắng hay sao ?
Phi Long nghĩ tới nghĩ lui, không ra kế gì. Bỗng nhiên cô lại tự nhủ : "Sao ta không biến thành một đạo cô, lên bờ đi loanh quanh, hỏi thăm tin tức của sư tôn, cùng với tin về lão long ở Tây Hải ? Nếu cứ tối ngày chui rúc dưới biển mà sầu muộn, biết ngày nào mới mở mày mở mặt ?". Nghĩ vậy rồi, lập tức nhảy lên bờ, biến thành một đạo cô trẻ tuổi, tay cầm phất trần lưng cài bảo kiếm, đong đưa chân bước, tới một địa phương đông đúc, người qua lại xô lấn nhau, đúng là một đám thương nhân mua bán hàng hóa, cùng với những người nông dân đem sản vật dưới quê lên chợ.
Phi Long rong chơi, không để ý nhìn chăm chú lắm, cứ thuận theo chân mà bước tràn, tới một chỗ ở bên ngoài tường thành. Bấy giờ, đang độ cuối xuân, hoa núi nở đỏ rực, trên đám cỏ xanh mượt mà, giữa đám cây tùng bách xanh tươi, cảnh sắc thật đẹp mắt. Phi Long leo lên núi, chọn một tảng đá lớn ngồi nghỉ, thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên. Bỗng cô thấy dưới núi có hai người bộ hành, một già một trẻ, người đi trước, kẻ theo sau.
Phi Long không có ý chăm chú nhìn, nhưng tai mắt cô đã luyện tới chỗ cực kỳ tinh tế. Cô nhận thấy hai đạo nhân già và trẻ này có định thần sắc sảo, phong thái tự nhiên, khác hẳn người phàm tục. Chợt nghe đạo nhân già cất tiếng dặn dò :
- Đồ đệ, con hãy đi trước vào thành, ở đó đợi ta. Ta phải đi gặp sư bá của con, sẽ tới tìm con sau. Tính mày thường hay nóng nảy, muôn sự phải nhẫn nại mới được. Đừng có mỗi chút mỗi giở thói thô lỗ tức khí ra nhé. Vạn nhất gây ra họa lớn, ta cũng không mặt mũi nào mà năn nỉ, cầu xin cho con đâu. Vả lại, họa càng lớn, nghiệp chướng càng nhiều, muôn kiếp không tiêu trừ nổi. Tội mình gây ra, tự mình gánh chịu, người khác không giúp gì được đâu con đã hiểu chưa ?
Người trẻ tuổi tỏ ra cung kính, thận trọng, nói to tiếng :
- Sư tôn cứ yên tâm mà đi, đồ đệ quyết không dám gây tai họa gì nữa đâu.
Đạo nhân già cất tiếng cười hà hà. Phi Long còn đang suy nghĩ, đoán xem ông này sẽ đi đâu, trong nháy mắt đã còn lại có đạo nhân trẻ tuổi, đạo nhân già biến đâu mất tiêu. Phi Long kinh ngạc, nghĩ thầm : "Đạo nhân già bản lãnh rất cao, không thua gì sư phụ ta đâu. Đã có duyên gặp gỡ, ta nên tiến lại làm quen. không chừng biết được tin tức sư phụ ta cũng nên". Nghĩ rồi, liền dùng phép rút đất, ba bước đã tới ngay trước mặt chú đạo đồng. Thấy Phi Long đột ngột tiến lại, tiểu đạo nhân tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi :
- Cô từ đâu tới đây ? Tại sao lúc nãy tôi không thấy cô ở chỗ nào cả ?
Phi Long cười đáp :
- Việc đó có gì là kỳ lạ ? Vừa rồi, tôi ngóng nhìn, nhận thấy thầy anh, đúng là một đạo pháp cao nhân. Tiểu đệ thực tình ngưỡng mộ, nên tới hỏi thăm một chút, đồng thời muốn thỉnh giáo tiểu ca cao danh quí tính là gì, quê quán ở đâu ?
Phi Long hỏi han rất lịch sự, tin rằng tiểu đạo nhất định sẽ đồng ý kết giao. Nào ngờ anh ta không thèm trả lời, chỉ nhìn cô chăm chú từ đầu tới chân, có ý đánh giá cô. Phi Long thấy tức cười quá buột miệng nói :
- Vị tiểu ca này đại khái là chưa từng ra ngoài kết giao bạn bè, nên phép xã giao tối thiểu cũng không biết.
Câu nói đó khiến tiểu đạo nổi xung, hét lên :
- Ngươi là tiểu yêu tinh ở đâu tới đây ? Không thèm hỏi thăm cho biết tuổi tác của ta, so với ông cố, ông sơ của ngươi còn lớn hơn nhiều, sao dám gọi ta là tiểu ca ? Ta phải tuân thủ lời răn dạy của thầy, muôn phần nhẫn nại, nên ta không thèm chấp ngươi làm chi. Ngươi mới thật là đứa không biết lễ phép xã giao, nên mới dám đường đột bắt chuyện với ta. Xét lại coi : ai nói đúng, ai nói sai hả ?
Phi Long nghe vậy, bất giác cười sằng sặc.

Hồi Thứ 6

Nỗi cơn giận,  hai rồng cướp hạt châu
Thưọng giới náo loạn, Ngọc đế cầu hiền.


Phi Long thấy đạo đồng chưa đầy hai mươi tuổi, mới kêu là "tiểu ca", tự nghĩ mình nói vậy là lịch sự, nào ngờ anh ta nổi giận, nói mình tuổi tác còn hơn ông cố, ông sơ của cô. Nghe giọng phách lối đó, Phi Long bất giác cất tiếng cười vang, nói :
- Tiểu ca, anh nói sai rồi. Hãy nghe tôi nói thế này mới trúng. Anh có biết tôi hơn tuổi bà cố nội anh không ? Hà hà. quả là tức cười!
Phi Long nói vậy là tính từ lúc cô bắt đầu tu luyện đến khi biến thành hình rồng, ít nhất cũng là hai ngàn năm. Nhưng đối với người thường, thật tình hai người chỉ chừng mười bảy, mười tám tuổi thôi. Đạo đồng không hiểu chỗ lắt léo đó, cũng cho là Phi Long khoác lác, cất tiếng cười hô hố :
- Thiên hạ đời nay quả là có hạng người không biết phân biệt lớn nhỏ, có thứ con gái ngông cuồng không biết tiến thoái. Đừng có chạy ! Hãy nếm thử một mũi kích của ta đây !
Nói rồi cầm kích, nhắm mặt Phi Long đâm liền. Thấy đạo đồng tấn công đột ngột, Phi Long không nhịn được nữa, đưa kiếm lên đỡ. Hai người ở bên đường cái dưới chân núi, đánh nhau tưng bừng. Vừa mới giao thủ, hai bên đều nhận ra đối thủ của mình có bản lãnh, đều ngạc nhiên. chẳng dám khinh địch, đều dốc toàn lực ra chiến đấu. Đấu qua đấu lại, đã được hơn mười hiệp, đạo đồng đột nhiên nổi hung, tung mình nhảy lên giữa không trung, hét to :
- Tiểu yêu kia, hãy coi bảo bối của ông cố ngươi đây !
Phi Long nhìn xem, thấy đó là một hạt hồng châu, chạy vòng vòng giữa không trung. Giây lát, có muôn đạo hồng quang nhắm Phi Long đánh xuống. Rồi Phi Long thấy hồng quang vây quanh mình cô, nóng như lửa, chịu không nổi. Cô tức mình, hét lên :
- Giỏi cho tên tiểu tử, dám giỡn mặt bà nội ngươi hả ? Ngươi có bảo bối, người khác lại không có hay sao ?
Vừa nói vừa há miệng phun ra một hạt châu. Tức thì, khắp trời, hai đạo hồng quang và kim quang giao đấu nhau. Hai luồng sáng đó bên tới, bên lui, lấp la lấp lánh. Bấy giờ đang lúc giữa trưa, mặt trời đang chiếu sáng mãnh liệt, mà ánh mặt trời dường như bị hai đạo hồng quang và kim quang che lấp cả. Dân chúng kinh hãi quá chừng, nhà nào nhà nấy đóng chặt cửa, chẳng dám ló mặt ra.
Phi Long và đạo đồng chống đỡ nhau suốt một canh giờ, không phân thắng bại. Phi Long suy nghĩ, không hiểu viên hồng châu của đạo đồng là thứ gì, mà có thể chiến đấu ngang ngửa với long đan của cô, mới nghĩ thầm : "Chi bằng dùng phép thuật, đoạt lấy hạt châu kia vào trong tay, một là có thể đánh bại đạo đồng, hai là có đủ cặp long châu, những lúc cao hứng đem ra so sánh". Nghĩ rồi, miệng niệm chân ngôn, tay đưa ra vẫy, quả nhiên viên hồng châu rơi ngay vào tay, mà đạo hồng quang ở giữa không trung cũng dần dần tan đi. Phi Long đang lúc vui sướng, bỗng nhận thấy kim quang do cô phát ra cũng nhỏ dần như sợi tơ, rồi biến mất. Cô kinh hãi quá chừng, quay nhìn lại, thì ra long đan của cô đã nằm gọn trong tay đạo đồng. Thật tức cười, té ra hai người đã hoán đổi hạt châu cho nhau.
Tuy nói là hai bên bất phân thắng bại, nhưng vật nào có chủ nấy, người khác làm sao sử dụng ? Vả lại báu vật này là do tinh khí, hồn phách của chủ nhân tạo nên, có thể nói người tức là đan châu, đan châu tức là người, có thể biến hóa lớn nhỏ tùy ý. Nếu đem đổi cho người khác, làm gì có hiệu lực ?
Bấy giờ, hai người cùng hoang mang, ân hận. Bỗng đạo đồng lại nổi tính hung, lắc mình một cái, biến thành một con rồng to lớn, tử đầu tới đuôi có thể dài tới ba mươi dặm, hai mắt đen long lanh, nhìn Phi Long chăm chú, miệng há to như bát máu, nhắm phía Phi Long bay xuống. Phi Long bấy giờ mới hiểu đạo đồng và cô vốn là đồng đạo. Cô vội lắc mình một cái, biến thành con rồng cực kỳ to lớn. Hai rồng uốn khúc, cùng thi triển tài năng, khiến bầu trời xanh lúc tối lúc sáng. Chúng sinh chốn hạ giới càng thêm táng đảm kinh hồn, nhà nhà đóng cửa, thắp hương khấn vái, người người thì thụp lễ bái.
Hai con rồng gây nên một trường ác đấu, con nào cũng tìm cách đoạt lại long đan đã dầy công tu luyện, nay bỗng để mất. Thể gian tương truyền, gọi đây là cảnh "hai rồng cướp hạt châu đã thành điển tích.
Hai rồng khổ chiến suất một buổi, càng đánh càng hăng, không bên nào chịu bãi chiến. Hơn nữa, chúng càng đánh càng lên cao dần, đã qua khỏi trung giới, tiến lên lên trời, gặp đúng lúc Ngọc đế lên điện Linh Tiêu, cùng nhiều tiên quan bàn về việc công trên Thiên tào. Trước hết, thấy hai đạo hổng quang, kim quang xông thẳng lên mây, mọi người cảm thấy kỳ quái. Sau đó, hai luồng sáng tan dần, bỗng có một mùi hôi tanh xông vào mũi, Ngọc đế kinh nghi, mới hỏi chúng tiên :
- Điềm gì thế này ? Tại sao có mùi hôi tanh đó ? Trẫm là chúa trên trời, thống trị các vị chân tiên ba cõi, tại sao lại có thứ yêu khí đó xông thẳng lên bảo điện của trẫm ? Các khanh mau xuống điều tra cho rõ, trở vô bẩm tấu, để sai binh tướng tới tru diệt.
Có Thái Bạch kim tinh Lý Trường Canh rời ban phủ phục, tình nguyện đi điều tra yêu nhân, sẽ về bẩm liền. Ngọc đế chấp thuận.
Lý Trường Canh vâng ngọc chỉ, ra khỏi cổng trời phía Nam, vén mây ngó xuống, thấy hai nghiệt long đang đánh nhau tưng bừng, cả hai đều long vẩy, rách giáp, vỡ đầu chảy máu. Chúng không rượt đuổi nhau, xuống dần dần, mà trái lại càng lúc càng lên cao, làm náo loạn cả lên, rượt nhau tới thẳng bên ngoài Nam thiên môn. Lý Trường Canh liền chống kiếm, hét to lên :
- Nghiệt súc không được vô lễ ! Các ngươi hãy ngẩng đầu ngó xem, đây là đâu ? Họ có thể dung túng cho các ngươi hung hăng như vậy sao ? Còn không mau lui xuống ?
Hai rồng nghe vậy đều kinh ngạc, tạm ngừng cuộc chiến, ngửng đầu lên, thấy một đạo sĩ già đứng trên mây, lớn tiếng trách mắng. Hai rồng xưa nay chưa từng lên tới thiên đình. Thấy trong mây mù ẩn hiện lâu đài, cung điện, chúng không biết đó là chỗ ở của vị quốc vương nào, cũng chẳng tỏ vẻ sợ sệt cho lắm. Lại thấy Lý Trường Canh nói năng vô lễ, chúng liền nổi giận, nói :
Lão nô tài, sao lão dám vô lễ mắng người ? Chúng ta đánh lộn thì can gì tới lão ? Tại sao lão can thiệp tới chuyện không phải của mình ? Thật đáng giận thay ! Lão đã mở miệng thốt ra những câu cuồng ngôn như thế, chúng ta phải thanh toán lão già ngu xuẩn này trước, sau mới tiếp tục phân tranh cao thấp.
Không đợi cho Lý Trường Canh phân biện, hai rồng nhắm hướng Nam thiên môn bay tới Lý Trường canh hoảng hồn, quay mình bỏ chạy, trở về bảo điện, bẩm tấu :
- Hạ giới có hai con yêu long tạo phản, nay đang đánh tới bào điện ! Xin bệ hạ mau mau phát binh phòng thủ.
Ngọc đế kinh ngạc, nói :
- Yêu long ở đâu ? Sao trước nay chưa hề nghe nói tới ? Nay phải tuyên triệu người nào tới trừ yêu ?
Nói chưa dứt lời, đã nghe một trận cuồng phong nổi lên trước điện, hai con nghiệt long chẳng biết trời cao đất dầy là gì, đùng đùng bay tới, cùng hô to lên :
- Mau đem lão già nộp cho chúng ta, chúng ta tha chết cho dân cả nước ? Nếu không, chúng ta đánh thẳng vào, chỉ trong ba khắc dân chúng cả nước phải chết sạch !
Ngọc đế nghe vậy, vội nói :
- Yêu long đã tới, mau kêu các tướng giữ thiên môn đóng chặt cổng lại. Mặt khác, gọi cháu ta là thần Nhị Lang mau kéo thiên binh tới trừ yêu.
Lý Trường Canh vội phụng chỉ tới Quán Khẩu vời Nhị Lang, cùng bốn tướng Đặng, Tân, Trương, Đào vác binh khí tới đánh rồng. Hai rồng nổi giận, trổ hết thần lực (l), đầu đập vào sân điện, đuôi đánh vào thiên môn (cổng trời), thân rồng mỗi lần uốn cong, đánh bật bốn tường ra xa vài trăm dặm. Ngọc đế cùng các vị tiên quan kinh hãi, vội tránh vào hậu điện. Chỉ nghe một tiếng như trời long đất lở, hai rồng đã đánh sập một góc điện, những khí cụ bày biện trên điện bị xô ngã lăn lông lốc, nát tan tành. Ngọc đế bất giác nổi cơn lôi đình, nói :
- Trẫm là chúa trên trời. thống lĩnh văn võ vạn tiên, nay bị yêu long tạo phản, dám đánh thẳng lên bảo điện, hủy hoại điện đình, mà không thấy người nào chia lo cùng trẫm, há chẳng thẹn chết hay sao?
Câu nói thốt ra, cả ban tiên quan đứng hầu đều đỏ mặt, cấm khẩu, nhìn nhau không nói một câu. Trong lúc đó, ở bên ngoài, hai rồng càng hung hăng, quậy phá, sắp sửa bay vào hậu điện. Đúng lúc đó có tám đại tiên quan, tay chân thân tín của Ngọc đế, ra tới tiền điện, hét to lên rằng :
- Hai con rồng kia, các ngươi xuất thân từ đâu? Làm sao đắc đạo? Vì lý do gì mà làm phản thiên đình ? Mau nói rõ ra ! Phải biết chỗ này là điện Thông Minh, chỗ ở của Ngọc đế, sao có thể cho phép các ngươi làm điều ngông cuồng như thế ? Nay Ngọc đế có chỉ ban xuống : Thương các ngươi tu hành chẳng phải dễ dàng gì, nếu các ngươi biết hối hận, phục tội, có thể tha thứ một vài phần ! Nếu cứ cuồng vọng chấp mê, e rằng một khi thiên binh tới đây, các ngươi sẽ tan xương nát thịt, chẳng uổng phí ngàn năm tu hành hay sao ?
----------------
(1) Là 4 thiên tướng thuộc Lôi bộ : Đặng Trung, Tân Hoàn, Trương Tiết, Đào Vinh (xem “Phong thần diễn nghĩa”)

Hai rồng nghe vậy mới biết chỗ này là Thiên tào Linh phủ, họa này gây ra thật không nhỏ. Chúng không biết làm sao, đành mở miệng nói ra tiếng người, trần tình lý do vì sao đã gây náo loạn : chỉ vì hận lão đạo khi không chửi mắng, làm nhục, không thể cam lòng, nên mới hợp sức nhau lại, đòi bắt cho được lão đạo, đem dìm xuống biển Đông, làm mồi cho cá tôm. Nào ngờ lão đạo vào tới bên trong, không thấy ra nữa, nên chúng tôi mới tức giận, gây chuyện náo loạn. Thật tình chúng tôi không hề biết chỗ này là bảo điện của Ngọc đế. Nay đã biết lỗi, không dám làm càn nữa, thỉnh cầu các đại tiên nói giúp chúng tôi, xin Ngọc đế thương tình chúng tôi không biết gì, mà tha cho tội lỗi quá lớn !
Nhưng chúng giấu kỹ, không chịu nói rõ xuất thân từ đâu, tu đạo đã được bao nhiêu năm, và hiện đang tiềm thân chỗ nào. Tiên quan nghe chúng nói, tỏ lòng khoan dung, trở về tâu lại với Ngọc đế. Ngọc đế nói :
- Hễ là người tu đạo ắt phải có sư phụ, sư phụ của hai súc sinh này là ai ? Hay hỏi cho rõ ! Trẫm sẽ triệu sư phụ chúng về đây, trị tội không biết dạy học trò.
Lúc tám tiên ra truyền dụ, không ngờ hai rồng đã biết mình đắc tội với trời không dám nán lại nữa, trốn xuống hạ giới lúc nào rồi.
Ngọc đế lại ra điện, triệu tiên quan các cấp, bàn chuyện sau này, và sửa sang lại cung điện. Liền có Lý Trường Canh đưa Quán Khẩu Nhị Lang tới dẫn theo toàn bộ binh tướng đến nghe lệnh. Nhị Lang diện tấu Ngọc đế :
- Dưới quyền cai quản của vi thần, có lão long thành yêu, hôm trước bỗng thi thố yêu thuật, dời một trái núi đất tới, đè xuống mặt biển ở Quán Khẩu (l), biến mặt nước thành đất liền, tranh công với tạo hóa. Thần đang tính phát binh đi tróc nã, không ngờ lão long đã bỏ trốn từ trước mất rồi. Hiện nay thần vâng chiếu chỉ đi bắt nghiệt long, nhưng không biết đó có phải con yêu ở Quán Khẩu hay không.
-----------
(1) chuyện này, bên trên tác giả không nói tới, ta có thể lầm với việc Hỏa Long chân nhân dời núi đè lên Thất lý lung. Nhung đãy là núi đất (thổ sơn), và việc này do lão long gây ra, tác giả sẽ kể rõ ở nhũng hồi sau.

Ngọc đế tỏ ý hài lòng, ngỏ lời úy lạo thần Nhị Lang, sai đem ngay toàn bộ thiên binh, xuống hạ giới đánh kẻ phản nghịch. Nhị Lang vâng chỉ, đi liền.
Ngọc đế thấy một góc điện bị sập, mấy cây cột chống nghiêng đi, nhiều báu vật là những vật tiến cống của chín châu, bốn biển, bị hai con rồng phá nát, chẳng còn hình thù gì, ngài tỏ ý không vui hỏi Lý Trường Canh.
- Trẫm là chúa khắp vòm trời, là thủ lãnh của vạn tiên. Trên thiên đình cũng có ít nhiều kẻ tài năng xuất chúng, pháp thuật tinh thông, tại sao để hai con yêu hoành hành, không chút kiêng kị, chẳng khác gì vào chỗ không người ? Có thể nào tiên quan đầy triểu mà không một ai đẩy lui nổi hai con tiểu yêu đó ? Cứ tình hình này, về sau những súc sinh ở hạ giới, có đôi chút bản lãnh, đều có thể hoành hành, không coi kỷ cương ra gì. Thậm chí Thông Minh bảo điện của trẫm cũng có thể bị yêu nhân, ma quỉ phá hoại tan tành, một mảnh ngói cũng không còn, còn ra thể thống gì nữa chứ ? Các kẻ sĩ khắp ba cõi sẽ coi trẫm là một Ngọc đế hữu danh vô thực hay sao ? Các khanh có cách gì giữ cho thiên đình yên ổn, ngọc điện vững vàng, cứ nói thẳng, chẳng cần giấu giếm. Lý Trường Canh xuất ban, tâu :
- Trị lâu ắt loạn, loạn thì tai kiếp nẩy sinh. Việc trị loạn, an nguy đều có số định trước. Vi thần trước đây ở cung Bát Cảnh (l) có nghe Lão Quân cùng Nguyên Thủy bàn về tai kiếp. Tổ sư từng nói rằng năm nay, điện Thông Minh sẽ có tai biến nhỏ. Vi thẩn nghĩ thầm : "Thượng đế lãnh đạo vạn tiên, chủ trì kiếp vận, thản hoặc có tai biến, làm sao xảy tới cho điện Thông Minh chứ ?". Vì thế thần cười thầm hai vị tiên trưởng nói sai, không thể có chuyện đó nên thần không nghĩ tới nữa. Không dè hôm nay xảy ra tai họa do nghiệt long gây ra, đúng như lời hai vị tiên đã nói. Điều đó cho thấy vấn đề kiếp vận, tuy thánh nhân, thượng tiên biết trước, cũng không tránh khỏi. Thần lại nghe nói Lão Quân đã dự biết trước, chẳng bao lâu hạ giới sẽ có đại họa hồng thủy, người và súc vật chết đuối lên tới ức vạn. Cũng may có thánh nhân ứng vận mà sinh ra đời, để làm nên sự nghiệp trị thủy. Bấy giờ, sông nước và đất liền mới phân ranh giới rạch ròi. Việc trên đất liền, tự có thánh quân lo liệu, việc dưới nước phải có hai thần long có tài có thuật, mới chế trị được. Vì thế Lão Quân tổ sư mới phái hai đại đệ tử, là Hỏa Long và Phiếu Diểu chân nhân, thu thập và phổ độ cho hai chân long, tiềm phục dưới đáy nước, để đợi thời ứng chiếu.
-------------------------
( 1 ) Nín ở của Thái Thượng Lào Quân (Lão quăn tổ sư).

Lý Trường Canh lại nói tiếp :
Hai con rồng này, một đực một cái, còn có duyên số với nhau, trong tương lai phối hợp thành vợ chồng, diên trì dòng giống rồng, để làm chủ các biển lớn, nhỏ, ở vùng Tây Bắc và Đông Nam, giúp đỡ vua chúa, thụ mệnh ở trời, giữ cho bốn biển bình yên, khiến yêu tinh phải lẩn trốn, các loài tôm cá được sống yên. Hai con quái vừa rồi có bản lãnh rất cao, chẳng phải thứ rồng tầm thường, không chút đạo hạnh. Nhưng chưa rõ chúng có đúng là thần long hay không ? Việc này vô cùng trọng đại, muốn biết rõ đầu đuôi, thần thiết nghĩ phải tới hỏi lại Lão Quân tổ sư mới xong.
Ngọc đế nói :
- Tuy nói vậy, nhưng trẫm cho rằng hai con rồng đã được đồ đệ của Lão Quân độ cho, đợi chiếu trị thủy, thì chúng phải cung kính, cẩn thận, chuẩn bị ứng chiến mới đúng, có đâu dám làm chuyện xằng bậy như thế ? Hai con rồng này đã phạm tội lớn lao như thế, làm sao có thể lục dụng ? Há chẳng khiến quần tiên trên trời cười trẫm thưởng phạt bất minh hay sao ?
Trường Canh lại tâu :
- Lão Quân là tổ của chúng tiên, hai vị chân nhãn Hỏa Long, phiếu Diểu là kim tiên trên thượng giới. Mấy vị này ắt rõ nhân quả trong việc này. Vi thần xin tức khắc tới hỏi cho rõ, sẽ về bẩm lại.
Ngọc đế chấp thuận cho đi liền, nhưng nói thêm :
- Trị loạn, an nguy tuy có liên hệ với kiếp vận, nhưng lục dụng tiền tài lại là trách nhiệm của vua chúa. Trẫm xem các bề tôi thân tín phần lớn không có tài ứng biến. Từ nay về sau, để tài bồi nhân tài, lục dụng hiền sĩ, trăm nhờ khanh hỏi qua ý Lão Quân, nhờ ngài tiến cử cho những người làm rường cột của triều đình.
Lý Trường Canh nhận lệnh, ra khỏi điện, cưỡi mây tới cung Bát Cảnh. Tới nơi, hạ thấp đám mây xuống, ngắm nhìn, thấy tình hình Bát Cảnh cung khác xa điện Thông Minh: u nhã phi thường, trang nghiêm khó sánh. Bên ngoài cung, nhiều loài kỳ hoa dị thảo, chim chóc sặc sỡ, khác xa nhau, ngắm mãi không chán mắt.
Trường Canh mắc có ngọc chỉ, không dám tham luyến cảnh sắc, vội rảo bước tiến vào. Vừa tới trước cửa cung, liền có Bạch Hạc đồng tử nghênh tiếp, cười bảo :
- Tổ sư sớm biết có lão đạo sĩ này tới đây.
Trường Canh mắng :
Nghiệt súc, không được vô lễ ! Mau vào thông báo, nói có ta cầu kiến tổ sư gia.
Đồng tử thấy Trường Canh mắng là nghiệt súc, liền lắc đầu nói: ông là cái thứ gì mà mắng người ta là nghiệt súc ? Tôi thấy ông là kẻ vô tài bất tướng, sém chút nữa để liên lụy cho Ngọc đế, không được an tọa. Vừa mới được an nhàn, đã lên mặt mắng người hả ? ông có giỏi cứ tự động tiến vào gặp tổ sư của tôi, cần gì phải nhờ thằng nghiệt súc này thông báo ?
Nói rồi, bực tức ngồi xuống một tảng đá, chúm miệng gọi chim.
Tức thì, cả đàn chim cùng bay tới, có con hồng, có con xanh, có con đen, con trắng, có con to, có con nhỏ, có chim trống, có chim mái... đủ cả tụ tập chung quanh đồng tử. Đồng tử đùa giỡn với mấy con chim, không thèm ngó ngàng tới Lý Trường Canh. Trường Canh đứng nhìn một hồi, bất giác cười thầm :
- Ta thấy thằng bé này không biết đạo lý gì cả ! Nay là lúc cần nhờ cậy tới nó, đành phải xuống nước năn nỉ vậy. Đợi lát nữa gặp tổ sư xong, ta sẽ cho nó biết tay !
Tức thì tiến lên một bước, nở nụ cười, nói :
- Này lão đệ, giỡn chơi thì giỡn chơi, công việc vẫn là công việc. Chú có biết ta đến đây lần này là vì việc gì không ? Là Ngọc đế có chỉ, sai ta tới thỉnh giáo tổ sư đó. Để lầm lỡ việc, đành rằng ta chịu tội, nhưng tổ sư biết được, chú cũng ăn đòn đó. Hảo lão đệ mau vào thông báo giùm ta đi ! Đừng ở đó mà nô giỡn nữa !
Đồng tử nghe vậy, "Phì !" một tiếng. nói :
- Ông đừng đem Ngọc đế của ông ra mà dọa người. Ở đây, tôi chỉ biết có tổ sư thôi. Ông muốn gặp tổ sư, cũng phải biết mua chuộc chút cảm tình của tôi chứ ! Tôi mà không thông báo, dù cho Ngọc đế đích thân tới đây cũng không gặp được tổ sư, huống nữa là ông !
Trường Canh nghĩ thầm : - "Thằng bé này lại nói nhăng rồi ! Mày cứ ở đó mà bê trễ, tổ sư biết được, đố tránh khỏi ăn đòn ! Nhưng nay ta đang cần tới nó, lại không thể để mất thời giờ, đành phải xuống nước vậy". Nghĩ rồi, chắp tay vái đồng tử, nói :
- Lão đệ bớt giận, ta xin bồi tội, được không ?
Đồng tử nở một nụ cười, nói :
- Chưa thấy ai như ông này, đường gần không muốn lại muốn đường xa. Thôi, tôi cũng thương tình, vào thông báo cho ông.
Nói rồi đứng dậy, vẫy tay một cái, đàn chim liền tản đi bốn phía, tiểu đồng cũng lật đật tiến vào trong cung. Chạy lát lại trở ta, ngoắt tay cho Trường Canh, bảo :
- Ông vào đi, tổ sư đang đợi đấy t
Lý Trường Canh sửa lại quần áo, theo tiểu đồng vào gặp Lão Quân, sụp xuống lạy. Lão Quân dạy đứng lên, nói :
- Có phải ông tới để điều tra về hai con nghiệt long không ?
Lý Trường Canh truyền đạt ý chỉ của Ngọc đế. Lão Quân lại cười, bảo :
- Đúng là ta đã phái người đi thâu độ hai con nghiệt long đó. Trước hết phải cho chúng có được một thân người, sau đó mới có thể liệt vào tiên ban. Khổ nỗi chúng, dã tính chưa thuần, lễ nghi chẳng tập, lại chưa hề biết điện Linh Tiêu ở chỗ nào, nên mới gây nên họa. Cũng bởi ông nói năng không khéo, chọc giận tới chúng, chúng mới gây náo loạn. Chung qui cũng là có số định trước, Ngọc đế nhân dịp này cũng nên bớt giận, đừng để ý tới kiếp nạn nhỏ nhoi này nữa. Việc đã qua, bất tất nhắc tới. Hiện tại cần phải cho chúng có thời gian để kiến công lập nghiệp, còn tội nghiệt của chúng, trong tương lai không tránh khỏi điều báo ứng. Chuyện lúc đó, ta không tiện đoán trước, ông hãy về phục chỉ cùng Ngọc đế.
Lý Trường Canh lại hỏi tới chuyện Ngọc đế, vì sao con rồng quậy phá, các vị tiên ở Thiên phủ không ai thu phục được chúng, khiến ngài không vui, có ý muốn xin tổ sư phái các đồ đệ có đức hạnh, thần đạo, tới giúp việc triều chính, bảo vệ thiên đình. Lão quân nói :
- Các Vị tiên làm môn hạ của ta đều có chức vụ cả rồi. Vả lại họ cùng Ngọc đế không có duyên, nên không thể ở bên cạnh giúp dập. Vả lại, gần bên Ngọc đế, có không ít người tài đức, nên chẳng cần bàn tới việc này. Ta đang tính giúp Ngọc đế một việc khác : trong vòng ba ngàn năm, phải liên tục thâu thập tám vị đại kim tiên. Trong số này, có người đã ra đời rồi, chẳng qua chưa thành nhân thể mà thôi. Sau này, ta phải lục tục phái người thâu độ, cho thành chính quả. Các ông cũng nên tùy thời, tùy việc mà nghe ta hướng dẫn, cho chúng ở Thiên phủ, hoặc ở nhân gian, nâng đỡ chúng, tiếp nối nhau thành đạo. Đó cũng là các ông đã góp một phần công quả lớn vậy.
Lý Trường Canh khấu đầu bái tạ, từ biệt Lào Quân, trở về thiên cung phục chỉ.

HÔI THỨ 7

Bàn thân phận, danh sư cứu cao đồ
Nhắc chuyện cù về chuột già hóa biển bức. (1)


Bây nói về Nhị Lang dẫn nhiều thiên binh, thiên tướng truy đuổi hai rồng, qua thượng giới và trung giới, thẳng tới hạ giới. Ông hạ thấp đám mây, mở tuệ nhãn, nhìn xuống bên dưới, vừa thấy hai rồng đã nhảy xuống biển Đông, tính lặn xuống đáy. Nhị Lang vội niệm chân quyết, chỉ tay xuống, nước biển liền đóng thành băng, khác nào tường đồng vách sắt, hai rồng không thể lặn xuống. Ngước nhìn lên, thấy vị thần tướng đang thi triển pháp lực, hai rồng liền nổi giận, hiển lộ chân thân, tay cầm kiếm báu, nhảy lên không trung, tấn công Nhị Lang. Nhị Lang không hể hốt hoảng triển khai họa kích, đánh với hai rồng. Đánh được chừng hai chục hiệp, hai rồng dần dà đuối sức, đỡ không nổi. Trước hết là Phi Long hiện nguyên thân, bay về hướng Đông bỏ trốn, con rồng kia cũng chạy theo. Nhị Lang đời nào chịu buông tha, dẫn đám binh tướng, ùn ùn đuổi theo. Thấy khoảng cách không xa. Nhị Lang móc trong tay áo ra hai viên đạn thần, nhắm về phía hai rồng búng một cái. Chỉ nghe "Tách !" một tiếng, hai luồng kim quang rơi trên đầu hai rồng. Hai rồng thấy nổ đom đóm mắt, đầu nhức như búa bổ, suýt nữa rớt khỏi đám mây. Nhị Lang nghĩ thầm:
- Đạn thần của ta, bất kể đánh yêu hay đánh người, một khi đánh trúng, không kẻ nào thoát chết, sao hai con rồng này có thể chịu nổi như thế ? Chắc hẳn tại chúng tu luyện lâu năm, đạt tới đạo hạnh cao đây mà. Nay ta phải dùng phi kiếm chém chúng, thử xem chúng còn tránh nổi nữa không ?
Nghĩ rồi, há miệng ra to. Đột nhiên có một đạo bạch quang bay về phía đầu hai rồng, phát ra khí lạnh ghê người. Tia sáng vừa tới, hai rồng liền cảm thấy rét run cầm cập. Nói thì chậm, việc xảy ra rất nhanh, kiếm quang vừa tới gần thân rồng, bỗng nghe một tiếng nổ vang, đầy trời xuất hiện một tầng hồng quang, ngăn chặn kiếm quang của Nhị Lang, đẩy ra xa hai mươi dặm. Đồng thời, chợt nghe có tiếng người hô to :
- Nhị Lang hãy thư thả ? Hai con súc sinh này tuy phạm tội với trời, trong tương lai tự có báo ứng. Hiện tại còn có chỗ cần dùng tới chúng, xin Nhị Lang đừng phí công sức.
--------------------------------
(1) Biển bức (hoặc đơn giàn : Bức) : là con dơi. Trong Hán tự, Bức và Phúc (điều tốt lành, phúc lộc) là đồng âm, vì thế, người hay treo ảnh con dơi để nhắc tới phúc lộc.

Câu nói vừa dứt, trước mặt Nhị Lang hiện ra hai vị tiên nhân, đang đứng. Nhị Lang thu kiếm quang về, vòng tay chào, nói :
- Hai vị chân nhân Hỏa Long, Phiếu Diểu từ đâu tới ? Nếu hai vị đừng can thiệp, hai con súc sinh đã táng thân ngày hôm nay rồi!
Hỏa Long chân nhân cười, nói :
- Người ta thường nói : "Bàn chuyện thị phi chỉ tổ mang tiếng là kẻ lắm điều”. Nhị Lang vẫn chưa hiểu nổi giữa hai chúng tôi và hai súc sinh có duyên phận ra sao đâu. Phiếu Diều sư đệ vì con nghiệt súc kia đã mấy lần làm chuyện tốt đẹp ở Quán Khẩu, nơi trị nhậm của ngài đấy.
Nhị Lang chợt hiểu ra, nói :
- Chà ! Súc sinh kia chính là con yêu long ở địa phương Quán Khẩu đấy chăng ? Tôi có nghe là có một người tiên nào đó đã độ cho nó xuất thế, chẳng dè lại là Phiếu Diểu đạo huynh. Sao các ông cứ hay ưa xen vào những chuyện không đâu như thế ? Hai ông có biết chuyện yêu long kia đã ở Quán Khẩu, chỗ tôi trị nhậm, làm việc dời non lấp biển đó chăng ? Có biết hai đứa nó đại náo thiên cung, làm kinh động Ngọc đế, hai ông biết không ? Nay Ngọc đế nổi giận, sai tiểu đệ tới bắt chúng về trị tội, hai vị nói sao đây ?
Phiếu Diểu, Hỏa Long đầu cười, nói :
- Hai súc sinh tuy rằng to gan, nhưng trước nay chúng chưa từng lên thiên đình, làm sao biết đường tới điện Thông Minh ? Chuyện này, hai chúng tôi biết rồi, nhưng cũng bởi Lý Trường Canh bộp chộp, tai họa mới thành nghiêm trọng. Tất nhiên Linh phủ là chốn tôn nghiêm, không thể để cho loài súc sinh phóng túng, nhưng việc này có số định trước, và kẻ làm càn cũng không tránh khỏi báo ứng về sau, tạm thời chúng ta chẵng nên nhiều lời làm chi. Mọi chuyện đã có sư phụ chúng tôi làm chủ, ngài sẽ giải thích rõ với Ngọc đế, quyết chẳng để tôn thần phải khó xử.
Nhị Lang lại nói :
- Còn việc này nữa : vùng biển nơi tôi trị nhậm bị núi đè, san thành bình địa thì sao ? Nước có quan hệ mật thiết với việc sinh hoạt của dân chúng, nay mất đi một nửa, chẳng phải đã hại chết nhiều người hay sao ?
Phiếu Diểu chân nhân cười :
- Việc đó dễ giải quyết. Không bao lâu nữa, hạ giới sẽ có thủy tai rất lớn, các vị thánh nhân trị thủy đã ra đời rồi. Trong tương lai, bần đạo ắt bảo đệ tử đặt ra một cách, đào cho biển sâu thêm, để bổ khuyết những chỗ đã lấp, như vậy lượng nước cũng không xê xích bao nhiêu. Vả lại, những chỗ đất được san phẳng sẽ trở thành ruộng cày, cũng có mặt tốt đấy chứ ?
Nhị Lang cười :
- Nếu vậy, tôi thu binh trở về, lên thiên đình phục chỉ.
Thần Nhị Lang rút binh đi rồi, hai ông tiên hạ mây thấp xuống, tiến lại gặp nhau, kể chuyện vãn. Hai ông đều nói :
- Vì hai quái vật này anh em gánh trách nhiệm không nhỏ.
Hỏa Long chân nhân cười, nói :
- Dầu sao học trò tôi cũng còn tốt hơn. Nó không quá nóng nảy như thằng học trò của chú. Xét cho cùng, con gái vẫn đằm tính hơn con trai. Tôi hỏi chú này : chú đưa học trò tới Đông Hải, lẽ ra phải thủng thẳng đợi tôi tới, cho hai đứa nó phối hợp âm dương, đưa xuống dưới biển yên chỗ mới phải, có đâu lại thả rong thằng nhỏ ở bờ biển ? Chỉ vì hai dứa không biết nhau. mới sinh vụ náo loạn vừa rồi ! Sư đệ, việc này là lỗi ở chú đó.
- Sư huynh mới là người không có lương tâm, bỏ bê học trò chẳng nhìn nhõi tới. Tôi có ý tốt tới thăm anh, nhân tiện đem chuyện học trò anh ở sông Tiền Đường không giữ phép tắc, cãi lời thầy, thông báo một tiếng. Vậy mà anh còn trách tôi được sao?
Hỏa Long chân nhân cười :
- Nói hay lắm, hay lắm ! Ngay cả học trò của mình cũng không quản nổi, để nó ở địa phương Quan Khẩu làm chuyện động trời, còn có thời giờ rảnh rỗi đi là chuyện giùm ngu huynh ư ?
Phiếu Diểu chân nhân buông tiếng thở dài :
- Nhắc tới chuyện này, càng thêm thương xót. Đồ đệ của tôi là kết hợp giữa tính linh của người và long đan của rồng, tính tình mười phần thẳng thắn, lại mười phần hiếu thuận. Ngày trước anh em ta từng gặp nhau trên mây, ở Tây phương, tôi có nói sơ qua. Lúc đó, tôi đem nhốt nó ở dưới đáy biển, để nó tiềm thân mà tu hành. Ai ngờ nó vẫn không quên lòng hiếu thảo với mẹ, mỗi năm tới ngày sinh nhật mẹ, ắt nó biến thành hình người để tới chúc thọ. Sau này, mẹ nó qua đời, nó lại tới khóc lóc, điếu tế, rồi đem xác mẹ an táng ở chân núi, phía Tây Nam Quán Khẩu, gặp ngày thanh minh lại tới quét mộ, tế lễ. Tất cả chỉ vì lòng hiếu thảo của nó mà ra, nên tôi không nỡ trách móc. Ai ngờ, mới rồi nó lại gây ra tai họa lớn lao như thế. Sư huynh vừa nói học trò tôi gây rối ở Quán Khẩu, mà có biết rõ nội dung chuyện này ra sao hay không ?
Hỏa Long chân nhân lắc đầu :
- Tôi chỉ nghe nói, chứ không hiểu rõ sự thật. Chú không ngại nói cho tôi biết chứ ?
Phiếu Diểu chân nhân lại nói giọng ngậm ngùi :
- Nếu đã bàn về thiên số, việc học trò tôi làm ở Quán Khẩu, cùng với việc học trò anh làm ở sông Tiền Đường, họ chẳng phải tại số định trước hay sao ? Đã là số định trước. thì tôn quí như Ngọc đế, cũng phải chịu tai họa do hai súc sinh kia gây ra, trong lúc nóng giận. Đành chịu vậy thôi, còn biết trách ai ? Sư huynh, anh có nghe tổ sư từng nói hay không ? Trong tương lai, sẽ có tám đại kim tiên, trong thời gian ba ngàn năm, lục tục ra đời và thành đạo, làm bề tôi thân tín giúp việc Ngọc đế. Trong số đó có kẻ đã xuất thế nhưng chưa thành người. Nói cho rõ ra thì đó là một con chuột già. Không hiểu vì lẽ gì, chuột này không giống như chuột bình thường. Từ lúc ra đời, nó không phá hoại đồ đạc của người ta, lại biết chiêm bái các vì tinh tú, cẩn thận tu luyện. Tuy là loài động vật nhỏ bé, nó đã luyện thành tấm thân bất hoại, đã trải qua được bốn, năm ngàn năm, đúng vào thời Tam Hoàng (l) trị vì thiên hạ: Có nơi, thủy tai xảy ra thường xuyên người và súc vật chết chìm vô số, con chuột kia mới từ trung nguyên phiêu bạt tới Tây thổ là nơi mà hiện nay gọi là Quán Khẩu. Nhân vì nó tu đạo đã lâu pháp thân vững bền, tuy giữa sóng lớn, phiêu lưu ba, bốn ngàn dặm, nó vẫn bảo tồn được tính mạng.
---------------------------------------------------
(1 ) Tam Hoàng : ba vì vua thời thái cổ bên Trung Quốc, có tính thần thoại, tượng trưng cho ba  giai đoạn phát triển của nhàn loại. Đó là : 1. Phục Hi (dạy dân biết dùng lửa), 2. Thần Nông (dạy dân canh tác), 3. Hiên Viên (dạy dân biết ăn mặc).

Quán Khẩu vốn là một lục địa có địa thế rất thấp, từ khi gặp phải thủy hoạn, nước đóng thành vũng tràn lan, dài tới một ngàn dặm, chẳng khác gì một đại dương. Vào lúc khởi đầu, khi nước dâng cao như thế, có một thôn trang, số nhân khẩu lớn nhỏ cộng lại được hơn hai ngàn người. Họ bồng trẻ, đỡ già, tìm tới chỗ đất cao ráo tránh nạn (l). Chỗ cao ráo đó, hai mặt là đất cao, ở giữa là một con sông rộng ba trượng. Sông đó bình thời tích chứa nước, trở thành sâu thăm thắm, người giỏi bơi lặn đến đâu cũng không thể vượt qua con sông này. Cũng may có cây cầu độc mộc nho nhỏ, giúp dân qua lại. Không ngờ người nhiều, cầu mục, người ta tranh nhau qua cầu, cầu không chịu nổi. "Rắc !" một tiếng, cầu nhỏ gãy làm đôi nhiều người trượt chân rớt xuống sông. Số người bị sóng lớn cuốn đi không biết đâu mà kể. Thế nước càng mạnh, nguy hiểm càng lớn. Trên bờ, người ta tụ tập rất đông, tiếng kêu gào chấn động trời đất.
Bấy giờ chuột già cũng đứng lẫn trong đám đông, hy vọng theo chân mọi người qua sông lánh nạn. Nó thấy cầu gãy, người kêu gào, tình cảnh thật thảm thương. Vì có thiện căn thâm hậu, nó quên cả nguy hiểm của bản thân, chỉ nghĩ làm sao cứu được thật nhiều người qua sông lánh nạn. Suy nghĩ một hồi, nó chợt nghĩ ra được một phương pháp. Chỉ thấy nó chạy như bay, lao lên đoạn cầu gãy, nhìn về khúc cầu gãy bên kia, ngó mung lung một lát, nhận thấy thân cầu không hoàn toàn đứt lìa, mà vẫn còn bám vào mố cầu bên kia, chầng qua là khúc cầu gãy đó chìm dưới nước, không giúp người đi qua được thôi. Không hiểu con chuột này thân lớn, sức mạnh thế nào chỉ biết nó nhìn ngắm cẩn thận một lát, hăng hải tung mình nhảy xuống nước, bơi một hồi, bò lên được khúc cầu gãy, men theo đó mà đi, chỉ trong một thời gian ngắn, đã leo lên được bờ bên kia. Chuột già lên bờ được rồi, quay đầu nhìn về đám đông người ở bờ đối diện, kêu lên một chập những tiếng "Chít ! Chít !", dường như an ủi mọi người, bảo họ đừng nên thất vọng, ta sẽ tìm cách cứu cho. Người ta thấy con chuột già to lớn, đã men theo khúc cầu gãy, sang tới bờ bên kia, trong lòng đều lấy làm lạ. Nhưng ai nấy đều lo thân chưa xong, rảnh rỗi đâu mà nghĩ tới chuột già ? Sau thấy nó cứ tiếp tục kêu, người ta mới kinh ngạc. Trong đám có một người lão thành, hướng về phía bờ đối diện, hô to lên :
- Anh chuột, anh chuột ! Chúc mừng anh đã thoát hiểm ! Chỉ thương cho chúng tôi, biết bao người đứng ở đây, không ai tìm được cách gì qua sông. Anh chuột đã sang được bờ bên đó, có nghĩ ra được phương pháp nào cứu chúng tôi hay không ? Nếu chúng tôi có thể sang sông, giữ được tính mạng, mọi người sẽ lập một ngôi từ đường thờ anh, thành tâm khấn vái, đền đáp ơn lớn của anh !
----------------------------------------
(1) ờ đầu sách nói tới Nam Thiềm (tức Quán Kháu) là một thủy quốc", ở đãy tả rõ thủy quốc đó ra sao

Người nói câu này cũng buột miệng nói ra, chứ không có ý xa xôi là anh chuột già sẽ phải hy sinh khi cứu người, nào ngờ chuột già nghe vậy lại hướng về phía mọi người, gật đầu liên tiếp mấy cái tỏ ý hoàn toàn lĩnh hội. Người ta thấy vậy, cho là kỳ quái, bảo nhau:
- Xem ra chuột già này có đạo hạnh rất cao, là hạng người phải đợi lúc chết đi mới hiển danh. Thử xem nó sẽ làm gì đây ?
Chuột già gật đầu mấy cái rồi, liền chạy như bay như biến, cũng không hiểu nó đi đâu, tìm ra được một cây gỗ rất dài, dùng răng cắn chặt lôi kéo, đẩy cây gỗ xuống nước, đặt dọc theo khúc cầu gãy. Mọi người mới hiểu nó đang tìm cách cứu người, lên tiếng hoan hô vang dậy, chấn động hang núi. Nhưng mới chỉ bắc được một cây gỗ chênh vênh, chưa giải quyết được việc gì. Lại thấy con chuột gật đầu vài cái, tung mình nhảy xuống nước, bơi về phía bờ đối diện. Lại hướng vế phía mọi người, kêu "Chít ! Chít !” một chập nữa, quay đầu bỏ chạy rất nhanh, dùng cách cũ lôi về một cây gỗ, dài bằng cây gỗ trước, đẩy về phía sông. Bấy giờ mọi người mới hiểu ý nó, bảo nhau đồng tâm hiệp lực, giúp đỡ chuột già, đặt hai cây gỗ nằm chắc trên trục cầu. Ở mỗi bờ có một chân cầu còn vững chắc, chuột già thi triển thần lực, dùng răng nhọn đục vào mỗi chân cầu một lỗ hổng lớn, sau đó nó đẩy đầu còn lại của mỗi cây gỗ nhét vào một lổ hổng thật khít khao. Như vậy, nó tạo một cây cầu mới, đi lại vững vàng.
Chuột già làm việc vất vả chừng một canh giờ, việc dựng cầu mới hoàn tất. Ngờ đâu, từ trên thượng lưu, nước đổ về bất ngờ, sóng vỗ cao ngất, lôi cuốn luôn chuột già trôi theo dòng nước lũ, chỉ trong giây lát đã cuốn nó đi xa vài trăm dặm. Chuột là động vật nhỏ, lại vừa phải làm việc quá vất vả, khí lực cạn kiệt. Nó không chống đỡ nổi nữa, bị nước cuốn trôi xuống một vực sâu trăm trượng.
Chuột già thần trí hôn mê, như thể chết rồi. Không biết thời gian qua đi được bao lâu, nó chợt thấy mình nằm trên một tảng đá rất lớn, bên cạnh một vị đạo đồng đang đứng, nhìn nó, mỉm cười nói:
- súc sinh sống lại rồi ! Sao còn chưa bái tạ ân sư ?
Nghe đạo đồng nói, chuột già thấy trong lòng sáng suốt, tin chắc đã có một vị tiên cứu mình. Nếu không, sao đang ở dưới vực sâu có thể lên núi cao ? Nó hiểu rất rõ, vội lồm cồm đứng lên, trước hết dập đầu lạy tạ đạo đồng. Đạo đồng đưa tay vẫy nó, bảo :
- Theo ta vào gặp ân sư !
Chuột già bò theo tiểu đồng, đi một quãng đường dài chừng một làn tên bắn, vào tới một sơn động. Trong động có một vị tiên, đang ngồi tu đạo dưỡng chân. Chuột già theo đạo đồng vào đến nơi, tham bái vị lão thần tiên, cảm kích trong lòng, hai hàng nước mắt chảy lăn tăn. Lão thẩn tiên ngỏ lời an ủi :
- Ngươi tuy thuộc dị loại, nhưng được trời thương, nên mới có thiện căn thâm hậu, tu được công hạnh lớn lao. Vì thế, ta đã nhờ Hoàng cân lực sĩ cứu ngươi, đưa lên núi. Hiện tại, ngươi chết chìm dưới sông đã được một trăm hai mươi lăm ngày rồi.
Chuột già nghe vậy, bất giác thè lưỡi. Lão thần tiên lại nói :
- Ta thương ngươi tu luyện đã mấy ngàn năm mà chưa thành chính quả. Ngay cả bản thân ngươi cũng không thể biến hóa, là vì ngươi xuất thân quá thấp hèn, không có chuyện gặp gỡ chân tiên. Từ nay, ngươi bất tất phải đào hang hố, chui rúc chốn bùn nhơ để sinh sống nữa, cứ ở trong động phủ của ta mà tu hành, làm một đồng tử giữ động cho ta. Dần dần, ta sẽ dạy cho ngươi một số chân quyết truyền cho ngươi chút pháp thuật. Sau này ngươi có thể thay xương đổi thịt, thành một hình người. Chưa đầy, một, hai ngàn năm, ngươi có thể chuyển thành tiên thể.
Chuột già xin vâng, dập đầu lạy cả trăm lạy, lão thần tiên lại nói:
- Ngươi đã ở đây làm lụng, ta cũng phải biến đổi hình dáng ngươi đi một chút, để khỏi bị đám sư huynh, sư đệ khinh thường. Ngươi ở dưới nước đã lâu, chắc cũng đói bụng rồi. Đồng tử đâu lại đây ! Con hãy dẫn anh này ra sau núi, chỗ mấy cây đào vừa ra trái, lựa hai trái chín hái xuống, đưa anh ấy ăn đỡ đói, sau đó dẫn về đây gặp ta.
Tiểu đồng vâng lời, dẫn chuột già ra sau núi. Quả nhiên chỗ đó có nhiều cây ăn quả, trong đó có một cây đào rất lớn, ra nhiều trái. Tiểu đồng nói :
- Mày nhẹ xác, tự leo lên cây, chọn lấy hai trái đào chín hồng, hái xuống mà ăn. Đừng quá tham ăn, kẻo lủng bao tử, đổ thừa tại tao!
Chuột già nghe lời, bám vào thân cây mà leo lên, chọn hai quả đào hồng, mọng nước, ăn ngon lành.
Ăn xong, định leo xuống, chợt cảm thấy hai bên nách ngứa ngáy liền dùng móng gãi một hồi. Nào ngờ càng gãy càng ngứa, đồng thời cảm thấy chỗ gãi sưng lên. Dường như từ trong thịt  có vật gì đâm ra. Chuột già lính quýnh, định leo xuống thỉnh giáo tiểu đồng. Bỗng lại cảm thấy hình như chỗ ngứa vừa mọc ra hai cái cánh. Đập thử hai cánh, cãm thấy nằng nặng, dường như toàn thể  trọng lượng thân thể đều tụ vào hai cánh đó. Chuột già vốn thông minh, hiểu ra rằng ông thầy có ý thay hình đổi dạng cho mình, lòng rất vui sướng. Đập thử hai cánh, cảm thấy không khí giúp sức, bay là là, đáp xuống đất. Đồng tử thấy lạ, nhảy dựng lên, nói:
- Con chuột này sao biến ra hình dạng kỳ khôi thế ?
Nói rồi, dẫn chuột trở về động phủ. Lão thần tiên thấy chuột già biến thành con thú biết bay, bất giác cười ha hả, nhân thể ban cho nó một cái tên? gọi là "biển bức" (con dơi).
Trong số con cháu của chuột già có những con giữ luôn hình dạng biển bức ban đầu, ngày nay biến thành một loài, là loài dơi. Nhưng đó là chuyện về sau.
Nghe Phiếu Diểu chân nhân kể tới chỗ chuột già biến thành biển bức, Hỏa Long chân nhân nói : - Tình tiết chuyện này, quả thật ngu huynh không biết.
Phiếu Diểu chân nhân cười, kể tiếp :
- Từ đó, biển bức vĩnh viễn theo vị thần tiên, nghe kinh học đạo. Nó học tập chuyên cần, không bao lâu mà đã qua sáu, bảy trăm năm, nói được tiếng người, lại có thể biến hóa thành các loại  phi trùng, tẩu thủ (con vật biết bay, con thú biết chạy), nhưng vẫn chưa biến được thành hình người. Sư huynh có biết vị thần tiên đó là ai không ?
Hỏa Long chân nhân gặt đầu :
- Nghe nói Văn Mỹ chân nhân thu nhận một con chuột già làm đệ tử, chắc là ông ấy chứ ai ?
- Đúng rồi, ông ấy là đại đệ tử của Nguyên Thủy thiên tôn, chuyên thâu nhận dị loại làm đồ đệ. Vì chuyện đó mà trước đây, ông ta đã mắc phải điều này tiếng nọ, sau rồi được tổ sư chúng ta khuyên bảo, ông ấy đã cẩn thận hơn.
- Ban nãy chúng ta có đề cập tới chuyện học trò của chú gây náo loạn ở Quán Khẩu, tại sao chú lại kể lan man sang chuyện chuột già hóa dơi ? Đừng nói con chuột đó có liên hệ với học trò chú đấy nhá !
- Lê tự nhiên là có liên hệ. Nếu không, tôi nhắc tới làm chi ?
- Chuyện này có vẻ ly kỳ đấy. Việc tao ngộ thế nào, thật tình tôi chưa nắm rõ.
- Chúng ta tuy biết chuyện quá khứ, vị lai, nhưng chẳng qua cũng chỉ biết được trong vòng một trăm năm. Ra ngoài thời gian đó không thể biết chắc được. Riêng có tổ sư và Nguyên Thủy thiên tôn là hiểu nổi lẽ huyền bí khó lường, biết những chuyện quá khứ vô cùng tận. Tổ sư từng nói rằng trong tương lai sẽ có tám vị tiên phò tá Ngọc đế, anh em chúng ta chỉ có nhiệm vụ là dẫn dắt, điểm độ để họ xuất thế, thành tiên. Còn việc bọn họ lên Thiên phủ, đứng vào hàng tiên quan trong triều đình, ra ngoài trách nhiệm của chúng ta. Trở lại chuyện trước, kẻ ra đời sớm nhất là một con chuột. Nó có tuổi thọ ngang với chúng ta, nhưng để đạt được chính đạo thành tiên, cũng phải trải qua dăm ba ngàn năm. Chiếu theo lời tổ sư nói như thế, chẳng phải ám chỉ biển bức đó ư ? Chuyện này người ta nói đã lâu, trong tiên ban cũng nhiều người biết, riêng có sư huynh là không rõ chẳng là điều quái lạ lắm sao ?
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:33:50 bởi bevanng >
#1
    bevanng 06.07.2008 12:09:05 (permalink)
    Hồi Thứ 8

    Lào giao lên bờ phá hủy Phúc Đức
    Nguyệt lão xuống biến. làm mai cho rồng.

    Phiếu Diểu Chân nhân nói rằng trong tương lai, biển bức sẽ là một trong Bát tiên phò tá Ngọc đế. Hỏa Long chân nhân bất giác gật gù, nói :
    - Thì ra là vậy. Thật tình tôi không biết.
    Phiếu Diểu chân nhân cười, nói :
    - Bây giờ, tôi kể tiếp anh nghe chuyện lão long gây náo loạn, tình thật ra sao. Nguyên biển bức đã được Văn Mỹ chân nhân giáo hóa, lại nói rằng anh ta có công với nhân dân Quán Khẩu, đáng được dân chúng lễ bái, hưởng hương khói một ngàn năm, mai sau sẽ chuyển  sang thân người, có tiến trình lớn lao. Ông ta mới vời gọi các thổ địa lớn nhỏ ở địa phương Quán Khẩu tới, bảo họ truyền dụ cho dân chúng, lập miếu thờ cho biển bức, để tỏ ý báo đáp công ơn, dân chúng Quán Khẩu được thổ địa chỉ bảo, ai nấy đều vui mừng, hường ứng, lập một miếu thờ biển bức. Địa phương tuy nhỏ thôi, nhưng thể chế trang nghiêm, người ta cũng dựng nên một ngôi miếu qui mô. Vả lại dân địa phương nhiều người chịu ơn lớn của biển bức, ca tụng anh ta, tôn xưng là Phúc Đức chính thần. Vì chữ “Phúc và chữ "Bức" là đồng âm, nên người ta mới đặt tên thần như trên, để tỏ lòng tôn kính, hy vọng thần sẽ mãi mãi ban phúc cho dân. Sau này, trong vùng đất Quán Khẩu chu vi một ngàn dặm, gặp những dịp vui mừng, hoặc những ngày lễ lạc, nhà nhà đều treo một dãy năm hoặc chín bức hình con dơi với ý là thu nhận được nhiều phúc. Người ta đồn rằng biển bức tuy chỉ là một 1 động vật nhỏ bé, nhưng nó đạt được tính linh kha khá, hễ ai thành tâm cầu nguyện, nó đều hiển linh báo ứng nhãn tiền. Vì thế mà miếu thờ quanh năm không dứt hương khói.
    Biển bức hường hương khói của dân chúng lâu năm, đã có thể biến được thành hình người. Nhưng thời gian mang hình người như thế không lâu, chừng bảy ngày hoặc mười ngày, lại phải biến trở lại bản thể. Anh ta cũng rất thận trọng, bình thường không dám khinh suất rời xa miếu, sẽ ứng rước lấy đều này tiếng nọ, bị thiên thần khiển trách. Ai ngờ số đã định trước, tai ương không tránh khỏi.

    Không biết trong dịp nào, biển bức cùng lão long, đồ đệ của Phiếu Diều chân nhân, quen biết nhau. Hai đứa đều là người trọng nghĩa mến đức, giao tình càng thêm khăng khít. Lão long mỗi khi có dịp lên bờ thăm mộ mẹ, đều ghé miếu gặp biển bức để thổ lộ tâm tình. Biển bức tuy không thể xuống nước, thường khi cũng hiện thành hình người, một mình tới chỗ vũng biển, gọi tên Bình Hòa, lão long liền xuất hiện, cùng biển bức đi dạo chơi, ngắm cảnh. Hai người qua lại với nhau như thế, không hề có điều gì trái ý nhau.

    Không ngờ ở dưới biển lại có một con giao long (l). tu luyện tuy chưa lâu năm bằng lão long, nhưng nó học theo yêu pháp, nên tài năng cũng không thua kém gì lão long. Giao long này nghe nói Phiếu Diểu chân nhân hóa độ cho lão long, chẳng bao lâu sẽ thành chính quả, nên đem dạ bất bình. Một hôm, nó hóa thành hình người, đi ngang qua miếu Phúc Đức, mới tiến lại nhòm ngó một hồi, thấy trong miếu đắp tượng một con phi cầm rất lớn. Nó không hiểu lai lịch con vật này ra sao, ngờ rằng đó là con công của Phật Như Lai bên Tây phương, nên mới tiến vào, thắp hương lễ bái. Ra khỏi miếu, nó hỏi thăm dân trong vùng, mới hay đó là con chuột già biến hóa thành biển bức. Lại hỏi nguyên nhân vì sao lập miếu, biết được liền hầm hầm tức giận, lập tức bắt quyết vời gọi nhiều vị thần thổ địa ở những vùng quanh đó, hỏi tại sao một con vật nhỏ bé như thế lại được khoa trương, đề cao, hưởng thụ hương khói của trăm họ ? Giao long nói :
    - Hôm nay, ta đã nhận lầm nó là con công của Phật Như Lai, nên đã lạy thì thụp. Không thể nào nhịn nổi cảnh con súc sinh đó (ngồi trên cao vênh váo, không thèm mở miệng nói với ta một câu ! Đáng ghét quá chừng ! Lão long ta có tuổi thọ sánh ngang trời đất, tu thành “vô thượng đạo pháp". Ngoại trừ thần Nhị Lang là người quản lý ta, cùng với các vị Tiên, Phật mà ta ngưỡng mộ, các vị thần tiên cấp thấp gặp ta đều phải nói năng nhỏ nhẹ. Dè đâu hôm nay ta phải bẽ mặt trước tiểu súc sinh này, làm sao chịu nổi ? Thôi, không nói lôi thôi gì nữa, ta hạn cho các ngươi trong ba ngày, phải phá hủy miếu này đi, đuổi tiểu súc này ra khỏi vùng, thì mọi chuyện êm hết. Nếu dám trái lệnh ta, ta sẽ đánh các ngươi gãy chân, sau đó sẽ kiếm một mồi lửa, đất rụi hang ổ của chuột già!
    ---------------------------
    (1) Ngày xưa, gọi là con thuồng luồng (Tử điển Thiều Chửu), nay gọi là con cá nhám (Tù điển Hàn Việt - Ban Tu Thư Nghĩa Thục)

    Các thổ địa thấy lão giao nổi cơn giận dữ, lại biết biển bức lai lịch không nhỏ, ở vào thế hai mặt đều khó xử. Họ đưa mắt nhìn nhau, không dám nói một lời. Lão giao tức giận, nói :
    - Các ngươi không nói tiếng nào, có phải cho rằng lão giao ta đạo lực không bằng con chuột già nhỏ xíu ! Các ngươi chỉ sợ chuột già, mà không sợ ta hả ? Được ! Được ! Các ngươi đã coi thường ta, ta không thèm nói nữa, mà cho các ngươi biết tay !
    Giao long nổi giận đùng đùng, rút ra một cây đao có ba mũi nhọn. Đó là sợi râu hắn bứt trên cầm, luyện thành. Đao vừa rút ra khỏi vỏ, liền có muôn đạo hàn quang, phả vào mặt người, lạnh buốt. Lão giao đưa đao lên ngang mi, định dụng võ. Các thổ địa thấy vậy, run cầm cập, đứng sát lại với nhau, cùng kêu lên :
    - Đại vương bớt giận, cho thổ địa chúng tôi được trần tình sự việc thật rõ ràng.
    Lão giao cầm ngang cây đao, nói giọng giận dữ :
    - Mau nói đi ! Nói đi !
    Các vị thổ địa thấy lão giao không biết lý lẽ, mới bàn bạc với nhau một hồi. Trong đám, có một người lanh trí nghĩ rồng là vua dưới nước, các loài vật dưới đó đều thuộc quyền rồng chỉ huy. Lại nghe nói biển bức này chơi với lão long ở Quán Khẩu rất thân, chi bằng ta mượn thanh thế lão long, hù dọa giao long, coi hắn đối phó thế nào ? Nghĩ vậy, liền mỉm cười, nói :
    Đại vương bất tất phải ra oai, con dơi tầm thường kia làm sao có thể là đối thủ của đại vương được ? Thổ địa chúng tôi bị nó sai khiến, lòng chẳng khâm phục chút nào. Nhưng tổ sư của nó là Văn Mỹ chân nhân là một vị thượng tiên đầy pháp lực. Gần đây nó lại chơi rất thân với lão long ở Quán Khẩu, thường qua lại với nhau, rất đằm thắm. Chúng tôi cũng muốn dựa oai đại vương, phá hủy miếu thờ, đuổi nó về núi, nhưng chỉ sợ Văn Mỹ chân nhân nghe biết chuyện, thì nguy. Vả lại long thần Quán Khẩu ỡ gần xịch đây, nghe được bạn ông ấy bị ức hiếp, ắt tới giúp đỡ. Ông ấy là chúa các loài thủy tộc, thế lực rất mạnh, vạn nhất nổi cơn thịnh nộ, chỉ cần chuyển mình một cái là có thể dời non lấp biển, sẽ khiến âm, dương ba cõi chẳng được an toàn. Lúc đó, chẳng những thổ địa chúng tôi phải chết, mà đại vương và nhân dân bản địa cũng không tránh khỏi tai họa !
    Thổ địa nói vậy, tưởng rằng đã rào trước đón sau, thật chu toàn, nào ngờ câu nói đó lại xúc phạm tới lão long, khiến hắn nổi giận đùng đùng. Chưa nghe dứt câu, hắn đã hét lên một tiếng, chấn động tới núi cao, còn đám thổ địa hoảng hồn, chui xuống đất mất biệt. Lão giao chẳng thèm để ý tìm kiếm thổ địa đó, hầm hầm tiến vào trong miếu, ra tay đập pho tượng biển bức nát như cám, lại phá miếu tan hoang, chỉ còn đống gạch vụn.
    Trong khi đó, biển bức tới cửa biển thăn bạn lão long. Hai người đều biến thành đạo nhân, tìm tới những nơi có cây, có hoa trên bờ biển, đi rong chơi cho thư thái tâm hồn. Đang lúc hứng thú như thế, biển bức chợt thấy rúng động trong lòng, ớn lạnh trong mình, mới nói với lão long :
    - Thưa sư huynh, tiểu đệ cảm thấy không được thư thái, trái tim dường như trống trải, không yên chút nào. Chẳng lẽ trong miếu tiểu đệ đã xảy ra chuyện gì ?
    Lão long nghe vậy liền cười, nói :
    Sư huynh (1) đúng là gan nhỏ, đa nghi. Khoan nói sư huynh là người lòng dạ hiền tử, tính tình đôn hậu, người địa phương ai cũng kính phục, lễ bái, dù cho có yêu ma, quỉ quái ganh tị với sư huynh chăng nữa, kẻ nào lại không biết sư huynh cùng tiểu đệ có mối giao tình mật thiết ? Ở một dải đất địa phương này, ai mà không biết uy danh tiểu đệ ? Đứa nào đắc tội với sư huynh là đắc tội với tiểu đệ, tiểu đệ sao chịu buông tha cho nó ? Có lẽ tại lúc này khí trời oi ả sư huynh chịu không nổi thời tiết, nên cảm thấy khó chịu đấy thôi. Chúng ta là người tu đạo, việc sinh tử còn không chế ngự nổi chúng ta, huống gì là thứ bệnh xoàng ? Sư huynh nên phóng tâm, đừng lo sợ chuyện không đâu.
    -------------------
    (1) Hai người bạn này tự coi ngang hàng nhau, gọi người đối thoại là sư huynh, tự xưng sư đệ; người kia cũng gọi trả lại như vậy, chứ không dám nhận vai anh, gọi người kia là em.

    Biển bức nghe vậy, nói :
    - Chẳng giấu gì sư huynh, tiểu đệ vâng lệnh thầy, ở đây thụ hưởng hương hỏa. Lúc đó, sư tôn có dặn dò, bảo thời hạn tiểu đệ ở đây không quá một ngàn năm. Nay tính lại, thì thấy thời hạn không còn sai bao nhiêu, vì thế tiểu đệ cứ đêm ngày lo nghĩ, sợ rằng có chuyện gì xảy ra ngoài ý muốn chăng ? Tiểu đệ không phải  kẻ phàm phu, tham luyến lợi lộc đâu. Vả chăng thời hạn hường thụ hương khói đã mãn, đây là lúc tiểu đệ trở về núi, theo hầu sư tôn, mong sớm có ngày chuyển sang hình người, hoàn thành đại đạo Thứ hư vinh trước mắt đây, tiểu đệ không chút luyến tiếc. Nhưng vạn nhất những kẻ thị tùng trong miếu gây ra chuyện lộn xộn gì, há chẳng phải tội đổ cho người chủ hay sao ? Đây là chuyện rất lớn, tiểu đệ phải vô cùng cẩn thận. Hơn nữa, nếu quả thật xảy ra chuyện, ắt hẳn từ nay tiểu đệ phải chia tay cùng sư huynh, làm sao tiểu đệ yên tâm cho được ? Từ khi gặp nạn hồng thủy, tiểu đệ từ trung nguyên lưu lạc đến đây, cũng chưa bao giờ có cảm giác kỳ lạ như lần này. Nếu nói là bệnh xoàng, thì chúng ta là người tu đạo, dứt khoát không bao giờ mắc phải. Thiết nghĩ chuyện này phải có một nguyên do nào đó, chỉ tiếc rằng chúng ta đạo lực còn nông cạn, không dự biết trước mà thôi. Lúc này không còn sớm sủa gì nữa, tiểu đệ xin tạm biệt sư huynh, trở về xem thử tình hình ra sao. Nếu quả thật không có chuyện gì, ngày mai tiểu đệ sẽ tới báo cáo cùng sư huynh.
    Lão long nghe vậy, gật đầu ưng thuận, nhưng cười thầm trong bụng là biển bức quá nhát gan. Đang trầm tư suy nghĩ, bỗng thấy vài ông thổ địa chạy tới, hành lễ cùng hai người, rồi nhìn ngay mặt biển bức, nói :
    - Tôn thần có biết biến cố xảy ra trong miếu hay không ?
    Câu nói chưa dứt, đã thấy biển bức trợn trừng hai mắt, há hốc miệng. Ngay cả lão long cũng kinh hãi, vội hỏi :
    - Mấy vị nói gì? Trong miếu có yêu nhân nào vậy ? Hay lả bọn thị tùng ra ngoài gây họa?
    Các vị thổ địa đem chuyện đầu đuôi bẩm báo, lão long tức thì nổi giận:
    - Yêu súc này thật đáng ghét ! Nó không biết ta lợi hại ra sao ư? Sư huynh tạm ẩn thân một bên, để xem tiểu đệ thu thập con yêu này. Thứ nhất : để sư huynh hả giận, thứ hai : để ngăn cản, không cho nó ở đây quấy nhiễu, làm hại dân chúng, thứ ba : để nó nhận biết bản lãnh của lão long này, coi nó còn dám cuồng ngôn hay không ?
    Biển bức vốn là người biết an phận thủ thường, lại biết kỳ hạn hưởng thụ hương hỏa của mình sắp mãn, sớm muộn gì cũng phải về núi, gặp được cơ hội này thật quá tốt, để trở về bên sư phụ, nghe lời chỉ dạy. Hà tất phải gây chuyện chống đối người khác làm chi ? Lão long lại không chịu kiến giải đó. Anh ta là người đàn ông thẳng thắn, rất nóng tính. Dặn dò biển bức vài câu, không đợi anh kia trả lời lão long lập tức xuất hiện nguyên hình, bay lên không trung. Vừa chuyển động một cái, đã tới ngay chỗ miếu Phúc Đức, gặp lúc lão giao đập phá pho tượng vừa xong, nộ khí chưa nguôi, còn đứng đó chỉ trời, vạch đất, chửi mắng trước mặt đám đông. Lão long thấy vậy, giận quá chừng, từ giữa không trung, thét mắng:
    - Yêu ma kia, không được vô lễ ! Có gia gia mày ở đây !
    Lão giao không ngờ lão long xuất hiện vào lúc này, tỏ vẻ kinh hãi, vội xuất hiện bản thể, nhảy lên mây, cầm cây đao ba mũi nhọn, xông lại đánh lão long. Còn rồng này có thân hình quá to lớn, dập đầu một cái sức mạnh như núi Thái Sơn đổ xuống, quẫy đuôi một cái, thế mạnh như gió to mưa lớn, nhổ bật rễ cây. Lão giao thân thủ nhanh nhẹn, nhảy lên nhảy xuống, tránh né được cả. Hai bên đánh nhau một trận trời sầu đất thảm. Đánh đã lâu, mà không phân cao thấp. Lão long đột nhiên nổi hung, há miệng phun ra một viên linh đan, biến thành ngàn, vạn trái cầu lửa, vây quanh lão giao. Lão giao vốn là con mãnh thú ở dưới đáy nước, bình sinh đã quen với nước, thấy thế lửa quá mạnh, liền tính chuyện lấy nước khắc chế lửa. Nó đâu có biết linh đan của lão long là do hấp thụ tinh hoa của mặt trời, mặt trăng chế thành, khi phun ra thì đó là lửa tam muội của bản thân lão long, nước bình thường làm sao có thể tiêu diệt được ? Lão giao tận dụng khí lực, trút hết phân nửa số nước biển, hy vọng có thể diệt được thần đan. Kết quả trái ngược, chẳng khác nào lửa cháy đổ thêm dầu, chỉ càng giúp thêm oai cho lửa, đốt cháy vô số dân chúng, và nhiều nhà cửa, ruộng nương.
    Lão giao biết địch không lại, liền hóa thành một con cá thu, ẩn mình giữa những đợt sóng, trốn xuống đầm sâu. Lão long tìm kiếm hồi lâu, tìm không ra, bất giác nổi cơn hung dữ, không thèm suy tính cho mất công, thi hành ngay một biện pháp man rợ : chuyển từ nơi xa về một quả núi đất rất lớn, thả xuống dưới biển. Cả một trái núi cao đè xuống như vậy, lo gì lão giao chẳng bị đè chết ?
    Phiếu Diểu chân nhân kể tới đây, Hỏa Long chân nhân bất giác cười rộ :
    - Thì ra học trò của chú là con rồng ngốc nghếch, to gan mà thô lỗ. Anh ta dã suy nghĩ không tới. Giả sử như Quán Khẩu được san thành đất liền, lão giao quả nhiên bị đè chết, vậy còn chỗ nào cho lão long chui rúc ? Không thể nói anh ta đã tính trước rất chuẩn rằng sau khi biển được san bằng, thì chú là thầy anh ta sẽ dẫn anh ta đi Đông Hải, nên chỗ cho anh ta chui rúc không còn cần thiết nữa.
    Phiếu Diểu cười, nói :
    Vậy nên lúc này tôi mới nói biện pháp của anh ta là biện pháp man rợ. Lão long thăm dò một hồi, nhận rằng lão giao đã bị đè chết ở dưới đáy biển, nhưng bản thân anh ta sém chút nữa không giữ được tính mạng.
    Nguyên địa phương đó thuộc quyền cai trị của thần Nhị Lang, mọi việc đều do ông ta xử lý. Lúc đó, được tin giao và rồng tranh chấp nhau, nước biển dâng lên dìm chết dân chúng, Nhị Lang vội thống lĩnh đại binh, đi trấn áp. Nếu ông ta tới trễ một bước, nước biển đã bị lão long san lấp hết phân nửa rồi. Nhị Lang nổi giận, nói:
    - Độc giao (1) bị núi đè chết, không nói tới nữa. Nhưng lão long phạm tội, tội còn lớn hơn của độc giao nữa ! Việc này không xét kỹ để nghiêm trị, trong tương lai, những việc biển xanh biến thành ruộng dâu cứ tùy thời mà xảy ra, mà bản thân ta cũng chẳng còn chút oai quyền nào.
    Lập tức hạ lệnh tìm kiếm lão long, bắt về.
    Vừa nghe Nhị Lang đem binh tới, lão long vội trốn ra khỏi biên cảnh. Nhân dịp đó, Phiếu Diểu chân nhân mới dẫn anh ta đi Đông Hải, nào ngờ chỉ trong giây lát, anh ta gây ra vụ đại náo thiên cung.
    Nghe đến đây, Hỏa Long chân nhân cười, bảo:
    - Vậy mới nói, anh em ta đúng là "cùng bệnh thương nhau”. Tổ sư đã đem hết trách nhiệm việc này trao vào tay anh em ta, mà chúng ta gặp phải hai nghiệt súc này, tính cách man rợ cũng y như nhau. Chúng gây tai họa, sau này có báo ứng, chúng tự nhận lấy thôi. Chẳng qua chúng ta mang tiếng làm thầy mà ngay cả học trò mình cũng không chế phục nổi, các vị sư huynh sư đệ nghe biết chuyện này, sao khỏi chê cười chúng ta ?
    ----------------
    (1)    Giao long ác độc

    Phiếu Diều chân nhân cười, đáp :
    - Chính thế !
    Rồi ông hỏi thăm chuyện Phi Long đã làm ở sông Tiền Đường, Hỏa Long chân nhân nhất nhất kể lại, rồi nhân đó cười, nói :
    - Hai đứa nó trái lời thầy, lẽ ra phải trừng trị đích đáng, mới giữ nổi qui củ chặt chẽ trong đám học trò chúng ta. Chết một nỗi, lúc này là lúc cần dùng tới chúng, đành phải gọi chúng tới, hăm dọa vài câu, khuyên chúng hết lòng phò tá các vị vua chúa trên trần, để lấy công chuộc tội.
    Phiếu Diểu chân nhân cười, nói :
    - Ngày nay các vị quân vương ở hạ giới thường hay nhắc tới quyền thuật, thần tiên chúng ta chỉ biết lấy lễ đãi người, lấy lòng thành tiếp xúc với vật, dùng làm chi những thứ trá thuật như thế ?
    - Cái đó gọi là biện pháp tùng quyền. Nếu không làm vậy, sao có thể khiến hai tên súc sinh cúi đầu, cụp tai, biết thận trọng trong công việc, trước khi đi nhận chức ?
    - Cái gì mà tùng quyền với không tùng quyền ? Tôi không hiểu nổi. Đó chẳng qua chỉ là những lời bịa đặt để lừa gạt người ta thôi!
    - Anh em ta làm thầy mà không quản nổi học trò, lúc này đã lâm vào hoàn cảnh bất đắc dĩ, đành phải quyền nghi một lần xem sao.
    Không bao lâu, đã tới trước mặt biển, Hỏa Long chân nhân bắt quyết gọi rồng. Hồ Phi Long vội biến thành một cô gái, ra khỏi biển gặp thầy. Vừa thấy mặt sư tôn, cô vừa thẹn vừa ăn năn hối lỗi, phục xuống đất vái lạy, nước mắt như mưa. Phiếu Diểu chân nhân cũng bắt quyết gọi Bình Hòa tới. Hai ông thầy chống kiếm đứng trên mặt nước, mỗi đợt sóng biển tràn tới đều biến thành những đóa hoa sen, vây quanh hai ông tiên, thêm phần trang nghiêm. Hai rồng phủ phục trên mặt nước, tự biết lỗi, chẳng dám ngững đầu. Hai ông thầy thét mắng :
    - Hai người đã biết tội chưa ?
    Phi Long chỉ khóc lóc, không dám mở miệng. Bình Hòa quật cường hơn, ngửng đầu lên, tố cáo chuyện giao long hung hăng, bạo ngược. Phiếu Diểu chân nhân phất tay, nói :
    - Ta đã biết rồi, không cần ngươi phải giải thích !
    Bình Hòa bị thầy mắng, lại cúi đầu lặng im. Phiếu Diểu chân nhân quay nhìn sư huynh, lên tiếng than thở :
    - Xét cho cùng hai đứa nó còn có lòng có dạ, chưa đến nỗi nghĩ sằng, làm càn. Chẳng qua chúng chỉ làm những việc vượt quá phận mình, mới gây nên tội lỗi lớn lao. Còn vụ đại náo thiên cung, anh em cũng không kiểm soát nổi chỉ sợ chúng sẽ không giữ nổi tính mạng toàn vẹn thôi.  Các ngươi cậy có chút pháp thuật nhỏ nhoi, đã cho mình là nhất thiên hạ, không ai bằng mình nữa sao ? Há không biết trong chín châu, muôn nước, ở hải đảo ba cõi, còn có nhiều người tài đức, trội hơn các ngươi ? Tự phụ pháp lực để coi thường người khác, rốt cuộc rồi cũng chết vì pháp thuật thôi ! Nên biết rằng pháp thuật chỉ là một công cụ giúp các ngươi phòng thân, hoặc dùng vào việc cứu người giúp đời chứ không cho các ngươi lăng nhục, khinh miệt người khác, trái luật, phạm thượng. Trước đây. lúc chúng ta hóa độ cho hai ngươi, đã từng dặn dò những gì ? Sao dám cãi lời thầy, gây nên đại họa như thế ? Chiếu theo qui luật của tiên gia, các ngươi đã mang tội tự phụ, không coi ai là bậc trưởng thượng, bất tuân lệnh thầy, cứ một mực theo bản tính mà làm càn ! Các ngươi còn gì để nói nữa đây ?
    Phi Long vốn người trung hậu, chỉ biết cúi đầu nhận tội, không dám nói một câu. Hỏa Long chân nhân lại cười, hỏi Bình Hòa :
    - Cháu nghĩ thế nào ?
    Bình Hòa nghiêm sắc mặt, đáp :
    - Thưa sư phụ và sư bác nếu hai vị không thương yêu chúng con, hôm nay đã chẳng tới cứu chúng con. Mà hai vị đã tới cứu, chắc hẳn tội chúng con chưa đến nỗi phải chém giết. Việc này phân xử thế nào, chắc hẳn hai vị sư tôn đã có giải pháp, chúng con cũng không nghĩ ra nổi ! Dầu có phải chết, chúng con cũng cảm kích công ơn hai vị sư tôn.
    Câu nói đó rất đắc thể. Hỏa Long chân nhân vốn người nhân từ, nghe được liền cất tiếng cười vui vẻ, Phiếu Diểu chân nhân cũng cười theo, nói :
    - Các con đã biết tội, từ nay phải để tâm học tập, giữ gìn ký cương, không được tùy tiện làm càn nữa !
    Hai rồng đều khấu đầu, nói :
    Đội ơn sư tôn rộng lớn như trời biển ! Nếu hai chúng con còn dám cậy phép thuật làm càn, tình nguyện chết dưới lưỡi phi kiếm của sư tôn !
    Hai ông thầy nghe vậy, tỏ ý hài lòng, khuyên nhủ học trò mình thêm vài câu, trò nào đứng gần bên thầy nấy, dạ dạ xin vâng. Hai thầy mới bảo hai trò làm lễ tương kiến, nhận nhau là sư huynh, sư muội.
    Mọi người đang vui vẻ trò chuyện, chợt thấy một đám mây ngũ sắc từ phía Đông Bắc tà tà tiến lại. Hai ông tiên ngửng nhìn, cất tiếng cười :
    - ông nguyệt lão tới đây làm gì vậy ?
    Câu nói chưa dứt, nguyệt lão đã từ trên mây đáp xuống mặt biển, thi lễ cùng hai ông tiên.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:36:19 bởi bevanng >
    #2
      bevanng 06.07.2008 15:22:12 (permalink)
      Hồi Thứ 9

      Nhờ trời thương,  thụ phong long vương.
      Sán ông nuôi ốc,  giả chế thịt ốc.

      Nguyệt lão từ trên mây đáp xuống, gặp mặt hai ông tiên Phiếu Diểu và Hỏa Long, hai ông tiên mới hỏi :
      - Đạo hữu vì chuyện gì tới đây ?
      Nguyệt lão cười, đáp :
      - Việc gì bần đạo cũng không để ý tới, chỉ chuyên quản lý việc hôn nhân đại sự của con người, ở khắp ba cõi. Hiện nay học trò của hai vị có duyên phận vợ chồng, nên bần đạo mới phải tới đây.
      - Sao hai ông còn chưa mời ta một chén rượu mừng ?
      Hai ông tiên hiểu được ý tốt của Nguyệt lão, đều cười :
      - Thì ra vì vậy mà phiền đạo hữu phải vất vả tới đây ! Nhưng học trò chúng tôi thuộc loài rồng, chẳng lẽ chuyện hôn nhân của chúng cũng về tay đạo hữu quản lý ?
      - Tất nhiên là vậy rồi ! Bần đạo chấp chưởng mọi chuyện hôn nhân không phân biệt là tiên, là Phật, là người hay vật.
      Nguyệt lão nói rồi, mò trong tay áo, rút ra một cuốn sách, đưa cho hai ông tiên coi, và nói :
      - Mời hai vị xem thử, có phải danh tính hai vị lệnh đồ có chép trong đó hay không ?
      Hai ông xem qua một lượt, quả nhiên thấy chép rằng : "Bình Hòa và Hồ Phi Long, vốn thuộc loài rồng, về sau chuyển sang thân người, vào ngày ấy, tháng ấy, năm ấy, kết thành vợ chồng". Hai ông tiên xem xong, đưa trả sách cho Nguyệt lão. Gọi hai đồ đệ tới ra mắt Nguyệt lão, thi hành đại lễ. Nguyệt lão tươi cười nói : - “Không dám ? Không dám !", và nói tiếp : - Trong tương lai, hai vị sẽ nhận chức, làm vua của thủy tộc, cai quản bốn biển, lại diên trì dòng giống rồng, chia nhau ra cai trị các biển, tiền trình rộng mở, tôi đâu dám nhận đại lễ của hai vị !
      Hai ông tiên cười, bảo :
      - Chuyện tương lai, sau này hãy nói. Hiện giờ đạo hữu là ông mai, sao có thể bỏ được lễ tạ ông mai ?
      Nguyệt lão không biết làm sao, đành nhận lễ. Nguyệt lão bảo hai người vái trời đất, vái hai vị sư tôn, sau đó vợ chồng vái nhau, hoàn thành một mối lương duyên. Hỏa Long chân nhân lại cười, nói:
      - Học trò chúng tôi nên duyên phận, là nhờ đạo hữu vất vả se duyên, một chén rượu nhạt chưa đủ tỏ lòng tôn kính. Chẳng bao lâu, chúng nhận chức, triều bái hai vị hoàng đế tiên và phàm, xây dựng cung thất, sẽ có bữa tiệc khoản đãi ông mai.
      Nguyệt lão nói :
      - Những việc đó phải nhờ hai vị lão sư lo liệu cho học trò. Tiệc mừng hãy tạm ghi nhớ, đợi tới lúc đồ đệ của hai vị nhận sắc phong, bần đạo sẽ tới chúc mừng.
      Nguyệt lão nói rõ, xin cáo từ. Sau khi ông đi khỏi, hai vị sư tôn chỉ dẫn cho học trò :
      - Hiện nay một dải đất phương Bắc, nước lớn đã dâng lên. Vị vua trên trần gian xưng hiệu là Ngu Thuấn, là một vị thánh quân rất mực nhân ái. Vì nạn hồng thủy, ngài lo lắng đêm ngày, đã sai hai vị trung thần là Hạ Vũ và Bá ích lo việc trị thủy. Hai con phải giúp đỡ mấy ông ấy, phân chia trách nhiệm bằng cách trị hải. Khi hai thầy tới đây, đã nhờ tổ sư xin với thiên đình, ban sắc mệnh xuống, nên chẳng bao lâu ngọc chỉ sẽ tới đây thôi. Sau khi hai con tạ ơn, đi nhận chức rồi, chúng ta sẽ dẫn hai con, tới họp với đám người trị thủy của ông Hạ Vũ, để từ nay về sau nước và đất liền phân biệt rạch ròi, mỗi bên lo phần việc của mình.
      Hai vị tiên đang nói, bỗng nghe giữa không trung có tiếng nhạc vang lừng. Mọi người ngửng đầu nhìn, quả nhiên thấy nhiều tiên quan cưỡi mây bay đến. Hai vị tiên vội dẫn dắt học trò, phủ phục trên mặt biển. Các tiên quan ở trên không trung, cách xa mặt biển hơn mười trượng, tuyên đọc ngọc chỉ, đại ý nói rằng :
      “Tiên phàm xa cách hai đường,  nước và đất liền phân chia rạch ròi. Nay hạ giới mắc nạn hồng thủy các quái thú tha hồ gây độc, nhưng đã có thánh đế chốn phàm trần phái các vị lương thần chuyên lo việc đó. Còn đối với việc của các thủy tộc, trẫm phải đích thân kén chọn nhân tài, hiệp lực cùng vua tôi chốn phàm trần, hai bên chia nhau ra mà tiến hành công việc, mới giải quyết xong được thủy nạn, khiến quái thú phải trốn đi xa, mà muôn dân được an cư lạc nghiệp. Nay hai vị tổ sư Nguyên Thủy và Lão quân bảo cử Bình Hòa  và  Hồ Phi  Long đảm đương nhiệm vụ này. Hai khanh tuy trước kia có  lỗi, tạm thời không cứu xét tới, mà sắc phong cho Bình Hòa làm tứ hải long vương, Hồ Phi Long làm vương phi. Lại gia tăng thiên ân, chấp nhận cho con cháu hai người sau này đều được cai quản các biển lớn, nhỏ,và đều được xưng là long vương, vĩnh viễn không thay đổi. Hai ngươi phải nên gột rửa lòng tà, báo đáp thiên ân, lập nhau công trạng để che lấp tội trước".
      Hai ông thầy tiếp nhận sắc chỉ, lại dẫn dắt hai học trò, vọng lên không trung mà bái tạ, đưa tiễn các tiên quan. Sau đó, hai học trò lại tạ ơn thầy, và hai ông thầy dặn bảo :
      - Từ nay hai con phải luôn luôn cố gắng, thường xuyên thận trọng. Không nên vì nghĩa khí nhất thời, mà làm tổn hại tới dân lành, không được ỷ vào ngôi cao, mà xem thường người khác. Thường giữ lòng nhân ái, răn trừng thói kiêu căng, tu đức lập công, ắt che lấp được lỗi cũ, mà hưởng phúc về sau. Hãy nghiêm túc hãy gắng gỏi, chớ quên lời giáo huấn này !
      Hai học trò cúi đầu thụ giáo, hai ông thầy lại nói :
      - Nay là lúc các con lên triều bái Ngọc đế. Chúng ta sẽ dẫn hai con lên trời, nhưng không thể nói thay hai con được đâu. Hai con lại từng phạm lỗi, lúc tấu đối phải giữ gìn ý tứ, không vượt qua lễ tiết, nhưng cũng bất tất phải vì chuyện cũ mà sinh lòng hổ thẹn.
      Hai học trò lại dạ dạ, tuân lời dạy.
      Hai ông thầy dẫn học trò đi. Trước hết tới động Hạc Minh của Hỏa Long chân nhân, thuộc về Duyện Châu, để thay triều phục. Hai người mặc quần áo mới, tay cầm hốt ngọc, toàn thân sáng rỡ, thần thái tăng cao. Hai người này sẵn có túc căn, vả lại công hạnh viên mãn, nên được như thế, chứ không hẳn chỉ nhờ vào bộ quần áo đẹp. Hai ông thầy tỏ vẻ hài lòng, lại dẫn họ lên trời.
      Tới Nam thiên môn, đã thấy bốn vị thiên tướng suất lãnh thiên binh ở đó canh cửa. Hai vị chân nhân lại gần, bày tỏ ý mình, bốn vị thiên tướng khom lưng vái, mời vào. Tức thì có Lý Trường Canh tiến ra nghênh đón, chào hỏi hai ông tiên Hỏa Long, Phiếu Diểu, rất nên thân thiết. Hỏa Long chân nhân thay mặt hai đồ đệ, ngỏ lời xin lỗi về tội mạo phạm trước đây. Lý Trường Canh nắm tay hai ông tiên, cất tiếng cười ha hả :
      - Hai vị đạo huynh cũng khéo khách sáo ! Chuyện đã qua, hà tất phải nhắc tới. Vả lại, không biết là không tội, Thượng đế đã ra ơn tha tội cho học trò hai vị, gia phong vương tước, bần đạo sao dám giận hờn nữa chứ ?
      Hai bên khiêm nhượng một hồi, thầy và trò theo chân Lý Trường Canh tiến lên cung khuyết. Lý Trường Canh lại vào trong bẩm báo, liền có chỉ truyền cho thầy trò vào triều kiến. Hỏa Long, Phiếu Diểu lại dặn dò hai đồ đệ thêm vài câu, tất cả sửa lại mũ áo nghiêm chỉnh, cầm hốt ngang bụng, kính cẩn tiến vào sân chầu.
      Ngọc đế ngồi cao trên điện, hai bên có các tiên quan lớn nhỏ, chia thành hai ban đứng hầu.
      Bốn thầy trò cất tiếng hô vang : - "Thánh thọ vô cương !", phủ phục trước bệ. Ngọc đế truyền chỉ ủy lạo hai vị chân nhân Hỏa Long, Phiếu Diểu, khuyên nhủ vợ chồng Bình Hòa vài câu, thầy trò vội khấu đầu lạy tạ theo nghi thức.
      Lúc tan chầu, có nhiều vị tiên quan tiến lại thăm hỏi hai vị chân nhân, kể lể tình giao hữu cũ. Hai chân nhân bảo học trò bái kiến các tiên quan, xin phép cáo từ vì còn phải đi triều bái Nguyên Thủy, Lảo Quân, các vị đế quân và các kim tiên ở nhiều nơi.
      Ra khỏi Nam thiên môn, trước hết họ tới núi Côn Luân thăm Nguyên Thủy thiên tôn, sau đó vào cung Bát Cảnh thăm Lão Quân tổ sư. Lão Quân thưởng cho vợ chồng Bình Hòa mỗi người một bộ triều phục long cung gồm áo bào, mũ miện. Lại ban cho Bình Hòa một thanh kiếm báu, cho Phi Long một cây thần châm. Hai thứ đó đều cố thể lấy sinh mạng của yêu ma ở cách xa trăm dặm, lại tùy tâm sử dụng, biến hóa khôn lường. Hai người học trò mừng quá, khấu đầu tạ ơn.
      Lão Quân dặn bảo Phiếu Diểu :
      - Một vùng đất Quán Khẩu từ lục địa biến thành biển, lại từ biển hóa ra đất liền, việc biến đổi "biển xanh nương dâu” đó đều có số định trước. Việc dời non lấp biển, tuy là hành vi lỗ mãng, xét cho cùng không hẳn là tội của Bình Hòa đâu. Tuy nhiên người dân có hai nhu cầu thiết yếu là muối và nước. Ở những nơi đất nhiều, nước ít, hoặc quá xa biển cả, người dân sống cũng khó khăn. Con hãy xuống phàm trần, hợp đồng cùng vua chúa dưới trần thế, dùng phép thuật tạo một giếng muối, để dân có muối mà ăn. Không bao lâu, ta cũng xuống hạ giới một phen, để kết thúc một đoạn tục duyên (1).
      Ngoài ra, Đông Hoa sư huynh của các con, e rằng cũng phải xuống trần một chuyến. Nhưng phải là sau khi việc trị thủy ở trung nguyên hoàn tất, chứ lúc này còn sớm quá.
      Tổ sư lại nói với Hỏa Long chân nhân :
      - Con thiết lập một đập nước ở sông Tiền Đường, ngăn ngừa được nhiều yêu ma, là tốt lắm. Nhưng trong tương lai còn có một con yêu giao có bản lãnh rất cao, có tài vượt qua đập nước. Con yêu này một khi xuất hiện, hại người không ít. Con phải thời thường để tâm, tìm đủ cách trấn giữ nó, đừng cho nó tàn hại sinh linh, có vậy mới lập nên công đức cực lớn.
      Hai vị chân nhân xin ghi nhớ lời thầy, thấy Lão Quân không nói thêm điều gì, mới dám từ biệt, dẫn học trò đi thăm nhiều nơi khác, sau cùng tới chỗ Đông Hoa đế quân.
      Đế quân cùng hai chân nhân có giao tình rất tốt, sai bày tiệc thịnh soạn khoản đãi bốn thầy trò. Trong tiệc, đế quân hỏi tới chuyện phàm trần, hai chân nhân cũng nói sơ lược vài câu. Đế Quân nói:
      - Tôi từ hải ngoại đắc đạo, liền lên tiên giới, thường ân hận chưa được thấy cảnh văn vẻ cường thịnh của Trung Quốc. Sau này, nếu gặp cơ duyên, chắc phải xuống đó du ngoạn một phen. Hai vị đạo huynh thấy thế nào ?
      Hai vị chân nhân nghe vậy, bất giác ngạc nhiên, vội hỏi :
      - Thiên phủ là chốn cao thượng, tôn quí nhất trong các giới, đế quân lại đã vinh nhậm thiên chức, sao còn nghĩ tới chuyện rong chơi cõi trần ? Xưa nay thánh nhân không có nói giỡn chơi bao giờ, xin đế quân nghi lại.
      Đế quân chưa hiểu ý hai vị chân nhân, buột miệng nói :
      - Khó gì chuyện đó ? Xưa nay, các vị tiên, Phật cũng nhiều lần du hí chốn hồng trần, sao cô gia lại không thể ?
      ----------------------------
      (1) Lão Tử, tác giã sách "Đạo Đức Kinh”,  là một đại triết gia Trung Quốc, đồng thời lại là tổ sư của Đạo giáo, có một xuất xứ rất mơ hồ. Rất nhiều sách chép về ông, mỗi sách chép một cách khác ngay cả tên thật của ông là gì cũng không ai biết. Sau này, đạo Phật phổ biến ớ Trung Quốc, người ta lại đặt ra chuyện ông là Phật hóa thân. Từ đời Đường, vua Đường vốn họ Lý, mơ thấy Lão Tử (tên Lý Nhĩ) hiện về, xưng là tổ nhà Đường. Những chuyện như thế không có bằng cớ xác thực, người ta bịa ra với một mục đích nhất định. Tác giả sách Bát Tiên Đắc Đạo đã khéo kết dính những chi tiết đó, ở những hồi sau.

      Hai chân nhân thấy đế quân quá chấp mê, không dám khuyên can nữa, đành xin cáo từ. Trong lúc đi đường, hai ông còn bàn tán chuyện đế quân, không hiểu vì sao lại động lòng trần. Thảo nào tổ sư vừa rồi có nhắc tới chuyện Đông Hoa đế quân sẽ xuống phàm trần. Thế mới biết tu đạo tới chỗ tối cao như đế quân mà vẫn không tránh khỏi có lúc nghĩ sằng, tham luyến cõi trần, huống gì là người khác ? Nói tới đó, mọi người đều than thở. Đột nhiên, Phi Long nói xen vào :
      - Xin hỏi sư tôn, vừa rồi tổ sư có nói : "Không bao lâu sẽ xuống trần một chuyến", đủ thấy chuyện xuất nhập ba cõi là việc các vị thần tiên thường làm, tại sao sư phụ lại quá lo lắng cho Đông Hoa sư bá ?
      Hai ông thầy đều nói :
      - Các con chưa hiểu được đâu. Tổ sư là ông tổ của quần tiên ở khắp muôn nước, chín châu, yêu ma cỡ nào cũng không phá hoại nổi pháp thân của ngài, không mê hoặc nổi đạo tâm của ngài. Ngài muốn xuống cõi trần, là vì có việc nhân quả cần giải quyết cho tròn vẹn, đi xong lại về, đâu cần người khác phải lo cho ngài ?
      Còn như Đông Hoa sư bá, tuy rằng đạo hạnh chẳng nông cạn, làm sao so sánh với tổ sư được ? Trước đây, Ngọc đế nhân vì nhìn thấy cây “thất bảo thụ" dưới hạ giới, chiếu ánh sáng rực rỡ lên tận chín tầng trời, ngẫu nhiên động lòng phàm, liền xuất hồn, rơi xuống phàm trần nhiều kiếp, tâm trí hôn mê, sém chút nữa không thể quay về trời. Cũng may có các vị thần tiên phò tá rất đông, xúm vào bảo hộ, tùy lúc, tùy nơi, chỉ điểm cho ngài, mới thoát kiếp nạn. Ngọc đế còn nguy hại như thế, huống gì Đông Hoa đế quân, huống gì những người thua kém đế quân ?
      Hai người học trò nghe nói, đều sợ hãi, nói :
      - Đệ tử xuất thân ti tiện, nghe đạo chưa được bao lâu, chẳng biết trời cao đất dầy là gì. Nay nghe được lời pháp dụ của sư tôn, mới biết bản thân chẳng có chút tài năng. Từ nay về sau, càng phải kiềm thúc bản thân, để khỏi rơi vào kiếp luân hồi.
      Hai ông thầy mừng rỡ, nói :
      - Các con biết khắc kỷ như thế, tiền trình ắt rộng mở, không có giới hạn. Phải nên rèn luyện, tu đức lập công, mới có thể chuyển hồi khí vận.
      Hai học trò dạ dạ xin tuân lời thầy.
      Bốn thầy trò đi tham kiến các vị thần tiên trên thượng giới xong, mới trở về hạ giới. Bấy giờ, Ngu Thuần kiến đô ở chỗ mà ngày nay thuộc về địa phận tỉnh Sơn Tây. Chỗ đó, lúc bấy giờ còn xưng là thủy quốc. Thực ra, đất nước đó chỉ nằm ở hai bên bờ Bắc, Nam của sông Hoàng Hà, còn như vùng đất chung quanh sông
      Trường Giang đều là nước Nam Man, hồi đó vẫn chưa thuộc bản đồ Trung Quốc. Lưu vực sông Hoàng Hà toàn là đất thấp. Có lúc, nước sông Hoàng Hà dâng cao, tràn ra khấp nơi, lại đổ vào các con sông nhỏ, như Tế Thủy, Hoài Hà, khiến các sông này cũng bị tràn bờ, chảy lênh láng. Vì thế, toàn thể trung nguyên biến thành thủy quốc. Nhân dân không thể an cư, đành trốn lên các vùng đất cao. Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, vùng đất cao đó có rất nhiều loài mãnh thú, như sư tử, hổ, báo, chó sói, gặp người liền cắn xé. Nhân dân không chết vì nước, lại chết vì thú. Cũng may Đế Thuần biết dùng người giỏi, đem trách nhiệm trị thủy trao cho hai ông Hạ Vũ, Bá ích. Hai ông vâng đế mệnh, nhân thấy thế nước quá lớn, nhất thời chưa biết làm sao, mới bàn bạc nhau, ra một bảng văn kêu gọi, ai có ý kiến gì về trị thủy, mau hiến kế cho hai ông. Vừa may, hai vị chân nhân Hỏa Long, Phiếu Diểu, dẫn vợ chồng Bình Hòa trở về, đi ngang qua đó, mới tới yết kiến ông Vũ, Ích, hiến kế sách. Lại có vợ chồng Bình Hòa vừa nhận ngọc chỉ phong làm long vương ở biển lớn, mới giúp đỡ một tay, khơi dòng chảy cho nước rút ra biển.
      Mọi việc xong xuôi, hai vị chân nhân đưa tiễn vợ chồng Bình Hòa vô tận đại hải. Từ đó về sau, đất liền và sông biển phân chia ranh giới rạch ròi.
      Chuyện Hạ Vũ trị thủy có ghi chép với đầy đủ chi tiết trong thiên "Vũ cống” , đối với sách “Bát tiên Đắc Đạo”  này không quan hệ bao nhiêu, chẳng qua chỉ là bổ khuyết cho nhau thôi.
      Nay sách này lại chép tiếp một chuyện nho nhỏ, có quan hệ chút ít với nạn thủy tai nêu trên. Lúc đó ở dưới núi Tung sơn thuộc Hà Nam, có một gia đình nghèo khổ, có ba nhân khẩu, gồm bà mẹ và vợ chồng người con trai, đều làm nghề nông để sinh sống. Bà mẹ là Vương thị, người con trai họ Tôn, tên Kiệt, lấy vợ là Lưu thị. Lúc chồng chết, Vương thị đã luống tuổi ở vậy nuôi con. Và từ ngày ở góa, bà quyết chí bỏ mặn, ăn chay. Bấy giờ gặp nạn hồng thủy, cả gia đình trốn lên núi để lánh nạn. Vương thị tuổi đã cao, lại chịu vất vả đã nhiều năm, thêm chứng phong thấp hành hạ, nên mang bệnh nặng. Sau khi nước rút, trở về nhà cũ, thấy trong nhà chẳng còn đồ đạc gì, cảnh nhà điêu tàn, lòng thêm buồn bực, Vương thị bệnh tình càng thêm trầm trọng. Thôn làng heo hút, không kiếm đâu ra thầy thuốc. Vả lại từ sau thủy hoạn, tiền bạc trong nhà cạn kiệt, lấy đâu ra tiền mả lo thuốc thang ? Vợ chồng Tôn Kiệt, ngoài việc ngày đêm phục thị mẹ, cũng không nghĩ ra được một biện pháp nào để giải quyết. Hôm đó Vương thị như ngọn đèn sắp tắt, phụt sáng lần cuối, bỗng cảm thấy tỉnh táo trở lại, thèm ăn một món gì. Vợ chồng Tôn Kiệt mừng quá, tưởng mẹ đã hết bệnh, khoẻ khoắn trở lại, vội hỏi mẹ thèm ăn gì. Nào ngờ Vương thị món nào cũng chê, chỉ đòi duy nhất một món thịt nhồi ốc.
      Nguyên sau khi nước rút, không biết ở đâu lưu lạc tới nhà một con ốc nhồi rất lớn. Lưu thị thấy con ốc này lớn một cách kỳ lạ, mới kiếm một vũng nước sạch, thả con ốc vào nuôi trong đó, thường chỉ cho Vương thị thấy, để ngắm chơi. Có lẽ vì thế mà lúc này bà nghĩ tới con vật thường ngày thưởng ngoạn, mà nẩy sinh ý thèm ăn thịt sống. Tôn Kiệt không cần suy nghĩ, chỉ biết có một điều là mẫu thân thèm ăn, bất kể là chay hay mặn. Trái lại Lưu thị biết rõ đây là lời nói sảng của mẹ chồng, trước khi chết. Bà đã ăn chay hơn mười năm, sao khi không lại đòi ăn thịt ốc ? Vạn nhất ăn vào không tiêu, bệnh càng thêm nặng. Vả lại, những người ăn chay trường lâu năm, nhất đán đổi sang ăn mặn, tội lỗi đổ đâu cho hết ? Vì vậy, chị mới nghĩ ra một giải pháp, ra ngoài tìm kiếm một số vỏ ốc, xối nước rửa cho thật sạch, không còn chút mùi nào,sau đó lấy những món đồ chay như bột im, tầu hủ khô, đâm nát thành tương chao, giông giống như thịt ốc băm nát, đem nhồi vào trong vỏ, hấp lên, mời Vương thị xơi, chỉ nói rằng tuân lệnh mẹ luộc ốc mời mẹ thường thức. Vương thị quả nhiên hân hoan, ăn lên, không hề biết là ốc giả, do người chế tạo. Nào ngờ số thọ của bà cụ đã hết, ăn vào một ngày sau liền qua đời. Vợ chồng Tôn Kiệt khóc lóc, lo việc tống táng. Lưu thị vì thấy mẹ chồng ham ăn ốc mà qua đời, chỉ nói sơ qua chuyện mình làm ốc giả, bảo Tôn Kiệt đem con ốc ra sông, thả xuống nước, phóng sinh.
      Về sau, Lưu thị mắc bệnh mà chết. Lúc lâm chung, nuốt nước mắt nói với chồng :
      - Thiếp theo chàng hai mươi năm, thay chàng nuôi mẹ, quán xuyến việc nhà, tự xét mình chưa hề có điều gì thất đức, chỉ chưa sinh cho chàng một mụn con nào. Tình cảnh gia đình ta lại quá nghèo túng, thiếp chết đi rồi chàng lấy tiền bạc đâu mà cưới vợ khác ? Huyết mạch nhà họ Tôn chẳng vì thế mà đứt đoạn hay sao?
      Đó là điều khiến thiếp chết đi rồi, vẫn không nhắm mắt.
      Nói xong, liền tắt nghỉ.
      Nhà họ Tôn từ đó chỉ còn lại một người, lại không thể canh tác chỉ mỗi ngày đi làm thuê cho nhà giàu có trong thôn, kiếm chút tiền độ nhật. Ở địa phương đó, người ta mướn người làm công chỉ bao ăn hai bữa : trưa và chiều, còn bữa tối, về nhà tự lo liệu. Tôn Kiệt đi làm về, lại phải tự nấu ăn, tình cảnh rất khốn khổ. Muốn lấy vợ khác, khổ nỗi không có tiền. Mỗi khi nhớ lại lời vợ nói lúc lâm chung, lòng đau như dao cắt. Như thế được chừng nửa năm.
      Một hôm, nhân ngày sinh nhật của vợ, Tôn Kiệt ra thăm mộ, khóc lóc tế lễ. Hồi lâu, nhìn về phía nhà mình, từ chỗ xa xa thấy có khói bay lên, dường như trong nhà có người đun nấu, thầm nghi ngờ trong lòng. Về tới nhà, thấy có cơm nóng, canh sôi, lại thêm một bình trà, đang đợi chủ nhân thụ hưởng. Tìm người nấu cơm, chẳng thấy tung tích. Đang đói bụng, chẳng cần tìm hiểu thêm, chàng cứ ăn uống cho no. Từ đó về sau, mỗi ngày đi làm về, đều có cơm canh dọn sẵn, chỉ không hiểu người nấu cơm, pha trà là ai. Cửa nhà vẫn khóa kỹ, ai có thể lọt vào đây ?
      Một hôm, Tôn Kiệt đi làm, về sớm một giờ, tưởng nhân lúc xuất kỳ bất ý, có thể bắt gặp. Nào ngờ, dường như người kia đã dư biết ý định của chàng, đã bỏ đi từ trước.
      Hôm khác, Tôn Kiệt xin chủ cho nghỉ một ngày, nhưng vẫn theo lệ cũ, ra đi từ sớm. Đợi tới giờ người ta thường nấu cơm tối, chàng sang hàng xóm mượn một chiếc thang, bắc lên đầu tường. Leo lên đến nơi, lén nhòm về phía nhà bếp. Vừa nhìn rõ, Tôn Kiệt kinh ngạc quá chừng. Thì ra người hàng ngày thay chàng nấu cơm, pha trà là một mỹ nhân, xinh đẹp tuyệt trần.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:38:23 bởi bevanng >
      #3
        bevanng 06.07.2008 15:59:02 (permalink)
        Hồi THứ 10

        Ông góa vợ gặp người đẹp
        Ốc nhồi cũng biết trả ơn.

        Tôn Kiệt nhìn thấy người đẹp mỗi ngày nấu cơm cho mình, kinh hãi quá chừng, kêu lên một tiếng : "úy !", khiến người đẹp ở trong nhà biết có người nhòm ngó, tức thì biến mất. Tôn Kiệt xuống thang, mở cửa vào nhà, thấy có nồi cơm đang nấu, nửa sống nửa chín.
        Thường ngày, số gạo trong nhà chỉ tích chứa đủ ăn chừng ba bốn ngày, hôm nay thùng gạo lại đầy ắp gạo trắng. Ngoài ra còn thấy có thêm các loại thịt gà, thịt cá ướp muối, để trong trạn. Tôn Kiệt đành nấu lại nồi cơm cho chín, làm thức ăn, ăn uống no nê.
        Nhân thức ăn có sẵn, tới nói với ông chủ, xin nghỉ hai ngày, có ý ở nhà, chờ đợi người đẹp tới. Nào ngờ người đẹp biết chàng không đi làm, chẳng tới nấu cơm tối giùm nữa. Biết chàng không đi làm, nàng sợ chàng không có tiền chi dụng, lén mang về cho chàng nhiều ngân lượng, đủ xài trong vài năm. Tôn Kiệt vừa mừng vừa kinh ngạc, nghĩ chuyện lấy số bạc đó mở một tiệm tạp hóa nho nhỏ, kiếm tiền sinh sống. Chủ ý định rồi, Tôn Kiệt tới nói với ông chủ, xin nghỉ hẳn. Ông chủ lấy làm lạ, hỏi lý do. Tôn Kiệt vốn người trung hậu, không biết giấu giếm, cứ đem tình thật kể lại. Chủ nhân là một ông lão ngoài sáu mươi, tính nết rất tốt, nghe vậy mới nói :
        - Người anh gặp có lẽ là một vị tiên nào đó. Nhất định trước đây anh đã làm một việc gì rất tốt, như cứu tính mạng cho cô ấy chẳng hạn, nên cô ta tới đền ơn anh.
        - Tiểu nhân quá nghèo khổ, làm gì đủ sức làm được việc tốt ?
        - Việc tốt không nhất thiết phải có tiền bạc mới làm được.
        Anh đã không nghe ra, tạm thời hãy bỏ qua, đừng để ý tới cô ấy nữa. Nhưng thần tiên trên trời, vị tất anh đã có cơ may gặp gỡ, hoặc giả đó là tinh của hoa cỏ, điểu thú, đã từng chịu ơn anh cứu cho nên tới báo đáp. Nếu quả như thế, anh hãy lấy cơm cháy giã nát, vê thành những viên nho nhỏ. Đợi khi cô ta tới, anh hãy đột ngột xuất hiện, giữ chặt lấy cô, nhét cơm cháy vào miệng, bắt nuốt đi. Như thế, cô ta sẽ không khác gì người sống (l), anh sẽ hỏi rõ nguyên nhân, cùng cô thành thân, tương lai sẽ tốt đẹp vô hạn.
        Tôn Kiệt lĩnh giáo, trở lại nhà, nghiêm chỉnh ngồi chờ một đêm, giả ngủ để đợi sáng. Lúc trời tang tảng sáng, bèn len lén tiến vào nhà bếp, quả thấy người đẹp đứng quay lưng ra ngoài, và đang thái rau. Tôn Kiệt làm theo lời ông chủ dặn bảo, đột ngột xông tới, giữ chặt lấy cô gái, đưa tay phải ra nhét cơm cháy vào miệng nàng, đợi nàng nuốt xong mới buông tay ra. Bỗng người đẹp mở miệng nói :
        - Lang quân hãy buông tay ra, thiếp đã nhận hương hỏa, không thể trốn đi được nữa. Để từ từ thiếp sẽ nói rõ cho lang quân biết !
        Tôn Kiệt biết nàng không nói gạt, buông cả hai tay. Người đẹp thẹn thùng, đưa tay áo lau miệng, nhìn Tôn Kiệt. Tôn Kiệt cũng nhận ra việc làm mới rồi là không tốt, chắp tay vái, miệng nở một nụ cười, nói :
        - Xin hỏi nương tử, trước nay đối với tiểu tử có mối quan hệ gì? Tiểu tử là một kẻ nghèo khổ, chưa hề làm được điều gì tốt cho nương tử, tại sao nàng lại thương tưởng như thế ? Tiểu tử thật tình chẳng yên lòng chút nào, mong nương tử nói rõ cho biết.
        Người đẹp mỉm cười, nói :
        - Thiếp có nỗi khổ tâm, không muốn để lang quân biết rõ sự tình của thiếp. Không ngờ có kẻ dài lưỡi, dạy cho chàng kế hiểm độc này. Điều mà chàng muốn biết, thiếp lại không dám bẩm báo e rằng một khi biết được chuyện của thiếp, chàng lại đem lòng ghét sợ, coi như rắn rết. Kết quả là thiếp muốn báo đáp ơn chàng lại không thể được.
        Tôn Kiệt nghe vậy, khảng khái nói :
        - Nương tử nói quá lời. Tiểu tử tuy chỉ là một anh chàng nghèo khổ nơi thôn xóm, nhưng cũng không đến nỗi quá nhát gan, thấy gì cũng sợ. Nương tử đối đãi tử tế thế này, ắt là tiểu tử đã có chút công lao với nàng, mà thật tình nhớ không ra. Người ta thường nói: "Không công lao mà hường lộc, ắt là tổn thọ", xin nương tử nghĩ lại, nói rõ cho tiểu tử biết, để được yên lòng.
        ---------------------
        (1) Những đều gọi là mê tính dị đoan, phản khoa học, người xưa nói cũng nhiều, sách vở chép không ít. Nhưng chuyện này, chúng tôi cũng chưa tùng nghe nói tới, chỉ dịch lại đúng theo sách Bát Tiên Đắc Đạo, mong độc giá thông cảm. N.D

        Người đẹp mỉm cười, nói :
        - Tôn quan nhân đúng là người trung hậu, thật thà. Chẳng giấu gì chàng, trong thâm tâm thiếp cũng thường muốn nói rõ cho chàng biết, nhưng lại sợ một khi chàng biết sự thật ắt không khỏi kinh hãi, khiến thiếp không toại nguyện ước muốn đền ơn. Sở dĩ thiếp phải che giấu, là để đợi chàng được thiếp phụng dưỡng vài năm, ắt biết thiếp không có ý hại chàng, lúc đó thiếp mới dám trần tình đầu đuôi. Nào ngờ chưa đầy một tháng, chàng đã phát hiện, bắt giữ thiếp, há chẳng phải tại duyên số đôi ta sao ?
        Người đẹp nói đến đó, bất giác đỏ mặt. Tôn Kiệt hân hoan mừng rỡ, rồi nghiêm sắc mặt, nói :
        - Nương tử không nên quá đắn đo như thế. Tiểu tử không đến nỗi quá nhát gan đâu. Giả sử nương tử đúng là yêu ma, quỉ quái, nhân thọ chút ơn nhỏ của tiểu tử, mà tới đáp đền, tiểu tử cũng không đến nỗi khiếp sợ, lăn ra mà chết. Tôn Kiệt ta há phải tượng đất người bù nhìn, mà không nhận rõ nương tử quyết không vì có ý hại ta mà tới đây ?
        Người đẹp cúi đầu suy nghĩ hồi lâu, mới ngửng đầu lên, cười bẽn lẽn, hỏi :
        - Lang quân coi em là ma, là quỉ, hay là sơn tinh, thủy quái ?
        Tôn Kiệt không cần suy nghĩ, nói ngay :
        Nương tử là người nhà trời, nếu không phải thần tiên chăng nữa, cũng vượt xa người phàm trần. Nếu nói tới yêu ma, quỉ quái, tất nhiên trên đời cũng có, nhưng chỉ sợ biến được ra người tài mạo như nương tử, cũng vị tất đã biến được ra người nhân ái như nàng :
        - Người đẹp nghe vậy, bất giác cười ròn :
        - Lang quản thật khéo nói ! Vậy mà người ta cứ bảo chàng không biết nói năng, thế mới kỳ !
        - Hoặc giả đó là điều người ta thường nói "Phúc đáp tâm linh!”(1)) chăng ?
        ----------------
        (1) Khi phúc đến, tự nhiên tâm tri sáng suốt.

        - Nói thực với lang quân, thiếp đúng là không phải loài người ! Mà người tiên lại cao quá, thiếp chẳng dám mạo nhận. Yêu quỉ thì quá hung ác, tiện thiếp chẳng dám dây vào với chúng. Lang quân thử nhớ lại coi, lúc tôn phu nhân còn sống, có từng cứu tính mạng cho con vật nào không ? Lúc tôn phu nhân lâm chung có nói câu than tiếc nào không ?
        Tôn Kiệt suy nghĩ một hồi, nói :
        - Tôi nhớ ra rồi ! Vợ tôi chỉ tiếc một điều là không sinh nở, lúc lâm chung nhắc tới chuyện đó. Vậy mà tôi không nghĩ tới !
        Người đẹp gật đầu nói :
        - Đúng là như thế. Vậy thiếp xin tỏ thật nỗi lòng. Thiếp để ý đã lâu, thấy vợ chồng chàng nhân ái, thịnh đức, làm ơn không mong người trả. Thiếp họ La, tên Viên, nhà ở bên bờ sông Hoài, thời nước lũ bị sóng lớn cuốn đi, tới nhà của chàng. Lúc nước rút đi rồi, thiếp mắc cạn, không rời khỏi nhà chàng được, đội ơn tôn phu nhân thương xót, nuôi dưỡng. Sau này, gặp lúc lệnh đường mắc bệnh, nói sảng, suýt nữa thiếp không bảo tồn được tính mạng. Lại may mắn nhờ ơn tôn phu nhân bày kế chu toàn cho, kiếm thứ thay thế, mới giữ được mạng sống nhỏ bé. Sau này lại được vợ chồng chàng đưa ra khỏi nhà, đem phóng sinh. Ơn đức đó quá lớn lao, không sao kể xiết. Không ngờ tôn phu nhân hiền đức như thế mà chẳng được sống lâu. Thiếp nghe tin, mới quyết tâm đền ơn. Nhân vì không phải loài người, lại thẹn thùng, không thể tự làm mai cho mình, nên trước hãy lo việc nội trợ cho chàng, đợi vài năm sau, được chàng tin yêu, sẽ tìm dịp trần tình. Dè đâu chưa được một tháng, đã được cùng chàng sum họp, há chẳng phải quá may mắn ư? Đã đến nước này, mong chàng đừng thấy dị loại mà ghét bỏ, cho thiếp được hầu hạ bên cạnh, thì hân hạnh cho thiếp. Thiếp tuy bất tài cũng không vì sinh hoạt để lụy đến chàng.
        Tôn Kiệt nghe hết chuyện, mới hiểu ra nàng là con ốc nhồi đã được phóng sinh. Lúc đầu không khỏi kinh ngạc, chừng nghe tiếng nàng nói dịu dàng, thấy dễ thương. Sau lại nhớ tới mấy ngày qua nàng đã ân cần phục dịch, đâm ra cảm mến, mới nói :
        - Nương tử là người nhà trời, hà tất phải nói giọng e dè như thế? Chuyện mấy ngày qua đều là do vô tâm mà ra. Nay nương tử đã có ý tốt tiểu tử hà tất còn phải nhiều lời ?
        La Viên cười, bảo :
        - Chúng ta đã hiểu nhau, còn khách sáo làm chi ? Nhưng có một việc, phải cần đến chàng giúp đỡ.
        - Đã là vợ chồng, hai người như một, có điều gì mà không thể đáp ứng ?
        - Chuyện thiếp nói đây cũng không nghiêm trọng gì. Chỉ vì thiếp tu hành quá nông cạn, nên dẫu cơ thể biến thành hình người, cũng chưa thể rời khỏi vỏ xác. Phải hai mươi năm sau, thụ hưởng hương khói khá nhiều, dần dần mới có thể vất bỏ vỏ xác, hóa thành hình người hoàn toàn. Đêm mai, vào giờ tí, chàng hãy tới bờ sông phía Tây, nhặt chiếc vỏ của thiếp mang về, bỏ vào trong một chum lớn, đổ nước sạch mà ngâm, mỗi tháng thay nước một lần. Lại nên đặt chum nước ở một chỗ bí mật, nhất định không được để cho người ngoài được biết. Việc này vô cùng khẩn yếu, chàng có đáp ứng được không ?
        - Việc đó quá dễ, có gì mà không làm nổi ?
        La Viên tươi cười, làm cho xong công việc dở dang, rồi mới ra đi.
        Tôn Kiệt sợ để lỡ việc, ngồi đợi cho tới giờ tí, mới vội vã ra bờ sông phía Tây tìm kiếm, quả nhiên tìm được con ốc nhồi lớn mà chàng và Lưu thị đem phóng sinh, vẫn còn ở chỗ bờ sông. Chàng mừng rỡ mang về nhà, theo như lời La Viên chỉ dẫn, bố trí xong xuôi mới đi ngủ.
        Lúc trời tảng sáng, nghe dưới bếp có tiếng người trò chuyện, Tôn Kiệt lấy làm lạ, ngồi dậy, xuống coi. Thì ra La Viên dẫn về hai cô nha hoàn nhỏ tuổi, và đang chỉ dẫn cho hai cô pha trà, làm cơm, nấu canh. Thấy Tôn Kiệt tới, La Viên ngỏ lời tạ ơn, và bảo hai cô nha hoàn tới trước mặt chàng cúi chào. Nàng nói :
        - Hai con bé này còn nhỏ tuổi, nhưng làm việc giỏi lắm.
        Từ đó, La Viên ở luôn trong nhà họ Tôn, cùng Tôn Kiệt thành vợ thành chồng. Nhà họ Tôn trước kia chẳng có món gì, dần dà khấm khá, đường y thực không phải lo nghĩ tới. Tôn Kiệt không phải đi làm mướn nữa, lại còn mở được một cửa hàng bán gạo ngoài chợ. Việc giao dịch hoàn toàn nghe lời La Viên, luôn luôn được thắng lợi. Chưa đầy hai năm, đã trở thành một nhà giầu có.
        Tôn Kiệt lại vốn tính nhân từ, thích bố thí cho người nghèo. Hễ Có ai gặp khó khăn, tới nhờ cậy, chàng giúp đỡ liền. Người ta gọi Tôn Kiệt là Tôn thiện nhân, gọi La Viên là "Quan âm sống “.
        Nhưng có một điều khiến hai vợ chồng chưa được hài lòng là lấy nhau đã hơn mười năm, La Viên vẫn chưa sinh nở lần nào. Tôn Kiệt thường chau mày, buông lời than thở :
        - Anh thường tự hỏi mình xưa nay chưa từng làm việc gì thất đức, tế nạn cứu nguy chẳng dám kể công, tại sao Trời Già không cho vợ chồng ta một mụn con, để nối dòng hương hỏa ? Hay là ta đã làm điều gì tổn âm đức, mà ta chưa biết chăng ?
        La Viên chỉ biết tìm lời an ủi, nói chàng tuổi chưa cao, tinh lực chưa suy, lại lập tâm làm việc thiện, ắt trời ban phúc, không đến nỗi tuyệt tự đâu.
        La Viên nói vậy để an ủi chồng, nhưng lời nàng quả thật không sai chút nào : làm lành thì trời thương, làm ác thì trời phạt. ông Trời đang dự tính, sẽ đợi một cơ hội, sai các tiên quan đem tới cho vợ chồng Tôn Kiệt một người con thật giỏi dang.

        #4
          bevanng 06.07.2008 20:13:41 (permalink)
          Hồi Thứ 11

          Giận lây sang người khác, giao long rửa hờn.
          Pháp sư thu thập yêu quái, hóa ra quỉ xấu xí.


          Nhắc lại Chuyện cũ, biển bức hưởng khói hương lễ bái của dân chúng Quán Khẩu được gần một ngàn năm, bỗng đâu lão giao xuất hiện, đập phá tan nát miếu thờ. Biển bức vốn người trung hậu, an phận, thấy thời hạn một ngàn năm cũng sắp hết, không gây chuyện chống đối làm chi, mới trở vế núi bái yết sư phụ là Văn Mỹ chân nhân, đem chuyện kể lại sơ lược. Chân nhân lặng yên suy nghĩ hồi lâu, mới cất tiếng thở dài :
          - Con xuất thân dị loại, lại thuộc loài động vật quá nhỏ bé, đạt được thành tựu như thế, là được lắm rồi ! Từ thủa khai thiên lập ra đến giờ, những động vật nhỏ mà tu đạo thành người, mai sau còn có tiền trình rộng lớn, e rằng ngoài con ra, vị tất đã có người thứ hai. Xét kỹ ra, ông Trời cũng không bạc đãi con đâu. Việc gì cũng vậy, không đủ phúc phận mà được hưởng, ắt gặp phải nhiều thế lực ngăn trở, ngoài ý muốn. Thất bại càng nặng, thành công càng lớn, mà sự thành công đó mới đáng quí trọng: Vì thế, con nên tiếp tục tu luyện thêm vài năm nữa, ắt thành tiên đạo. Chúng sinh trên đời này cứ đổ xô đi học làm tiên, có biết đâu rằng thành tiên đâu phải chuyện dễ ? Mà tiên với người, có khác nhau bao nhiêu ? Chỉ thấy tiên là đáng quí, nhắm mắt nhắm mũi để học làm tiên, mà chẳng có chút tài năng nào, thì thứ tiên như thế, chúng ta khổ công tu luyện để đạt tới làm chi ?
          Biển bức cúi đầu, nói :
          - Đệ từ đã hiểu. Đệ tử tuy xuất thân là dị loại, lại thuộc loài động vật nhỏ bé, nhưng từ khi được sư tôn thu nhận vào môn hạ, lại thụ hưởng một ngàn năm hương khói, tuy không dám nói có chút thành tựu, cũng đạt được một phần nhân tính. Từ nay đệ tử quyết chí tu luyện, chẳng dám tự cao tự đại, dù có gặp thất bại, gian khổ cỡ nào, cũng không từ bỏ việc tu hành.
          Chân nhân nghe vậy, tỏ ý hài lòng, nói :
          - Không dè con có nghị lực và quyết tâm đến thế. Quả là kẻ kiệt xuất trong loài vật, mai sau sẽ thành công rất lớn, không biết đâu mà lường ! Để giúp con trong việc tu luyện, ta sẽ viết một điệp văn gửi tới điện của Chuyển Luân vương dưới âm phủ, nhờ ngài đưa con đi chuyển kiếp làm người, chọn một nhà lương thiện cho con đầu thai. Con hãy xác định rõ mục đích tu hành, minh tâm kiến tính, đừng để lợi dục dụ dỗ, tài sắc mê hoặc, thấy điều nghĩa làm ngay, coi điều ác như kẻ thù, gặp điều thiện ra sức mà làm, tránh xa mọi điều tà. Cứ vậy mà làm, không bao giờ trễ biếng. Khi cơ hội tới, sẽ có người hóa độ cho con thoát khỏi mọi ràng buộc của cuộc đời Trong đám học trò, thầy chỉ trông mong ở một mình con là người có nhiều cơ may thành công.
          Biển bức nghe lời thầy dạy, cảm kích rơi nước mắt, nói :
          - Đệ tử đã lĩnh hội được rồi. Đệ tử chỉ biết tu đạo, thuận mệnh, không kể thành bại. Có sư tôn chỉ bảo rõ ràng như thế, lẽ nào đệ tử lại chẳng thành công ?
          Văn Mỹ chân nhân rất hài lòng, lập tức viết điệp văn, sai người đưa biển bức xuống âm ti. Lại thấy biển bức quì xuống, thưa rằng :
          - Đệ tử còn một lời, muốn hỏi sư tôn. Vừa rồi thầy nói : "Sau này, khi cơ hội tới, sẽ có người thoát độ cho đệ tử", chẳng lẽ sư tôn lại bỏ rơi đệ tử, không cứu vớt nữa ? Đệ tử đội ơn sư tôn chỉ bảo dẫn dắt. Ơn đức rộng như trời biển, lẽ nào đệ tử còn phải vái một sư phụ khác ? Đó là điều đệ tử còn đang phân vân !
          Chân nhân nghe học trò nói vậy, khẳng khái nói :
          - Thầy trò gặp nhau đều bởi duyên phận; duyên hết thì chia lìa, đó là lẽ thường. Vả lại quan hệ giữa thầy trò ta không phải tới đây là chấm dứt đâu. Chẳng qua người hóa độ cho con không phải là ta nữa, nhưng tài năng cũng không kém gì ta, lại là sư huynh đệ với ta.
          Biển bức nghe vậy, buồn vui lẫn lộn. Văn Mỹ chân nhân viết xong điệp văn, sai Hoàng cân lực sĩ đưa biển bức xuống Địa phủ. Đúng lúc đó, Diêm vương đang tra xét sổ sách, nói :
          - Hà Nam có một người họ Tôn tên Kiệt, tích đức đã lâu cứu người vô số, hiện tại chưa có con, có thể đưa biển bức tới đó đầu thai.
          Lập tức sai phán quan viết hồi văn, trả lời Văn Mỹ chân nhân, đồng thời cử người đưa biển bức đi đầu thai.
          Lúc đó, La Viên, vợ Tôn Kiệt, hoài thai được mười tháng, đêm nằm mộng thấy một ông quan, đưa tới một con phi cầm đen sì, nói với cô ta :
          Vợ chồng ngươi hành thiện đã nhiều năm, cảm động lòng trời, nay Diêm vương sai ta đưa một con tiên cầm tới làm con trai cho vợ chồng ngươi. Con vật này vốn thuộc dòng tiên, tiền trình rộng mở vô hạn. Các ngươi hãy khéo nuôi dưỡng nó, chớ xem thường !
          Nói rồi, buông tay thả phi cầm ra, nó liền chui vào bụng, La Viên giật mình tỉnh dậy, lập tức cảm thấy bụng đau dữ dội. Chừng nửa giờ sau, có tiếng "Oa oa". Thì ra là một cậu bé xinh xắn, mặt trắng môi đỏ, mày thanh mắt sáng. Vợ chồng mừng không biết để đâu cho hết. Chiếu theo giấc mộng, biết đứa bé không phải người tầm thường, lòng rất được an ủi. Lại thấy nó do thần tiên ban cho, mới đặt tên là Tiên Tứ.
          Tháng ngày thấm thoắt, chẳng bao lâu Tiên Tứ đã được mười tuổi. Vợ chồng Tôn Kiệt mời một ông thầy danh tiếng về dạy cho con. Tiên Tứ bẩm sinh thông minh, học một biết mười. Đến năm mười bốn tuổi, đã đọc thông kim cổ sử sách, hiểu nhiều điển tích. Tiếng đồn lan rộng, xa gần đều biết đứa con của Tôn Kiệt là do thần tiên ban cho, sinh ra đã có kỳ tài. Sớm có châu quan (1) họ Phong, nghe danh mới đánh tiếng, muốn nhận làm rể. Vợ chồng Tôn Kiệt thấy Tiên Tứ còn trẻ, không muốn cho đi xa, trước mặt châu quan đã mấy lần chối từ. Không dè châu quan nói chuyện với Tiên Tứ một hồi, biết cậu là người có học thức, muốn giúp đỡ, mới nói với Tôn Kiệt :
          - Lão tiên sinh vẫn coi công tử là một cậu bé hay sao ? Cậu ấy tuy còn ít tuổi, đã có học thức uyên thâm, những người thanh niên tầm thường không sánh nổi đâu. Hãy cho cậu ấy đi theo, giúp đỡ hạ quan, chuyên coi về án văn, ắt có thể tạo phúc cho địa phương, vì dân trừ hại. Đợi một, hai năm sau, hạ quan sẽ bảo cử cho cậu ấy vào triều làm quan, mới có thể thi triển hết kỳ tài của cậu.
          ------------------
          (1) châu quan : ông quan ở địa phương đó, không phải chức tri châu sau này. Châu : là một đơn vị hành chánh thời cổ, ngang ngang với huyện.

          Tôn Kiệt không nỡ chối từ, cùng vợ bàn bạc, cho Tiên Tứ đi theo châu quan.
          Từ đó, hễ có việc chính trị nào quan trọng ở địa phương, đều hỏi ý Tiên Tứ, sau đó mới cho thi hành. Tiên Tứ cảm ơn tri ngộ của châu quan, gặp việc gì cũng ra sức mà làm, chỗ đáng nói không ngại góp ý. Chưa đầy một năm, việc chính trị trong châu đổi mới, dân chúng cảm phục, ca ngợi. Châu quan rất hoan hỉ, lại theo lời hứa trước kia, bảo cử Tiên Tứ vào triều, nhận chức hạ đại phu. Bấy giờ Tiên Tứ chưa đầy hai mươi tuổi, nổi tiếng thiếu niên anh tuấn, trong triều ngoài dã đều xưng tụng. Nhiều quí nhân, đại quan có con gái, nhờ người làm mai, gọi gả. Tiên Tứ còn trẻ mà đã chín chắn, lại dự việc triều chính, thường lấy việc nước làm trọng, chưa bận tâm tới việc hôn nhân, nên vẫn tìm cớ chối từ những người mai mối, nói rằng còn phải đợi lệnh cha mẹ.
          Sau có một quan thượng đại phu là Bá Cao, quá ái mộ Tiên Tứ, quyết định đem cô thứ nữ hứa gả cho. Tiên Tứ lấy cớ đợi lệnh cha mẹ để chối từ, Bá Cao đích thân tới thăm vợ chồng Tôn Kiệt, bàn chuyện hôn nhân. Vợ chồng Tôn Kiệt từ lâu nghe biết hai vị tiểu thư đều có tài đức, tất nhiên tán thành. Đàng trai, đàng gái thỏa thuận với nhau, định ngày cưới vào tháng ba, năm sau.
          Nào ngờ, vào mùa đông năm đó, thứ nữ của Bá Cao, tên gọi Tuệ Nhi, nhân lúc ở vườn hoa đứng coi cho đám gia nhân bẻ cành mai, bỗng nhìn lên thấy ngoài bờ rào có một người đàn ông trẻ tuổi qua chỗ trống của hàng rào, nhìn soi mói vào bên trong. Tuệ Nhi trong lòng không ưa, định đứng dậy, trở vào nhà trong. Vừa bước vài bước, bỗng thấy trước mắt xuất hiện một luồng sáng xanh, chiếu lóa mắt, tức thì thần trí hôn mê, ngã lăn ra đất. May có mấy cô nha hoàn, bộc phụ thường đi theo hầu hạ, xúm vào đỡ cô dậy, cất tiếng hô hoán. Lúc đó Tuệ cô hầu như đã phát chứng điên, miệng la be be, đòi ra vườn hoa cho bằng được. Không hiểu cô kiếm đâu ra khí lực mạnh mẽ, ba, bốn người đàn bà nắm giữ cô lại cũng không nổi. Một cuộc náo loạn xảy ra, làm kinh động tới những người bên trong. Vừa hay Bá Cao tan chầu về, nghe được chuyện lạ, vội cùng phu nhân là Cổ thị, và trưởng nữ là Cúc cô, dẫn theo toàn thể đám gia nhân nam nữ, chạy ra vườn hoa.
          Họ thấy mấy cô hầu gái trì kéo Tuệ cô, Tuệ giận dữ, trừng mắt nhìn lại, ra sức phản kháng, khiến mấy cô hầu gái rã rời gân cất.
          Nhìn lại Tuệ cô : áo rách tả tơi, đầu bù tóc rối, chẳng thành hình dạng gì. Lại thêm hai mắt nhìn thẳng, miệng phun nước bọt phè phè kêu be be, nói nhảm nói nhí. Thấy cha mẹ, cô cũng không thẹn thùng, sợ hãi, vẫn tiếp tục giằng co để thoát ra ngoài vườn. Cổ thị nhìn tình cảnh đó, đau lòng quá, vội tiến lại, ôm lấy Tuệ cô, mà kêu khóc :
          - Con ơi, con làm sao vậy ? Con không thương mẹ nữa ư ?
          - Bá Cao biết con bị tà ma nhập, không thèm hỏi han lôi thôi, giang thẳng cánh tay tát cái bốp, hét to lên :
          Yêu ma nào, dám ở đây mà lộng hành ? Còn chưa nghe danh ta là Bá đại phu, đời đời trung lương, với người không có lỗi, với trời không ngỗ nghịch ? Thần tiên trên thượng giới còn không dám khinh thường ta, huống gì tiểu yêu ma, dám vô lễ như thế ? không mau cút đi, ắt ta thỉnh mệnh các vị đế quân của hai giới tiên, phàm, xử trị ngươi bằng nghiêm hình, hối thì đã muộn !
          Câu nói vừa dứt, quả nhiên Tuệ cô không còn hung hăng như trước nữa. Cô không nói gì, nhấc gót bước đi, mọi người vội theo sau. Cô tiến vào trong nhà, trở lại phòng ngủ của mình. Vẫn không nói gì, leo lên giường ngồi ngay ngẩn, tà khí lộ ra sắc mặt. Vợ chồng Bá Cao không biết làm sao, đành mời nhiều thầy thuốc danh tiếng về chẩn trị cho con gái. Người nói rằng tà nhập vào tim, e rằng sẽ mắc bệnh điên. Người nói là bệnh hen suyễn làm tắc van tim, hễ đờm khạc ra được ắt khỏi bệnh. Mỗi người nói một cách, chẳng biết tin ai, Bá Cao mới bảo mỗi thầy viết ra một phương thuốc. Các dược liệu sử dụng, có thứ giống nhau, có thứ khác nhau, nên chẳng biết thầy nào đúng, thầy nào sai, phương thuốc nào dùng được, phương thuốc nào không. Trong khi đó, Tuệ cô chỉ cười nhạt, trước sau chẳng nói tiếng nào.
          Cổ thị nêu ý kiến là khấn vái trời đất, đem tất cả các toa thuốc gom vào một chỗ, bảo Bá Cao thành tâm khấn nguyện, khấn xong nhặt đại một toa thuốc, kể như ý trời chỉ bảo. Bá Cao làm theo như thế, lựa được một toa thuốc, sai người đi cắt thuốc.
          Thuốc đem về sắc lên, đổ ra chén, đưa Tuệ cô uống. Tuệ cô cầm chén thuốc ngắm nghía, chợt cất tiếng cười vang. Rồi đột nhiên đổi sang giọng đàn ông, nói :
          - Các ngươi quả là một lũ mê muội. Mấy tay lang băm trên đời mà viết ra toa, e rằng ngàn, vạn thang thuốc cũng không chữa khỏi bệnh cho tiểu tỉ đâu ! Tiểu tỉ hoàn toàn khỏe mạnh, chẳng có bệnh tật gì cả. Nếu không tin, hãy mời một thầy thuốc hiểu mạch lý về đây bảo ông ta xem mạch thử coi. Ta bảo đảm rằng bắt mạch sẽ không thấy bệnh gì. Tức cười cho các ngươi mời về một lũ giá áo túi cơm.
          Nói rồi, cầm chén thuốc đổ vào trong cái chậu đặt dưới đất. Lạ lùng thay, chén thuốc nho nhỏ thôi, mà thuốc đổ vào đầy chậu, còn tràn ra ngoài, lại dựng đứng lên thành hình cái tháp. Mọi người kinh hãi quá chừng. Bá Cao phẫn uất nói :
          - Bá Cao ta tuy chẳng hơn ai, nhưng tự vấn lương tâm chưa làm điều gì ác, tại sao lũ tà ma này lại tới tìm ta gây chuyện ?
          Nói rồi, bất giác rơi nước mắt. Cổ thị khóc lóc bi ai. Tuệ cô lại cất tiếng đàn ông, nói giọng cười cợt :
          Hai vị lão nhân gia chẳng cần buồn giận. Thấy Bá đại phu vừa rồi nói giọng ngông cuồng, ta chẳng thèm đôi co với ông ấy làm chi. Nay thấy hai người đáng thương, ta nói thật cho mà biết. Ta vốn là Tây Hải long thần, vì nhất thời nóng nẩy, đã gây chuyện ở địa phương Quán Khẩu. Nơi đó có đồ đệ của Văn Mỹ chân nhân, vốn là một con dơi, đã vâng lệnh thầy, thụ hưởng hương khói lễ bái của người dân Quán Khẩu. Ta thấy nó cậy giao hảo với lão long ở Quán Khẩu, nhìn chân long ta bằng nửa con mắt, ta mới tức mình phá nát miếu thờ của nó. Nó không chịu nhịn, lôi kéo lão long tới, gây chuyện với ta, đem dìm ta xuống dưới đáy biển, không ngóc đầu lên nổi. Bị dìm dưới đáy biển, ta không thể đối địch với lão long. Cũng may có sư phụ của lão long là Phiếu Diểu chân nhân, vâng lệnh Lão Quân tổ sư, tìm tới Quán
          Khẩu, hội ý với thần Nhị Lang, giải quyết vụ án "lão long dời núi lấp biển", đem cải tạo chỗ trước kia là nước biển thành một giếng muối rất lớn. Bên cạnh giếng muối, lại thiết lập một hỏa sơn, giúp cho dân chúng có lửa để nấu muối mà dùng. Tình cờ làm sao, chân núi lửa lại đặt ngay chỗ ta bị dìm. Đợi chúng khởi công động thổ, rình lúc chúng sơ ý, ta thoát ra ngoài, trốn đi liền. Nghe nói con dơi kia hiện thác sinh làm con trai nhà họ Tôn, nay lại làm rể nhà ông bà, và làm quan tới chức hạ đại phu. Đây là lúc ta tìm nó để trả thù. Không ngờ đi qua vườn hoa nhà ông bà, tình cờ trông thấy lệnh ái (1), ta biết ngay đó là vợ chưa cưới của con trai nhà họ Tôn. Cô nương xinh đẹp như thế, lẽ nào kẻ thù của ta lại có phúc phận thụ hưởng ? ông bà nên biết điều, mau hủy cuộc hôn nhân này đi. Tên tiểu tử này là kẻ thù mà ta căm hận, ta nhất định phải đi tìm nó. Sớm muộn gì nó cũng chết về tay ta. Con gái ông bà mà gả về bên đó, sẽ thành quả phụ , chi bằng sớm lìa xa, lại hay hơn .
          ---------------------------
          (1) Lệnh ái : con gái người đối thoại (ái : yêu)

          Bá Cao nghe vậy, nổi giận, nói :
          Nói nhảm ! Người cùng con dơi chống đối nhau, ngươi phá hủy miếu thờ của nó, nó chớ hề hỏi tội ngươi mà ! Ngươi muốn nếm mùi đau khổ là do lỗi của lão long, có liên quan gì tới con dơi? Con gái ta lại dính líu gì vào chuyện này ? Ngươi thuộc dị loại, mà có thể biến hóa thành hình người, kể cũng có đạo thuật đấy ! Nhưng phải hiểu đạo lý chứ ? Ngươi hãy nghĩ lại coi, cái thứ sợ mạnh hiếp yếu như ngươi, có trả được thù, rửa được hận chăng nữa, có giữ nổi thể diện hay không ?
          Tuệ cô nghe vậy, liền nổi giận, hét lên :
          Giỏi cho lão già, ta có ý tốt khuyên nhủ, ông dám chê cười ta là sợ mạnh hiếp yếu hả ? Con dơi và ngay cả lão long, sớm muộn gì cũng bị ta tiêu diệt, trả thù. Nhưng thôi, không nhắc tới chuyện đó nữa. Còn con gái ông, đem gả cho tên tiểu tử nhà họ Tôn thật uổng phí, chi bằng gả cho thần long ta cho rồi. Luận về thân thế, nó chỉ là một quan chức nhỏ, còn ta là thần long oai quyền, luận về bản lãnh và đạo pháp, nó chỉ là thằng lỏi con chốn phàm trần, làm sao có thể so sánh với ta có pháp thân tu luyện một vạn năm? Luận về tương lai tốt đẹp, gả cho ta làm vợ, ta ắt hóa độ cho nàng thành tiên, ngay cả ông bà là bố vợ, mẹ vợ, cũng có nhiều điều ích lợi ? Nói gọn một câu, ta có thể tặng cho ông bà một viên kim đan trường sinh bất tử, có tốt không nào ? Còn tên tiểu tử kia, có tài năng gì ? Có chỗ nào là tốt đẹp ? Vợ chồng ông là những người hiểu biết, hãy bàn bạc với nhau, đừng để lầm lỡ chuyện chung thân của con gái mình !
          Bá Cao giận dữ nói :
          - Ngươi khoe khoang là thần long, nhưng thần long đâu có hành vi vô lễ, vô pháp như thế ? Đâu có cưỡng ép gái có chồng như ngươi? Ta thiết nghĩ ngươi nhất định là loài tôm cá, ba ba nào đó ở dưới biển, tu thành yêu pháp, tới đây để mê hoặc người đời, giết hại dân chúng. Ngươi có những hành vi vô thiên vô pháp như thế, e rằng trời không dung tha cho ngươi đâu ! Ta là người dương gian, không thể chế ngự nổi yêu pháp của ngươi, nhưng trên trời chẳng  thiếu thần nhân, không để cho ngươi nói sằng, làm bậy, độc hại lương dân đâu !
          Con yêu thấy Bá Cao nói trúng lai lịch của nó, thẹn quá hóa giận, đập phá đồ đạc, cầm ngang cây đao, coi bộ muốn làm dữ. Cả nhà họ Bá kinh hãi rụng rời, run lẩy bẩy. Cổ thị vội tiến lại năn nỉ, cầu xin, con yêu mới tạm tha.
          Phu nhân lo sợ, không biết chừng nào con yêu lại dở chứng, đành đi mời một vị pháp sư, họ Đinh, tên Đắc Toàn, về nhà bắt yêu.
          Đinh pháp sư cầm "Thất tinh bảo kiếm", khoác áo đạo bào vẽ hình bát quái, mặt mày trang nghiêm, có khí tượng của thần tiên. Ông lên đàn vẽ bùa, chỉ Đông vạch Tây, múa may một hồi, cầm lệnh bài đập ba cái, miệng niệm lâm râm, rồi hét to lên :
          - Thái thượng Lão Quân cấp cấp như luật lệnh !
          Câu nói vừa dứt, bỗng nhiên một luồng hắc khí nổi dậy, bay lên đài, đánh trúng vào pháp sư. Đinh pháp sư hoảng hồn, vất lệnh bài xuống sân, cầm bảo kiếm múa loạn lên, như phát cuồng.
          Dưới đàn, đám đông đứng coi đều cho rằng pháp sư đang ra sức đánh với yêu tinh, có ý kính phục ông là người đạo hạnh thâm hậu: Nào ngờ Đinh pháp sư múa kiếm một hồi, khí đen không tan đi mà còn bay thẳng vào mặt pháp sư, nhuộm khuôn mặt như quét một lớp sơn đen, xấu như ma. Người dưới đàn thấy vậy, cười rộ lên, ai cũng nói :
          - Đinh pháp sư biến thành người da đen rồi !
          Đinh pháp sư múa may loạn xạ, mồ hôi ra thánh thót, há miệng muốn nói, nói không thành tiếng. Ngay cả câu "Cấp cấp như luật lệnh !" cũng không thốt ra nổi. Lúc đó mọi người mới hiểu pháp sư không thu phục nổi con yêu, còn bị nó thu phục là khác.
          Bá Cao là người nhân đức, không nỡ nhìn cảnh đó, đành cùng Cổ phu nhân lên tiếng năn nỉ, cầu xin năm lần bảy lượt. Con yêu đang nhập vào người Tuệ cô, bức bách vợ chồng Bá Cao phải tôn xưng nó là "thượng tiên", hứa từ nay không dám làm điều gì đắc tội với nó, cũng không được mời một pháp sư nào khác về bắt yêu. Vợ chồng Bá Cao nhất nhất đáp ứng. Liền thấy Đinh pháp sư hô to lên:
          - Thượng tiên tha mạng ! Tiểu đạo đã biết tội !
          Nói vừa dứt lời, ngã lăn ra sàn. Bá Cao vội sai người lên đàn, khiêng ông ta xuống, đem đặt ở nhà sau cho ông nghỉ ngơi, lấy nước lạnh cho ông uống, dần dần tỉnh lại.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:39:55 bởi bevanng >
          #5
            bevanng 06.07.2008 20:41:30 (permalink)
            Hồi Thứ 12

            Văn Mỹ chân nhân hóa thân, đuối yêu nghiệt
            Tiên Tứ bị bắt, nhốt vào vườn ngự.

            Bá Cao thấy pháp sư không trị nổi yêu tinh, phiền muộn trong lòng. Lại sợ người ngoài biết được, đồn tới tai cha con Tôn Kiệt, mình còn gì là thể diện ? Đang lúc khó xử như thế, một hôm tan chầu về, qua một khu chợ đông đúc, thấy có một đám người vây quanh một đạo nhân, nói năng ồn ào. Bá Cao rúng động trong lòng, truyền ngừng xe, xuống đi bộ. Rẽ đám người vào xem, thì ra đạo nhân đang làm trò ảo thuật, đảo lộn bốn mùa. Ông ta lấy một hạt đào, đem trồng trong đất bùn, chỉ giây lát mọc lên một cây con, ra hoa kết trái, chĩu chịt những quả đào. Đạo nhân hái xuống, phân phát cho mọi người ăn. Ai nấy đều nói đào ngon ngọt khác thường. Bấy giờ đang độ chớm đông, tìm được đào chín là chuyện lạ lùng. ông lại lấy một bó cỏ đem trồng, biến ra một giỏ lan, hoa đẹp đưa hương u nhã. Lại lấy một cây cải đem trồng, nở ra một đóa mẫu đơn, tươi đẹp lạ thường. Tất cả đều là những hoa thật, quả thật. Bá Cao ngạc nhiên, há hốc mồm ra nhìn.
            Đạo nhân trổ phép thuật xong, trời đã ngả về chiều, mọi người tùy ý quăng tiền vào thưởng cho ông. Đạo nhân cười cười, vẫy tay một cái, những đồng tiền bay khỏi mặt đất, rơi vào tay ông. Đạo nhân lại nhìn mọi người, nói :
            - Cảm ơn thịnh tình của các vị, ban cho ta nhiều tiền. Nhưng người xuất gia đã sớm dứt bỏ trần duyên, tiền bạc này ta không biết dùng vào việc gì. Chi bằng ta thay mặt quí vị làm một việc tốt, đem phân phát cho những người nghèo khổ nhé !
            Nói rồi, đưa mắt nhìn ra xa, thấy có nhiều người quần áo rách dưới, thân hình ốm nhom ốm nhách, mới bảo :
            - Các vị đều là người nghèo khổ, hãy lại gần đây, bần đạo sẽ đem số tiền này, chia cho mỗi người một phần.
            Mọi người có ý đợi coi đạo nhân chia tiền như thế nào. Ngờ đâu ông ta nói xong, dợm bước bỏ đi. Ai nấy đều cười ông ta nói xạo. Đạo nhân lại cười, nói :
            - Các vị sờ chỗ thắt lưng xem thử thế nào ?
            Những người nghèo nghe vậy, ai nấy đều thọc tay vào chiếc túi nhỏ đeo chỗ thắt lưng, mò thử, quả nhiên rút ra được một số tiền.
            Bấy giờ mọi người mới hiểu đạo nhân chính là thần tiên giáng phàm. Trong đám đó, có Bá Cao là người lưu ý nhiều nhất. Thấy đạo nhân cất bước, ông vội vã theo sau. Lẽo đẽo đi theo chừng ba, bốn dặm đường, tới một chỗ vắng vẻ, thưa người qua lại. Đạo nhân đột nhiên quay đầu lại, mỉm cười bảo :
            - Quý nhân theo ta một quãng xa lắm rồi, không tiện nữa đâu. Hiện giờ, trời đã sắp tối, những người tùy tùng của ông vẫn đang đợi ở chỗ cũ, sao ông không mau quay về ?
            Bá Cao vội tiến lên thi lễ, nói :
            - Thượng tiên làm sao nhận biết đệ tử ? Thật tình đệ tử đang có một việc, chưa dám mở miệng khẩn cầu, nên mới lẽo đẽo đi theo, muốn đợi lúc biết rõ động phủ của thượng tiên, ngày khác sẽ thành tâm tới yết kiến. Chẳng ngờ thượng tiên lại phát hiện ra hành tung của đệ tử, đệ tử chẳng dám ẩn giấu nữa. Xin thượng tiên tạm dừng chân, cho đệ tử trần tình đầu đuôi câu chuyện.
            Đạo nhân cười, ngoắt tay, nói :
            - Ông chẳng cần giải thích, bần đạo biết hết rồi. Gần đây trong quí phủ có con yêu mới tới, ốp vào lệnh thiên kim (l), phải không ?
            Bá Cao kinh ngạc, vái một vái :
            - Thượng tiên quả là biết trước mọi chuyện. Dám hỏi thượng tiên, đệ tử xưa nay chưa từng làm điều gì ác, cũng không dám dối gạt trời đất, đắc tội với thần minh, tại sao lại gặp phải thứ yêu nghiệt này ? Con yêu đó là con gì ? Có cách nào trị được không ? Xin thượng tiên chỉ bảo rõ ràng.
            - Con yêu đó chẳng tự nói rõ với ông rồi sao ? Những điều nó tự cung khai đều đúng cả đấy, không có lời hư ngôn nào đâu, có điều là một vài chi tiết chưa đúng hẳn thôi. Đúng ra nó là một con giao tinh, mạo xưng thần long. Điều sai lầm thứ hai là Phiếu Diểu chân nhân vâng pháp chí của Lão Quân tổ sư, cùng Nhị Lang giải quyết vụ án "dời núi lấp biển", thì ông ấy thần thông quảng đại, sao có thể không biết chỗ lão giao bị đè nén ? Sao có thể để nó trốn thoát dễ dàng như thế ? Chẳng qua vì súc sinh đó chưa tới số chết, lại không đáng bị lão long trấn áp, nên Phiếu Diểu chân nhân mới thả nó đi. Sự tình là như vậy. Súc sinh nói mình thừa lúc sơ ý trốn đi, là nói khoác đấy thôi.
            -----------------
            (1) Lệnh thiên kim : cũng như lệnh ái (con gái ông). Thiên kim : ngàn vàng, qui giá (thiên kim tiều thư)

            Bá Cao nghe rõ sự thật, tỏ ý bội phục, tự động quì gối, khấu đầu nói :
            - Tiên sư quả đã thấy rõ mọi chuyện, cách xa cả vạn dặm ! Đệ tử bị yêu tinh quậy phá, thất điên bát đảo. Tiên sư đã hiểu tường tận như thế, xin vui lòng giúp đỡ đệ tử, trừ khử yêu quái, đệ tử cảm kích vô cùng. Xin tiên sư cho biết pháp hiệu là gì, động phủ ở đâu ?
            - Để lúc khác hãy nói. Ta với ông gặp nhau đây là có chút duyên, để ta tới nhà ông xem thử con yêu đó thế nào.
            Bá Cao mừng lắm, vội cúi đầu lạy lần cuối, hỏi thăm tên họ, cùng chỗ ở của người tiên. Đạo nhân nói :
            - Yêu tinh này có bản lĩnh lợi hại, chưa biết ta có thắng nổi nó hay không. Nếu không thắng nổi, càng thêm thẹn mặt, hà tất phải đem tên họ khai ra ?
            - Tiên sư quá khiêm tốn, đệ tử tuy ngu dốt, há không phân biệt nổi kẻ tà người chính, kẻ hay người dở ?
            Nhân thấy đạo nhân không chịu nói, Bá Cao đành bỏ qua. Đạo nhân xoay mình trở lại, cùng Bá Cao đi ngược về lối cũ. Lạ lùng thay, lúc trước Bá Cao đi theo đạo nhân, cảm nhận được là đi xa ba, bốn dặm, mất khá nhiều thời giờ, lần này trở về chỉ trong chớp mắt là tới chỗ cũ.
            Đạo nhân không cần nhờ người khác chỉ đường, bảo Bá Cao cứ lên xe về nhà trước, để ông thủng thẳng tới sau. Bá Cao về tới nhà, đã thấy đạo nhân có mặt trước cửa. Bá Cao kính cẩn mời đạo nhân vào thư phòng ngồi chơi, rồi vội vã đi tìm phu nhân, kể rõ mọi chuyện. Phu nhân hoảng hốt nói :
            - Lão gia nên cẩn thận, đừng để xảy ra chuyện Đinh pháp sư lần nữa, đắc tội với yêu tinh, nó quậy cho tan hoang cửa nhà.
            Bá Cao vội trấn an :
            - vị này đích thực là thần tiên trên trời, quyết không sai lầm được đâu
            Nói chưa dứt lời, đã thấy Tuệ cô đùng đùng bước vào, chỉ mặt vợ chồng Bá Cao, hét to :
            Giỏi, giỏi ! Hai ngươi lại muốn bắt yêu, mời về một ông pháp sư làm ồn ào, khiến ta chẳng khoan khoái trong lòng ! Ta thương các ngươi, đã tha tội cho một lần, còn dám vô lễ nữa sao ? Tay này có bản lãnh bằng Đinh pháp sư hay không ? Triệu thỉnh mất bao nhiêu tiền ? Các ngươi muốn thử thách bản lãnh của ta nữa hả ?
            Nói rồi, há miệng hà hơi, bỗng nhiên khói mù tỏa khắp căn phòng, đối diện không nhìn rõ mặt nhau. Vợ chồng Bá Cao chưa kịp trả lời, đã nghe tiếng nói :
            - Các ngươi cốt cách hèn hạ, chỉ đáng dìm dưới nước sâu, cho chết hết ráo !
            Bỗng nhiên giữa chỗ đất bằng, nước ở đâu dâng lên : một thước hai thước, ba thước (l), trong nháy mắt, nước đã ngập tới đầu gối. Trong nước còn có các loài cá, tôm thành tinh, những loài thủy tộc hung dữ, xấu xí, tranh nhau đớp chân người. Trong giây lát, bên trong và bên ngoài căn phòng có tiếng người kêu la ầm ĩ, chó gà cũng không yên. Vợ chồng Bá Cao ngồi đối mặt nhau trên giường, chờ chết.
            Đột nhiên, giữa thinh không có tiếng sấm nổ. Tiếng sấm vừa qua đi, bao nhiêu khói mù tiêu tan, trời lại sáng hơn trước. Vợ chồng Bá Cao mừng rỡ quá chừng :
            - Thượng tiên đã cứu chúng ta ! Cả nhà ta được toàn mạng rồi!
            Phu nhân nhìn lại, thấy một vị đạo nhân, tay cầm phất trần, đứng trên mặt nước, quần áo hoàn toàn khô ráo, không dính một giọt nước nào. Đạo nhân niệm lâm râm, đưa tay phất một cái, nước lập tức rút xuống, bao nhiêu yêu tinh xấu xí cũng biến mất tiêu.
            Đạo nhân tươi cười, nói với Bá Cao :
            - Yêu nhân đã trốn đi rồi, tiểu thư không bị quấy nhiễu nữa.
            Yêu nhân căm hận nhất là rể của ông, lần này ắt tới nhà họ Tôn để hành hung. Bần đạo không nán lại đây được, phải đi cứu viện một phen !
            ------------------------------------
            (1)    là Thước cổ chỉ chừng 20 cm. Cao như các ông Quan Công, Trương Phi cũng chỉ chừng 8, 9 thước.

            Vợ chồng Bá Cao vội quì gối lạy tạ. Bỗng một luồng kim quang hiện ra trước mắt, đạo nhân không thấy đâu nữa.
            Đạo nhân từ biệt Bá Cao, cưỡi mây tới thắng nhà Tôn Kiệt. Vừa tính hạ mây xuống, chợt nhận ra nơi đây không có yêu khí, biết rằng yêu tinh chưa tới, nghĩ thầm : "Ta mà xuống sớm, sao khỏi bị người ta nghi ngờ ?". Trầm ngâm một lúc, ngửng đầu nhìn ra xa, thấy chỗ chính Đông là một vườn hoa rộng, trong vườn dường như có một luồng hắc khí bốc lên, ông vội tiến thẳng về chỗ đó nhìn thấy một cô gái và một viên quan, đang ngồi nói chuyện với nhau trong một căn nhà, ở đầm Đông của vườn hoa. Nơi đó hoàn toàn vắng vẻ, không một bóng người. Đạo nhân chiếu tuệ nhãn, biết ngay cô gái đó là giao tinh, viên quan nọ là biển bức, chuyển kiếp thành Tôn Tiên Tứ. Nhưng ông cũng không rõ nơi đây là đâu ? Vì sao Tiên Tứ lại ở chỗ này ? Yêu nhân sao có thể biết Tiên Tứ ở đây, để nhanh chân tới gặp anh ấy trước ta ?
            Đạo nhân lắc mình một cái, biến thành con kiến càng nhỏ bé, rơi vào trong phòng, liền thấy Tôn Tiên Tứ có vẻ đang bị mê hoặc, bị yêu nhân ôm vào trong lòng, âu yếm mùi mẫn, nói :
            - Hảo ca ca, anh hãy theo em, cùng đi tu tiên, liễu đạo đi nhé! Nếu chậm trễ để mất dịp này, anh sẽ phải tới thượng môn, tìm em đấy!
            Tiên Tứ nghe lời quyến rũ, chẳng nói năng gì, chỉ ngây người ra mà cười bẽn lẽn. Con yêu ngửng đầu nhìn bốn phía, không thấy người sống nào, tính kẹp nách Tiên Tứ, cùng trốn ra cửa. Không dè người sống tuy không có, nhưng trên mặt đất có con kiến càng. Nó đột ngột nhảy lên, lại biến thành một đạo nhân, cất tiếng cười ha hả, đứng chặn cửa, không cho hai người đi :
            Khoan đi đã ! Khoan đi đã ! Muốn đi, chúng ta cùng đi chung. Bần đạo cũng muốn đi chung với hai vị cho vui.
            Con yêu vừa thấy đạo nhân, liền buông Tiên Tứ ra, lách mình qua cánh cửa, bỏ đi. Đạo nhân không đuổi theo, chỉ đứng ở khung cửa, nói lớn tiếng :
            Yêu giao nghe đây ! Ngươi là một linh vật có căn cơ, hãy khẩn thiết quay đầu về, mới hy vọng đạt được đại đạo. Nếu còn chấp mê không tỉnh, bần đạo ta tuy không khai sát giới, sau này cũng có người thu thập ngươi ! Đến chừng sét đánh lên đầu, hối thì đã muộn !
            Nói vừa dứt câu đã thấy con giao long cưỡi mây đen, hướng về phía Đông Hải bỏ trốn. Tôn Tiên Tứ ở lại, dường như đã hồi phục lại bản tính, ngơ ngác đứng trong phòng, hồi tường lại tình hình vừa xảy ra, như đang nằm mơ. Chợt thấy đạo nhân tiến vào, mới dập đầu vái tận đất, nói :
            - Vừa rồi, không biết đệ tử bị yêu nhân nào mê hoặc, đến nỗi không còn tự chủ, thần trí mơ màng. Chắc là tiên trưởng dư biết đệ tử gặp nạn, nên tới cứu cho. Xin tiên trường cho biết pháp danh, và giải cho rõ sự tình vừa rồi, đệ tử xiết bao cảm kích !
            Nghe khẩu khí của Tiên Tứ, đạo nhân nói :
            - Mới xa nhau không bao lâu, ngươi đã quên cả sư phụ, không nhận ra ta nữa sao ? Hồng trần làm mê mẩn đến thế, há không đáng buồn rầu, ta thán lắm ư ? Nói cho ngươi rõ, ta chính là Văn Mỹ chân nhân, sư phụ ngươi ở kiếp trước đây ! Ngươi là con dơi, nay được chuyển kiếp làm người. Ngươi có căn cơ vững chắc, khốn nỗi xuất thân quá thấp, nên tuy rằng sau này thành đạo, nhưng tùy lúc tùy nơi, có thể gặp phải nhiều điều ngáng trở, nguy nan. Con yêu nhân mà ngươi gặp hôm nay, chính là kẻ thù của ngươi ở kiếp trước. Con yêu đó không đáng chết dưới tay ta, vả lại tội ác của nó chưa chất đầy, nên ta thả cho nó đi. Nhưng e rằng sau này nó sẽ tiếp tục tìm cách chống đối ngươi, nên ngươi phải sớm xác định chủ ý, minh tâm kiến tính, mới không bị tình đời trói buộc, ngoại vật dẫn dụ. Sau này, nếu ngươi gặp phải chuyện nguy nan, ta sẽ phái người tới cứu ứng ngươi, ngươi bất tất phải quá lo sợ. Nói đã hết lời, ta cùng ngươi từ biệt.
            Tiên Tứ nghe lời dạy bảo, mới hiểu rõ chuyện kiếp trước, biết thầy thương nên tới cứu, điểm tỉnh cho mình khỏi lầm lạc, bất giác quì xuống, khấu đầu, khóc lóc :
            - Đệ tử đội ơn đức sư tôn, rộng lớn như trời biển, há dám không chuyên cần tu tập, để phụ lời giáo hóa của sư tôn ? Nay từ biệt cùng sư tôn, đệ tử sẽ về nhà giã biệt song thân, bỏ quan đi xa, tìm nơi hang thẳm núi cùng mà tu luyện. Rất mong sư tôn đem bước nhập môn thứ nhất, với những khẩu quyết tu trì, truyền dạy cho đệ tử, để đệ tử ngày một tinh tiến, không đến nỗi lầm đường lạc lối.
            Văn Mỹ chân nhân gật đầu, nói :
            - Con có mối tục duyên chưa vẹn, nhất thời đòi xuất gia ngay, e rằng vị tất đã giải quyết được. Khi cơ hội đến, tự nhiên sẽ có điều thúc bách khiến con không đi cũng không được. Hiện tại, chẳng cần nóng vội, cứ lập chí cho kiên định, dũng mãnh hướng thượng sẽ đạt tới chỗ thâm hậu đáng mừng. Nay ta dạy cho con đủ phép thuật và khẩu quyết, con cứ theo đó mà siêng năng tập luyện, chỉ ba năm nữa là có thể cường tráng gân sức, việc tu đạo hoàn toàn tốt đẹp.
            Chân nhân đem các khẩu quyết, phép thuật truyền hết cho Tiên Tứ, rồi nói to tiếng :
            - Sau này sẽ gặp lại, hãy nỗ lực hướng thượng !
            Rồi biến thành một đạo kim quang, nháy mắt biến mất. Tiên Tứ quì xuống bái vọng, cho tới lúc kim quang tan hẳn mới dám đứng dậy. Nhìn quanh, không nhận ra nơi đây là địa phương nào, sao quá vắng vẻ, không một bóng người. Căn phòng chàng đang đứng lại trần thiết quá hoa mỹ. Nhìn ra bên ngoài, thấy một vườn hoa rất rộng, cây cối mọc um tùm, thấp thoáng có bóng nhiều cung điện hùng vĩ, trang nghiêm, Tiên Tứ mới dần dần hiểu rõ sự tình. Thì ra yêu nhân đã nắm lấy chàng, lôi về ngự hoa viên, trong hoàng thành. Bấy giờ Ngu Thuấn đã già yếu, mệt mỏi, nhường ngôi cho Hạ Vũ. Hạ Vũ tuy cũng xuất thân từ dân gian, nhưng không còn ý coi “thiên hạ là của chung”, như Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.
            Làm quan mà vô cớ đặt chân vào vườn ngự là chuyện hiếm thấy, Điều tra ra, thì Tiên Tứ là quan hạ đại phu, làm sao có thể khai mình bị yêu nhân bắt giữ, đem nhốt vào vườn ngự ? Hỏi tới yêu nhân, cũng không tìm đâu ra tung tích. Tiên Tứ bối rối, suy nghĩ hồi lâu, biết không thể ở lâu chỗ này, chi bằng tìm đường nhỏ mà ra cho xong. Lỡ có người bắt gặp, ta nghĩ cách khác vậy. Quyết định rồi, chẳng dám nấn ná, cất bước đi liền.
            Không ngờ vườn hoa tuy không rộng lắm, cũng có chu vi mười dặm, mà Tiên Tứ không nhận rõ phương hướng, cũng chẳng biết đường ngang ngõ tắt. Đi đại hồi lâu, tới chỗ cây cối um tùm. Nhìn sắc trời đã tối, những người giữ vườn đã về chỗ trú ngụ của mình hết cả. Tiên Tứ càng thêm hoang mang, bước tràn. Đang lúc bối rối, chợt thấy phía trước có một cô gái, núp sau hòn núi giả, đưa tay vẫy, lên tiếng hỏi :
            - Tôn đại phu đi lạc đường phải không ?
            Tôn Tứ thấy cô gái biết rõ tên họ và quan chức của mình, tỏ vẻ ngạc nhiên, không biết cô là ai, tại sao ở trong vườn hoa này ?
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:41:24 bởi bevanng >
            #6
              bevanng 06.07.2008 21:22:47 (permalink)
              Hồi Thứ 13

              Thứ lòng dạ, thiếu niên lập chí
              Tròn hiếu đạo, Tam thư khéo giảng.


              Cô gái thấy Tiên Tứ rụt rà rụt rè, chẳng dám bước tới, liền cười một chập, tiến lại vài bước, nói :
              - Công tử khiếp nhược như thế, tưởng một cô gái yếu đuối như tôi có thể là hổ lang, yêu quái hay sao ?
              Tiên Tứ thấy cô kia dáng vẻ ôn nhu, hình dung xinh đẹp, chắc rằng cô không phải người xấu, nên cũng cười gượng gạo, nhờ cô chỉ đường ra khỏi vườn hoa. Cô gái nói :
              - Tôi cũng không phải người ở gần đây. Nhân vì ông nội tôi là ông lão cai quản vườn hoa, thường dẫn tôi vào đây ngắm hoa, nên tôi khá quen thuộc đường đi nước bước trong này. Thấy công tử cứ ngần ngừ chỗ ngã rẽ trên đường, lúng ta lúng túng, nên tôi biết công tử lạc đường, không ra khỏi đây. Trước kia tôi vốn là hàng xóm của công tử. Mỗi ngày công tử đi ra, đi vào, tôi đều nhìn thấy, nên tôi nhận biết công tử. Đã là chỗ quen biết, lẽ nào lại không chỉ dẫn một lời ? Dè đâu công tử không nhận ra tôi, còn nghi là người xấu, nuôi sẵn ác ý. Thật đáng tức cười !
              Tiên Tứ nghe cô kia nói vậy, mới nhận ra người quen, nói :
              - Thì ra cô là hàng xóm, láng giềng. Xin thứ lỗi cho tôi, con mắt hạn hẹp, nhìn mặt không nhận ra người quen, quả đáng cười, đáng thẹn ! Bây giờ xin cô nương chỉ đường dẫn lối, cho tôi sớm ra khỏi vườn hoa, trở về nhà, cảm kích vô cùng !
              - Anh cũng là người tốt, nghe biết là chỗ láng giềng lâu năm, sao không hề hỏi tôi họ Trương hay họ Lý ? Đúng là quý công tử, quan chức lớn, không thèm biết tới kẻ thấp hèn.
              Tiên Tứ nghe vậy, tự thẹn trong lòng, vội nở một nụ cười, nói :
              - Đúng là tôi có lỗi, đã không thỉnh giáo cao danh quí tính của cô nương. Tôi nhất thời nóng vội, không kịp hỏi tới, xin cô lượng thứ!
              Cô gái cười, gật đầu :
              - Thế mới hợp đạo lý. Tôi họ Hồ, không có danh hiệu gì. Người ta thường gọi tôi là "tam thư “ (cô ba), mỗi khi anh muốn gọi tới tôi, cứ kêu "tam thư” là được.
              Tiên Tứ lẩm nhẩm ba tiếng "Hồ tam thư” trong miệng, trong lòng nghi hoặc. Đã là gái khuê môn nhà lành, sao cô này không biết thẹn thùng, nói năng phóng túng như thế ? Cô gái này nhất định không phải người tử tế. Anh lại nghĩ tiếp :"Mặc kệ cô ấy, hiện giờ chỉ biết cầu xin cô chỉ đường, ra khỏi cửa vườn hoa này cho mau”. Đang suy nghĩ như vậy, đã thấy cô kia mỉm cười, nói :
              - Công tử nghĩ gì thế ? Tôi đã đoán ra ý công tử, nhất định nói tôi là thứ con gái bạ đâu nói đấy, cười cười cợt cợt, chẳng có vẻ gì là một tiểu thư cô nương con nhà quan, phải vậy không ? Nói thật với anh, tôi tất nhiên không phải tiểu thư con quan, nhưng cũng chính vì xuất thân không cao, tôi chỉ biết nói sự thật, không chuộng hư văn. Vì trước đây đã nhiều lần được thấy tôn nhan, nên hôm nay tình cờ gặp nhau, tôi nhận là chỗ quen biết, mới chỉ đường dẫn lối cho anh.
              - Tiên Tứ không biết đường đâu trả lời, chỉ luôn miệng "dạ dạ".
              Cô gái mới đưa anh đi một đoạn đường núi. Tiên Tứ đứng lại, tính ngỏ lời cáo từ, nói :
              - Nhờ nương tử chỉ dẫn, tiểu tử đã hiểu rõ , có thể tự tìm được lối ra, không dám phiền cô đưa đi xa hơn.
              Hồ Tam thư cất tiếng cười rộ :
              - Nhà quan các anh nói giọng kiểu cách, không quen với tôi. Chẳng qua tôi chỉ đưa anh đi vài bước, có gì mà phải khách sáo ? Nói thực cho anh biết : đường lối trong hoa viên này rất đỗi khúc khuỷu. Anh hãy nhìn thử trước mặt có hai ngã rẽ kia, đường nào cũng có thể thông ra bên ngoài. Nhưng đi chừng một đổi, mới thấy khó khăn, không tài nào phân biệt nổi, vì trên chỗ đường cong lại có đường cong khác, biết ngã rẽ này lại thấy ngã rẽ khác, loanh quanh một hồi lại trở về điểm xuất phát. Không có người dẫn đường, anh có đi nổi không ?
              Tiên Tứ nghe lời giải thích quá đúng, tỏ ý trù trừ. Lại thấy trời không còn sớm, cô nam quả nữ cùng ở chỗ vắng vẻ này mà trò chuyện, thật bất tiện. Vạn nhất bị người trong hoàng cung bắt gặp, chỉ tội cho cô gái mang tiếng oan khó giải thích.
              Nghĩ tới đó, Tiên Tứ cảm thấy việc này thập phần mạo hiểm, càng nghi càng sợ. Nhưng cô gái tỉnh như ruồi, cứ sải bước chân tiến về trước, thái độ mạnh mẽ như một nam nhi anh tuấn, không có vẻ gì là một cô gái khuê các, khiến Tiên Tứ đem lòng nể sợ cô, cứ cúi đầu, lẽo đẽo theo sau, chẳng dám nói chuyện nhiều với cô.
              Hồ Tam thư tuyệt nhiên không hiểu được nỗi khổ tâm của Tiên Tứ, đi một quãng lại quay đầu hỏi chuyện anh. Tiên Tứ không biết làm sao, đành bớt mồm bớt miệng, cớ hỏi mới nói, và cũng chỉ trả lời vắn tắt, không khinh suất nói thêm một lời.
              Cũng may, hai người ra khỏi cửa vườn hoa, và trên đường đi không từng gặp một người nào. Bấy giờ Tiên Tứ mới nhẹ nhõm trong lòng, thầm cảm kích cô gái. Vừa định mở miệng cảm tạ, dường như Hồ Tam thư đã biết trước ý định của anh, liền nói :
              - Này công tử, anh đã ra khỏi cửa vườn, tính lờ tịt người ta, không thèm mời tôi về nhà ngồi chơi, uống chén trà, ăn miếng bánh hay sao ? Việc đó có phí tổn chi nhiều, mà biểu lộ rõ cả nhà công tử đều biết lễ nghĩa, có đạo đức.
              Tiên Tứ không dè cô ta lại nói những lời như vậy. Thật lòng anh rất muốn mời cô đi cùng, nhân đó ngỏ lời cám ơn. Nhưng lần đi này phải qua một khu chợ đông đúc, người qua lại nhòm ngó nhất định phải nhiều. Một nam một nữ, kẻ trước người sau, cùng đi chung, còn ra thể thống gì ? Cũng may lần này cô gái lùi lũi đi phía trước, không quay đầu lại bắt chuyện với anh nên người đi đường chẳng ai nghi ngờ hai người đi chung với nhau. Tiên Tứ rất được yên lòng.
              Không bao lâu, hai người về tới nhà. Cha mẹ Tiên Tứ, thấy con trai đi suốt đêm không về , đang lo lắng quá chừng. Nay thấy cậu trai cưng trở về , dẫn theo một cô gái lạ mặt, vừa mừng vừa kinh ngạc. Tiên Tứ đem tình tiết việc trước kể lại sơ qua, lại chỉ Tam thư, nói :
              - May nhờ Tam thư giúp đỡ, con mới ra khỏi vườn hoa, không mắc phải tai họa gì lớn lao.
              Vợ chồng Tôn Kiệt biết được sự tình, vội mời Tam thư ở chơi, ngỏ lời cảm tạ. Tam thư cúi chào ông bà già, mọi người hân hoan, cởi mở tâm tình.
              Từ hôm đó trở đi, Tiên Tứ coi công danh phú quí nhạt như mây khói, chỉ mong sao sớm thoát kiếp hồng trần, sớm lên tiên cảnh, thỉnh thoảng có đem ý nghĩ đó thưa với cha mẹ. La Viên vốn có căn khí, lại biết Tiên Tứ là người của tiên ban cho, đương nhiên không thể ở lâu cõi trần, nghe con nói vậy cũng không phản đối lắm. Trái lại, Tôn Kiệt trước đây mong mỏi có một mụn con nối dõi, đã phải cầu Trời khấn Phật, lễ bái khắp nơi mới có được cậu trai cưng, lẽ tự nhiên chỉ mong con nối dòng thi thư, làm vinh hiển tổ tông.
              Lại thêm một nỗi, việc gia thất đã ước hẹn, mà chưa thành, đột nhiên cậu ta nảy sinh ý niệm xuất gia, chẳng hóa ra bao điều mong ước của hai ông bà già suốt hai mươi năm qua đành để trôi theo giòng nước ? Vì thế, chủ trương của hai cha con không thể dung hòa.
              Tiên Tứ lập chí kiên định, dẫu kính nể cha, cũng không để ông áp chế, mà thay đổi ước nguyện trong lòng. Tôn Kiệt cương quyết thề rằng, trừ phi mình chết đi, buông xuôi hai tay, không thể quản lý chuyện gia đình nữa, mới phải chịu, chứ quyết không để Tiên Tứ được tự do tự tại, có những hành động vượt khuôn phép như thế.
              Nhưng lúc này, việc căng thắng giữa hai cha con cũng chưa quan trọng bằng vấn đề hôn nhân của Tiên Tứ. Một bên quyết không lấy vợ, bên kia chỉ mong cho hôn sự chóng thành. La Viên phu nhân đứng giữa lại có chuyện khó khăn khác.
              Số là Hồ Tam thư từ khi cứu Tiên Tứ ra khỏi vườn hoa, đưa về tận nhà, cha mẹ anh rất hân hoan, mời cô những lúc rảnh rỗi, cứ lại nhà chơi. Tam thư nhận lời, thỉnh thoảng tới chơi nhà họ Tôn, cùng Tôn Tứ trò chuyện, thân mật khác thường. Tam thư có tướng mạo tốt lại thông minh. Bất cứ sự tình gì, không đợi Tiên Tứ phải mở miệng, cô đã thay anh giải quyết, lần nào cũng được ổn thỏa, lại không tránh tị hiềm, không ngại vất vả. Những chuyện có liên quan tới Tiên Tứ, cô đều nhúng tay vào, và làm việc gì cũng đều hoàn thiện.
              Tiên Tứ là người rất thành thật không hề giả dối, nên thật lòng cảm ơn cô, tự nhiên đối đãi tử tế với cô. Về phần vợ chồng Tôn Kiệt, mỗi người có một kiến giải khác nhau. Tôn Kiệt thấy Tiên Tứ không thích lấy vợ, lại chuyện trò vui vẻ với Tam thư, chắc là cậu ta không muốn cưới con gái ông Bá Cao, mà tính lấy Tam thư làm vợ, nên mới thác cớ muốn đi tu đấy thôi.
              Đối với gia đình Bá Cao, tuy không có điều gì để chê bai, nhưng muốn ngăn chặn ý xuất gia của con trai, sao không nhân điều bất hạnh này, tìm ra một điều đại hạnh ? Vì thế, ông không còn oán giận Tam thư vì tính buông tuồng mà còn có ý tác thành cho hai người. Ông thường khi lựa lời ướm hỏi cô, nhưng Tam thư không hiểu ý ông, tỏ vẻ dửng dưng. La Viên phu nhân thì cho con trai mình là tuồng hiếu sắc thám dâm, Hồ Tam thư là kẻ ham chuộng vinh hoa phú quý, có ý tự mai mối cho mình, nên tỏ ra rất khinh bỉ cô, thường nói năng lạnh nhạt, cười khẩy, mong cô tự biết thân phận mà rút lui.
              Tam thư lại làm mặt dầy mày dạn, không lý tới những lời dèm pha, chê cười, vẫn ngày ngày qua nhà chơi, cùng Tiên Tứ ngày càng quấn quít. Tiên Tứ đối với cô trước sau như một, luôn luôn lịch sự. Tôn Kiệt mừng lắm, cho rằng kế của mình rất hay. Một hôm, ông không nhịn được nữa, nhờ La Viên dẫn Tam thư ra chỗ vắng, hỏi cô có chịu làm dâu nhà họ Tôn hay không ? Tam thư nhận lời ngay. Tôn Kiệt mừng lắm.
              Tiên Tứ nhiều lần yêu cầu xuất gia, gần đây mỗi ngày thường đóng cửa phòng, tập công phu luyện khí gì đó. ông già chỉ được một trai, thực chẳng muốn anh vất bỏ phú quý hiện tại, để đi cầu tiên, hỏi đạo. Nhân thế ông nhờ Tam thư khuyên nhủ, chỉ dẫn anh. Ông thấy con trai mình đối với Tam thư tình ái sâu đậm, anh chỉ nghe lời cô thôi, mà Tam thư đã chịu nhận làm dâu nhà họ Tôn rồi, thật là việc quá tốt. Chỉ nhờ vậy mới có thể khiến Tiên Tứ hồi tâm chuyển ý. Đối với nhà họ Bá, ông già tự có phương pháp thương lượng để giải quyết việc thoái hôn, tương lai quyết  không để Tam thư phải rơi vào tình cảnh éo le. Tam thư nghe vậy đỏ mặt, rồi thung dung nói :
              - Thiếp ngưỡng mộ tài của công tử, lại nhờ công tử không ghét bỏ, dẫu phải làm thê thiếp cũng cam. Thiếp sẽ vì đại nhân khuyên nhủ, nhưng tiểu thư của Bá đại phu đã có đính hôn từ trước, sao có thể thoái hôn ? Đợi thiếp khuyên nhủ công tử, để chàng hồi tâm chuyển ý, sau đó làm lễ đón đâu cũng chưa muộn. Tôn Kiệt nghe vậy càng mừng, nhờ cô âm thầm để ý giúp cho.
              Ngày qua ngày, không thấy Tam thư có động tác gì, mà Tiên Tứ vẫn chiếu theo cách cũ, hàng ngày thực hiện bài tập luyện khí của mình, ông già thắc mắc trong lòng, muốn thúc giục Tam thư một lần, mà chưa biết mở lời thế nào. Một buổi tối, ông chắp tay ra sau lưng? bước đi lững thững ở chỗ hành lang cả giờ đồng hồ.
              Dưới ánh đèn, bỗng thấy Tam thư ở đâu chạy tới, lén khép vào phòng Tiên Tứ. Tôn Kiệt thấy Tam thư giữa canh khuya tới đây, chắc mẩm đêm nay hảo sự phải thành, lòng rất an ủi. Ông mới rón rén tiến lại gần, đứng chỗ cửa sổ phòng Tiên Tứ, nghe lén coi hành động ra sao. Đợi một hồi, chẳng thấy động tỉnh gì, mới thấm nước bọt trên giấy dán cửa sổ, đục một lỗ nhỏ nhòm vào.
              Tiên Tứ đang ngồi ngay ngắn trên tấm bồ đoàn, nhắm mắt luyện tập bài hít thở, Tam thư đứng một bên, chắp tay trước ngực, giữ yên lặng hoàn toàn. Hồi lâu, bài tập đã xong, Tiên Tứ mở mắt ra, thấy Tam thư bắt chước làm "đồng tử bái Quan âm", trông tức cười, mới từ tốn hỏi :
              - Tam thư tới đây làm gì ?
              Tam thư cười hì hì, hỏi lại :
              - Sao tôi không thể tới đây ?
              Tiên Tứ lắc đầu, nghiêm sắc mặt, nói :
              - Lúc nên tới hãy tới, lúc không nên tới đừng tới. Tam thư là người thông minh, biết phép tắc, lẽ nào việc nam nữ tị hiềm cô cũng không hiểu ?
              Tam thư nghe vậy, làm bộ mặt ôn nhu của con gái, đáp giọng thô thẻ :
              - Công tử sao lại hỏi câu ngốc nghếch thế ? Người ta sống trên đời, cần nhất là tìm khoái lạc. Ngày tháng thoi đưa, trăm năm qua đi trong chớp mắt. Lúc tuổi trẻ không biết hưởng thụ, già rồi còn hứng thú gì ? Chung qui một đời nát với cỏ cây, ai khen anh biết giữ phép tắc đâu nào ? Công tử đừng si mê nữa, nên biết lương tiêu một khắc ngàn vàng, hảo sự khó mà gặp được ? Tôi với anh bèo nước gặp nhau, mà thành giao hảo, không hề trái ý nhau, là có túc duyên từ kiếp trước. Chàng cứ khăng khăng như thế, há chẳng phụ tấm lòng tốt của thiếp lắm sao ?
              Tiên Tứ nghe vậy, không giận dữ, mà chỉ kinh ngạc, ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn, lắc đầu nhè nhẹ, nói :
              - Thịnh tình của Tam thư, ta đã lĩnh hội. Vì thịnh tình đó, ta chẳng dám làm hại tới tiếng trinh khiết của Tam thư. Mỗi người có chí hướng của mình, không thể cưỡng ép. Đêm hôm khuya khoắt, Tam thư không nên lưu lại ở đây. Vạn nhất người bên ngoài biết được, Tam thư còn gì là thể diện ?
              Tiên Tứ nói rồi cúi đầu, không nói thêm tiếng nào nữa.
              Tôn Kiệt ở bên ngoài cửa sổ, nóng lòng sốt ruột, hận không thể nhảy ngay vào phòng, mắng cho con trai mấy câu : "Việc này là do ta nhờ cô ấy can thiệp. Mày đám cải lệnh cha hả ?".
              Càng nghĩ càng tức, lại đứng ngoài cửa sổ nghe ngóng. Chỉ nghe Tam thư cất tiếng thở dài, đột nhiên thi thố bán lãnh riêng của phụ nữ, cất tiếng khóc lóc, lã chã nước mắt, nghẹn ngào thổn thức :
              - Tôi chẳng phải hạng người hạ tiện. Tôi đến đây hôm nay không hề có ý dâm bôn, mà là nhận lời ủy thác của người khác mà tới. Nhưng khoan đề cập tới chuyện đó, hãy hỏi công tử nói : "Mỗi người có chí hướng của mình", là nghĩa thế nào ?
              Tiên Tứ cười cười, nói :
              - Tam thư chẳng cần phải tranh cãi với tôi. Cô thông minh như thế, lẽ nào không hiểu, ngay cả với người nguyên phối chưa cưới, tôi còn không muốn cưới, huống gì là người khác ?
              Tam thư nghe vậy, bất giác cười ha hả :
              Thì ra công tử muốn nói chuyện cầu tiên, hỏi đạo chứ gì ?
              Thật đáng tức cười ! Khoan nói trên đời vị tất đã có thần tiên thật sự, cho dù quả có người đó, quả có việc đó, thì công tử bản chất yếu ớt sao có thể chịu nổi cảnh khổ tu tiên ? Nay bàn tới bản thân công tử, chàng còn có cha mẹ già, chỉ sinh được một trai, nuôi nấng, vỗ về, phí bao tâm huyết, chỉ mong chàng sớm cưới vợ sinh con, nối dõi tông đường, để ông bà có được nỗi vui ẵm cháu lúc tuổi già. Sao chàng không nghĩ tới tình nghĩa đó ? Nếu công tử quả thật muốn xuất gia, hãy đợi tới lúc hai vị lão nhân gia trăm tuổi, chôn cất êm xuôi, bản thân công tử có một hai đứa bé, nối dòng họ Tôn, bấy giờ mặc ý công tử ngao du bốn biển, thành thần thành tiên, tiêu diêu tự tại, chẳng ai nói gì. Còn như tình hình hiện tại, công tử có tâm sự riêng, lão nhân gia có tâm sự riêng, hoàn toàn đối nghịch. Tôi còn nghe nói : nếu công tử quyết định xuất gia, lão đại nhân cũng thề không sống nữa. Dám hỏi công tử, chàng có nhân tâm làm cái việc giết cha đó hay không ?
              Tiên Tứ nghe đến đó, biến đổi sắc mặt, có vẻ kinh hãi. Ngoài cửa sổ, Tôn Kiệt mừng rỡ vô cùng, lại nghe Tam thư nói :
              - Sao công tử không nói gì ? Tôi nói thấu triệt như thế, công tử còn không tin hay sao ?
              Tiên Tứ đã lấy lại sắc mật bình thường, ngước nhìn lên, cất tiếng cười vang :
              - Đó gọi là mỗi người có chí hướng riêng của mình !
              Tam thư nghe vậy ngạc nhiên, suy nghĩ một hồi mới nói :
              - Công tử nói vậy tỏ ra không chút hồi tâm chuyển ý. Này công tử, chàng là người có căn cơ rất lớn, vậy có biết Hồ Tam thư này là người có đạo hạnh, đáng mặt làm sư phụ anh hay không ? Hà hà ! Trước mặt có thần tiên không vái, lại đòi lên núi, vào rừng, bỏ rơi cha mẹ, cầu một thần tiên chưa chắc đã tìm được, còn gì ngu muội hơn nữa chứ ?
              Tiên Tứ nghe vậy, bỗng kinh hãi, ngửng nhìn lên, nhìn chăm chú vào mắt Tam thư. Tam thư cười, nói :
              - Tôi thấy công tử nhất định không tin tôi có chút đạo hạnh. Nhưng thôi, công tử có thể nghĩ cách thí nghiệm, sau đó mới hiểu rõ, biết tôi là thần tiên chân chính, có thể vái tôi làm thầy, nhất thiết phải nghe lời tôi chỉ dẫn, được không ?
              Tiên Tứ nghiêm sắc mặt, nói :
              - Tam thư đừng nói giỡn chơi. Nếu nói Tam thư là người tiên đích thực, thì người tiên phải có danh sơn, động phủ, phải làm được nhiều điều, có thời giờ đâu mà quấn quít bên tôi ?
              - Anh đúng là chàng ngốc trong đám người thông minh ! Nói thực cho anh biết. Tôi chính là người vì tiền trình của anh mà lại đây ! Thông thường, người ta muốn thành tiên, giữ được tấm thân đồng tử là rất quí, nhưng cũng có người lấy vợ, sinh con, vẫn chẳng hại gì cho việc tu đạo. Đến như hạng người chỉ biết có bản thân, quên cả ơn nặng của cha mẹ, kẻ bất hiếu như thế, là thần tiên chúa ghét. Dù cho giữ thân đồng tử mười kiếp, tu hành cả ngàn năm, cũng chẳng đi đến đâu. Công tử hiểu rõ đạo lý, đọc sách rất nhiều, thử nói coi : từ xưa tới nay có thần tiên nào bất hiếu với cha mẹ hay không ?
              Tôn Kiệt ở ngoài cửa sổ, đứng đã tê chân, nghe được câu đó, bất giác cảm thấy vô cùng thống khoái, quên hết cả đau chân, lại dán mắt vào cửa sổ để nhìn trộm, chợt thấy Tiên Tứ mở to hai mắt, nhìn thẳng vào Tam thư, đánh giá hồi lâu, bỗng lại nhắm chịt hai mắt , không nói một tiếng. Tam thư thấy anh chàng quá kiên quyết, gật gù vài cái, đột nhiên nổi giận, tiến lên trước mặt, nắm cổ Tiên Tứ, nhấc bổng lên khỏi bồ đoàn, như thể diều hâu quắp gà con. Tiên Tứ xuội lơ, chút sức phản kháng cũng không có.
              Anh ta không dè cô Hồ Tam thư thường ngày nhu mì sao bỗng trở nên một nữ anh hùng, vũ dũng như thế, nên rất kinh hãi, kêu lên :
              - Tam thư chẳng cần động chân, động tay. Tôn Tiên Tứ ta quyết không phải hạng người để kẻ khác dẫn dụ, uy hiếp mà đổi tiết. Muốn giết cứ giết, ta quyết không oán hận.
              Tam thư nghe vậy, há miệng thở phì, phun ra một thanh kiếm nhỏ, vừa ra gió liền dài ra gấp mười lần, chiếu hàn quang lấp lánh, khiến người ta rét run. Tam thư cầm chuôi kiếm, hướng mũi nhọn về phía Tiên Tứ, nói :
              Nói mềm mỏng không xong, đành phải nặng tay. Hạn cho ngươi một khắc đồng hồ, phải trả lời ta. Nếu ngươi thích thú, lập tức thành hôn với ta, ta sẽ đem tiên pháp bình sinh tập luyện, truyền thụ cho ngươi, cả hai có thể thành tiên. Nếu không, mũi kiếm này không nhận biết ngươi là công tử quý nhân đâu !
              Tiên Tứ bấy giờ mới hiểu Tam thư là một kiếm khách. Nhưng đã là kiếm khách, sao có thể hèn hạ như thế ? Lòng chàng sinh tính quật cường, không thể chịu ép một bề. Ngoài cửa sổ, Tôn Kiệt hoảng hồn, muốn tông cửa xông vào, lên tiếng hòa giải giùm con. Sau thấy Tam thư ra hạn một khắc đồng hồ, ông muốn coi Tiên Tứ trả lời ra sao. Vả lại Tam thư rất yêu thương Tiên Tứ, quyết không khinh suất lấy mạng anh chàng, chỉ dọa dẫm thế thôi. Lại nghe Tiên Tứ khảng khái nói :
              Thì ra Tam thư là kiếm tiên, đệ tử cam thất kính ! Nhưng đệ tử đã nhận lời giáo huấn, từng thề trước mặt sư tôn là kiếp này quyết không gần nữ sắc. Nếu cãi lời thầy, ắt chết vì kiếm quang của sư tôn. Bảo kiếm của Tam thư dẫu lợi hại, e rằng không sánh kịp kiếm quang của sư tôn. Từ nơi xa vạn dặm, kiếm quang vụt tới, khoảnh khắc chết ngay. Vả lại, đệ tử có chết dưới tay sư tôn, vẫn giữ được tấm thân đáng quý này. Rất có thể lão nhân gia niệm tình tôi kiên tâm khổ chí, mà tìm cách siêu độ cho tôi không chừng. Còn bây giờ, Tam thư muốn giết, tôi xin chịu vậy, quyết không dám oán thán.
              Tam thư thấy Tiên Tứ kiên quyết như thế, đổi giận làm vui, lùi lại ba bước, thu kiếm vào miệng, mỉm cười, nói :
              - Công tử quả là kỳ nhân. Chẳng dám giấu gì anh, vừa rồi thử thách đạo tâm của anh đó. Anh còn trẻ tuổi, đạo lực nông cạn, mà can đảm có thừa, tiến trình rộng mở, không biết đâu mà lường. Tôi cam thất kính.
              Tiên Tứ chợt hiểu ra, mỉm cười bái tạ :
              - Tam thư quả là thượng tiên, đệ tử vừa rồi không biết, nói năng bừa bãi, mong Tam thư tha thứ.
              Tam thư cười, nói :
              Tuy nói vậy, anh cùng Bá tiểu thư có mối lương duyên do Trời định sẵn, tránh cũng không được đâu. Nếu anh tin lời tôi, mối tục duyên đó đem lại nhiều tết đẹp đấy.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:43:06 bởi bevanng >
              #7
                bevanng 07.07.2008 16:50:31 (permalink)
                Hồi Thứ 14

                Vợ chồng cùng tu đạo
                Cốt nhục sinh dị tâm.


                Nhờ Tam thư khuyên nhủ, Tiên Tứ đã có phần đổi ý, không còn chống đối việc cưới vợ nữa. Vợ chồng Tôn Kiệt rất cảm kích, kính trọng Tam thư. Tôn Kiệt xưa nay lấy việc nối dõi làm lo, không đành lòng để con xuất gia, nay thấy chàng biết tuân lời nghiêm huấn, chịu ở lại nhà, mừng vui không biết đâu mà tả.
                Ngờ đâu lão bạng sinh châu (1), La Viên phu nhân bỗng lại mang thai. Trước khi lâm bồn, bà nằm mơ thấy một con gì, trông giống rồng mà không phải rồng, giống giao mà không phải giao, chui vào bụng, nhân đó mà sinh được một cậu con trai. ông bà mừng rỡ, chẳng cần phải nói. Mừng hơn nữa, có lẽ là người lập chí xuất gia Tiên Tứ, thấy có người thay mình nối dõi tổ tông, nếu mình có tu tiên tìm đạo, cũng không đến nỗi lỗi bề hiếu đạo. Vì thế chàng rất yêu quí cậu em trai mới sinh. Lúc tối, Tam thư tới chơi, Tiên Tứ báo tin mừng vừa có em trai, tỏ ý hân hoan. Tam thư cười tủm, nói :
                - Đây tất nhiên là tin mừng, nhưng anh cũng chớ vội hân hoan. Đã chắc cậu em trai này biết hòa thuận, hiếu hữu với anh chưa ?
                - Tam thư nói giỡn hay sao ? Em trai tôi nhất định là người hoàn hảo.
                Tam thư chỉ cười, không đáp.
                Một năm sau, Tiên Tứ làm lễ đón Bá tiểu thư về nhà. Đêm động phòng hoa chúc, đôi vợ chồng trẻ ngồi ngay ngắn, nói chuyện với nhau suốt đêm. Sau đó, hai bên tương kính tương ái, mà tình thân mật không nồng nàn như giữa chồng với vợ, chỉ thương yêu như giữa anh trai, em gái. Nói chung, hai người không hề có một cử động nào gọi là quá thân mật. Vợ chồng Tôn Kiệt không tránh khỏi lưu ý. Sau cái đêm, Tam thư hiển lộ kỳ tích, La Viên biết cô không phải người thường, mới nhờ cô để ý khuyên nhủ Tiên Tứ, sao cho cặp vợ chồng trẻ đẹp tình cá nước, mà ông bà già cũng có niềm vui ẩm cháu. Tam thư cười, nói :
                - Trước đây, ông bà chi mong sao đại công tử đừng đòi xuất gia, nay đã có nhị công tử, sao còn muốn ép đại công tử phái sớm sinh quí tử ?
                ------------------------
                (1) Trai già sinh ngọc châu, ám chỉ người già lại sinh con.  
                ông bà già đều cười, nói :
                - Thằng con thứ còn quá nhỏ tuổi, biết bao giờ mới thành gia thất ? Trước mắt có cặp vợ chồng trẻ , sao không trông mong sớm có ngày đơm bông kết trái ?
                - Đó là chuyện riêng của hai người ở chốn phòng the, người ngoài sao dám nói ra nói vào ? Nhưng đã nhận trọng trách giao phó, tôi cũng đành mang tiếng dài lưỡi, xía vô vài câu xem sao. Nếu đại công tử chịu nghe lời thì tốt quá, bằng không hai vị lão nhân gia cũng đừng trách cứ tôi nhé .
                Tam thư nói rồi, cười mà bỏ đi. Tới chỗ đại sảnh, vừa may gặp Tìên Tứ đi tới. Thấy Tam thư, anh ngăn lại, mời về phòng mình ngồi chơi. Không thấy Bá tiểu thư ở đó, Tam thư mới hỏi :
                - Vị tân nhưng nhưng (1) của anh đâu rồi ?
                - Chắc là đi đâu đó. Tam thư không bắt gặp hay sao ?
                Tam thư cười, nói :
                - Tôi tới đây cũng vì có người nhờ cậy, bảo tôi tới thăm vợ chồng anh.
                Nhân đấy, nói rõ việc La Viên phu nhân ủy thác, và cười, nói tiếp:
                - Làm người thế gian, hãy sinh hoạt sao cho trọn vẹn, hà tất phải đòi rời xa quê hương, chịu bao vất vả, khổ sở, để cầu vị thần tiên chưa chắc đã tìm được. Huống chi cô vợ mới cưới của anh đang độ thanh xuân, lẽ nào anh nhẫn tâm bắt cô phải theo anh, sống một cuộc sống đơn độc, thê lương ?
                ---------------------
                (1) Nhưng nhưng : cũng gần nhu chử "nương nương" hoặc "đại nương", là danh hiệu tôn xưng một người đàn bà có địa vị.

                Tiên Tứ cười rộ lên :
                - Tam thư lại tới thăm dò tôi rồi ! Vì chuyện cưới vợ, lần trước Tam thư đã phải mất công khuyên nhủ, lần này vì chuyện riêng giữa vợ chồng tôi, Tam thư lại phải vất vả. Nhưng mỗi người một chí hướng, dễ gì ai đã ép buộc được ai ? Bá tiểu thư thật tình không phải người phàm tục, không hề tham luyến tình dục. Hiện tại chúng tôi là vợ chồng, trong tương lai sẽ là đạo hữu.
                Tam thư nghe vậy ngạc nhiên, nói :
                - Thật tình tôi không thể nghĩ nổi tới điều này.
                Tiên Tứ gật đầu, nói :
                - Bá tiểu thư thật tình là người có căn cơ rất lớn. Trong đêm tân hôn, nghe đệ tử tỏ lộ tâm tình, nàng lập tức thấu triệt ngay. Gần đây, mỗi tối nàng đều theo tôi tập luyện, dụng công không mệt mỏi. Xin Tam thư thay tôi làm thuyết khách trước mặt cha mẹ tôi.
                Tuy nhiên, Tiên Tứ cũng nghe lời Tam thư, ra ngoài làm quan như cũ, về nhà yêu thương vợ, nựng nịu em trai nhỏ bé, hưởng mọi thú vui của một gia đình hạnh phúc. Ai ngờ cậu em trai, tên Giao Nhi, tính tình khác hẳn với Tiên Tứ.
                Thời gian thấm thoắt, Giao Nhi đã được mười hai tuổi. Cậu ta thông minh cũng lạ, mà tính nết giảo hoạt cũng kỳ. Cậu đã biết ở trước mặt cha mẹ bàn ra tán vào, nói anh trai và chị dâu chẳng có chút khí tượng của người sang trọng. Nhưng cậu ta lại khéo che giấu : mỗi lời nói, mỗi hành động đều lộ vẻ thành khẩn khác thường. Vì thế, nhiều người cho cậu ta là người trung hậu, khen cậu thông minh, biết phân biệt rõ phải trái. Rõ ràng anh trai và chị dâu đối xử với cậu rất mực nhân ái, nhưng cậu lại tìm đủ cách để chống đối.
                Bấy giờ, Hồ Tam thư không còn năng lui tới nhà họ Tôn nữa; nhưng mỗi năm chừng dăm ba lần, Tam thư cũng tới chơi, để truyền thụ khẩu quyết cho vợ chồng Tiên Tứ, khảo nghiệm xem hai người tiến triển ra sao. Tiên Tứ là người quân tử trung thành,  hiếu hửu, Bá tiểu thư là cô gái khoan nhân, hiền thục, rõ ràng bị em trai lấn át, nói xấu trước mặt cha mẹ, hai người vẫn một mực nhường nhịn, không nói nặng một lời. Thét rồi, cậu em ngày càng lấn lướt mà cha mẹ cũng ra chiều con yêu con ghét, hai người vẫn không đám có một lời oán thán. Họ chỉ lấy làm lạ, tại sao Văn Mỹ sư tôn đã từng nói là sẽ tùy thời, tùy hoàn cảnh phái người tới giúp đỡ chỉ điểm việc tu trì đạo hạnh, tới bây giờ vẫn không thấy tin tức gì ? Tiên Tứ đã mấy lần hỏi Tam thư, cô đều nói :
                - Ngươi tiên quyết không nói dối đâu, anh cứ kiên nhẫn, bình thản mà đợi.
                Một hôm, nhân ngày sinh nhật La Viên, Tiên Tứ đã biết xuất thân của mẹ, đặc biệt mua nhiều con ốc, đem phóng sinh. Không ngờ Giao Nhi thấy được, cũng mua một mớ ốc, sai người luộc chín, đem tới chỗ La Viên, nói :
                - Đại ca nhân ngày sinh nhật của mẫu thân, cố ý làm món ốc luộc mời mẹ xơi, để mừng thọ.
                Câu nói vừa thốt ra, phạm ngay tâm bệnh của La Viên, bà tức giận, nghẹn ngào, không nói ra lời. Giao Nhi sợ mẹ thấy mặt Tiên Tứ khó tránh khỏi buông lời mắng mỏ nặng nề, sự thật sẽ lộ ra hết, vội nói :
                - Mẹ bớt giận, hài nhi nghe nói đại tẩu còn đang bày một kế độc khiến mẹ xấu hổ, không thể nhìn mặt người khác. Hiện giờ con đang điều tra xem chị ấy xếp đặt như thế nào. Chừng nào lần ra đầu mối, tra xét rõ ràng, có đủ chứng cứ, mới có thể hỏi tội ngỗ nghịch của chị ấy, khiến chị ấy phải cúi đầu nhận tội.
                Vợ chồng La Viên đã lâu mắc vào kế ly gián của Giao Nhi, lúc này lại thâm hận vợ chồng Tiên Tứ, thấy Giao Nhi nói vậy, câu nào cũng cho là đúng, nghe cậu ta trình bày phương cách điều tra, tự nhiên chấp nhận liền. Thương thay cho vợ chồng Tiên Tứ, có nằm mơ cũng không nghĩ ra chuyện cha mẹ đem lòng nghi kỵ. Vả lại Giao Nhi dụng tâm rất hiểm, một mặt ra sức bênh vực cho anh chị, mặt khác thỉnh thoảng xúc xiểm vài câu, khiến cha mẹ không phát hiện ra âm mưu của cậu ta, mà vợ chồng Tiên Tứ cũng không có cơ hội nào để biện minh.
                Giao Nhi tuy còn ít tuổi đã ra ngoài kết giao với nhiều thuật sĩ từ nơi khác tới, học được một số phép thuật tà ma. Bấy giờ, gặp lúc ông Bá Cao mắc bệnh, vợ chồng Tiên Tứ phải dắt nhau về thăm, ở lại ba ngày. Bệnh ông Bá Cao lâm nguy, hai vợ chồng phải ở lại thêm vài ngày nữa. Giao Nhi lợi đụng cơ hội này, chế ra một số đồ vật để yểm bùa, viết lên đó ngày sinh tháng đẻ của cha mẹ, và đâm kim bạc vào các yểm vật, lén mở cửa phòng chị dâu, nhét những vật đó xuống dưới chiếu nằm, gầm giường, hoặc ở các chỗ ô uế. Các tà pháp làm xong, Tôn Kiệt, La Viên thấy đau nhói ở tim, bụng trương phình, miệng ói ra máu tươi. Giao Nhi mới lên tiếng :
                - Đây hẳn có người dùng tà thuật ám hại cha mẹ .
                Tôn Kiệt lúc đầu không tin, mời một đạo nhân về xem, ông ta cũng nói là trúng phải phép tà. Tôn Kiệt tức giận, nói :
                - Vợ chồng ta cả đời làm việc thiện, chưa hề biết đối xử khắc bạc với ai, kẻ nào dám hạ độc như thế ?
                Giao Nhi giả bộ nghi ngờ :
                - Đúng vậy. Nhà ta toàn những người trung hậu, lương thiện, làm gì có kẻ thù chống đối ? Chỉ có anh trai, chị dâu, vì cha mẹ đôi khi tỏ ra không hài lòng, nên anh chị thường có lời oán thán, nhưng cũng không đến nỗi hạ độc thủ thế đâu ! Nhưng dùng tới cách yểm bùa, nhất định phải biết được ngày sinh tháng đẻ . Điều này người ngoài làm sao biết được ? Ngay cả những người làm công trong gia đình vị tất đã biết rõ !
                Câu nói đó đã đánh động La Viên. Đàn bà là hay tin những điều dị đoan như thế. Nhân vợ chồng Tiên Tứ không có nhà, bà mới dẫn theo Giao Nhi, đi lục soát phòng của hai người. Quả nhiên tìm ra được những chứng cứ tà thuật rõ ràng. La Viên giận vô cùng, đem chứng cứ tới cho Tôn Kiệt coi, hai ông bà càng tin chắc việc này là do vợ chồng Tiên Tứ làm ra. Lập tức đem quăng vào lửa, đất rụi. Bệnh nhẹ của ông bà cũng khỏi hẳn. Tôn Kiệt nổi cơn thịnh nộ, sai Giao Nhi tới nhà họ Bá, gọi Tiên Tứ về. Tội ngỗ nghịch bất hiếu này phải trị thật nặng mới được. Giao Nhi vội ngăn cản :
                - Phụ thân muốn kết tội anh ấy, lẽ ra không nên hủy diệt chứng cứ. Nay chứng cứ không còn, làm sao có thể buộc tội ?
                Huống chi hiện giờ anh ấy đang làm quan đại phu, quan lại họ phải bênh nhau, nhất định cha sẽ thất bại thôi. Nếu làm ra vẻ không biết, cứ để hai người đó ở lại trong nhà, họ biết kế hiểm đã lộ lòng chẳng được yên, ắt phải bày một kế độc khác, chúng ta có đề phòng cũng không nổi. Chi bằng sai người đem tới cho đại ca một món ăn, nói là của người khác đem biếu, mẹ mới nhớ đến đại ca, nên sai đưa tới cho anh xơi. Ta bỏ thuốc độc vào bên trong, đánh thuốc cho anh ấy chết. Còn tẩu tẩu chỉ là đàn bà, làm gì có nhiều bản lãnh ? Đợi chị ấy trở về nhà, lại tìm cách khác mà thanh toán, há chẳng phải diệu kế sao ?
                Vợ chồng Tôn Kiệt đang cơn giận dữ, không tính thiệt suy hơn, liền sai Giao Nhi đích thân đem mấy món điểm tâm đựng trong tráp mang đến cho Tiên Tứ. Tiên Tứ định chia ra, mời nhạc phụ, nhạc mẫu, cùng các dì, các cậu cùng thường thức, Giao Nhi vội nói:
                - Món ăn này mẹ chỉ ban riêng cho đại ca, không chia cho người khác, vì món ăn cũng không nhiều. Ca ca hãy ăn một mình, đừng phụ lòng từ mẫu thương yêu.
                Tiên Tứ nghĩ cũng phải, ăn vài ba miếng, chỗ còn lại Giao Nhi lại xách về nhà .
                Đến chiều, Tiên Tứ bỗng cảm thấy tim đau như xé, thổ ra huyết, giây lát là lăn ra đất. Bá Cao bệnh đang nguy cấp, vì chuyện này cũng kinh động, kêu lên một tiếng mà qua đời.
                Bá tiểu thư thấy Tiên Tứ thần sắc biến đổi, tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, không thể ở lại dự tang lễ của phụ thân, mà phải lo cho người chồng sắp chết, đưa chàng trở về nhà. Hai nhà chỉ cách xa nhau chừng mười dặm: nếu đi nhanh, chỉ ba khắc đồng hồ là về tới nhà.
                Đang đi nữa đường, Tiên Tứ bỗng kêu lên một tiếng. Một đạo linh hồn của chàng đang chạy mau tới Quĩ Môn quan (1). Bá tiểu thư đau đớn muốn chết, lại đau buồn vì chồng chết bất tử, hét lên một tiếng, thổ ra một bụm máu tươi.
                ----------------------------------
                (1) Quỉ Môn quan : Cửa ải ngăn cách giữa cõi Dương và cỏi âm. Tới Quỉ Môn quan có nghĩa là sắp vào cõi chết. Nhưng ở đây, tác giả dùng chữ theo nghĩa đen, kể chuyện linh hồn Tiên Tứ về âm ti.
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:46:57 bởi bevanng >
                #8
                  bevanng 07.07.2008 21:12:00 (permalink)
                  Hồi Thứ 15

                  Chồn già ngàn năm thuyết minh nhân quá.
                  Thiếu niên công tử cất đút tục duyên.


                  Đi được nửa đường, vợ chồng Tiên Tứ cùng táng mạng. Những người phu hộ tống nhà họ Bá chẳng biết làm sao. Bỗng nhiên một trận cuồng phong nổi lên. Trong giây lát, trời đất tối tăm, mặt trời mất ánh sáng, khắp mặt đường cát bay đá chạy, sương khói giăng giăng, người đi đường đối mặt nhau không nhìn rõ mặt.
                  Những người phu hộ tống ai nấy tự tìm chỗ núp, để hai người chết ở lại trong xe. Chừng một giờ sau, gió ngừng, mây tan, trời trong sáng trở lại, mọi người chạy tới bên xe, lạ thay chỉ còn cỗ xe trống, hai thi thể biến đâu mất rồi ? Mọi người mới kinh hãi, chẳng biết làm sao, đành tìm những người dân địa phương đứng ra làm chứng, và chia nhau ra, người tới báo tin cho nhà họ Tôn, người về thưa lại với nhà họ Bá.
                  Bá phu nhân mất gái yêu, rể quý, bất tất phải nói. Về phần vợ chồng Tôn Kiệt, dẫu bởi Giao Nhi bày đặt ra chuyện, khiến ông bà thống hận vợ chồng Tiên Tứ, nhưng nghe tin hai người giữa đường đều chết, thi thể lại mất, sao khỏi đau lòng ? Phụ tử tình thâm là thiên tính, Tôn Kiệt đau đớn khóc lóc một hồi. La Viên phu nhân là đàn bà, khóc còn thảm thiết hơn. Riêng Giao Nhi rất là đắc ý, thấy vậy mới nói :
                  Cha mẹ chẳng nên quá đau lòng. Hai người này chết là đáng kiếp, cho thấy đạo trời chẳng sai bao giờ, và càng cho thấy rõ bọn chúng đã mang dạ độc ác từ lâu. Nếu không, tại sao chúng lại phải chết, mà chết tới hai đứa một lượt ? Chết đi rồi, ngay cả hài cốt cũng không thể đem về nhà ! Những kẻ bất hiếu như thế, chết là đáng kiếp ! Cha mẹ đừng nên quá bi thương.
                  Vợ chồng nghe vậy, ngẫm lại thấy cũng có lý, gạt nước mắt, không khóc nữa.
                  Lại nói về Tiên Tứ, trúng độc mà chết, một đạo u hồn mơ mơ màng màng, theo gió đưa đi, không rõ là đã tới địa phương nào. Chợt nghe có tiếng người nói to :
                  - Du hồn Tiên Tứ đang ở đâu ?
                  Tiên Tứ nghe gọi, mới hoảng hốt nhận ra mình đã chết. Đưa cặp mắt nhìn chăm chú một hồi, mới thấy trước mặt là một cô gái, ăn mặc theo lối đạo cô, tay cầm hốt ngọc, tươi cười cầm hốt đập nhẹ lên mình Tiên Tứ một cái, hỏi :
                  - Anh bạn già lâu nay vẫn khỏe chứ ? Còn nhận ra Hồ Tam thư này không ?
                  Du hồn Tiên Tứ mừng rỡ quá chừng, vội nói :
                  - Tam thư từ đâu tới đây ? Sao lâu nay không lại nhà tôi chơi ?
                  Bây giờ tôi bị thằng em trai hãm hại, đến nỗi chết oan, mới thấy lời Tam thư nói trước kia là đúng quá. Nay được gặp Tam thư ở đây mong Tam thư mở lòng từ bi, ra tay cứu vớt.
                  Tam thư cười, nói :
                  - Nếu không vì cứu anh, tôi đến đây làm gì ? Chẳng cần nói nhiều, mau đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh tới một nơi tốt lành, rồi dần dần tôi sẽ nói rõ cho anh biết nhân quả trong chuyện này.
                  Tiên Tứ vừa vui vừa buồn, tự động đi theo Tam thư, tấm thân như chiếc lá cuốn theo chiều gió, không thể tự chủ, nhưng cũng may là chỉ quanh quẩn hai bên Tam thư, chứ không tách xa. Đi một hồi, tới một đỉnh núi, nơi đó có ba gian thạch thất. Tam thư tiến vào, Tiên Tứ cũng vào theo, cúi lạy Tam thư, nói :
                  - Đệ tử trước đây ngu muội, hàng ngày ở trước mặt danh sư mà không biết kính lễ. Nay du hồn phiêu bạt, bốn biển không biết về đâu khẩn cầu Tam thư niệm tình mấy năm quấn quít, mà đoái thương thu nhận đệ tử vào môn hạ, may mắn cho đệ tử biết mấy ?
                  - Không dám, không dám ! Công tử bất tất phải khiêm nhường hạ thấp mình như thế. Hãy ngồi xuống đây, để tôi nói rõ nguyên ủy và nhân quả trong việc này cho mà nghe. Công tử có biết tôi là hạng người nào không ?
                  Tiên Tứ nghe lời ngồi xuống, suy nghĩ hồi lâu, không biết trả lời ra sao. Tam thư thở dài, nói :
                  - Có thể nói công tử cả đời thông minh, nhất thời mê lú. Tôi với công tử không phải bà con, cũng chẳng phải bạn cũ, rảnh rỗi đâu mà xen vào chuyện riêng của công tử ? Xin công tử hãy nhớ lại coi tôn sư Văn Mỹ chân nhân lúc ở vườn hoa đã dặn dò những điều gì là biết ngay quan hệ giữa tôi và công tử. Tôi đã vâng lệnh ông mà tới, thấy được điều gì đều phải về bẩm báo.
                  Tiên Tứ đột nhiên tỉnh ngộ, nói :
                  - Nói vậy thì ra Tam thư là người do sư tôn sai phái để trông nom đệ tử ? Phải vậy không ?
                  - Nay anh đã hiểu rõ rồi chứ ? Tôi vốn là con chồn già ở núi Tây sơn, trước kia lầm lạc gia nhập tà giáo, nhiều lần làm những việc bất quĩ, từng mắc phải kiếp nạn sét đánh, may nhờ lệnh sư tôn thương tình cứu cho, mới được thoát nạn. Tôi đã ở trước mặt ông thề độc, từ đó thay lòng đổi dạ, chăm lo tu theo đại đạo, khẩn cầu lệnh sư thu nhận vào môn hạ. Chân nhân sợ tôi tính ác khó bỏ, thói quen không đổi, lỡ ra lại có hành vi bất chấp, không khỏi liên lụy tới ông, nên trù trừ hồi lâu, mới chịu đáp ứng, hứa cho tôi trong thời gian một trăm năm phải thay ông làm những công việc lặt vặt chịu lệnh sai khiến, nếu quả lập chí tinh thành, không làm việc gì sai sót, mới nhận cho tôi làm đệ tử. Công việc thứ nhất ông sai khiến tôi là bảo tôi ở gần bên anh, tùy lúc chỉ điểm cho anh, đồng thời kiểm tra anh, nếu thấy có chút thay lòng đổi dạ, hoặc làm việc gì trái khuôn phép, phải về báo cáo, sư tôn sẽ dùng phi kiếm chém anh, hoặc sai thiên lôi đánh chết ?
                  Nghe Tam thư nói, Tiên Tứ bất giác lạnh xương sống, vội chỉnh sửa nét mặt, nói :
                  - Cũng may đệ tử chưa hề thay lòng đổi dạ. Năm trước Tam thư thử thách, nếu tôi không biết giữ gìn, thì chẳng những là không dám nhìn mặt sư tôn, ngay cả trước mặt Tam thư cũng thấy hổ thẹn.
                  Tam thư cất tiếng cười vang, nói:
                  - Về sau tôi khảo sát mấy lần, thử nghiệm anh mấy lần, mới tin chắc anh tinh thành chuyên nhất, không chút tà niệm. Vì thế tôi mới đem khẩu quyết truyền cho anh, mong anh ra sức phấn đấu, đừng sợ nguy nan, dẫu có gặp nhiều lần thất bại cũng đừng đổi ý ?
                  Tiên Tứ nghe vậy, đứng dậy, vọng lên không trung vái tám vái, thâm tạ ân sư, sau đó lại hướng về Tam thư mà bái tạ. Tam thư tránh qua một bên, không dám nhận đại lễ, nói :
                  - Không dám nhận, không dám nhận ! Tuy rằng tôi đã chỉ điểm cho anh cách tu luyện, nhưng cũng nhờ anh mà tôi lập được chút công quả, để có thể trình lại với sư tôn. Vì thế anh chẳng cần đa lễ, mà chính tôi phải bái tạ lại anh mới đúng.
                  Tam thư nói rồi, lại cùng Tiên Tứ ngồi xuống. Cô hỏi :
                  - Anh có biết vì sao em trai tìm cách chống đối anh không ?
                  - Tôi cũng tự hỏi mình trước nay chưa từng đối xử lạnh nhạt với em trai, tại sao nó lại ganh ghét tôi ?
                  - Đó là điều mà tôi vừa nói về lẽ nhân quả. Anh có hiểu em trai anh kiếp trước là con vật gì không ?
                  Tiên Tứ nghe hỏi, suy nghĩ hồi lâu, giậm chân nói :
                  - Ôi ! Tôi hiểu ra rồi ! Hèn chi lúc mẹ tôi lâm bồn, có mộng thấy một con thú, trông giống rồng mà không phải rồng, giống giao mà không phải giao, nhẩy vào bụng mà sinh ra em trai tôi. Bấy giờ cha tôi chiếu theo hình trạng trong mộng, cho rằng nếu không phải giao long, ắt cũng là hải giao (1), nhân đó mới đặt tên cho em trai tôi là Giao Nhị. Đáng tiếc cho vợ chồng tôi quá ngu ngốc, rõ ràng biết được mộng triệu quái lạ như thế, lại có cha tôi theo điểm mộng mà đặt tên, rành rành có chỉ điểm về nhân quả, mà tôi không hề nghĩ tới, chẳng là chuyện lạ hay sao ?
                  Tiên Tứ lại lặng yên suy nghĩ hồi lâu, mới nói :
                  - Bàn theo hướng đó, thì em trai tôi tới, không phải để làm con cháu nhà họ Tôn, mà chỉ vì việc báo thù mà tới ! Nhưng không hiểu sau khi báo thù xong, nó có biết cái mà qui chánh, phụng dưỡng cha mẹ hay không ?
                  Nói tới đó, Tiên Tứ bất giác rơi nước mắt. Tam thư buông tiếng cười nhạt, nói :
                  ~ Lâm gì có những chuyện tốt đẹp như thế ! Anh quả là người nhân hiếu, chịu hãm hại oan uổng như vậy, mà vẫn không quên nghĩ tới cha mẹ. Một lần tường niệm như thế còn hơn tu hành nhiều năm. Chỉ tiếc cho cha anh, mẹ anh quá nghe lời con cưng mà sanh ra hồ đồ. Hiện tại ông bà tin lời em trai anh mà hại mạng anh, chẳng bao lâu, cũng bị nó áp bức, quyết không có kết quả tốt nào đâu ! Hạn kỳ không xa, anh cứ chống mắt mà coi !
                  ----------------------------------
                  (1) Thì ra, ngày xưa các cụ cũng đã phân biệt rõ ràng : 1 Giao long là con thuồng luồng, thuộc “ loại rùa, ba ba, thường ở đầm sâu, sông rộng, còn có tên là con giai, 2 Hải gian : là con cá nhám. Hai con vật này thuộc hai loài khác nhau, lại có tên chung là giao, đều là thủy quái.

                  Tiên Tứ khóc lóc, nói :
                  - Nếu vậy, cha mẹ tôi nửa đời vất vả nuôi con, việc nối dõi một sớm trở thành hư không, mà kết cuộc còn bị hại dưới tay thằng đó, há chẳng đáng buồn hay sao ? Tam thư vâng lệnh sư tôn, tới cứu giúp tôi, có thể vị tình tôi, mà cứu cha mẹ tôi, được không ? Nếu được tôi cảm ơn cô, không biết để đâu cho hết !
                  Tam thư "Phì" một tiếng, nói :
                  - Anh lại nói chuyện hồ đồ mất rồi. Kiếp số đã định, sức người làm sao chuyển được ? Cha mẹ anh đã có anh là người con ngoan, sao đến nỗi việc hậu tự hư không ? Anh lấy việc bản thân xuất gia, không thể sinh con, nên cho rằng đời sau dứt hẳn ư ? Người ta sở dĩ cần có con cháu là để đề phòng lúc mình già yếu chết đi, không có người truyền lại huyết mạch. Nhưng nếu có thể trường sinh bất tử sống lâu ngang trời đất, hà tất phải có con cháu ? Người ta sở dĩ lấy việc thành tiên, liễu đạo làm quí, cũng vì một lẽ ấy mà thôi!
                  Tiên Tứ không thể cãi lại, chỉ nói :
                  - Cha tôi có tiếng là người tốt, mẹ tôi tuy xuất thân dị loại, nhưng trước nay không làm việc gì xấu, chỉ biết giúp đỡ cha tôi cùng làm việc thiện, sao đến nỗi phải chịu kiếp số như thế ?
                  - Việc này cũng khó nói. Theo đạo lý nhân quả báo ứng mà nói hễ việc gì hợp số mà nẩy sinh, ắt biểu hiện ra ở kết cuộc một đời. Nếu người ta chỉ dựa vào ngôn hạnh trong đời của một người, mà phê phán kết quả cuộc đời người đó, thì tự nhiên là sai một li, đi một dặm ! Cha mẹ anh kiếp này tuy đều là người tốt, nhưng làm sao hiểu được hai người đó kiếp trước đã làm những việc gì ? Khoan nói về phụ thân anh, hãy bàn về mẫu thân anh trước đã. Tôi biết đích xác rằng lúc bà làm "điền loa tinh" (ốc nhồi thành tinh) đã sát hại nhiều sinh linh, không sao kể xiết, lại còn dẫn dụ thiếu niên nam tử nhà người ta, để ngắt nguyên dương, bổ tinh khí. Cũng may tu thành một thứ pháp lực, có thể biến thành người, hoặc thành vật, hóa lớn hóa nhỏ tùy ý. Những việc tổn người, lợi mình như thế, há có thể hợp thiên đạo? Làm như vậy, sao có thể thành tiên ? Như bản thân tôi, lúc đó tuy đã tu thành hình người, nhưng có hành vi giông giống như bà ta, mà suýt nữa mắc phải lôi kiếp. Đó chính là bằng chứng về việc trời giáng hình phạt.
                  Tiên Tứ nghe mẹ mình làm ác, phải tội, bất giác đau lòng, khóc rống lên. Tam thư thở dài, nói :
                  - Công tử là hiếu tử chân chính, là người rất tốt, hèn chi sư tôn trọng thị anh cũng phải. Nhưng sư tôn đã sớm biết việc hôm nay, và ngay cả những việc tương lai nữa. Ông từng nói rằng sau này mẹ anh phải nhờ anh độ thoát cho mới được, nên anh có nhiều cơ hội đền ơn mẹ. Hiện tại, anh cần phải dụng công tu luyện, siêng năng tập luyện đạo pháp, việc của mẹ anh hãy tạm gác qua, đừng phí tâm sức làm gì. Sư tôn còn nói : hy vọng của anh rất lớn, mà ma kiếp cũng nhiều. Lần này anh tu, có khác với lần tu ở kiếp trước. Kiếp trước, anh từ đường súc sinh chuyển sang đường người, còn nay từ thân người chuyển vào tiên thể. Thân phận càng cao, việc tu trì càng vất vả, tương lai anh sẽ đạt tới mức độ vừa lớn vừa cao. Anh nên hiểu rõ lẽ đó, mạnh dạn tiến lên, đừng để trần tục làm lụy tới mình nữa, kẻo phụ lòng kỳ vọng của sư tôn.
                  Tiên Tứ cúi đầu nghe chỉ giáo. Bỗng lại nhớ tới tình cảnh của vợ, mới mỉm cười hỏi Tam thư :
                  - Đệ tử quyết không tham luyến tình vợ chồng, chỉ thương cô gái đó hiền đức, trước đây đã từng được Tam thư chỉ giáo, hứa một tương lai tốt đẹp, nay không biết cô ấy đã trở về nhà được chưa ? Trong tương lai có thể khẩn cầu Tam thư tùy thời mà chỉ dẫn cho cô ấy trong việc tu hành hay không ? Nếu cô ấy đạt được chút thành tựu nho nhỏ, cũng chẳng uổng phí ơn đức của Tam thư đã thành toàn cho cô.
                  Tam thư nghe vậy cười, nói :
                  - Mới khen anh giỏi, anh đã lãng quên việc luyện tập rồi. Rõ ràng anh không thể nào quên được cô vợ yêu quí, đã đem gánh nặng đặt lên vai ta. Nhưng việc này ta cũng không quản lý nổi đâu. Nếu anh muốn thành toàn cho cô ấy, hãy đợi tới sau khi anh chứng đạo, thành tiên, tự anh sẽ tới, độ cho cô xuất thế.  Tiên Tứ biết Tam thư tính rất ngang bướng, vội tươi cười cầu xin:
                  - Tam thư đừng ngang ngạnh nữa. Tam thư vốn ôm ấp lòng từ bi, đã cứu người lẽ nào lại nửa chừng bỏ dở ? Thật tình là vừa rồi, nhân lúc trò chuyện tôi tỏ ý lo lắng cho cô ấy thôi, chứ chẳng dám cầu xin Tam thư làm một điều gì cho cô ấy đâu. Tôi chỉ xin Tam thư đem tình huống hiện nay của cô ấy, nói cho tôi biết thôi.
                  Tam thư cười ròn, đem chuyện Tuệ cô thương chồng mà chết, nói cho Tiên Tứ biết. Tiên Tứ nghe qua, lại khóc lóc thổn thức, nói:
                  - Tôi hại cô ấy rồi ! Tôi hại cô ấy rồi !
                  Tam thư đứng bên cạnh, thấy cảnh khóc lóc đó, đột nhiên cất tiếng cười vang, đưa tay chỉ Tiên Tứ, nói :
                  - Quả là người đa tình, quả là có nghĩa khí ! Tôi thấy anh khóc thật tội nghiệp, nhịn không nổi. Để tôi trở về, trị khỏi bệnh cho cô ấy dẫn cô lại đây, cùng anh làm vợ chồng như cũ, được không ?
                  Tiên Tứ biết mình bị chế giễu, bất giác mặt đỏ tới mang tai, vội lau nước mắt, chùi nước mũi không dám nói một câu, ngây người ra mà nhìn Tam thư. Tam thư thấy anh là người trung hậu không nỡ chế giễu nữa, đem tình thực nói cho anh biết :
                  - Bá tiểu thư về nhân phẩm và tính tình chẳng những trong đám người phàm ít thấy, mà trong đám tiên nhân cũng vượt trội. Sự thành công của cô ấy chẳng thua kém anh đâu. Hiện tại đã có một vị sư muội của anh độ cho cô ấy, thu nhận cô làm đồ đệ. Kiếp trước, cô ta là một "Tư hoa tiên nữ" (tiên nữ coi về hoa) trên điện của Ngọc Hoàng. Nhân ngày vạn thọ của Ngọc Hoàng, quần tiên tới chúc mừng, không hiểu vì lý do gì, cô ta cùng với một "Tư hương tiên lại" đấu khẩu kịch liệt, đến nỗi nói ra những lời bất nhã, nên bị biếm xuống trần thế mười kiếp, qua mười lần luân hồi, nếu vẫn giữ được bản tính, mới được trở lại thiên tào, mà còn thăng thưởng nữa. Còn mối quan hệ giữa cô và anh chỉ xảy ra trong thời gian hạ phàm thôi. Anh đang từ âm phủ trở lên dương trần, tình cờ giữa đường gặp cô tiên nữ đó. Đồng thời, kẻ đối đầu với anh là lão giao, biết được là chẳng bao lâu nữa anh sẽ lên cõi  phàm trần, mới xuống âm phủ dò la tin tức của anh. Vì kiếp này, cô tiên nữ có dung mạo mỹ miều, lão giao trông thấy mới buông vài câu chọc ghẹo. Tiên nữ đang quẫn bách, chợt gặp được anh đi tới. Anh vì nghĩa nổi giận, yêu cầu quỉ tốt đang hộ tống anh, giúp một tay, đánh lui lão giao, cứu tiên nữ. Tiên nữ rất cảm kích, có lòng báo đáp ơn anh, nhân thế hai người có mối nhân duyên trên trần. Tất cả những chuyện ấy chẳng phải ngẫu nhiên. Nay cô đã trả ơn xong, anh còn bận tâm nghĩ đến cô, thì mối duyên đó kể như chưa kết thúc. Từ nay anh bất tất phải quấn quít lấy cô, mà chuốc lấy thêm nghiệp chướng. Sư tôn biết được, lại phải trách mắng. Anh phải nhớ kỹ mới được !
                  Tiên Tứ hiểu ra, cúi đầu lạy tạ. Tam thư dọn dẹp ba gian thạch thất bảo Tiên Tứ ở lại đây mà tu luyện, còn cô phải trở lại núi Tây Kỳ để phục mệnh Văn Mỹ chân nhân.
                  Tháng ngày của tiên gia qua đi rất mau, chẳng bao lâu mà đã qua bốn, năm năm. Tiên Tứ giữ đạo tâm kiên định, lại có căn cơ, nên tiến bộ rất nhanh. Văn Mỹ chân nhân mỗi năm đều sai Tam thư tới thăm, dạy anh những phép hộ thân, vời thần, khiến quĩ.
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:48:51 bởi bevanng >
                  #9
                    bevanng 09.07.2008 14:37:52 (permalink)
                    Hồi Thứ 16

                    Hiếu tử xuống biển thăm mẹ ốc
                    Chốn tiên vào cung yết kiến long vương.


                    Một hôm, Tiên Tứ đang ngồi ngay ngắn dưỡng khí, chợt nghe bên tai có tiếng người nói :
                    - Điền loa tinh đang gặp nạn, sao anh không mau mau tới thăm, đáp đền ơn nghĩa ?
                    Tiên Tứ mở choàng mắt ra. Thì ra là Tam thư tới thăm. Tiên Tứ vội đứng dậy nghênh tiếp, Tam thư nói :
                    - Hiện nay mẹ anh đang bị em trai anh nhấn chìm dưới sông Hoài. Cha anh thống hận thằng con bất hiếu, đã chết vào năm ngoái. Sao anh không tới thăm mẹ anh một phen ?
                    Tiên Tứ nghe nói, lại thảm thiết trong lòng, nước mắt đầm đìa, nói :
                    - Đệ tử từ khi nghe lời răn của thầy, lục căn đều tĩnh, bụi trần chẳng nhuốm. Đôi khi, trong lúc giữ yên tĩnh hoàn toàn, có nghĩ tới một điều gì chăng nữa, cũng chỉ là nghĩ tới cha mẹ mà thôi. Nỗi lòng uẩn khúc của đệ tử chỉ có sư tôn cùng Tam thư chứng giám. Riêng đối với tai nạn của cha mẹ, đệ tử hận không thể mọc thêm đôi cánh, tới thăm hỏi một phen, lòng này mới yên tĩnh trở lại.
                    - Con giao đó thác sinh làm người phàm, chuyên tìm cách chống đối anh. Sau khi anh đi rồi, nó gia nhập tà giáo, luyện tập yêu pháp, đã có thể biến trở lại nguyên thân, hưng yêu tác quái. Mẹ anh chẳng phải là người không có đạo hạnh, nhưng cũng không cưỡng lại nổi câu thần chú của lão giao : "Ngươi từ đâu tới, hãy quay về nơi đó !". Thương thay cho mẹ anh, làm người đã được mấy chục năm, cuối cùng lại trở thành một con ốc nhồi. Hơn nữa, còn bị lời chú cấm đoán, không thể ra vào tự do. Anh tuy học đạo nhiều năm, đạo thuật biết được kha khá, nhưng nếu đối kháng với nó, chỉ như trứng chọi đá, thất bại chắc chắn. Nay anh muốn đi, trước hết phải tìm ra một biện pháp chế phục giao tinh mới được.
                    Tiên Tứ không trả lời câu hỏi đó, trước hết muốn biết việc cha mẹ mình bị hại ra sao. Tam thư nói :
                    - Trong khoảng trời đất, hai khí chính tà đều có thanh thế tương đương. Chính có chính phái, tà có tà đảng, đó là lẽ thường. Tà không thể thắng chính, nhưng ngẫu nhiên gặp số kiếp đưa tới, chính nhân quân tử nhiều khi cũng không thể tự bảo toàn, tà khí thừa cơ khuynh đảo, cũng thường khi đánh bại được chính. Như hiện nay, con giao tinh đó tuy rằng có hành vi bất chính, nhưng nó đã gia nhập một loại tà môn, cũng có số đông phe nhóm bênh vực, như ba ba, rùa, cua đinh..., có thể tùy thời, tùy việc mà chỉ điểm cho nó, hợp tác với nó, để cùng quay về yêu đạo. Chí của bọn chúng đặt ở luyện phép, không biết tới đại đạo. Đạo là gốc, mà phép là ngọn, nên luyện tập phép thuật thì dễ, mà học đạo rất khó. Vì dễ nên luyện tập phép thuật không cần giữ qui củ chặt chẽ cũng đạt được, trong khi học đạo cần phải nghiêm chỉnh, cần phải trịnh trọng. Học đạo chưa thành, cũng như chưa học, mà người chưa học làm sao có thể đối kháng với yêu pháp ?
                    Tiên Tứ chợt hiểu ra, nói :
                    - Đệ tử đã hiểu rồi. Thằng Giao Nhi này nhất định đã được phe nhóm của nó giúp đỡ, chỉ điểm, nên đã sử dụng được yêu pháp, nên mẹ tôi không chế phục nổi phép thuật của nó, trái lại còn bị lời chú kìm giữ. Còn như cha tôi là người không có chút đạo hạnh, tất nhiên không phải đối thủ của nó.
                    Tam thư gật đầu :
                    - Cha anh vì thấy giao tinh ưa giao du với bọn phỉ đồ, việc ác nào cũng dám làm, nên có răn đe vài câu, bị nó đá cho một phát. Người đã lớn tuổi, già yếu, làm sao chịu nổi, nên không quá một ngày, đã vì trọng thương mà chết. Đó là sự việc xảy ra vào mùa đông năm ngoái. Sau khi cha anh chết, mẹ anh vì có phép thuật, luôn giữ được cơ thể tươi tắn như thời trẻ trung, bị yêu tinh nhổ nước bọt vào mặt. Thái độ hỗn láo đó làm sao chấp nhận được, mẹ anh mới cắn vào ngón tay nó. Không biết Giao Nhi học được phép thuật ở đâu, nó tìm được vỏ xác của mẹ anh, đem ra đặt giữa nhà. Đợi lúc mẹ anh bước ra, nó niệm câu chú : "Lão nương điền loa tinh! Mau hiện nguyên hình ! Nếu không, ta chém một nhát, đưa về âm phủ !". Câu chú vừa dứt, lạ lùng thay, mẹ anh biến mất. Thì ra mẹ anh đã bị thu nhập vào trong vỏ ốc. Trong vỏ ốc đó, bà tìm cách bò đi. Con giao ác độc đó vẫn không tha, đem con ốc nhồi bỏ nuôi trong ao. ý của nó là sẽ bắt con ốc, luộc lên mà ăn. Không ngờ ông Trời có cảm ứng, bỗng nhiên đổ một cơn mưa lớn, khiến con ốc bò ra khỏi ao, nhảy vào sông Hoài. Giao Nhi cũng hiểu được ý trời răn đe nó, không dám nghĩ tới chuyện luộc ốc ăn nữa. Nhưng nó dùng lời chú, nhận chìm bà ở dưới đáy sông Hoài, trong vòng một ngàn năm, không được xuất đầu lộ diện. Hiện nay, mẹ anh đang ở đó chịu khổ.
                    Tiên Tứ nghe nói, đau đớn khóc lóc :
                    - Cha mẹ tôi có tội nghiệt gì quá đáng, mà phải chịu báo ứng thảm thương đến thế ? Xin hỏi Tam thư, Tôn Tiên Tứ này có thể gặp mặt cha mẹ được không ?
                    Tam thư nghiêm sắc mặt, nói :
                    - Sao không được ? Không giấu gì anh, hôm nay tôi vâng pháp chỉ của sư tôn, dẫn anh đi, cùng tôi xuống sông Hoài để gặp mẹ anh.
                    - Sau khi thăm mẹ tôi, có thể nhờ thần linh của sư tôn, và pháp lực của Tam thư, cứu mẹ tôi ra khỏi chỗ nguy hiểm được không ?
                    Tam thư lắc đầu :
                    - Việc đó chẳng phải dễ dàng. Sư tôn từng nói : mẹ anh trước đây tác nghiệt không ít, ngày nay phải chịu báo ứng. Cũng may có anh là con giúp đỡ cho bà được nhiều điều. Sư tôn bảo tôi truyền cho mẹ anh một số phép tu luyện, để bà tập luyện, đạt được thể xác có thể lớn, có thể nhỏ, ngay cả việc có thể biến vỏ ốc thật lớn, đến độ trở thành ở động phủ dưới biển , lập một đạo tràng chứa được ngàn người. Dưới biển còn có long vương là chỗ bạn bè, có thể giúp đỡ bà hòan thành đạo hạnh, thoát ly đường súc vật. Bấy giờ bà mới chuyển họa thành phúc, đạt được kết quá tốt. Nhưng sư tôn nói ông với loa tinh chẳng có quan hệ gì, người có thể ra tay giúp đỡ bà ta, chỉ có thể là anh. Anh nên tu thành đại đạo đi đã, sau đó chu du thiên hạ, lập ba ngàn việc công đức, để hóa độ cho mẹ, đền ơn sinh thành ! Như vậy sẽ chậm trễ việc lên thượng giới một ngàn năm, và phải trải qua vòng luân hồi một lần nữa để làm người phàm tục. Nhưng nhờ anh có căn cơ rất dầy, việc thành tiên cũng dễ. Anh có chấp nhận việc làm đó, mới có thể chuyển cấp đại pháp cho mẹ anh, bằng không sư tôn cũng không hơi đâu mà lo cho điền loa tinh như thế ! Anh hãy suy nghĩ kỹ xem sao.
                    Tiên Tứ khóc lóc, khấu đấu lạy tạ, nói :
                    - Chỉ cần cứu được mẹ, Tôn Tiên Tứ này tình nguyện vĩnh viễn làm một du tiên, cứu nhân độ thế, dầu không được lên trời, cũng không một lời oán thán, huống hồ chỉ mất có một ngàn năm ! Tôi còn có một lời muốn hỏi : cha tôi hiện ở tại âm tào, sau này có thể nhờ Tam thư dẫn tôi đi thăm một chuyến, được không ?
                    Tam thư gật đầu :
                    - Cha anh luôn giữ lòng nhân hậu, kiếp này lại không làm một điều gì ác chẳng may tức giận mà chết, là do nghiệt trái từ kiếp trước sinh ra. Khi món nợ đó dứt, tự nhiên được thác sinh vào nơi phúc địa, lại hưởng lộc dồi dào nữa ! Anh bất tất phải bận tâm tới chuyện  đó .
                    - Tuy nói vậy, lòng tôi không khỏi nghĩ tới chuyện gặp mặt người cha quá cố một lần, sau đó mới có thể yên tâm.
                    Tam thư trầm ngâm một hồi, nói :
                    - Việc này gay đây ! Hiện thời sư tôn chỉ sai tôi đưa anh đi gặp mẹ anh, chứ không hề bảo tôi dẫn anh xuống âm ti. Tôi vì anh, tạm đưa ra một ý kiến tuyệt hảo thế này nhé ! Tôi có nghe sư tôn nói qua, cha anh tuy là người tốt, cũng không có duyên với tiên, chỉ đáng được hưởng mười lăm kiếp giáng sinh vào nhà phú hậu, lương thiện. Đợi cho anh công hành một ngàn năm đầy đủ, tôi nhất định sẽ xin với sư tôn cho anh được đầu thai vào làm con ông kia, khiến cha con anh sau một ngàn năm lại làm cha con, há chẳng phải một giai thoại thú vị lắm sao ? Như thế, anh trút bỏ được mối tâm sự canh cánh bên lòng, có tốt hay không ?
                    Tiên Tứ vui mừng bái tạ, sau đó lại hỏi tới kết cuộc của Giao Nhi ra sao. Tam thư lắc đầu, nói :
                    - Người đó vốn thuộc loài yêu ma, đã gia nhập tà giáo, mai sau tội ác chất đầy, tự nhiên có người thu phục nó, chúng ta cần gì phải phí tâm sức nghĩ tới ?
                    - Tội nó chất đầy : giết cha, hại anh, dùng bùa chú trấn áp mẹ, chưa thể kể là tội ác cùng cực hay sao ? Hạng người tội lỗi như thế còn để lại dương gian chỉ hại thêm người khác, há chẳng phải thiên đạo quá khoan dung ư ?
                    - Bàn cho kỹ, trong việc này còn có một đạo lý lớn, hiện tại chỉ có thể bàn bạc sơ qua với anh thôi. Như tôi đã nói, kiếp số đã định, chẳng những sức người không thể lay chuyển, ngay cả thiên đạo cũng không tác động tới được. Chẳng hạn như trời có bốn mùa, khí hậu trong ngày và đêm, có nóng, lạnh, mưa, gió. Theo suy nghĩ của người đời, ai cũng thích trời tạnh ráo, không mưa, muốn có thời tiết ôn hòa, không nóng quá, không lạnh quá, muốn có ngày dài vô tận, không đêm. Tuy nhiên, việc tương sinh, tương khắc, qua qua, lại lại đều có định số, ngay cả Ngọc hoàng thượng đế, Nguyên Thủy thiên tôn, Lão Quân tổ sư, và Như Lai Phật tổ bên Tây phương, cũng không thể miễn cưỡng được, huống hồ con người nhỏ bé ? Nay lại nói tới số kiếp, có đạo lý như thế nào ? Hãy lấy ví dụ việc trị loạn trên trần thế mà nói, đời không thể lúc nào cũng yên trị, không có loạn. Như thế đủ hiểu đạo không thể luôn luôn chính, không có tà. Hiện tại, chúng ta thấy giao tinh hung hiểm, tàn nhẫn, nên phải giết, không thể tha thứ, có biết đâu rằng trong khoảng trời đất, hạng yêu ma hung ác như thế nhiều vô kể ! Việc chúng sinh ra vốn do kiếp số, việc chúng hành sự vị tất đã không có đạo lý về nhân quả nằm bên trong ?
                    Tiên Tứ nghe vậy, không còn thắc mắc gì nữa, theo Tam thư ra khỏi cửa động. Tam thư đưa ngón tay ngoắt một cái, từ không trung hai đám mây trắng bay lại, từ từ hạ xuống trước mặt hai người. Tam thư đưa tay đỡ Tiên Tứ lên mây, chỉ cho anh các khẩu quyết điều khiển đám mây, lên cao, xuống thấp , bay đi hoặc dừng lại. Lát sau, Tam thư vỗ lên vai anh, nói :
                    - Kia là sông Hoài. Chúng ta đã từ Hải Nam bay lại, ước chừng đi xa được hơn một ngàn dặm. Anh hãy thử thí nghiệm, niệm khẩu quyết dừng mây, xem thế nào.
                    Tiên Tứ niệm lâm râm, quả nhiên đám mây ngừng lại, từ từ hạ xuống bên bờ sông Hoài. Tiên Tứ mừng rỡ, nhưng lại chợt nhớ tới thân mẫu ở đây chịu tội, chạnh lòng rơi nước mắt.
                    Tam thư đưa ngón tay xuống giữa giòng sông, chợt thấy sóng nổi cuồn cuộn, nước sông tự rẽ ra, giữa lòng sông xuất hiện một con đường bằng phẳng. Tam thư dẫn Tiên Tứ men theo con đường đó mà đi. Đi chừng nửa giờ đồng hồ, Tam thư bỗng lên tiếng :
                    - Trước mặt đây là một tòa cung điện, lấp lánh ánh sáng của vàng và ngọc bích. Đó chính là Thủy Tinh cung, nơi ông bạn thân của anh trú ngụ. Chúng ta trước hãy tới thăm hỏi ông ta, sau nữa nhờ ông ta giúp đỡ,
                    Tiên Tứ biết Tam thư đang nói tới chuyện kiếp trước, và người mà cô gọi là "ông bạn thân" chính là long vương Bình Hòa, mà sư tôn đã nhắc tới trước mặt anh, nên anh vui vẻ nói :
                    - Đã là bạn cũ, tất nhiên phải tới thăm hỏi, huống hồ lại có việc nhờ tới ông ta giúp đỡ.
                    Tam thư bước nhanh lên vài bước, tới chỗ bên ngoài Thủy Tinh cung. Liền có tuần hải (1) dạ xoa tiến lại chặn đường. Tam thư nói rõ ý mình, và chỉ Tiên Tứ, nói :
                    - Ông này là bạn cũ của đại vương.
                    Dạ xoa nghe vậy, không dám chậm trễ, vội chắp tay vái chào hai người, rồi cầm dùi gõ mạnh vào chiếc chuông, treo ở cửa cung điện, để thông báo. Chuông vừa vang lên ba tiếng, bên trong liền bước ra nhiều quan viên thủy tộc, như Quyết (2), Lý (3) tướng quân, hỏi thăm tên họ hai người, mời vào phòng khách. Hai người ngồi được một lúc, chợt nghe bên trong có tiếng truyền ra :
                    - Đại vương có lời mời hai vị lão hữu !
                    Tam thư dẫn dắt Tiên Tứ, theo chân mấy vị thủy quan, nghiêm chỉnh tiến lên.
                    Bình Hòa đại vương đã biết Tiên Tứ là ông bạn biển bức ở Quán Khẩu, chuyển kiếp làm người, nên tiếp đãi long trọng, xuống tận thềm nghênh đón. Tam thư và Tiên Tứ cùng thi hành đại lễ. Bình đại vương cười, nói :
                    - Chúng ta trước đây từng là bạn thân, nay lại không phải thuộc hạ của nhau, tôi đâu dám nhận đại lễ ?
                    Sau phần chào hỏi, long vương lui vào hậu cung, truyền dọn tiệc rượu, khoản đãi thượng khách. Trong tiệc, long vương hỏi chuyện Tiên Tứ từ sau khi chia tay. Tiên Tứ đem chuyện lão giao lăng nhục ở Quán Khẩu, được Văn Mỹ chân nhân đưa đi đầu thai, lại bị lão giao chuyển kiếp tiếp tục hãm hại, kể lại từ đầu tới cuối.
                    Là người nghĩa hiệp, vũ dũng, long vương nghe qua tức giận, vểnh ngược chòm râu, tóc tai dựng đứng, vỗ bàn, giậm chân, hét to lên.
                    ---------------------
                    (1) Đi tuần tra quanh biển.
                    (2), (3), Quyết và Lý là tên hai loài cá, quyết là con cá giấc hoa, lý là con cá chép.


                    Lập tức truyền lệnh xuất quân, sai đem mười vạn thủy binh, cùng các tướng thuộc hạ, mau đi điều tra, bắt lão giao về đây, xử tội thật nặng để báo thù rửa hận cho ông bạn ta. Tam thư vội đứng dậy, can ngăn :
                    - Xin đại vương bớt giận. Đối với thứ tiểu yêu đó, cần gì phải phiền tới thần binh của đại vương chịu vất vả ? Sau này, tội ác của nó chất đầy, tự có thiên hình xử trị. Hiện tại, chưa tới lúc nó đền tội, e rằng có huy động ba quân, vị tất đã bắt được nó.
                    Long vương vẫn còn tức giận, nói :
                    - Nếu nói như thế, chẳng hóa ra bọn yêu nhân, vì số thọ còn dài, vẫn được nhởn nhơ hay sao ?
                    Tam thư nghiêm sắc mặt nói :
                    - Yêu nhân tuy nhất định sẽ có lúc đền tội, nhưng tên trời còn có kiếp số định trước. Những bạo quân, loạn thần trên đời, cùng những yêu tinh, quỉ quái ngoài đời, đều ứng kiếp số mà sinh ra. Kiếp số chưa hết, sức người không thể chế phục, kiếp số đã tới, chẳng cần đánh, chúng cũng tự diệt vong, đại vương cần gì phải phí thần trí ?
                    Long vương nghe vậy, ấm ức trong lòng. Tiên Tứ lại phải năm lần bảy lượt trần tình, long vương mới nguôi ngoai, vuốt chòm râu, cất tiếng cười hề hề :
                    - Thôi được ! Hai vị đã nói vậy, quả nhân hà tất phải gây sự với hắn ? Chẳng qua chỉ vì ta làm bạn với Tôn quân đã lâu năm, nay thấy ông bị người khác lăng nhục, mà ta không thể giúp đỡ một tay, làm sao ta yên lòng cho được ?
                    Tiên Tứ và Tam thư vội đem chuyện khác ra nói, long vương mới hết giận, cùng nâng chén mời nhau, uống rất vui. Tam thư mới nhắc tới chuyện Tiên Tứ tới tìm mẹ để thăm hỏi, long vương vội nói:
                    - Việc đó rất dễ. Hai vị bất tất phải đích thân đi thăm, quả nhân sẽ sai người đi tìm bà ta, cứu bà ra thoát chỗ nguy hiểm, đưa về đây để mẹ con gặp nhau, chẳng là diệu kế hay sao ?
                    Tam thư cười :
                    - Thịnh ý của đại vương, chúng tôi vô cùng cảm kích, nhưng loa tinh bị độc giao dùng chú trấn áp, không thể tự do. Vả lại loa tinh tội nghiệp cũng nhiều, đáng phải chịu kiếp nạn. Gia sư từng nói, phải đợi một ngàn năm kiếp số mới mãn. Trong thời gian đó, nên để bà ta tu luyện pháp thân, ở yên trong vỏ ốc, biến thành một động phủ, mời cao nhân thiết lập đạo tràng bảy ngày bảy đêm, cầu nguyện cho bà ta thoát khỏi tai nạn. Ngày nay, chỉ nên để cho bà ta nếm mùi đau khổ. Tuy là khổ trước mắt, thực tình là cơ hội tốt cho bà tu đạo. Tệ sư còn sai tôi truyền thụ khẩu quyết cho bà ta, nên sau này sự thành tựu của bà ta lớn vô hạn, nếu bây giờ cứu bà ấy ra, việc tu trì sẽ bị trở ngại, nên thương yêu bà ta lại hóa ra làm hại cho bà. Hiện nay, bà đang ở dưới quyền cai trị của đại vương, nhưng một ngàn năm dài đằng đẵng như thế, lấy gì bảo đảm bà ta không bị yêu nhân khác xâm lấn, khiến bà không thể chuyên tâm tu đạo ? Đó là điều rất đáng lo ngại. Tôi đặc biệt dẫn Tôn công tử tới yết kiến đại vương là để thỉnh mệnh đại vương ban chỉ dụ cho vị chính thần sông Hoài, tùy thời thiết pháp bảo hộ, Tôn công tử cảm ơn không hết !
                    Long vương vừa nghe, thuận miệng nói ngay :
                    - Chỉ là chuyện nhỏ, hai vị chẳng cần dặn bảo. Quá nhân sẽ mời ngay hai vị tả hữu thừa tướng, tới gặp hai vị.
                    Long vương liền dặn bảo hai vị thừa tướng giải quyết việc này cho thật tốt, lại sai Quyết đại phu đích thân dẫn dắt tám vị tuần hải dạ xoa hộ tống Tiên Tứ và Tam thư đi. Hai người hết sức cảm kích, rời khỏi bàn tiệc bái tạ, rồi theo Quyết đại phu và các tuần hải dạ xoa, rời khỏi long cung, tiến vế phía sông Hoài.
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:51:05 bởi bevanng >
                    #10
                      bevanng 09.07.2008 15:54:13 (permalink)
                      Hồi Thứ 17

                      Tôn Tiên Tứ xuống biển gặp mẹ
                      Trương Quả lão chuyển thế thành danh.


                      Hồ Tam thư dẫn Tiên Tứ đi theo Quyết đại phu và các tuần hải dạ xoa tới chỗ ranh giới giữa biển Đông Hải và sông Hoài. Đám dạ xoa thưa trình :
                      - Chỗ ranh giới giữa biển và đất liền này có tên là thôn Hoài Hải. Phía Đông thuộc quyền Hoài thần quản trị, mặt Tây đều là biển rộng, hiện tại do đại vương chúng tôi phái hải thần ra cai quản. Xin hỏi đại tiên muốn đi thăm bạn bè ở phía nào ?
                      Tam thư đưa mắt cho Tiên Tứ, rồi nói với các dạ xoa :
                      - Cảm ơn thịnh tình của đại vương đã phái các vị hộ tống chúng tôi đến đây. Bây giờ đã tới địa đầu, địa phương này lại nhỏ, không tiện làm phiền tới các vị nữa, các vị có thể trở về phục mệnh, chúng tôi tự đi kiếm cũng được.
                      Đám dạ xoa không dám trả lời, quay qua hỏi Quyết đại phu :
                      - Thế nào ? Quyết đại phu không muốn đi thêm, nói mấy câu khách sáo, rồi xin cáo từ.
                      Tam thư cười, nói với Tiên Tứ:
                      - Bọn người nhỏ mọn này ngoài mặt coi chúng ta là thượng khách, chứ thấy khó khăn cũng ngại, chẳng đáng cho chúng ta chê cười ?
                      Tiên Tứ cũng nhận là phải.
                      Hai người sử dụng khẩu quyết "rẽ nước", tìm tới đáy sông Hoài.
                      Quả nhiên ở đó họ tìm ra một con ốc nhồi rất lớn, đang hạ cái vẩy ốc xuống lớp bùn để thò cái đầu ra ngài, hít thở không khí. Một số những con vật nho nhỏ bơi chung quanh, để đớp đám rong rêu bám quanh vỏ ốc. Tiên Tứ biết rõ đó là mẹ đẻ của mình, đau lòng quá, khóc rống lên. Tam thư vội nói :
                      - Đừng khóc, đừng khóc ! Để tôi tới, thay anh thông báo một tiếng. Còn phải làm thể nào để mẹ anh có thể nhận ra anh là con!
                      Tiên Tứ nghe lời, khom lưng xuống, ôm lấy cái vỏ ốc đang nổi trên mặt bùn, đồng thời nghe Tam thư cất tiếng dặn dò :
                      - La Viên ? La Viên ! Đứa nghịch tử bị ngươi xua đuổi, là Tiên Tứ nay tới kiếm ngươi đây !
                      Con ốc nhô thêm một khúc mình khá dài lên phía mặt nước để nhìn ngắm. Nhìn tình hình đó, dường như điền loa có nhận ra Tiên Tứ là con trai mình, đưa cái đầu đụng đầu Tiên Tứ, dính chặt hồi lâu, không động đậy, dường như không nỡ lìa xa, chẳng khác nào tình mẹ con quấn quít. Tiên Tứ cứ ôm chặt lấy khúc mình ốc mà khóc thất thanh. Thật lâu, thật lâu, Tam thư mới thay mặt anh mà kể rõ sự tình, nói rõ cả ý của sư tôn muốn cứu vớt điền loa, khuyên La Viên chịu đựng thảm kiếp này trong vòng một ngàn năm, ở nơi đây mà tu thân lập mệnh, tạo thành tấm thân bất hoại, lại nói :
                      - Tất cả chỉ vì kiếp trước ngươi tạo nghiệp quá nhiều, nay phải chịu quả báo đau khổ. Nhưng nhờ có con trai ngươi, ngươi sẽ được thành chính đạo, há chẳng phải là trong cảnh bất hạnh lại gặp may mắn hay sao ? Nay ta đem khẩu quyết tu luyện truyền thụ cho ngươi, ngươi vốn thiên tư thông minh, hãy dụng công đêm ngày, chỉ chừng ba trăm năm sau đã có thể rời bỏ vỏ xác, lời bùa chú cũng không câu thúc được ngươi. Nhưng ngươi vẫn không được rời khỏi chỗ đáy nước, mà phải trải qua năm trăm năm nữa, công hạnh mười phần mới đạt được tám, chín, chẳng những yêu ma ngoại đạo không thể hại nổi ngươi, mà ngươi còn có thể ở chỗ cư trú dưới đáy biển, biến vỏ xác thành một động phủ. Một ngàn năm sau, công hành viên mãn, lúc đó ngươi có thể cùng con trai gặp mặt, và mời về một đạo sĩ cao minh lập một đạo tràng cực lớn, siêu độ cho rất nhiều oan hồn của những kẻ đã bị ngươi giết hại, từ đó sổ ghi những điều tội nghiệt mới được xóa sạch, tiền trình thuận lợi. Ngươi hãy chuyên tâm tu luyện, đừng để ý tới những chuyện khác .
                      Điền loa tinh nghe nói, gật đầu vài cái, tỏ ý tạ ơn. Tam thư đem những lời chú truyền thụ cho nó. Mọi việc xong xuôi, Tam thư bảo Tiên Tứ :
                      - Nơi đây không nên ở lâu, chúng ta về thôi !
                      Tiên Tứ vâng lời, cùng điền loa quấn quít một lúc nữa, ân cần khuyên nhủ, khuyến khích vài câu, mới cùng Tam thư xoay mình từ biệt, lên khỏi mặt nước. Tam thư nói :
                      - việc lớn của anh đã xong, hãy mau trở lại núi Thiên Thai, tiếp tục học bài học hàng ngày của anh đi !
                      Tiên Tứ xin vâng. Tam thư để anh tự đọc lời chú cưỡi mây, cả hai cùng bay lên không trung, hướng về phía Nam thẳng tiến.
                      Không bao lâu tới núi Thiên Thai, trở lại chỗ hang động cũ, Tam thư mới ngỏ lời từ biệt. Lúc lâm biệt, trịnh trọng dặn dò :
                      - Này công tử, từ nay về sau, trách nhiệm của anh càng ngày càng lớn. Anh đã lập chí cứu mẹ, phải làm sao đưa được mẹ ra khỏi biển mới kể là hoàn thành việc lớn của anh. Tất cả đều nhờ vào công hành của anh. Kiếp này tuy phải chịu khổ sở, kiếp sau sẽ có nhiều điều tốt lành. Trong năm trăm năm đầu, anh chuyên tâm tập luyện cho thành, năm trăm năm sau, tuy chưa thành tiên, cũng đã có được nhiều pháp lực, để có thể ra ngoài, đi rong chơi khắp nơi, gặp khổ cứu khổ, gặp nạn cứu nạn, làm cho đủ số những việc công đức đã được dự liệu. Lúc đó sư tôn sẽ đưa anh xuống phàm trần, chuyển kiếp. Sau lần chuyển thân này, chỉ cần anh giữ được bản tâm không mờ tối, là vài chục năm sau anh đã có thể thành đạo, lên tiên. Anh nên biết sư tôn hy vọng ở anh rất nhiều, chúng ta phận làm đệ tứ, đừng để phụ lòng kỳ vọng đó, mới là biết ơn sư tôn.
                      Tiên Tứ nhận là phải, lại hỏi Tam thư :
                      - Bây giờ, Tam thư đi đâu ?
                      - Tôi phải về núi Tây Kỳ phục mệnh sư tôn. Đại khái là việc của anh chưa tròn vẹn, e rằng tôi sẽ phải tới xử lý nhiều lần nữa.
                      - Tự nhiên phải vậy. Tôi là người được Tam thư nắm tay dẫn dắt, ngày nào việc công hành của tôi chưa thành, ngày đó Tam thư vẫn phải bận tâm nghĩ tới.
                      - Chẳng nên nói quá như vậy. Ngoài ra, có nhiều việc tôi vẫn chưa hiểu hết, chỉ biết rằng một ngàn năm sau, phải tìm cho được một đạo hữu làm pháp sư chủ trì đạo tràng cho mẹ anh, mà ngay bây giờ tôi phải lo toan.
                      Tiên Tứ không hỏi gì nữa, tiễn Tam thư ra khỏi cửa động. Vì cô thay mặt sư phụ để giáo huấn cho anh, anh không thể đối đãi với cô bằng cách xã giao thông thường, mà dùng đại lễ cung kính như đối với lão sư, quì xuống tiễn đưa tới lúc không thấy hình tung mới trở về động phủ.
                      Tam thư về Tây Kỳ, tham kiến Văn Mỹ chân nhân, chân nhân khen cô đã giải quyết công việc gọn gàng, đồng ý thu nhận cô làm đệ tử, và đặt cho pháp danh là "Tuệ Thông", ở luôn bên cạnh chân nhân, nghe sai bảo. Cứ vài chục năm, ông lại sai cô tới Thiên Thai một lần, điều tra công hành của Tiên Tứ.
                      Năm trăm năm sau, chân nhân đích thân tới Thiên Thai, truyền thụ đại đạo về luyện khí, luyện đan cho Tiên Tứ, lại đưa cho chàng hai quyển thiên thư, trong đó chép về ngũ hành độn pháp, cùng các cách vận dụng biến hóa, vời tướng khiến thần, thu yêu phục quái, đủ mọi phép thuật. Nếu một trăm năm luyện tập thành công, chân nhân mới cho phép chàng chu du thiên hạ, lập nhiều công hành.
                      Một ngày kia, chân nhân phóng tuệ tâm đi xa, biết được Tôn Kiệt đã đầu sinh qua hơn mười kiếp, ngàn năm có dư. Bấy giờ vào đời nhà Hạ và nhà Thương, Tôn Kiệt hiện đã giáng sinh vào một nhà giầu họ Trương, ở thành Lạc Dương. Ông họ Trương này tuổi vừa bốn chục, vẫn chưa có con nối dõi, Văn Mỹ chân nhân mới dạy Tiên Tứ xuống phàm, làm con trai Trương ông, cho tròn túc nguyện của một ngàn năm trước. Họ Trương có tên gọi là Thiên Thành, sinh được một trai, đặt tên là Trương Quả. Kiếp trước của Trương Quả chính là Tiên Tứ, vì túc căn thâm hậu, đẻ ra đã biết nói, thông tuệ khác thường. Năm cậu ta lên mười, Văn Mỹ chân nhân phái Tuệ Thông đạo cô tới chỉ điểm cho. Trương Quả tức thì tỉnh ngộ.
                      Trương Thiên Thành một đời hiếu thiện, hưởng dụng mười kiếp không hết, từ khi được Trương Quả làm con, vô cùng mãn ý. Tuệ Thông sợ ông ta mai sau có thể ngăn cản việc tu đạo của Trương Quả, lại nghĩ ông ta một đời công hành, thực căn ngàn năm, nhưng nếu không biết quay đầu nhìn lại, sẽ không tránh khỏi càng tiến càng xuống thấp, cuối cùng cũng có ngày rơi vào biển khổ. Nhân chỉ thị cho Trương Quả, cô cũng tiện dịp điểm tỉnh ông vài câu. Trương Thiên Thành biết được nhân quả kiếp trước, lại thấy Tuệ Thông cưỡi mây đạp mù mà đi, pháp lực vô biên, nên tin chắc rằng trên đời quả có thần tiên. Thần tiên chẳng qua chỉ là người phàm, tu luyện mà nên. Ông rất mừng cậu con đẻ ra đã có sẵn tiên căn, lại nghĩ tới bản thân mình đây, sợ rằng phúc lộc một khi đã hết, kiếp sau không khỏi chịu khổ. Vì thế ông lập chí tu đạo, thường đem ý mình nói với Tuệ Thông. Tuệ Thông mừng rỡ, nói :
                      - Cư sĩ được tiên nhân làm con, kiếp trước hẳn có tiên duyên, lại biết đem thân tu đạo, sự thành tựu đã thấy trước mắt.
                      Nhân đó, truyền thụ cho ông các khẩu quyết về việc tu dưỡng. Hai cha con đồng tâm đồng ý, nghĩ tới việc tu đạo. Thiên Thành đem một phần gia sản, phân tán cho những người cùng khổ, đợi sau khi vợ ông ta, tức là thân mẫu Trương Quả qua đời, sẽ chuyên tâm tu hành. Trương Quả được Tuệ Thông chỉ dẫn hội ý với thiên Thành để hai cha con đi trước tới miền sông Hoài, kết thúc vụ án điền loa tinh. Bấy giờ Trương Quả tuy tuổi còn trẻ, kiếp trước lập được nhiều công phu, cũng giống như lúc bé đọc sách, lớn lên ôn luyện, có thể đem ứng dụng. Trái lại cha cậu, mới học tiên quyết, chưa có chút công phu nào, nhất thiết phải nhờ người chỉ dẫn. Hai cha con hẹn với Tuệ Thông, cùng gặp nhau ở thôn Hoài Hải. Tuệ Thông thay mặt hai người tới tạ ơn long vương đã chiếu cố trong một ngàn năm qua.
                      Trong năm trăm năm cuối, La Viên pháp lực không nhỏ, thường hay ra tới tận biển du hành, thấy những sinh vật dưới nước gặp nguy, liền ra sức giúp đỡ. Có một lần, ở trên sông hoài có một đám thương khách ra biển kinh doanh. Vừa ra khỏi cửa biển, gặp ngay phải một cơn gió lớn, một thuyền hơn hai chục người, suýt nữa đắm. Vừa hay La Viên bơi ra đó, thấy cảnh đó, vội vã đưa vỏ ốc đỡ lấy con thuyền, đội thuyền lên, cứu được tính mạng cho hơn hai chục người. Không dè bản thân vì thế mà lộ ra. Vừa hay, có một yêu nhân là đồng đạo với lão giao trông thấy, liền cầm một cây roi sắt đánh đuổi. La Viên thấy nguy, bơi đi. Yêu nhân cầm roi, nhắm La Viên đánh xuống. Cây roi sắt của yêu nhân chưa kịp đánh trúng, đã có vị thần tướng ở dưới biển để bảo vệ La Viên, hay tin chạy tới, cầm chiếc chầy vàng, đánh nhau với yêu nhân, khiến nó phải bỏ chạy. La Viên nhờ vậy mới về được đáy biển.
                      Về sau, La Viên tu thành đại đạo, mới biến vỏ xác của mình thành một động phủ dưới đáy biển. Trong một vùng rộng lớn, cách xa nơi đó vài trăm dặm, có ánh sáng năm mầu chiếu lung linh. Nhiều yêu nhân thấy dưới biển xuất hiện báu vật kỳ lạ, kéo nhau tới tấn công. Cũng may có long vương đề phòng sẵn, phái ba ngàn thần binh tới, trấn giữ cửa ngõ thôn Hoài Hải, mới được vô sự. Những việc giúp đỡ như thế kể ra cũng nhiều. Lúc Tuệ Thông tới thủy tinh cung yết kiến long vương, long vương đã biết trước ý cô, ngó lời ca ngợi cô đã chịu nhiều vất vả. Tuệ Thông cười, nói :
                      - Bần đạo tới đây là để thay mặt ông bạn của đại vương, ngỏ lời cảm tạ, sao đại vương lại lên tiếng trước để ca ngợi tôi ?
                      Long vương cất tiếng cười vang :
                      - Chúng ta đều là người giúp đỡ ông bạn già, sao lại nói tới việc tạ ơn ? Nghe nói bà La Viên tuân theo pháp chỉ của Văn Mỹ chân nhân, mới lập ở chỗ động phủ của bà một đạo tràng, không hiểu vị pháp sư chủ trì là ai ?
                      - Việc này, năm trăm năm trước tệ sư đã tính sẵn, phải nhờ một vị đạo nhân què, họ Lý, đứng ra chủ trì việc trai đàn. Người này cùng với ông bạn già của đại vương có một mối pháp duyên, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp. Vị tiên què đó kiếp trước vốn là "tư hương lại" trên điện của Ngọc đế vì không giữ mồm giữ miệng, nhân ngày vạn thọ của Ngọc đế, đã cãi nhau với một vị "Tư hoa tiên quan". Hai người đều bị biến xuống trần, trải qua mười kiếp luân hồi. Cô "Tư hoa tiên nữ" trong lần giáng sinh đầu tiên chính là phu nhân của ông bạn già Tiên Tứ của đại vương, và như vậy là con dâu của bà La Viên phu nhân, người mới mở đạo tràng hiện nay. Tính tới ngày nay, hai vị tiên bị biếm chích đều đã trải qua mười kiếp luân hồi, nay kỳ hạn đã mãn, và hai vị đó đều giữ được bản tính không mờ tối, tu hành chính quả, có thể hồi chuyển về thiên tào, giữ nguyên chức. Tôi còn nghe hiện nay, cô tiên nữ sinh vào nhà họ Hà ở Giang Nam, ra đời chưa lâu, còn Ti hương lại nay thác sinh vào nhà họ Lý ở Hà Nam. Người ta còn truyền rằng ông ấy là hậu nhân của người cùng họ với Lão Quân tổ sư. Tổ sư từ thời Bàn Cổ tới nay đã chuyển kiếp làm người nhiều lần (1). Một trăm năm gần đây, ngài chuyển sinh làm người ở huyện Khổ, thu được một đệ tử là Văn Thủy chân nhân. Đúng vào lúc Ti hương lại chuyển sinh ở kiếp thứ mười, tổ sư liền phái Văn Thủy chân nhân tới chỉ điểm cho ông ta. Vì thế Lý tiên thành đạo khá nhanh.
                      Những người tu đạo từ trước đến nay chưa có ai gặp được kỳ duyên như thế. Tổ sư lại đích thân thu nhận Lý tiên làm đồ đệ, giữ lại bên mình để sai bảo. ông ấy có tiền trình quả là lớn vô hạn. Sở dĩ tôi nói Trương Quả và Tôn Tiên Tứ có tiên duyên gián tiếp là vì vợ Tiên Tứ chính là Tư hoa tiên nữ.
                      Long vương gật đầu, nói :
                      - Đúng vậy ! Việc Tư hoa tiên giáng sinh vào kiếp thứ chín, quả nhân có nghe nói, lại còn giúp chút công lao nhỏ cho nàng nữa đó !
                      ------------------------------
                      (1) cũng theo truyền thuyết, Lão Tử là ông Lý Nhĩ. Vì thế, nhà Đường mới tôn xưng ông là tị tổ của các vua nhà Đường.

                      Tuệ Thông không có thời giờ hỏi tới chuyện đó, lại nói tiếp :
                      - Tuy rằng chẳng đáng kể làm gì, nhưng theo qui củ của tiên gia thì hễ hai bên có chút quan hệ với nhau, đều gọi là "duyên". Vì thế ông tiên què cùng Trương Quả hiện thời cũng có thể nói là có chút tiền duyên.
                      Long vương cười, cho là phải, lại nói :
                      - Trong vỏ ốc mà lập đạo tràng quả là chuyện lạ, ngàn năm chưa từng nghe nói tới ! Xét cho cùng, diệu dụng của tiên gia khác với của người trần gian. Thịnh hội như thế, chắc hẳn lệnh sư (l) Văn Mỹ chân nhân, cùng nhiều vị tiên quan, tiên lại đều phải tới dự. Lúc đó, quả nhân cũng phải đích thân tới, để coi cho biết một thịnh điển hiếm khi gặp được ? Nhưng chẳng hay đã định ngày nào chưa ?
                      Tuệ Thông đáp :
                      - Chưa có ngày hẹn nhất định. Nhưng cũng phải đợi mấy người kia họp bàn kỹ lưỡng, sau đó tôi đích thân đi mời pháp sư, đạo tràng mới có thể mở được. Lúc đó nếu đại vương rảnh rỗi, hãy cùng tôi tới tham dự cho vui.
                      --------------------------
                      (1)    Thầy của cô. Chữ "lệnh" dùng để gọi tôn những điều sở hữu của người đối thoại (lệnh ái : con gái ông, lệnh đường : mẹ anh...)

                      Mọi người cùng cười ầm lên. Tuệ Thông nói xong, từ biệt long vương, đi mau về thôn Hoài Hải. Cô thấy tình hình trong thôn đổi khác hẳn. Trước kia vắng vẻ, cá tôm cũng không bơi tới, nay vì vỏ ốc phát sáng, thủy tộc khắp nơi, hễ có chút đạo hạnh, nghe việc lạ này, đều không ngại xa xôi ngàn, vạn dặm, kẻo tới xem, đồng thời những người quen mua bán các loại thủy sản cũng thừa cơ mở một thương trường. Không đầy mười năm, thôn Hoài Hải vắng vẻ ngày trước, trở thành một hải thị lớn, việc mua bán rất phồn thịnh. Tuệ Thông nhìn quang cảnh ấy, bất giác gật đầu tán thưởng. Lát sau, đi tới chỗ vỏ ốc của La Viên, biến thành động phủ. Ngôi nhà đó được kiến tạo theo nguyên hình của vỏ ốc; lối vào là một cửa hình tròn, rất lớn, vào tới bên trong phải đi quanh co theo hình xoắn ốc, thông tới chỗ thấp nhất lại là cửa hậu nho nhỏ, cũng hình tròn. Trong động rộng rãi khác thường, có thể chứa được tới vài ngàn người. La Viên đã hoàn toàn biến thành hình người. Riêng bà chiếm ngụ một phòng, phòng đó chia làm ba gian, hai bên đều có hành lang, thông suốt từ trước ra sau. Còn đồ đạc bày biện bên trong, tuy không hoa lệ lắm, nhưng cũng thanh nhã, đẹp đẽ. Tuệ Thông nghĩ thầm : "Theo tình hình này, có thể mời đón được nhiều vị thần tiên". Cô đang đi tham quan từ nơi này sang nơi khác, sớm đã có những người phục dịch trong động trông thấy, vội phi báo vào bên trong. La Viên phu nhân tiến ra, theo sau có cha con Thiên Thành, cùng nghênh tiếp cô.
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:53:02 bởi bevanng >
                      #11
                        bevanng 09.07.2008 16:50:49 (permalink)
                        Hồi Thứ 18

                        Kim sơn thành cổ tích
                        Đền ơn ở kiếp sau.


                        hồi trước, sách này có nói tới việc mở đạo tràng ở trong vỏ ốc, Tuệ Thông đạo cô có nói rằng vị pháp sư chủ trì đạo tràng là một ông tiên què, họ Lý. Nay chúng tôi sẽ nói tới tiểu sứ của vị tiên què đó, ông xuất thân ra sao, chứng đạo thành công thế nào, và kể rõ cả những việc ông tế nạn, cứu đời, cùng mối quan hệ của ông với Hà tiên nữ, nói rõ một lượt.
                        Các vị độc giả hiểu địa lý của Trung Quốc, hẳn biết rõ về một danh sơn nằm vắt ngang qua sông chứ ? Núi đó có tên là Kim sơn, chẳng phải một ngọn núi do thiên nhiên sinh ra đâu. Cách đây vài ngàn năm, nơi đó chẳng những không phải là đất bằng mọc lên một ngọn núi, mà ngay cả một vùng đất bình thường để người dân sinh sống cũng không hề có, nói tóm tắt một câu, đó chẳng qua chỉ là một vũng nước rộng mênh mông ở trung lưu của sông Dương Từ. Đến thời trung diệp nhà Chu, ở trên bờ sông đó có một thôn làng rất rộng, trong thôn có một người vừa đọc sách vừa làm ruộng, một vị quân tử ẩn cư, không chịu ra làm quan, gọi là Mã Thượng Nguyên, sinh được một gái, tài đức, dung mạo đều đủ, người ta gọi là Mã đại cô nương. Năm cô nương được mười tám tuổi, lấy chồng là một thư sinh họ Cổ, người cùng thôn, là một hàn sĩ nghèo rớt mồng tơi, lại có một bà mẹ kế hung hãn không ai bằng, là bà Vu thị. Đại cô nương về nhà chồng, cảnh mẹ chồng nàng dâu hiềm khích nhau cũng chưa từng thấy xưa nay. Vu thị thấy hàng xóm và họ hàng đều thân mật với đại vương, mà lạnh nhạt với mình. Bà ta không nghĩ thiên hạ sơ tình với mình là tại mình tính tình độc ác, trong khi đại cô hết sức dịu dàng. Trái lại bà ta còn nghi đại cô đã nói xấu bà trước mặt người khác. Hơn nữa Vu thị là người có thành kiến cứng ngắc, hễ bà đã nghĩ gì, không ai có thể lay chuyển nổi. Tuy đại cô cố giữ hiếu đạo, hy vọng mẹ chồng sẽ thay đổi mà thương yêu mình, nhưng Vu thị lại nói : "Nó cố tình che giấu gian ý, để người ngoài nhìn vào tưởng nó ngoan lắm, chứ thật tình lòng nó chứa gươm đao, hận không thế đâm chết tôi thôi".
                        Đại cô chịu đựng tất cả oan tình đó, không dám nói cho chồng biết. Cổ thư sinh là một người con hiếu, thông tình đạt lý, biết mẹ và vợ bất hòa, chẳng dám phê bình mẹ là sai, trước mặt vợ không dám có câu nào an ủi, khuyên can. Trái lại, thấy mặt vợ ủ dột chàng còn trách nàng không tròn hiếu đạo. Vì thế, gia đình này càng xào xáo. Ngày lại ngày, bất giác mà đã qua năm, sáu năm. Cổ thư sinh rất khó xử, không tài nào điều chỉnh được chuyện gia đình. Chàng cũng biết vợ mình là một người đàn bà hiền đức, hàng ngày bị mẹ kế của chồng đánh chửi vô lý, làm sao có thể nhẫn tâm đẩy sóng nhỏ trợ giúp sóng lớn để làm khổ vợ mình ?
                        Vu thị chẳng những giở mọi thủ đoạn để hành hạ con dâu, còn ngày đêm trách oan con trai, nói anh ta bênh vợ để cãi lại mẹ, sủng ái vợ để ngỗ ngược với mẹ. Tội bất hiếu còn gì nặng hơn ?
                        Cổ thư sinh quá đau khổ vì cảnh gia đình, quyết định đi ra ngoài để tìm cơ hội. Vừa may có một người bạn giới thiệu chàng với một nhà buôn, trợ giúp ông ta trong việc mua bán. Cổ thư sinh nghĩ nên nhân dịp này xa nhà một thời gian, thứ nhất là tránh được cảnh gia đình bất hòa, thứ hai là kiếm được tiền gửi về nuôi mẹ.
                        Cổ thư sinh đi rồi, Mã đạo cô phải thay chồng làm bổn phận của người con trai, tìm trăm phương ngàn kế để kiếm tiền phụng dưỡng Vu thị. Chẳng dè bà ta thấy nàng kiếm ra tiền, lại nói nàng nhất định có bồ bịch, nếu không, ở đâu kiếm ra nhiều tiền thế ?
                        Những câu nói bóng gió đó khiến đại cô phải bịt tai chịu đựng, nổi khổ so với lúc chồng còn ở nhà lại tăng gấp mười. Nàng phẫn chí, lăn ra đất, chết giấc hồi lâu. Vu thị chẳng thèm để ý tới nàng, còn nói nàng giả bộ chết để dọa. Tất nhiên đại cô chết giấc một hồi, rồi cũng tỉnh lại. Vu thị đắc ý nói : "Đấy, tôi nói có sai đâu. Con tiện nhân này mưu mô giỏi lắm. Lần sau nó chết thật, tôi cũng mặc xác!".
                        Trong lúc oán hận, đại cô cũng muốn chết thật để làm sáng tỏ chí của mình, nhưng sau nghĩ lại : "Chẳng thà để mẹ bất từ, ta cũng quyết không tỏ ra bất hiếu. Vả lại chồng ta lúc lâm biệt có dặn dò ta không nên chán sống, kẻo lấy ai phụng dưỡng mẹ già đã suy yếu ? Vi thế nàng càng nhẫn nhịn, dầu oan khổ cách mấy cũng ráng chịu đựng.
                        Cổ thư sinh gửi về được bao nhiêu tiền, Vu thị tóm hết ráo, không cần biết đến đại cô sống chết ra sao. Lại nhân có tiền chi dùng, không cần tới đại cô nữa, càng thêm ghét bỏ, thấy mặt con dâu như cái đinh trước mắt, nghĩ cách nào để tống khứ nàng đi. Mụ đánh tiếng bán nàng đi, muốn mua về làm vợ lẽ, làm con hầu đều được mà giá cả cũng không thành vấn đề.
                        Bấy giờ, trong thôn có một tên ác bá, tên là "Hoạt Lão Hổ" (cọp già sống) từng nghe đại cô tài sắc kiêm toàn, nuôi dạ bất lương đã lâu, hận rằng đại cô giữ trinh khiết, hắn không có cơ hội mà lợi dụng. Nay nghe tin này, hắn mừng quá, sai người tới thương lượng, đòi giá bao nhiêu, trả ngay giá đó, ước hẹn hôm sau làm lễ đón dâu.
                        Hôm sau, Vu thị bỗng gọi đại cô tới, dịu nét mặt, cất giọng ôn tồn nói với nàng. Đại cô thấy vậy, tỏ vẻ ngạc nhiên, nghe mụ nói :
                        - Năm xưa bố chồng của con mắc bệnh nặng, có tới khấn nguyện ở miếu của thần sông. Về sau, ông qua đời, mẹ cũng quên trả lễ không ngờ đêm qua nằm mơ thấy một giấc mộng. Mẹ mơ thấy thần sông sai người tới trách mẹ đã thất hứa, mẹ mới nói : "Lời hứa thật tình con chẳng dám quên đâu, mà vì con quá già yếu, đi đứng bất tiện, mới để diên trì tới tận hôm nay". Người đó nói: "Nếu thế, người có thể sai con dâu đi thay, cũng được vậy". Lúc mẹ tỉnh dậy, cảnh trong mộng dường như còn rành rành trước mắt, không quên điểm nào, cho thấy chuyện này hoàn toàn chính xác, không chút giả dối. Con dâu yêu quí, con hãy thay mẹ đi một chuyến nhé. Sau này chồng mày về, nhất định cảm kích, thương yêu mày lắm đấy!
                        Đại cô từ ngày chồng đi khỏi, chưa hề thấy mẹ chồng đối xử với mình từ tế như thế, lại nghĩ đây là lệnh của mẹ, mình cứ tuân theo, không chừng bà nghĩ lại, biết thương yêu mình chăng ? Vì nghĩ vậy, nàng cũng dạ dạ tuân lời. Chừng trở về phòng riêng, nàng suy nghĩ, thấy chuyện này vô lý quá, không biết bên trong có ẩn chứa mưu mô gì hay không ?
                        Hôm sau, nàng dậy sớm, rửa mặt chải đầu sơ qua, đã nghe Vu thị nói :
                        - Bên ngoài, xe đã tới, con mau mau lên xe đi !
                        Đại cô càng ngạc nhiên, buột miệng hỏi một câu :
                        - Sao mẹ lại phải mướn xe ? Con dâu mẹ dẫu yếu ớt, một lộ trình bảy tám dặm làm gì đến nỗi không đi nổi ? Hà tất phải mướn xe ? Chẳng phí tiền của mẹ lắm sao ?
                        Vu thị cưới đáp :
                        - Đừng nói lôi thôi, mau đi đi. Con cần đi cho nhanh, chừng một buổi về liền, đừng để mẹ cô đơn, chịu không nổi. Có xe thay chân, đi nhanh hơn chứ. Vả lại lúc này, chồng mày gửi tiền về, nhà mình cũng dư giả, chút tiền xe ngựa nhỏ nhoi so kè làm chi ? Con đừng nhiều lời nữa, đi cho mau, về cho sớm ! Đừng để mẹ phải ngóng chờ nhé !
                        Đại cô đã biết lần đi này là ngụy kế, lành ít dữ nhiều, nhưng chung qui nàng cũng đoán không ra là mưu mô gì. Tuy nhiên, người đã chán sống như nàng, thì chết là cùng, có gì phải sợ ?
                        Nàng từ biệt Vu thị, ra khỏi cổng lớn, quả thấy có xe ngựa đậu sẵn, còn có nhiều người phu xe đi kèm. Nàng chợt hiểu nội dung chuyện này, nhưng cũng bất cần, leo lên xe đi ngay.
                        Đi chừng ba, bốn dặm, xe quẹo sang đường khác, không phải lối đi tới miếu thần sông. Đại cô hiểu ra liền, vén rèm nói với người đánh xe :
                        - Tạm dừng xe, cho tôi hỏi một câu!
                        Người kia nghe lời, hãm cường ngựa, cỗ xe từ từ ngừng bánh.
                        Đại cô không biến đổi sắc mặt, thung dung hỏi :
                        - Các vị có phải những người do mẹ chồng tôi mướn, để đưa tôi tới miếu thần sông hay không ?
                        Mấy người phu xe nghe hỏi, đều tỏ vẻ ngạc nhiên, nói :
                        - Không phải đâu. Chúng tôi là người của Lưu đại nhân, ở thị trấn phía Tây, sai đi đón dâu đây mà. Chuyện này sao nương tử còn mờ mờ mịt mịt, chẳng biết gì cả ?
                        Trong nhóm có một người có vẻ là người cầm đầu nhóm phu xe, nói :
                        - Chuyện này tôi hiểu rõ hơn ai hết. Đại khái là vị tiểu nương tử không chịu lấy Lưu đại nhân, mà bị bà già chồng ép gả, có đúng không ?
                        Đại cô chưa kịp đáp, những người kia đã tranh nhau hỏi :
                        - Làm sao anh biết dược ?
                        - Chuyện sờ sờ trước mắt, làm gì không thấy ? Bà kia làm chủ, bảo sao nghe vậy, là việc quang minh chính đại, tại sao phải giở trò giấu giấu, diếm diếm như thế này ? Từ nhà tới miếu thần sông không xa, hà tất phải bày vẽ xe ngựa rềnh ràng ?
                        Đại cô nghe mấy người phu xe nói chuyện với nhau, đã hiểu sự tình, ngồi ngây người ra, không nói một câu. Tình cảnh của nàng lúc này chẳng khác gì của con nai nhỏ sập bẫy. Về nhà chồng không được nữa rồi, mẹ chồng dứt khoát không chứa. Trở về nhà cha mẹ cũng không xong : cha mẹ nàng mất đã lâu, nàng chẳng có anh em trai, chị em gái, chỉ còn một đứa em gái, con nhà chú, nhưng nó lại không phải người tốt. Thôi thì, tiến thoái lưỡng nan, một liều ba bảy cũng liều !
                        Cuối cùng, chiếc xe ngừng lại bên bờ sông, có chiếc thuyền đón dâu của nhà họ Lưu đang đậu sẵn. Mã đại cô nghĩ thầm :
                        Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
                        Thử xem con tạo xoay vần đến đâu ? (Kiều)

                        Từ trên thuyền bước xuống hai cô hầu gái, dìu đại cô lên thuyền, con thuyền tách bến, ra giữa giòng sông. Đại cô đột nhiên lấy hết sức mạnh, đưa cả hai tay xô hai cô hầu gái ngã lăn ra ván thuyền. Nàng chạy nhanh ra mạn thuyền, nhìn những đợt sóng nhấp nhô trên sông, lao mình xuống. Người trong thuyền nháo nhác chạy ra, chỉ thấy sóng cả, nước sâu, không sao cứu kịp nữa.
                        Đại cô nhảy xuống sông rồi, bị sóng đánh đi xa, đưa xuống hạ lưu, không biết đã bao lâu. Bấy giờ có một vị đạo nhân, tuổi đã hơn trăm, lông mày và râu đều bạc phơ, mà tinh thần còn quắc thước. Nhân có việc qua sông, ông cầm bánh lái một chiếc thuyền từ từ mà đi. Chợt ngửng nhìn về phía thượng lưu, ông thấy một cô gái đang trôi theo giòng nước, chẳng biết còn sống hay đã chết.
                        Đạo nhân này vốn có lòng từ bi, có ý muốn cứu cô. Nhưng cả đời ông chưa hề gần nữ sắc, từ lớn đến già chưa từng đụng tay đụng chân vào con gái, dính đến da thịt. Hiện tại tuổi ông đã cao lắm rồi, vẫn không muốn để đàn bà con gái phá giới hạnh suốt đời của ông. Nhưng nhất quyết không đụng tới thân thể cô gái, làm cách nào để cứu cô đây ?
                        Nước sông chảy rất xiết, cơ hội cứu cô chỉ trong chớp mắt, đạo sĩ trầm ngâm suy nghĩ, khẳng khái nói :
                        - Chẳng thà mất giới hạnh, quyết chẳng thấy chết không cứu ! Ông mới đưa thuyền lại gần xác cô, đưa cây sào đụng vào thi thể, dùng hết sức khều về phía thuyền. Ai ngờ đại cô ngâm nước đã lâu, hồn đã bay đi xa, không còn hy vọng trở về. Đạo sĩ nghĩ thầm : "Cô này không còn hy vọng sống lại, cũng nên vớt lấy xác cô, đem lên bờ mai táng, mới là chính lý". Nghĩ rồi đem hết sức lực, lôi kéo cái xác lên thuyền. Không ngờ bụng xác chết đã trương phình, ngực đã phù thủng, đạo sĩ kéo về được nửa chừng, mới nắm được một cẳng, bỗng đâu một đợt sóng lớn ập tới, lật úp chiếc thuyền của đạo nhân. Đạo nhân không thể ngó tới xác chết nữa, nhưng nhờ bơi giỏi đã giữ được tính mạng.
                        Thi thể đại nương lại tiếp tục trôi xuống hạ lưu, không biết là trôi giạt tới nơi nào. Đạo nhân leo được lên bờ, nghĩ mình vốn có ý cứu người, mà mắc phải đại nạn, suýt mất mạng. Lại nghĩ ngợi mãi về việc cứu người không thành, lương tâm cắn rứt, lòng chẳng được yên, bất giác mắc chứng ngớ ngẩn, mấy tháng trời nằm thoi thóp như thể chết rồi.
                        Linh hồn đại cô được thần sông thâu nhận, đưa về Thủy Tinh cung. Long vương trọng cô là người tiết nghĩa, hiếu thuận, rất mực kính lễ . Nghe nhắc tới việc kiếp trước, đại cô hoảng hốt tỉnh dậy, long vương cười, phán :
                        - Ngươi còn có một người đồng đạo, cùng với người mắc tội và bị biếm chích một lượt. Sự việc này phải đợi hết kiếp này mới giải quyết xong. Tới kiếp sau, hai người cùng mãn thời gian biếm chích, để tu đạo, trở về với bản chân. Người kia sinh ra là một đạo nhân, thành tâm lo tu hành, giữ giới luật rất nghiêm, năm nay đã được hơn một trăm tuổi rồi. Vì vớt xác ngươi, mà ông ta bị thương tổn, vừa buồn rầu vừa hối tiếc, chẳng bao lâu cũng qua đời thôi.
                        Đại cô nghe nói, chạnh lòng bi thương, nói :
                        - Vì mạng sống khổ sở của thần thiếp, đã để hại cho nhiều người, ai ngờ chết rồi vẫn còn để liên lụy tới người tốt mắc tai ương, chẳng đáng buồn lắm sao ?
                        Long vương nói :
                        - Chỉ tại mạng số của ông ta như vậy thôi. Tuy vì người mà ông ta bị thương, bị thương rồi chết, nhưng chẳng can dự gì tới ngươi. Bất quá ông ta vì vò tình mà làm thương tổn tới cẳng chân ngươi, e rằng kiếp sau ông ta sẽ mắc một chút thương tật nhỏ thôi, chứ tính mạng và việc công hành của ông ta chẳng sao cả.
                        Đại cô nghe vậy, vẫn cảm thấy áy náy trong lòng, long vương phải khuyên cô hãy bỏ qua đi.
                        Cách đó một thời gian, Cổ thư sinh đi buôn, kiếm được rất nhiều ngân lượng đem về. Vừa hay mẹ kế Vu thị chết được mấy ngày, chàng buồn rầu khóc lóc. Lại tới các nhà bạn bè hỏi thăm, biết được chuyện vợ mình tuẫn tiết, chàng đau đớn muôn phần, đem tất cả chỗ vàng bạc châu báu hiện có quăng xuống sông, ở chỗ ngày trước vợ chàng đâm đầu. Nhân đó, chàng bỏ nhà, đi học đạo, không biết về sau ra sao.
                        Câu chuyện này được đồn đại, xuống tận Thủy Tinh cung. Long vương mời đại cô tới, kể cho nghe chuyện rõ ràng, nhân đó nói :
                        - Vợ chồng nàng tiết liệt, hiếu nghĩa, quỉ thần đều kính phục. Chồng nàng đã xuất gia, tiền trình sẽ rộng mở vô hạn ? Về phần nàng, chẳng bao lâu quả nhân sẽ viết điệp văn đưa xuống âm phủ, cho nàng chuyển kiếp làm người. Công hạnh một ngàn năm của nàng, đến đây kể đã viên mãn ! Quả nhân nghĩ tình vợ chồng nàng hiền đức, mà chịu gian khổ, đã truyền cho thần sông nhằm chỗ nàng tận tiết, và chồng nàng ném vàng bạc châu báu, đắp một hòn đảo ở giữa sông, trên đó lập nên một ngọn núi lẻ loi, để người sau lấy chỗ chiêm bái. Lệnh dụ đã truyền ra rồi, chắc chẳng bao lâu sẽ đem thực hiện.
                        Đại cô cảm kích lạy tạ.
                        Về sau, quả nhiên giữa sông mọc lên một ngọn núi, người đời biết được nguyên nhân ngọn núi đó xuất hiện, mới đặt tên cho là núi Kim sơn. Một ngàn năm sau, núi càng cao thêm, mặt đất hòn đảo cũng mở rộng thêm, đến nay kể là một thắng cảnh của Trung Quốc.
                        Lại nói về hồn của Mã đại cô được điệp văn của long vương đưa đi đầu thai, vì không quên tòa Kim sơn, lúc chuyển kiếp làm người, mới sinh ra ở nhà một người họ Hà, ở dưới chân núi Kim sơn. Vừa đẻ ra đã biết nói, thần linh không mờ tối. Vừa "Oa oa" tiếng khóc chào đời, đã chê những đồ mặn và tanh tưởi. Lớn lên, lập chí tu đạo. Cha nàng là Hà Kiệt, mẹ là Lưu thị, đều là thiện nhân trung hậu, rất tin thần, Phật, thấy con gái có ý đó, rất tán thành, chẳng hề ngăn cản. Thấm thoắt mà đã qua hơn mười năm, cô nương nhũ danh là Lan Tiên, ở nhà tu đạo, không thấy có tiến bộ bao nhiêu, mới xin với cha mẹ cho rời nhà đi chơi xa, tìm tiên nhân cầu xin truyền thụ đại đạo. Vợ chồng Hà Kiệt đều đã ngoài bốn mươi, chỉ sinh một gái, nếu để nàng rời xa dưới gối, chẳng thể yên lòng, mà nhà neo đơn càng thêm tịch mịch. Vì thế ông bà mới cùng Lan Tiên bàn bạc, hy vọng lúc cô lớn lên có thể gả chồng, nhưng cô không chịu.
                        Lan Tiên lớn dần, mọi việc đều giỏi dang. Bỗng có một đạo nhân tuổi còn trẻ, tới nhà hỏi thăm: Tôn Kiệt lấy làm lạ, hỏi con gái đã quen biết đạo nhân này ở đâu, Lan Tiên trả lời là không biết. Hai cha con cùng ra gặp mặt. Chỉ thấy đạo nhân đó thần thái tú dật, cốt tướng thanh kỳ, dáng vẻ lâng lâng của bậc thần tiên.
                        Lan Tiên vừa nhìn đạo nhân, tưởng chừng như đã gặp ở đâu một lần. Đạo nhân thấy mặt cô nương, cũng lộ vẻ khác lạ. ông ta tiến lên phía trước, khoanh tay chào hai cha con. Hai người vội đáp lễ, hỏi đạo nhân pháp hiệu là gì, quê quán ở đâu ? Đạo nhân vừa ngồi xuống vừa nói:
                        - Tôi họ Lý, tên Huyền, người đất Hà Nam, cùng tiểu thư đây có duyên từ nhiều kiếp trước. Lúc chuyển thế, xuống trần, nhớ tới những sự việc của tiểu thư từ kiếp trước, nên cố tình tới thăm một lần, cho vẹn túc duyên.
                        Nói rồi, liền đem tiền nhân hậu quả ra nói hết.
                        Đây nhắc lại về sinh hồn của Mã đại cô, vì không quên Kim sơn, và đạo nhân đã vì cô mà bị hại, mới đầu thai vào làm con gái nhà họ Hà ở dưới chân núi Kim sơn. Lúc "Oa oa" chào đời, cô đã thông linh tính nên biết nói. Từ nhỏ đã không ăn mặn, không mặc áo gấm, lập lời thề không lấy chồng. Năm cô lên bảy, có Huyền Nữ hóa thân làm đạo bà tới chỉ điểm. Cô nương sinh ra đã sẵn thông minh, nhận ngay ra Huyền Nữ là chân tiên hạ phàm. Thành tâm xin bà chỉ giáo. Nhưng cô luôn luôn tưởng nhớ, không quên được chuyện kiếp trước, chỉ mong mỏi tìm được chỗ đạo nhân đầu thai, đợi ông thành thần tiên trước cô, sẽ hóa độ cho cô. Huyền Nữ tán thán :
                        - Việc này có số định trước, không thể miễn cưỡng. Nhưng đạo sĩ mà con nói tới, ta biết là đã đi đầu thai vào nhà họ Lý ở Hà Nan sau này sẽ là đệ tử của Lão Quân tổ sư. Con đã lập chí cao như thế, hãy đợi ông ta thành đạo, sau đó ta sẽ đem ông ta tới gặp con.
                        Nhân đó, bà truyền cho cô nhiều khẩu quyết về luyện khí, luyện tâm, dẫn đạo, tịch cốc, lại đem các phép thuật phòng thân, ăn thân tránh phi kiếm, truyền hết cho cô. Cô nương nhất nhất lãnh hội. Huyền Nữ dặn dò thêm vài câu, rồi trở về trời. Cô nương chuyên tâm nhất chí, ở nhà tu trì, để đợi Lý tiên đến.
                        Nay lại kể chuyện về ông tiên què. Bấy giờ ở đất Lạc Dương có một nhà quan, họ Lý tên Kỳ, có vợ là Vưu thị, chỉ sinh được một trai, đặt tên là Lý Huyền. Khi sinh Lý Huyền, Vưu phu nhân nằm mộng thấy một đạo nhân chui vào bụng mình, liền tỉnh dậy, ngửi thấy một mùi hương lạ tỏa ra khắp phòng, và liền nghe tiếng trẻ khóc "Oa oa". Vợ chồng biết đứa con này có một lai lịch, nên rất sủng ái. Không ngờ Lý Huyền lớn lên có tính kỳ lạ : không nghĩ tới chuyện làm quan, chỉ cầu xuất gia tu đạo. Lại thường trước mặt cha mẹ nói những chuyện kiếp trước, kể rằng bản thân mình là một đạo sĩ, cả đời hiếu thiện, chưa từng làm một chuyện xấu nào.
                        Không ngờ lúc lâm chung, chuyển sang kiếp khác, từng vì cứu một cô gái mà làm tổn thương tới thi thể cô ta. Đó là điều đau lòng bậc nhất, đến nay còn canh cánh trong dạ. Hài nhi sau này đắc đạo, trước hết phải tìm cô gái đó, tỏ lòng ăn năn hối hận trước mắt cô ta, mới có thể đắc đạo. Những câu nói như vậy, Lý Kỳ cho là lời nói sảng, thét mắng gạt đi, không cho ăn nói hồ đồ như thế nữa. Nhưng phu nhân lại rất tin tưởng thần tiên, ngỏ lời an ủi. Rốt cuộc, Lý Huyền vẫn không bỏ qua được những việc đó.
                        Thấm thoắt mà đã mười năm. Bỗng một hôm có Thái Bạch kim tinh, nhận lời ủy thác của Lão Quân tổ sư, cưởi mây bay đến, giáng xuống nhà họ Lý. Vợ chồng lý Kỳ cùng toàn thể gia nhân quì xuống thắp hương, khấu đầu nghênh tiếp. Thái Bạch mỉm cười nói :
                        - Đại phu và phu nhân đừng nên đa lễ. Bần đạo cùng công tử có duyên với nhau, nên tới gặp mặt, xin đại phu kêu công tử ra đây cho tôi nói chuyện một chút. Lý Kỳ nghe vậy, rất sợ lão tiên dẫn con trai mình đi, nên cứ ngần ngừ. Nhưng phu nhân thẳng tính, vội sai người ra trường học gọi Lý Huyền về. Lý Huyền vừa thấy mặt Thái Bạch, tưởng chừng như đã quen biết từ lâu, liền cúi đầu, vái tám vái. Thái Bạch nắm tay cậu bé, nói :
                        - Cách biệt đã ngàn năm, vẫn còn nhớ được bần đạo ư ?
                        Nói rồi, đưa tay vỗ lên đỉnh đầu cậu ba cái, Lý Huyền đột nhiên nhớ lại những chuyện từ chín kiếp trước, vội quì gối, khấu đầu, nói :
                        - Sư phụ mau cứu đệ tử thoát khỏi biển khổ.
                        Thái Bạch cười nhạt:
                        - Thiên hạ không hề có chuyện làm thần tiên dễ dàng như thế. Nếu làm thần tiên mà dễ, thì thần tiên trên đời có khác chi người phàm ?
                        Lý Huyền nghe nói, liền đại ngộ, nói :
                        - Sư phụ hãy dẫn con đi theo. Đệ tử sẵn sàng chịu tai ương, dứt bỏ hồng trần, quyết không hối hận.
                        Lý Kỳ nghe con nói vậy, trong lòng sợ lắm, định tìm cách ngăn cản. Thái Bạch phất tay áo một cái, tức thì kim quang xuất hiện đầy nhà, đối mặt không nhìn rõ nhau. Kim quang vừa tan, Thái Bạch cùng Lý Huyền không biết biến đi đằng nào.
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:58:08 bởi bevanng >
                        #12
                          bevanng 09.07.2008 21:56:46 (permalink)
                          Hồi Thứ 19

                          vì tu tiên, không từ hiểm trở
                          Bởi cầu đạo, lại gặp yêu ma


                          Lý Huyền bị Thái Bạch kim tinh nhấc bổng lên, đưa qua khỏi bức tường, đem tới một nơi nọ. Chân vừa chạm đất, mớ mắt ra nhìn, thì... ôi thôi, Thái Bạch kim tinh biến đi đằng nào, mà nơi đây là vùng đất lạ hoắc, mình chưa hề đặt chân tới. Nhìn lại bản thân, thấy mình đang đứng giữa một phố chợ đông đúc. Định thần nghĩ lại, mới biết Thái Bạch dẫn mình tới đây ắt có chủ đích.
                          Trước mắt chưa biết về đâu, nhưng tương lai chắc có chỗ tốt. Vì thế, lấy can đảm, vững bước tiến tới. Lên tiếng hỏi thăm mới hay mình đang ở dưới chân núi Hoa sơn, cách xa gia đình ở Lạc Dương tới vài trăm dặm. Lý Huyền biết được diệu dụng của tiên gia, lòng thầm kinh hãi. Lại vui mừng vì từ bé đã nghe nói Hoa sơn là nơi mà Lão Quân tổ sư thiết lập động phủ một bên vách núi. Nay người tiên đem ta đến chỗ này, ắt là chỉ cho ta con đường đi tìm tiên, hỏi đạo, tránh cho ta khỏi phải mò mẫm thăm dò.
                          Nghĩ vậy, bèn hướng lên không trung mà vái, tỏ ý tạ ơn. Loay hoay một hồi, bỗng cảm thấy toàn thân nóng hừng hực, mồ hôi rơi lã chã, lòng thầm cảm thấy kỳ quái. Chẳng lẽ nơi đây khí hậu nóng hơn trung nguyên rất nhiều ? Mình mới ra khỏi Lạc Dương, lúc đó ở nhà mà không mặc áo bông thì đến chết rét, Hoa âm cách đó không xa mà sao thời tiết biến đổi nhanh thế ? Đang suy nghĩ, bỗng thấy trước mặt, một ông già đi tới, Lý Huyền vội tiến lại hỏi thăm. Ông già liền cất tiếng cười hì hì, nói:
                          - Tiểu ca, giữa mùa hè nóng bức tại sao cậu lại mặc áo bông ? Như vậy có thích hợp với cơ thể không ? Cậu hãy coi lão đây, lớn tuổi hơn cậu rất nhiều, mà vẫn chỉ phong phanh một chiếc áo cánh, khác cậu rất xa.
                          Lý Huyền chợt hiểu ra, lúc này đang độ giữa hè, khí trời nóng bức. Chẳng cần nói cũng biết cái ông Thái Bạch kim tinh này, chẳng những trổ phép rút đất, còn thi thố cả thuật thay đổi thời tiết nữa. Quả là diệu đạo của thần tiên đã đoạt được công tạo hóa của trời đất ! Lý Huyền không tiện nói rõ nguyên do sự việc, chỉ nói vài câu hàm hồ rồi từ biệt ông lão. Cậu lại sợ quần áo của mình không hợp thời, khó tránh khỏi thiên hạ nhìn soi mói, và cũng vì sức nóng mãnh liệt nữa, cậu không dám đi tiếp trên đường phố náo nhiệt, mới tìm những đường vắng vẻ, râm mát mà đi. Lúc này việc quan trọng nhất là phải dự bị quần áo mùa hè, mới có thể hoạt động không trở ngại. Lại cũng may là không cảm thấy đói bụng, cậu tìm những nơi hoang dã mà đi.
                          Đi hồi lâu, đã xa chốn chợ búa, Lý Huyền cởi áo bông, vắt ngang tay, tiếp tục tiến bước. Nhìn sắc trời đã thấy bóng hoàng hôn, Lý Huyền ngó quanh, nghĩ tới chuyện tìm một nơi nào để ngủ đỡ qua đêm, nhân tiện tìm đường lên núi Hoa sơn. Nhìn quanh, chẳng thấy bóng nhà cửa gì. Đang lúc khó khăn, chợt thấy một chú tiểu đồng đang chăn trâu, tay cầm ống sáo ngắn, ngồi trên mình trâu, thổi lên những điệu nhạc du dương, hướng về phía núi cao, rừng rậm mà đi. Lý Huyền mừng rỡ nghĩ thầm : "Đã có mục đồng, ắt có thôn trang. Ta có thể hỏi thăm một tiếng xem sao".
                          Cậu mới tiến về phía trước, cất tiếng gọi : - "Anh chăn trâu !".
                          Mục đồng không leo xuống trâu, chỉ mỉm cười, hỏi :
                          - Vị ca ca này ở đâu tới ? Định đi đâu ? Hỏi tôi có chuyện gì ?
                          Lý Huyền đem ý mình nói lại, hỏi cậu kia cho biết có thể tìm đâu ra chỗ nghỉ trọ. Mục đồng cười hì hì, nói :
                          - Cậu nhìn đó, bốn phía đều là sơn dã, làm gì có thôn trang ? Chỉ có nhà tôi ở sau núi, ở giữ rừng giùm thiên hạ thôi. Cha tôi nuôi được con trâu này, hàng ngày bảo tôi cưỡi nó, tìm nơi có cỏ cho nó ăn. Nếu cậu không biết chỗ nào để đi, hãy theo tôi về nhà nghỉ một đêm, sáng mai trở dậy đi tiếp.
                          Lý Huyền mừng lắm, nói :
                          - Chưa thấy ai nghĩa khí như anh.
                          Mục đồng xuống trâu, nắm tay Lý Huyền dắt đi, nói :
                          - Tiểu ca, chúng ta cùng đi thôi !
                          Lý Huyền cảm tạ mục đồng thêm vài câu, theo chân cậu ta đi men núi xuyên rừng, qua nhiều khúc quanh. Trong lúc đi đường, hỏi thăm mục đồng tên họ là gì, mục đồng nói :
                          - Tôi họ Vương, được người ta gọi là "Vương Tiểu Nhị", cha tôi là "Vương Đại Quan Nhi". Ông ấy nay đã già, nên ít khi ra ngoài, nhưng nếu có khách phương xa tới ngủ trọ, ông ấy vui mừng lắm.
                          Lý Huyền nghe vậy rất mừng. Không bao lâu đã tới chỗ sau núi, quả thấy một căn nhà tranh cất bên bờ suối. Xa xa, thấy một người đàn ông đã quá trung niên, đang đứng trước cửa nhà. Mục đồng nói:
                          - Đó là cha tôi.
                          Lý Huyền vội tiến lại hành lễ, cất tiếng: "Dạ !” Mục đồng thay lời cậu nói lại ý muốn ngủ nhờ, Vương Đại Quan liền hoan hỉ nói:
                          - Cậu là một vị công tử, dễ gì mỗi lúc tới được đây, quả là quý khách của chúng tôi!
                          Liền bảo mục đồng mau đưa trâu về chuồng, rồi lấy quần áo cho công tử thay. Rồi tự mình nắm tay, dắt Lý Huyền lên thảo đường, bảo con đi nấu nước pha trà. Vương Tiểu Nhị cười hì hì, đi lấy quần áo của mình cho Lý Huyền thay, và nói :
                          - Hèn chi cha tôi gọi cậu là một vị công tử. Cậu coi đó, bộ quần áo cậu đang mặc quá sang trọng. Những nhà tài chủ trong thôn làng chúng tôi làm sao sánh kịp ?
                          Bấy giờ, Lý Huyền mới biết vì sao cha con ông kia lại gọi mình là công tử, nhân đó nói :
                          - Đội ơn lão trượng và tiểu ca quan tâm ! Nếu tiểu ca thích bộ quần áo của tôi, tôi xin dâng hiến ngay !
                          Vương Đại Quan phất tay lia lịa :
                          - Làm vậy không được ! Khoan nói là vô công không nên nhận thưởng, lão nhi ta ở đây mấy chực năm, chưa hề dùng tới những vật hoa mỹ bao giờ. Nhà nghèo cứ an hưởng cảnh nghèo, đừng để bỗng không chặt đứt phúc lộc của mình, còn mang họa nữa. Tiểu Nhị mau xếp gọn quần áo giùm công tử, rồi đi pha trà, nấu cơm. Đừng ở đó mà cà rề cà rề !
                          Tiểu Nhị cười mà bỏ đi. Hai cha con sơn dã này quả là những con người giữ được thiên chân, rất đáng yêu. Tiểu Nhị đi rồi, Đại Quan hỏi thăm Lý Huyền về cuộc hành trình vừa qua. Lý Huyền thấy ông ta thành thực, không nỡ giấu, cứ đem tình thật khai ra hết. Nhân tiện hỏi thăm về đường lối lên Hoa sơn. Đại Quan nghe hỏi, không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên, mà gật gù, nói :
                          - Đó là việc đáng mừng. Công tử còn trẻ đã có chí lớn như thể chắc chắn kiếp trước phải có chút căn cơ. Nếu không, sao có thể đi bộ một quãng đường dài như vậy ? Nghe nói núi Hoa sơn của chúng tôi chu vi dài tới hơn ba ngàn dặm, có tám mươi mốt ngọn núi cao, ba mươi sáu động phủ. Xưa nay tương truyền rằng mỗi hang động đều có thần tiên trú ngụ. Phần cao nhất ở phía Bắc có ngọn "Quan Nhật phong" (1), phía Nam có động Tứ Hà, là nơi mà năm xưa Lão Quân luyện đan. Ngày nay Lão Quân thỉnh thoảng cũng đến chỗ đó, bọn chúng tôi vào núi hái củi cũng thường được nhìn thấy, là một vị đạo nhân. Ông ta cũng hay bàn với chúng tôi về chuyện xưa và nay, kể các chuyện về triều đại trước, đời bây giờ. Ông hay hỏi mọi người về tình cảnh gần đây, có khi trò chuyện rất lâu, lại lấy những loại trái cây như lê, táo, đào, hạnh phân phát cho mọi người cùng ăn. Ai ăn vào, chừng xuống núi cảm thấy chân cứng cáp hơn trước gấp bội, mà bệnh tật gì cũng khỏi hết ráo, sống lâu hơn người bình thường. Vì thế người ta đồn rằng: “ông là tiên nhân đấy !". Có người lại nói : "ông ấy là sư tổ của thần tiên, tức... Lão Quân đó!".
                          Những lời truyền thuyết đó có từ hơn một trăm năm nay. Về sau, những người tin tiên, mộ đạo không ngại xa ngàn dặm tìm tới, lên núi, tìm tiên. Có kẻ đi không về cũng có người đi lại về. Đối với những người đi không về, có thuyết nói rằng họ đã gặp lão Quân, được hóa độ xuất thế. Có những kẻ không tin tu tiên lại dễ dàng như thế, bảo mấy người kia bị hổ lang sát hại, độc trùng tha đi. Những điều đó hoàn toàn không có bằng cứ gì cả, chẳng biết là thật hay giả. Đối với những người đi, lại trở về, chẳng cần nói tới : họ lên tới chỗ núi cao, không có dường thông suốt để đi tiếp, hoặc gặp phải những việc quá nguy hiểm, khiếp sợ mà phải bỏ về. Những chuyện như vậy chẳng có gì lạ, hà tất phải nói tới. Còn như già đây, đóng trụ ở chỗ núi non hẻo lánh, cả năm ít có người qua lại, nhưng hai chục năm gần đây, đích xác có thấy vài ba người lên núi tìm tiên, có người trở về, có người không. Vì nhà của tôi ở nơi mà những ai muốn lên Hoa sơn đều phải đi qua, nên tôi thường được thấy những người đó.
                          Nay công tử bỏ nhà đi chơi xa, lại được chân tiên dẫn đi, ắt là có duyên với tiên, nên lần đi này nhất định gặp được tổ sư. Già đây hồi nhỏ có gặp được một dị nhân, ban cho mười viên kim đan. Theo ông ta nói, thuốc này có thể chống được đói lạnh, phòng ngự được độc khí. Chúng tôi lên núi, vào rừng, chưa bao giờ gặp phải tà độc nên đã đem phân phát thuốc cho những người cần tới, đến nay còn lại có hai viên. Nếu công tứ cần lên núi, phải đề phòng độc hại mới được. Còn hai viên thuốc đây, công tứ cầm luôn đi !
                          --------------------------
                          (1) phong : đây là đỉnh núi, không phải gió. Quan Nhật Phong : đỉnh núi để ngắm mặt trời.

                          Lý Huyền nghe vậy mừng lắm, vội bái tạ, nói :
                          - Tiên đan đã có linh nghiệm, tiểu tử xin bái lĩnh một viên, đủ để phòng thân. Còn lại một viên, lão trượng giữ lấy để cứu người giúp đời, thì hay hơn.
                          Vương Đại Quan tỏ vẻ hài lòng, nói :
                          - Trước nay tôi đưa thuốc cho người, ai cũng chỉ muốn lấy hết, rõ ràng chỉ biết có mình, không biết ai khác. Hạng người như thế làm sao có duyên với thần tiên ? Nay nghe công tứ cao luận, đủ thấy là người có lòng nhân, lần đi này nhất định thành công, lão xin ở dưới núi ngày đêm trông đợi tin lành.
                          Nói rồi, lấy viên thuốc đưa cho Lý Huyền. Lý Huyền cầm xem kỹ, thấy viên thuốc đó có mầu sắc của vàng, tẩm trong nước son đỏ nhỏ bằng hạt cải. Lý Huyền hân hoan, tạ ơn mấy lần, trân trọng đem cất kỹ một nơi.
                          Tiểu Nhị đem trà tới, Lý Huyền uống một chén, lại hỏi thăm đường lên núi, Đại Quan nói :
                          - Lên núi rất dễ, đường núi khó tìm, công tứ đã có duyên với người tiên, tới đâu đường đi hiện ra tới đó, hà tất phải lo ?
                          Lý Huyền bái tạ, thụ giáo, Đại Quan lại cười, nói :
                          - Công tử khách sáo quá ? Lão chỉ là một người sơn dã, có điểm nào là tốt đâu, mà dám phiền công tử thâm tạ ?
                          Lý Huyền nghiêm sắc mặt, nói :
                          - Con người không phân biệt văn vẻ, quê mùa, chỉ có hiểu lẽ phải là quý. Lão trượng nói ra, câu nào cũng xác đáng, tiểu tứ xin ghi vào gan phổi, suốt đời không quên ! Một lời cảm tạ đáng kể làm chi ?
                          Đại Quan tỏ vẻ hài lòng. Lý Huyền ở lại nhà ông nghỉ một đêm. Hôm sau, nhờ Đại Quan đem bộ quần áo đẹp của mình đi bán, được một số tiền, mua một bộ quần áo ngắn, ngoài ra còn mua được nhiều lương khô. Sửa soạn hành lý đầy đủ, lúc chiều tối, Lý Huyền định đi. Cha con Đại Quan khổ công cầm giữ ở lại thêm một đêm nữa, hứa sáng sớm hôm sau sẽ dẫn lên vách núi. Lý Huyền cười, bảo :
                          - Chân tiên đang ở trên đó, ta nên tới thăm liền. Đường núi há phải một, hai ngày tới ngay ? Đã nghỉ hết một đêm, hà tất phải nài ép nhau ở thêm đêm nữa ?
                          Đại Quan thấy ý Lý Huyền cương quyết, không dám giữ nữa.
                          Tiểu Nhị đưa tiễn một quãng đường, chỉ cho thấy lối vào núi, mới trở lại.
                          Lý Huyền có lòng cầu đạo vững chắc, cứ dấn bước mà đi. Lúc đầu đường còn bằng phẳng, càng lên cao càng gập ghềnh, khúc khuỷu. Mỗi ngày phải ngày đi đêm nghỉ, gặp hang động thì nghỉ lại qua đêm, đói thì ăn chút lương khô, khát thì uống nước suối.
                          Cũng đôi lúc gặp sơn tinh, dã thú, nhưng Lý Huyền dự tính trước, tránh đi. Gặp những đỉnh núi cao chót vót, cậu bám vách đá leo lên. Hành trình không chỉ một ngày, dần dần cậu đã vào núi tới chỗ sâu thẳm nhất, lên tới chỗ đỉnh núi cao nhất. Quay nhìn xuống dưới núi, mịt mù chẳng thấy rõ thứ gì. Nhìn lên, đỉnh núi cao như đâm vào những đám mây. Số lương khô dự trữ chỉ còn dùng được vài hôm nữa. Lý Huyền chẳng để tâm tới tất cả những chuyện đó, cứ mạnh dạn tiến bước, chẳng hề khiếp sợ chùn bước.
                          Hôm đó, vào lúc gần tối, lên tới chỗ hai đỉnh núi giáp nhau, núi non lô xô, Lý Huyền lạc mất đường đi. Trong lúc bàng hoàng, ngơ ngác, bỗng một trận gió đưa mùi hôi thối xông tận mũi, buồn nôn. Lát sau, gió tan đi, bỗng từ sau rừng rậm tiến ra một đạo nhân, râu tóc đều bạc phơ, thần thái nghiêm túc. Lý Huyền kinh hãi nghĩ thầm : "Cuộc hành trình gian khổ đi đã nhiều ngày, chẳng thấy một bóng người, sao bây giờ lại gặp đạo trưởng này ?
                          Nhưng từng nghe Đại Quan nói : "Lão Quân tổ sư thường hay biến hóa thành người, nói chuyện với mấy bác tiều phu, nay thấy ông đây có phong thái thần tiên phiêu dạt, hẳn là thần tiên. Vả chăng ở chỗ núi sâu hang thắm, người phàm làm sao tới được ? Đúng là thần tiên rồi, còn ngờ gì nữa ?". Liền sửa lại quần áo cho ngay ngắn, trịnh trọng bước tới, cúi lạy đạo nhân, thưa rằng :
                          - Đệ tử là Lý Huyền, từ khi ở trong nhà ở Lạc Dương, được tiên sư dẫn dắt, từ Nam lên Bắc, lên núi tìm thầy học đạo, trên đường đi chẳng ngại phong trần, không từ gian khổ, nay may mắn gặp được sư trưởng, quả là chút lòng thành của đệ tứ chẳng rơi vào hư không. Xin sư trưởng mở lòng từ bi, thu nhận làm học trò, khiến đệ tử ngộ đạo chính quả, thoát khỏi lưới trần, đệ tứ vô cùng cảm kích !
                          Đạo trưởng cất tiếng cười hà hà, nói :
                          - Ngươi là Lý Huyền đấy hả ? Ngươi đã có lòng thành, không ngại hiểm trở đi tìm học đạo, quả là người có pháp duyên. Ta có thể thu nhận ngươi làm học trò, truyền kim đan đại đạo cho ngươi.
                          Lý Huyền nghe nói, xiết bao mừng rỡ, vội khấu đầu lạy tạ, rồi đứng dậy. Đạo nhân dặn dò :
                          Hãy theo ta vào trong động phủ. Ta sẽ dạy cho ngươi phép tu trì .
                          Lý Huyền dạ dạ, cung kính đi theo đạo nhân, đi quanh một khối đá lớn, lại qua một vách núi, mới thấy lối đi xuyên qua một khu rừng rậm. Đạo nhân chỉ tay, nói :
                          - Qua khỏi khu rừng rậm này, sẽ thấy một khu đất trống bằng phẳng, và cuối khu đất đó là một động phủ ba gian, chính là nơi ta đang tu chân.
                          Lý Huyền ngẩng đầu nhìn ra xa, quả thấy đằng sau khu rừng là một quảng trường. Đạo nhân rảo bước đi mau, qua khỏi khu rừng, tới chỗ quảng trường nằm dựa vách núi, quả là một thắng cảnh. Chỉ thấy những cây tùng, cành lá giao nhau, và khắp mặt đất là những loài hoa lạ, tỏa hương thơm nhè nhẹ, khiến người ta ngây ngất. Đạo nhân dẫn Lý Huyền vào trong động, tự ngồi xuống một tảng đá. Lý Huyền tiến lại, vái tám vái. Đạo nhân bỗng hô to một tiếng :
                          - Đám tiểu yêu đâu rồi ?
                          Liền có rất nhiều những con gì mang lông, để tóc, giống người mà không phải người, có đứa lớn, có đứa nhỏ lau nhau một đám chừng bảy, tám chục đứa, nhất tề tiến vào hang động, vái lạy đạo nhân. Lý Huyền lấy làm lạ lắm. Chỉ thấy đạo nhân toét miệng ra cười, nói :
                          - Ngươi đã muốn tu đạo, ắt cầu lên trời. Ngươi tuy có duyên, nhưng chưa thoát được xác phàm. Với tấm thân ô trọc như thế, đừng nói là lên trời, ngay cả tìm được căn bản để đằng vân giá vụ, cũng là thiên nan, vạn nan !
                          Lý Huyền vái đạo nhân, nói :
                          - Đệ tử tự biết mình căn cơ nông cạn, sở dĩ mạo hiểm tới đây là mong bái sư tôn, cầu xin được thoát thai hoán cất, nhập thánh siêu phàm. May gặp được lão sư thương tình cứu vớt, rất mong sư tôn chỉ báo đệ tử thoát khỏi con đường mê !
                          Đạo nhân cưới, nói :
                          - Thoát thai hoán cốt, nói thì dễ lắm, nhưng nếu không gặp được người tiên sử dụng phương cách đặc biệt, thì có dạy bảo ngươi ngàn vạn năm, ngươi vẫn chỉ là một tên Lý Huyền. Nay may gặp được bần dạo, là ngươi có phúc rất lớn. Ta có một pháp môn rất giản tiện mà tuyệt diệu, chỉ mất nửa ngày trời là có thể thay đổi hoàn toàn thai phàm, xương thịt của ngươi, ngươi có chịu không ?
                          Lý Huyền nghe vậy, vừa mừng vừa ngạc nhiên, vội vái đạo nhân để cầu xin :
                          - Đệ tử cũng vì vậy mà tới đây. Cầu đạo được đạo, thật là may mắn, có gì mà không chịu ?
                          Đạo nhân nói :
                          - Nay gặp được ngày tốt, đám tiểu yêu ma khiêng về đây một cái nồi, đem vị sư huynh mới tới này đi tắm rửa sạch sẽ, bỏ vào trong nồi nấu lên, bỏ thêm hành tỏi, hương liệu, để bần đạo nhắm một bữa, thì linh hồn anh ta mới có dịp tu trì, thành đại đạo.
                          Đám tiểu yêu nghe lệnh, vội xúm lại để khiêng Lý Huyền. Bấy giờ Lý Huyền mới kinh hãi, vội hỏi :
                          - Thiền sư tôn, đây là ý gì ?
                          Đạo nhân hét lên :
                          - Ngươi muốn thoát thai hoán cốt, không làm cách này, làm sao thay đổi ?
                          Lý Huyền còn muốn tranh cãi, bọn tiểu yêu không để cho cậu ta nói, mang tới một cái đòn gánh, trói hai chân hai tay, lồng đòn gánh vào, khiêng ra khỏi động. Chúng khiêng Lý Huyền ra phía sau động phủ, nơi đó có sẵn một nhà bếp rất rộng. Trên tường treo lủng lẳng những cẳng người, đầu chim, đuôi thú. Lại có một bếp lò rất lớn. Bọn tiểu yêu đem Lý Huyền đi tắm rửa sạch sẽ. Chúng chia nhau ra: một nhóm đi gánh nước về, một nhóm nhúm lửa, nhóm khác canh giữ Lý Huyền, không cho chạy trốn. Lý Huyền bấy giờ mới hối, nghĩ thầm : "Động phủ của người tiên là chốn thanh cao, sao lại có đám quái vật không ra hình thù gì, mà đạo nhân kia từ lời ăn tiếng nói đến cử động đều thô tục, bỉ lậu thế ? Chẳng có vẻ gì đắc đạo, toàn chân. Điều đó lại phù hợp với lúc nãy, trước khi đạo nhân xuất hiện, ta đã ngửi thấy một mùi hôi nồng nặc, nhiều phần là từ thân thể của đạo nhân phát ra ! Cũng tại ta không cẩn thận chút nào, đã nhận lầm hắn là thần tiên, tự đâm đầu vào bẫy ! Quả là tự mình tìm con đường chết ! Thương thay một tấm lòng thành, mấy phen thoát hiểm, rốt cuộc cũng đem thân mình làm món điểm tâm cho yêu nhân !". Càng nghĩ càng thương tâm, nước mắt rơi lã chã.
                          Bọn tiểu yêu thấy Lý Huyền khóc, liền vây chung quanh, vỗ tay đôm đốp, ra vẻ thích thú lắm. Lý Huyền đau lòng đã quá mức, chợt suy nghĩ lại : "Xưa nay, người tu đạo, lúc mới theo học, ông thầy luôn luôn thử thách coi người đó có thể tu tiên được hay không. Nay ta đã tới giữa núi Hoa sơn, tiên sư có thể trông mong gặp được, tiên cảnh chẳng còn xa nữa, mà sao thứ yêu ma này dám to gan hiện hình, quấy nhiễu như thế ? Có thể đây là một mưu kế do một vị thần tiên lão sư đặt ra ở đây để thử thách đảm lượng và nghị lực của ta chăng ? Nếu quả như thế, ta không nên thấy nguy hiểm chút xíu, mà biểu lộ thái độ khiếp nhược, hèn yếu. Vả chăng, việc đã đến nước này, hai hàng nước mắt của ta cũng không thể chuyển đổi được lòng dạ độc ác của bọn yêu ma, quỉ quái này đâu”.
                          Nghĩ rồi, Lý Huyền cắn răng, mím miệng, nhắm mắt lại, sẵn sàng đợi bọn tiểu yêu nâng mình lên, đẩy vào nồi. Một lát, chợt nghe bọn tiểu yêu la hét :
                          - Nước đã sôi, mau quăng con vật này vào trong nồi !
                          Liền có bảy tám con tiểu yêu kêu nhao nhao lên, hò nhau nâng bổng Lý Huyền. Bấy giờ, Lý Huyền đợi chết, muốn tỏ lòng thành, không lộ vẻ gì là sợ hãi, còn mong được mau chóng vào nồi, để thoát trần thế, chuyển kiếp lại làm người.
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 21:00:23 bởi bevanng >
                          #13
                            bevanng 10.07.2008 11:32:39 (permalink)
                            Hồi Thứ 20

                            Lão tổ hạ phàm cứu đời.
                            Lý Huyền thoát hiểm thành tiên


                            Đây nói về Thái Thượng Lão Quân, là tinh của trời, là quỉ của đất, là tổ của quần tiên, được người đời xưng tụng là Lão Tử. Từ thời hỗn mông, ngài đã tu thành tấm thân bất hoại. Vì muốn cho công hành trọn vẹn, cứu độ người có duyên, ngài đã phải nhiều lần giáng sinh chốn nhân gian. Ở giao thời nhà Hạ và nhà Thương, ngài đã phái hai vị đại đệ tử là Phiếu Diểu và Hỏa Long chân nhân xuống giải quyết gọn ghẽ việc long vương ở dưới biển. Sau vụ án đó, ngài đầu thai (l), làm con bà Huyền Diệu Ngọc Nữ, giáng sinh ở thôn Khúc Nhân, làng Lại, huyện Khổ, thuộc nước Sở, chui từ nách bên trái của mẹ mà ra. Ngài ra đời ở dưới một rừng mơ (lý lâm) rất rộng, sinh ra đầu đã bạc trắng, da mặt hơi nhăn nheo, tạo ra một mầu vàng lợt, trên trán có nhiều nếp nhăn (2). Ngài sinh ra đã biết nói, đưa tay chỉ rừng mơ, nói với mẹ :
                            - Thưa mẹ, con sinh ra ở lý lâm, nên lấy chữ "Lý" đặt họ cho con.
                            Ngọc Nữ vui mừng, nói : - được !", đặt cho con họ Lý, lại ban cho tên là Nhĩ, biệt danh là Lão Đam.
                            Lão Quân thần linh không mờ tối, đạo hạnh cao thâm, thường vì người, hàng yêu trừ quái, cứu khổ tế nạn. Đầu đời nhà Chu, ngài ra làm quan Thủ trụ sứ, tới khi Vũ vương thống nhất thiên hạ, ngài lại đổi sang làm Trụ hạ sử. Tới đời Thành vương, ngài bỏ quan, ngao du các nước Thiên Trúc (3) ở cực Tây, thời Khang vương lại trở về nhà Chu. Cuối đời Khang vương, ngày bỗng nói với người nhà :
                            ---------------------------------------
                            (1)    Lão Quân là tổ của thần tiên, ra đời từ thời khai thiên lập địa, ở trên trời điều khiển mọi việc, đã sai hai đại đệ tử giải quyết vụ án rồng. Lão Tử mới đầu thai ở đời nhả Thương, nhà Chu.
                            (2)    Gọi là “tham thiên văn" : nếp nhăn “xem xét trời". Những người suy nghĩ nhiều, đặc biệt là các triết gia, thường có thứ nếp nhăn này trên trán. Những người già cũng có nếp nhăn đó.
                            (3)    Thiên Trúc : tên gọi xa xưa của nước Ấn Độ. Người Trung quốc cũng biết ở đó có nhiều nước, nên gọi là “đẳng quốc" (các nước)


                            - Ta từ thời Bàn Cổ trở về trước, từ khi bắt đầu thời hỗn mông, đã kết hợp tinh của trời, quỉ của đất mà sinh ra, về sau nhiều lần giáng sinh, chỉ vì một việc tế độ người đời. Một trăm năm gần đây, vì vua Trụ nhà Thương thất chính, nhà Chu lên thay, thần tiên gặp phải kiếp nạn, ta mới ẩn cư chốn núi rừng không dự vào việc người nữa. Tới nay, tính tổng cộng ta đã nhập thế được gần năm trăm năm, Tây phương có người đang đợi ta tới thoát độ cho (1), nên ta phải ra cửa quan, đi một chuyến, độ cho người đó, phải đi liền hôm nay.
                            Nói rồi nhắm mắt, ngồi lặng yên. Người nhà sờ xem, thấy hơi thở đã dứt, thân thể lạnh như băng, đành đem chôn.
                            Thật ra Lão Tử không hề chết. Đúng vào hôm người nhà an táng Lão Tử, ngài đã cưỡi trâu ra khỏi cửa quan. Lão Tử tới cửa Hàm Cốc, thấy một viên quan nhỏ, dẫn theo hơn mười kẻ tùng nhân, phục bên đường, tự xưng là Quan Doãn Hỉ, cung nghênh thánh giá. Lão Tử xuống trâu, tươi cười hỏi :
                            - Đại phu vì sao cung kính ta vậy ?
                            Quan Doãn Hỉ đáp :
                            - Từ lâu nghe lão sư là thánh nhân do trời sinh ra. Doãn Hỉ tuy bất tài, cũng biết kha khá về thuật xem khí tượng, chiêm đoán thiên khí, biết được hôm nay ngài cưởi trâu đi qua cửa quan này, nên cố ý tới cung nghênh, muôn ngàn lần mong lão sư đừng bỏ rơi kẻ hèn kém này, thu nhận cho làm đệ tử, thì đệ tử vui mừng khôn xiết.
                            Lão Tử cười, bảo :
                            - Ông đúng là người có duyên. Đứng lên đi. Ta sẽ đi theo ông, truyền thụ cho ông khẩu quyết trường sinh, là cửa của việc tu đạo
                            Doãn Hỉ mừng quá, cung kính mời Lão Tử trở vào cửa quan. Tới nhà, ngồi đâu đó, lại vái mấy vái. Lão Tử thở dài, nói :
                            - Ta nhập thế đã năm trăm năm, chưa từng thấy ai hướng đạo âu lo như ông. Nay ta đem đại đạo truyền cho ông, ông hãy tự tu trì, tiền trình sẽ lớn vô hạn.
                            -----------------------------------------
                            (1) Ông Tầu bịa chuyện Lão Tử biến thành người ấn, hóa độ cho Phật Thích Ca.

                            Nói rồi, rút trong túi áo ra cuốn sách do mình sáng tác, có tên là "Đạo Đức Kinh" năm ngàn lời, trao cho Doãn Hỉ, dặn rằng :
                            - Tu đan luyện khí, có sẵn pháp môn, còn những phép căn bản, vẫn phải nhờ vào việc minh tâm kiến tính, và ngăn chặn ham muốn, dứt bỏ duyên. Đó là nguồn gốc việc lập mệnh của thần tiên, có thể thấy đầy đủ trong sách này. Ông chớ nên xem thường mà thêm mắc lỗi.
                            Doãn Hỉ dập đầu lạy chín lạy, xin tuân mệnh. Lão Tứ lại nói :
                            - Ta không thể ở lâu chốn này, chẳng bao lâu sẽ lên núi Côn Luân, tu sửa lại động phủ.
                            Doãn Hỉ khóc mà thưa trình :
                            - Vừa thấy mặt từ bi, sao nỡ vội chia tay ?
                            Lão Tử nói :
                            - Ngươi tu đạo giữ điều răn đầu tiên là chữ "Tình". Ông có thể tu chân, sẽ thấy mình như thể đang ở gần bên ta, hà tất phải thường thường gặp mặt ?
                            - Con tình nguyện bỏ nhà đi theo, dẫu phải nhẩy vào nước sôi, đạp lên lửa cũng không chối từ.
                            - Ta rong chơi ở ngoài vòng trời đất, không như người bình thường phải có một nơi nhất định, trú ngụ ở chỗ tối tăm, không như người phàm phải có chỗ nghỉ đỡ tấm thân, ra vào ở chỗ bốn phương, mờ mờ mịt mịt, không bờ không bến. Ông thụ đạo còn ít ngày chưa được thông thần, sao có thể đem thân xác huyết nhục quanh quẩn bên ta ?
                            Doãn Hỉ lại hỏi :
                            - Xa cách lần này, bao giờ mới gặp lại ?
                            - Trước hết ta lên Côn Luân một chuyến, sau đó tới vùng biển, nếu còn một đoạn tục duyên, thì qua Tây vực một lần. Nhân ở đất Thục có một "quán dê xanh" (l). Năm xưa, ta tới nơi đó, thấy chủ nhân mười phần nhân đức, mà chưa có con nối dõi, lòng ta nhất thời bất nhẫn, buột miệng nói một câu giỡn chơi, hứa rằng nếu ông ta tích chứa đủ năm trăm công hạnh, ta sẽ đưa tới cho ông một cậu con trai. Nay vợ chồng chủ quán đều đã một trăm hai mươi tuổi, tích công đức được bốn trăm tám chục điều, mà thần minh không thương, ta phải đích thân tới đầu thai làm con. Ta đã đánh cá với cặp vợ chồng già này rằng hai chục năm sau nhất định họ sẽ có một cậu con trai. Sau đó năm năm, ông hãy đích thân vào đất Thục gặp ta.
                            -----------------------------------
                            (1) Thanh dương tử : tử = quán bán hàng (rượu,thức ăn), thanh dương : dê xanh, hoặc dê non. Đây chỉ là con dê, còn mầu xanh thì không xác định rõ, cũng tỉ như “trâu xanh" (thanh ngưu) thôi.

                            Lão Tử nói rồi, đưa một ngón tay chỉ ra ngoài. Tức thì có một đám mây ngũ sắc từ từ hạ thấp xuống, nằm dưới chân Lão Tử, con trâu xanh ngài cưỡi cũng đứng ở trên mây. Lão Tử phóng ra năm luồng sáng, toàn thân hiển lộ kim quang, chiếu khắp xa gần. Doãn Hỉ khấu đầu tống tiễn.
                            Quan Doãn Hỉ hàng ngày tụng Đạo Đức Kinh, ngộ được ý chính, lại hiểu rõ đạo trị quốc ở chỗ cùng dân thanh tịnh, không quấy nhiễu, khiến dân không biết thiện ác, không để ý tới chuyện hưng vong, tự nhiên vô vi, mà nước yên trị. Đem thực hành trong vài năm, hiệu quả thấy rõ. Rồi từ chỗ kiến văn (l) của mình, ghi chép lại cuốn Đạo Đức Kinh, chia ra thành ba mươi sáu chương. Lại trong ba năm, tu luyện kim đan, sáng tác ra một cuốn sách riêng; lấy tên là "Quan Doãn Từ". Sách chép xong mà kim đan cũng luyện thành, tính chung mất một thời gian là hai mươi lăm năm.
                            Doãn Hỉ ghi nhớ lời dặn của Lão tử, bỏ quan bỏ nhà, đích thân vào Tây Thục, thăm hỏi "Quán dê xanh", nhưng chẳng ai biết. Mấy ngày liền, chẳng được tin tức gì. Doãn Hỉ tin rằng Lão Tử không nói đùa, nhẫn nại chờ đợi thêm.
                            Một hôm, trong lúc rảnh rỗi ra chơi ngoài tường thành, bỗng thấy một tiểu đồng lôi kéo một con dê xanh, đi ngả ngớn. Doãn Hỉ mừng quá, nhủ thầm : "Tiên sư đã dậy, mỗi lời hàm chứa diệu cơ, đã có dê xanh, ắt có điềm tốt". Liền tiến lên, cất tiếng chào hỏi :
                            - Xin hỏi tiểu đồng, dê này ở đâu mà có ? Dắt đi để làm gì ?
                            Tiểu đồng cười, đáp :  
                            - Ông hỏi tức cười ! Lão gia và phu nhân nhà tôi năm nay đã hơn một trăm hai mươi tuổi, sinh được một trai, vừa lên năm. Cậu ấy rất thích con dê này. Mấy hôm trước, dê chạy lạc đâu mất, công từ nhà tôi chẳng vui chút nào. Lão gia mới phái người đi khắp nơi tìm kiếm. Hôm nay, tôi gặp được lôi về, để công tử khỏi ấm ức.
                            ------------------------------
                            (1) Kiến văn : mắt thấy tai nghe, chỉ những điều minh thu lượm được qua thực tế.

                            Doãn Hỉ nghe chuyện, thấy phù hợp với những lời Lão Tử dặn dò lúc lâm biệt, bất giác vui mừng, nói :
                            - Cảm phiền tiểu ca cho gửi một lời nhắn với công tử, nói rằng có cố nhân Doãn Hỉ cầu kiến.
                            Đồng tứ nghe vậy, ngó sững Doãn Hỉ một hồi, đánh giá xem là hạng người gì, sau mới nói :
                            - Công tử nhà tôi năm nay mới có năm tuổi, kiếm đâu ra một ông bạn già khụ thế này ?
                            Doãn Hỉ cười, nói :
                            - Chẳng những là bạn cũ, còn là thầy trò nữa đó !
                            Đồng tử lại càng ngạc nhiên :
                            - Công tứ nhà tôi chưa từng đi học, làm gì có học trò ? Còn ông xưng là thầy, xưa nay đã thấy ông tới xin dạy dỗ bao giờ đâu ?
                            - Không thể nói vậy, công tử nhà tiểu ca là sư phụ tôi, do đó tôi là môn sinh của công tử đấy. Nếu chú không tin, cứ về nói với công tử một tiếng : “Doãn Hỉ xin cầu kiến", xem công tử nói sao, rồi chú lại tới đây gặp tôi.
                            Đồng tứ nửa tin nửa ngờ, dẫn Doãn Hỉ về nhà mình, trao con dê xanh cho công tử, công tử mừng lắm. Đồng tử lại đem việc gặp Doãn Hỉ kể lại, nói Doãn Hỉ tự xưng là học trò của công tử và ngỏ lời cầu kiến, há chẳng phải chuyện tức cười hay sao ? Đám gia nhân nghe nói, liền cười rộ lên. Ai ngờ công tử lại lập tức sửa lại quần áo cho ngay ngắn, giữ nét mặt trang nghiêm, nói :
                            - Không sai. Đúng là người đó. Mau gọi ông ấy vào gặp ta !
                            Gia nhân thấy cảnh huống đó, rất nghi hoặc. Công từ liên tiếp thúc giục đồng tử mau đi đi. Đồng tử đành ra ngoài, nói với Doãn Hỉ:
                            - Công tử mời ông vào. Cậu ấy tính trẻ con trái khoáy, ông đừng trái ý cậu, kẻo cậu nổi giận, trách mắng chúng tôi.
                            Doãn Hỉ cười, nói :
                            - Tôi hiểu rồi ?
                            Rồi nhất bộ nhất bái (1) tiến vào nhà trong. Công tử vừa trông thấy Doãn Hỉ, dưới chân lập tức hiện ra một bông sen, mây ngũ sắc quấn quanh mình, một mùi hương lạ tỏa ngát bốn phía. Doãn Hỉ thấy vậy vội bò mà tiến tới, phục xuống dưới chỗ Lão Tứ ngồi, miệng xưng hô :
                            - Đệ tử khấu kiến sư tôn !
                            ----------------------------------
                            (1) Kiểu Tiết Đinh San gặp Phàn Lè Huê !

                            Công tử ôn tồn bảo đứng dậy. Quay đầu nhìn lại, thấy cha mẹ và đám gia nhân đang kinh hãi, công tử mới cười, bảo :
                            - Ta là Lão Quân đây ! Vì hai mươi năm trước từng hứa giáng sinh, nên phải tới đây để kết liễu túc duyên. Nay tục duyên đã hết, cha mẹ, các chị em, cùng tất cả gia nhân hãy theo ta lên trời, vạn kiếp không hủy hoại !
                            Cả nhà nghe nói, cùng vái lạy dưới thềm. Lão Tử sai Quan Doãn Hỉ đỡ cha mẹ mình dậy, bảo ngồi để nhận lễ bái của những người khác, rồi ngài mới nói với Doãn Hỉ :
                            - Lần trước ông muốn theo ta vân du, mà vì ta thấy thân thể ông chưa vững chắc, tục duyên chưa dứt, nên đã từ chối. Vả lại lần đầu ông nhận kinh quyết, chưa chắc đã thành công, nếu cứ quấn quít đi theo, e rằng tấm thân huyết nhục chịu đựng không nổi, lại thêm sợ làm ông phân tâm, lầm lỡ sự nghiệp học tập của ông. Nay thấy ông luyện khí, giữ hình, đã tạo ra chân diệu, mặt có thần quang, tâm kết tử lạc, biểu kim danh ở huyền đồ (l). Lại có công vì ta chỉnh lý Đạo Đức Kinh, tự sáng tác một cuốn sách riêng, lưu truyền hậu thế, cũng nhiều vất vả. Hôm nay gặp nhau tại đây, ta sẽ xin Ngọc đế ban sắc phong danh hiệu cho ông, nhận chức trên thiên đình.
                            ---------------------------------
                            (1) chân diệu : diệu huyền diệu chân thật, thần quang : ánh sáng thần, tử lạc : tấm lưới mầu tía, kim danh : tên vàng, là tên gọi của mình, chử “kim" chỉ là mỹ từ, huyền đồ (tầm bản đồ huyền diệu) : trái đất... Đây là những từ đặc biệt trong Đạo học, không thể dịch ra nổi. N.D.

                            Doãn Hỉ khấu đầu lạy tạ, Lão Tử truyền đứng dậy, đứng bên cạnh ngài. Ngài lại đọc khẩu quyết vời gọi các vị chân tiên khắp ba cõi, cùng các đế quân, thần vương mười phương, luôn cả các vị thần tiên, tán tiên ở các động, các núi, đều tập hợp trước sân.
                            Giây lát, các vị thần tiên đều cưỡi mây ngũ sắc, cưỡi thần thú, lục tục kéo tới, ai nấy đều cầm hương, hoa, cúi đầu tham bái. Có một lúc khói hương nghi ngút, mưa hoa rơi lả tả, phảng phất như trong một buổi lễ của các thần tiên, thánh nhân tụ hội. Lão Tử ngồi ngay ngắn trên tòa sen, trao cho Doãn Hỉ sách ngọc chữ vàng, phong cho làm Văn Thủy tiên sinh, tước vị là "Vô thượng chân nhân", thống lĩnh tám vạn chân tiên. Doãn Hỉ vui mừng,quì xuống nhận sắc phong, Lão Tử ôn tồn hiểu dụ, các tiên lục tục ra về. Lão Tử dẫn dắt Doãn Hỉ, cùng toàn gia lên trời, đều thành tiên thể.
                            Sau đó, Lão Tử cùng Doãn Hỉ về núi Côn Luân, vào cung Bát Cảnh. Lão Tử từ khi được Doãn Hỉ làm học trò, chẳng khác gì con người mọc thêm cánh tay, tất cả các việc liên quan tới tiên phàm đều giao cho Doãn Hỉ xử lý.
                            Một hôm, Lão Tử ở trong cung cùng Doãn Hỉ đánh cờ, bỗng nhiên ngài cầm con cờ trên tay, không thể hạ xuống bàn cờ, nhíu mày ra vẻ suy nghĩ. Văn Thủy hỏi tại sao, Lão Tử nói :
                            - ông có biết con trâu mà ta thường cưỡi hiện nay đã trốn đi rồi hay không ?
                            - Chính thế. Mấy hôm nay chẳng thấy nó đâu.
                            - Đã là kiếp số, thần tiên cũng không thể cứu vãn. Con nghiệt súc xuống phàm trần đã nhiều ngày. Hiện nay nó ở cõi trần đã được mấy năm. Nó đang ở Hoa sơn ăn thú, cắn người, tàn hại vô số. Không bao lâu còn có một người trong đạo của ta mắc nạn vì nó nữa. Trong tương lai, người này đứng vào hàng môn hạ của ta, không thua kém ông bao nhiêu đâu. Giờ ngọ ngày mai, ông hãy xuống đó một chuyến, cứu người kia, đem về cung.
                            - Người đó tên họ là gì ?
                            - Họ Lý, tên Huyền, là Tư hương lại trên thiên cung mắc tội, đầy xuống trần, tất cả là mười kiếp, đến nay đã mãn hạn. Cũng may cậu ta giữ tính linh không mờ, được Thái Bạch kim tinh lôi ra khỏi nhà, đã tìm đường lên Hoa sơn, trải biết bao nguy hiểm. Ông cứ tới đó sẽ hiểu rõ sự tình.
                            Văn Thủy ánh mệnh ra đi, Lão Tử lại dặn dò :
                            - Đem đồng tử chăn trâu đi theo, nó sẽ giúp ông một tay. Chừng nào bắt được trâu, bảo nó cưỡi trâu mà về.
                            Văn Thủy đi tìm đồng tử giữ trâu đó, thì ra là đồng tứ đã ở đất Thục tìm ra con dê xanh. Văn Thủy dẫn cậu ta về ra mắt Lão Tử. Lão Tử vừa thấy mặt, liền mắng :
                            - Mày coi sóc trâu kiểu gì vậy ? Mày bất cẩn, để nó trốn xuống hạ giới, tổn hại biết bao người và vật ! Nay lại có một người xứng đáng thành đạo sắp bị nó hại chết đấy ! Vạn nhất người ấy bị hại về tay nó, tội của mày càng thêm nặng đó !
                            Đồng tử không dám phân biện một câu, phục xuống đất nhận tội. Văn Thủy lên tiếng xin cho nó, Lão Tử mới bảo :
                            - Đứng lên đi. Hãy theo chân nhân xuống phàm trần, thu nhận con nghiệt súc dẫn về, lấy công chuộc tội.
                            Đồng tử lại tạ ơn Văn Thủy, đi theo ông. Hai người cưỡi mây tới núi Hoa sơn, hạ xuống. Văn Thủy phóng tầm mắt nhìn ra xa, thấy trong đám mây mù ở góc Tây Nam có một đám bụi đỏ, nhỏ như sợi dây, bốc lên tận mây, liền bảo đồng tử :
                            - Hãy theo ta xuống bắt yêu. Ngươi phải cẩn thận, đừng có lơ là!
                            Đồng tử thưa : "Vâng !".
                            Hai người lại cưỡi mây, tiến tới chỗ động phủ Lý Huyền đang chịu nạn. Văn Thủy vận tuệ nhãn nhìn một lượt, thấy đám tiểu yêu đang xúm vào nhấc bổng Lý Huyền lên, ngang với miệng nồi. Lý Huyền nhắm về phía nồi, nhảy xuống. Đang lúc nguy cấp đó, Văn Thủy làm phép vận chuyển một khối nước ở Bắc hải, trút vào trong nồi. Lý Huyền ở trong nồi, cảm thấy nước không nóng lắm, cũng không lạnh lắm. Lý Huyền thấy rất kỳ quái, lại càng tin rằng quả thật người tiên đã bày ra trò này để thử thách mình. Đã vậy ta cứ yên tâm nằm trong nồi, từ từ rồi sẽ tìm cách bước ra.
                            Trong khi đó, Văn Thủy dẫn tiểu đồng đi, giáng xuống trước cửa động, rồi bước vào bên trong. Đạo nhân nọ đang ngồi đợi nấu chín Lý Huyền, đem nhắm với rượu. Ngẩng đầu lên, thấy Văn Thủy và tiểu đồng tiến vào, hắn hoảng hốt, tính bỏ trốn. Văn Thủy rút trong tay áo ra chiếc roi của Lão Từ dùng để đánh trâu, nhắm vào đạo nhân, quất một roi, hét lên :
                            - Nghiệt súc ! Không mau hiện hình, còn đợi chừng nào ?
                            Đạo nhân rùng mình một cái, biến thành con trâu xanh, trút cặp sừng xuống, tính húc Văn Thủy. Văn Thủy chỉ một ngón tay, đè lên đầu trâu, nặng như núi Thái sơn. Con trâu hung hăng một lát, cục cựa không nổi, đành nằm phục xuống đất. Văn Thuỷ cười, nói :
                            - Nghiệt súc này thật to gan, dám chống cự với chủ ngươi hả ? Đồng tử mau lôi nó đi, nhưng chớ làm thương tổn tới nó, kẻo không mặt mũi nào về gặp sư phụ đâu !
                            Đồng tử lấy ra sợi dây thừng, xỏ vào mũi trâu, dẫn đi. Văn Thủy trở vào trong động, tra xét một hồi, đánh đuổi đám tiểu yêu chạy hết ráo. Lại vào trong bếp, cứu Lý Huyền ra. Lý Huyền ra khỏi nồi, thấy Văn Thủy đạo dung đoan trang, nghiễm nhiên là một vị kim tiên trên trời, bất giác dập đầu lạy tận đất. Văn Thủy cười, bảo:
                            - Chú là sư đệ của tôi, bất tất phải đa lễ. Mau ra đằng trước, mặc quần áo vào, theo tôi tới núi Côn Luân.
                            Lý Huyền nghe lời, ra khỏi nhà bếp, tìm được quần áo của mình mặc vào, lại tới khấu tạ Văn Thủy :
                            - Xin hỏi pháp hiệu của thượng tiên là gì ?
                            Văn Thủy đem chuyện đời mình kể lại, nói rõ cả lý do vâng lời Lão Tử tới cứu Lý Huyền, nhất nhất kể rõ. Bấy giờ Lý Huyền mới biết yêu đạo là con trâu Lão Tử thường cưỡi, đã trốn đi, hưng yêu tác quái. Lại mừng vì một điểm đạo tâm đã cảm động được sư tổ, thu nhận làm đệ tử. Lại hỏi Văn Thủy :
                            - Từ đây tới Côn Luân bao xa ?
                            Văn Thủy cười, đáp :
                            - Nếu nói về người phàm đi bộ, đại khái là xa chừng năm, sáu ngàn dặm !
                            Lý Huyền thè lưỡi, không dám nói tiếng nào.
                            Chỉ thấy Văn Thủy hô to một tiếng : - Đi ? đưa tay vẫy, liền thấy giữa không trung hai đám mây hồng bay tới. Văn Thuỷ nắm tay Lý Huyền, cùng leo lên. Lý Huyền lần đầu cưỡi mây, sợ run cầm cập, Văn Thủy mới nói :
                            - Chú tới Hoa sơn phải đi bộ mất nhiều ngày, lại bị yêu đạo bỏ vào nồi đem nấu, chưa từng biết ngán, sao lần đi này lại sợ sệt như vậy ?
                            Lý Huyền nghe nói cũng bật cười.
                            Đám mây bay lên cao, chỉ nghe gió thổi ù ù. Cúi nhìn cảnh vật bên dưới, thấy dường như mọi vật đều bay giật lùi về đằng sau. Có vô số đỉnh núi cao vút, rất nhiều sông dài, hàng trăm nơi chợ búa náo nhiệt, hàng ngàn rừng rậm. Đang lúc thưởng ngoạn, chợt nghe Văn Thủy dặn dò :
                            - Không nên nhìn chăm chú xuống bên dưới. Chú mang xác huyết nhục, có thể cảm thấy đầu choáng váng, lát nữa gặp tổ sư, không thể hành lễ.
                            Lý Huyền sợ hãi, vội nhắm mắt lại, mặc cho gió đưa đi. Trong khoảng thời gian chừng nấu chín nồi cơm, chợt nghe bên tai có tiếng Văn Thủy hét lên : - Ngừng !, liền mở mắt ra nhìn. Thì ra hai người đã rơi xuống một đỉnh núi, cảnh vật chung quanh rất u nhã. Văn Thủy lại cười, bảo :
                            - Này sư đệ, đây là đỉnh cao nhất của dẫy núi Côn Luân. Động phủ của tổ sư ở ngay trước mặt. Chú thử nhìn bên kia, có phải là hai đồng tử đang từ phía trước đi tới chăng ? Chắc là tổ sư đã phái chúng tới đón chúng ta đó.
                            Lý Huyền nhìn kỹ, quả đúng như lời Văn Thủy vừa nói, vội sửa lại mũ áo, bước đi trịnh trọng. Hai tiểu đồng dắt tay nhau tiến lại, tươi cười nói :
                            - Đại sư huynh đã về đấy ư ? Tổ sư sai hai đứa tôi ở đây đợi sẵn.
                            Văn Thủy lên tiếng :
                            - Phiền hai sư đệ vào thông báo, nói rằng tôi dẫn Lý Huyền tới hầu.
                            Hai đồng tử đi một lát, lại trở ra, vẫy tay :
                            - Tổ sư bảo hai anh vào.
                            Văn Thủy dắt Lý Huyền, bước vội vào cung. Lý Huyền giữ vững lòng thành, không dám nhìn nghiêng. Tới cửa cung, Văn Thủy bảo Lý Huyền đứng đợi, tự mình tiến vào cung, bẩm báo việc thu phục trâu xanh, và dẫn Lý Huyền về tham kiến. Lão Tử tươi cười ngỏ lời an ủi và truyền cho Lý Huyền vào. Văn Thủy lại bước ra, dẫn Lý Huyền vào cung. Lý Huyền phủ phục dưới thềm, miệng xưng hô:
                            - Đệ tử Lý Huyền xin vào ra mắt, chúc tổ sư thánh thọ vô cương.
                            Lão Tử truyền cho ngồi, Lý Huyền không dám. Văn Thủy phải nói :
                            - Tổ sư đã cho ngồi, sư đệ đừng nên khiêm tốn.
                            Bấy giờ, Lý Huyền mới dám ngồi xuống.

                            #14
                              bevanng 10.07.2008 12:02:42 (permalink)
                              Hồi Thứ 21

                              Núi Quan Nhật, thu yêu làm tôi tớ
                              Động Tử Hà, yêu nữ cướp Kinh.


                              Lão Tử thấy Lý Huyền thần thái tuấn dật, mặt mày nở nang, tỏ ý hài lòng. Thấy Lý Huyền ngồi xuống rồi, ngài mới hỏi :
                              - Lý Huyền, ngươi tuy đã biết việc kiếp trước, nhưng vị tất đã hiểu rõ, phải không ?
                              Lý Huyền thưa :
                              - Đệ tử ngu muội, kiếp này còn chưa hiểu, sao có thể biết được kiếp trước ? Mong tổ sư chỉ bảo.
                              Lão Tử gật đầu, sai đồng từ đem ra một chén nước sạch. Lão Tử làm dấu vẽ bùa trên mặt nước, rồi đưa chén nước cho Lý Huyền, bảo soi bóng mình trong đó. Lý Huyền cầm chén nước trong tay, nhìn vào trong chén, thấy cảnh thiên cung, quần tiên đang uống, Tư hương lại cùng Tư hoa tiên nữ cười cợt với nhau, Ngọc đế giáng tội, đầy hai người xuống trần mười kiếp. Lý Huyền đã thấu hiểu, trả chén nước cho Lão Tử, khấu đầu lạy tạ. Lão Tử mỉm cười, nói :
                              - Ngươi đã hiểu kiếp trước ngươi có căn cơ, kiếp này sớm mộ đạo lại được Kim tinh dẫn dắt, nên ta thương tình nhận cho vào môn hạ. Từ xưa đến nay, những người thành đạo, chưa có ai được nhanh chóng như người đâu. Từ nay ngươi phải cố gắng tu luyện, công hành về sau đều do ngươi tự làm lấy.
                              Lý Huyền lại lạy, xin thụ giáo. Nhân đó nói :
                              - Đệ tử là kẻ bỉ phu nơi sơn dã, là mạt phẩm chốn lâm tuyền, kiếp trước đã mắc lỗi, kiếp này há dám không cố gắng, để lỡ việc tiền trình, lại phụ ơn đức tổ sư tài bồi cho ?
                              Lão Tử gật đầu, tỏ ý khen ngợi, lại dạy bảo thêm :
                              - Người tu đạo cần phải rong chơi sơn thủy cho nhiều, để gột rửa lòng mình, lập nhiều công hạnh, giữ vững thiện quả. Trước hết, ta hãy truyền cho ngươi khẩu quyết về việc tu luyện, cùng phương cách dẫn đạo, sau nữa ban cho người ba cuốn "Huyền môn đạo kinh". Hai cuốn thượng và trung dạy cho biết hô phong hoán vũ, đằng vân giá vụ, vời thần binh, sai khiến sấm sét, quyển hạ dạy cho biết các cách biến hóa kỳ lạ, hiểu được chuyện vị lai. Ngươi có thể một mình ở lại trên núi Hoa sơn, nơi đó có động phủ mà ta tu chân, nằm trên ngọn Quan Nhật phong, có tên là động Tử Hà. Có một điều là ở đó hiện có yêu ma rất đông, ta phải trao cho ngươi một thanh bảo kiếm, lúc dùng thì dài, thu về thì cực nhỏ, có thể phóng ra xa muôn dặm, thu về trong chớp mắt. Ngươi có thể nhờ thanh kiếm đó mà trừ yêu, giữ thân, tránh khỏi tai họa.
                              Lý Huyền quì xuống nhận lãnh, xin kính cẩn ghi nhớ lời dạy.
                              Lão Tử lại sai đồng tử ra phía sau động, lấy về đủ bộ : áo đạo, mũ đạo cùng giầy, vớ. Lý Huyền mặc xong, tinh thần phiêu dật hẳn lên. Lão Tứ cười, bảo :
                              - Ngươi đã rành rành là một vị tán tiên, có thể ra đi được rồi ! Ta sẽ nhờ Văn Thủy sư huynh đưa ngươi về động Tử Hà. Ba năm sau, ngươi tu luyện công phu hoàn hảo, lại về đây gặp ta.
                              Lý Huyền khấu đầu lạy tạ, Văn Thủy dẫn ra khỏi động, cùng cưỡi mây tới động Tử Hà, trên núi Hoa sơn.
                              Lúc Văn Thủy ngỏ lời từ biệt, Lý Huyền lại vái lạy, xin chỉ giáo. Văn Thủy mới nói :
                              - Yếu quyết về tu đạo, tổ sư đã chỉ dẫn đầy đủ rồi. Sư đệ thông minh, tất nhiên là lãnh hội được. Ngoài ra, các tiên thuật đều có đủ trong kinh điển, sư đệ cứ khổ công tìm hiểu là được. Ngu huynh chỉ có món đồ chơi nho nhỏ tặng cho sư đệ, để chúc mừng sư đệ vào động, bắt đầu việc luyện tập - Nhân đó, lấy ra một tấm gương nhỏ, nói tiếp :
                              - Treo ở ngoài cửa, gương này sẽ phát ra ánh sáng rực rỡ, ban đêm chẳng khác chi ban ngày, mà yêu nhân, quỉ quái không dám đến gần.
                              Lại truyền cho Lý Huyền phép định thân : nếu gặp yêu nhân tấn công, ta thi triển phép định thân này, có thể giữ cho thân thể bất động.
                              Lý Huyền mừng rỡ bái tạ, Vàn Thủy lại nói :
                              - Hiền đệ lần đầu vào núi, mọi hành động nhất thiết phải nhờ người giúp đỡ. Ngu huynh sẽ đưa hai người đầy tớ tới phục vụ cho đệ .
                              Lý Huyền kinh ngạc, hỏi :
                              - Trong chỗ hoang sơn, kiếm đâu ra người ?
                              Văn Thủy cười :
                              - Chú nhắm coi thứ địa phương này, người phàm trần có thể tới được không ? Bây giờ, ta sẽ tìm trong đám yêu ma ở gần núi này, xem có đứa nào hữu duyên, vời về hai đứa, để phục thị lão đệ. Những thứ gì lão đệ cần dùng, chúng có thể đi kiếm loanh quanh trong núi, đem về cho đệ.
                              Văn Thủy dẫn Lý Huyền ra khỏi động, bắt quyết vời thần thổ địa bản sơn tới, hỏi : - Ở vùng phụ cận, có nhiều yêu quái không ?
                              Thổ địa là một ông già, khom lưng, đáp :
                              - Nơi đây, từ khi Lão Quân tổ sư bỏ đi, một vùng đất phía trước và phía sau núi này không sao yên ổn, vì có một đám yêu nhân quấy nhiễu. Hung ác nhất là một con tinh thỏ và một con quái trĩ, thường biến hóa ra hình người. Tinh thỏ biến thành một người nam, mê hoặc đàn bà con gái, quái trĩ biến thành một người nữ, xuống núi quyến rũ đàn ông, trộm lấy nguyên dương. Mấy năm nay, hai đứa đó hại người không ít.
                              Văn Thủy tức giận, nói :
                              - Đây là đất tổ sư tham tu, sao có thể chấp chứa bọn súc vật ở đó gây rối ?
                              Thổ địa nói :
                              - Chẳng những là người phàm dưới núi, ngay cả thổ địa chúng tôi cũng bị chúng quậy phá nhiều lần.
                              Văn Thuỷ ôn tồn nói:
                              - Hôm nay, tôi sẽ thu phục hai con quái thỏ và trĩ đó, để chúng phục dịch cho sư đệ tôi. Ngoài ra, những yêu ma khác, đã có sư đệ tôi ở đây không bao lâu sẽ diệt trừ hết. Chú ấy mới tới địa phương này, khổ công tu đạo, nếu có việc gì bất trắc, ngoài ý muốn, mong các ông giúp đỡ, một mai chú ấy tu đạo viên mãn, các ông cũng có công lao không nhỏ.
                              Các thổ địa cúi chào, ra đi. Văn Thủy cười, bảo Lý Huyền :
                              - Người tu đạo phải thay trời hành đạo, các thần tiên ba cõi cũng lấy việc cứu người, giúp đời làm trách nhiệm. Nếu ta cứ giữ tâm chính đại, cử động quang minh, luôn luôn có ích cho người, không làm điều gì hại tới đạo lý, thì bọn yêu ma đương nhiên phải cung kính nghe lời ta sai khiến.
                              Lý Huyền nghe nói, cảm kích trong lòng.
                              Văn Thủy dẫn Lý Huyền lên chỗ đỉnh núi, vận tuệ nhãn nhìn ra bốn phía, đưa tay chỉ một nơi ở phía Đông Bắc, nói :
                              - Sư đệ có nhìn thấy không ? Chỗ đó phát ra một thứ yêu khí, nửa xanh, nửa đen, ắt có yêu nhân ẩn núp.
                              Lý Huyền nhìn không rõ lắm, nhưng dựa theo lời Văn Thủy nhìn kỹ, cũng thấy chỗ đó có điều gì bất thường. Văn Thủy dặn nhỏ:
                              - Mang theo bảo kiếm, theo sát bên ta ?
                              Hai người cưỡi mây tới chỗ có yêu khí. Từ trên mây nhìn xuống thấy đó là một thung lũng lớn, cuối thung lũng có một hang động lớn, ngoài hang động có nhiều tiểu yêu đang nô đùa. Thấy hai người, chúng kêu lên một tiếng, bỏ chạy, có đứa lại ngây người ra đứng ngó, có đứa chạy như bay vào động thông báo cho yêu tinh.
                              Văn Thủy trỏ về phía trước, nói với Lý Huyền :
                              - Chốc lát, yêu tinh sẽ ra ngay !
                              Nói chưa dứt lời, đã thấy một nam, một nữ dẫn theo một đám tiểu yêu hò hét xông ra khỏi động. Thấy anh em Văn Thủy, con yêu nam nói :
                              - Chúc mừng hiền muội ! Hôm nay, em được một bữa sướng miệng !
                              Yêu nữ vui mừng, giả bộ lễ phép, tiến lại, chắp tay chào :
                              - Hai vị đạo trường từ đâu tới đây ?
                              Văn Thủy cười, bảo ;
                              - Chúng ta cốt ý tới đây để cứu hai ngươi !
                              Hai yêu nghe vậy, bất giác cười ngất :
                              - Đạo nhân này nói ra toàn lời ngông cuồng ! Hai người đã tới đây cứu mình còn chưa xong, nói chi cứu người ?
                              Yêu nam chợt ngửng đầu lên, thấy thanh kiếm của Lý Huyền phát ra ánh sáng lấp loáng, bất giác rét run cầm cập, mới nói nhỏ với yêu nữ vài câu, yêu nữ gật đầu. Một tiếng hiệu lệnh phát ra, cả trăm, cả ngàn tiểu yêu xông tới, vây quanh hai người. Văn Thủy cả cười cùng Lý Huyền rút kiếm ra, đưa cao cánh tay, vẫy một cái, kỳ lạ thay, ánh kiếm tới chỗ nào, chỗ đó có trăm, ngàn tiểu yêu rơi đầu, gẫy xương, nằm la liệt ra đất. Hai yêu tinh nổi giận, cùng cầm binh khí, xông tới đánh hai người. Văn Thủy ra hiệu cho Lý Huyền lùi lại một bước, tự mình cầm kiếm đưa về trước, một mình đánh nhau với hai yêu. Hai yêu địch không lại, bỏ chạy về hướng Tây. Văn Thủy cưỡi mây đuổi theo. Hai yêu cùng há miệng phun khí. Chỉ thấy một đám khói xanh tỏa ra mù mịt, đối mặt không nhận ra nhau, lại có một mùi hôi thối kỳ lạ lan ra, khiến Lý Huyền ngất đi, ngã lăn ra đất. Văn Thủy nổi giận, hét lên :
                              - Yêu nhân sao dám vô lễ !
                              Liền há miệng thở ra, tức thì khói xanh tan đi, mùi xú uế cũng không còn. Văn Thủy niệm lâm râm, rồi hét lên một tiếng, một tiếng sấm nổ ra giữa thinh không, sớm có ông Sấm, Bà Sét hiện ra, đứng ở trên mây, khom lưng đợi lệnh. Văn Thủy chắp tay chào, nói:
                              - Hiện có hai con yêu thỏ, trĩ ở đây quấy rối, bần đạo cảm phiền hai vị tôn thần ra sức, bắt chúng lập tức hiện nguyên hình, nhưng xin chớ làm thương tổn tới tính mạng chúng. Bần đạo còn có chỗ dùng tới chúng.
                              Hai vị thần Sấm và Sét hô to :
                              - Tuân pháp chỉ !
                              Liền phát ra một tiếng sấm rất lớn, đánh trúng đầu hai yêu.
                              Chúng kinh hồn táng đảm, hô to :
                              - Đại tiên tha mạng !
                              Văn Thủy hét lên :
                              - Nghiệt súc ! Mau hiện nguyên hình, nghe pháp chỉ !
                              Hai con yêu lắc mình một cái, biến ra thỏ trắng và chim trĩ.
                              Văn Thủy nói :
                              - Yêu ma các ngươi có chịu nghe lời ta sai khiến hay không ?
                              Hai con yêu khóc mà năn nỉ, xin người tiên tha mạng, tình nguyện cắp roi theo hầu đại tiên, nếu trái lời sẽ chịu trời tru đất diệt. Văn Thủy cho lui ông Sấm, Bà Sét, rồi nói :
                              - Từ nay các ngươi phải ở động Tứ Hà, núi Quan Nhật phục vụ sư đệ ta. Các ngươi phải cẩn thận, cung kính vâng lệnh. Sư đệ ta chính là thiên tiên giáng phàm, nay vâng lời dạy của tổ sư, ở đây tu trì, chẳng bao lâu sẽ thành chính quả. Lúc đó các ngươi cũng có công lao không nhỏ.
                              Hai yêu vui mừng, khấu tạ. Văn Thủy bảo chúng biến trở lại hình người, tới thăm Lý Huyền. Lý Huyền bị độc khí khá nặng, hôn mê bất tỉnh. Văn Thủy phà hơi vào mặt, hô to :
                              - Sư đệ mau tỉnh dậy ! Ngu huynh đã thay mặt đệ thu nhận hai người giúp việc.
                              Lý Huyền tỉnh dậy, mừng rỡ bái tạ. Văn Thủy nói :
                              - Sư đệ hãy đặt tên cho hai đứa này, để thuận tiện khi cần gọi tới chúng.
                              - Nhờ sư huynh đặt tên giùm cho.
                              Văn Thủy suy nghĩ một lát, nói :
                              - Tinh trĩ này có tài bay lượn trên không, hãy đặt tên cho nó là "Phi Phi"(1) , còn tinh thỏ có thể leo lên vách núi, trèo lên ngọn cây nên đặt tên là "Điên Điên" (2).
                              Lý Huyền và hai yêu đều tạ ơn Văn Thủy. Văn Thủy lại đưa hai đứa về động Tử Hà, dặn chúng nên khéo hầu hạ Lý Huyền.
                              Nếu hai đứa bay thay lòng đổi dạ, ta ở Côn Luân lập tức biết liền, sẽ vỗ tay phát ra tiếng sấm, đánh hai người tan thành tro than.
                              Hai yêu sợ hãi lĩnh mệnh. Văn Thủy lại khuyên nhủ Lý Huyền vài câu, và nói :
                              - Ba năm sau, gặp lại ở Côn Luân !
                              Dưới chân xuất hiện một đạo kim quang, Văn Thủy bay lên không trung, biến mất.
                              Hai yêu phủ phục trước mặt Lý Huyền, nói :
                              - Hôm nay, chúng tôi may mắn gặp được kim tiên ?
                              Lý Huyền nói :
                              - Từ nay, hai ngươi nên gột tâm sửa tính, theo ta tu trì. Ta sẽ chọn một số bí kíp mà tổ sư ban cho, thỉnh thoáng truyền lại cho hai ngươi. Sau này ta thành công, không quên công lao của hai ngươi đâu.
                              Phi Phi và Điên Điên vui mừng, hể hả.
                              Từ đó, Lý Huyền ở trong động, ngày đêm dụng công luyện tập, hai yêu xuống núi lấy những vật dụng cần thiết đem về, nấu cơm, quét hang động, luôn luôn sẵn sàng nghe lời chủ nhân sai khiến, không hề lười biếng, trễ nải.  
                              -----------------------------------------
                              (1) và (2) Phi : bay. Điên : đỉnh, chóp.

                              Ai ngờ cuốn kinh Lý Huyền thường ngày tụng đọc, ban đêm lại phát ra ánh sáng, tỏa ra khắp bốn phía. Liền có nhiều yêu ma ngờ rằng trong động có nhiều châu báu, nghĩ chuyện lấy trộm.
                              Hôm đó, Lý Huyền đang luyện tập, chợt thấy từ ngoài động tiến vào một cô gái, mặc quần áo trắng toát, nước mắt lã chã trên mặt, kêu khóc rất to :
                              - Pháp sư cứu mạng .
                              Lý Huyền định thần nhìn kỹ, không nhận ra là người nào, mới nghĩ : "Chỗ núi sâu này, người thường không thể đến được, chắc là yêu nhân hóa thân đây". Sau lại nghĩ : "Yêu nhân ắt phải có hình tính đặc biệt, cô gái này yểu điệu như thế, sao có thể là yêu tinh được ?, Vì thế, không nghi ngờ gì nữa, mới hỏi :
                              - Tiểu nương tử từ đâu tới ? Có nỗi oan khổ ? Sao không tới chỗ quan phủ mà tố cáo, lại tới nơi hoang sơn này tìm bần đạo ? Có ích gì đâu ?
                              Cô gái khóc mà thưa :
                              - Tiểu nữ là người ở Vương gia tập, thuộc thôn Đông, chồng chết mới hơn trăm ngày, không nỡ tái giá. Vì bố mẹ chồng nghèo khổ mới đem bán thiếp vào nhà một tài chủ, việc thành hôn định vào đêm nay. Tiểu nữ kiên quyết không chịu thuận tùng, tài chủ mới xử tiểu nữ vào tội chết, Tiểu nữ rình lúc đêm khuya trốn đi.
                              Nhưng một vùng đất phía sau núi này, thế lực của tài chủ chỗ nào cũng vươn tới, tiểu nữ trốn không thoát, mới nhắm hướng núi mà chạy tới, không ngờ càng chạy càng lên cao, bất giác đã tới chỗ này. Nay quả thật tiểu nữ ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, lại còn sợ chui vào bụng cọp, chó sói nữa. Đang lúc không biết làm sao, may gặp pháp sư ở đây tu đạo, xin người đừng bỏ rơi, hãy thu nhận tiểu nữ vào động phủ, làm một đứa hầu gái sai khiến, thật may cho tiểu nữ muôn phần.
                              Lý Huyền kinh hãi nói :
                              - Tiểu nương tử đừng nói vậy ? Bần đạo là kẻ không kham nổi những nỗi khổ hàng ngày của người đời, mới tới trú ngụ ở nơi vắng vẻ này. Tuy hiện nay vẫn phải ăn cơm, nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ dứt bỏ đồ huyết thực, làm sao có thể nuôi dưỡng nổi tiểu cô nương ? Vả lại ở đây không có việc gì lớn, chỉ có nhưng việc lặt vặt đều do hai đệ tử của tôi cung ứng được rồi, còn dùng tới người khác làm chi ? Tiểu nương tử mau xuống đi, đừng cà rề ở đây nửa !
                              Cô gái nghe nói, lại khóc rống lên :
                              - Người tu đạo rất trọng điều nhân nghĩa, tiểu nữ vì trọng danh tiết mà gặp hoạn nạn, mà pháp sư chẳng chịu ra tay cứu vớt. Tiểu nữ đằng nào cũng chết về tay ác nhân, chẳng thà chết trước mặt pháp sư lại hay hơn !
                              Lý Huyền rúng động trong lòng, cảm thấy bất nhẫn, mới nghĩ : “Cô gái này nói giọng quá tha thiết, đúng là vì giữ trinh tiết mà tới đây Nếu ta không cứu , há chẳng phải mang tiếng ngồi nhìn người chết hay sao ? Nếu muốn cứu cô ta, phải bàn bạc với Phi Phi, nói nó đưa cô ta ra khỏi núi, tới nơi cách xa chừng ngàn dặm, mới không sợ ác nhân tìm bắt cô nữa". Nghĩ vậy rồi, mới nói :
                              - Tiểu nương tử đứng dậy đi. Bần đạo ở đây tu thân lập mệnh, còn sợ không đạt được kết quả, rảnh rỗi đâu mà lo chuyện người khác ? Nhưng thấy tiểu nương tử quyết tâm giữ trinh tiết, thật đáng khâm phục, lại nói năng thảm thiết đáng thương, bần đạo đành phá lệ một lần vậy. Tôi sẽ sai đồ đệ đưa cô xuống núi, để cô tìm một nhà lương thiện mà xin làm mướn, cũng có thể sống tạm, ý cô thế nào ?
                              Cô gái vui mừng, tạ ơn :
                              - Nếu được vậy, pháp sư quả là ân nhân cứu mạng của tiểu nữ !
                              Nói rồi, lại cúi lạy. Lý Huyền vội gạt đi, nói :
                              - Tiểu nương tử đừng nên đa lễ, mà bần đạo chẳng an lòng. Tôi sẽ lập tức sai người đưa cô đi.
                              Cô gái vội nói :
                              - Hôm nay trời đã tối, mà đường núi lại quanh co, gập ghềnh, tới đâu cũng có thể gặp hổ báo, độc trùng. Vạn nhất xảy ra chuyện không may, há chẳng phải pháp sư cứu người lại hóa ra hại người hay sao ?
                              Lý Huyền lắc đầu, hỏi :
                              - Vậy ý tiểu nương tử ra sao ?
                              - Tiểu nữ chẳng có ý gì khác, chỉ xin ngủ lại một đêm, sáng mai đi sớm.
                              - Làm vậy không được đâu. Trước nay, tôi chưa hề giữ một nữ khách nào ở lại. Vả lại, nơi hoang sơn, cổ động, đơn nam quả nữ phải tránh tị hiềm ! Tiểu nương tử vì muốn bảo toàn danh tiết mà mắc nạn, nay lại vì ngủ lại một đêm mà thương tổn tới thanh danh, đó chẳng phải kế hay cho nương tử.
                              - Chẳng cần lo lắng. Pháp sư có nói là có hai đồ đệ kia mà.
                              Hãy bảo họ dời đi chỗ khác, dành phòng cho tôi ngồi một đêm, có gì mà hiềm nghi ? Thiên thần cùng chứng giám, sợ gì những tiếng thị phi?
                              Lý Huyền nghe vậy, càng thấy khó khăn, nói :
                              - Chính thế. Trách nhiệm này, tôi càng gánh vác không nổi. Học trò tôi không phải con người, mà là thỏ tinh và trĩ tinh tu luyện thành người. Trĩ tinh còn là đàn bà, chứ thỏ tinh mang dạng đàn ông. Bần đạo nhờ pháp lực của tổ sư, vừa thu chúng vào môn hạ mới đây, đâu biết dã tính của chúng đã thuần hay chưa ? Vạn nhất thấy tiểu nương tử trẻ trung mỹ miều, nó có hành vi bất chính, bần đạo làm sao gánh vác cho nổi trách nhiệm ? Tiểu nương tử đừng nghi ngờ gì nữa, tôi sẽ lập tức kêu tinh trĩ đưa cô xuống núi. Học trò tôi tuy là dị loại, nó có nhiều phép thuật, những loài cầm thú bình thường đừng hòng lại lần nó. Có nó đi cùng, bảo đảm không sợ chuyện gì xảy ra.
                              Cô gái thấy Lý Huyền khăng khăng không chịu, liền giở trò mê hoặc để quyến rũ, nhoẻn miệng cười, nói giọng ỏn ẻn :
                              - Pháp sư, ông đúng là lòng dạ độc ác, nỡ để đầy tớ đêm khuya mạo hiểm, băng băng trên con đường núi dài dằng dặc hay sao ?
                              Cô gái nói rồi, tiến sát bên mình Lý Huyền, khiến Lý Huyền hết đường tránh né, vội hô to :
                              - Phi Phi, Điên Điên ở đâu ? Mau lại cứu ta !
                              Lý Huyền nói chưa dứt câu, cô gái đã nổi giận đùng đùng, nói :
                              - Được ! Lý Huyền, ngươi đúng là thằng ngốc không biết điều ? Ta nói năng ôn tồn, ngươi lại kêu người tới bắt ta hả ? Thôi được ! Ta không thèm làm khó ngươi nữa, chỉ chộp lấy cuốn Huyền Kinh gì đó của ngươi đem đi. Nếu ngươi hồi tâm chuyển ý, ta sẽ cùng ngươi làm vợ chồng suốt đời. Nếu ngươi không chịu, ta đem đốt cuốn kinh của ngươi đi. Ta ở động Bạch Ngọc, đằng sau núi này. Bạch Ngọc phu nhân chính thị là ta. Ngươi muốn tìm ta, cứ đến đó mà tìm.
                              Nói rồi, đưa một tay chộp lấy cuốn Huyền Kinh, đặt trên chiếc bàn đá, tay kia xô đẩy Lý Huyền, biến ra một trận gió quái, ra khỏi động đi ngay. Chừng Phi Phi, Điên Điên chạy tới, cùng Lý Huyền ra ngoài động tìm kiếm, thì không thấy tung tích đâu nữa.
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 21:01:54 bởi bevanng >
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 7 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 93 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9