Bát Tiên Đắc Đạo
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 4 của 7 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 93 bài trong đề mục
bevanng 20.07.2008 11:52:28 (permalink)
Hồi Thứ 53

Phí Trường Phòng nổi giận, khai sát giới
Thần Nhị Lang xuất hiện, ngăn hung bạo.

Phí Trường Phòng thấy vợ mình bị một đám vô lại lăng nhục, bất giác nổi giận đùng đùng. Lại thấy chúng lôi Bạch thị đi, Bạch thị tóc tai rũ rượi, bước thấp bước cao, quần áo xốc xếch, miệng gào lên :
- Cứu tôi với ! Cường đạo bắt cóc phụ nữ ! Bớ bà con làng xóm, mau cứu tôi !
Tiếng kêu thảm thiết, không nỡ nghe. Phí Trường Phòng không nhịn được nữa. Thấy Bạch thị đã bị chúng lôi đi xa chừng trăm bước, Trường Phòng liền thi triển phép rút đất, hai chân nhảy xổ về đằng trước, giây lát đã đuổi kịp. Bọn vô lại thấy một nam tử từ trên không trung nhảy xuống, kinh ngạc vô cùng, ngờ là thần, là quỉ xuất hiện. Phí Trường Phòng không thèm nói chuyện với chúng, trước hãy hỏi Bạch thị nương tử :
- Có nhận ra bỉ nhân không ?
Bạch thị nhìn Trường Phòng ăn mặc theo lối đạo nhân, thần sắc khác hồi trai tráng. Rõ ràng nàng đã nhận ra chồng mình, nhưng trong lòng còn chút hồ nghi, vì cách biệt nhau đã lâu năm, tìm kiếm khắp nơi không thấy, lại nghe chồng mình đã chết ở nơi đất khách. Nay thấy anh đột nhiên xuất hiện, Bạch thị ngờ rằng chồng mình đã chết nơi tha hương, quỉ hồn trở về, biết ta gặp nạn, mới hiện hình cứu ta. Vì tình vợ chồng cùng gối, cùng giường, nên biết anh là ma hiện về, chị cũng không sợ hãi, liền nắm lấy áo đạo sĩ của Trường Phòng, kêu khóc vang trời :
- Chàng đã ra người thiên cổ, hôm nay sao còn trở về đây ? Có phải chàng biết vợ chàng mắc nạn, đã hiển linh tới cứu nhau đó chăng ?
Phí Trường Phòng nói vần tắt một câu :
- Không tiện nói rõ, hãy hỏi vì sao nàng coi ta là hồn ma ?
Câu nói chưa dứt, bọn người kia đã vây quanh, hỏi :
-  Ngươi thật ra là người, là ma, hay là yêu tinh ? Cứ cho ngươi là ma đi, vợ ngươi hiện nay phạm vương pháp, chúng ta đang dự bị đưa ả lên quan đây. Ngươi ở cõi âm, không liên lạc gì với chúng ta trên dương gian, ta khuyên ngươi đừng xen vào việc không phải của mình thì hay hơn. Nếu không, chúng ta hãy bắt trói ngươi, đưa tới miếu thành hoàng, giao cho thành hoàng lão gia, kết tội ngươi nhận xằng vợ của người khác, để coi ngươi có thể làm một con ma yên thân hay không ?
Phí Trường Phòng đang giận dữ, nghe câu nói đó càng điên tiết, rút phăng cây kiếm đang đeo, hướng về phía người đang nói, hét lên:
- Thằng giặc đáng chết kia, ban ngày ban mặt mà ngươi bắt cóc đàn bà đã có chồng, còn dám coi ta là hồn ma, nói năng nhảm nhí. Ta hãy cho ngươi thấy thủ đoạn của hồn ma là thế nào.
Liền vung kiếm chém bay đầu người đó, xác đổ gục xuống đất. Đám vô lại liền la toáng lên :
- Đạo sĩ quê mùa ở đâu tới, mà dám giết người ?
Nhất tề xông lên, định bắt Phí Trường Phòng. Trường Phòng vội nắm Bạch thị lôi đi, dùng phép rút đất đẩy chị đi xa chừng nửa dặm, còn bản thân chống kiếm, đợi đánh nhau với đám đông. Bọn khốn này thường ngày ỷ thế đông người để tung hoành, phá làng phá xóm, làm sao biết sử dụng kiếm ? Vả lại lúc này, trong tay chúng không một tấc sắt, hơn mười tên chỉ tay không chống chọi với Phí Trường Phòng. Trường Phòng đang lúc phẫn nộ, không kể gì tới số đông, vung kiếm chém bừa, trong chốc lát đã giết một hơi sáu, bảy người. Còn lại có năm người, đều bị thương, bỏ chạy.
Trường Phòng hô to :
- Bọn súc sinh, đã không biết chiến đấu, còn dám làm ác nữa sao ?
Liền đuổi theo, hét lên một tiếng: "Ngừng !", tức thì năm người, mười cái chân, đứng như trời trồng, không sao nhúc nhích. Phí Trường Phòng cười, nói :
- Các ngươi là một lũ côn quang, để sống chỉ làm hại dân chúng. Chi bằng bần đạo chịu phí chút công sức, đưa tất cả bọn ngươi xuống cõi âm, để các ngươi đi gặp thành hoàng lão gia, kêu ngài sai người tới bắt ta, đem về trị tội.
Nói rồi, lại vung gươm, giết chết thêm hai người nữa. Những người còn lại, tuy đứng chôn chân một chỗ, lòng vẫn hiểu biết rõ ràng, miệng nói ra lời, cất tiếng năn nỉ bi ai :
- Thượng tiên tha mạng. Tiểu nhân chúng tôi không dám làm ác nữa.
Trường Phòng nói :
- Đã biết không dám làm ác rồi hay sao ? Các ngươi nói miệng, ai mà tin được ?
Nói rồi, lại giết thêm một người nữa. Trước mắt chỉ còn hai người, đều kêu khóc :
- Thượng tiên vốn giàu lòng từ bi, lấy việc cứu đời làm căn bản. Chúng tôi dẫu phạm tội, bất quá chỉ là cướp đoạt đàn bà nhà dân, bất luận thế nào, cũng không đáng tội chết. Thượng tiên đã giết anh em chúng tôi mất nhiều người rồi, còn lại có hai chúng tôi cơn lôi đình của thượng tiên đã giảm phân nửa, xin ngài dung tha cho chúng tôi được kéo dài kiếp sống thừa.
Nói rồi, cất tiếng khóc thảm thiết. Phí Trường Phòng nghe những lời năn nỉ, bất giác nhớ tới những lời giáo huấn của Thiết Quài tiên sinh, thấy hai người này nói rất đúng, chính mình đã làm quá : chỉ vì một cơn giận, đã giết uổng nhiều người, tựa hồ như đã cậy có pháp lực, giết hại người dân thường. Huống chi bản thân cầm kiếm báu đối phó với người tay không, quả thật không oai võ chút nào, còn mang tiếng bất nhân là khác. Lòng cảm thấy hối hận, bất giác quăng gươm xuống đất, hậm hực nói một mình :
- Bao năm công hạnh, một phút rũ sạch ! Ta thật không hiểu ta có thù hằn gì với bọn tụi bay, mà tụi bay báo hại, đưa ta đến bước đường này ?
Tự nói cho mình nghe mấy câu vô lý như thế, Trường Phòng nhìn lại, thấy hai người vẫn đang năn nỉ, van xin, bất giác cúi đầu, mặt mày bị xị, nói :
- Ta tha cho hai ngươi đi đấy. Hãy ráng làm người tốt, nhất thiết không được giẫm lên vết xe đổ, quấy nhiễu xóm làng. Lúc đó, ta không giết các ngươi, vương pháp và thiên đạo cũng không tha cho các ngươi đâu. Thôi, đi đi.
Hai người nghe nói, khấu đầu lạy tạ, chạy đi như chuột lủi.
Phí Trường Phòng vì một phút nóng giận, giết quá nhiều người, tâm cơ chợt biến chuyển, bất giác đổi từ giận dữ sang bi thương, hối hận. Tự trách tội, đánh vào mình hồi lâu, lại nhặt kiếm lên, tiến về phía trước, đi tìm vợ. Bỗng nghe phía sau có tiếng người hô tô :
- Hung phạm giết người, ngươi chạy đi đâu ?
Phí Trường Phòng kinh ngạc, quay nhìn lại, thấy một đạo nhân mặc áo trắng, cưởi con voi trắng, đuổi theo nhanh như gió.
Trường Phòng đang lúc buồn rầu, chán nản, không thiết sống nữa, liền đứng lại, đợi đạo nhân tiến gần, vòng tay thi lễ, hỏi :
- Đạo hữu vì sao tới đây ? Dám hỏi pháp hiệu là gì, quê quán nơi đâu ?
Đạo nhân cười nhạt, nói :
- Tên mọi rợ này cũng biết lễ phép nữa sao ? Người xuất gia lấy từ bi làm gốc. Những việc ngươi vừa làm chẳng những là báo thù quá mức độ, còn vi phạm vương pháp, trái luật trời. Ngươi đã cậy có chút đạo thuật để ức hiếp dân thường không biết phép thuật, lại không một tấc sắt trong tay, là việc làm xấu xa và đáng hổ thẹn, làm mất mặt người trong đạo giáo chúng ta. Lấy đạo pháp để đối phó với người thường chỉ nên dùng để cứu đời, giúp người thôi, nếu muốn dùng vào việc giết người, phải xét rõ người đó là kẻ phạm tội rất nặng, chưa bị pháp luật trừng phạt, lại thường làm hại dân địa phương, không thể răn bảo, mới nên phá sát giới, vì dân trừ hại, việc chém giết quí nhất là nương tay. Giết hại nhiều sinh vật đã là trái ý trời, đằng này ngươi lại giết một hơi hơn mười mạng người. Hành động tàn bạo đó, đối với người thường đã là đáng tru diệt, đối với người tu đạo, tội lại tăng lên một bậc. Nếu cứ ỷ phép thuật, giết bừa giết bãi, thì những kẻ tu đạo chúng ta sẽ trở thành tội đồ trong thiên hạ, bị dân chúng phỉ nhổ, và phong cách này mà lan rộng, e rằng đạo giáo chúng ta sẽ tự tiêu diệt.
Trường Phòng nghe nói, cảm thấy buồn bã, hối hận, lặng yên hồi lâu, không dám có một lời phân trần. Đạo nhân lại nói :
- Lại xét sự tình của ngươi trước mắt thấy vợ mình bị người lăng nhục, tức giận mà ra tay, về tình có thể nương nhẹ. Theo suy nghĩ của ngươi, bọn người kia toàn những kẻ xấu, quyết không một người tốt, giết chúng đi, chính là vì dân trừ hại. Nghe cũng có vẻ hợp lý đấy, nhưng phải biết người dân phạm pháp vốn thuộc về quan trên xét xử. Chúng ta là những người đã gác bỏ chuyện đời, sao còn thấy việc gì cũng nhảy vào can thiệp, làm rối loạn trật tự xã hội ? Ngươi giết người quá nhiều, lại mạo nhận danh nghĩa tốt đẹp là vì dân trừ hại, thì điều đó cũng gần với ăn nói huyênh hoang, không biết thẹn, chẳng có đạo lý gì cả. Vả chăng những kẻ làm ác đều phải có người thủ xướng. Ngoài kẻ cầm đầu đó ra, còn có những người ,bị ép buộc phải làm, hoặc là vì bị dụ dỗ, hoặc vì vô tình, không hiểu rõ sự việc mà a dua làm theo. Những người đó không hoàn toàn là những ác nhân. Quan phủ bắt được trộm cướp, tại sao không đem giết liền lập tức, mà phải thẩm vấn kỹ càng ? Cũng chỉ vì trong đám trộm cướp đó còn có những người tòng phạm, tội ác không lớn lắm, có thể tha thứ, hoặc giảm nhẹ hình phạt. Thầy trò ngươi cứ luôn miệng chê Tần hoàng hung bạo, bất nhân, nhưng chính sư phụ ngươi đã sai người đi hành thích, đến nay lại có ngươi làm việc tàn sát này, há chẳng phải tàn khốc hơn Tần hoàng hay sao ? Ta đang muốn đi thỉnh giáo sư phụ ngươi, hỏi xem ông ấy dạy dỗ học trò như thế, có phải chịu trách nhiệm liên đới hay không ?
Phí Trường Phòng nghe câu nào cũng hợp lý, không cãi vào đâu được. Vả lại tự mình làm nên trọng tội, chỉ nên bó tay chịu trói, kháng cự tội càng nặng thêm, e rằng còn để liên lụy tới sư phụ, làm sao yên lòng ? Nghĩ tới đó, liền nguội lạnh trong lòng, ngay cả chuyện vợ mình đang ở đâu, gia đình mình đã mắc tội gì gì, đều không có thì giờ nghĩ đến, chỉ khom lưng, cúi đầu trước mặt đạo nhân, nói rạch ròi :
- Nhất thiết tội ác, đều vì đệ tử quá nóng nẩy, bản chất thô lỗ làm liều, mà gây nên. Sư tôn của đệ tử, vì thấy đệ tử không thích hợp với việc tu đạo, đã có ý đuổi đệ tử ra khỏi sư môn. Nhờ đệ tử năn nỉ nhiều lần, sư phụ mới tạm giữ lại. Không ngờ đệ tử vì tính nết ngu đần, thô lỗ, vừa rời xa sư phụ vài bước, đã gây ra họa lớn này, thật không liên quan gì tới sư phụ. Xin thượng tiên thay mặt sư tôn của đệ tử mà giáng tội búa rìu, đệ tử cam tâm nhận lãnh.
Nói rồi, dập đầu lạy bôm bốp. Đạo nhân cất tiếng than dài, bảo đứng dậy. Trường Phòng đứng lên, cúi đầu nghe lệnh. Đạo nhân mới nói :
- Ta chính là thần Nhị Lang, cháu gọi Ngọc đế bằng cậu. Chẳng bao lâu Hán, Sở tranh hùng, Hán vương sẽ được làm thiên tử, ta vâng lệnh Ngọc đế, đi tuần tra khắp nơi, xem xét dân tình, giảm thiểu nỗi khổ cho dân chúng. Ta vừa xuống phàm trần, đã gặp ngay ngươi làm việc này, lẽ ra nên giao ngươi cho sư phụ, đưa xuống âm tì, đem giam vào chín tầng địa ngục. Nhưng niệm tình sư phụ ngươi đạo hạnh cao thâm, nể mặt ông ấy, lại thấy ngươi biết hối lỗi, mà việc này cũng xảy ra ngoài ý muốn của ngươi, nên ta tạm tha. Ngươi mau đi đi, tìm vợ ngươi mà đưa về nhà. Chị ta cũng là người hiền đức, thần tiên đều kính trọng. Ngươi hãy tìm nơi yên ổn cho chị ấy ở, đừng để chị ta chịu nguy hiểm nữa. Sau này, tự nhiên có người tới dìu dắt chị ấy. Giải quyết việc này ổn thỏa, ba ngày sau ngươi lại tới đây gặp ta.
Phí Trường Phòng khóc mà bái tạ, đùng phép rút đất chạy đi tìm Bạch thị.
Chỗ này dân cư cũng thưa thớt, Trường Phòng tìm một lát đã gặp được vợ. Anh ta không tiện đem chuyện vừa rồi nói với vợ, chỉ cùng vợ trở về nhà .
Phí Trường Phòng bỏ nhà đi tu từ sớm, chưa có con, mới nhận con trai ông anh làm con nối dõi chung cho hai chị. Thằng bé này chính là người mà Hà tiên cô đã gặp, khi tới hỏi thăm Trường Phòng. Nó vừa mở cửa, nói vài câu, đã đóng sập cửa lại. Chừng lớn lên, nó kết giao với những kẻ phỉ đồ, làm những việc vô phép vô tắc Không bao lâu, bao nhiêu gia sản sạch bách vì cờ bạc, cha mẹ nó lo buồn thành bệnh, theo nhau qua đời. Vợ Phí Trường Phòng à Bạch thị, tuổi tuy không còn nhỏ, nhưng vẫn giữ được nét phong vận. Lúc Trường Phòng còn ở nhà, vợ chồng yêu đương khăng khít. Chừng anh ta đi rồi, bạn bè nhiều người khuyên chị không nên để lỡ tuổi xuân hãy chọn một người tử tế mà gửi thân, hầu nhờ cậy lúc tuổi già. Bạch thị thề thủ tiết, quyết không đổi ý. Vì thế, người địa phương ai cũng khen ngợi, kính phục. Chẳng dè thằng con nối dõi chung, sau khi bán sạch gia tư, không hiểu nghe ai xúi bẩy, nói với nó rằng bà mẹ kế của nó tuy đã lớn tuổi, vẫn còn nhiều nét phong vận, đẹp hơn các cô nương còn trẻ: "Nay cậu ngày ngày lo chuyện nghèo khó, sao không đem bà ta làm mồi nhử, lừa gạt người khác, đổi lấy tiền bạc mà chi tiêu ?". Thằng con đó lúc đầu không dám tán đồng, sau vì khốn cùng, nghĩ mãi không ra một phương pháp nào kiếm ra tiền, mới chạy tới một sòng bạc, mượn một số tiền để đánh bạc, đem mẹ mình ra làm bảo đảm, tính rằng một nước bạc là thắng ngay, có đủ tiền sống đỡ qua ngày. Khi đó sẽ rửa tay, không dính vào cờ bạc nữa. Trời nào tựa kẻ bất lương, số tiền mượn để đánh bạc thua sạch, còn mắc nợ thêm một số tiền lớn, đành viết giấy nợ làm bằng chứng, hẹn kỳ phải trả. Bấy giờ, vùng đất Hàm Dương tuy trải qua nạn binh lửa, nhưng từ xưa vốn là nơi kiến đô của nhiều triều đại, chỉ sau một thời gian ngắn, dân chúng khắp nơi đổ về, lại thành một nơi thị tứ náo nhiệt. Ở đó lại có nhiều nhà thanh lâu, cung cấp cho các vương tôn, công tử một chốn mua cười, truy hoan. Bạch thị có dung mạo xinh đẹp, người địa phương xưng tụng là hoa khôi từ lâu. Vì thế thằng con nối dõi chung có ý đem bán chị ta đi, mới liên lạc với một nhà thanh lâu, cho được giá cao. Quả nhiên vừa ngỏ lời, chưa đầy hai ngày đã có một nhà thanh lâu chịu bỏ ra ba trăm lạng bạc, mua Bạch thị về làm xướng nữ. Thằng con nối dõi sợ Bạch thị không đáp ứng, mới bàn với một đám vô lại, lập mưu kéo tới nhà gây ầm ĩ, nói với con trai chị ra ngoài, phạm tội nặng, đã bị bắt đưa lên quan, nay bắt luôn người mẹ, đưa lên công đường. Bạch thị là đàn bà, không biết gì quả nhiên bị chúng dọa nạt, phải đi theo chúng. Chị vừa bước ra khỏi cổng nhà, bọn vô lại liền dở ngay thủ đoạn khinh bạc.
Chúng từng nghe Bạch thị có tiếng xinh đẹp ngày thường muốn nhìn mặt cũng không dễ dàng gì. Nay chị đã lạc vào thanh lâu, gặp cơ hội hiếm có này, sao chẳng tìm thú vui ? Ngàn vạn lần chúng không thể ngờ được đúng lúc đó Phí Trường Phòng trở về nhà, đường hẹp gặp nhau, gây ra một vụ án lớn.
Phí Trường Phòng hỏi rõ tình cảnh gia đình, khó xử vô cùng.
Thằng con bất tiếu, sau khi gây họa, nghe biết thúc thúc đã trở lại nhà. Không dám về gặp mặt. Trường Phòng đang lúc buồn bã, hối hận, còn lòng dạ nào mà trách mắng nó, nhưng đối với nó cũng không thể không đề phòng. Hai tên vô lại, sau khi thoát chết, trốn chui trốn lủi, chẳng dám ló mặt. Trong lúc đó, lại nghe tin : "Quan trên đã được viên đình trưởng địa phương báo cáo rằng vừa phát sinh một vụ án lớn, một lúc giết mười mạng người, đã phái người đi điều tra, bắt cho được hung thủ về biện án". Phí Trường Phòng tự nghĩ : "Lúc mình giết người, chẳng ai trông thấy, là vì chỗ đó rất vắng vẻ, ít người lui tới. Chỉ sợ thằng con còn mang dạ hiểm độc nghe người ta xúi bẩy, đứng nguyên đơn tố cáo, mình không tránh khỏi lên quan. Tự mình trốn đi, lại sợ để họa cho Bạch thị".
Qua hai ngày, Phí Trường Phòng đi đến quyết định sẽ đi tìm sư phụ, nói rõ việc mình gây họa, bị Nhị Lang trách cứ, kể rõ tình thực, xin sư phụ cho một biện pháp giải quyết.
Chính lúc định bước ra khỏi cửa, chợt nghe trên không trung có tiếng người nói, Phí Trường Phòng vội tới chỗ hành lang, ngửng đầu nhìn lên, thấy một đạo nhân quê, từ trên trời giáng xuống, chẳng phải ai khác, mà là sư phụ, Thiết Quài tiên sinh. Trường Phòng vừa cảm động, vừa sợ hãi, phục xuống đất, hô to :
- Trước mặt sư tôn, đệ tử xin thú tội. Đệ tử nay đã là tội nhân trong Đạo giáo, chẳng dám nhìn mặt sư tôn, chỉ xin sư tôn trách phạt thật nặng, để đệ tử được giảm nhẹ tội lỗi.
Thiết Quài tiên sinh thấy học trò nhận tội, không biết phải làm gì. Bạch thị đang ở trong phòng, làm việc nhà, nghe tiếng chồng nói, vội nhòm qua khe cửa, thấy chồng đang quì trước một đạo nhân què, biết ngay đó là sư phụ của chồng mình, vội bỏ dở việc nữ công, chạy ra ngoài, quì xuống bên chồng, tự xưng : "Con là Bạch thị, vợ của môn sinh họ Phí, khấu kiến sư tôn, chúc sư tôn tiên thọ vô cương !".
Thiết Quài tiên sinh lúc đầu thấy Phí Trường Phòng quì gối, ngó lơ chỗ khác, đến chừng thấy Bạch thị quì xuống bên chồng, vội đỡ dậy, nói :
- Phu nhân là bậc hiền phụ, khổ tiết đáng kính, bần đạo không dám nhận đại lễ ấy đâu. Mời đứng dậy.
Bạch thị thấy chồng vẫn quì dài, biết rằng việc này do lỗi của chồng mình giết người mà ra, cũng khấu đầu năn nỉ thay chồng, không chịu đứng dậy. Thiết Quài tiên sinh mỉm cười, vẫy tay :
- Cả hai hãy đứng lên, chúng ta bàn chuyện.
Bấy giờ vợ chồng mới dám đứng dậy, đừng hầu một bên, nghe pháp chỉ. Thiết Quài tiên sinh thở dài, nói :
- Việc này cũng có số định trước. Ngươi tuy đã nén nhịn, vẫn chưa dằn được cơn tức, đó là tách rời con đường vào đạo, càng lúc càng xa. Nhị lang là vị thần chính trực, nóng tính, giàu lòng nghĩa hiệp. Vừa rồi, ta đã gặp ông ấy, bàn tính cách giải quyết công việc của ngươi. Xét vì ngươi làm việc này là do vô tình, lại thương thân phận vợ ngươi, ông ấy đã quyết định cho ngươi làm một chức quan, chuyên quản lý những quỉ dữ. Ngươi vẫn sống trên dương gian, nhưng có thể xuống âm ti làm việc sai dịch. Hiện nay, đời đang loạn to, hồn ma phiêu dạt khắp nơi, không nơi nương tựa. Trong đám đó có người yếu, kẻ mạnh, người yếu bị kẻ mạnh ăn hiếp. Thân đã làm cô hồn còn bị như vậy, thật đáng thương. Phải ngăn chặn, không để họ chịu áp chế nữa. Ngươi phải tra xét sự tình cho rõ, lấy công đạo mà bảo vệ họ. Ngoài ra, lại có những con quỉ khinh nhờn người sống, làm hại dân lành, càng nên khu trừ. Nói chung là tất cả những việc gì liên quan tới du hồn, chưa được âm ti thẩm tra, đều do ngươi quản lý. Ngươi phải giải quyết công việc thật chính trực, công bình, khiến trên đời không còn oan hồn, người ta không ai bị quỉ quấy nhiễu. Đó là công lớn nhất của ngươi, có thể đem chuộc tội lỗi hôm nay. Nếu ngươi lợi dụng quyền lực, ỷ vào đạo pháp để áp chế quỉ, khinh nhờn người, thì lúc đó hai tội dồn một, ngươi sẽ bị sét đánh, và cũng không thoát khỏi thần kiếm của Nhị lang đâu.
Trường Phòng nghe dạy, khóc mà vâng chỉ, thề sẽ không dám có sai lầm lần nữa.

#46
    bevanng 20.07.2008 12:19:49 (permalink)
    Hồi Thứ 54

    Phí Trường Phòng vâng chỉ trị quỉ
    Huyền Châu Tử nhận chức, đề phòng giao long.

    PhíTrường Phòng được quản lý việc ma quỉ, thề không mắc lỗi lầm, đem hết tâm trí ra lo công việc, để lập công chuộc tội.
    Thiết Quài tiên sinh mỉm cười, gật đầu, nói :
    - Phải vậy mới được ! Phải vậy mới được !
    Liền lấy trong tay áo ra một cuốn bùa chú trị quĩ, trao cho Trường Phòng, nói :
    - Đây là phần nông cạn nhất trong Huyền kinh ba cuốn. Tuy rằng nông cạn, không phải ai cũng học được, mà tâm trí thô thiển cũng không luyện tập được. Ngươi thông minh xuất chúng, học tập chắc là không khó, nhưng không được tùy tiện truyền cho người khác, mà mắc tội với trời. Cuối cuốn sách còn có một chương, dạy cách chế tạo binh khí để chế phục quỉ quái. Ngươi hãy đẽo lấy một thanh kiếm gỗ đào, án theo trong sách mà luyện, có thể trù diệt quỉ dữ, trấn áp quái bướng bỉnh.
    Phí Trường Phòng lại vái mà nhận lãnh. Thiết Quài tiên sinh nói tiếp :
    - Ta vốn biết ngươi không có tiên duyên, nhưng vì ngươi năn nỉ quá, ta cũng mong có thể vãn hồi mệnh vận, toàn thành cho ngươi.
    Không ngờ sức người không thắng nổi trời, mới xảy ra việc hôm nay. Hiện giờ, tạm bố trí ngươi vào chức này, để ngươi có cơ hội lập công chuộc tội. Trong số mười người bị ngươi giết có nhiều kẻ chịu oan khuất, chết ra ma, oán khí không tan. Ngươi đạo lực yếu ớt, không đủ nhiếp phục chúng. Nếu chúng cấu kết với nhau, tìm ngươi để trả thù, ngươi cũng không chế ngự được chúng. Nay ngươi có chức quyền, bọn chúng đều ở dưới sự cai quản của ngươi, sẽ không dám nghĩ tới chuyện phục thù nữa. Nhưng người tiên làm việc gì cũng dựa vào công bằng, sao có thể cậy thế lực, ức hiếp người khác ? Vợ chồng ngươi phải làm lễ cầu siêu, giải thoát cho chúng, để chúng hàm ân, không thù oán hai ngươi nữa. Đó là điều khẩn yếu nhất.
    Hai người nghe nói, dập đầu tuân mệnh. Thiết Quài tiên sinh lại nói :
    - Trường Phòng, đây là cơ hội cuối cho ngươi lập công. Ngươi tuy thề thốt rành mạch, ta vẫn sợ ngày lâu, sự tình thay đổi, nếu ngươi không cẩn thận để ý, lại mắc họa lớn. Mong ngươi để tâm từng phút từng giây, không quên những lời ta nói hôm nay.
    Nói rồi, lại ngừng một lát, nói tiếp :
    - Theo ta ước đoán, ngươi có thể giữ đạo tâm chuyên nhất, trước sau không đổi, giả sử kiếp này không thành công, kiếp sau cũng có hy vọng. Trong vòng vài trăm năm, chưa có thành tựu lớn nhưng một ngàn năm sau, ắt siêu sinh thiên phủ, đứng vào tiên ban. Nếu ngươi giữa đường thay lòng đổi dạ, hoặc làm việc gì cực ác ta sẽ đoạt lấy lộc vị của ngươi đi. Ngươi cũng nên phóng tâm, cố gắng phấn đấu trên bước đường tu đạo, chẳng cần phải tự oán trách, đau khổ, mà chán nản, thất vọng.
    Phí Trường Phòng xin vâng lời, nói :
    ¬- Đệ tử quyết tâm tuân theo lời dạy quí báu của sư tôn. Còn việc phải mất bao nhiêu năm tháng mới thành công, đệ tử cũng không bận tâm. Đệ tử quyết không bao giờ chán nản, mệt mỏi.
    Thiết Quài tiên sinh mỉm cười, tỏ ý hài lòng. Bạch thị thấy chồng nói xong, tiến lại, cúi đầu lạy, hỏi tiền trình của mình. Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
    - Chị kiếp trước chẳng phải người không có tiếng tăm, mà là một vương phi ở thời Chiến Quốc, chuyển kiếp đầu thai. Chẳng bao lâu nghiệp mãn, lại trở về chốn cũ, chuyển kiếp làm đàn ông, rất đáng chúc mừng. Đó là do chị khổ tiết ở kiếp này tạo nên kết quả đẹp đẽ không liên quan gì tới mệnh số.
    Tiên sinh nói xong, lại dặn dò :
    - Hai người hãy đi kiếm thằng con nối dõi. Nó đã biết hối lỗi rồi đó. Trước khi tới đây, ta đã bảo Hà sư thúc đi tìm nó, khuyên nó làm điều thiện. Chỉ trong một hai, ngày nhất định nó sẽ về, chịu tội với hai người. Từ nay, cả nhà được đoàn tụ, hưởng những ngày tốt đẹp. Ta đi đây !
    Tiên sinh nói xong, một luồng kim quang xuất hiện, hương thơm tỏa ngát khắp phòng, Thiết Quài tiên sinh dùng phép độn thổ, rời khỏi nhà họ Phí.
    Thiết Quài bay lên không trung, vừa may gặp được Nhị lang.
    Hai vị tiên vòng tay chào nhau. Thiết Quài tiên sinh ngỏ lời cảm ơn
    Nhị lang đã chu toàn cho Phí Trường Phòng, Nhị lang cả cười, nói :
    - Chúng ta đều như nhau, luôn luôn có ý tài bồi cho kẻ hậu bối, khuyên người ta làm việc tốt. Học trò ông tức là học trò tôi. Cần gì phải tạ ơn ? Đợi tới kỳ hạn ba ngày, anh ấy tới gặp tôi, tôi sẽ khuyên nhủ anh vài câu. Chỉ sợ anh ta khó dứt bỏ được tính nóng nẩy, sau cùng sẽ bị quỉ mê hoặc.
    Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
    - Trị quỉ mà bị quỉ mê hoặc, cũng là chuyện có thể xảy ra. Tuy nhiên, tôi thấy anh này có chút tài năng, nếu biết chuyên cần tu luyện, có thể thành công một phần nào. Bảy trăm năm sau, mới trải qua một lần chết. Lại tu thêm năm trăm năm nữa, được chuyển sinh vào nhà quyền quí, có thể siêu phàm nhập thánh.
    - Nếu vậy thì tốt. Nghe nói chân chúa Lưu Bang say rượu, đi trong đường núi, Tần hoàng nhập hồn vào thân mãng xà, tính nuốt ông ta. May có một đạo nhân giúp đỡ, âm thầm thi thố pháp lực khiến con trăn mềm nhũn, không thể cử động, nhân đó bị Lưu Bang chém một nhát kiếm, đứt làm hai khúc. Lại nghe đâu đạo nhân đó có tên là Trương Quả. Tôi chưa từng nghe trong giới của ông có người nào có tên gọi đó. Không lẽ đó là người mới đắc đạo, nhận lãnh trách nhiệm, lập được công lớn ấy ?
    Thiết Quài mới kể lai lịch Trương Quả, và việc anh ta vâng lệnh thầy đi chém rắn, nói sơ lược một hồi. Nhị lang vỗ tay, nói :
    - Thì ra Trương Quả kiếp trước là con dơi ở Quán Khẩu. Nói ra tôi mới biết anh ta đã từng là người dưới quyền cai trị của tôi. Người ấy tính tình rất tốt. Nhưng tôi cũng chưa rõ vì sao anh ta quen biết với lão long ở Quán Khẩu, và vì sao lại bị một con giao long gây sự, làm náo loạn cả lên, báo hại tôi phải lên xuống thiên đình mấy lượt, rồi lại dẫn binh xuống hạ giới một lần. Việc này không liên quan tới Trương Quả, nhưng nguyên nhân ban đầu cũng bởi anh ấy mà ra. Không dè người đó lại có tiến bộ lớn như vậy.
    Nhị lang nói rồi, lại hỏi Thiết Quài tiên sinh hiện giờ định đi đâu. Tiên sinh chưa kịp đáp, chợt thấy một đám mây sắc tía từ hướng Bắc bay nhanh tới. Nhị lang ngửng nhìn thấy, đưa tay vẫy, đám mây liền ngừng lại. Trên mây có một viên quan đang đứng, dung mạo xinh đẹp, cặp mắt long lanh. Nhị lang vừa vẫy gọi, vừa cười nói với Thiết Quài tiên sinh :
    - Để tôi giới thiệu cho hai vị làm quen. Vị này là Huyền Châu Tử, hiện giữ chức bí thư lang ở Linh Tiêu bảo điện. Đại khái Lý sư huynh chưa biết mặt ông này, nhưng có nghe danh rồi chứ ?
    Nói rồi, lại đem lai lịch Thiết Quài tiên sinh, nói cho Huyền Châu Tử nghe. Hai vị tiên nói vài câu khách sáo, Nhị lang lại nói:
    - Thần tiên không câu nệ tiểu tiết, hai vị lại nhiễm thói tục như thế, là nghĩa làm sao ?
    Hai vị tiên cười, nói :
    - Nhị lang vốn tính ngay thẳng, dứt khoát, đến nay tính nết đó vẫn không thay đổi chút nào.
    - Sinh ra, tính nết đã thế, làm sao thay đổi ? Xin hỏi Huyền Châu tiên sinh từ đâu tới, tính đi đâu, mà vội vã, hấp tấp như thế? Và vì sao không xòe đôi cánh rộng mà bay cho mau (l), lại thích nhởn nhơ trên đường mây ?
    Huyền Châu Tử thấy Nhị lang nói toạc bản lai diện mục của mình ra, mà Thiết Quài lộ vẻ ngơ ngác, không hiểu, vội nói :
    - Nhị lang đừng nói linh tinh. Tiểu đệ phụng chỉ đi tra xét về yêu khí ở sông Tiền Đường. Nghe nói có con giao long to lớn, từ Tây Hải trốn qua, ẩn mình ở cửa biển, chẳng bao lâu sẽ ứng kiếp mà sinh, quấy nhiễu địa phương. Vì thế, Ngọc đế đặc biệt phái tiểu đệ tới điều tra việc này, lập một chốt chặn ở địa phương Hải Ninh, ngăn ngừa mối họa giao long, che chở cho dân chúng.
    - Nói ra mới biết, đạo huynh vừa chịu ân sủng của Ngọc đế, bổ nhiệm trọng trách nơi đây. Đáng chúc mừng!
    Huyền Châu Tử vội ngỏ lời cảm ơn, nói :
    - Không dám nhận, mà còn đang muốn thỉnh giáo Nhị lang nữa đây. Tiểu đệ vừa mới tới chỗ nhậm, chưa biết tí gì về địa phương này, rất sợ làm hỏng việc công, để hại cho ngàn vạn dân lành. May gặp Nhị lang, xin đừng tiếc công chỉ giáo, để tránh được tai họa, thì thật may mắn.
    -----------------------------------------------
     (1) Huyền Châu Tử là con hạc trắng, tu thành tiên thể, tức Bạch hạc đồng tử, học trò của Nam Cực tiên ông, môn đồ của Nguyên Thủy thiên tôn.

    Nhị lang nghe vậy, đưa tay ngăn cản Huyền Châu Tử, rồi chỉ vào Thiết Quài tiên sinh, cất tiếng cười ha hả, nói :
    - Tôi chỉ là một kẻ võ biền, tuy ở hạ giới đã lâu năm, có biết được chuyện gì đâu. Hiện có một vị học rộng, nghe nhiều, là Thiết Quài tiên sinh đây, sao không bàn bạc với ông ấy, lại đi hỏi một thằng mù ?
    Thiết Quài tiên sinh không dè Nhị lang lại lôi kéo mình vào chuyện này, bất giác đỏ mặt, vội nói lời khiêm tốn :
    - Đạo hữu đừng nên nghe Nhị lang nói nhăng. Ông ấy là vị chính thần, cai quản đất này đã lâu năm, lại nói là không rành chuyện đời, quả là khiêm tốn không trúng cách. Lại còn đề cử tôi, là một kẻ mới nhập đạo môn, một hậu sinh tiểu tử chưa rành lẽ huyền ảo, thì rõ ràng là ông ấy đùa cợt, đem tôi và đạo hữu ra làm trò hề đấy.
    Huyền Châu Tử rất tin lời nói của Nhị lang, vội lên tiếng :
    - Đạo hữu đừng quá khiêm tốn. Nhị lang với tôi quen biết đã lâu, tiểu đệ hiểu rõ tính nết ông ấy, khôi hài thì thật khôi hài, mà gặp chuyện đứng đắn, lại giải quyết theo kiểu đàng hoàng, quyết không có ý chọc cười đâu. Còn về bản thân ông ấy, gần gũi với dân chúng đã lâu, kinh nghiệm tất nhiên là rất phong phú, nhưng ông ấy ở tít bên trời Tây, theo chúng ta thấy, cũng mới tới đây chừng nửa ngày thôi. Sau này, nếu có chỗ nghi nan, không rõ, tôi sẽ tới Quán Khẩu quấy rầy ông ấy, ở lì chừng hai ba ngày. Lúc đó, nếu ông ta làm mặt lạnh nhạt, đối xử khắc bạc, tôi sẽ triệu tập bạn bè khắp ba cõi, mở đại hội thảo luận, phê bình ông ta. Nếu không phá nát được hang ổ của ông ta ở Quán Khẩu, chớ kể tôi là tay có bản lãnh. Còn hiện giờ, ông ấy đang mắc công vụ, tiểu đệ cũng chẳng dám nói nhiều, sợ rằng mai mốt ông ấy làm lỡ việc, lại không chịu nhận lỗi, mà chỉ vào tiểu đệ, nói : "Tất cả chỉ vì Huyền Châu Tử làm hỏng việc công của tôi đấy thôi".
    Nhị lang nghe nói, chỉ mặt Huyền Châu Tử, mắng :
    - Được, được. Ngươi mới là kẻ đối xử khắc bạc với anh em, lại nói anh em làm mặt lạnh nhạt, khắc bạc với mình. Được lắm, ngươi đã nói ta làm hỏng việc công, ta cứ ở lì trong miếu nhỏ tại Quán Khẩu, hàng ngày cầu trời khấn đất, cho ngươi làm việc gì cũng nát bét, đáng tội ngươi độc miệng nói xấu người khác.
    Hai người chỉ mải nghĩ chuyện chọc phá lẫn nhau, khiến Thiết Quài rất lo lắng. ông chợt biến đổi sắc mặt, nghĩ thầm : "Hai tiên bản thân là chính thần, lại mang trọng trách bên mình, có muốn đùa giỡn thì đem việc khác mà nói, sao lại rủa nhau làm hỏng việc công như thế ? Chuyện đó đâu có thể đem ra mà đùa cợt được.
    Nghĩ rồi, lại âm thầm chiếm một quẻ, trong lòng đã hiểu được phân nửa sự tình, biết rằng Nhị lang sau này vì một lời nói giỡn mà mất thể diện, Huyền Châu Tử mắc phải vạ lớn. Biết vậy, ông không khỏi động lòng thương cho hai người. Nhưng đây là việc thiên cơ, không tiện nói ra, tiên sinh mới tìm lời khuyên giải hai người :
    - Chúng ta mấy khi đã được gặp nhau, tiểu đệ có ý mời hai vị lên núi Hoa sơn một chuyến. Ở đó đã có bọn trẻ trông coi động phủ, và nơi đó tuy nhỏ, nhưng khá thanh nhã, tiểu đệ sẽ hái quả ngon trên núi đãi hai vị, cho trọn nghĩa chủ nhà. Hai vị nghĩ sao ?
    Hai vị tiên vội từ tạ, nói :
    - Công vụ bên mình, không dám bỏ phế. Đợi khi xong việc, trở về thiên đình, chúng tôi nhất định sẽ tới bảo sơn quấy rầy.
    Thiết Quài tiên sinh là một người rất nhiệt tâm trong đám thần tiên, vì nghe hai người nói câu bất tường, mới mời hai người lên chơi Hoa sơn, tìm dịp nói mí vài câu, nếu không tránh khỏi số trời chăng nữa, cũng biết cảnh giới, chỉ cầu giảm được một phần tai họa, là tiên sinh đã trọn nghĩa bạn bè rồi. Chẳng dè hai vị tiên đều lấy cớ bận công vụ, chẳng chịu đi, tiên sinh đành bỏ qua.
    Huyền Châu Tử lại nói với Thiết Quài tiên sinh :
    - Tuy mới gặp một lần đầu, tiểu đệ đã ngưỡng mộ danh tiếng đạo huynh từ lâu, đã từng nghe nói tổ sư đem ba cuốn Thái Khung Huyền kinh trao cho đạo huynh. Ông xuất thế trễ nhất, mà có phúc mệnh rất cao, vừa nhập đạo môn đã được truyền thụ cuốn kinh đó, đủ thấy đạo huynh có tài, có đức. Nay độc giao đang mặc sức làm ác, nếu không phải người có tài học và đạo đức chân chính, e rằng không chế ngự nổi nó. Lúc mới nhận lệnh Ngọc đế, tiểu đệ run sợ, đã mấy lần xin từ chức. Nhưng Ngọc đế khẩn thiết yêu cầu, tiểu đệ không chối nổi, đành bấm gan đi một chuyến thử xem, chưa biết đây là họa hay là phúc. Nay may mắn gặp gỡ đạo hữu, tiểu đệ cầu mong ông nhủ lòng thương tới ngàn vạn sinh dân đất Chiết, mà chỉ bảo cho tiểu đệ phương pháp chế ngự giao long.
    Nhị lang nghe vậy, liền cười lớn tiếng, nói :
    - Thiết Quài tiên sinh nghe rồi nhé. Người ta khẩn thiết cầu mong ông, ông còn khách sáo được nữa không ? Tôi cũng không rảnh mà tìm hiểu hai ông giao thiệp với nhau ra sao, để giải quyết chuyện này. Tôi phải đi đây. Đợi chừng nào Huyền Châu đạo huynh nhậm chức, tôi sẽ tới chúc mừng.
    Nói rồi, chắp tay chào hai vị tiên, tung mình nhảy lên không trung, hướng về phía Tây mà chạy đi, giây lát biến mất. Thiết Quài tiên sinh mới nói với Huyền Châu Tử :
    - Đạo hữu đã có lòng hỏi tới, có thể nói là không thẹn hỏi người dưới. Tiểu đệ biết được điều gì, tất nhiên phải thành thật báo cáo.
    Châu Huyền Tử mừng rỡ, nói :
    - Đạo huynh đã đồng ý chỉ bảo, tiểu đệ vô cùng cảm kích.
    - Đạo huynh hãy yên tâm, tiểu đệ không thất tín đâu. Vả lại, con độc giao mà đạo huynh nói tới, tiểu đệ biết khá rõ. Nếu quả thật nó xuất đầu quậy phá, tiểu đệ sẽ đem lai lịch của con súc sinh này, cùng với phương pháp chế ngự nó, nói thật cặn kẽ cho đạo huynh biết, quyết không để đạo huynh gặp phải khó khăn.
    - Tiểu đệ lần đầu ra trị nhậm cõi ngoài, thường lo lắng, chỉ sợ lầm lỡ công việc, gây họa cho dân. Nay được đạo huynh đồng ý giúp đỡ, tiểu đệ mới được yên tâm.

    #47
      bevanng 20.07.2008 13:06:04 (permalink)
      Hồi Thứ 55

      Để phòng hậu hoạn, thu gom thủy triều
      Hiểu rõ kiếp trước, chỉnh sửa mộng đời.


      Huyền Châu Tử nhận lời Thiết Quài tiên sinh chỉ bảo, yên tâm đi Đông Hải nhậm chức.
      Nguyên lão giao ở Quán Khẩu, sau lần thất bại ở Hoài Hải, đã tới cửa sông Tiền Đường, có ý đồ công phá đập nước đón rồng, chiếm cứ chỗ cửa biển đó, tự lập làm vua. Mưu đồ không kín, bị quan tuần hải ở Đông Hải nghe được phong thanh, bẩm báo với long vương. Phe đảng của lão giao rất đông, lại có Ma giáo giáo chủ lên tiếng nâng đỡ, nên vợ chồng long vương tỏ ra rất thận trọng. Vả lại, mộ của bà mẹ vương phi chôn ở chỗ đó, một khi lão giao đắc chí, tất nhiên phải mưu đồ báo phục, rửa mối hận thất bại ở Quán Khẩu, cũng như ở thôn Hoài Hải sau đó. Trước hết, chúng sẽ phá hoại ngôi mộ của bà mẹ vương phi. Vì thế, vương phi đích thân tuyển lựa, chọn ra được mười vạn thần binh hải tộc, suất lĩnh bốn vị thái tử, cùng các đại thần tướng, chia quân trấn giữ cửa biển. Lão giao thấy long vương phòng bị nghiêm ngặt, biết rằng kế không thành, mới quất mạnh đuôi giao long, hướng về phía bờ biển mà quét, khiến cho sóng lớn nổi lên, cao vạn trượng, đổ ập xuống ruộng vườn, nhà cửa của dân, cuốn trôi trâu bò, ngựa và người, không biết bao nhiêu mà kể. Sau việc này, long vương bẩm báo lên thiên đình, Ngọc đế giáng chỉ, phái Huyền Châu Tử xuống hạ giới điều tra cho rõ. Tức thì ở địa phận Hải Ninh, nhờ thổ địa báo mộng cho dân, thiết lập miếu thờ Trấn Giao Tĩnh Hải (l) tiên quân. Sau khi Huyền Châu Tử nhậm chức, đã hai lần xuống biển, cùng vợ chồng và các con trai của long vương bàn bạc cách giữ gìn vùng biển đất Chiết. Lại nhờ Huyền Châu Tử tâu lên thiên đình, điều khiển binh tướng tới đóng chốt chặn ở gần miếu vũ, và long vương cũng phái hải binh tới phòng thủ ở những nơi hiểm yếu.
      -----------------------------------------  
      (1) Trấn áp giao long, giữ biển yên tĩnh.

      Nguyên nước thủy triều ở Chiết Giang nổi lên rất lớn, là vì chỗ cửa biển nằm giữa hai vách núi cao ngất, mà miền thượng lưu sông Tiền Đường có địa thế cao hơn vùng hạ lưu rất nhiều, tạo thành những đợt triều cường rất lớn. Trước khi Huyền Châu tử tới trấn nhậm Hải Ninh, nước thủy triều ở khắp vùng đất này đã dâng lên rất cao. Huyền Châu Tử vì muốn đề phòng lão giao có thể bơi theo dòng nước thủy triều mà xâm nhập vào đất liền, mới bàn bạc với long vương, đạt giấy mời tới các vị tiên quân cai quản mặt trời, mặt trăng và tinh tú, cùng thi triển pháp lực, hút cho nước biển rút xuống, ngang bằng với mực nước ở Hải Ninh.
      Từ sau khi thi hành pháp thuật, nước thủy triều đã lên xuống đều đặn. Nhưng mỗi khi nước lên, Huyền Châu tử lại phái các thần binh tới bờ biển, đứng trên không trung, nhìn ra khắp nơi, xa và gần, hễ thấy hải yêu tác quái, lập tức chế phục.
      Lão giao tu luyện đã hơn ngàn năm, nhưng hắn không làm được việc gì tốt chỉ biết tranh cường, đoạt thế, lập mưu hãm hại người. Hơn một ngàn năm đầu tiên, hắn tiến bộ rất mau, lúc này đã có thể biến hóa tùy theo ý mình. Sau đó, hắn không tăng thêm một chút bản lãnh nào, đã đến thời kỳ thoái hóa. Lão giao không luyện tập để tiến lên nữa, mà hàng ngày kết giao với một bọn yêu tinh, xưng hùng xưng bá. Ngày lâu, càng thêm kiêu căng, cho rằng trên đời không có ai mạnh hơn chúng. Từ khi đại náo thôn Hoài Hải, thất bại chua cay ở chốn bạng cung, lão giao rút về, tạm ẩn mình dưới đáy biển, lâu tới một ngàn năm nữa. Đến đây, thói cũ lại manh nha, dã tâm bột phát, hắn mới chiếm cứ chỗ sông Tiền Đường, tính lập một tiểu triều đình, nhưng lượng nước ở cửa sông không lớn lắm, phần lớn là nông cạn. Vì thế xác thân to lớn của lão giao không thể an cư. Hắn mới lợi dụng những khi nước thủy triều dâng cao để ra vào. Nay bị Huyền Châu Tử hội ý với long vương, mời được các tinh chủ thi triển pháp lực, hút nước thủy triều, gom về dưới biển, lại sai thần binh trấn giữ các nơi, khiến lão giao không có chỗ dung thân. Hắn hận Huyền Châu Tử lắm, mới tới núi Linh Thứu, khóc mà tố cáo cùng Thông Thiên giáo chủ, xin phái binh giúp hắn trả thù. Mặt khác, hắn tạm ẩn thân dưới đáy biển, đợi chờ cơ hội, làm cho Huyền Châu Tử thất điên bát đảo. Nhưng đó là chuyện sau này.
      Đây nói về Lam Thái Hòa sau khi ra đời, thấm thoắt đã được mười tuổi. Từ bé, cậu đã đính hôn cùng Nguyệt Anh cô nương của nhà họ Vương, ở bên kia sông. Hai bên gia trưởng rất thân thiện nhau, không có điều gì trái ý. Cha của Lam Thái Hòa là Lam Văn, và cha của Vương Nguyệt Anh là Vương Quang, đều là những người phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết. Thấy con gái đã lớn, Vương Quang muốn tìm một cách nào tiện lợi cho con được học tập.
      Gia đình Lam Văn đã mời được một vị tiên sinh họ Mao về dạy cho con trai. Vương Quang cũng nghĩ tới chuyện mời một ông thầy, Khốn nỗi bản thân ông ta tuy có tiếng tăm, nhưng thật tình gia đình không được sung túc, không đủ sức mời riêng một vị gia sư.
      Vả lại thôn xóm ông cũng không kiếm đâu ra một vị danh sư, mà có con gái trong nhà, muốn kén thầy cũng không thể không thận trọng. Chính lúc đang tìm thầy khắp nơi mà chưa được, thì nhà họ Lam khai trương lớp học. Lam Văn đặc biệt đặt một tiệc long trọng khoản đãi ông thầy, lại mời một số vị khách bồi tiếp, đều là những nhân sĩ tai mắt ở địa phương. Vương Quang là sui gia, đồng thời là bạn thân, tự nhiên phải có mặt trong đám đó.
      Trong tiệc, Vương Quang thấy Mao tiên sinh tuổi ngoài sáu mươi, râu tóc bạc trắng. Thấy ông ấy "lời trái lễ không nói, việc trái lễ không làm", đúng là một vị lão sư phẩm hạnh đoan chính, tuổi tác và đạo đức đều cao, Vương Quang tỏ lòng khâm phục. Nói chuyện với ông ta một hồi, lại bội phục ông thầy học thức uyên thâm, Vương Quang mới nảy ra một ý nghĩ, liền cười, nói với Lam Văn :
      - Anh sui có hồng phúc rất lớn, mời được một vị tiên sinh thật giỏi, tiểu đệ vô cùng khâm phục. Tiểu nữ cùng tuổi với công tử đến nay đã học lõm bõm được vài năm. Tuy rằng con gái chẳng cần học nhiều, nhưng với gia thế nhà chúng ta, con gái mà không biết chữ là rất không nên. Vả lại, tiểu nữ đã hứa gả cho công tử, sau này sẽ là dâu nhà họ Lam, quí phủ là nhà thư hương lâu đời các vị tiểu thư trong nhà đều biết làm thơ, làm văn, nếu tiểu nữ không có chút học vấn, sau này về nhà chồng, đối với chị em bên chồng có chỗ không được hợp. Vì thế, tiểu đệ có ý tài bồi cho con gái, cho nó được đọc sách vài ba năm, không cầu lấy giỏi, chỉ cần hiểu thông văn lý là đủ. Ý nghĩ này nuôi dưỡng đã lâu, khổ nỗi thôn làng tôi nhỏ hẹp, thô lậu, chưa mời được một vị tiên sinh thật giỏi. Nay thấy lão sư tuổi cao, đức trọng, tài học uyên thâm, tiểu đệ rất khâm phục, mới nẩy một yêu cầu, mong anh sui chấp thuận.
      - Chúng ta là bạn chí thân, có điều gì mà không thể thương lượng ? Xin cứ nói rõ, tiểu đệ sẽ nghe theo.
      - Tiểu đệ muốn đưa con gái sang đây học ké. Một là tiểu đệ khỏi phải mất công tìm thầy, hai là tiểu nữ được học chung với lệnh lang, thân nhau hơn. Tuy rằng nói đã đính lương duyên, theo lệ cũ đôi vợ chồng trẻ không được gặp nhau, nhưng chúng ta là những người phóng khoáng, hà tất phải câu nệ tục cũ. Huống chi hai trẻ đều còn nhỏ tuổi, chẳng cần phải nói tới chuyện tị hiềm. Chừng một, hai năm sau, tiểu đệ tìm được thầy giỏi, chúng ta sẽ bàn tính lại, không hiểu anh sui có đáp ứng hay không ?
      - Đó là việc quá tốt lẽ nào tiểu đệ lại không chấp thuận ? Chỉ sợ chị nhà thương con gái, không chịu cho rời xa dưới gối, biết xử thế nào ?
      - Chỉ cần anh sui đáp ứng, sẽ chẳng có vấn đề gì đâu. Chúng ta hai nhà cách nhau không xa, nội nhân có nhớ con gái thì thỉnh thoảng qua sông sang thăm, có gì là khó khăn ?
      - Nếu vậy rất tốt. Ngày mai khai giảng cũng trễ lắm rồi.
      - Sáng mai, tôi sẽ sai người chuẩn bị ngựa xe, sang sông đón tiểu thư về đây.
      Vương Quang mừng lắm, nhưng lại nói :
      - Để tôi về bàn bạc với nội nhân, chọn một ngày lành, đưa cháu sang đây, bất tất phải tiếp đón.
      Lam Văn đồng ý. Vương Quang về nhà, đem chuyện này nói với phu nhân Lưu thị. Lưu thị lúc đầu không ưng, nói :
      - Chúng ta chỉ được một đứa con gái này, đã sớm hứa gả, đợi khi trưởng thành hãy đưa về nhà chồng. Hiện tại, nó hãy còn nhỏ, để mẹ con tôi hú hí với nhau vài năm, sao vội đưa nó về nhà người khác để học tập ? Đã biết người ta có chịu chiếu cố tử tế đến nó hay chưa ? Tôi còn nghe bà vợ hai nhà họ Lam là Hồ thị, là người nham hiểm, điêu ngoa, rất khó chiều. Con gái mình là đứa ngây thơ hồn nhiên, không hiểu việc đời, vạn nhất đắc tội với Hồ thị, hai bên kết oán trong lòng, sau này về nhà chồng, con gái chúng ta sẽ chịu nhiều đau khổ đấy.
      Vương Quang nghe nói, không biết giải quyết việc này làm sao cho ổn thỏa. Nhưng tự mình đã mở miệng cầu xin người, nay lại không có duyên cớ chính đáng mà đổi ý, há chẳng đáng chê cười hay sao ? Vì thế, nói với Lưu thị :
      - Đó là kiến thức của đàn bà. Đấy đây gần trong gang tấc, nếu bà có nhớ con gái, thì mỗi ngày có thể qua thăm nó, hà tất phải giữ rịt lấy nó, mới là mẹ con thương yêu nhau ?
      Lưu thị vốn sợ chồng, không dám trái ý, mà làm tổn thương tình nghĩa vợ chồng. Suy nghĩ một lát, đành lên tiếng chấp thuận.
      Hai vợ chồng chọn được ba ngày sau là ngày lành, đưa Nguyệt Anh qua sông, tới nhà họ Lam nhập học.
      Nguyệt Anh tuy là còn bé, nhưng từ nhỏ tới lớn đã được chỉ bảo, biết lễ nghĩa. Năm lên bảy, cô đã theo cha học tập, biết được nhiều về thơ văn, kinh sách. Nhưng điều cô ưa thích nhất không phải ở chỗ học văn tự, mà là nghiên cứu về Đạo kinh, nhất là sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Lên tám, cô đã làu thông kinh sách. Đến nay lên mười, tri thức của cô thật sung mãn, đã có thể hiểu được những ý tại ngôn ngoại, thường ngày thắp hương tụng kinh, lặng yên suy nghĩ, dường như có điều đại ngộ. Vì thế tâm trí cô rất sáng suốt, nghiễm nhiên nẩy ra ý xuất thế. Mỗi khi nghĩ tới những điều đã trải trong kiếp trước, nhận thấy những điều thảm khốc đều bởi hôn nhân mà ra (l). Nay điều quan tâm thứ nhất của cô là chuyện vợ chồng, lại phải đánh phá trước nhất. Không hiểu cậu Lam Thái Hòa kia, đã cùng cô đồng kiếp, đồng sinh, hẹn nhau cùng tu đạo, mấy năm nay sống trên nhung lụa, ăn sung mặc sướng, có bị vật dục cám dỗ, mà để tính linh mờ tối hay không.
      -----------------------------------
       (1) Lưu ý độc giả, kiếp trước của Vương Nguyệt Anh là nàng Mạnh Khương. N.D

      Nếu cậu biến tâm, tất nhiên vì đạo làm vợ, ta không thể ép buộc cậu. Lúc đó, chỉ có thể khổ công điểm hóa, nếu cậu vẫn không quay đầu ta đành độc thiện kỳ thân, mất công đi xa, lên núi Thái Hoa, tìm sư phụ ta ở kiếp trước. Sư phụ đạo hạnh cao sâu, ắt có cách cứu cậu ta, ta có thể phóng tâm. Những ý nghĩ đó cứ vương vấn trong lòng cô, chỉ không dám nói ra trước mặt cha mẹ mà thôi. Thời thường ở chốn khuê phòng, cùng các chị em ngồi tán gẫu, những người khác có chung chí nguyện, hoặc là được người chồng giàu sang, hoặc được lang quân tài giỏi, chỉ riêng Nguyệt Anh, nhắm mắt ngồi yên, không góp một câu. Mọi người chế giễu, nói cô đã có người chồng giỏi, vừa ý cô lắm rồi, cần gì phải lo lắng ? Nguyệt Anh nghe vậy, liền cười nhạt, nói :
      - Mỗi người một lòng, không ai giống ai. Chí hướng của tôi và của các chị tương phản nhau, tôi còn nói xen vào làm gì ?
      -  Vậy chí hướng của cô như thế nào ?
      - Người có tài, tài cao như núi, sống không quá một trăm năm, cũng mục nát với cỏ cây. Người có tiền bạc, tiền bạc như biển, qua sáu bảy chục năm, tinh thần suy thoái, có tiền cũng chẳng dùng vào việc gì. Huống chi sự đời vốn vô thường, càng nhiều tiền càng dễ chuốc lấy họa. Kiếp sống con người có hạn, nếu cứ buông thả vào trường thanh sắc lợi danh, một khi con quỉ vô thường tới, mọi chuyện đều dứt, những gì thường ngày ta tranh giành nhau, lúc đó tiêu tan, chết xuống âm phủ, có mang theo được không ? Những sự vật mà các chị em trông mong, ao ước, lại không nằm trong suy nghĩ của tôi.
      Mọi người nghe vậy liền cười ầm lên, nói :
      - Hỏi chí hướng của cô, cô không chịu nói, lại dựa vào câu chuyện của người khác mà phê bình mù quáng, là nghĩa lý gì ?
      Nguyệt Anh gật đầu, cất tiếng thở dài, nói :
      - Các chị em trách tôi phê phán mù quáng, không chịu nói rõ chí hướng của mình, chỉ vì chí hướng đó em không thể nói với các chị. Chẳng những là không thể nói ra, mà bất tất phải nói.
      Mấy người kia nghe vậy, lại cười mà bỏ qua. Nguyệt Anh thấy các chị em ai cũng có tài có sức, tất nhiên đều bị lợi danh ràng buộc, mà nội lực để tự chủ chẳng có chút nào, cô càng cảm nhận rõ ràng là hai chữ "lợi danh" trên đời quả thật là những gông cùm vô hình vô ảnh, là búa rìu chặt nát tính linh, quả thật đáng sợ. Đồng thời càng lo sợ lang quân họ Lam cũng bị những sự vật ngoài thân đó mê hoặc tâm chí. Như vậy, lần nhập thế này, chẳng những không có hy vọng liễu đạo, mà còn tăng thêm một tầng ma chướng, vướng thêm một vòng kiếp nạn. Hơn nữa, còn uổng phụ ý tốt của Thiết Quài tiên sinh thành toàn cho mình, từ đó vĩnh viễn không thể nhập đạo. Mỗi khi nghĩ đến đó, cô không khỏi giật mình, lo sợ thay cho cậu. Chỉ hận mình mang tiếng là vợ, nhưng đang ở thời gian trước khi cưới, chưa thể gặp mặt cậu, để ngỏ lời khuyên nhủ, cảnh giới, chưa có cơ hội nào để nói chuyện với cậu.
      Cô vốn là người tình thâm, ý chắc, đối với Thái Hòa có mối giao tình sinh tử, có quan hệ vợ chồng, lại được tiên sư xếp đặt sẵn, cho hai người đồng sinh đồng tử. Với những lý do đó, cô không thể bỏ mặc Thái Hòa, một mình đi tìm đại đạo. Vì thế, lòng cô luôn luôn khắc khoải.
      Trong lúc cô đang nghĩ ngợi, không tìm ra được cách nào để giải quyết, bỗng ở trong phòng của mẹ, nghe được câu chuyện cha mẹ cô nói với nhau. Lam công tử trẻ tuổi, anh tuấn, tài học rất cao. Xem gương các vị danh thần xưa nay, có thể thấy cậu này chưa đầy hai mươi tuổi đã đứng vào hàng công khanh, việc chung thân của Nguyệt Anh nhi chẳng cần lo lắng. Lưu phu nhân rất thương yêu con gái, nghe biết chàng rể có chí làm quan, lẽ nào lại không mừng? Chợt quay đầu, thấy Nguyệt Anh đứng một bên, cúi đầu lặng yên, ra chiều suy tư, phu nhân liền cười, nói với chồng :
      - Ông xem kìa, Nguyệt Anh nhi nhà ta nghe chuyện, không nói một tiếng, là nghĩa làm sao ?
      Vương Quang cười lớn tiếng, nói :
      - Mấy cô gái nhỏ nghe những chuyện này, cô nào cũng e thẹn !
      Phu nhân kéo Nguyệt Anh lại gần, vỗ nhẹ lên má, nựng nịu, cất tiếng cười hì hì, nói :
      - Con của mẹ, con đã nghe gì chưa ? Công tử nhà họ Lam có chí, có tài, tuổi còn nhỏ mà đã vượt xa những người cùng trang lứa, nhất định sẽ làm nên một vị quan to. Cậu ấy làm quan lớn, thì con sẽ là một vị thái thái, đúng không ?
      Nguyệt Anh nghe mẹ nói như vậy, càng thêm rầu rĩ, không ngờ những vấn đề thường ngày mình nghĩ đến, đã thành sự thật.
      Cũng không ngờ mẹ đẻ mà không hiểu lòng con gái, nói ra những lời trái tai như thế. Nhưng cô cố nén lòng mình, chỉ hơi đỏ mặt, chớp chớp hai mắt, tuôn ra mấy giọt nước mắt, khiến vợ chồng Vương Quang vô cùng kinh hãi.

      #48
        bevanng 20.07.2008 13:31:18 (permalink)
        Hồi Thứ 56

        Vương tiểu thư khuyên chồng tu đạo
        Hồ Cửu Cửu giúp chị làm bậy.


        Nguyệt Anh chuyển kiếp làm người, tính linh không mờ tối, tuy sống trong nhung lụa, vẫn thường suy nghĩ, không quên việc tu đạo Nhưng cách tu đạo của cô không giống với người khác.
        Người khác chỉ cầu độc thiện kỳ thân, cô cùng Thái Hòa có quan hệ sinh tử, nếu Thái Hòa không lên tiên, Nguyệt Anh cũng không thể một mình thành đạo. Hai người có quan hệ về lai lịch vô cùng mật thiết, đồng sinh đồng tử, cùng chuyển thai phàm một lượt, tất nhiên phải cùng nhập tiên giới. Nếu một người không thành đạo, người kia nhất định không bỏ rơi mà đi chỗ khác. Thần tiên xưa nay rất vô tình, mà cũng rất hữu tình. Chỉ có điều rằng chỗ hữu tình đó lại không lấy tình làm căn bản, nên mới càng thấy tình là đau khổ, càng nặng lòng với tình. Đó chính là nỗi lòng của Nguyệt Anh, rất buồn rầu khi nghe biết Thái Hòa bị vật dục mê hoặc, để lòng mê mẩn với lợi danh. Ở địa vị cha mẹ cô, vì mưu cầu hạnh phúc cho con gái, nay được chàng rể tốt như vậy, tự nhiên là hân hoan vô cùng. Nào ngờ Nguyệt Anh lại có hoài bão khác, đột nhiên nghe được những điều trái chí hướng của mình, càng thêm sầu khổ.
        Nhất thời nóng vội, cô không ngăn được hai giòng nước mắt lã chã tuôn xuống, khiến vợ chồng Vương Quang kinh hãi quá chừng, không hiểu con gái mình nghĩ gì mà xúc động mạnh như thế. Hai ông bà cùng lên tiếng hỏi một lượt :
        - Con ơi, con có điều gì khó nói ? Được người chồng như thế sao còn chưa vừa ý ?
        Nguyệt Anh càng bối rối trong lòng. Nhưng xưa nay, con gái đối với việc hôn nhân, hoặc nghe nói về người chồng chưa cưới, đều e thẹn, không thể mở miệng thổ lộ lòng mình. Nguyệt Anh tính tình rất trung hậu, biết cha mẹ mình rất yêu quí Thái Hòa, khen cậu ta còn trẻ đã biết lập chí, cô không thể nói thật lòng mình khiến cha mẹ mất vui. Vì thế, cô đành làm vẻ mặt tươi cười, xin cha mẹ hãy phóng tâm. Vương Quang cười lớn tiếng, nói :
        - Mấy cô gái nhỏ nghe nói tới chuyện chồng con, cô nào cũng e thẹn cả. Vậy mới ra dáng tiểu thư nhà đại gia chứ.
        Phu nhân nghe vậy, cũng cho là phải. Thật tình, ông bà cũng biết Nguyệt Anh nói câu thoái thác, nhưng cứ nhận lầm là cô e thẹn, nói vài câu khuyên nhủ, để giải toả nỗi lòng con gái. Bấy giờ, trong lòng Nguyệt Anh chỉ hy vọng đợi tới ngày về nhà chồng, được cùng Thái Hòa gặp mặt, sẽ sớm chiều khuyên nhủ, đem chuyện tiền nhân hậu quả, thường thường nói chuyện với chồng.
        Nếu quả thật Thái Hòa có túc tuệ, tiền duyên, nhất thời lầm lạc, ắt cũng cảm động mà hiểu ra. Chỉ cần cậu biết tỉnh ngộ, vợ chồng sẽ cùng nhau xuất gia, tìm tiên hỏi đạo, sớm dứt bỏ nghiệt căn đắc đạo lên trời. Kỳ hạn đó cũng không xa lắm đâu. Nay nghe được câu chuyện cha mẹ nói với nhau, cô nhận thấy cơ hội để khuyên nhủ Thái Hòa đã tới, Nguyệt Anh thầm mừng trong lòng phấn chấn tinh thần, đã có lúc vui vẻ, tươi cười. Đám chị em thấy vậy, lên tiếng chê cười, nói cô mới tí tuổi đầu, đã muốn bám lấy chồng, không biết hổ thẹn. Nguyệt Anh chịu oan khuất, mà không thể biện giải, đành cười mà bỏ qua.
        Vợ chồng Vương Quang đã chọn được ngày lành giờ tốt, đưa Nguyệt Anh sang sông. Bên kia, cha con Lam Văn đã tính chuẩn xác thời khắc, đem ngựa và kiệu, đợi sẵn chỗ bến đò. Cặp vợ chồng trẻ mới gặp nhau, đã như thể quen biết từ lâu, quên cả thẹn thùng, tương thân tương ái. Trên đường đi, không tiện trò chuyện.
        Chừng về đến nhà, Lam Thái Hòa liền đưa vợ vào bái kiến các vị trưởng bối, sau đó ra mắt các anh chị em ngang hàng. Các anh chị em này đều còn trẻ, thích nô đùa, trêu ghẹo Thái Hòa vài câu, Thái Hòa chỉ biết cười, không cãi lại câu nào. Bà mẹ Thái Hòa là Ô thị, vừa thấy nàng dâu chưa cưới, đã yêu thương khác thường, ôm cô vào lòng, coi như bảo bối. Nguyệt Anh cũng khôn khéo, biết lấy lòng cha mẹ chồng, thuận miệng gọi "Ma ma" và "Gia gia", như con gái của ông bà Lam Văn. Ô thị liền kêu Nguyệt Anh tới ngủ chung phòng với bà, đuổi Thái Hòa đi chỗ khác. Nguyệt Anh thấy cha mẹ chồng sủng ái, trong lòng rất được an ủi, chẳng nói làm gì.
        Đây nói về Lam Thái Hòa, từ bé đã không quên kiếp trước. Năm tuổi bắt đầu học chữ, bảy tuổi đã làm được thơ văn. Lúc đó chí hướng của cậu cũng giống như của Nguyệt Anh, không khác chút nào, chỉ cầu tu tiên, liễu đạo, không ham danh lợi. Nhưng vì nhà họ Lam đã nhiều đời làm quan lại, các bạn thân thường lui tới cũng đều là người làm quan lại, bọn trẻ nhỏ đọc sách từ bé, đều có ý nghĩ lớn lên phải làm quan. Người lớn giáo huấn trẻ nhỏ, chẳng ai là không hy vọng bọn chúng làm quan, để vinh diệu tổ tông. Thái Hòa dầu sao cũng còn nhỏ, ở trong gia đình như thế, tất nhiên là ưa thích cách hun đúc đó, dần dần, trong lúc không ngờ tới đã thay đổi hoàn toàn ý chí ban đầu, chỉ một lòng nghĩ tới chuyện bắt chước tiền nhân, rập theo chí hướng người xưa, mới là điều tốt. Vợ chồng Lam Văn thấy con như vậy tất nhiên là vui sướng. Ô thị đem chuyện Thái Hòa lập chí ra sao, dụng công thế nào, nói hết cho Nguyệt Anh biết. Nguyệt Anh chẳng dám nói gì, còn chiều theo ý Ô thị, mà xưng tụng, khiến Ô thị mát lòng hởi dạ.
        Ngay hôm đó, Nguyệt Anh nhập học. Cặp vợ chồng nhỏ cùng vào thư phòng, ngồi đối diện nhau. Mao tiên sinh là người học rộng, dạy được hai học sinh nghe một biết mười, nhìn lướt một lượt, đọc mười hàng chữ, chẳng vất vả chút nào. Hai người hàng ngày ngồi ở thư trai học tập, không xin nghỉ một buổi nào, vì thế việc học tiến bộ rất nhanh.
        Nguyệt Anh lợi dụng những lúc ngoài chính khóa, đem sách đạo kinh đặt ở trên bàn, giả bộ tình cờ lật qua vài trang, cố ý đọc lên cho Thái Hòa nghe. Lúc đầu Thái Hòa cho rằng Nguyệt Anh có ý khoe tài học, không chú ý lắm. Ngày lâu, tình cảm hai bên gia tăng, không còn giữ kẽ nữa, Thái Hòa mới hỏi :
        - Muội muội, sao cô ham đọc thứ Đạo thư này ?
        Nguyệt Anh đã để bụng đợi sẵn câu hỏi này, liền cười, đáp :
        - Chẳng lẽ ca ca quên rồi sao ! Đây là loại sách chúng ta mong đợi được đọc
        Thái Hòa nghe vậy, cười rộ .
        - Thì ra là vậy. Muội muội muốn nhắc nhở ta về chuyện kiếp trước chứ gì ? Một đời làm vợ chồng, vui thú đâu chưa thấy, chỉ rước lấy một kết cuộc thảm khốc. Hồi tướng lại chỉ khiến người ta đau lòng, nãn chí. Cũng may bây giờ chuyển kiếp, được gặp lại nhau, lại được tiên sư tác thành, cho làm vợ chồng, nối lại mối lương duyên, chỉ nên sống một cuộc sống sung sướng, bù đắp lại những nỗi oan khổ kiếp trước, há chẳng tuyệt diệu hay sao ? Việc gì phải mất công hướng về Đạo môn cầu lấy cách sống ? Chứng được đạo hay không, cũng chưa biết được, mà hạnh phúc một đời đã sớm đem đổ xuống sông, xuống biển, chẳng là đáng tiếc lắm sao? Không giấu gì muội muội, ngu huynh lúc đầu cũng không quên túc duyên, thường hay nghĩ tới việc xuất gia tu đạo, sau nghĩ lại đời người có hạn, chẳng nên tự chuốc lấy khổ. Nếm đau khổ còn là chuyện nhỏ, sợ nhất là chuyện tu đạo quá viển vông, vị tất đã có thể thành công. Khoan nói chuyện khác, hãy nói tới những người tu đạo xưa nay, tính ra chẳng phải ít ỏi, mà sao những người có tiếng, chúng ta ai nấy đều biết, chỉ loe ngoe vài ba mống ? Nghĩ tới đó ta liền hối ngộ những điều sai lầm ở kiếp trước, nên mới nỗ lực... học kinh truyện của thánh hiền, dự bị mai sau ra làm quan, phục vụ hoàng gia, cùng muội muội hưởng vinh hoa phú quí chốn nhân gian, há chẳng tốt đẹp hay sao ?
        Nguyệt Anh vội đáp :
        - Ca ca nói vậy sai rồi. Người ta sở dĩ muốn tu tiên, chính vì thấy đời người thấm thoắt qua mau, nếu có sống tới trăm năm chăng nữa, cũng chỉ như đám mây nổi, trôi qua trước mắt. Trong một trăm năm đó, bứt đầu chặt đuôi, còn được bao nhiêu thời gian để hưởng phú quí ? Làm sao có thể sánh với thần tiên vượt ra ngoài vòng trần thế, tiêu diêu tự tại, thọ ngang trời đất, tồn tại cùng mặt trời, mặt trăng ? Tuy thời gian tu đạo không tránh khỏi nếm mùi đau khổ, trải qua gian nguy, nhưng đó chỉ là thời kỳ ngắn ngủi, điều mất mát rất ít, mà điều sở đắc là không hạn chế. Còn nói rằng tu đạo khó thành, quả nhiên không sai, nhưng phải biết rằng ông trời không phụ lòng người khổ tâm bao giờ. Người không có duyên mà nhập đạo, chỉ cần khổ tâm, kiên chí, vị tất đã không thành công. Huống gì là chúng ta, những người sẵn có túc duyên, lần này đoạ phàm trần, lại được người tiên chỉ dẫn, nâng đỡ ? Nếu quả thật không có tiền duyên, tại sao tiên sư lại nhiệt tâm chiếu cố ? Điều đó cho thấy những chỗ người khác gặp khó khăn, chúng ta cũng phải trải qua, nhưng đừng ngại khó, mà càng phấn chấn tinh thần, đừng tự buông rơi mình. Ca ca nói từ xưa đến nay, những người tu thành tiên đạo rất ít, muội tử lại thấy những vị kim tiên, thiên tiên, địa tiên, quỉ tiên khắp ba cõi chẳng ít ỏi gì. Nên biết việc thành tiên sở dĩ đáng quí, chính vì tu đạo chẳng  phải dễ dàng. Nếu ai nấy đều có thể tu đạo, người nào cũng thành tiên, thì thần tiên sẽ tràn lan khắp nơi, ai còn thèm nhắc tới làm chi ? Dám xin khuyên nhủ ca ca, hãy luôn luôn nhớ tới chuyện kiếp trước, mà sớm tỉnh ngộ, đừng để phụ ý tốt của tiên sư, cùng ơn đức của Diêm vương đã chu toàn cho chúng ta.
        Lam Thái Hòa nghe vậy, cất tiếng cười ha hả, nói :
        - Muội muội mới thật mê lầm đó. Theo ta nghĩ, người ta đã sinh ra ở đời, bất luận là tu đạo hay không, đều phải sống một cuộc sống mạnh mẽ, oanh liệt, để thiên hạ đời sau biết tới Lam Thái Hòa ta là một nhân vật lừng lẫy, mới khỏi hoang phí một kiếp sống. Đến chừng công thành danh toại, nếu quả tiên duyên không giảm, lúc đó ta cùng muội muội khắc khổ dụng công cũng chưa muộn.
        Nguyệt Anh biết Thái Hòa chìm ngập trong ma chướng đã sâu, nhất thời có mất công nói năng, cũng không cứu vãn kịp, đành phái nén lòng, từ từ đợi cơ duyên, mới có thể khuyên nhủ, cảnh giới.
        Nguyệt Anh ở nhà họ Lam đọc sách, thấm thoắt đã được nửa năm. Vợ chồng Lam Văn sủng ái nàng khác thường, mà tình cảm dành cho nàng ngày càng sâu đậm, có thể còn hơn cả đối với con trai.
        Bà vợ thứ của Lam Văn là Hồ thị, có một đứa con trai và một đứa con gái, cả hai đều mặt mày phèn phẹt, ngu xuẩn như heo, nên vợ chồng Lam Văn đều không yêu thương chúng lắm. Hồ thị chỉ tức tối, không biết làm sao, nói chúng cũng là con lão gia sinh ra, tại sao lại phân ra bên trọng bên khinh ? Ô phu nhân nghe được, nhưng cũng bỏ qua, mặc cho Hồ thị làm ầm ĩ một trận, rồi thôi.
        Bây giờ, khi không lại xuất hiện một cô con dâu chưa cưới, được phu nhân sủng ái khác thường. Ngay cả Lam Văn cũng coi cô như ngọc báu trên tay. Tuy ông đối đãi với các con của Hồ thị trước sau như một, không vì có Nguyệt Anh vào nhà, mà tăng phần lạnh nhạt, nhưng trong con mắt Hồ thị, rõ ràng từ ngày có Nguyệt Anh, vợ chồng Lam Văn đã đối xử khắc bạc với hai con của bà ta. Vì thế, bà ta càng tức tối, ganh ghét, chịu không nổi. Lúc đầu chỉ lên tiếng bất bình sau lưng ông bà Lam Văn, sau rồi thấy ông bà bỏ qua không lý tới, bà ta càng được nước, oang oang cái miệng.
        Nguyệt Anh cô nương tuổi còn trẻ, lại chuyên tâm học đạo, làm sao hiểu được đường đời hiểm ác, lòng người biến trá ? Vả lại, cô ở lì chốn thâm khuê, không đặt chân ra khỏi cổng nhà, đối với tình người, việc đời thông thường, cô đều không hiểu rõ. Từ khi tới nhà họ Lam đọc sách, trừ những lúc cùng Thái Hòa miệt mài học tập, cô chỉ giúp Ô phu nhân việc nữ công, may vá, còn đối với người khác, cô không ân cần lắm. Những người không có tâm bệnh, tuy thấy cô ít quan tâm tới người khác, cũng chỉ cho là cô có tính e thẹn, ưa tĩnh mịch, lười bắt chuyện, chứ không một ai thấy cô có điều gì xấu. Riêng có Hồ thị, vốn tính nhỏ nhen, nhìn bất cứ cử động nào của Nguyệt Anh, đều hàm ý khinh thị mẹ con bà ta, mới nghĩ : "Con bé này hiện giờ còn nhỏ, chẳng qua ở đây để học ké, bất luận thế nào cũng chỉ là một người khách, mà đã lên mặt kiêu căng, khinh người như thế, mai mốt lớn lên, về làm dâu nhà này thành cô chủ nhỏ của chúng ta, thì chẳng cần phải nói, cũng hiểu , nó sẽ thẳng tay thu thập chúng ta". Vì nuôi sẵn những ý nghĩ đó, bà ta coi Nguyệt Anh như một cái gai trước mắt. Vì Thái Hòa luôn luôn bênh vực Nguyệt Anh, bà ta căm giận lo sợ mà không biết làm sao.
        Hồ thị có một người em trai là Hồ Thiên, một kẻ tiểu nhân lòng dạ hiểm ác, chuyên gây chuyện sóng gió. Trong nhà nghèo khó, tường trơ bốn vách, hắn thường phải nhờ người chị chiếu cố, lấy chút tiền đánh bạc cò con, hàng ngày ra vào sòng bạc, kiếm chút cháo. Người xưa có nói : "Nhận lộc của người, phải lo hoạn nạn cho người", Hồ Thiên đã hoàn toàn trông cậy vào chị để sinh sống, làm sao không chia sẻ nỗi lo của chị ? Huống chi hắn thường thậm thụt vào nhà họ Lam, bị vợ chồng Lam Văn khinh rẻ vô cùng. Với tình hình đó, tiền trình của bà chị và vận mệnh của cậu em đều gặp nguy hiểm khác thường. Vì thế Hồ thị coi Hồ Thiên là người chung hoạn nạn với mình, mà Hồ Thiên cũng hết lòng vì chị nghĩ ra những ý kiến, làm sao cho Thái Hòa, Nguyệt Anh, hai chủ nhân nhỏ tuổi, phải chết cùng một lượt. Khi đó, quyền hành trong gia đình sẽ lọt vào tay Hồ thị. Ô phu nhân tuy là chính thất, nhưng mất con trai, chẳng khác nào ông quan mất ấn, làm sao xử lý việc công ? Hồ Thiên lúc đó cũng nghiễm nhiên là một vị cữu cữu phụ chính. Gia tư nhà họ Lam phải chia ba, một phần lọt vào tay chị em Hồ thị. Hai chị em suy nghĩ, chỉ đợi cơ hội để ra tay.

        #49
          bevanng 20.07.2008 14:17:57 (permalink)
          Hồi Thứ 57

          Cơn gia biến, cha mẹ qua đời
          Cảm danh lợi, chàng rể luyến hồng trần.


          Chị em Hồ thị đang bí mật bàn bạc kế sách để thu thập vợ chồng Thái Hòa, bỗng nhiên lại xảy ra một việc. Mùa hè năm đó, trời ra tai, bệnh dịch hoành hành. Ô phu nhân nhiễm bệnh trước nhất, chẳng bao lâu qua đời, không thể chiếu cố tới nàng dâu bảo bối của mình nữa. Lam Văn lúc đó cũng đã luống tuổi, lại vốn là một trưởng giả trung hậu, không nghĩ tới chuyện tục huyền, lấy bà vơ khác, có thể làm hỏng hạnh phúc của các con. Nhưng việc gia đình không thể thiếu người nội trợ, nên quyền hành trong nhà, vô hình trung, lọt vào tay Hồ thị. Hồ thị có nằm mơ cũng không thể nghĩ tới phúc phận lớn đến thế. Trong lúc đang vui mừng đắc ý, thì ông Hồ cữu cữu mới được phong chức tước, Hồ Thiên lại nẩy ra một ý kiến, nói với chị :
          - Tỉ tỉ, hiện giờ chị vừa được nắm chút quyền bính, nhưng chỉ là nhất thời. Vả lại, đó cũng chưa phải là chức quyền chính thức, chẳng qua chỉ như một phổ ky già trong quán ăn, việc kinh doanh bỗng khiếm khuyết một người, chưa có ai thay thế để lo công việc, mới tạm đem anh phổ ky già đôn lên, vì anh ta đã quen với tình hình trong quán. Nói cho rõ ra, chị đang ở nhà này làm một bà vợ nhỏ , chiếu theo địa vị đó , thật tình chẳng cao hơn đám gia nhân nam nữ bao nhiêu, nay được đôn lên địa vị cao ai mà chẳng sợ chị, chẳng kính trọng chị thêm vài phần, chẳng tìm cách lấy lòng chị ?
          Nhưng vạn nhất chị mắc phải sai lầm, làm sao tránh khỏi lão gia trách mắng chị, hạ bệ chị, đối đế còn có thể tính chuyện cưới một bà vợ khác ? Đồng thời bạn bè, thân thích còn có thể xúi bậy vài câu, thậm chí có kẻ lanh lợi, đứng làm mai cho ông ta, thử hỏi lúc đó chị có ngăn cản được không ? Đã không thể ngăn cản ông ta tục huyền, thử hỏi chị : đối với người kế nhậm chức vị phu nhân đó, chị còn mặt mũi nào mà nhìn những người bằng hữu, và đám gia nhân dưới quyền ? Lại còn hai tên tiểu oan gia, hiện thời ở dưới tay chị, chẳng cam tâm chút nào, chỉ hận mình không đủ bản lãnh để chống lại chị, đành nén nhịn thôi. Nhất đán có bà kế mẫu, chúng sẽ tìm cách lấy lòng bà ta, đem những điều bất bình chất chứa bấy lâu, tiết lộ ra hết, thì tôi thấy thật nguy cho chị quá chừng.
          Hồ thị vốn là người đàn bà nuôi sẵn dã tâm, nghe tới chỗ nguy hiểm đó, sợ hãi quá chừng, vội nói:
          - Đúng vậy. Chị đã hiểu rõ rồi. Bây giờ, nhất định chị phải tìm cách ỏn thót để lão già nhà này đưa ra quyết định, mau chóng nâng chị lên hàng chính thất. Lúc đó có quyền có thế, danh chính ngôn thuận, khoan nói là người ngoài chẳng dám chỏ mõm xen vào chuyện nhà này, ngay cả hai tên tiểu súc sinh, còn dám không nghe lời chị chỉ huy, điều khiển nữa không ?
          Hồ Thiên cười :
          - Hay lắm, làm một vị đại phu nhân, có quyền thế, được chỉ huy, điều khiển hai tên tiểu súc sinh, chị đã an tâm, mãn ý rồi sao? Hãy nghĩ thêm chút nữa đi. Hai đứa nhỏ đó cực kỳ thông minh, cực kỳ khôn ngoan, lại được lão già nhà này rất mực yêu quí. Bình thời, chúng chỉ coi chị ngang hàng với kẻ ăn người ở trong nhà, nay bỗng nhiên phải dưới quyền một bà mẹ kế, liệu chúng có cam tâm tình nguyện để cho chị chỉ huy, điều khiển chúng hay không ? Chúng đã không cam tâm, mà chị quyết nhiên không từ bỏ oai quyền làm mẹ kế, từ đó mẹ con thất hòa, vĩnh viễn không còn một ngày vui vẻ. Lão già đối với bọn chúng lại rất mực thân ái, cho thấy làm một bà mẹ kế bình an vô sự chẳng phải dễ dàng. Trừ phi là...
          Hồ Thiên bỏ lửng câu nói, đưa mắt dáo dác nhìn quanh, không thấy người lạ, mới chúm chím cười, nói :
          - Thôi, chẳng nói nữa. Những chuyện tội lỗi như thế, tôi chẳng dám đem ra khuyên nhủ chị đâu. Chị là người thông minh, hãy nhắm mắt lại, yên tĩnh suy nghĩ một hồi, sẽ thấy có cách làm gia chủ vĩnh viễn, tuyệt nhiên không hậu hoạn, lại có thể khiến hai đứa nhỏ, còn chưa thành niên, nghe chị răm rắp, không dám phản kháng chút nào; mà dù có muốn phản kháng, cũng không tìm được người nào để tố khổ. Đến lúc đó, đại bộ phận gia sản đều vào tay chị. Muốn nói tới biện pháp để đạt được điều đó, tôi xin nhắc chị một câu của người xưa : "Bất độc chẳng trượng phu, gan nhỏ không quân tử". Việc họa phúc sau này của chị, chỉ ở hành động lần này, quả thật vô cùng lợi hại. Đương nhiên chị phải suy nghĩ cho kỹ, chẳng cần tôi phải nhiều lời.
          Hồ thị nghe vậy, lúc đầu tỏ vẻ ngần ngừ, chừng nghe Hồ Thiên nhắc tới câu nói của người xưa, bỗng nhiên nghiến răng, giậm chân, nhắm vào đôi nam nữ đối đầu với mụ, buông lời độc địa :
          - Ta đã hiểu ra rồi. Ta đã biết rằng không dùng cách hiểm độc, chẳng thể nào địch lại hai tên tiểu súc sinh này. Lúc đầu ta còn niệm tình chúng là con cháu nhà họ Lam, không nỡ ra tay độc ác, sợ đắc tội với tồ tông, nhưng ai bảo chúng ngu ngốc, sinh ra làm con cháu họ Lam làm chi ?
          - Chị đã hiểu rõ, là tốt lắm rồi. Gần đây, lão già lắm bệnh, hàng ngày phải uống thuốc, là cơ hội rất tốt cho chị. Chị nên để tâm hơn nữa, khẩn thiết yêu cầu lão nâng chị lên làm chính thất. Trước hết phải có danh phận nhất định mới được. Phải làm sao để trước mặt các thân hữu, chị ngồi đường hoàng, nhận lễ vái của hai tên súc sinh. Chị chớ coi nhẹ tục lệ đó. Điều này rất quan trọng. Phải bắt chúng dập đầu lạy mới được. Sau khi chị đã được nâng lên hàng chính thất, tôi sẽ dùng một cách...
          Hồ Thiên lại bỏ lửng câu nói, rồi mới mỉm cười nói tiếp :
          - Phần sau của vở kịch này, để chị tự trình diễn, những lời chị vừa nói cũng đúng, nhưng chính vì chúng là con cháu nhà họ Lam, ta không thể không ra tay độc ác. Cần phải... như thế, như thế, mới được tiếng là bậc hiền phụ, còn đối với tổ tông, đừng ngại mang lợi danh hãm hại con cháu.
          Hồ thị nghe nói, cảm thấy như thể vừa được uống một chén nước mát hạ nhiệt, sảng khoái vô cùng, bao giận dữ trong lòng trút sạch, luôn miệng khen diệu kế. Chị em lại đóng cửa phòng, bàn bạc một hồi, sau đó Hồ Thiên mới thanh thản ra đi. Đi hồi lâu, lại trở về, lấy trong tay áo ra một gói gì đó, lén lút đưa cho Hồ thị, Hồ thị vội vã nhận lấy, đem cất vào tủ đựng quần áo.
          Từ hôm đó trở đi: Hồ thị đối xử với vợ chồng Thái Hòa vô cùng khách sáo, đối với người bệnh hoạn Lam Văn chăm sóc tận tình.
          Không biết mụ ỏn thót thế nào: chỉ ba ngày sau đã thấy Lam Văn gượng ốm. bước ra phòng chính, sai người đi mời nhiều vị thân tộc quen biết lâu nay, đích thân tuyên bố lập Hồ thị làm chính thất, bắt đám con cháu cùng Nguyệt Anh, hướng về phía mụ mà dập đầu lạy. Hồ thị đạt được điều mong muốn, lập tức ngồi ngay ngắn bên trên, nhận đại lễ của mọi người. Những vị thân hữu tới dự lễ, có người hiểu rõ nguyên nhân, ngoài ra đều lấy làm lạ, mà sự việc xảy ra quá đột ngột, họ lo thay cho vợ chồng Thái Hòa, sẽ phải chịu khổ không ít. Trong khi đó, Thái Hòa và Nguyệt Anh đều là người ngây thơ, thành thục, trước nay đối với Hồ thị không hề có ý khinh mạn. Bây giờ bà ta đã chính thức trở thành mẹ kế, hai người thành tâm, thành ý lo tròn hiếu đạo.
          Nào ngờ ngôi sao xấu của hai người đang thịnh, nhà Nguyệt Anh bỗng có kẻ thù ra tay phóng hỏa. Chỉ trong một đêm, cả căn nhà cháy rụi, bà mẹ Nguyệt Anh bị chết trong đám cháy. Vương Quang, cha cô, thấy nhà tan, người mất, cũng thổ huyết ra mà chết. Vợ chồng theo nhau về âm tào cùng trong một ngày, chỉ cách nhau vài tiếng đồng hồ. Nguyệt Anh nghe tin, vội trở về nhà, kịp lúc còn được nhìn mặt thân phụ, lúc lâm chung. Vương Quang, lúc sắp chết, dặn dò con gái :
          - Cha một đời làm việc thiện, không hiểu vì sao gặp phải thảm báo này. Người ta sống trên đời, chung qui cũng một lần chết, cha tiếc là không có con trai, chỉ sinh được một mình con là gái, nhưng cũng may là đã có nơi có chốn. Hiện nay, mẹ chồng tuy đã chết, bố chồng con vẫn còn tại thế. Chồng con lại là một thiếu niên có tài, nghe đâu lại đối xử với con rất tốt, cha có thể yên tâm mà về Tây phương, không chút luyến tiếc. Gia cảnh nhà ta đã quá khốn quẫn, việc ma chay chỉ nên làm thật đơn giản, đừng để phí tổn quá nhiều. Còn một điều này, cha muốn báo cho con biết : bà phu nhân mới được bố chồng con đưa lên hàng chính thất, người đó...
          Vướng Quang nói được nửa chừng, còn nửa câu sau đem theo về âm ti. Nguyệt Anh đang lúc bi thương, sầu não, không nói được câu nào. Là một cô bé, lần đầu gặp cơn gia biến, cô không có chút kinh nghiệm nào về việc ma chay, đành phái người về nhà chồng, mời Thái Hòa tới giúp đỡ. Cô khóc lóc ngất ngư, không lo được việc gì. May được Thái Hòa đứng ra lo liệu thay cô, đã hỏi ý cha, đem theo nhiều tiền bạc, mua quan tài và sắm đồ khâm liệm, lại mời các vị thúc bá cao tuổi trong họ, cùng lo việc tang ma. Cậu lại mất công khuyên giải Nguyệt Anh, cho cô bớt đau khổ.
          Việc ma chay đã xong, Nguyệt anh lại theo Thái Hòa trở về nhà họ Lam. Lúc cô về đến nhà, Lam Văn lúc này bệnh tình đã bớt, gọi cô vào phòng, hỏi han cô về tình hình lúc cha mẹ cô qua đời an ủi cô vài câu. Nguyệt Anh cám ơn cha, lại tới thăm Hồ thị.
          Hồ thị đối với cô bỗng nhiên nồng nhiệt khác thường, hỏi han ân cần. Nguyệt Anh tuy có tính hồn nhiên, nhưng lần đầu nhận ân sủng của bà ta, cũng cảm thấy ngạc nhiên, tỏ ra lúng túng, nói vài ba câu, vội cáo từ, lui ra.
          Vừa may, Thái Hòa vì sợ Nguyệt Anh còn đang đau lòng vì việc nhà, đã đi tìm cô, gặp cô ở đây, mới rủ cô ra vườn hoa câu cá, giải muộn. Nguyệt Anh vốn không có lòng dạ nào du ngoạn, nhưng không nỡ làm trái ý tốt của cậu, đành nhận lời. Hai người cùng bước đi, tới chỗ cuối vườn hoa. Vườn hoa này rộng hơn hai mươi mẫu, có núi giả, hồ nước, dưới nước lại nuôi nhiều loại cá, đang bơi lội. Hai người vào tới vườn hoa, Thái Hòa mới hỏi Nguyệt Anh :
          - Muội muội hôm nay vào thăm kế mẫu, có nghe bà nói gì không?
          Nguyệt Anh lắc đầu, đáp :
          - Không nghe nói gì. Em chỉ cảm thấy mẹ kế đối xử với em tử tế hơn ngày thường. Dường như bà thấy em hiện nay không cha không mẹ, không gia đình, rất đáng thường, nên đặc biệt tỏ lòng thương xót em thôi.
          Thái Hòa trầm ngâm một lát, nói :
          - Muội muội, chúng ta đều là người thành thật, làm sao hiểu được lòng người biến trá ? Kế mẫu hiện nay là bậc tôn trưởng, chúng ta là phận dâu con, làm sao dám nghi bà có ý xấu ? Nhưng có một người khiến ta vừa thấy mặt, đã chán ngắt trong lòng. Đó là vị cữu cữu. Hôm nọ, chính tai ta nghe ông ấy nói với kế mẫu : nếu muốn trừ dứt hậu hoạn, chỉ có cách ra tay độc ác một phen. ông ấy nói . "Trước nhất là đối với lão già, không thể để lão... như thế, như thế". Câu nói đó ta nghe không rõ, nên chẳng dám đoán mò, nói bậy. Đại khái là không có điều gì tốt đâu muội, muội nghĩ thử xem, nếu quả thật hai người nuôi lòng dạ đó, thì hai chúng ta là những đứa trẻ , làm sao có thể đối kháng ? Huống chi phụ thân đang bị kế mẩu mê hoặc, tính mạng đang nằm trong tay họ, chúng ta làm sao có thể ngồi nhìn lão nhân gia gặp nguy hiểm, mà không nghĩ cách đề phòng . Nếu đem những lời này nói với lão gia, nhất định ông không tin. Nếu lại để chị em kế mẫu nghe được, nguy hiểm sẽ ập lên thân chúng ta, không cách nào tránh thoát. Muội muội hãy suy nghĩ, coi có biện pháp nào tốt hay không ?
          Nguyệt Anh nghe phụ thân bỏ dở câu nói mà qua đời, nhận thấy nửa câu sau hàm ý giông giống những gì mà Thái Hòa đã nghe được. Tuy chưa nói dứt câu, nhưng ý nghĩ thế nào, có gì mà không đoán ra nổi ? Những câu nói như thế, Nguyệt Anh chưa từng nghe phụ thân nói tới bao giờ. Hốt nhiên vào lúc lâm chung, ông lại đem ra trăn trối với cô, đủ thấy chuyện này có tầm quan trọng rất lớn, không thể coi thường. Cô đã quyết định trong lòng là không thể bỏ qua, nhưng cũng không tiện nói trước mặt cha con Lâm Văn. Nay bỗng nghe Thái Hòa đề cập tới, cô đột nhiên hiểu rõ sự việc, vội nói.
          - Ca ca, chuyện này không thể nói bừa được đâu, nếu ông cậu có nói câu đó, kế mẫu làm theo hay không, cũng chưa biết được. Nếu hai người đều có lòng dạ đó, chúng ta cũng chỉ có thể tùy thời, tùy sự việc mà đặc biệt quan tâm theo dõi, chứ nhất quyết không thể đem chuyện bí mật của họ mà nói toạc ra. Làm vậy chẳng ích lợi gì mà còn thúc đẩy họ sớm ra tay.
          Thái Hòa nhận là phải, nhân đó đem việc Hồ Thiên cùng kế mẫu cấu kết nhau, rất đáng nghi ngờ, nói hết cho Nguyệt Anh nghe, nói :
          - Khi mẫu thân chúng ta còn sống, ngày nào cũng là ngày vui vẻ chúng ta không phải đề phòng lòng người ở một điểm nào, cũng chẳng ai dám khinh nhờn chúng ta. Chẳng dè mẫu thân vừa qua đời, biết bao sự việc đột ngột xảy ra. Theo tình hình này, trong tương lai chúng ta sẽ phải sống những ngày ngột ngạt, chịu không nổi đó !
          Nguyệt Anh nghe vậy, bỗng nẩy một ý nghĩ trong đầu, vội hỏi :
          - Ca ca, nay anh còn nghĩ chuyện làm quan nữa không ?
          Thái Hòa thấy hết sức bất ngờ, vội nói :
          - Người ta ai mà không có chí tiến thủ ? Chúng ta đọc sách thánh hiền để làm gì ? Há chẳng phải muốn lập thân ở triều đình, giúp vua, giúp dân ? Sao ta lại không nghĩ chuyện làm quan ?
          Nguyệt Anh nghe vậy, buồn rũ, nói .
          - Ca ca đúng là tham chút lợi nhỏ trước mắt, mà vất bỏ phúc lớn muôn năm ! Muội tử từ khi gặp cơn gia biến, lòng này như cây khô, tro tàn. Chẳng những vinh hoa phú quí không đánh động lòng em, ngay cả những chuyện anh vừa nói mẹ kế ghét bỏ chúng ta ra sao, ông cậu quậy phá thế nào, em cũng không hề bận tâm. Nhà tan cửa nát rồi, còn ngó làm chi tới những điều đắc thất, lợi hại cỏn con? Thật tình mà nói, đối với cõi phàm trần này, em đã sớm có ý dứt bỏ. Nhưng vẫn còn vài điểm lấn cấn, chưa thể giải quyết. Thứ nhất là về tình gia đình, cha mẹ chỉ sinh được một mình em, ông bà cùng em có tình gắn bó, nương tựa lẫn nhau, em không thể dứt tình mà bỏ nhà đi tu. Thứ hai là đối với anh, cùng nhau có ước hẹn ba sinh, quan hệ thật sâu đậm, đương nhiên phải cùng nhau hoạn nạn, không thể bỏ nhau mà đi. Vì thế, em cứ nấn ná, không nỡ xuất gia. Nay vì chuyện của cha mẹ, lòng em đau xót, cảm thấy nên sớm xuất thế, mau chóng tu hành, nếu còn diên trì, e rằng cơ hội không đến với em lần nữa. Lần này, em vốn không muốn trở lại nhà anh, mà rồi cứ phải trở về, cũng chỉ vì vấn đề cuối, là tình cảm của em đối với anh. Tuy ca ca đang lầm đường lạc lối, nhưng muội tử vẫn tin chắc mình có thể cảm hóa ca ca, giúp anh sớm vượt qua biển khổ. Nay được anh rủ tới đây, muội tử tuy vì chuyện gia đình, không lòng dạ nào mà thưởng ngoạn, nhưng vẫn muốn mượn chỗ thanh nhã này để cùng ca ca bàn chuyện với nhau thật sâu hy vọng ca ca hiểu rõ tấm lòng của muội tử. Mong anh nhớ lại chuyện cũ, khỏi bị sư tôn và Diêm vương chê cười là không có định thức, dễ thay lòng đổi dạ. Lúc đó bản thân ca ca lại rơi vào biển khổ, mắc vào vòng tai kiếp, mong ca ca suy nghĩ cho kỹ.
          Hai người đang bí mật bàn bạc cùng nhau, bỗng thấy một đám gia nhân ùn ùn kéo tới, vừa thấy mặt, liền hô to :
          - Công tử, tiểu thư sao còn chưa vào nhà ? Bệnh tình lão gia đang mười phần nguy kịch.
          Hai người nghe nói, hồn vía lên mây, vội theo nhau chạy vào nhà.

          #50
            bevanng 20.07.2008 14:24:40 (permalink)
            Hồi Thứ 58

            Mang dạ sói, ác phụ hạ độc thủ
            Nặng tình nghĩa, nghĩa bộc nổi bất bình.


            Sau khi vợ chồng Vương Quang theo nhau qua đời, Hồ Thiên vội vã trở lại nhà họ Lam. Mấy ngày qua, hắn đi ra ngoài, kiếm được một món thuốc, đem về trao cho Hồ thị. Bấy giờ Lam Văn bệnh tình đã bớt, nhưng mỗi ngày vẫn phải uống thuốc, thầy thuốc dặn rằng sau khi cho uống thuốc, nên để người bệnh nằm nghỉ. Hồ thị đã sắc xong chén thuốc tính đem cho chồng uống, thì Hồ Thiên ngăn lại, đổ thứ thuốc mới, hòa tan trong chén thuốc. Hồ thị run run hai tay, bưng chén thuốc vào phòng, nâng đở cho Lam Văn uống xong chén thuốc. Không bao lâu, cả nhà họ Lam nháo nhào, ầm nói lão gia đã qui thiên rồi ! Lam Văn chết đi, Hồ thị nắm toàn quyền trong nhà, Hồ Thiên trở thành một thứ khai quốc công thần, nắm đại quyền trong tay, tha hồ làm mưa làm gió, ngày càng lún sâu vào tội lỗi.
            Hồ Thiên làm việc rất cẩn mật, chẳng những vừa ra tay đã giải quyết xong ngay, sau đó còn săn sóc tới thi thể rất chu đáo, không để lộ một vết tích khả nghi. Khoan nói Nguyệt Anh, Thái Hòa đều là những đứa trẻ, không hiểu biết sự tình, nay cả các gia nhân nam nữ trong Lam phủ, rất đông đảo, ai cũng biết chủ nhân chết vội vảng, tỏ ý nghi ngờ, nhìn thi thể nằm trên giường rất kỹ, đặc biệt lưu tâm, cũng không tìm ra được một chứng cứ gì. Họ bàn bạc sau lưng chị em họ Hồ, đều tỏ ý khâm phục chị em nhà này lợi hại. Hạ độc thủ hại người mà không để lại vết tích, phải là tay bản lãnh rất cao. Hồ Thiên lại vô cùng xảo quyệt. Hắn nghe phong thanh những lời không tốt, đặc biệt bàn với Hồ thị, bỏ ra một số ngân lượng rất lớn, ban cho đám người dưới, lấy cớ là thưởng công cho họ đã vất vả trong việc ma chay. Mọi người dẫu vì chủ nhân mà bất bình, nhưng không ai có can đảm mà thân oan cho chủ, lại bị tiền bạc trám miệng, còn ai dám lên tiếng nữa ?
            Vì thế, chị em họ Hồ càng liều gan, phóng tay. Hồ Thiên nói với chị :
            - Một là không làm, đã làm phải làm tới. Nhổ cỏ không nhổ tận rễ, vài ngày lại nẩy mầm. Chém một đao đã mang tội, chém thêm nhát nữa cũng thế thôi. Chi bằng nhân cơ hội này, giết luôn hai đứa nhỏ cho xong.
            Đến đây thì Hồ thị nhất quyết không chịu. Mụ có chủ ý của mình, mới nói :
            - Trong nhà có một lão già chết, vị tất đã không có người chú ý. Nếu lại chết liền một lúc ba người, ai cũng phải quan tâm thôi. Như vậy, chẳng những là không thể giải thích trước mặt đám gia nhân, mà rồi còn có hàng xóm láng giềng và đám thân tộc, chẳng ai tin nổi cả ba người đều chết bất đắc kỳ tử, liền một lúc. Vạn nhất có kẻ hiếu sự nói ra một câu bất bình, một đồn mười, đến tai huyện đại lão gia, thì lớn chuyện lắm. Chi bằng tạm tha cho chúng là hơn. Hiện nay, ta đã là mẹ chính thức của chúng, là chủ nhân đích thực trong nhà, còn sợ chúng có hành vi phản kháng nữa sao? Ta tự có cách, khiến chúng điêu đứng trăm bề. Chẳng cần phải chém giết, chúng cũng tự động bước lên Sum La điện, há chẳng tuyệt diệu hay sao ?
            Hồ Thiên nghe nói, thấy có lý vô cùng, để mặc cho Hồ thị xếp đặt.
            Tang lễ xong xuôi, Hồ thị bắt đầu kế hoạch thứ nhất là tuyên bố gia kế suy kiệt. Từ hồi lão gia còn sống, phần nhập vào đã kém phần chi ra, nay lại phải bỏ tiền ra lo việc tang. Chưa kể tiền lo hai đám ma nhà họ Vương, tức là phải chi cho bản thân Vương cô nương một số tiền quá lớn, ngoài dự tính. Nội trong một tháng, gia tư nhà họ Lam giảm mất phân nửa. Vậy nên, việc thứ nhất là cho Mao tiên sinh nghỉ dạy. Ông này vốn đã già yếu, gần đây lại bệnh hoạn rề rề, không thể dạy học được nữa, giữ lại trong nhà quả thật vô ích. Cho ông nghỉ dạy, có thể giảm bớt được nhiều chi phí.
            Việc thứ hai là phái Thái Hòa quản lý bò, dê, kiêm việc lo củi và cỏ.
            Việc thứ ba là phái Nguyệt Anh lo việc dệt vải, giặt quần áo, nhóm lửa nấu cơm. Còn người vốn trông coi việc nội trợ đó thì phải ra ruộng canh tác.
            Bản thân Hồ thị nắm quyền tổng quản, cho Hồ Thiên làm thủ quĩ, nắm giữ tiền bạc. Hai con bà ta sinh ra hãy còn nhỏ, đợi khi chúng lớn lên, sẽ phái một đứa giúp việc cho ca ca, một đứa theo chị dâu lo việc nữ công. Tất cả đều được đối xử ngang nhau, không phân biệt giòng lớn, giòng nhỏ.
            Thái Hòa tiếp nhận mệnh lệnh, tuy trong lòng chất chứa oán hờn, sầu khổ, nhưng cũng không tìm được cớ gì để bất phục lệnh sai khiến. Còn Nguyệt Anh đã không cảm thấy có chỗ nào là khó chịu đựng, còn cất tiếng cười hì hì, nói với Thái Hòa :
            - Từ nay về sau, không còn được đọc sách nữa, anh còn nghĩ chuyện làm quan hay không ?
            Thái Hòa tức tối nói :
            - Giỏi cho muội muội, cô còn chọc tức ta nữa sao ? Chúng ta là người cùng hội cùng thuyền, ta bị người ta ức hiếp, cô lại thoát được hay sao ?
            Nguyệt Anh vội nói :
            - Em không định nói vậy. Em vốn không tính ở lâu trên cõi hồng trần này, và như em đã nói rõ với anh trước đây, bất luận thế nào, em cũng chỉ ở tạm đây một thời gian thôi. Chẳng bao lâu nữa, em cũng phải ra đi, kể làm chi giai đoạn khốn khổ ngắn ngủi? Không phải như anh, chuyên tâm nhất chí hướng về lợi danh, bất ngờ gặp phải trắc trở, mới thấy tiền đồ bị ngăn cản.
            Thái Hòa nghe vậy, lặng yên không nói. Tiếp đó, Hồ thị đem những dụng cụ dùng vào việc chăn trâu, cắt cỏ, như liềm, gánh, cây roi... đưa cho Thái Hòa: đồng thời lôi Nguyệt Anh đi chỗ khác, để làm công việc. Khổ nhất cho hai người là phải cách xa nhau, hàng ngày từ sáng tới tối, không có dịp nào để gặp nhau. Nguyệt Anh vốn không vì ái tình mà tới đây, cảm thấy dửng dưng. Riêng có Thái Hòa là thấy không tài nào chịu nổi. Cậu có thể làm hết sức mình, chịu khổ về phần xác thế nào cũng được, riêng có chuyện phải xa nhau, cậu rất bức xúc, không tránh khỏi có vài câu oán thán nói ra miệng. Không dè có kẻ nghe được, thêm mắm dặm muối, đem tố cáo với Hồ thị. Tình cờ có Hồ Thiên ở cạnh đó, liền cất tiếng cười nhạt, nói với chị :
            - Đã nghe thấy chưa ? Chị cứ luôn miệng giảng đạo đức, nói nhân nghĩa, đã thấy người ta nói xấu sau lưng, âm mưu hãm hại chúng ta hay chưa ? Chị còn muốn nói đạo lý, đến chừng chúng giở thủ đoạn ra, e rằng sự tình không ngừng ở mức độ này đâu.
            Hồ thị nghe nói, suy nghĩ một lát, nhận thấy mình đối xử với dâu con của bà vợ trước của chồng, quả thật có hơi nương tay, tức thì nổi giận, nói :
            - Ta là mẹ chúng nó, mà chúng nó coi thường ta, không xem gương lão già đã chết ra ma, mà cảnh giới, ta cũng không thể làm dâu hiền nhà họ Lam được nữa. Này ông cậu, cậu hãy nghĩ giùm chị một biện pháp, lập tức bắt hai đứa nhỏ, đuổi ra khỏi nhà. Nếu chúng không chịu, cứ trói chúng lại, đưa ngay lên huyện quan, tố cáo chúng về đại tội ngáo nghịch, bất hiếu.
            Hồ Thiên nghe vậy, liền vỗ tay, nói :
            - Hay lắm, hay lắm. Chỉ tại chị là đàn bà, quá mềm yếu mà thôi. Nếu chị sớm nghe tôi khuyến cáo, thẳng tay đàn áp chúng, thì bây giờ chị đâu phải nếm mùi chua cay . Nay chị chịu trao toàn quyền cho tôi, tôi sẽ thay mặt chị, đánh cho chúng một trận tóe máu, dẹp yên vụ này, để khỏi phụ lòng ủy thác.
            Nói rồi, hớn hở ra đi.
            Câu chuyện này đến tai một người. Nguyên nhà họ Lam có một quản gia đã cáo lão về hưu, tên là Lam Hưu. Con trai ông Lam Hưu, tên Lam Chân, đứng một bên, nghe được câu chuyện giữa chị em họ Hồ. Bây giờ, trời đã gần tối. Lam Chân vì bà mẹ mấy hôm nay đau yếu, ngày nào cũng về thăm mẹ. Hôm nay, nghe được phong thanh, Lam Chân về tới nhà, liền đem chuyện kể lại cho Lam Hưu nghe. Ông này liền nổi giận đùng đùng, chỉ tay về hướng nhà họ Lam, lớn tiếng mắng chửi.
            - Giỏi cho hai tên súc sinh nam nữ, táng tận lương tâm, không biết vương pháp là gì. Gần đây, chủ nhân chết không minh bạch, ai cũng nói là màn kịch do chị em chúng mày dựng nên. Chỉ vì thủ đoạn của tụi bay quá khéo léo, không ai tìm được vết tích gì. Mọi người đều biết chủ nhân chết oan, nhưng không làm gì được tụi bay. Nhưng phải biết, quan pháp có thể thoát khỏi, thiên đạo khó lừa dối. Còn điều này nữa, chủ nhân chết đi, xác còn chưa lạnh, sao tụi bay đã vội tính kế hại dâu con ông ấy? Ta thật không biết tụi bay cùng nhà họ Lam có thù oán gì, mà tụi bay muốn tiêu diệt cả gia đình ? Hỡi ôi ! Việc này Lam Hưu ta không biết thì thôi, đã biết, ta nhất định không để cho tụi bay tự tung tự tác, làm việc ác đâu !
            Ông lão càng nói càng tức, càng tức càng chửi, đến độ tiếng chửi lọt vào tai bà vợ là Vương thị, đang nằm bệnh, chịu không thấu, tức giận, mắng lại ông lão :
            - Ông già đầu mà còn ngu dại, khi không xen vào chuyện thiên hạ làm chi ? Hãy nghĩ lại coi, con trai ông hiện đang ở nhà người ta làm công, được bà chủ mới đối xử tử tế, mà việc họa phúc của nó cũng bởi một lời nói của bà ta mà ra. Nay ông xen vào chuyện tào lao, ngày mai con trai ông bị đuổi việc, mà ông tuổi tác đã cao, tinh lực suy yếu, có còn đủ sức kiếm tiền nuôi mẹ con tôi hay không ?
            Ông lão tiu nghỉu, lên giường đi ngủ.
            #51
              bevanng 20.07.2008 14:55:15 (permalink)
              Hồi Thứ 59

              Mưu đoạt tiền, trước hại mạng người
              Vì cứu chủ, lại mang tiếng xấu.


              Lam Hưu bị vợ mắng, lên giường nằm ngủ. Nhưng lòng ông rộn rã vì những giận cũ, oán mới, ôm mối bất bình, không sao chợp mắt, tính đợi canh ba, sẽ tới nhà họ Lam thăm dò tình hình.
              Gia đình ông đã mấy đời làm nô bộc cho nhà họ Lam, bản thân ông cũng từng chịu ơn sâu của Lam Văn, mà không thể báo thù, rửa oan cho chủ, thật trái với lương tâm. Trước mắt lại thấy cậu chủ nhỏ, tuổi trẻ thất thế, lại có mối nguy tới tính mạng. Việc này, tai ta đã nghe thấy rõ ràng, hiện chưa phát tác, chính là lúc phải đề phòng. Chị em nhà họ Hồ cấu kết với nhau làm ác, chúng lại ra tay lẹ lắm, nếu không mau ngăn lại, e rằng không kịp. Trằn trọc một hồi, ông lão quyết định, giả vờ ngủ say, đợi lúc cả nhà yên giấc, mới tụt xuống giường, lén mở cửa ra khỏi nhà, nhắm hướng nhà họ Lam đi tới. Hai nhà chỉ cách nhau chừng nửa dặm, nhưng ông đã già yếu, mắt mờ chân chậm, phải mất chừng nửa giờ mới tới nơi. Ông là người quen thuộc trong nhà họ Lam, nắm rõ tình hình không đi vào lối cổng chính, mà tìm vào cửa sau. Qua một lối đi nhỏ phía Tây, ông tới chỗ cửa hông. Người gác cổng ở đây là cháu bên vợ của ông, tuổi chừng mười ba, mười bốn. Lam Hưu lợi dụng thằng bé còn nhỏ tuổi, chưa hiểu biết việc đời, mới tới tìm.
              Thằng nhỏ mở cửa hông, thấy ông dượng nửa đêm mò tới, ngạc nhiên quá chừng. Lam Hưu không để nó kịp hỏi han, đã hỏi nó xem công tử hiện ở đâu ? Lại còn một vị tiểu thư nhà họ Vương hiện ở chỗ nào ? Thằng bé này cũng là người có lòng dạ, nghe hỏi tới chuyện công tử, liền nói giọng buồn thảm :
              - Dượng đừng nhắc tới công tử làm chi, cậu ấy đang chịu đau khổ nhiều lắm. Khoan nói chuyện gì khác, chỉ nói tới chỗ cậu đang ở, đã là một gian nhà tranh, nằm đằng sau chuồng bò. Trong nhà chỉ có một chiếc giường với ba tấm ván, ngoài ra không có thứ gì khác. Theo lời thái thái nói, việc chăn bò, canh dê đều giao cho công tử, một mình lo liệu, nên mới bố trí cậu ở chỗ đó, để dễ bề trông coi gia súc. Dượng hỏi tới cậu chủ, là muốn tới thăm cậu ấy chứ gì ? Nhưng chỗ ở của cậu nằm tuốt đằng sau nhà, muốn tới chỗ đó phải đi qua phòng của thái thái, lại phải qua nhiều lần cửa nữa. Vạn nhất thái thái, hoặc cữu cữu thức dậy, thì phiền lắm. Nên tới chỗ Vương tiểu thư ở gần đây thì tiện hơn. Hiện tại, cô cũng chịu nhiều đau khổ, chỉ đỡ hơn công tử chút đỉnh thôi. Nhưng cô lúc nào cũng tỏ ra vui vẻ, sảng khoái. Thái thái nói công tử và tiểu thư đều không còn bé nữa, không thể ở chung một chỗ, nên bắt hai người xa nhau, một người ở tuốt đằng trước, một ở tuốt đằng sau, cách nhau tới mấy dãy nhà. Hiện nay công tử và tiểu thư muốn gặp mặt nhau, không phải dễ dàng. Nghe đâu công tử vì chuyện này mà buông lời oán thán.
              Câu nói chưa dứt, Lam Hưu đã mắng :
              - Trẻ con không được lắm lời. Hãy đưa ta đi gặp Vương tiểu thư.
              - Việc đó rất dễ. Phòng của cô ở ngay phía trước phòng của cháu. Giờ này đêm khuya, yên tĩnh, người trong các phòng đều ngủ cả rồi. Dượng có muốn đi, đừng làm kinh động người khác.
              Thằng bé liền dẫn đường, đưa Lam Hưu tới chỗ cửa sổ phòng của Nguyệt Anh, đưa ngón tay gõ lên cửa sổ ba tiếng, nói :
              - Vương tiểu thư còn thức hay không ? Dượng của cháu là ông già Lam tới thăm cô đây.
              Bên trong liền có tiếng thỏ thẻ :
              - Có phải Lam lão quản gia đấy không ?
              Từ lâu Nguyệt Anh đã chuyên tâm tu trì, mỗi khi gặp lúc đêm khuya canh vắng, nhất định ngồi tĩnh tọa luyện công chừng một canh giờ. Khi nghe tiếng gõ ở cửa sổ, chính là lúc cô vừa xong công khóa, lên giường đi nghỉ. Cô là người thông minh tuyệt đỉnh, một năm nay ở nhờ nhà họ Lam, nội tình gia đình thế nào, mười phần cô đã biết được bảy, tám, rất khâm phục một vị Lam lão quản gia, là người trung hậu thật thà, rất trung thành với chủ.
              Nay nghe nói có ông già họ Lam đêm khuya tới thăm, cô nghĩ ngay tới lão quản gia, chắc có tin tức gì lạ, muốn báo cho cô biết, cô vừa cất tiếng hỏi, vừa leo xuống giường, nhìn qua khe cửa sổ.
              Cô thấy một thằng bé tóc đen, cùng một ông già tóc trắng, đứng bên dưới cửa sổ. Nguyệt Anh không dám chậm trễ, vội ra mở cửa phòng, bước hẳn ra ngoài, không cho hai người vào phòng mình.
              Dưới ánh trăng tỏ, ba người đứng nói chuyện khe khẽ. Nguyệt Anh lên tiếng hỏi trước tiên :
              - Lão bá bá đêm khuya tới thăm, ắt có tin tức gì xấu, muốn nói cho tôi biết, phải không ?
              Lam Hưu nghe nói ngạc nhiên, vội hỏi :
              - Tiểu thư cũng biết rồi ư ? Sao không sớm chuẩn bị đối phó ?
              Nguyệt Anh nghe vậy cũng ngẩn người ra, nói :
              - Chẳng giấu gì lão bá bá, tôi và Thái Hòa hiện nay chẳng biết được tin tức gì. Vừa rồi tôi nói, chẳng qua vì thấy bá bá đột ngột tới thăm, nên buột miệng hỏi vậy, cũng không biết là đúng hay sai. Nay nghe lão bá bá nói, mới biết rằng câu tôi buột miệng nói ra, chẳng may mà trúng, nhưng Thái Hòa vẫn chưa biết gì đâu. Xin hỏi lão bá bá, hiện vừa phát sinh điều gì vậy ? Từ lâu, tôi đã gác bỏ việc đời ngoài tâm trí, nếu họ không dung nổi chúng tôi, chính là dịp thúc đẩy tôi sớm nhập đạo, tôi nên cảm ơn họ chẳng hết. Có lo chăng, là lo cho Thái Hòa mà thôi. Vậy xin lão bá bá mau đem tin tức nói ngay cho tôi biết, để tôi thông tri cho Thái Hòa, tìm kế đối phó.
              Lam Hưu mới đem chuyện chị em nhà họ Hồ đã đặt ra kế độc, cùng lý do vì sao ông biết được tin đó, kể hết cho Nguyệt Anh nghe, tin chắc cô nghe được tin này, phải hoảng sợ vô cùng. Nào ngờ Nguyệt Anh điềm nhiên như không, còn cất tiếng cười lạt, nói:
              - Chà, thì ra là vậy. Kể ra đây là điều may mắn trong những điều bất hạnh của tôi. Xin hỏi lão bá bá họ đã định xong mưu kế, có tính hôm nào tiến hành hay chưa ?
              Tôi cũng không biết. Theo con trai tôi nói, đại khái chỉ trong một hai ngày nữa thôi. Lão nô tính tới cáo tố cùng công tử, ai ngờ hai đứa nó to gan, dám đày công tử vào chỗ chuồng bò. Hôm nay, lão nô không thể gặp mặt công tử, e rằng ngày mai bọn gian nhân động thủ ngay, biết làm sao đây ?
              Hai người đang trò chuyện, bỗng nghe chỗ đường hẹp có tiếng người cười. Ba người kinh hãi, đang tìm xem tiếng cười phát ra từ chỗ nào, đã thấy một bóng đen đen, từ chỗ đường hẹp chạy tới như bay, ánh trăng chiếu sáng, cho thấy một người dẫn đầu, chính là Hồ cửu cửu Hồ Thiên, theo sau là ba người nữa, đều là thủ hạ của Hồ Thiên, mới được tuyển chọn gần đây. Chúng xúm quanh, vây lấy Nguyệt Anh, và Hồ Thiên cất tiếng cười nhạt, nói :
              - Giỏi cho bà tiểu phu nhân chưa cưới, giỏi cho đại cô nương con nhà gia giáo, té ra chỉ là một dâm phụ hạ lưu, lén lút dẫn trai về phòng ! Nhà họ Lam có hạng con dâu như thế, môn phong hủy hoại, thể diện mất sạch. Bình thời ra vẻ thẹn thẹn thò thò, quấn quít lấy chồng, ra dáng một người đàng hoàng, bây giờ mới lòi mặt chuột. Người đã không biết xấu hổ, ta cũng chẳng cần phải giữ thể diện cho nhà họ Lam, hãy trói người lại, đưa ngay lên quan.
              Nói rồi, quay nhìn ba người đi theo, hét lên :
              - Còn không mau trói ngay gian phu, dâm phụ ?
              Ba người nghe nói, liền xắn tay áo, tiến lại, định ra tay. Nhưng họ ngần ngừ, chưa rõ Hồ Thiên bảo trói người nào. Ngoài Nguyệt Anh ra, còn lại hai người, một già, một trẻ. Người già thì lụ khụ, người trẻ lại quá nhỏ tuổi, đều không ra vẻ gian phu chút nào. Họ lẩm bẩm hỏi lại một câu, Hồ Thiên nghe được, cũng ngớ mặt ra, hét đại một câu :
              - Cứ việc trói hết. Làm sao tao biết đứa nào là gian phu ?
              Ba người sửa soạn ra tay. Bên này, Lam Hưu và Nguyệt Anh tự nhiên công phẫn, ngoác miệng ra chửi. Thằng nhỏ thấy dượng của mình vô cớ bị vu oan, ngay bản thân nó cũng chịu chung tiếng oan, tức thì nổi giận mắng Hồ Thiên là kẻ vô lương tâm, không biết liêm sỉ, nó lại đem những chuyện ba tên vô lại xảo trá đã làm trước đây, đã từng nhiều lần tới nhà họ Lam, thậm thụt tố cáo người khác trước mặt chị em nhà họ Hồ, nói bung ra hết. Những lời đó chạm nọc Hồ Thiên, ba phần giận dữ giả bộ, bỗng biến thành mười phần tức giận thật sự. Hắn liên tiếp giậm chân, đập tay, thúc giục ba người kia động thủ. Ba người tiến lại, một người nắm giữ Nguyệt Anh, hai người bắt trói dượng cháu Lam Hưu. Hai người đang cơn tức giận, liền động thủ chống lại. Nguyên ba người mà Hồ Thiên sử dụng đều là kẻ vô lại đầu đường xó chợ, chỉ biết đam mê tửu sắc, nhìn tướng có vẻ oai vỏ, thật tình chỉ là hạng vô dụng. Lúc đó, chúng đang ngái ngủ, cứ mơ mơ, màng màng.
              Hồ Thiên tình cờ ra ngoài đi tiểu, nghe chỗ Nguyệt Anh có tiếng người đang nói chuyện, ngờ rằng kẻ trộm. Hắn vội về phòng, đánh thức ba tên thủ hạ, cùng kéo ra ngoài, nhìn xem, không ngờ lại là Nguyệt Anh và dượng cháu Lam Hưu. Hồ Thiên mừng rỡ, ngoài sức tưởng tượng. Không ngờ ba tên thủ hạ, ăn no uống say, nằm lăn ra ngủ, nửa đêm bị Hồ Thiên đánh thức, thần trí còn chưa tỉnh táo, lại không hiểu vừa phát sinh chuyện gì, cứ mơ mơ màng màng, bảo gì làm nấy. Nghe lời Hồ Thiên, chúng xông lên bắt người, không dè bị phản kháng. Thằng cháu ông Lam Hưu tuy thấp bé, nhưng là tay vô cùng lợi hại. Nó vừa đưa tay ra đã đánh trúng bả vai người kia. Từng nghe người ta nói hễ nắm chắc vai người có thể chế phục được người, trong lúc vội vã, nó chẳng cần suy tính, nắm lấy cánh tay người kia, thi triển hết thần lực, bẻ quặt ra đằng sau. Chỉ nghe người đó hét lên một tiếng, ngã vật ra đất. Hồ Thiên cùng người đang nắm giữ Nguyệt Anh đều kinh hãi, kêu lên .
              - Thằng nhỏ đánh chết người rồi !
              Trong khi đó, Lam Hưu đánh với người kia ngang tài ngang sức. Chợt nghe nói thằng nhỏ đánh chết người, cả hai đều kinh hãi, vội dừng tay, tới xem người đang nằm trên mặt đất. Một trận ồn ào nổi lên, đánh thức mọi người trong nhà. Trên từ vị tân thái thái Hồ thị, dưới tới các nam nữ bộc dịch, tất cả đều khoác vội lên mình chiếc áo trở dậy, chạy tới điều tra. Ngay cả vị công tử mới bị biếm truất là Lam Thái Hòa, cũng vội vã tới xem, thấy Hồ Thiên đang chỉ trời vạch đất, bẩm báo sự tình với Hồ thị. Thái Hòa chỉ nghe chừng hai câu, đã hiểu rõ Hồ Thiên hãm hại Nguyệt Anh. Cậu vội chạy tới, nắm tay Nguyệt Anh, khóc mà rằng :
              - Muội muội, ta hại em mất rồi !
              Nguyệt Anh không nói gì, chỉ đưa cặp mắt rớm nước mắt, nhìn Thái Hòa từ trên xuống dưới, muốn nói, nói không ra tiếng, muốn khóc, khóc không được. Thằng đang nắm giữ Nguyệt Anh, thấy Thái Hòa cùng Nguyệt Anh thân thiết với nhau, lại nhìn bạn hắn bị thằng cháu của Lam Văn đánh ngất ngư, trong lòng vừa thẹn vừa tức, mới tính trút giận lên Thái Hòa. Rõ ràng mang danh công tử hiện nay cậu ta thất thế, thân phận còn thua kẻ ăn người làm.
              Còn Nguyệt Anh hiện giờ chỉ là một phạm nhân, mà hắn được lệnh canh giữ. Tự nhiên hắn không kiêng nể gì nữa, đưa tay ngăn cản Thái Hòa, mở miệng chửi càn :
              - Con vợ ngươi lấy trai, ngươi còn muối mặt thương yêu khóc lóc trò chuyện với nó nữa sao ?
              Nói chưa dứt lời, đã nghe một tiếng tát đánh "bốp", tiếp theo lại hai tiếng "bốp, bốp": Tên này vừa ngạc nhiên, vừa đau. Định thần một lát mới hiểu cái tát thứ nhất là của Thái Hòa đánh vào má bên trái, hai cái tát sau là của Lam Hưu đập vào má bên phải. Đồng thời có tiếng Thái Hòa chửi hắn là "chó mượn oai hùm", Lam Hưu chửi hắn là đồ súc sinh hạ lưu. Hồ Thiên tức thì kéo đám gia nhân tới giúp đỡ tên kia, chửi lại Thái Hòa và Lam Hưu, làm ầm ĩ cả lên. Hồ Thiên nói với thuộc hạ :
              - Các ngươi còn muốn ăn miếng cơm ở nhà họ Lam, hãy nghe theo lệnh ta và thái thái, mau bắt trói ba tên này, đưa lên huyện quan. Hiện tại, bọn chúng đã đánh chết một người, tội rất nặng. Nếu các người không chịu động thủ, tức thì thái thái đuổi các ngươi ra khỏi cửa, không mướn các ngươi làm công việc nữa.
              Mọi người nghe nói, đưa mắt nhìn nhau, không ai chịu tiến lên. Họ thấy Hồ Thiên quá hống hách, lương tâm chợt nổi dậy, nhận rõ những việc chị em họ Hồ đã làm không còn thiên lý gì nữa. Vả lại, phần đông họ đều chịu ơn nặng của nhà họ Lam, làm sao có thể a dua để làm những điều phản nghịch, bất pháp ? Hồ Thiên thấy vậy, quay qua chửi mọi người. . .
              Trước tình hình đó, Lam Hưu vội nói với Thái Hòa và Nguyệt  Anh :
              - Công từ, tiểu thư, chúng ta đi thôi. Trời đất bao la, đi đâu chẳng kiếm được miếng ăn, mà phải ở đây cho chúng hiếp đáp ?
              Lão tuy tuổi cao, tình nguyện theo hai vị tới chỗ chân trời, góc bể, xin ăn dọc đường, cũng còn hơn ở đây mà mỗi ngày phái bực tức, chịu nhục, còn bị chúng ám toán nữa. . .
              Nói rồi, một tay nắm Thái Hòa, một tay nắm Nguyệt Anh, lôi đi vội vã chạy ra khỏi cửa. Thằng bé cháu Lam Hưu cũng chạy theo, mọi người không dám ngăn cản, để mặc cho nó chạy theo ba người kia.
              Bốn người chạy đi rồi, Hồ Thiên mới giận dữ, hét lên như bò rống, trở vào phòng mình, nhặt nhạnh những thứ gậy gộc, dây thừng, trở ra kêu gọi đám thủ hạ mới tuyển chọn, cùng kéo nhau ra khỏi nhà, đi đuổi bắt bốn người. Dưới ánh trăng, chúng thấy mấy người kia đang men theo bờ sông mà chạy. Hồ Thiên dặn dò :
              - Ai bắt được bốn tên kia, đều có trọng thưởng. Tội lệ ở đâu, ta gánh chịu tất. Nếu cố ý tha cho đi, ghép chung một tội.
              Chúng nghe vậy, liền phấn chấn tinh thần, ra sức đuổi theo, chẳng bao lâu đã bắt kịp bốn người. Một tiếng reo hò nổi lên, tất cả đều cầm vũ khí trong tay lăm lăm. Hồ Thiên thét mắng, bảo bốn người hãy mau mau quay về, nếu dám chống cự, lập tức lấy tính mạng.
              Thái Hòa tự nghĩ mình dầu sao cũng là chủ nhân chính thức trong nhà, liệu rằng Hồ Thiên chẳng dám làm gì mình, liền cười nhạt, nói :
              - Trở về thì cũng là ta trở lại nhà ta, hà tất phải cưỡng bức nhau. Muội muội, chúng ta hãy về nhà, coi họ có biện pháp gì đối phó với chúng ta ?
              Nói rồi, quay mình hướng về phía nhà mình mà rảo bước.
              Nguyệt Anh cũng lẽo đẽo theo sau. Không ngờ Hồ Thiên vẫn nuôi dạ độc ác, phải giết Thái Hòa, Nguyệt Anh cho bằng được. Hắn hét lên một tiếng, thúc giục đám thủ hạ mau mau chạy theo, bắt trói hai người .
              Bỗng Nguyệt Anh kêu một tiếng, nói rõ to :
              - Thưa tiên sư, đệ tử Nguyệt Anh từ nhỏ tới giờ, không ngày nào dám quên lời dạy dỗ của sư tôn, không giây phút nào là chẳng chuyên tâm tu đạo. Chỉ vì không nỡ để chồng chìm sâu trong Ma đạo, nên đã nấn ná nhiều năm, chưa kịp xuất gia. Không dè hôm nay phải chịu nhục. Đệ tử tuy trời bắt phải chịu khổ, cũng là con gái nhà đại gia, có phải chịu nhiều chua cay, cũng chẳng dám từ chối, nhưng bị người lăng nhục, quyết không chịu nổi. Nay đệ tử không thể trông coi tới tiền trình của chồng mình nữa, đành phải tìm cái chết, để sớm được lên trời, gặp mặt sư phụ.
              Nói rồi, vận dụng hết sức mình, thoát khỏi sợi dây trói, nhắm về phía bờ sông mà chạy như bay. Mọi người biết cô có chí đâm đầu xuống nước, nhưng chưa kịp có hành động gì. Riêng Hồ Thiên chẳng thèm quan tâm, bảo mọi người cứ để mặc cho cô muốn làm gì thì làm, bất tất phải cứu.
              Thái Hòa khóc thét lên muốn ra sức đuổi theo Nguyệt Anh, nhưng bị một người nắm chặt lấy tay. Trong lúc nóng vội, cậu cúi xuống, cắn vào tay người kia. Người kia kêu lên một tiếng đau đớn, buông tay ra, để mặc Thái Hòa chạy như bay về phía trước. Hồ Thiên nói :
              - Để mặc cho nó chạy, để mặc cho nó chạy ! Để coi chúng chết cách nào ?
              Lam Hưu và thằng cháu đều bị chúng trói chặt, không tiến lên được. Mọi người ngây người ra mà nhìn cặp vợ chồng trẻ chạy tới bờ sông, ôm nhau mà khóc, rồi cùng đâm đầu xuống sông, cùng một lúc. Chỗ này là hạ lưu của sông Trường Giang, chảy qua một khúc quanh, nước sông rất sâu, thế nước rất mạnh, một khi nhảy xuống, không mong gì sống. Thái Hòa và Nguyệt Anh lại là những đứa trẻ yếu ớt, đã rơi xuống sông, đương nhiên là không toàn tính mạng.

              #52
                bevanng 20.07.2008 15:30:34 (permalink)
                Hồi Thứ 60

                Sấm sét ra oai, giết ác nô
                Thần tiên trổ phép, cứu học trò.


                Hồ Thiên dẫn dắt một đám ác nô, ép bức hai tiểu chủ nhân phải nhảy xuống sông. Đợi cho hai người chìm dưới nước một thời gian, chúng tính rủ nhau kéo về nhà lãnh thưởng. Đột nhiên nghe dưới nước có tiếng bì bõm, mọi người lấy làm lạ, xúm lại bên bờ sông, nhìn ra xa. Lạ lùng thay, một luồng kim quang từ đáy sông vọt thẳng lên trời, chạm vào mắt người nào, người đó liền cảm thấy như kim đâm vào mắt, đau đớn quá, phải nhắm mắt lại.
                Riêng có Lam Hưu và thằng nhỏ là cảm thấy hai mắt thoải mái, nhìn được rõ ràng. Trong luồng kim quang, rõ ràng có một bông sen màu hồng, từ từ bay lên trời. Trên bông sen có bốn người, hai nam hai nữ, đang đứng. Ngoài hai vợ chồng Thái Hòa ra, còn có một đôi nam nữ, ăn mặc theo kiểu đạo gia, cốt cách thần tiên. Lam Hưu và đứa cháu vội bứt đứt dây trói, quì ngay xuống đất, dập đầu lạy, hô to :
                - Cảm ơn các vị thần tiên tới cứu chủ nhân chúng tôi, đưa lên trời.
                Bọn ác nô lúc đó cũng cảm thấy mắt hết đau nhức, vội mở mắt ra, ngửng nhìn, quả nhiên thấy giữa luồng kim quang có một bông sen màu hồng rất lớn, trên đó có bốn người đang đứng, mà hai vị tiểu chủ nhân của chúng có trong số đó. Chúng kinh hãi quá chừng, vội quì xuống, dập đầu lạy bôm bốp. Riêng có Hồ Thiên, trong lòng dẫu hoảng sợ, miệng nói vẫn ra vẻ quật cường. Hắn nói đó là yêu quái bắt người, đại khái là hai tên tiểu súc sinh sẽ bị bắt, đem về động, bị ăn thịt. Câu nói chưa dứt, đã nghe giữa không trung có tiếng hô to :
                - Lam Hưu nghe đây ! Chủ nhân của người vốn là nòi tiên, chỉ vì một ý niệm sai lầm, bị đày xuống phàm trần. Chủ nhân nam vì lòng ham muốn quá lớn, đã để liên lụy tới nữ chủ, cùng gặp phải kiếp nạn này. Nay ta dẫn hai người đó lên danh sơn tu đạo. Ngươi và thằng cháu, lòng trung sáng rực, rất đáng khen, ta sẽ sai thổ địa bản xứ đưa hai dượng cháu về nhà, lại ban cho một viên tiên đan, sống lâu trăm tuổi, một trăm nén vàng chẳng bao lâu cũng được ban xuống, cho hai người cùng thụ hưởng. Hồ Thiên lòng sói dạ ác, tội chết khó tha. Ta sẽ phái các vị thần tướng sấm sét lập tức hành hình.
                Hồ Thiên bấy giờ mới khiếp sợ, nằm phục xuống đất, cao giọng xin thượng tiên tha mạng, từ nay về sau không dám làm ác nữa.
                Nào ngờ hắn tội ác chất đầy, giữa không trung liền có tiếng sấm nổi lên, mọi người đều thấy trong ánh kim quang có hai vị thần tướng, mặt mày dữ tợn, một nam một nữ, hướng về phía hai vị tiên mà hành lễ. Lúc đó, mây đen bỗng kẻo đến, mặt trăng mất ánh sáng, kim quang lấp loáng, chiếu sáng như ban ngày. Mọi người nghe hai vị thần tướng nói :
                - Thưa pháp sư, tiểu thần chúng tôi phụng chỉ làm sét đánh chết Hồ Thiên, nhưng nay đang lúc cuối đông, đầu xuân, khí trời đất không giao hòa, nếu muốn làm sét, ắt phái bẩm lên Thượng đế, đặc biệt cho phép gia hình, tiểu thần chúng tôi mới có thể trổ phép.
                Lại nghe tiếng người tiên dặn bảo .
                - Các vị tôn thần cứ chuẩn bị trổ phép đi, bần đạo sẽ lập tức lên trời bẩm báo, không để lỡ việc đâu.
                Các thần tướng khom lưng, nói :
                - Đã có pháp sư thay mặt bẩm báo, chúng tiểu thần đương nhiên tuân chỉ.
                Nói rồi, lại khom lưng vái, lui ra. Chẳng bao lâu, kim quang tắt ngúm, có tiếng sấm nổ đoàng đoàng, chấn động hang núi, rồi chớp giật loang loáng. Hồ Thiên và đám tiểu nhân hung ác, bay hồn lạc vía, tính bỏ chạy, nhưng hai chân chôn chặt dưới đất như đinh đóng. không thể nhúc nhích. Bỗng lại thấy kim quang sáng lòa, và nghe người tiên nói:
                - Ông Sấm, bà Sét nghe đây. Ngọc chỉ đã tới, hãy mau hành hình.
                Một tiếng sấm nổ vang, Hồ Thiên bị sét đánh, cháy thành than. Đám thủ hạ hung ác của hắn, tuy thoát khỏi sét đánh, nhưng phải một mẻ hoảng sợ, về nhà thành bệnh, lại thêm hai mắt mù tịt vì ánh kim quang, suốt đời không khỏi.
                 Lam Hưu và thằng cháu đứng một bên, thấy Hồ Thiên bị sét đánh chết rồi, liền phủ phục xuống đất, dập đầu lạy. Bỗng nghe bên tai có tiếng người nói :
                - Người tiên đi hết rồi, bất tất phải đa lễ. Hãy mau theo ta, cùng trở về nhà.
                Hai người nghe có tiếng nói, mà không thấy bóng người, mới hay đó là thổ địa được người tiên sai phái, lại vái tạ, theo về nhà.
                Tới nơi, trời vừa rạng sáng, Lam Hưu lại nghe tiếng nói bên tai : ông bạn tốt, chào tạm biệt. Có viên tiên đan đang nhét trong tai ông đấy, lấy ra mà nuốt.
                Lam Hưu hướng lên không trung, vái tạ. Lại có cảm giác trong tai cồm cộm vật gì, mới dùng móng tay út móc ra, quả nhiên là một viên tiên đan, chiếu sáng lấp lánh, lập tức nuốt đi.
                Về sau, Lam Hưu và người cháu ra vườn hái rau, đào đất tìm được một hũ vàng, mới hay người tiên không dối ta. Hai người chia đôi, cùng thụ hưởng. Lam Hưu sống tới một trăm tuổi mới qua đời.
                Nhưng đó là chuyện sau này.
                Lại nói về Thái Hòa, Nguyệt Anh được hai vị tiên, nam và nữ, cứu khỏi cơn nguy hiểm. Hai người thấy Hồ Thiên chịu tội sét đánh, cảm thấy an ủi trong lòng, lại có một phần bất nhẫn. Lúc đó, hai người không dám nói gì, chỉ đi theo hai vị tiên cùng đằng vân giá vụ bay đi. Trong khoảng thời gian chừng nấu chín nồi cơm, bỗng nghe hai vị tiên nói một câu, hai người có cảm giác đám mây đáp xuống. Mở mắt ra nhìn, thấy mình hạ xuống một tòa núi lớn, đằng trước một gian thạch thất. Hai vị tiên đứng lại, nhìn Thái Hòa và Nguyệt Anh mà mỉm cười. Nguyệt Anh bấy giờ mới nhận ra vị tiên đàn ông chính là ân sư Thiết Quài tiên sinh ở kiếp trước, vị nữ tiên dường như có thấy mặt một lần, nhưng không nhớ rõ là ai. Thái Hòa thì mơ mơ màng màng, không nhớ nổi điều gì.
                Nguyệt Anh liền cất tiếng gọi ân sư, dập đầu lạy tận đất. Thái Hòa cũng vội quì theo, dập đầu lạy. Thiết Quài tiên sinh báo hai người lạy vị nữ tiên, nói :
                - Đây là Hà sư thúc của các ngươi.
                Hai người hành lễ xong, Thiết Quài tiên sinh dẫn họ vào thạch thất. Liền có một đạo nhân trẻ tuổi bước ra tiếp rước, nói :
                - Thưa sư tôn, sư thúc, đệ tử Dương Nhân xin bái kiến.
                Thiết Quài tiên sinh hất tay, bảo đứng dậy, cùng Hà tiên cô tiến vào động. Dương Nhân theo sau, vẫy gọi Nguyệt Anh, Thái Hòa cùng vào. Hai vị tiên ngồi phía trước, bọn Dương Nhân ba người lại vái lần nữa. Thiết Quài tiên sinh an ủi Dương Nhân vài câu, khen ngợi Nguyệt Anh, sau đó mới nói với Thái Hòa :
                - Thằng bé này báo hại Nguyệt Anh vướng phải lưới trần, làm lỡ dở của nó mất mấy năm tu hành. Nó đã nhiều lần khuyên ngươi, ngươi còn kiếm lời khéo léo để ngụy biện, mê đắm không tỉnh. Chiếu theo thói ngu của ngươi, nên sớm đuổi ra khỏi sư môn, bắt ngươi chịu khổ đủ điều, cho tận kiếp số. Nếu còn chưa quay đầu, sẽ đánh ngươi xuống mười tám tầng địa ngục, không ai cứu ra được Nay nể mặt vợ ngươi, mới cứu ngươi một lần, ngay hôm nay bắt ngươi phải lên núi Vương Ốc sơn, tĩnh tọa tu luyện ba năm. Nếu thấy ngươi không thay đổi chí hướng, mới có thể truyền thụ đại đạo. Nếu ngươi tự lượng là không chịu đựng nổi nỗi buồn ở nơi hoang sơn tịch mịch, nỗi khổ đói rét, nỗi sợ cọp sói, ta cũng không ép ngươi nhập đạo, cho ngươi xuống núi tức thì, về nhà mà lập công danh thụ hưởng hạnh phúc vợ đẹp con khôn, nhà cao cửa rộng.
                Thái Hòa nghe nói, khóc rống lên, nói :
                - Đệ tử nay đã hoạt nhiên tỉnh ngộ, tự biết mình trước đây mê đắm là vô lý, chẳng những đã hại Nguyệt Anh lở dở tiên duyên, mà bản thân đệ tử cũng phải nếm mùi đau khổ. Nay việc đọc sách đã không thành, cha mẹ qua đời, còn bị kế mẫu bất nhân, ngược đãi. Hôm nay, nếu không may mắn được tiên sư ra tay cứu vớt đệ tử đã táng thân trong bụng cá, nói chi tới chuyện công danh, phú quí . Còn điều này nữa : đệ tử vốn chẳng phải người không có căn cơ hôm nay được thấy phong cách của thần tiên trên đời, đã biết rằng những điều trước đây mình thường nói bậy, quả là điều sai lầm cua kẻ ngu dốt, đúng như lời sư tôn đã nói. Nếu còn tham luyến hồng trần, đệ tử không khác chi loài cầm thú, cỏ cây. Xin sư tôn yên tâm, đừng nói là bắt đệ tử đi xa tu đạo, cho dù bảo đệ tử giẫm lên nước sôi, lửa bỏng, đệ tử cũng quyết không chối từ. Xin sư tôn sai người đưa đệ tử đi ngay lập tức.
                Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
                - Ngươi nói hay lắm, chẳng biết có làm được như lời hay không? Ngươi nói rằng giẫm lên nước sôi lửa bỏng, cũng không chối từ, là vì ngươi cho rằng đó là những việc nguy hiểm nhất, nhưng phải biết rằng việc tu đạo, cầu tiên, mới là việc khó khăn nhất trên đời. Tới lúc khẩn yếu, đừng nói là việc giẫm lên nước sôi lửa bỏng khó tránh khỏi, ngay cả khi gặp phải sự tình vô cùng hung hiểm, mười phần chết một phần sống, cũng phải hăng hái tiến lên, chẳng những không thể tránh né, mà còn không được phép khiếp sợ chút nào. Lúc đó mới biết quả thật ngươi có chịu nổi hay không.
                Thái Hòa lạy dập đầu, nói :
                - Con người ta sợ nhất là không dám chết. Đệ tử đã ở trong cảnh coi như chết rồi, nếu có gặp cảnh nguy hiểm đến đâu chăng nữa, cũng không thể sánh kịp, cái chết vừa rồi. Đệ tử chẳng dám tự nhận mình là người có chí, nhưng cũng biết tự khích lệ mình phải luôn luôn cố gắng.
                Thiết Quài tiên sinh cười, gật đầu liền mấy cái, nói :
                - Tốt lắm, chuyện đã qua không kể đến nữa. Việc ngày sau khó khăn, nên hay hư, đều bởi chuyến đi này. Ta cũng không phái người đưa ngươi đi, vì lúc này không ai nhàn rỗi để sai phái. Con đường từ đây đến đó có nhiều danh sơn, sông dài, có thể tùy thời mà du ngoạn, ngươi cứ khoan thai mà đi một mình thôi.
                Nguyệt Anh đứng ở bên, nghe hai người nói chuyện. Nay thấy Thiết Quài tiên sinh bảo Thái Hòa một mình lên núi Vương Ốc, không biết từ đây tới đó cách nhau bao nhiêu, nhưng biết tiên sinh có ý mài dũa thân thể, rèn luyện gân cốt cho cậu này, lại dạy dỗ cậu ta rằng đằng trước có nguy hiểm không được né tránh, lòng sợ hãi không được có, cho thấy chuyến đi này sẽ gặp nhiều gian khổ. Thái Hòa xuất thân công tử, bình thời qua sông, đều có nhiều gia nhân nam nữ đi theo hộ vệ, không rời xa một bước, nay phải một mình đi đường dài, nhiều nguy hiểm, tuy nói tiên sư nhất định phải để mắt tới, quyết không có ý hại cậu, nhưng với thân phận như thế, làm sao Thái Hòa vượt qua nổi những nỗi gian nan vất vả? Nguyệt Anh nghĩ vậy, trong lòng có ý buồn rầu thay cho Thái Hòa.
                Đột nhiên, Thiết Quài tiên sinh quay đầu nhìn lại, hướng về phía Nguyệt Anh, hét lên một tiếng. Người khác nghe ra, chỉ là một tiếng hét bình thường. Nguyệt Anh lại thấy màng nhĩ muốn vỡ, như thể sét nổ bên tai, bất giác kinh hãi thất sắc, rơm rớm nước mắt. Thiết Quài tiên sinh lại nhìn Nguyệt Anh, nói:
                - Người tiên lấy vô tình làm đa tình. Lòng si mê không chết, thì đạo tâm không vững chắc. Ngươi là người có trí tuệ rất lớn, lại có định thức, sao còn tự trói buộc mình vào nhi nữ thường tình ? Tuy ngươi sử dụng tình cảm hoàn toàn không giống với tình yêu tầm thường của vợ chồng, nhưng phải biết rễ tình không trừ khử, tùy thời có thể nhập ma đạo. Ma đạo thấm sâu, ắt chính đạo tiêu tan, “người quân tử thận trọng lúc ở một mình" (1) chính là như vậy.
                -----------------------------------
                (1) câu này chép trong sách Trung Dung.

                Nguyệt Anh nghe nói, tâm trí bừng sáng, lập tức mọi ý niệm tiêu tan, tỏ ý vui mừng, hướng về phía Thiết Quài tiên sinh mà vái.
                Tiên sinh cất tiếng cười, gật đầu liền mấy cái, nói với Dương Nhân :
                - Con bé này dạy được đây. Quả nhiên nó không thẹn là nòi tiên, mạnh hơn Thái Hòa rất nhiều. Sau này, tài năng của nó lớn không biết đâu mà lường.
                Lại nói với Thái Hòa :
                - Người có cùng xuất thân như Nguyệt Anh, căn cơ như nhau, nhưng chỉ vì nó không để mờ tối bản chân, bụi trần không nhiễm, nên rất gần với Đạo, thành công dễ dàng, đại khái chỉ trong vòng ba mươi năm đã có thành tựu nho nhỏ, trong khi ngươi vẫn còn có ý niệm ham muốn. Nếu biết nỗ lực tinh tiến, cũng không thua kém Nguyệt Anh bao nhiêu đâu.
                Nói rồi, lại đưa tay chỉ Dương Nhân. Dương Nhân vội nói :
                - Sư đệ đừng quên những lời sư tôn chỉ dạy hôm nay, phải chuyên tâm nhất chí, đừng sợ khó khăn, đừng ngại gian khổ, chớ hiềm tịch mịch, tu hành trong vài năm đã ngang với chúng ta tu trong mười năm. Vài chục năm sau, có thể chúng ta còn phải thỉnh giáo sư đệ nữa đó.
                Thái Hòa nghe nói, vội từ tạ :
                - Sư huynh chẳng nên quá khiêm, chúng ta đều là người một nhà, tình như thể anh em ruột. Tiểu đệ vâng lệnh sư tôn, lập tức xin cáo từ. Tiểu đệ tự nhiên nhận mình ngu hèn, lần này đi nhất định kính cẩn tuân theo lệnh sư tôn, quyết chí tiến lên, nếu có điều gì chưa đạt, mong sư huynh niệm tình đồng đạo mà tùy thời trách lỗi, quả là vạn hạnh.
                Thiết Quài tiên sinh bảo Dương Nhân đi lấy một bọc bạc vụn, vài bộ quần áo, cấp cho Thái Hòa, để làm đồ nhu dụng trên đường lữ hành, rồi bảo cậu ta lập tức xuống núi. Thái Hòa có ý quyến luyến, không muốn đi ngay. Thiết Quài tiên sinh lại nói :
                - Nho gia có câu : "Sớm nghe đạo, tới chết cũng được. Học mà không đến nơi, còn sợ có điều để mất". Người đã quyết tâm cầu đạo, đừng nói là thời gian một, hai ngày không thể để uổng phí, ngay cả một tấc bóng mặt trời cũng phải luyến tiếc. Ngươi mau đi đi.
                Thái Hòa bái biệt từng người, từ biệt Nguyệt Anh, nói :
                - Muội muội, em đã hết lòng vì ta, mà mấy năm nay, ta làm lỡ dở việc tu đạo của em. Từ đây trở đi, em cứ mở mắt mà xem, ta sẽ làm tốt vai trò của một ca ca, dẫu có chết trên núi, cũng không làm em thất vọng đâu. Muội muội hãy bảo trọng. Sau này, ngu huynh có tiến bộ nhiều chăng nữa, cũng phải nhờ em chỉ giáo.
                Nguyệt Anh không còn vì Thái Hòa mà bi thương nữa, khẳng khái nói mấy câu khuyến khích, rồi cùng Dương Nhân đưa tiễn Thái Hòa xuống núi, đến khi thấy cậu đi đã xa, mới trở về động phủ.
                Thiết Quài tiên sinh cười, nói với Hà tiên cô :
                - Sư muội xem Thái Hòa đi chuyến này, có kết quả hay không ?
                - Người này tâm địa rất tốt, chỉ tiếc là lún sâu vào thế tình, e rằng đạo tâm không vững chắc, tiền tình sẽ gặp trở ngại. Theo tôi thấy, cậu ta thua xa Nguyệt Anh.
                - Nguyệt Anh tất nhiên là tốt hơn Thái Hòa, nhưng cậu ta thông minh, không kém Nguyệt Anh. Trải qua đại nạn lần này, cậu ta sẽ coi thế tình rất lạnh nhạt. Những lời cậu vừa nói tỏ ra rết kiên quyết, suy nghĩ chắc chắn. Lần này lên núi Vương ốc, lại tĩnh tọa luyện công ba năm nữa, lẽ nào lại chẳng thành công ? Nhưng trước mắt, phải làm sao khiến cậu tỉnh ngộ chắc chắn, ngăn cản cậu không còn nẩy sinh ý niệm tạp nhạp, mới khiến cậu giữ được đạo tâm chuyên nhất, ngày càng tiến bộ, mau chóng thành công. Nay chúng ta không có việc gì làm, có thể dẫn theo Nguyệt Anh, cùng xuống núi đi chơi một phen, âm thầm quan sát Thái Hòa, nhân tiện đi du sơn ngoạn thủy, cũng được vậy.
                Tiên cô mừng rỡ nhận lời. Thiết Quài tiên sinh kiểm tra việc tu luyện của Dương Nhân xong xuôi, Dương Nhân bẩm báo rằng hôm sau là ngày giỗ mẹ, anh ta phải đi thăm mả, quét dọn mộ phần. Thiết Quài tiên sinh gật đầu, nói :
                - Việc đó nên làm. Mẹ anh không có tiên duyên, ta chỉ có thể độ cho bà ta làm quỉ tiên, không thể làm hơn. Lúc gặp mẹ, anh hãy khuyên bà ta lập nhiều công hạnh. Đợi sau khi anh tu thành chính quả, anh sẽ độ cho bà làm địa tiên.
                Dương Nhân lạy tạ, nói :
                - Đệ tử nhất định khuyên mẹ làm nhiều công hạnh, để phúc về sau.
                Thiết Quài tiên sinh gật đầu, từ biệt Dương Nhân, cưỡi mây bay đi, tính tới nhà họ Lam trước nhất. Giữa đường, ông hỏi Nguyệt Anh:
                - Chúng ta tới nhà họ Lam, ngươi có tính chuyện gì không ?
                Nguyệt Anh đáp :
                - Bố chồng của đệ tử chết không minh bạch, người trong làng ai cũng biết cả, nhưng đệ tử và Thái Hòa không tìm được bằng chứng nào. Nay sư tôn đích thân tới nhà họ Lam, có phải là vì vụ án oan này muốn thân oan cho người chết hay không ? Hiềm vì đệ tử thân phận nhỏ bé, chẳng dám bàn ngang. Còn chuyện vợ chồng đệ tử bị hiếp đáp, tội lỗi ở một mình Hồ Thiên. Nay ông ấy đã chịu tội, bao hiềm oán của chúng đệ tử đã tiêu tan rồi, có lẽ nào lại tìm cách trả thù bậc tôn trưởng ? Chắc sư tôn cũng không vì chuyện của vợ chồng đệ tử mà phái vất vả tới đó.
                Thiết Quài tiên sinh khen ngợi Nguyệt Anh nói năng phải phép, nhân đó nói :
                - Bố chồng của con chết về tay chị em họ Hồ. Động thủ là cả hai chị em, nhưng kẻ chủ mưu là một mình Hồ Thiên. Vì thế Hồ Thiên tội rất nặng, đã bị sét đánh chết, mà chưa hết tội, hiện nay đang ở âm tào, chịu hình phạt núi đao. Còn mẹ chồng con, thân phận làm vợ, mới chịu ơn chồng nâng lên hàng chính thất, không lo báo đáp, lại nghe lời em trai, mưu hại chồng, còn muốn hại luôn cả dâu con nữa, bàn về tâm địa, chỉ kém Hồ Thiên có chút xíu thôi. Nhưng nay còn có điều khó giải quyết, là bố chồng con cả một đời không làm việc gì sai lầm, để lại hai đứa nhỏ, một trai một gái đều là con của Hồ thị sinh ra, tuổi còn quá nhỏ, phải nhờ mẹ nuôi dưỡng. Nếu Hồ thị chịu tội, chết đi, hai đứa nhỏ không có người chăm sóc, cũng chết theo. Vì thế, đối với Hồ thị, tạm thời không dùng nghiêm hình, bảo bà ta khéo vỗ về hai trẻ nên người, đừng nghĩ chuyện ác, hại người mà hại cho mình.

                #53
                  bevanng 20.07.2008 16:29:52 (permalink)
                  Hồi Thứ 61

                  Lý Thiết Quài thăm hỏi Huyền Châu Tử
                  Vương Nguyệt Anh thử thách Lam Thái Hòa.


                  Hà tiên cô và Vương Nguyệt Anh theo Thiết Quài tiên sinh cưỡi mây bay tới nhà họ Lam. Trên đường đi, thầy trò đang bàn về biện pháp cảnh cáo Hồ thị. Thiết Quài tiên sinh nói :
                  - Đây chỉ là chuyện nhỏ. Ta vì thể diện của Nguyệt Anh, không thể không đi một chuyến, nhưng cũng nhân tiện giải quyết một việc lớn.
                  Hà tiên cô muốn hỏi là chuyện gì, Thiết Quài tiên sinh chưa kịp trả lời, đã thấy một đám mây đen từ góc Đông Bắc bay về hướng Nam. Thiết Quài tiên sinh thở dài, nói :
                  - Ác nghiệt thay con quái này ! Không biết nó còn muốn hại bao nhiêu sinh linh nữa đây ?
                  Nhân đó lại báo cho hai người biết :
                  - Vừa rồi, ta có nói tới một việc lớn, chính là việc này đây. Hai người thử nhìn trên đám mây đen, coi có nhận ra con gì đang đứng hay không ?
                  Tiên cô lúc này đạo hạnh đã thâm hậu, sớm nhận ra một con giao long cực kỳ to lớn, cái đầu chàng bàng, khắp mình là vảy vàng lấp lánh, mới nói cho Thiết Quài tiên sinh biết. Nguyệt Anh chẳng nhìn thấy gì, chỉ thấy mây đen mà thôi. Thiết Quài tiên sinh lại than dài :
                  - Nói về tuổi tác, các vị thiên tiên trên thượng giới hiện nay cũng không có vị nào lớn tuổi hơn con vật này; nói về đạo hạnh, nó biết phép thiên độn, lại có tài biến hóa. Nhưng không hiểu sao nó chỉ thích chìm sâu trong Ma giáo, chuyên làm những việc thương thiên hại lý, nhất thời có thể tránh khỏi tội trời, nhưng không bao lâu kiếp số tới, cũng không thoát khỏi sét đánh.
                  Nói rồi liên tiếp lắc đầu, than thở không cùng. Nguyệt Anh mới hỏi lai lịch con vật này ra sao, nó đã làm ác những gì. Thiết Quài tiên sinh cười, nói với Hà tiên cô :
                  - Nó chính là con nghiệt súc đã đại náo đạo tràng trong loa cung. Hai ba phen thất bại, nó tính chiếm cứ sông Tiền Đường, làm căn cứ địa. May cho Huyền Châu Tử ra sức giữ gìn, nó không làm gì được. Nhưng kiếp số đã định, sau này nó lại quấy phá một trận nữa. Ta đi lần này là muốn đem lai lịch lão giao nói cho Huyền Châu Tử biết, để có thể bảo hộ sinh linh trăm họ. Nếu không kịp thời ngăn chặn, cũng có thể cứu ứng đúng lúc.
                  Tiên cô nghe nói, rất khâm phục. Thiết Quài tiên sinh lại đem lai lịch lão giao nói cho Nguyệt Anh nghe, Nguyệt Anh kinh hãi, nói:
                  - Chúng ta có quyết chí cầu tiên, cũng khó được đại đạo. Lão giao này đã có đạo hạnh thâm hậu, sao lại hoành hành như thế, há chẳng phải tự chuốc lấy họa diệt vong, uổng phí cả vạn năm công hạnh ư !
                  Thiết Quài tiên sinh và Hà tiên cô nghe nói, nhìn nhau mà than thở. Lúc đó vừa vặn tới nhà họ Lam, ba người từ trên không trung đáp xuống. Cả nhà Hồ thị đều quì phía trước, không dám ngừng đầu. Nguyệt Anh không dám nhận đại lễ, tránh qua một bên. Hồ thị thấy Nguyệt Anh đi chung với hai vị tiên, biết cô cũng đã thành tiên không dám có ý khinh mạn chút nào. Lại sợ cô tới để báo thù những việc ngược đãi trước đây, bà ta run bần bật, miệng nói lắp bắp :
                  - Thưa Vương... Vương... Vương tiểu thư, Vương thiếu... thiếu thiếu phu nhân. '
                  Cố làm ra vẻ kính trọng mà thân mật. Chẳng dè Thiết Quài tiên sinh thét lên một tiếng, khiến mụ kinh hồn, táng đởm, ngã ngất ra. Nguyệt Anh vội tiến lại, đỡ dậy, nói nhỏ vào tai, giọng khích lệ :
                  - Không cần phải sợ. Sư phụ tôi là thiên tiên hữu đạo, tới đó là để cứu bà, khiến bà thoát khỏi thảm kiếp, không phải đọa kiếp luân hồi. Bà hãy tĩnh tâm lãnh giáo, khéo sửa đổi lỗi lầm, bảo đãm sau này bà sẽ được điều tốt lành.
                  Hồ thị nghe vậy, lại run rẩy, nói :
                  - Tiểu... tiểu thư có ý tốt, ta đã biết rõ. Hận rằng ta ngu dốt tối tăm, không nhận biết người tốt. Những điều trước đây ta đối với cô không được đẹp, mong cô đừng để dạ.
                  Nguyệt Anh nghe vậy, càng thêm bối rối, vội nói :
                  - Hãy mau nghe tiên sư chỉ giáo. Bà hãy nhìn coi tiên sư đang cầm vật gì trong tay.
                  Hồ thị tự động nhìn về phía Thiết Quài tiên sinh. Mụ không nhìn còn đỡ, một khi đã nhìn, càng thêm khiếp hãi, kêu lên một tiếng, ngã lăn ra, miệng sùi bọt mép, bất tỉnh nhân sự.
                  Nguyên đồ vật Thiết Quài cầm trong tay là một tấm gương nhỏ, hình tròn, chỉ to rằng miệng chén. Hồ thị nhìn vào, liền thấy một vùng rộng bao la, cảnh đầu tiên mụ nhìn thấy là một căn phòng, trong phòng có một người bệnh đang nằm. Ngoài ra còn có hai người, một nam một nữ, đang bàn nhau chuyện đánh thuốc độc giết người bệnh. Bệnh nhân vừa uống xong thuốc, lập tức nẩy người lên, bảy khiếu (1) đều ra máu tươi. Điều kỳ lạ là căn phòng đó rất giống một phòng trong nhà họ Lam, người bệnh chính là Lam Văn, hai người đánh thuốc là chị em họ Hồ. Tình trạng Lam Văn nằm chết rất ghê sợ. Hai chị em lăng xăng một hồi, rồi Hồ Thiên lo dọn dẹp, lau chùi xác chết, không để lại một dấu vết. Tấm gương đã lưu lại hình ảnh sống động về việc hai đứa bức tử Lam Văn, chính xác tới từng chi tiết, khiến Hồ thị khiếp sợ, lăn ra chết. Thiết Quài tiên sinh thấy mụ chết giấc, liền hướng về phía mụ, thổi phù một hơi. Hồ thị dần dần tinh lại, trong lòng hiểu rõ mọi chuyện, không muốn nhìn vào gương nữa, nhưng những cảnh hiện ra trong gương vẫn đập vào mắt mụ, cho thấy những chuyện xảy ra sau khi Lam Văn chết, nào là Hồ thị tự ý chuyên quyền, nào là Hồ Thiên ton hót, xúi bẩy, mưu hại vợ chồng Thái Hòa thế nào, vì sao Lam Hưu biết được, nửa đêm thông tin cho Nguyệt Anh, rồi Hồ Thiên vu hãm Nguyệt Anh, làm ầm ĩ cửa nhà... cặp vợ chồng bé phải chạy trốn, Hồ Thiên dẫn thuộc hạ đuổi theo... Thái Hòa, Nguyệt Anh gặp tiên, được lên trời, Hồ Thiên bị sét đánh chết. Tất cả những cánh đó hiển hiện trong gương, Hồ thị nhìn thấy, liền ngẩn ngơ như say, như mê, bất giác đưa mắt nhìn Thiết Quài tiên sinh. Tiên sinh liền bảo Nguyệt Anh :
                  - Hãy dẫn bà ta đi, hỏi xem bà ta có chịu hối lỗi, làm lành, thành tâm làm một người tốt, không làm việc ác nữa, được không? Nếu biết rộng thi âm đức, làm nhiều việc thiện, ông trời quyết không bít ngõ người hối lỗi, tự tân, sau này công hạnh viên mãn, còn được nhiều điều tốt lành, ngoài trí tưởng tướng.
                  -------------------------------
                  (1) Bảy khiếu (thất khiếu) : bảy lỗ hổng trong người, thường được kể là  2 mắt, 2 lỗ mùi, 2 lổ tai, và hậu môn.

                  Nguyệt Anh tuân lệnh, dẫn Hồ thị vào phòng trong, chiếu theo những ý nghĩ của sư phụ, khổ công khuyên nhủ, chỉ dẫn một phen.
                  Hồ thị liền sáng suốt trong lòng, hiểu ra liền, lập tức đứng dậy, chạy ra nhà ngoài, quì trước mặt Thiết Quài tiên sinh, lạy bôm bốp, khóc mà rằng :
                  - Tôi đã hối hận những việc làm không phải trước đây, quyết tâm làm việc thiện. Nếu có lời nào giả dối, hoặc giữa đường cải tiết... Nói rồi, đưa ngón tay út lên miệng, cắn mạnh một cái, đứt ngón tay, máu tuôn như xối, đau thấu tim gan, nhịn đau nói tiếp :
                  - Thân này sẽ không được chết lành, mà như ngón tay này, đứt làm hai khúc.
                  Nói dứt lời, đau quá mà hôn mê. Thiết Quài tiên sinh rất hài lòng vì thấy Hồ thị quyết tâm như thế, gật đầu tán thưởng :
                  - Nói được câu này thì tội lớn cách mấy cũng có thể tha thứ.
                  Lại hướng về phía Hồ thị, thổi phù một hơi, Hồ thị lồm cồm ngồi dậy, máu ở vết thương ngưng lại. Thiết Quài tiên sinh nói vài lời an ủi. Hồ thị giữ lại lóng tay bị cắn đứt, nói :
                  - Để mỗi ngày nhìn ngắm, tránh khỏi giẫm lên vết xe đổ.
                  Thiết Quài tiên sinh giải quyết xong việc nhà họ Lam, lại dẫn tiên cô và Nguyệt Anh, cưỡi mây bay đi, tới thẳng địa phương Hải Ninh, tìm tới ngôi miếu của Huyền Châu Tử.
                  Huyền Châu Tử từ khi nhận chức đến nay, nhiều lần hiển linh nên việc hương khói rất thịnh. Nghe Thiết Quài tiên sinh tới thăm, ông vội ra đón. Hai vị tiên gặp nhau, vui mừng cười lớn tiếng, dắt tay nhau, vào trong miếu. Tiên sinh bảo tiên cô, Nguyệt Anh ra mắt Huyền Châu Tử, tỏ lòng ngưỡng mộ. Huyền Châu hỏi Thiết Quài về tình hình cuộc vân du, Thiết Quài tiên sinh hỏi ông kia về việc giữ đất, đề phòng lão giao, nhân đó kể lại chuyện gặp lão giao ở giữa đường. Huyền Châu thở dài, nói :
                  - Con vật này chưa trừ khử, đất Chiết còn mắc cạn. Tiểu đệ tuy đã hội ý với long vương, nhiều lần bày cách ngăn chặn đường ra vào của nó, những con yêu này thần thông quảng đại, không thua kém chúng ta, nếu sơ xuất là trúng ngay gian kế của nó. Lúc đó tính mạng của trăm vạn sinh linh khó bảo toàn, trách nhiệm đổ lên đầu một mình tiểu đệ. Tiểu đệ tự nhận tài năng nông cạn, gánh trọng trách này, mỗi khi nghĩ đến, thường run rẩy sợ hãi.
                  Đạo huynh đã không bỏ rơi, hạ cố tới đây, ắt có điều gì chỉ dạy.
                  - Đạo hữu quá khiêm tốn. Lão giao tuy dữ, nhưng xưa nay tà không thắng chính. Huống chi lại có đạo huynh cẩn thận lưu tâm, ngồi chấn cửa biển, lại được vợ chồng Bình Hòa giúp đỡ, chắc hẳn lão giao cũng không làm gì được đâu. Nếu xảy ra chuyện gì ngoài ý nghĩ, là tại kiếp số, không sao tránh khỏi. Chỉ cần đạo huynh trước sau như một, không bê trễ, không cẩu thả, đừng vì cao hứng nhất thời mà quên đi việc cảnh giới hàng ngày. Như vậy, kiếp số có tới cũng không can dự gì tới đạo huynh.
                  Huyền Châu Tử luôn miệng khen phải, nhưng trong lòng cảm nhận những lời Thiết Quài tiên sinh chỉ bảo không được thiết thực lắm, chẳng qua chỉ là những câu cửa miệng biểu hiện sự tắc trách, vì thế trên mặt hiện ngay ra thái độ không mấy khâm phục. Thiết Quài tiên sinh hiểu ý, nhưng giả bộ như không biết. Chiều tối, Huyền Châu Tử sai người dọn ra những trái cây tươi của Giang Nam, những đặc sản đất Việt Trung, để đãi ba người khách phương xa. Chủ khách chuyện trò vui vẻ, ăn uống tận tình. Hôm sau, Thiết Quài tiên sinh lại dẫn tiên cô, Nguyệt Anh rời khỏi Hải Ninh, nhắm hướng Bắc đi trung châu. Tiên sinh bỗng cười, nói với Nguyệt Anh:
                  - Ta sẽ dạy cô một trò chơi nhé.
                  Nguyệt Anh không hiểu ý, tiên cô mới nói :
                  - Sư huynh đã thấy trước tác dụng, hiền muội chỉ nên dụng tâm học tập, bất tất hỏi nhiều.
                  Thiết Quài tiên sinh niệm chú lâm râm, bảo Nguyệt Anh đọc lại rõ to cho thuộc, lại nắm hai tay cô, viết vào lòng bàn tay hai chữ lờ mờ, nói :
                  ¬- Niệm câu chú ngữ, có thể thực hiện phép tàng hình. Nhưng đây không phải chính đạo, chẳng thể dùng lâu, đại khái chỉ có thể ứng nghiệm trong một, hai ngày. Hai chữ lờ mờ trên tay cô chính là bùa chú. Lúc muốn tàng hình, cứ đưa lòng bàn tay trái lên trên, lập tức người ta không nhìn thấy cô ở chỗ đang đứng. Chừng nào muốn hiện ra, lại lật ngược bàn tay xuống, lập tức thân hình xuất hiện trở lại. Phép thuật loại này chỉ là trò chơi, không được coi là phép tiên đứng đắn. Phép tàng hình chính thức, phải có công lực thật sự mới thực hiện nổi, có thể biến hóa vô cùng, cũng không cần dùng tới bùa chú.
                  Tiên sinh lại nói tiếp :
                  - Chuyến đi này là vì việc của Thái Hòa, nhưng cũng vì cô mà ra. Ta đối với cô đã mười phần tin tưởng, riêng với Thái Hòa, ta còn không dám quyết đoán cậu ta có đổi chí hay không. Vì thế mới nhân dịp này thử thách cậu ta một phen, coi có thành tâm hay không. Nếu cậu ta quả thật có tương lai, thì qua lần thử thách này, càng thêm kiên định lòng tu đạo. Cậu ta sớm lên trời ngày nào, cô sớm xuất thế ngày ấy. Vì thế mới nói vì cậu ta, mà thật tình là vì cô đối với Thái Hòa, cô có tâm nguyện giống hệt như ta đối với Hà sư muội vậy. Sư muội một ngày chưa thành tiên, ta cũng một ngày không lên trời. Hy vọng sau này, Thái Hòa sẽ vì cô mà dụng tâm học tập, đặc biệt nỗ lực, để cô có thể yên tâm, mà ta cũng được an ủi.
                  Nguyệt Anh lúc đó mới hiểu rõ tấm lòng của Thiết Quài tiên sinh, vội hỏi :
                  - Vậy muốn thử thách Thái Hòa, phải làm thế nào.
                  Thiết Quài tiên sinh liền chỉ dẩn cho cô, nên làm... như thế, như thế, nhất thiết không để lầm lỡ, mới biết được chân tình của Thái Hòa. Nguyệt Anh lĩnh mệnh.
                  Thiết Quài tiên sinh chợt ngó xuống dưới, chỉ tay về phía một thôn xóm hạ giới, nói :
                  - Đây đã là địa giới Dự Châu, nằm phía Nam sông Hoàng hà. Ta chắc Thái Hòa đêm nay sẽ tới đây xin tá túc. Hiện tại cậu ta còn đang ở giữa đường, ta cùng Hà sư muội đi trước tới đó, hù dọa cậu ta một phen, coi cậu có can đãm hay không. Cô hãy tới thôn xóm, theo kế sách của ta mà giải quyết, không được để hỏng việc.
                  Mọi người hạ thấp đám mây, rơi xuống một miếu thổ địa. Thổ địa vội ra nghênh tiếp thượng tiên, Thiết Quài tiên sinh nói rõ ý mình vì sao tới đây, nhờ ông ta chiếu cố Nguyệt Anh, vì cô còn trẻ hiểu biết chưa sâu, e có điều sai lầm gì chăng. Vì thế, Nguyệt Anh ở lại trong miếu để đợi Thái Hòa.
                  Thiết Quài tiên sinh cùng Hà tiên cô ra khỏi miếu, dùng phép rút đất, tới phía sau một vách núi, cách xa đó hơn mười dặm. Thiết Quài tiên sinh chỉ tay về một khu rừng đằng trước, nói :
                  - Trong khu rừng kia, có một người đang đi thất thểu, chính là Thái Hòa đấy. Nơi đó vắng vẻ không người, cô hãy ngó xem có phải cậu ta đang bồi hồi nhìn quanh bốn phía, ắt hẳn đang muốn tìm người để hỏi thăm đường phải không ? Hiền muội hãy mau ra tay, dẫn dắt cậu ta đi tới.
                  Tiên cô cất tiếng cười, lắc mình một cái, biến ra một bà lão, tóc bạc phơ, đón đường Thái Hòa. Bên kia, Thái Hòa vì trời sắp tối, lạc mất đường đi, đang tính tìm một người để hỏi thăm đường.
                  Bỗng thấy phía trước có một bà lão đi tới, lòng mừng khấp khởi, vội tiến lại thi lễ, hỏi :
                  - Bần đạo đang muốn lên núi Vương Ốc, vì đi mãi đã lỡ độ đường, xin lão bà chỉ cho chỗ nào là đường cái, có thể tìm nơi nghỉ đỡ ?
                  Tiên cô quay nhìn về phía sau, chỉ dẫn :
                  - Cậu cứ theo lối bên kia mà đi, sẽ vượt qua một vách núi, lại đi tiếp chừng năm, sáu dặm, sẽ có thôn xóm, có thể nghỉ đỡ qua đêm.
                  Thái Hòa chắp tay vái, cám ơn, rồi rảo bước mà đi. Lúc đó trời đã sắp tối, mặt trời xuống dần. Thái Hòa càng thêm nóng lòng, muốn đi cho mau. Nào ngờ vách núi ở ngay phía trước, đi mãi không tới. Thái Hòa vừa bực tức, vừa buồn cười, nghĩ thầm : "Mình đã vội, lại lâm vào hoàn cảnh này. Con đường đi dài hay ngắn, đã có chiều dài nhất định, tại sao lại thấy lúc gần, lúc xa ? Chắc hẳn tại lòng mình nóng vội, mới có cảm giác như thế". Tuy nói vậy, nhưng con đường lúc đó quả thật kỳ quái, rõ ràng là cách không xa, đi hoài không tới, ánh mặt trời càng lúc càng ngắn lại, bóng hoàng hôn đã buông xuống. Lúc Thái Hòa tới được chỗ vách núi, đã cảm thấy kiệt sức, bất giác cất tiếng, nói:
                  - Theo lời lão bà nói, qua khói vách núi, còn phải đi thêm sáu, bảy dặm đường nữa, mới có thôn xóm. Bây giờ trời đã tối đen, đường đi không nhận ra nổi, thật khổ vô cùng. Vả lại nhìn núi này tuy không cao lắm, nhưng đường núi quanh co, còn sợ hùm sói, giặc cướp xuất hiện đột ngột. Nếu gặp phải những thứ đó chẳng những trong tay ta không một tấc sắt, khó chống cự, mà lúc này toàn thân ê ẩm, muốn chạy cũng không thoát, biết làm sao đây ?
                  Suy nghĩ một hồi, liệu chừng ngồi lại chỗ này cũng không phải thượng sách, đành phấn khởi dũng khí tiến lên. Vừa vượt qua khỏi vách núi, bỗng nhiên cây cối trong rừng rung chuyển, một cơn gió quái nổi lên, dường như có ý nhầm chỗ chung quanh Thái Hòa mà vây chặt. Thái Hòa ngước mắt nhìn lên trên núi, chợt thấy trong đám rừng có hai đĩa đèn rất lớn, phát ra ánh sáng lấp lánh. Thái Hòa lấy làm lạ, nghĩ thầm : "Trên núi vốn không có người ở, tại sao lại có thứ đèn lớn thế này ? Vừa rồi mình chẳng thấy gì, sao đột nhiên lại xuất hiện hai ngọn đèn này ? Ai đem treo chúng lên, treo để làm gì ?"
                  Nghĩ một hồi, bất giác căng mắt nhìn ra xa. Vừa nhìn rõ, liền kêu lên một tiếng, ngã lăn ra đất.

                  #54
                    bevanng 20.07.2008 18:14:04 (permalink)
                    Hồi Thứ 62

                    Mãng xà nằm vắt ngang hai núi, thành đường đi.
                    Đơn thân tìm hỏi đại đạo, vì đạo quên thân.


                    Thái Hòa thấy trên núi hiện ra hai ngọn đèn lớn, lấy làm kinh dị. Chừng nhìn kỹ lại nhận ra đó không phải hai ngọn đèn mà là đôi mắt của một con trăn, cực kỳ to lớn. Đầu nó to như cái thúng, thân nó lớn, mấy người ôm không xuể, lại dài mười dặm.
                    Đầu ở núi này, bụng vắt ở trên đỉnh núi bên kia, cách xa năm dặm. Hồi nhỏ đi học, cậu từng nghe kể về cố sự, nói có con chạch, nuốt được con heo mập. Lúc đó, cậu cho là chuyện kỳ dị, ghê sợ, đêm nằm không ngủ được. Nào hay con vật được nhìn thấy hôm nay, còn hoang đường, quái đản, không sao tưởng tượng, và đáng sợ hơn con lươn nuốt heo rất nhiều. Cũng may lúc này, cậu vừa lập chí cầu tiên, gác bỏ tính mệnh ra ngoài suy nghĩ, nên lấy lại lòng can đảm, hùng tráng hơn xưa rất nhiều, dần dần ổn định tinh thần, đứng dừng lại, nói to cho một mình nghe :
                    - Thái Hòa ơi Thái Hòa, ngươi đã là người cầu tiên hỏi đạo, đừng nói là con lươn nho nhỏ, dài mười dặm, thân to mười ôm, ngay cả chân long, che lấp trời đất, trút biển lật sông, cũng chẳng đáng sợ. Đi lên, đi lên, mặc kệ nó, đường ta ta cứ đi, sợ cái gì ?
                    Liền mạnh dạn bước những bước dài, nhắm phía trước mà tiến lên. Nhưng trong lòng thỉnh thoảng vẫn không quên được con lươn nho nhỏ, lo ngay ngáy, bước chân lật đật, không do mình điều khiển. Luôn luôn tự nhắc nhở, tự trách mình, nói "Đừng nghĩ tới nó, đừng nghĩ tới nó. Nghĩ tới nó là không hảo hán !", mà đôi chân chẳng chịu nghe lệnh chỉ huy. Đang lúc gạt bỏ tính mạng qua một bên để tiến tới, hai ngọn đèn trên núi dường như hiểu được hướng đi của cậu. Bỗng nghe con trăn chuyển mình răng rắc, cặp mắt như hai ngọn đèn cứ nhắm vào thân mình Thái Hòa mà chiếu sáng.
                    Đồng thời, một luồng khí tanh tưởi bốc ra, xông lên tận mũi, không sao chịu nổi. Rõ ràng con quái này đã gây chuyện với Thái Hòa đây mà. Nó vươn cổ, đưa cái đầu bự hướng về phía trước. Chỉ nghe một tiếng ầm vang giữa không trung, con vật khổng lồ nằm vắt ngang giữa trời, gác đầu lên một cành cao của cây cổ thụ rất to, cách chỗ Thái Hòa đang đứng chừng mười trượng. Thái Hòa lúc đó đã gần hôn mê, không rảnh mà xét xem cái đuôi trăn nằm vắt ngang đỉnh núi nào. Chỉ nghe cây cổ thụ rung chuyển từ gốc tới ngọn, cành cây kêu răng rắc như muốn gẫy đôi, đủ biết sức lực con trăn mạnh cỡ nào. Thái Hòa lúc đó rõ ràng đang ở dưới cổ con trăn, mà thân của nó nằm cách mặt đất chưa đầy năm thước. Nếu nó đột nhiên hạ mình xuống, có thể đè chết Thái Hòa, hoặc giả nó phì hơi, quẫy mình một cái, có thể hất cậu văng ra xa mấy dặm.
                    Kinh hãi hơn nữa là cặp mắt trăn cứ chiếu thẳng về trước, dường như đang muốn tiến lại gần Thái Hòa. Lúc đó, cậu ta chỉ còn cách mau mau lùi về đằng sau, nếu tiến lên một bước, sẽ sớm chôn thân trong bụng trăn mà thôi. Trong lúc vô cùng kinh hãi, Thái Hòa chuyển nghĩ, cảm thấy đã lâm vào tuyệt cảnh, chỉ còn nghĩ cách bảo vệ tính mạng. Bất luận thế nào, không gì bằng tạm lùi về đằng sau, tìm một khoảng đất rộng và bằng phẳng, ngồi nghỉ một đêm, đợi khi trời sáng sẽ tính kế khác. Nghĩ tới chỗ đó, đột nhiên lại nhớ tới những lời hùng tráng mình đã nói trên núi Thái sơn.
                    Hiện tại sư phụ và Nguyệt Anh không có đây, nhưng tự mình đã lẻo miệng khoe khoang những gì, làm sao quên được ? Trên con đường phía trước, những nỗi nguy hiểm có thể xảy ra liên tục, nên vừa gặp chuyện ngoài ý nghĩ, đã vội nghĩ tới việc lùi bước, làm sao tới được Vương Ốc sơn ? Làm vậy, chẳng những đắc tội với sư tôn, còn để cho Nguyệt Anh, Dương Nhân chê cười, mà đạo hạnh của bản thân cũng vĩnh viễn không có ngày tiến bộ. Còn nữa, người ta sống ở đời những chuyện an nguy, tồn vong đều có số trời. Số đã đáng chết, ta có lùi lại, qua được chỗ này, con trăn kia có thể chuyển mình, đuổi theo, thì cái thân hình nhỏ bé này chưa đáng làm món điểm tâm cho nó. Hoặc giả gặp phải hùm sói, giặc cướp, không chết vì con trăn, cũng chết vì mấy thứ kia thôi. Nếu số không đáng chết, còn có hy vọng thành tiên, ta có thể chui qua bên dưới con trăn, chỉ cần nhẹ nhàng, len lén, đừng làm kinh động đến nó là được. Nghĩ đến đó, lòng can đảm chợt nổi lên, đồng thời nẩy ra một ý nghĩ trẻ con, muốn đem thân mình ra làm thí nghiệm, coi thật sự ta có tu đạo được hay không. Tức thì chắp hai tay lên trán, ngước mặt nhìn trời, thành tâm khấn vái :
                    - Đệ tử Lam Thái Hòa quyết tâm tu đạo, không tránh nguy nan, nếu đại đạo chắc thành, lên trời có ngày, xin thần linh phù hộ cho đệ tử vượt qua được nạn chui vào bụng rắn này; nếu tiền đồ không có hy vọng, đệ tử cũng không thiết kéo dài kiếp sống khổ sở này. Người ta sống trên đời, lẽ nào không chết ? Trước sau cũng một lần chết, thì chết bạo hay chết an lành, có gì phân biệt ? Chết sớm hay chết muộn cũng thế thôi. Xin thần minh hiển linh ứng, đem đệ tử nhét vào bụng trăn, đệ tử quyết không oán hận.
                    Nói rồi buông tay xuống, ổn định tinh thần, mạnh mẽ sải bước, tiến về phía trước. Vừa đi được vài bước, thì... Không xong rồi !
                    Con trăn đã không khách sáo với Thái Hòa, và cũng chẳng hiểu nó nghĩ gì mà duỗi thẳng thân mình, và rồi chỉ thấy thân hình khổng lồ và đen sì của nó từ trên không trung rơi bịch xuống mặt đất, cái đầu vẫn đặt trên ngọn cây, cái đuôi đã nằm trên đỉnh núi, khúc giữa nằm trên mặt đấy, chắn ngang lối đi của Thái Hòa. Lúc đó, là gan của cậu ta vừa được thổi phồng, lập tức teo tóp. Cậu nằm lăn ra đất, miệng kêu lên :
                    - Trời ơi, trời ơi ! Chẳng lẽ thật tình ta không có hy vọng tu đạo, phải làm con giun nhỏ, chui vào bụng con lươn này ? Tại sao các vị sư tôn lại đẩy tôi vào bước đường cùng, bắt tôi phải chết ? Nếu sư phụ có ý muốn lấy tính mạng tôi, còn cứu tôi thoát khỏi bàn tay của ông cậu độc ác làm gì ? Sư phụ ôi, quả thật lão nhân gia đã cố tình ghẹo con đây mà !
                    Nói một chập, khóc một chập, lại nhìn lại mình con trăn, vẫn chẳng thấy động đậy. Nhưng phía sau cậu không có thứ gì ngăn trở, nếu muốn lùi về đằng sau, có thể bình an vô sự. Tuy nhiên Thái Hòa đã tự nhận mình là người tu đạo, cần phải luyện công phu "khắc kỷ, thận độc" (1), dẫu tính mạng nguy trong khoảnh khắc, cũng tuyệt đối không có ý lùi về sau, và cũng không hề nghĩ tới một phương pháp nào để hy vọng vượt qua thân trăn. Lúc đó, trời đã tối mịt, nhìn cảnh hoang dã chung quanh, không hề có đèn đóm gì. Chút ánh sáng giúp cậu nhận ra đường đi chỉ là cặp mắt trăn, chiếu sáng như hai ngọn đèn. Như trên đã nói, cặp mắt này vẫn luôn luôn chiếu thắng về phía Thái Hòa. Trong lúc không có việc gì làm, cậu lại nảy ra một ý nghĩ trẻ con : "Nếu có thể kết bạn, làm anh em với bác lươn này, nhờ bác chiếu sáng, soi đường cho ta tiến về thôn làng đằng trước, chẳng tốt lắm sao ?". Cậu cũng tự biết đó chỉ là ý nghĩ trẻ con, làm sao có được điều tốt đẹp như thế ?
                    -----------------------------------------------
                    (1) Nghiêm khắc với bản than, thận trọng khi ở một mình.

                    Đang lúc ngẩn ngơ, chợt thấy con trăn khẽ cử động, tất cả cây cối trên núi xào xạc, chim chóc kinh hãi bay lên, tản ra bốn phía.
                    Tự nhiên Thái Hòa kinh hãi, ngồi ngay xuống đất, lặng lẽ đợi đem thân táng vào bụng trăn. Giây lát, một trận cuồng phong nổi lên, cây cối dao động, cát bay đá chạy, rào rào rơi xuống đầu Thái Hòa, khiến cậu ta ngồi ôm đầu chịu trận. Nào ngờ con quái lại tung mình nhảy lên không trung, cách mặt đất hơn mười trượng. Thái Hòa nhìn toàn thân con trăn, so với thần long trên trời, trong trí tưởng tượng bình thời của cậu, chẳng thua gì nhau. Lúc đó, trong lòng Thái Hòa lại nổi lên hy vọng được sống, thật mạnh mẽ. Cậu âm thầm khấn vái thiên thần phù hộ, mau mau ra tay, lôi con quái lên trời, đem đi chỗ khác. Đó quả là điềm lành cho biết sau này cậu sẽ đắc đạo thành tiên. Ai ngờ con trăn bay giữa không trung, không hề bị ai nắm giữ, cũng chẳng có thiên thần nào ra tay lôi nô đi, mà thân hình nó từ từ dãn ra, dần dần hạ xuống đất, nằm vắt ngang giữa hai đỉnh núi, biến thành một con đường núi, rất rộng, có thể qua lại dễ dàng giữa hai trái núi. Vài trăm năm sau, con đường núi này vẫn còn có người qua lại, các vị cố lão tương truyền, gọi chỗ đó là "Thần mãng ao" (đường đèo thần mãng), và thôn làng ở cửa núi được đặt tên là mãng du ao" (đường đèo nơi mãng xà rong chơi).
                    Từ đời Đường, Tống trở về sau, chỗ đường đèo đó cư dân cứ giảm dần, nhân đó bị yêu quái chiếm giữ. Sau Lã Thuần Dương (tức Lã Động Tân, dùng một hòn đất lấp kín cửa núi, từ đó con đường mới không thông hành. Đến nay, nhân sĩ bản xứ còn có người biết chuyện cũ, hiểu vì sao nơi đây được đặt tên là Mãng du ao. Nhưng đó là chuyện sau này.
                    Nói tiếp về Thái Hòa, cứ nhắm phía trước mà đi, thấy sắc trời đã tờ mờ sáng, toàn thân mỏi rời, thất thểu bước tới cửa miếu thổ địa, đưa tay gõ nhẹ lên cánh cửa. Lát sau, cửa mở hé một cánh, bên trong có người bước ra, là một người đẹp tuyệt trần, nghiên nước nghiêng thành, khiến Thái Hòa nhìn thấy, liền ngó sững.

                    #55
                      bevanng 20.07.2008 19:23:12 (permalink)
                      Hồi Thứ 63

                      Miếu thổ địa, cùng bàn huyền lý.
                      Làng ôn nhu dẫn dụ đạo đồng.


                      Lam Thái Hòa được người tiên cứu ứng, thoát hiểm, lên tới miếu thổ địa, trời vừa rạng sáng. Cậu cảm thấy vừa đói vừa mệt, chân tay bải hoải. Cậu đưa tay gõ cửa, người mở cửa ra đón là một người đẹp tuyệt trần. Thái Hòa không ngờ gặp một cô gái đẹp đến thế, ngẩn người ra, vội vòng tay chào, hỏi có phải cô nương là người không thường trú tại miếu này chăng, bần đạo vì đi gấp, giữa đường đã gặp phải chuyện bất ngờ, may có thượng tiên bảo hộ , đã thoát hiểm đến đây, muốn nhờ nơi này làm chỗ nghỉ chân, không biết cô nương có chấp thuận hay không. Cô nương nhìn Thái Hòa quần áo tả tơi, tỏ vẻ ngạc nhiên lẫn thương cảm, mới cười, nói:
                      - Người xuất gia đến đâu cũng là nhà, huống hồ nơi đây là chỗ miếu mạo? lẽ nào lại không thể ở nhờ ? Tuy hiện giờ người coi miếu không có ở đây, nhưng tôi với ông ta là chỗ thân thích, có thể thay mặt ông mà làm chủ. Đạo trưởng bất tất phải khách sáo, cứ vào đây mà dùng trà.
                      Thái Hòa bấy giờ mới yên tâm, ngỏ lời cảm ơn, theo cô gái bước vào. Bên trong có một phòng khách nhỏ, cô nương mời Thái Hòa ngồi, và kêu một người ăn mặc ra vẻ một đạo cô hãy đi pha trà mang lên, lại nói :
                      - Đạo trưởng từ xa tới đây, chắc là đói khát lắm rồi. Nơi đây hoang vắng, không có gì để đãi khách, chỉ có món mì sợi của tục gia, do chúng tôi nấu, đạo trưởng có dùng được không ?
                      Thái Hòa lúc đó đã thấy bụng đói, sôi sùng sục, mà chưa dám mở miệng ra đòi hỏi, được lời như cởi tấm lòng, vội đứng dậy bái tạ. Cô nương mỉm cười, bảo đạo cô mau đi nấu hai tô mì, đem tới.
                      Đạo cô vâng lời, đi ngay. Không bao lâu bưng tới hai tô thật lớn, bốc khói nghi ngút, mùi mì thơm lừng. Thái Hòa đã đói meo, không khách sáo, cầm đũa gắp mì, ăn liền. Cô nương thấy cậu đói mèm, ăn vội, vừa đáng tức cười vừa đáng thương, liền nói :
                      - Ở đây không có ai khác, đạo trưởng tự nhiên, chẳng cần khách sáo.
                      Nói rồi, ngồi xuống cuối bàn, cùng ăn chung cho vui, nhân thể hỏi thăm lai lịch của cậu, Thái Hòa nhất nhất kể ra.
                      Cô nương nghe chuyện, lấy làm lạ. Đợi cậu ăn xong, mới nói :
                      - Đạo trưởng đừng trách tôi nói nhăng. Tôi thấy đạo trưởng có vẻ là danh gia tử đệ, lại đang tuổi thanh xuân, tại sao không nghĩ chuyện học hành cho giỏi, làm quan làm tê, hưởng cảnh phồn hoa trên đời, lại đi lang thang khắp nơi, vào sinh ra tử, chịu mọi gian khổ ? Trên đời quả thật có người tiên hay sao ? Người tiên có thể tùy tiện tu thành được chăng .
                      Thái Hòa không để cô nói dứt, đã cười, trả lời :
                      - Thì ra cô nương tuy ở trong miếu, nhưng không mấy tin đạo, nên mới nói những lời trái lẽ như thế. Xưa nay người ta thường nói thần tiên vốn là người phàm làm nên, có lý nào quyết chí cầu đạo lại không thể thành tiên ? Còn nói trên đời không hề có thần tiên, người khác còn có thể bán tín bán nghi, chứ bần đạo mười phần tin chắc cả mười. Nói vậy không phải dựa vào lý luận mà nói, thật tình bần đạo đã được tận mắt nhìn thấy thánh tích của thần tiên, và không chỉ một hai lần mà thôi đâu. Không cần nói tới người khác, ngay sư tôn của bần đạo đã là một vị chân tiên trên thượng giới. Mới tối qua thôi, ngài đã đứng trên không trung điều khiển mãng xà, cứu bần đạo thoát nạn. Đương nhiên đó là một vị thần tiên, nếu không, làm sao có được thứ pháp lực đó ? Làm sao khiến nổi con súc sinh ngu độn, hung hãn phải cúi đầu nghe lệnh ?
                      Nói tới đó, lại nhớ tới những sự việc trước đây, mới đem những việc kỳ dị mình vừa trải qua, kể sơ lược cho cô nương nghe. Cuối cùng, lại nói giọng khẩn thiết :
                      - Chẳng giấu gì cô nương, bần đạo lúc bé là người đặt nặng tình đời, đạo tâm không có chút nào. Lúc đó, trong lòng vẫn thường nghĩ tới chuyện làm quan, tác tể, phát tài phát phúc, hưởng vài chục năm hạnh vận trên đời. Tới chừng vài lần gặp biến cố, mới dần dần hiểu ra rằng người ta sống trên đời, bất luận phú quí đến đâu, vinh hoa cỡ nào, chung qui cũng chỉ là mây khói, chớp mắt chẳng còn gì. Đồng thời, nhờ tiên sư chỉ điểm, bạn bè khuyên bảo, mới biết trên đời quả có người tiên, lại biết đích xác rằng người tiên đều là người phàm, nhờ tu luyện mà thành. Nhân đó, tôi mới thấu triệt rõ ràng, hiểu được rằng cảnh vinh quang tạm bợ không tài nào sánh kịp phúc phận vô cùng, và nếu nhắm vào danh lợi ngắn ngủi, sẽ để mất hạnh phúc vĩnh cửu. Vì thế, tôi mới quyết tâm vất bỏ tất cả, để theo lời thầy dạy, tình nguyện chịu khổ sở một đời, chỉ cần cầu cho được đại đạo của thần tiên. Đại đạo đã thành, thần tiên chỉ có thể đạt, đó là điều quá tốt đẹp. Vạn nhất giữa đường gặp nguy hiểm, đến nỗi bỏ xác quê người, hoặc táng thân vào bụng thú, chẳng qua cũng chỉ là một lần chết. Đã là cùng một lần chết, thì giàu sang như vương hầu khanh tướng, với nghèo hèn như đẩy xe, mang vác, có gì phân biệt ? Chết già trên giường, với chôn thân trong bụng thú, cũng như nhau. Bần đạo thấu hiểu những mối quan hệ đó, nên đã coi phú quí như đám mây nổi, mà những chuyện sống lâu, chết trẻ, hay chết lành, chết dữ, bần đạo cũng không để trong lòng, chỉ chuyên tâm nhất ý, hướng theo con đường dẫn tới đại đạo mà đi. Đi thông suốt hay không thông suốt, điều đó là do mệnh số định trước, sức người không thể vãn hồi, hà tất phải để trong lòng ?
                      Cô nương nghe nói, bỗng ngẩng đầu lên, nhìn Thái Hòa chăm chú, tươi cười nói :
                      - Theo tôi thấy, cuộc đời một người, ngắn thật là ngắn, nhưng chính vì quá ngắn ngủi, ta mới phải mau mau mưu cầu khoái lạc, chứ đợi khi có chuyện thất thường, tìm không còn kịp nữa. Còn nói về chuyện tu đạo, xét cho cùng là quá hoang đường, chỉ có thể lừa gạt được những kẻ ngu ngốc, chứ người thông minh một chút chẳng thể tin được. Đạo trưởng thử xét lại coi, những bậc thánh hiền, hào kiệt xưa nay, cùng những người tuyệt thế thông minh, ai là chẳng ham muốn sống mãi không già, vĩnh viễn làm người tiêu diêu ngoài đời ? Tại sao chẳng nghe họ nói tới việc tu tiên học đạo, mà đều đem thân lo việc nước việc dân, làm minh quân, lương thần, vì việc quốc thái dân an mà tạo lập sự nghiệp ? Không thể nói họ đều là những thằng ngố, không hiểu được người phàm có thể thành tiên.
                      Thái Hòa nghiêm sắc mặt, nói :
                      - Cô nương nói vậy sai rồi. Trên đời vốn có tam giáo, một là Nho, hai là Thích, ba là Đạo. Nho giáo đã tốt thịnh ở trung thổ, Thích giáo mới bắt đầu ở phương Tây, trong khi Đạo giáo chúng ta khởi nguồn tử thủa khai thiên lập địa. Tuy không thịnh bằng Nho, Thích hai nhà, nó có lịch sử từ lâu đời, hơn hẳn hai nhà kia. Cô nương vừa hỏi tại sao các thánh hiền, hào kiệt không tu đạo, câu nói đó tưởng chừng có lý, thật ra là ta chưa hiểu sâu về nguyên lưu tông phái, cùng nội dung tông chỉ của các giáo phái đấy thôi. Nên biết ba tôn giáo tuy có đường lối khác nhau, nhưng mục đích ích quốc, lợi dân thì là một. Như chúng tôi, hiện mới xuất gia, thời kỳ thành đạo còn xa, nhưng muốn tu thành đại đạo, cũng phải một mặt rèn luyện công phu tu trì bản thân, mặt khác phải lập nhiều âm công, khéo kết thiện duyên, lấy cái tâm làm cơ sở, giữ lòng mình mười phần vững chắc, mới có thể vững chắc bước tiến công, đạt được diệu đạo. Âm công càng nhiều, thiện duyên càng rộng, thì việc thành tựu mới càng lớn. Những phương pháp và cách tiến hành như thế, thử hỏi so với Nho, Thích hai đạo giáo, có gì phân biệt ? Lại nói về hai nhà kia, họ cũng có công phu tu đạo, tình trạng tuy khác, mà lý thì là một. Tức nhiên kết quả là họ cũng có niềm vui bên trong. Nho, Thích hai nhà đã có đường lối riêng của họ, tự nhiên họ chẳng phải dùng tới công phu của chúng ta, giống như chúng ta tự có công khóa, hà tất phải bắt chước họ ?
                      Cô nương cười lớn tiếng, nói :
                      - Càng tốt. Đã nói rằng ngoài việc tu tiên, còn có đạo trường sinh, việc gì cứ phải khăng khăng đòi xuất gia ?
                      Thái Hòa mới nghe, bất giác ngẩn người ra, nhưng rồi phản bác.
                      - Đã nói tu đạo có thể thành tiên, hà tất phải thay đổi, đi theo đường lối của Nho, Thích ? Huống chi việc tu trì của tam giáo, quí nhất là giữ chuyên nhất, không đổi. Như lời bàn của cô nương, tự người đã xuất gia, còn nên trở về lo liệu việc nhà, lập nên sự nghiệp trên đời ? Điều đó Đạo gia nhất quyết không chấp nhận mà hai nhà kia cũng không thể nào dung nạp.
                      Nói đến đây, Thái Hòa cảm thấy trong lòng buồn bực vì cô gái cứ quấy rầy mình. Cô này tuyệt nhiên không chịu hiểu lẽ phải, chỉ muốn cùng cậu kéo dài câu chuyện. Nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy mặt trời đã lên cao, gió ban mai lùa vào phòng, Thái Hòa cảm thấy sau bừa ăn, tinh thần tăng lên, không còn thấy mệt mỏi nữa. Nhưng cậu muốn rời xa cô nương, vội nói :
                      - Cô nương đã chấp nhận cho bần đạo tạm trú, bần đạo vất vả suốt đêm qua, lúc này chân tay rã rượi, xin cô nương vui lòng cho phép tôi đi nghỉ, cho dãn gân dãn cốt.
                      Cô nương nhìn Thái Hòa không có vẻ gì là mệt mỏi, liền nói giọng giễu cợt :
                      - Món mì sợi của tôi không phải thứ thực phẩm tầm thường, bán ngoài chợ. Người nào ăn vào, khí huyết liền tăng gấp mấy lần, nếu mỗi ngày ăn một tô, có thể hết bệnh, tăng tuổi thọ, tại sao đạo trưởng vừa ăn một tô lớn, còn nói là tay chân bải hoải ? Nếu chẳng phải cậu không có phúc thụ hưởng, cũng là bao tử của cậu không được tốt, giữ không nổi thức ăn bồi bổ đó. Đủ thấy hai chữ “tu tiên", cậu tuyệt đối không có hy vọng gì đâu, mà táng thân vào bụng thú, như lời cậu nói, đã có tám, chín phần chính xác rồi đó !
                      Nói rồi, lại nhoẻn miệng cười, ngó Thái Hòa đăm đăm, nói :
                      - Tôi đem lòng trung thực của đàn bà, nói cậu chẳng chịu nghe, cậu cậy mình thông minh, lem lém miệng cãi. Hạng người ngoan cố như thế, quả thật tôi mới gặp lần đầu.
                      Nói rồi, lại nhìn Thái Hòa chăm chú, nhíu cặp lông mày đẹp, nửa như oán hờn, nửa như cầu khẩn, rơm rớm nước mắt, lộ vẻ yêu kiều, ủy mị, khiến người có lòng sắt đá cũng không tránh khỏi vừa thương vừa yêu. Thái Hòa không biết làm sao, vội cúi đầu, không nói một tiếng, ngay cả nhìn cô nương cũng chẳng dám. Lúc đó, vị đạo cô đứng hầu một bên mới mỉm cười, lên tiếng :
                      - Vị đạo trưởng này bề ngoài có vẻ là một đạo sĩ nghèo khổ, rõ ràng là một đại gia công tử. Cô nương nhà tôi năm nay vừa mười tám tuổi, dung mạo, tài đức hiếm có trên đời, ngay cả các vị thần tiên trên trời, vị tất đã có người vượt qua cô. Lão gia nhà tôi lúc còn sống, từng làm quan lớn nước Sở, quyền cao chức trọng. Đêm qua, lão nhân già về báo mộng cho tiểu thư, nói : "Ngày mai có một vị đạo sĩ trẻ tuổi, tới đây xin ở nhờ. Người đó với con có duyên phận vợ chồng, con hãy giữ anh ấy lại, kết hôn nhân". Vì thế, tiểu thư nhà tôi sáng nay dậy sớm, chờ đợi. Không dè vừa bước xuống giường, đạo trưởng đã tới gõ cửa, cho thấy đây là trời ban lương duyên, không sai chút nào. Sở dĩ tiểu thư nhà tôi năm lần bảy lượt khuyên cậu đừng xuất gia, cùng vì ý nghĩ đó. Công tứ hãy nghĩ lại coi, tiểu thư nhân phẩm, tài hoa như thế, kiếm khắp trên đời, có thể tìm được người thứ ba hay không ? Thiếu gì những vị vương tôn, công tử, tìm cách cầu thân, nhưng chưa có người nào vừa ý tiểu thư. Nay cô đã để mắt xanh tới công tử, quả là phúc nhân không dễ gì có được đâu. Theo tôi nghĩ, công tử nên cởi bộ quần áo đạo sĩ, đổi mặc Nho phục, kết thành mối lương duyên. Nếu muốn tu tiên, hãy đợi sau hai, ba chục năm hưởng hạnh phúc vợ chồng, bấy giờ hai người đồng tâm đồng chí, cùng dụng công tu luyện. Chỉ cần lòng phàm tĩnh lại, sẽ tùy lúc mà lên trời. Vả lại, hai vợ chồng cùng tu, lúc dụng công sẽ náo nhiệt hơn. Còn hơn là đơn độc một thân, lội sông vượt núi, trải qua nhiều nguy hiểm. Xin công tử nghĩ lại.
                      Thái Hòa không dè đạo cô lại nói những lời như thế, bất giác cười ha hả, nói:
                      - Tốt lắm, tốt lắm. Thì ra chủ tớ hai người cố ý giữ khách, đặt chuyện lão chủ nhân báo mộng, để ép buộc ta là một người xuất gia, phải rơi vào vòng tay của tiểu thư, kết làm cặp vợ chồng ân ái. Tuy đây là thịnh tình của tiểu thư, và lòng ưu ái của lão chủ nhân, nhưng tôi cũng không chịu để người khác ép buộc đâu. Vừa rồi tôi đã nói, ngay cả bàn thân và tính mạng, tôi đã gác bỏ ngoài cuộc đời, thì dầu là tiên thiên giáng hạ, kết phối nhân duyên, tôi cũng dứt khoát không dám nhận. Xin tiểu thư hãy để mắt tìm một người khác môn đăng hộ đối, một vị vương tôn, công tử có tài mạo tương xứng với cô mà kết phối ngẫu. Hãy tha thứ cho bần đạo cố chấp, đã để phụ tấm thịnh tình.
                      Nói chưa dứt lời, đã thấy cô nương, nước mắt ròng ròng, gục xuống bàn mà thổn thức. Thái Hòa quính quáng, không biết làm sao, chỉ biết năn nỉ cô, mặt khác lại muốn rời xa ngay tức thì, mới cầu xin đạo cô dẫn mình tới phòng khách nghỉ ngơi. Đạo cô thấy Thái Hòa quá ngang ngạnh, liền giận dữ trong lòng, nói lớn tiếng :
                      - Có phải công tử nghi tôi nói chuyện hoang đường đấy không? Trong mộng, lão chủ nhân đã đem tên họ, lai lịch của công tử kể ra rành rành. Nếu công tử không tin, để tôi nói rõ cho cậu nghe nhé. Xin hỏi công tử có phải họ Lam, tên Thái Hòa hay không ? Có phải cậu là người ở làng Mỗ , xứ Mỗ không ? Chẳng phải mẹ kế của cậu đã gây chuyện, lăng nhục vợ chồng cậu, nhân đó hai người mới chống đối lại, cùng kéo nhau ra khỏi nhà, cùng đâm đầu xuống sông...
                      Đạo cô đem những chuyện cũ của Thái Hòa, kể ra tường tận, như thể chính mắt cô ta được nhìn thấy. Thái Hòa bất giác trợn trừng mắt, há hốc miệng, không nói được một lời. Chừng nghe cô ta nói tới chuyện vợ chồng đâm đầu xuống nước, Thái Hòa lại chuyển nghĩ : "Chẳng lẽ nó là ma, mới biết rõ việc nhà ta như thế! Cô tiểu thư ngồi trước mắt kia, là yêu tinh gì, biến thành người đẹp, tới đây để dẫn dụ ta ? Nếu quả như vậy, ngoài cái chết ra, ta còn tìm được biện pháp nào khác để đối phó ? Cô ta chưa trở mặt, ta lại không có chút bản lãnh nào, đương nhiên không thể gây sự được với cô ta". Vì thế, lại lên tiếng năn nỉ đạo cô :
                      - Tôi từng thề độc trước mặt sư phụ, kiếp này không được đại đạo, sẽ chịu quả báo thảm khốc. Lòng nhã ái của tiểu thư, thật tình tôi không dám nhận, còn như lòng chiếu cố của lão chủ nhân dưới suối vàng, tôi sẽ không bao giờ quên, sau này có dịp, nhất định sẽ báo đáp. Những lời tỉ tỉ đang nói, tôi cũng không dám lãnh giáo. Tôi đã không để vào tai, xin chị đừng nói nữa.
                      Đạo cô mỉm cười, nói :
                      - Quả là chuyện lạ. Ngày nay, trên đời sao lắm người trẻ tuổi, cứ một mực đòi xuất gia ? Lần trước đã có một vị lang quân đòi tu đại đạo gì đó, kết quả đại đạo chưa đạt được, trước gặp phải một tên cướp, thí cho một đao, lấy đi tính mạng nhỏ bé. Cách đó không bao lâu, không dè lại có một chàng ngốc, thấy việc trước mắt tốt đẹp như thế, mà nỡ vất bỏ, đòi đi vào đường tuyệt lộ, thật kỳ quái vô cùng.
                      Vị cô nương nãy giờ không nói gì, chỉ cúi đầu, ngồi lặng lẽ, nước mắt long lanh, dường như có điều thương tâm, nghe đạo cô nói, mới khẽ cất tiếng :
                      - Người ta đã không muốn tôi, chị còn nhiều lời làm chi ? Hãy dẫn cậu ta đi nghỉ đi, bất tất phải phí lời ?
                      Nói rồi, lại ngồi buồn bã, hai hàng nước mắt lăn tăn rơi xuống, đột nhiên lại gục mặt xuống tận ngực, không ngửng lên nữa. Thái Hòa vô cùng bứt rứt, nhưng không kiếm lời an ủi cô, chỉ hướng về cô ngỏ lời cảm tạ, lập tức đứng dậy, theo đạo cô đi ra, tới một căn phòng nhỏ ở đầu hành lang phía Tây. Trong phòng, kê một chiếc giường, chăn nệm trên đó vô cùng sạch sẽ, thơm phức. Đạo cô khẽ mỉm cười, nói :
                      - Cậu coi đó là chiếc giường thêu của tiểu thư nhà tôi. Cô là người rất ưa sạch sẽ, nay lại đem chăn nệm của mình cho cậu nằm nghỉ thoải mái, cậu vốn không phải người có trái tim sắt đá, sao không hề hồi tâm chuyển ý chút nào ?
                      Thái Hòa nghe vậy, vội quay mình, bước ra ngoài, nói :
                      - Dứt khoát tôi không dám tiết mạn tiểu thư, xin chị kiếm cho tôi một căn phòng khác, với một chiếc giường gỗ, đủ ngả thân thôi. Người xuất gia dùng những đồ đạc của người khác, càng sang trọng càng tăng thêm tội lỗi. Tôi là người mới học đạo, không thể để giảm phúc như thế.
                      Vừa nói, vừa bước ra cửa. Không dè đạo cô cất tiếng cười hì hì, dùng sức lôi cậu trở lại, nói :
                      - Cậu tính đi đâu ? Nơi đây chỉ là một tòa miếu hoang, làm gì có nhiều phòng ốc ? Ngoại trừ căn phòng này, mới được sửa sang lại, làm phòng tạm trú cho khách, còn tìm đâu ra một căn phòng trống trải ?
                      Thái Hòa vội nói :
                      - Nếu vậy, tôi nằm trên điện thờ, đánh một giấc cũng được. Phòng khuê của người ta, sao có thể cho phép thất lễ ?
                      Đạo cô nghe vậy, trên mặt hiện ra vẻ lúng túng, không được tự nhiên, cười nhạt :
                      - Cậu làm toàn những chuyện khiến người khác khó xử. Người ta đã lo giường mền cho cậu đầy đủ, cậu còn lôi thôi, lắm chuyện . Cậu ở đây là khách, lẽ nào chúng tôi lại để khách phải khó chịu . Giường gỗ, nệm rơm, những thứ thô lậu đó, chúng tôi chẳng dám đem ra đối đãi với người dưới, huống chi là đối với cậu ? Còn  chuyện nằm trên đại điện ngủ khò chẳng qua chỉ là câu nói chơi, chúng tôi đâu dám khinh mạn khách đến thế ? Ngày mai, miếu chủ biết được, lại trách chúng tôi. Tôi khuyên cậu cứ ở đây, hưởng thụ một ngày hạnh phúc, đừng nghĩ lôi thôi gì nữa.
                      Nói rồi, vận dụng tất cả sức mạnh, xô đẩy Thái Hòa một cái, ngã lăn ra trên chiếc giường nệm. Thái Hòa cảm thấy đạo cô có sức mạnh phi thường. Cô ta vừa ra tay đẩy mạnh, cậu đã cảm thấy như ngàn cân đè nặng, không sao gượng nổi. Không hiểu cô gái này lấy đâu ra thứ thần lực đó, Thái Hòa kinh hãi trong lòng, liệu rằng đấu lực với cô ta ắt không thành công, chỉ còn cách là mềm mỏng năn nỉ mà thôi. Cậu vừa đứng dậy, định mở miệng, đạo cô đã không để cậu nói, lại xô mạnh một cái, khiến cậu ngã lăn ra giường. Cô ta lại lấy mền chùm kín đầu cậu, mỉm cười nói :
                      - Xin lỗi, tôi không thể bồi tiếp.
                      Nói rồi, cười lên một tiếng, bỏ đi.
                      Thái Hòa nằm suy nghĩ lung tung một hồi, bỗng chuyển nghĩ : “người tu đạo tùy ngộ nhi an, giẫm lên nguy hiểm như đi trên đất bằng. Việc đến đâu hay đấy, có gì mà phải suy nghĩ ?". Định tâm một lát, thần thái an nhàn, dần dần đi vào cơn mộng.

                      #56
                        bevanng 21.07.2008 10:28:07 (permalink)
                        Hồi Thứ 64

                        Vương Nguyệt Anh bày kế thăm dò phòng ngủ
                        Đông Phương Sóc dùng trí ăn trộm đào tiên.


                        Thái Hòa tỉnh giấc mơ vào lúc giữa trưa, nghe loáng thoáng có 1 tiếng con gái, đang đẩy cửa bước vào. Cậu kinh hãi quá chừng, tỉnh ngủ liền, vội vã ngồi dậy, thì cô gái đã tới gần bên giường, vén màn giường lên. Thái Hòa nhận rõ là cô tiểu thư đã tiếp chuyện với cậu lúc sáng tinh mơ, bất giác nhớ lại những lời cô đã nói, chẳng có nghĩa lý gì. Chỉ thấy cô nương giữ vẻ đứng đắn, đàng hoàng, hỏi cậu:
                        - Lang quân đã tỉnh dậy, có thể cho đem điểm tâm tới, chàng xơi lại ngủ tiếp, được không ?
                        Thái Hòa vội đặt chân xuống đất, cô gái đã đưa tay ngăn lại, nhoẻn miệng cười, nói :
                        - Lang quân sao quá sơ tình đến thế ? Chúng ta chỉ là bèo nước gặp nhau, nhưng đã có người chết báo mộng, chính là trời định lương duyên, sao chàng còn cố chấp ? Há chẳng nghe nói thần tiên cũng có người đã thành gia thất đấy ư ?
                        Thái Hòa vội xua tay lia lịa :
                        - Cô nương đừng nói tới những chuyện đó, khiến tôi càng thêm hổ thẹn. Cô nương là người nhà trời, tự nhiên sẽ có các vương tôn công tử, anh hùng tài tử, tới tìm cô để kết giai ngẫu suốt đời, việc gì phải quấy rầy bần đạo ?
                        Cô nương nghe vậy, ửng hồng hai má, ra dáng thẹn thùng, nói:
                        - Lang quân đừng hiểu lầm ý em, coi em là hạng con gái hạ tiện dâm bôn. Cha em là danh thần trong triều, mẹ em cũng thuộc gia đình danh tiếng. Em tuy thô lậu, từ bé đã được gia đình giáo huấn, những việc thi thư, nữ công đều biết rành, há có thể bắt chước hạng con gái hạ lưu, không tránh hiềm nghi, tấn công con trai ? Thật ra chỉ vì cha em báo mộng rõ ràng, cũng coi như cha mẹ đã cho phép, mà lang quân ngay hôm đó từ xa tới, quả là mối lương duyên tuyệt hảo. Nếu để cơ hội này vuột khỏi, e rằng khó kiếm được một dịp nào khác. Vì thế, không tránh hiềm nghi, quên đi điều hổ thẹn, và thấy trong miếu không người lạ mặt, em lại phải tới gặp lang quân, mong chàng hứa cho một lời, đính kết hôn nhân, để em sớm có chỗ gửi thân suốt đời, mà cha mẹ ờ nơi chín suối cũng được yên dạ. Chẳng biết lang quân có thấu hiểu nỗi khổ tâm, mà nhận lời hay không ?
                        Thái Hòa vừa nghe cô kia nói, vừa để tâm coi thần sắc và cử động của cô, không thấy có vẻ gì là lả lơi, nảy ý nghi ngờ, không hiểu ý cô nàng ra sao. Nhưng thấy cô cứ quấy rầy mình, cậu không thể leo xuống giường, đành nhắm chặt mắt , ngồi ngay ngắn, không trả lời một câu. Cô nương tự cảm thấy cụt hứng, thở dài một tiếng, lặng lẽ trở ra. Chỉ nghe cô kia sập mạnh cánh cửa, bỏ đi. Thái Hòa không nghe tiếng gì nữa, tính chuyện ngủ trở lại.Nhưng trong lòng ngổn ngang trăm mối, không sao chợp mắt, mà dùng công phu khắc chế trở lại, cũng không hiệu quả. Cậu tự giận mình, nói to tiếng cho một mình nghe :
                        - Lam Thái Hòa ơi, Lam Thái Hòa ! Ngươi ở trước mặt sư tôn, lém miệng khoe khoang, nay bước đầu tu luyện cũng không đạt được lại mắc vào ma nạn này. Nếu ngươi để tâm dao động, chẳng những người không còn mặt mũi nào nhìn sư phụ và người vợ đồng môn, mà còn bị đánh xuống địa ngục, vĩnh viễn không ngóc đầu lên nổi. Nay gặp lúc khẩn yếu, quan thiết, bất luận thế nào ngươi cũng phải gạt bó tính mạng qua một bên, mới tốt.
                        Vừa nói tới đó, lại nghe trong phòng như có tiếng đàn bà cười, Thái Hòa ngạc nhiên quá chừng, đưa mắt nhìn quanh, nhưng chẳng thấy một bóng người, tự cho là mình nghe lầm, đành bỏ qua. Tức thì, vận nguyên công, ngồi yên lặng. Hồi lâu, tâm tư mới ổn định, bỗng lại nghe bên ngoài có tiếng cãi cọ. Lắng tai nghe kế bất giác kinh hãi. Giọng nói của một người, nghe sao giống giọng Vương Nguyệt Anh, vợ mình, đến thế. Lại vểnh tai lắng nghe, nhận ra quả thật là Vương Nguyệt Anh đang ở bên ngoài tranh cãi với các cô gái tự làm mai cho mình. Thái Hòa rất kinh hãi, nghi ngờ, nghĩ nơi đây là hoang thôn vắng vẻ, sao Nguyệt Anh có thể tới được ? Chẳng lẽ sư phụ biết ta gặp khó, đặc biệt phái cô tới cứu ta ? Nghĩ tới đó, liền muốn phá cửa bước ra, cùng Nguyệt Anh thấy mặt nhau. Bước thẳng tới chỗ cửa ra vào, nhận thấy cánh cửa tuy không lớn, nhưng rất vững chắc. Đưa tay xô thử, không thấy động đậy, bất giác hoảng hốt. Lại lắng tai nghe, thấy bên ngoài, hai người càng lúc càng to tiếng, từng câu, từng câu lọt vào tai Thái Hòa. Nghe rõ tiếng Nguyệt Anh mắng cô kia là con tiện tì vô sỉ, dám dụ dỗ chồng người. Cô kia cũng không nhịn, cãi lại ầm ĩ. Náo loạn một hồi, Nguyệt Anh nối giận, rút kiếm cầm tay, cô kia hoảng sợ, bỏ chạy. Sau lại nghe đạo cô lên tiếng năn ni Nguyệt Anh, và Nguyệt Anh thả cho cô ta đi. Thái Hòa hết lòng mong mỏi Nguyệt Anh tới mở cửa, để vợ chồng gặp mặt nhau. Nào ngờ đợi suốt nửa ngày, chẳng thấy gì, mà bên ngoài cũng im hơi lặng tiếng.
                        Tới chiều tối, bụng đã thấy đói, chợt quay đầu nhìn lên mặt bàn kê gần giường, thấy trên đó có ổ bánh mì rất lớn, cùng với một chai nước. Thái Hòa chẳng cần suy nghĩ, bẻ bánh ra ăn, rót nước ra uống. Nghe bên ngoài, hoàn toàn yên tĩnh, Thái Hòa lại lên giường đi ngủ, sáng mai sẽ tính kế khác. Có thể là phá cửa sổ, nhảy ra ngoài cũng nên.
                        Thái Hòa đánh một giấc, tới lúc tờ mờ sáng, chợt nghe bên tai có tiếng người nói :
                        - Lang quân hãy giữ mình trân trọng. Sư tôn kêu em tới xem xét đạo tâm của anh. Cũng may anh lập chí kiên định, em có chứng cớ để báo lại với sư tôn. Chúng ta bất tất phải gặp mặt, chỉ thêm quấy rối tâm trí anh mà thôi. Hãy mạnh mẽ lên đường, kỳ gặp mặt lần sau không xa mấy đâu.
                        Thái Hòa nghe rõ ràng là giọng nói của vợ yêu quí Nguyệt Anh, đưa mắt dáo dác nhìn quanh, chẳng thấy người nào, liền bật cười, nói :
                        - Chắc là sư phụ dạy cho cô ấy phép tàng hình, tới đây để ghẹo ta.
                        Liền bước xuống giường nhìn xem, thấy cửa phòng mở toang. Tìm kiếm một hồi, chẳng bắt gặp người nào. Thái Hòa biết sư phụ có thể tùy thời sai người tới xem xét tâm chí cua mình, và ớ đâu cũng có người bảo hộ cho cậu. Vì thế cậu càng kiên định tâm chí, mạnh dạn tiến lên.
                        Không bao lâu, Thái Hòa lên tới núi Vương Ốc. Giữa đường gặp bao nhiêu gian nan, nguy hiểm, cậu đều vượt qua. Lên tới núi, cậu tự tìm một chỗ an thân, tĩnh mịch để bắt đầu tu luyện. Mới đầu, chưa dứt bỏ được thức ăn nấu nướng, mà núi thì cao, đường thì xa, cậu lo ngại không biết kiếm đâu ra thức ăn. Nào ngờ mỗi sáng thức dậy, cậu đều thấy trong thạch động có sẵn lương khô và các thứ trái cây, không hề khiếm khuyết. Nửa năm sau, số lượng thức ăn giảm dần, nhưng vẫn đủ cho cậu no bụng. Hai năm sau, cậu mới dứt bỏ được thức ăn nấu nướng. Từ đó, cứ cách ba năm, Thiết Quài tiên sinh lại một lần tới kiểm tra công hạnh của Thái Hòa, truyền thụ đạo thuật cho cậu.
                        Cũng trong thời gian này, Chung Li Quyền ở trên núi Thái Hoa đã đọc xong Huyền kinh ba cuốn, vâng pháp chỉ của tổ sư, truyền lại cho Lam Thái Hòa.
                        Thấm thoắt mà đã qua mấy trăm năm, truyền từ nhà Tây Hán sang nhà Đông Hán. Lúc đó, Trương Quả ở trên núi Võ Đang, cũng được Văn Mỹ chân nhân, thỉnh mệnh Nguyên Thủy và Lão Quân, truyền cho sách "Ngọc Hư đại điển". Hà tiên cô được Huyền Nữ gọi về, đích thân truyền thụ "Huyền Môn yếu đạo", cùng với Thiên độn kiếm pháp. Các vị tiên trên đây đều đã đạt được tám, chín phần đạo hạnh.
                        Bấy giờ, nhân gian đang vào đời Minh đế nhà Đông Hán. Minh đế vốn là Phật môn đệ tử chuyển kiếp, là ông vua đầu tiên sùng ngưỡng Phật giáo, nhân đó quan lại và nhân dân đều bỏ Nho, Đạo hai giáo, qui phụ về Phật. Nguyên Thủy, Lão Quân đề phòng môn hạ đệ tử tranh hơn thua với người đời, mới gọi tất cả các đại đệ tử, cùng các Đế quân, Tinh quân, cho tới các kim tiên có chức, tán tiên không chức, tập họp ở cung Bát Cảnh, giảng về lẽ "tam giáo đồng nguyên", các thế lực chốn phàm gian tuy có lúc thịnh lúc suy, tất cả đều do định số sai khiến, ba giáo phái đều ôm ấp chủ nghĩa "làm lợi cho người", đã có người khác phụ trách, hà tất phải tranh công với họ làm chi ? Trong mấy trăm năm, các môn hạ đệ tử tự nguyện lui tới chốn trần thế, âm thầm trợ giúp Phật môn, cùng lập công quả. Những người ưa tĩnh, ghét hiêu hiêu tự đắc, không muốn gây nhiều chuyện, thì đều ở trên núi tu dưỡng, hà tất hỏi tới chuyện đời ? Các đệ tử vâng pháp chỉ, đều cảnh giới môn hạ đệ tử, đồng lòng tuân thủ. Vì thế, từ nhà Đông Hán về sau, thường thấy Nho, Phật hai phái công kích nhau, ghét nhau như nước với lửa. Riêng có người của Đạo môn là không tham dự, chính là công của hai vi đại tổ sư, đã ban huấn dụ.
                        Nay nói về đời Vũ đế nhà Tây hán, có Đông Phương Sóc, hiệu là Mạn Thiến, chính là ngôi sao Mộc tinh chuyển thế. Từ nhỏ ông đã được các vị tiên quan đồng đạo hạ phàm, truyền thụ cho nhiều thứ Pháp thuật, lớn lên học được bản lãnh khá cao, có thể ra vào cõi u minh, chưa bói đã biết. Vũ đế đang lúc ưa thích đạo, nghe tiếng ông, vời vào triều, phong làm Thái trung đại phu. Đông Phương Sóc có tính khôi hài, tuy ở trong triều, cũng không giữ gìn triều nghi. Có khi, trước mặt thiên tử, thích nói là nói, thích cười là cười, có lúc còn đem thiên tử tôn nghiêm ra làm trò hề. Thiên tử hàng ngày ngồi giữa triều đình, đôi lúc cảm thấy gò bó, khó chịu, nay được một nhân vật hoạt kê để cùng cười nói, cảm thấy thích thú, nên thiên tứ cũng không trách cứ, còn thấy ông là một người thẳng thắn, đáng yêu, càng thêm sủng ái.
                        Xưa nay, người ta thường truyền tụng, nói Tây vương mẫu từng cảm lòng thành của thiên tử, tha thiết cầu tiên, nên đã giáng hạ vào Hán cung, cùng vua bàn luận về Đạo, ở chơi tới ba ngày. Thật ra, câu chuyện này chỉ là màn kịch do Đông Phương Sóc đặt ra. Vũ đế là người hiếu dũng, ham chiến tranh, đặt ra sưu cao thuế nặng, từ lâu bị trời giận, người oán. Nếu ngoài miệng ông ta có nói là ưa thích đạo chăng nữa, người tiên làm sao có thể tin được ? Huống chi vương mẫu là lãnh tụ các nữ tiên, sao có thể hạ phàm dễ dàng như thế ? Lại còn ở lại trong cung tới ba ngày, hành động đó có khác gì người phàm ? Sự thật hoàn toàn không phải như vậy. Vì Vũ đế biết được Đông Phương Sóc đã nhiều lần mời thần tiên xuống chơi, ông ta mới năn nỉ Đông Phương Sóc, năm lần bảy lượt nhờ ông này mời cho được Dao Trì thánh mẫu. Đông Phương Sóc biết rõ chuyện này rất khó giải quyết, nhưng nhà vua cứ liên tục thúc giục, nếu từ chối thắng, ắt có trở ngại trong quan hệ vua tôi.
                        Nếu cứ thực tình bẩm báo với vương mẫu, thì chẳng những là vô ích, mà còn khiến vương mẫu nổi giận, khiển trách. Không biết làm sao, Đông Phương Sóc mới nghĩ ra một biện pháp, đặc biệt thỉnh cầu các vị đồng đạo, đóng giả làm vương mẫu cùng các thị nữ, bắt chước cả xe loan, nghi trượng của tiên gia, cùng cưỡi mây tới đứng ở trên không, giảng cho Vũ đế nghe về đạo pháp, ba ngày liền. Tuy hoàn toàn là giả mạo, nhưng cũng ráng ban xuống lời vàng tiếng ngọc, nếu quả thật Vũ đế chịu nghe theo một, hai điều, cũng có hy vọng được trời ngó lại, ban cho nhiều hồng phúc, làm nên được một bậc hiền vương. Nào ngờ nhà vua chỉ tỏ ra mộ đạo ở bề ngoài, nói ra toàn một giọng khách sáo, không có chút thành ý nào. Người nói cứ thao thao bất tuyệt, người nghe cứ mơ mơ, màng màng, muốn ngủ. Trước tình hình đó, khoan nói vị Tây vương mẫu chân chính biết được, ắt sẽ chán ghét, ngay cả người đóng giả vương mẫu cũng cảm thấy ông vua này đã quá mê muội, không còn thuốc chữa. Bà tiên này miễn cưỡng ở lại trong cung ba ngày, hoàn toàn không vừa ý, đành bỏ đi. Trong khi đó, Vũ đế lại có những suy tính riêng của ông ta. Ông này là người thông minh tuyệt đỉnh, đối với những lý luận bình thường, có thể nói ông ta không cần hỏi cũng biết, không cần giảng cũng hiểu. Lần này nghe vương mẫu lâm phàm, trong lòng ông chỉ mong mỏi được những nghị luận tân kỳ, có thể tăng trưởng kiến thức, khai sáng tâm can. Thật tình, những lời giảng dạy hoàn toàn không đáp ứng được nguyện vọng của ông ta. Nhưng thật tình, nguyện vọng của ông chỉ đơn giản là xin được linh đan, tiên dược, để có thể sống mãi không già, hưởng phúc của một ông vua, kéo dài ức vạn năm, có vậy mà thôi.
                        Sau ba ngày nghị luận, Vũ đế toàn nghe những lời kinh điển chán ngấy, chẳng có chút nào là đặc sắc, mới mẻ. Mà bà vương mẫu giả cũng không hiểu thời vụ, thấy ông ta không có chút hứng thú nào, còn giảng làm chi những lẽ chí đạo ? Kết quả là Hán Vũ đế đã hoàn toàn thất vọng. ông này là một trong số hiếm hoi các vị anh quân của lịch sử Trung Quốc, đã dễ dàng đoán ra mưu mô giảo quyệt của Đông Phương Sóc, đại khái là tên này mời vương mẫu không nổi, lại sợ trẫm giận, đã kiếm một vị tiên nào đó đóng giả. Nghĩ vậy, nhà vua liền nổi giận, lập tức kêu hoàng môn quan đi gọi Đông Phương Sóc vào cung. Đông Phương Sóc lúc đó đang ở nhà luyện chế một thứ thuốc viên, đột nhiên nghe tuyên triệu, biết ngay có chuyện bất thường, có thể là một tai họa ngoài ý nghĩ. Ông ta mới bấm đốt ngón tay, biết rõ sự tình, liền vò đầu bứt tóc. Nhưng mệnh vua rất khẩn trương, không thể diên trì, đành đi theo viên quan tiến vào hoàng cung. Trên đường đi, chợt nghĩ ra một ý. Vào tới trong cung, thấy Vũ đế không lộ vẻ gì là tức giận, vẫn giữ vẻ bình thán, cười hỏi:
                        - Khanh đã mời được vương mẫu về đây, liên tiếp ba ngày truyền thụ cho trẫm về kinh điển và yếu quyết dưỡng sinh, trẫm đều lãnh hội được. Nhưng trẫm nghe nói vườn đào của vương mẫu hiện nay đang nở rộ. Đào đó năm ngàn năm mới một lần ra hoa, lại năm ngàn năm mới một lần kết trái. Mỗi lần đào ra trái, vương mẫu đều giữ lại nhiều trái, để ban thưởng cho các vị tiên. Có trái để nguyên trên cây, một vạn năm không hái xuống, vẫn không hư hoại. Thứ đào tiên đó, người phàm ăn vào một trái, chẳng những bách bệnh tiêu trừ, mà còn tăng thêm tuổi thọ. Lần đầu mới gặp vương mẫu, trẫm không tiện hỏi xin, khanh có thể thay mặt trẫm, xin bà ban cho vài trái, được không ?
                        Đông Phương Sóc không liệu nổi Vũ để có thể đưa ra yêu cầu oái oăm như thế. Rõ ràng nhà vua đưa ra vấn đề khó khăn này, là để thăm dò việc vương mẫu thực, giả thế nào. Nếu mình không chấp nhận lời yêu cầu, hoặc cầu xin đào không được, sẽ lòi ra chân tướng vương mẫu giả mạo, bản thân mình không tránh khỏi tội khi quân. Vì thế, Đông Phương Sóc đành tạm thời nhận lời, tâu rằng :
                        - Vương mẫu hạ phàm ba ngày, hôm nay ắt trở về phương Tây(1) đương nhiên thần cũng tùy giá về cung Dao Trì, nhân đó sẽ hỏi xin vài trái, đem về hiến dâng bệ hạ.
                        ----------------------------
                        (1) Không phải phương Tây của nhà Phật, nhưng cung Dao Trì của vương mẫu nằm về hướng Tây trên thiên đình, nên bà này vẫn thường được gọi là Tây vương mẫu.

                        Vũ đế thấy Đông Phương Sóc mau mắn nhận lời, hoài nghi trong lòng, không hiểu chuyện này thật giả thế nào. Vì tham mấy trái đào tiên, ông ta giả tảng khen ngợi, cho Đông Phương Sóc đứng dậy.
                        Tối hôm đó, Đông Phương Sóc triều kiến vương mẫu, quả nhiên được theo hầu pháp giá, lên không trung bay đi, tới một tòa núi tiên ở ngoài biển. Trên núi có không ít vị tán tiên đồng đạo, trong đó có cả người đóng giả vương mẫu trước đây. Mọi người lập tức bàn bạc, coi nên làm cách nào để cầu xin đào tiên. Có người nói :
                        - Một người đã làm đế vương trên nhân gian, thì thể diện không phải nhỏ. Nếu cầu xin vài trái đào trước mặt vương mẫu, thì cũng không phải chuyện to tát gì. Vậy cứ lấy tình thực cầu xin vương mẫu là xong.
                        Người khác nói :
                        - Hán hoàng là người tàn bạo, không thua gì Doanh Chính. Chỉ vì đức trạch của tổ tiên thâm hậu, mới không đến nỗi nước mất, thân vong đấy thôi. Vương mẫu là người có từ tâm, rất không ưa hạng người như thế. Vạn nhất cầu xin một lần không được, không còn cách gì đề đòi hỏi lần thứ hai. Vả lại, Mạn Thiến bày ra việc đóng giả vương mẫu, đó cũng không phải việc làm quang minh chính đại. Nếu vì việc xin đào mà lòi ra vụ án kia, thì ông ta tự chuốc lấy khổ không ít.
                        Các vị tiên nghe vậy, đều lo thay cho Đông Phương Sóc. ông này là người thông minh, hoạt kê, cũng tự biết mình đã vì ưa đùa giỡn mà gây nên chuyện rắc rối, không biết phải làm gì. Cúi đầu suy nghĩ một lát, nảy ra một biện pháp, nhưng không tiện tuyên bố vào lúc này, mới từ biệt các vị tiên, rời khỏi núi tiên, trở về Dao Trì.
                        May mắn làm sao, đúng lúc đó Phật Như Lai bên phương Tây dự bị truyền giáo sang Đông thổ, mới mở một đại hội diễn giảng về Phật môn huyền lý, đạt giấy mời tới khắp các vị thần tiên.Vương mẫu là lãnh tụ quần tiên, đương nhiên là quan tâm tới sự việc này, mới cùng Nguyên Thủy, Lão Quân, và các đế quân, kim tiên, cùng lên đường sang Tây thổ.
                        Cung Dao Trì vốn là nơi yên tĩnh, vườn đào cũng không được canh gác nghiêm ngặt. Chỉ có một vị tôn thần giữ vườn, cùng vài vị tiên đồng, thị nữ, chia nhau ra đóng chốt canh giữ. Vương mẫu vốn tính từ ái, đối với người dưới rất mực khoan dung. Nhân dịp chủ nhân đi xa, bọn trẻ canh giữ vườn tất nhiên vui mừng hớn hở, ai cũng tự tìm cách vui chơi. Còn vị tôn thần giữ vườn, chỉ là một tiên sinh lớn tuổi, nhác việc, hơn nữa, vườn đào của vương mẫu, từ xưa tới nay không hề xảy ra chuyện mất trộm bao giờ. Có khả năng ăn trộm đào phải là những người có bản lãnh cực cao, thần thông quảng đại. Mà hạng người như thế chỉ có thể là chân tiên trên thượng giới, mỗi kỳ đại hội đào đều được đãi tiệc lớn, ăn uống thỏa thích làm gì đến nỗi tham ăn, làm vị thượng khách không muốn, lại muốn làm một kẻ trộm cắp ? Vị tôn thần giữ vườn, trên danh nghĩa là quản lý việc giữ vườn, nhưng thật tình không phải ngày đêm canh giữ, mà mở toang cửa vườn, để mọi người ra vào tự nhiên. Vậy mà, đừng nói tới việc trộm trái đào, ngay cả hoa đào, lá đào cũng không hề suy chuyển. Không dè có vị Mộc tinh, Đông Phương đại tiên, ở dưới phàm trần làm việc sai trái, nên phải lên Dao Trì làm một tên trộm đào.

                        #57
                          bevanng 21.07.2008 10:44:32 (permalink)
                          Hồi Thứ 65

                          Đông Phương Sóc bày kế hái trộm đào.
                          Thần giữ vườn bỗng không mắc vạ.


                          Đông Phương Sóc tới Dao Trì, liền được tin vương mẫu đi xa tới Phật quốc, lòng mừng khấp khởi, nghĩ : "Thật là trời giúp ta thành công đây. Vương mẫu không có đây, chỉ còn một đám tiên lại thủ hạ của bà ở lại nhà, ta bất tất phải tới gặp chúng, tránh khỏi để lại nhiều vết tích của vụ ăn trộm". Tình hình trong vườn ra sao, ông đã biết rõ, liền biến ra một cô gái nhỏ, một tay cầm cây kéo hái hoa, một tay xách cái giỏ, khoan thai tiến vào cửa chính. May mắn làm sao, vị tôn thần giữ vườn, nhân chủ nhân không có nhà, công việc thanh nhàn, coi ngày dài như năm, không có có trò gì tiêu khiển, mới rủ một số tôn thần đồng đạo, kéo nhau tới căn nhà nhỏ bên cạnh cửa vườn, bày trò đánh bạc. Đông Phương Sóc bất giác cười thầm : "Vương mẫu dùng hạng người  này để giữ vườn, hỏng việc mất rồi. Nếu sớm biết thế này, chẳng cần có thánh chỉ của Hán đế, lão Sóc ta đã tới đấy hái trộm vài trái đào ăn chơi". Đang nghĩ như thế, đã nghe trong căn phòng nhỏ có tiếng người cười nói ồn ào, Đông Phương Sóc cười thầm, chầm chậm tiến lại, rón rén bước gần căn nhà nhỏ nhòm xem. Mấy người kia đang mải mê cờ bạc, không để ý tới người bên ngoài.
                          Đông Phương Sóc liền cười, lên tiếng :
                          - Các ông ham vui, chẳng biết trời đất là gì, trong vườn không có ai quản lý, lỡ có tên giặc nào to gan tiến vào, hái trộm đào thì sao ? Ngày mai thánh mẫu trở về, tra ra vụ mất trộm, các ông đố tránh khỏi tội.
                          Mọi người nghe tiếng, quay đầu nhìn lại, thấy một tiểu nha đầu liền thở phào, cười nói :
                          - Con nhỏ nhà ai đây ? Dù cho uống mật gấu, ăn gan cọp, cũng không có kẻ nào to gan dám tới đây ăn trộm đào.
                          Một người khác cười nói :
                          - Chỗ này là cơ quan đầu não của thiên tiên, từ thủa khai thiên lập địa đến giờ, những kẻ trộm cắp ở đâu đó, có một hai tên tới đây nhòm ngó, đều bị phát hiện ra liền.
                          Mọi người nghe vậy, ồn ào tán tụng. Vị tôn thần bất giác vuốt chòm râu, mở miệng nói to tiếng :
                          - Nói vậy là nghĩa làm sao ? Nơi nào chẳng có quân tử, thời nào chẳng có tiểu nhân, Dao Trì rộng lớn như thế, sao chẳng có một vài tên tiểu nhân vô phép vô tắc ? Huống chi chỗ này là nơi bà lãnh tụ quần tiên trú ngụ, thì các vị thần tiên ở bốn biển, chín châu, ngũ nhạc bát hoang, cho tới các yêu tinh, quỉ quái ở dưới biển, trên đất liền, cách vài ngàn năm lại tới triều yết một lần. Trong số đó, lẽ nào lại chẳng có một vài tên bất tiếu trà trộn vào ? Chẳng qua là bọn tiểu nhân khắp nơi, nghe oai danh vạn năm của tiểu thần, liền bở vía, chẳng dám đặt chân tới một hòn đất trong vườn này, nói chi tới chuyện hái trộm đào ?
                          Nói rồi, lại cất cao tiếng, nói với mọi người :
                          - Này các vị, chẳng phải tiểu thần ta dám khoe khoang, phách lối, chứ từ khi tiểu thần tiếp nhận chức vụ này, khu vườn của vương mẫu rộng lớn là thế, mà chớ hề nghe có tiếng gió thổi, cỏ động, chó sủa, gà gáy. Vì thế thánh mẫu mới khen thưởng ta, giao cho ta toàn quyền cai quản chỗ này, chẳng cần cử thêm người trông coi khu vườn.
                          Mọi người nhau nhau xưng tụng vị tôn thần, rồi chẳng để mất thời giờ, lại lao vào cuộc đổ bác, thật hào hứng. Đông Phương Sóc nghĩ thầm : "Theo tình hình này, vị tôn thần giữ vườn rõ ràng chỉ là mượn việc canh giữ vườn để tụ tập bài bạc mà thôi. Như vậy, làm gì có ai nghĩ chuyện tiến vào vườn này, kiểm tra một lần ? Vị thánh mẫu nhân từ, khoan hòa của chúng ta, không phải là phái người vào giữ vườn, mà là sai người tới canh gác sòng bài đấy thôi". Nghĩ tới đó, Đông Phương Sóc không nén được tiếng cười. Nhưng nghĩ tới việc khấn yếu chính thức hiện giờ của mình, không màng để ý tới mấy ông thần kia nửa, cười lên một tiếng, bỏ đi.
                          Trên đường đi, có khi phải chui qua đám hoa, gạt cành liễu sang một bên để lấy lối đi, Đông Phương Sóc cũng từng chạm trán với mấy cô nữ tiên để tóc xõa, hoặc cài hoa lên tóc, hoặc cầm một lá non trong tay, hoặc xách giỏ hoa, tất cả đều rong chơi, cười hỉ hả, kết thành từng nhóm năm, ba người, đi chơi khắp nơi, như đàn bướm lượn trên khóm hoa. Đông Phương Sóc có tính ưa chọc phá, nhìn cảnh đó liền quên bén việc chính yếu của mình, để nghĩ cách chọc ghẹo mấy cô nương này một phen. Đang lúc ngần ngừ, chợt thấy một cô gái áo hồng, tay cầm cái kéo hái hoa, cùng một cô gái áo xanh, tụ nhau dưới bóng mát của cây liễu, đang rủ rỉ nói với nhau một câu chuyện gì, vô cùng hứng thú. Đông Phương Sóc đưa mắt nhìn quanh, thấy vắng người, liền liều gan tiến lại, nở nụ cười nói với hai cô :
                          - Hai vị tỉ tỉ ở đây làm gì ? Sao không ra ngoài kia rong chơi như những người khác ?
                          Cô gái áo hồng nghe tiếng, liền đưa mắt nhìn cô bé Đông Phương Sóc, từ đầu tới chân, để đánh giá, và cất tiếng hỏi :
                          - Em là ai ? Chị ở trong vườn này đã lâu, sao chưa hề thấy mặt em lần nào ?
                          Cô áo xanh gật đầu, nói :
                          - Không sai chút nào. Trong vườn nhất định không có con bé này. Không biết nó từ đâu tới ? Tính đi chỗ nào ? Ở trong vườn để làm gì ?
                          Đông Phương Sóc tươi cười, nói :
                          - Hai vị tỉ tỉ không nhận ra em ư ? Em là con gái nhỏ của vị thần giữ vườn. Trước nay, em chưa từng vào vườn, nên các vị tỉ tỉ ở trong vườn cũng đông, mà em không nhận ra một chị nào.
                          Cô gái áo hồng nghe vậy, liền nói :
                          - Chà. Thì ra là con gái nhỏ của vị thần giữ vườn. Nhìn ông ta đã già khằn, ước chừng có tới năm, sáu trăm tuổi, mà còn sinh ra một vị tiểu muội muội, nhỏ xíu thế này ?
                          Nói rồi, nhìn cô kia, cả hai cùng cười phá ra. Đông Phương Sóc cười thầm trong bụng, nghĩ : "Các vị cô nương này chẳng hiểu việc đời là gì”. Nghe câu nói của hai cô, ông đã nghĩ ra một ý. Nhưng chưa kịp trả lời, đã nghe cô áo hồng hỏi :
                          - Trước nay, em chưa từng vào vườn, hôm nay định đi đâu ?
                          Đông Phương Sóc đáp :
                          - Trước nay, trong nhà em không có người làm công, em phải coi sóc đám tiểu huynh đệ, tiểu muội muội, nên không rảnh rỗi mà vào đây du ngoạn.
                          Hai cô gái nghe vậy càng ngạc nhiên, vội hỏi :
                          - Sao ? Em còn có tiểu huynh đệ, tiểu muội nữa ư ?
                          Đông Phương Sóc cười, đáp :
                          - Sao lại không ? Còn có tới mấy đứa lận. Cha em, ngoài chuyện này ra, còn lắm việc lôi thôi. ông ấy ham bài bạc, đánh từ sáng tới tối, mà vẫn đẻ ra một đàn con. Trên em, còn có hai mươi bảy, hai mươi tám vị huynh trường, tỉ tỉ, dưới em còn lóc chóc bốn, năm đứa. Câu nói đó khiến hai cô gái cười bò lăn. Đông Phương Sóc lại nói tiếp :
                          - Thật ra hôm nay, người lớn không tính sai em tới đây, chỉ vì các vị ca ca, tỉ tỉ của em, đã nhiều lần vào trong vườn này, người trong vườn quen mặt, nên không thể sai các anh chị ấy đi nữa.
                          Hai cô gái nghe vậy, kinh ngạc quá chừng, vội hỏi :
                          - Nói vậy là ý làm sao . Tại sao quen mặt lại không thể vào vườn ? Em lạ hoắc, lạ huơ, sao có thể tùy tiện vào đây ?
                          Đông Phương Sóc nghe hỏi, đưa mắt nhìn quanh, không thấy có người lạ, mới hạ giọng, nói :
                          - Em nói thực với hai vị tỉ tỉ chuyện này, hai chị không được nói lại với người khác. Nếu nói ra, sẽ lòi ra chuyện cha em phạm tội, ông ấy sẽ đánh em chết.
                          Hai cô gái nghe vậy, càng thấy là chuyện ly kỳ, mới được nghe lần đầu, vội nói :
                          - Chỗ này không có người lạ, em mau nói ra. Các chị quyết không tiết lộ, làm hỏng việc của em, em cứ mạnh dạn nói ra.
                          Đông Phương Sóc mới hạ giọng thật thấp, nói cho hai cô kia biết:
                          - Cha em vì tuổi già sức yếu, mỗi năm phải ăn một trái đào tiên, mới hết bệnh tật, đau đớn. Từ khi ông quản lý vườn đào, vào đúng thời điểm này, ắt sai các vị ca ca, tỉ tỉ của em tới đây, rình lúc không ai thấy, hái trộm một, hai trái mang về cho cha xơi. Quả nhiên, thân thể cường tráng, tinh thần sáng suốt như hồi trai trẻ. Năm nay, vốn tính sai người anh thứ hai mươi tám của em tới đây. Chẳng dè thánh mẫu đi chơi Phật quốc xa xôi, vị tổng thần cai quản núi này thường đi tuần tra ở ngoài khu vườn, gia gia sợ mắc vạ, đặc biệt sai em đi hái trộm. Thứ nhất vì em là khuôn mặt mới không ai nhận ra em, sau này thấy mất một trái đào, người ta cũng không tra cứu tới gia đình em. Thứ hai là em quá nhỏ tuổi nếu có bị người khác nhìn thấy, bất quá chỉ nói em dại dột, thèm ăn, chẳng đến nỗi là tội nặng. Sở dĩ sai em tới đây cũng vì ý nghĩ đó. Trong vườn cha em có nhiều thủ hạ, sợ em không thể ra tay, ông mới đặc biệt rủ rê nhiều người tới căn phòng nhỏ gần cửa vườn, để gầy sòng, vui chơi. Vì không ai chú ý, em mới dễ dàng lọt được vào trong này.
                          Câu nói đó khiến hai cô gái lại nhìn nhau chăm chú, không nói một tiếng. Đông Phương Sóc nhoẻn miệng cười, quay mình đi, len lỏi trong rừng cây, phút chốc biến mất.
                          Hai cô gái vô cùng hồi hộp, cùng bàn bạc :
                          - Hèn chi ông thần mắc dịch gần đây nổi máu ham bài bạc. Nguyên do là trong nhà ông ta có vấn đề, chẳng hóa ra người trông coi lại biến thành kẻ trộm hay sao ?
                          Cô áo hồng cười nhạt, nói :
                          - Lão già đó thật tình chẳng tốt lành gì. Bình thời, lão ỷ mình tuổi tác chẳng coi chúng ta ra cái quái gì. Năm ngoái, em sơ ý để bay chiếc khăn lụa vào trong đình tứ, tính vào đó để nhặt lại, không dè vừa tới cửa, gặp ngay lão ta ngăn cản, nói trời sập tối, đã tới lúc đóng cửa, bất luận là ai, cũng không được vào trong đó. Em tức khí, bỏ luôn chiếc khăn, không thèm năn nỉ xin lại nữa. Ai ngờ kẻ mặt sắt vô tư, chấp pháp vững như núi, lại là người dám làm những việc bất pháp như thế. Quả thật lão to gan, mỗi năm mỗi làm một lần như vậy, đã thành lệ mất rồi. Vậy mà thánh mẫu hàng năm còn ban thưởng cho lão nữa chứ. Lão là cái thứ gì, chẳng qua chỉ là một viên tiểu lại, có nhiệm vụ trông coi vườn, mà lên mặt hống hách, tác oai tác phúc ?
                          Cô áo xanh cười nhạt, nói :
                          - Tỉ tỉ đừng nhắc tới chuyện cũ, bỏ đi cho rồi. Nhắc tới chuyện trước, chị em mình ai mà chẳng bị lão hiếp đáp ? Người nào cũng nể lão tuổi cao, có tư cách, lại dưới uy quyền của lão, đương nhiên là phải kính lễ. Đó là chuyện nhỏ, bỏ đi cho rồi. Nhưng việc hôm nay có thể kể là vụ án lớn đó. Hiện nay số đào cũ, mới trong vườn đều có ghi vào sổ sách. Cứ mỗi ngàn năm, thánh mẫu lại phái người tới kiểm tra một lần. Hiện tại, số đào thiếu hụt không đáng bao nhiêu, nhưng kiểm tra lần sau, số đó không nhỏ. Ông ta là người giữ vườn, ai dám đổ ngờ cho ông ấy ? Tất nhiên là mọi điều nghi ngờ đều nhắm vào chị em ta, điều tra, thẩm vấn lôi thôi lắm. Nay đã biết rõ, chúng ta dại gì mà gánh tội thay cho lão ?
                          Hai người đang bàn tán xôn xao, lại có một đám nữ lang, nắm tay, bá vai, từ xa đi tới. Hai người quên lời hứa giữ bí mật cho Đông phương Sóc, lại nhân lúc tức giận, đem chuyện kể ra hết.Không bao lâu, câu chuyện đồn ầm lên, tất cả các cô thể nữ đều hay biết. Lâu nay, các cô bị ông thần giữ vườn áp chế, ôm mối hận trong lòng, mà không có cách gì báo thù, gặp được cơ hội này, thổ lộ hết tâm can. Lại sợ sau này kiểm tra ra, mình không tránh khỏi gánh tội thay người, các cô lo sợ lắm, mới họp đại hội ngay trên bãi cỏ. Trong số các chị em, có hai cô lớn tuổi nhất, lại có tài ăn nói, một người là Tố Nga, một người là Hàn Anh, được mọi người đề cử thay mặt chị em, mau tới tố cáo với vị tổng thần cai quản núi, để sau này kiểm tra ra số đào thiếu hụt, chị em khỏi bị liên lụy.
                          Vị tổng thần này vốn là một ông thần tinh minh, can cường, chính trực, bất khuất, khác hẳn ông thần giữ vườn ham đánh bạc. Nghe báo cáo, ông liền quyết định dẫn binh sĩ vào vườn bắt bạc. Mấy tay cờ bạc đang đánh, thấy ông tổng thần tiến vào, vội vội vàng vàng, đem giấu tang chứng đi, nhưng sớm bị các binh sĩ phát hiện, giữ được cả. Mấy tay cờ bạc tiu nghỉu, không dám nói một câu. Vị thần tổng quản mới nói với vị thần giữ vườn :
                          - Tôn thần ở đây, nhân lúc nhàn rỗi, bày trò chơi nho nhỏ, cũng được đi. Nhưng không biết gần đây ông có thường đi tuần tra, xem xét trong vườn hay không ? Có bắt gặp kẻ tiểu nhân nào trà trộn vào trong đó để ăn trộm đào chăng ? Việc này vô cùng hệ trọng, liên quan tới chức vụ canh giữ vườn của tôn thần đó !
                          Vị thần giữ vườn nghe nói, liền can đảm trở lại, vội đáp :
                          - Làm sao tiểu thần dám lơ là với công việc ? Chẳng giấu gì ngài tổng quản, từ khi tiểu thần nhận chức đến nay, ngày đêm chăm lo công việc, không dám trễ biếng lúc nào. Vì thế, nhờ hồng phúc của tổng quản đại nhân, hai trăm năm nay, chưa hề xảy ra một vụ trộm đào nào.
                          Tổng quản thần mỉm cười, nói :
                          - Vậy thì vất vả cho tôn thần quá !
                          Nói rồi, lập tức đứng dậy, nói :
                          - Có một việc nhỏ, tôi phải ra vườn xem thử. Tôn thần cứ tự nhiên, bất tất phải đi theo.
                          Vị thần giữ vườn nghe vậy, liền tái mặt.

                          #58
                            bevanng 21.07.2008 11:40:57 (permalink)
                            Hồi Thứ 66

                            Thánh máu trở về, giải án oan.
                            Quỷ lại vì tình riêng, cho mượn trinh hồn.


                            Vị tổng thần giữ núi ở Dao Trì được các tiên nữ báo cáo : "ông thần giữ vườn đã có nhiều hành vi trái phép, lại để người ta hái trộm đào, án tình rất nặng". Tổng quản liền dẫn dắt thần binh tới vườn đào xem xét, đầu tiên phát giác ra vụ thần giữ vườn tụ tập bạn bè để đánh bạc, biết được lời tố cáo ông kia làm chuyện bất pháp là có thật, nhưng không tiện phát tác. Lại dẫn binh sĩ vào trong vườn, kiểm tra số đào mới và cũ, đối chiếu với số đào ghi trong sổ sách từ nhiều năm, đếm lại số đào hiện có trên cây, quả nhiên phát hiện ra thiếu mất hơn mười trái. Vì thế, ông phát lệnh tạm giữ vị thần coi vườn, đợi vương mẫu trở về phát lạc.
                            Ngàn xưa truyền lại, chỉ nói tới một vụ ăn trộm đào duy nhất, là do Đông Phương Sóc gây ra. Ngoài ra, không có một vụ thứ hai, thứ ba. Dao Trì là nơi thánh địa, có nhiều thiên thần bảo vệ, mà vương mẫu làm đầu các vị tiên, đồ đạc trong vườn của bà, kẻ nào to gan, dám tới ăn trộm chứ ? Đông Phương Sóc hái trộm đào, cũng là nhờ may mắn gặp đúng lúc vương mẫu Tây du, vị thần giữ vườn lại sơ suất, mới mắc phải tay ông ta.
                            Thánh mẫu trở về Dao Trì, xét đoán sáng suốt, một chi tiết nhỏ cũng không lọt khỏi sự phán đoán của bà. Chân tướng của vụ án hiển lộ rõ ràng, vương mẫu mới cho gọi vị thần giữ vườn tới, nói cho ông này biết chính Đông Phương Sóc đã hái trộm đào, lại vu hãm cho thần giữ vườn. Nhưng Đông Phương Sóc vốn tính nghịch ngợm, không có lòng làm việc ác. Vả lại, ông ta giúp cho Hán triều yên trị, có công với dân, nên cũng có thể khoan thứ. Nhưng sợ người khác bắt chước, làm chuyện vô pháp, cũng phải trừng phạt nhẹ, bắt phải chịu nhiều điều kinh sợ ở phàm trần. Còn ông thần giữ vườn, tuy không mắc tội ăn trộm đào, nhưng cũng mắc lỗi sao lãng chức vụ, phạt tội ba năm quét dọn vườn đào. Sau đó, nếu không mắc lỗi lầm nào khác, sẽ đổi sang làm một chức vụ mới. Việc phát lạc rõ ràng, mọi người đều xưng tụng thánh đức. Vị thần giữ vườn tuy bị biếm, cũng cảm kích vương mẫu đã giải oan cho mình. Riêng Đông Phương Sóc ăn trộm được đào, trở về hiến dâng cho Vũ đế. Vũ đế rất hài lòng, càng kính trọng ông ta.
                            Thấm thoát lại qua vài năm, Vũ đế vì chuyện vương mẫu giảng đạo pháp vu vơ, không tin chuyện tu tiên nữa. Nhân nghe quần thần nói là có một phương sĩ Lý Thiếu Quân có thể đi lại giữa cõi sống và cõi chết, lại biết phép trường sinh bất lão, nhà vua mới sai một vị trọng thần đi mời. Thiếu Quân là môn hạ đệ tử của giáo chủ Ma giáo, vừa gặp Vũ đế, liền đại ngôn rằng tu tiên chẳng khó khăn, lên trời dễ như trở bàn tay. Vũ đế đang bực về chuyện vương mẫu giả, nghe lời Thiếu Quân liền thấy hợp ý mình, nên rất sủng ái, phong cho Thiếu Quân tước vị còn cao hơn Đông Phương Sóc nữa.
                            Bấy giờ, Vũ đế có bà sủng phi Lý phu nhân vừa chết, đau đớn, buồn thương, không sao quên được. Thiếu Quân dò xét, biết được ý của Vũ đế, khoe rằng mình có thể khiến hồn người chết trở về, gặp mặt chúa thượng. Vũ đế mới sai dọn một tĩnh thất sạch sẽ trong cung, để Thiếu Quân thí nghiệm một phen.
                            Thiếu Quân ra khỏi cung, đi tìm một người bạn, tên là Vương Nhất Chi bàn bạc với ông này, mượn hồn của một nữ quỉ, dưới quyền sai khiến của Nhất Chi, bảo nên làm... như thế, như thế, vào cung giả làm hồn của bà phi, cùng hoàng thượng gặp mặt một lần. Bấy giờ, Nhất Chi tuổi đã cao, thần trí hồ đồ, cả ngày chỉ cùng một đám bạn bè uống rượu làm vui. Mỗi khi say xỉn, ông ta không còn lý gì tới công việc. Đệ tử của ông ta là Phí Trường Phòng, vì tình cảm thầy trò sâu đậm, thấy ông ta buông thả như thế, thường lấy lời khẩn thiết khuyên can. Nhưng Nhất Chi tự biết mình tu tiên không thành, nay đã quá già yếu, sống chẳng còn bao lâu, được ngày nào cứ vui ngày ấy. Trường Phòng khuyên nhiều lần, thấy ông ta không nghe, đành bỏ qua.
                            Lúc Lý Thiếu Quân hỏi mượn quỉ hồn để sử dụng, Vương Nhất Chi nhướng cặp mắt lờ đờ vì hơi rượu, nói :
                            - Việc đó rất dễ, ông cứ đem mười vò rượu ngon tới tạ tôi, tôi sẽ lựa ra cho ông một số quỉ hồn xinh đẹp nhất, muốn gầy hay béo, cao hay thấp, tùy ông chọn lấy một người, dẫn về mà sử dụng.
                            Lý Thiếu Quân cười, nói:
                            - Ông đúng là càng già càng nát rượu. Cứ cái đà này thì lá gan của ông bị tiêu tùng vì rượu mất thôi. Vạn nhất mà vì say khướt để hỏng việc, ngày mai toàn thể đám quỉ hồn xúm vào đả kích, ông chạy chỗ nào cho thoát thân ?
                            Vương Nhất Chi mắng :
                            - Nói nhảm. Tôi là đầu não của ngàn vạn quỉ hồn trong thiên hạ, con quỉ ác nào mà to gan, dám gây sự với tôi ?
                            Thiếu Quân vội nói :
                            - Nói chơi thôi, việc gì mà phải tức giận ? ông đòi mười vò rượu tốt, việc đó quá dễ dàng. Tôi sẽ lập tức sai đem lại đây cho ông, còn tặng thêm một bàn tiệc thịnh soạn, để ông nhắm với rượu, được chưa ?
                            Câu nói đó khiến Vương Nhất Chi mừng rỡ, chắp tay cảm tạ. Rồi lấy ra một danh sách ghi tên các nữ quỉ mới tới, nói ngay:
                            - Tối nay, ông cho đem rượu thịt tới, chúng ta uống với nhau một bữa thật sảng khoái, đến say khướt, rồi tôi sẽ chiêu tập quỉ hồn, cho ông được lựa chọn lấy một tên. Tôi lại dạy cho ông bí quyết điều khiển, để ông dẫn nó vào trong cung. Có thích giữ nó lại vài giờ, cứ việc giữ lại vài giờ, không thích giữ lại, lập tức đưa trả về đây cho tôi. Lão đệ, tôi vì ông lo liệu việc này, mười vò rượu và một mâm thức ăn, cũng chẳng tổn phí cho ông bao nhiêu, phải không ?
                            Lý Thiếu Quân vui mừng, từ biệt Vương Nhất Chi. Về đến nhà, lập tức sai đưa mười vò rượu đi trước, sau đó lại vào một tửu quán nổi tiếng, đặt một bàn tiệc thịnh soạn, nhờ đem tới cho Vương Nhất Chi. Sẩm tối, đích thân tới nhà Nhất Chi. Hai ông bạn cũ cùng đối ẩm, vô cùng hứng thú. Uống tới giờ tí, hai người đều chếnh choáng. Thiếu Quân vẫn không quên công việc, buông chén đứng dậy, yêu cầu Nhất Chi cho gọi một đám nữ quỉ tới. Vương Nhất Chi thừa hứng rượu, dẫn Thiếu Quân vào một gian mật thất, âm khí thảm thảm. Nhất Chi chúm miệng thổi khẽ, tức thì một khối khí đen từ dưới chân bốc lên. Thiếu Quân bất giác dựng ngược lông tóc. Định thần nhìn kỹ, nhận ra đó là một nam quỉ, tóc tai bù xù, hở ngực, đi chân đất, hướng về phía Nhất Chi, chắp tay vái, hỏi :
                            - Pháp sư có ý chỉ gì ?
                            Vương Nhất Chi dặn dò :
                            - Hãy gom đám nữ quỉ mới tới, vời tất cả tới đây, ra mắt ta.
                            Con quỉ "Dạ" to một tiếng, nổi trận gió đen, biến mất. Vương Nhất Chi nói :
                            - Vừa rồi là con quỉ sai, nghe lệnh tôi điều khiển.
                            Nói rồi, trổ phép thuật, căn phòng chợt sáng lên. Lát sau, vẫn chưa thấy động tĩnh gì, Thiếu Quân đứng một bên cất tiếng hỏi :
                            - Bao giờ quỉ hồn mới tới .
                            Vương Nhất Chi lại vẽ bùa, cầm cây kích chỉ trỏ, chợt hiện ra nét giận dữ trên mặt, hét lên :
                            - Làm ăn kiểu gì mà chẳng có phép tắc chi cả ? Đã lâu rồi, sao chưa vời gọi về đây ?
                            Nói chưa dứt lời, đã thấy trong phòng hiện ra những cơn gió lốc hướng về phía mặt đất mà cuộn tròn. Tức thì, nhiều nữ quỉ lên tiếng ồn ào, đứng ngay trước mặt, tất cả đều hướng về phía Vương Nhất Chi mà hành lễ. Thiếu Quân nhìn kỹ, thấy có người xõa tóc lòa xòa, bảy khiếu ra máu, có người quần áo tề chỉnh, mày thanh mắt sáng, môi đỏ răng trắng, không khác chi người sống, có cô mập như heo, ngu như bò, có cô cao hơn trượng, có cô lùn chưa đầy ba thước. Thiếu Quân đã từng nghe người trong cung mô tả hình dung bà phi quá cố, biết đó là người hơi gầy, thông minh lanh lợi, yểu điệu quyến rũ, liền chiếu theo những điều mình đã biết, lựa chọn hồi lâu tìm ra được một người, tuổi ngoài hai mươi, diện mạo rất giống với người đã được nghe mô tả, mới lại gần con quỉ đó, nhìn kỹ một phen, thấy cô ta má đào, mắt hạnh, môi đỏ, lưng eo, quả thật là một tuyệt thế giai nhân. Thiếu Quân vui mừng, nói:
                            - Vương huynh, xin phiền vị nương tử này đi theo tôi một chuyến.
                            Vương Nhất Chi gật đầu, nói :
                            - Được thôi, được thôi. Ông cứ dẫn cô ta đi.
                            Nói chưa dứt lời, đã thấy con quỉ kia nghiêm sắc mặt, hỏi :
                            - Xin hỏi pháp sư, ngài bắt tôi theo vị quan trưởng này đi đâu. Nên biết kiếp trước tôi là người không chịu khinh suất, cẩu thả, nên mới tìm con đường chết. Nay đã ra người dưới suối vàng, vẫn giữ vững chí khí, không thể ép buộc tôi phải đi theo một người đàn ông lạ hoắc. Chẳng thà sống cô đơn lạnh lẽo, còn hơn làm bạn với người trần gian. Xin pháp sư chuyển lời tới ông bạn của ngài, hãy chọn lựa người khác mà dẫn đi.
                             Vương Nhất Chi vốn là người nóng nảy, lại có hơi rượu thúc đẩy, thấy một nữ quỉ dám quật cường như thế, lại sợ mất mặt với Thiếu Quân, liền quát mắng:
                            - Quỉ hồn như người mà dám chống lệnh chỉ huy hả ? Nói thật cho ngươi biết, vị trưởng quan này là người rất có thế lực trước đương kim hoàng đế. Ông ấy dẫn người vào cung gặp hoàng thượng, là có điều tốt đẹp cho người đấy. Việc đó, người khác cầu còn không được, người lại ngang nhiên từ chối, há chẳng phải ngươi làm mất mặt người đề cử hay sao ?
                            Nói rồi, không để nữ quỉ lên tiếng, lập tức bảo Thiếu Quân bắt quyết, lôi cô ta đi. Chỉ thấy một luồng gió thơm, cuồn cuộn chui vào tay áo Thiếu Quân. Vương Nhất Chi nói :
                            - Con quỉ này đã ớ sát bên ông, ông muốn thế nào, nó chiều theo thế ấy. Nhưng ông không được lợi dụng pháp lực, thông gian cùng nó. Tội danh đó rất lớn, chẳng những bản thân ông, ngay cả tôi cũng bị đập nát xương cốt.
                            Nói rồi, vẫy tay một cái, tất cả quỉ hồn biến thành những cơn gió lốc, tản đi tất cả. Hai người ra khỏi gian mật thất, lại lao vào tiệc rượu. Rượu tan, Thiếu Quân cười, hỏi :
                            - Vừa rồi, tôi không hề nghĩ tới bà phi của hoàng gia, không biết có cách nào mời bà ta về đây, được không ?
                            Vương Nhất Chi lắc đầu, nói :
                            - Việc đó rất khó. ông nên biết, một người đàn bà đã làm nên hoàng gia hậu phi, đương nhiên không phải cô gái tầm thường. Hoặc là một vì tinh tú hạ phàm, hoặc là thần tiên bị biếm chích, những hạng người đó sau khi chết, hoặc là trở về ngôi vị cũ, hoặc là lúc sống mắc tội, thì tội lỗi gia tăng, bị đày xuống địa ngục, không được siêu thăng. Nếu lúc sống lại có công, đã được trở về ngôi vị cũ, còn tăng thêm phẩm trật. Tất cả những hạng người đó, đều không thuộc quyền quản lý của tôi, nên tôi không mời về đây được. Nếu không phải vậy, tôi đã vì ông mà mời hậu phi nương nương, đem linh hồn của bà tới gặp hoàng đế, chẳng tốt hay sao ? Việc gì phải phí công tổn sức, làm việc ghép hoa, nối cành ?
                            Thiếu Quân lại hỏi :
                            - Nữ quỉ này tại sao quật cường như thế ? Ông là tổng quản của bọn chúng, mà xem chừng nó không sợ ông chút nào, là nghĩa lý gì ?
                            Vương Nhất Chi nói :
                            - Ông không nên xem thường con ma này. Cô ta là con gái của một nhà có học thức, họ Vương, tên Anh Anh. Cha mẹ cô đã hứa hẹn cuộc hôn nhân giữa cô và một người họ Lưu, từ khi hai trẻ còn nằm trong bụng mẹ. Lúc đó, hai nhà còn đang thịnh thời, kể như là môn đăng hộ đối. Nào ngờ cậu bé nhà họ Lưu là khắc tinh của gia đình, từ khi cậu ra đời, những chuyện người chết, thủy tai, mất của... liên tục xảy ra, đến nỗi cả một gia đình suy tàn, chẳng còn lại gì. Đến khi cậu lớn lên, cũng được đọc sách, đầy bụng kinh luân, nhưng nhà tan người mất, chỉ còn một thân trơ trọi, may nhờ một lão gia nhân nuôi dưỡng, lại bỏ tiền ra giúp đỡ, tìm cách đưa cậu tới nhà nhạc gia, mong được chiếu cố. Nào ngờ cha Anh Anh chẳng phải người tốt, nghe nhà họ Lưu lâm vào tình huống đó , sớm có ý đem con gái gả cho người khác. Anh Anh là cô gái xinh đẹp có tiếng, lại có tài ăn học, các thiếu niên tử đệ con quan, nhiều người tính chuyện hỏi cô làm vợ. Cha Anh Anh lần thứ hai chọn rể, chỉ dựa vào thế lực lớn nhỏ làm tiêu chuẩn, nói : "Nhà phá gia, chỉ cần có thế lực, lại phục hồi như cũ. Nếu không có thế lực, dù trước mắt đang dư giả, gặp phải một lần tai họa bất ngờ, cũng thành suy sụp". Vì thế, ý ông ta mặn với một vị công tử con quan tể tướng, để nhờ cậy thanh thế nhà kia, chẳng những chuyện tương lai chẳng cần lo lắng, mà bản thân ông cũng có thể trở thành một chức quan nho nhỏ. Đem ý nghĩ đó bàn với con gái, Anh Anh tiểu thư nhất quyết không chịu, nói : “Một gái gã cho hai chồng, khác chi loài cầm thú, bị thiên hạ chê cười, suốt đời mang tiếng xấu cải tiết". Người cha nghe vậy, tức giận vô cùng, bàn với bà vợ, đóng chặt cứa phòng dùng roi vọt áp bức con gái. Anh Anh chịu hình không nổi, miễn cưởng nhận lời, đợi tới đêm khuya vắng vẻ, treo cổ tự tận. Không dè, được người ta phát hiện sớm, cứu xuống. Từ đó, cha mẹ ghét bỏ con gái.
                            Đang lúc bực bội như thế, cậu công tử nhà họ Lưu tìm tới, xin ra mắt nhạc phụ. Cha Anh Anh chẳng muốn gặp mất chàng rể chút nào, nhưng sợ Anh Anh biết được chuyện này, vội lấy ra năm chục lạng bạc đưa cho chàng trai, nói cậu ta hãy về nhà đọc sách, hẹn cho hai năm mà không làm quan, thì đừng tới đây cầu thân. Chàng trai nhà họ Lưu vốn là người khí khái, vất trả năm chục lạng bạc ở trước cửa nhà nhạc gia, chỉ trời vạch đất, mắng mỏ một trận, làm náo loạn lên. Anh Anh tiểu thư biết được, ngay đêm đó phái đứa tiểu tì thân cận đưa tin cho chàng họ Lưu, thờ thủ tiết đợi chàng. Ai ngờ con tiểu nha đầu không kín miệng, tiết lậu chuyện này ra. Cha mẹ Anh Anh đem giam con gái vào một căn phòng, ngoại trừ những lúc đem thức ăn, nước uống, không ai được phép tới mở cửa. Lại dùng một kế sách, nói sở dĩ cô gái tìm cái chết, truy nguyên tội lỗi, đều ở chàng họ Lưu mà ra, sai người tới nhà, chửi bới ầm ĩ, dọa nạt cho chàng trai phải bỏ đi chỗ khác. Không dè cậu ta lại là người rất có nghĩa khí, nghe rõ chuyện, liền cất tiếng cười ha hả, nói : "Tiểu thư có thể vì ta mà thủ tiết, ta có chết cũng không tiếc thân. Nếu tiểu thư chết đi, ta cũng vì nghĩa, không sống một mình, quyết theo nàng xuống âm phủ, tố cáo trước Diêm vương, nói Vương lão gia tham thế phụ bần, ép bức con gái, đuổi con rể". Chuyện ầm ĩ lên, lọt vào tướng phủ, vị tể tướng không cho con trai cưới cô gái nhà họ Vương nữa. Cha Anh Anh tức giận quá chừng, lại nghĩ ra một độc kế, cố tình phao tin chàng trai nhà họ Lưu đã chết rồi, bảo gia nhân đồn ầm lên, lại than thở với nhau, nói chàng rể nhà ta chết thật đáng thương. Anh Anh hay được tin đó, lại đang lúc phẫn khích, không kịp tra xét, đợi lúc đêm khuya vắng vẻ, lại cởi dây lưng tự ải, lần này chết thật. Sau khi chết, oan khí không tàn, cô thường hiện hình trong nhà, làm náo loạn lên. Cha mẹ cô không biết đường nào cầu cứu, mới tìm đến tôi, nhờ tôi thu giữ cô lại. Thứ hồn trinh, phách nghĩa đó, không thể kể như quỉ vật tầm thường, không thể giữ lâu dưới âm tào. Đợi án tình tra xét xong, sẽ đưa cô đi đầu thai vào nhà quyền quí. Tôi mới lưu giữ cô có hai tháng, bây giờ ông dẫn cô đi, xong việc phải đưa trả cô về đây.
                            Còn một điều này, tôi cần nói rõ : ông cần dùng cô thay thế Lý phi, nhưng cô là một tiểu thư chưa xuất giá, lại là một cô gái trinh tiết, chưa biết có thể đóng thế vai đàn bà hay không. Mạo nhận làm phu nhân, vạn nhất lúc gặp mặt vua, cô hét lên một tiếng, sẽ gây nhiều điều bất tiện đấy. Tốt nhất là nên để cô cách hoàng đế xa xa, chỉ có thể nhìn mặt từ xa, chứ không thể đến gần, và cũng không thể nói năng cùng nhau.
                            Thiếu Quân nghe nói, hai ba lần cảm ơn lời chỉ giáo, dẫn quỉ hồn của Anh Anh vào cung, tâu với Vũ đế :
                            - Thần tuân chi đã đưa sinh hồn Lý phu nhân về đây, đợi tới giờ tí, có thể cùng bệ hạ gặp nhau. Nhưng bệ hạ là bậc cửu ngũ chí tôn, là chủ của thiên hạ, khí tượng uy nghiêm, mãnh liệt, e rằng quỉ thần cũng không dám tiếp cận. Lúc gặp nhau, chỉ nên đứng xa xa mà nhìn nhau, cũng không chắc có thể trò chuyện với nhau. Thần xin bề hạ lưu ý.
                            Vũ đế chỉ cần thấy mặt Lý phu nhân, có thể tiếp chuyện nhau hay không, để rồi sẽ tính. Nghe Thiếu Quân nói, nhà vua gật đầu chấp thuận.
                            Tới chừng nửa đêm, Thiếu Quân chuẩn bị mọi việc xong xuôi, liền mời Vũ đế đi gặp Lý phu nhân.

                            #59
                              bevanng 21.07.2008 11:50:20 (permalink)
                              Hồi Thứ 67

                              Căng màn, mượn hồn, Thiếu Quân dối chúa.
                              Cứu trò, trổ phép, thần tiên hạ phàm.


                              Lý Thiếu Quân chiếu theo cách điều khiển quỉ mà Vương Nhất Chi đã chỉ bảo, thiết lập một mật thất ở trong cung. Trong phòng đó, cho treo một tấm màn đen, giữa màn treo một đĩa đèn dầu. Bố trí xong xuôi, ông ta thả hồn của Anh Anh ra, cho đi theo bên cạnh, sau đó mới mời Vũ đế tới, cho hai bên gặp nhau. Vũ đế nghe nói đã mời được linh hồn Lý phu nhân trở về, vừa cảm thương, vừa vui mừng, an ủi, theo chân Thiếu Quân bước vào mật thất.
                              Thiếu Quân mời Vũ đế ngồi ở trước tấm màn, tự mình chống kiếm bắt quyết, làm phép. Vũ đế nhìn chăm chú vào tấm màn, lúc đầu không thấy động tĩnh gì. Sau đó, bỗng một trận gió nổi lên, thổi ngọn đèn dầu chính giữa ngả nghiêng ngọn lửa, còn những ngọn nến phía trong màn phụt tắt, rồi sáng trở lại. Vũ đế là người rất can đảm, cũng thấy lông tóc dựng ngược. Thiếu Quân lại chúc mũi kiếm về phía ngọn đèn, gió mới lặng, đèn cháy sáng bình thường. Nhưng trong ánh sáng lung linh, dường như vẫn có âm khí nặng nề. Vũ đế nhìn chăm chú về phía bên trên góc tường, tiếp giáp với phần trên của tấm màn, tựa hồ như thấy hình bóng của một người đàn bà, hiện rõ lên trên tấm màn, phảng phất có vài phần giống Lý phu nhân, nhưng đích xác thì không phải bà phi.
                              Vũ đế nghĩ rằng chẳng qua là sau khi chết, bà phi đã biến đổi, chẳng lấy gì làm lạ. Lại nhìn kỹ, thấy hình người rời khỏi bức màn, khoan thai bước xuống, dường như nhắm về phía nhà vua mà tiến tới. Nhưng nhìn kỹ, lại thấy dường như người đó vẫn ở trên tấm màn, chưa từng chuyển động. Vũ đế trong lòng vừa nóng vội, vừa đau đớn, muốn kêu lên, nhưng lại sợ dương uy của mình có thể làm tán lạc âm hồn của nàng, đành nhẫn nại chờ đợi xem sao.
                              Trong giây lát, quỉ hồn dường như nhìn Vũ đế chăm chú, trên mặt bỗng hiện ra vẻ tức giận. Vũ đế kinh hãi quá chừng, nhớ lại phu nhân hồi tại thế, cảm tình với mình thật đôn hậu, tại sao sau khi chết, vợ chồng được gặp lại, lẽ ra phải vui buồn lẫn lộn, có đâu tỏ vẻ giận dữ . Trong lúc nhà vua đang suy nghĩ lung tung, con ma kia bỗng xoay mình, đưa lưng về phía Vũ đế, mặt hướng về tấm màn, không còn thấy mặt nhau nữa. Vũ đế đau đớn quá chừng, buột miệng đọc lên mấy câu thơ :
                              “Gót sen vàng đủng đỉnh
                              Ngụ gần, lại như xa
                              Chập chờn hình bóng ấy
                              Là người hay là ma? "
                              Ngâm dứt câu, liền đau đớn khóc rống lên, nước mắt tuôn xuống như mưa. Bỗng nhiên, một tiếng nổ vang, như tiếng sấm. Thiếu Quân vội vã chạy lại, đỡ Vũ đế, lôi đi. Vũ đế lúc đó không còn tự chủ, tự động đi theo Thiếu Quân, nhưng cặp mắt vẫn không nỡ rời khỏi bức màn. Không dè thấy quỉ hồn xõa mái tóc, thè lưỡi ra, dài ba tấc, bảy khiếu ra máu, hiện hình dạng một con ma thắt cổ, Vũ đế liền thét lên một tiếng, ngã lăn ra đất. Thiếu Quân vội đỡ dậy, dìu đi, trở về cung, sắc mặt lợt như tro. Nhà vua đuổi đám thị tùng đi, hỏi Thiếu Quân .
                              - Vì sao phu nhân biến ra hình ma thắt cổ ?
                              Thiếu Quân vội tâu :
                              - Đó là vì bệ hạ ngâm thơ, đã đánh bạt du hồn Lý phu nhân. Nguyên thần có dẫn theo bên mình một con ma thắt cổ, dính líu tới một vụ án quan trọng mà quỉ sư Vương Nhất Chi ủy thác cho thần điều tra. Hễ là người chết oan khuất, oan hồn không tan, tuy gặp dương uy, cũng vẫn hiện hình. Phu nhân lui rồi, con ma đó thừa cơ xuất hiện, muốn nhờ bệ hạ đứng ra giải oan.
                              Vù đế nghe vậy, liền nói:
                              - Con ma thắt cổ nào vậy. Vì sao nó phải chết oan ? Hãy tâu rõ cho trẫm biết, trẫm ắt vì nó báo thù.
                              - Việc này sớm hay muộn cũng phải nhờ bệ hạ tác chủ, chẳng qua là chưa tới lúc, nói cũng vô ích. Huống chi trong đó có ẩn chứa thiên cơ, tiết lậu là có tội, thần chẳng dám nói liều.
                              Vũ đế trong lòng đang đau khổ, nhớ tới Lý phu nhân, cũng không có tâm trí nghiên cứu, nói vài ba câu, rồi thôi. Thiếu Quân dẫn sinh hồn của Anh Anh đem về, trả lại cho Vương Nhất Chi.
                              Trong khi đó, Thiếu Quân vừa đi khỏi, Vương Nhất Chi gặp ngay học trò là Phí Trường Phòng tới hỏi thăm, biết được sự việc, không đồng ý chút nào, nói :
                              - Sư phụ bị Thiếu Quân lợi dụng rồi. Bất luận là trên trời hay dưới âm tào, dù là Ngọc đế hay Diêm vương, cũng đều trọng nam tử khí tiết, nữ tử trọng tình. Hạng người trinh tiết như Anh Anh, bao giờ cũng được thiên thần kính trọng, tam giới nể vì. Sư phụ bản thân là quỉ sư, đáng lẽ phải ngửng lên ứng với lòng trời, cúi xuống hợp với tình người, đối với hạng quỉ hồn đó, phải đặc biệt quan tâm, hết lòng kính trọng, mới đúng. Tại sao lại lạm dụng đạo lực, tùy tiện giao phó nàng cho kẻ thiếu tư cách, dẫn nàng đi đóng giả làm linh hồn một người đàn bà. Việc này chẳng những tiết mạn trinh nữ, e rằng còn làm mất phẩm cách của lão sư, là điều thiên thần không thể dung thứ. Đệ tử ngu độn, lấy làm lo thay cho lão sư.
                              Vương Nhất Chi đang say khướt, thần trí mơ hồ, nghe vậy liền cho rằng Trường Phòng có lòng hủy báng tiên sư, kiếm chuyện mắng mỏ thầy. Trường Phòng biết ông này đang xỉn, không dám tranh biện, chỉ khẽ thở dài, cáo biệt lui về. Hôm sau, Vương Nhất Chi hoàn toàn không còn nhớ gì tới chuyện đó, mà Trường Phòng cũng không đề cập tới nữa. Sau giờ trưa, Thiếu Quân tới, đem trả quỉ hồn, Nhất Chi mới nhớ lại chuyện hôm trước, những lời khuyên can của Trường Phòng lại hiện ra trong tâm khảm. Nhất Chi suy ngẫm, bất giác thấy những lời của Trường Phòng đều đúng cả. Anh Anh là cô gái trinh liệt, lúc sống khăng khăng giữ tiết, không chịu thay đổi, sau khi chết lại bị ta và Thiếu Quân lợi dụng đạo pháp, khinh miệt, làm sao nàng chịu cam tâm ? Những thứ hồn vía trinh liệt như thế, có thể thong dong du hành, tới lui khắp ba cõi, tiêu diêu ngoài vòng trời đất. Tuy hiện nay nàng dưới quyền cai quản của ta, chẳng bao lâu nàng cũng được Thượng đế tuyên triệu, đặc biệt vinh sủng. Lúc đó, nàng nhớ lại mối thù làm nhục, há có chịu bỏ qua, không nhắc tới hay không ? Sinh mạng và tiền đồ của ta, làm cách nào mà giữ được đây ? Nghĩ đến đó, bất giác sợ run lên, nhìn Thiếu Quân chăm chú, lại ngó qua Trường Phòng, thở dài một tiếng, nói giọng buồn rầu :
                              - Lão đệ, ta nhớ lại những lời chú nói ngày hôm qua, tự hận mình không biết kiềm chế, tính tình lại quá nóng nảy. Trước kia, ta từng theo học danh sư lâu năm, mà thiếu chút công phu nhẫn nại, suýt nữa mắc phải đại họa. May nhờ có thầy ta hiện nay ra tay cứu giúp, mới tránh khỏi bị đày xuống địa ngục, lại được nắm giữ chức vụ hiện nay. Nào ngờ ta chẳng chịu phấn đấu, sự việc xảy ra đã hơn một trăm năm, chẳng những ta không có chút tiến bộ, còn sa đọa vào rượu, để hỏng việc, đến nỗi bị người bạn xấu lừa dối, làm nhục trinh hồn. Sự việc không thể cứu vãn. Thế nào thượng đế cũng cho tra cứu, chỉ thẩm vấn một lần, là lòi ra ngay. Lần này, chắc chắn ta sẽ bị đày xuống địa ngục thôi. Còn nhớ năm xưa, thầy ta đã từng khẩn thiết cảnh giới, nói ta chẳng những không xứng đáng tu đạo, mà muốn làm con quỉ dữ cũng không dễ. Lời ám chỉ đó dường như muốn nhắc nhở ta phải luôn luôn để tâm đề phòng, kẻo rơi vào tình huống không tốt. Nay nhớ lại, đã cách hơn trăm năm, ta chưa hề làm một việc gì hư hỏng, nào ngờ lại xảy ra việc hôm nay. Lời dự đoán của thầy ta có phải ứng vào ngày này đấy chăng ? Ta tự xét lại một đời mình : cương trực, ưa làm điều thiện, ham chuộng nghĩa hiệp, tuy không dám tự nhận là người quân tử, cũng không đến nỗi hổ thẹn làm kẻ tiểu nhân, không ngờ cuối cùng việc tu đạo đã không thành, ngay cả địa vị quỉ tiên nho nhỏ cũng không giữ nổi, thậm chí lâm vào tình cảnh này, gây nên tai họa rất lớn. Một kiếp sống thừa chẳng đáng nói tới, nhưng ta còn mặt mũi nào nhìn thấy ta ở kiếp khác, và cũng không biết nói sao với Trường Phòng hiền đệ của ta nữa. Tất cả chỉ vì rượu làm mê mẩn thần trí, làm hỏng mọi chuyện, không sao cứu vãn, chỉ còn biết ngồi yên, đợi hình phạt giáng xuống mà thôi.
                              Nói rồi, thớ dài một tiếng, gục đầu xuống bàn mà thổn thức.
                              Trường Phòng vì tình cảm thầy trò sâu đậm xưa nay, thấy sư phụ thương tâm như thế, cũng bồn chồn, không tìm được lời nào để khuyên giải. Chỉ có tên mượn hồn ma để dối chúa, là Lý Thiếu Quân, vốn chẳng phải người tử tế, tuy thấy Vương Nhất Chi lâm vào tình trạng khốn quẫn, nhưng hắn vốn quen làm việc gian tà, coi việc khinh nhờn nữ quỉ chỉ là chuyện nhỏ. Thấy Vương Nhất Chi kể lể, khóc lóc, hắn chịu không nổi, liền cất tiếng cười nhạt, nói lớn tiếng :
                              - Ta chưa từng thấy tên khốn nào hèn mạt, vô dụng như ngươi, còn tự khoe là quân tử, thật không biết xấu hổ ! Thì ta là thằng bạn xấu đấy, là tiểu nhân đấy, cố tình tới đây để hại ngươi đó ! Cứ cho ngươi là quân tử đi, là chính nhân đi, tại sao ngươi không hề do dự, vừa nghe ta nói là đáp ứng liền ? Ngươi chuyên cai quản những việc như thế này, lẽ ra phải biết trong đó có những điều lợi hại và phép tắc ra sao chứ. Ta vốn chỉ muốn nhờ ngươi tìm cho một nữ quỉ tầm thường, ngươi lại chọn một trinh hồn, mới ra nông nỗi. Ngươi là đầu lĩnh của quỉ, đã đưa con ma này ra, làm sao ta có thể không tin ngươi, đem nó ra sử dụng ? Việc này hoàn toàn do ngươi gây ra, đến khi mắc vạ, ngươi lại đổ lỗi cho bạn bè, còn ra nghĩa lý gì ? Ngươi đã không biết suy xét, ta cũng không hơi đâu tranh cãi với một thằng hồ đồ như ngươi !
                              Nói rồi, nện mạnh gót chân, xăm xăm tiến ra cửa, bỏ đi. Thấy hắn đi đã xa, Vương Nhất Chi bất giác buông tiếng thở dài, quay đầu nhìn Trường Phòng, nói :
                              - Hiền đệ, chú thấy thế nào ? Hạng người này quả là không còn thiên lương gì nữa, ta tự trách mình không có con mắt, nhận lầm kẻ tiểu nhân làm chính nhân, tự gây tội nghiệt, còn nói gì nữa? Nhưng ta còn một điều phải nói rõ cho chú biết. Việc lần trước tuy rằng rất lớn, nhưng những kẻ bị giết đều là người hư hỏng, ta chỉ a dua theo, tình đáng dung thứ, lại nhờ lúc đó có thầy ta ở bên, giải nguy cho ta, mới thoát khỏi cái chết. Việc lần này hoàn toàn do ta tự gây ra tội nghiệt, không thể dung tha, cũng chẳng có hy vọng được một ông thầy thứ hai cứu cho đâu. Chắc rằng việc này phát giác ra cũng không lâu, nội trong vài ngày, sinh mạng ta đến đây chấm dứt. Ta chết đi chẳng đáng tiếc, vì dầu sao cũng còn chú là người đệ tử ta có thể truyền y bát. Từ hôm nay, ta sẽ đem hết pháp lực mà chú chưa học được đầy đủ, truyền thụ tất cả cho chú, để chú làm người truyền nhân của ta. Sau khi ta chết, chắc chắn thầy ta sẽ tới đây một lần, chú hãy vì ta thỉnh cầu lão nhân ra tay cứu vớt, khiến ta được giảm bớt một phần tội lỗi Đó là điều rất khẩn yếu, chú chớ quên nhé.
                              Trường Phòng nghe vậy, bất giác thương cảm trong lòng, buông tiếng thở dài. Nhưng việc đã đến nước này, khuyên giải cũng vô ích, Trường Phòng chỉ biết nói vài lời an úi mà thôi. Ở thiên tào, địa phủ, việc thưởng phạt rất nghiêm minh. Việc vừa xảy ra, dưới phàm trần còn có người chưa rõ, chứ trên thiên cung đã sớm có vị thần chuyên việc coi sóc ba cõi tâu lên Ngọc đế.
                              Ngọc đế được biết Vương Nhất Chi và Lý Thiếu Quân khinh nhờn trinh hồn, lừa dối chúa thượng, liền sai Mộc tinh Đông Phương Sóc tra rõ sự tình, để chính pháp sáng tỏ.
                              Từ khi Lý Thiếu Quân được triệu vào cung, Vũ đế mười phần sủng ái, cho đứng trên Đông Phương Sóc nữa. Nhưng Đông Phương sóc là người chính trực, trung tướng, đã đem thân đứng giữa triều đường, chỉ biết dẫn vua vào đường phải, sửa chữa lỗi lầm cho vua, vẫn thường khi dùng lời nói thẳng can gián. Nhưng vì Vũ đế không thích ông ta nữa, Lý Thiếu Quân vì lòng ganh ghét, đã thừa dịp hãm hại, nói đám vương mẫu và quần tiên lần trước Đông Phương Sóc mời về, chẳng qua chỉ là một bọn yêu nhân biến ra, chứ bà vương mẫu chân chính vẫn ngồi cao ở Dao Trì, chẳng rõ có biết tới chuyện này hay không. Đối với việc này, Vũ đế vốn có lòng nghi ngờ, nay nghe lời Thiếu Quân, lẽ nào lại không tin ? Nhưng việc xảy ra đã lâu, lại không tìm được chứng cớ, nhà vua đành bỏ qua.
                              Tuy nhiên, đối với Đông Phương Sóc, Vũ đế đã có lòng ghét bỏ, nghi kỵ. Đông Phương Sóc cũng hiểu được sự việc, nhưng lòng ông ta không để ở lợi lộc, nên hoàng đế sủng tín hay không, ông cũng không buồn bận tâm, chỉ lo chuyện tu luyện đại đạo của mình, chẳng muốn dự bàn việc triều chính. Đến khi phụng pháp chỉ của thiên đình, ông cũng có nghe biết việc Thiếu Quân cấu kết với Vương Nhất Chi hăm dọa hồn trinh của Anh Anh, bắt nàng đóng giả Lý phu nhân, lừa dối thiên tử. Nhưng việc đó chẳng can dự gì tới ông, ông không tiện nhiều lời. Nhưng bây giờ, việc đã liên quan tới trách nhiệm của ông, ông đành phải nghĩ cách giải quyết cho tốt. Hôm đó, ông ở trong nhà suy nghĩ cẩn thận, làm cách nào để lấy đi sinh mạng của Vương Nhất Chi và Lý Thiếu Quân. Vương Nhất Chi có pháp lực không cao, nhưng Lý Thiếu Quân biết nhiều tà thuật, tài năng không kém gì ông. Nếu để hắn chống đối, một là để mất thể thống thiên đình, hai là để dây dưa ngày giờ, e rằng sẽ bị Ngọc đế quở trách. Vả chăng Thiếu Quân hàng ngày ở gần bên vua, nếu ta vời gọi hắn, hắn có thể dựa hơi thiên tử để chống lại lệnh gọi, có khi còn dựa vào thế lực hoàng đế, bắt tội lại ta.
                              Việc này thật khó giải quyết. Nếu âm thầm phóng phi kiếm lấy mạng hắn, lại phạm tới thể chế, là phải thẩm tra tội trạng, minh chính dụng hình, mới khỏi thẹn với thân phận một pháp quan.
                              Thiên cung làm việc gì cũng phải quang minh, chính đại. Nghĩ tới đó Đông Phương Sóc cảm thấy thập phần nan giải. Trong lúc trù trừ, chợt cám thấy mệt mỏi, mới gục đầu trên bàn, đánh một giấc..
                              Đang ngủ thiu thiu, chợt nghe trên không trung có tiếng loan, hạc cùng kêu, tiếp đó thấy chim từ trên không sa xuống sân nhà, Đông Phương Sóc vội tỉnh dậy, bước ra cửa. Đưa cặp mắt ngái ngủ nhìn xem, thấy hai vị đạo nhân, một người mặc áo trắng, một người mặc áo đen, đang đứng giữa sân. Đông Phương Sóc không nhận biết hai người này, vội sửa lại quần áo cho ngay ngắn, tiến lại gặp mặt, hỏi hai vị tiên vì sao tới đây, pháp hiệu là gì ? Hai vị tiên nhìn nhau cười, lên tiếng :
                              - Mới xa cách nhau không lâu, đã không nhận ra chúng tôi rồi sao ?
                              Người mặc áo trắng là một vị tiên què, cười nói :
                              - Tôi tên gọi Lý Huyền, có ngoại hiệu Thiết Quài.
                              Lại chỉ vị tiên kia, nói :
                              - ông này là Huyền Châu Tử. Chúng tôi cùng ông đều là bạn bè kiếp trước, sao không nhận ra nhau ?
                              Đông Phương Sóc đạo hạnh cao thâm, nghe nói liền nhớ lại những việc ở trên thiên giới trước đây, vội cười, nhận tội, mời hai vị tiên vào thư phòng. Hai vị tiên cười, nói :
                              - Vô sự chẳng đặt chân lên Tam bảo điện. Chúng tôi đi chuyến này, chính vì Mộc tinh đang gặp phải chuyện khó xử, nên đặc biệt tới giúp đỡ ông. Vả lại cũng có một việc nho nhỏ, muốn cầu khẩn ông.
                              Đông Phương Sóc mời hai người ngồi, sau đó mới cười, hỏi :
                              - Có phải vì việc của Vương Nhất Chi đấy không ? Anh ta là cao đồ của Lý đạo huynh mà. Đáng tiếc rằng trong vụ này, anh ta đã làm những việc quá đáng, khó nỗi chu toàn.
                              Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
                              - Bần đạo tới đây, đâu có phải để cứu tính mạng anh ấy ? Anh ta ở địa vị quỉ sứ, biết luật lại phạm luật, như thế mà có thể tha thứ, thì những kẻ phạm tội thập ác trong thiên hạ, còn ai là không đáng tha thứ ? Chẳng qua là tội ác lớn tới đâu chăng nữa, một khi thụ hình, chết là hết tội. ý của bần đạo là niệm tình thầy trò lâu năm, sợ rằng anh ta phải đày xuống âm tào, phải chịu khổ hình của địa ngục, không biết ngày nào mới ngóc đầu lên nổi ? Vì thế, muốn thương lượng với Mộc tinh, đợi sau khi anh ta chết, cho phép tôi được mang di thể anh ấy đi, khiến anh ấy lại có thể dụng công tu tập trong vài trăm năm, hoặc giả như vậy mà đạt được chút tài năng, để tôi được trọn tình thầy trò với anh ta. Giải quyết như vậy, chẳng biết có được hay không ?
                              Đông Phương Sóc vội đáp :
                              - Việc đó rất dễ. Trời có hình phạt thông thường, thụ hình rồi là xong, còn thêm hình phạt gì nữa ? Huống hồ Nhất Chi chỉ vì thói ham rượu, để mất lương tâm, mới ra nông nỗi. Luận về tình tiết, kể cũng đáng thương, đạo huynh chu toàn như thế, cũng có thể bù đắp cho anh ta một đời hiệp nghĩa, trung hậu, tiểu đệ lẽ nào lại chẳng tuân mệnh ?
                              Lại hỏi Huyền Châu Tử :
                              - Đạo huynh từ xa tới đây, có điều gì chỉ giáo hay không ?
                              Huyền Châu Tử cười, nói :
                              - Thiết Quài tiên sinh vì việc của học trò mà cầu xin, chứ bần đạo không có điều yêu cầu nào với đạo huynh. Chỉ vì đạo huynh hiện đang phụng chỉ chỉnh pháp Lý Thiếu Quân, tiểu đệ muốn cho đạo huynh biết người này trước đây đi theo Thông Thiên giáo chủ, đã tới đại náo thôn Hoài Hải, gây sự với La Viên phu nhân. Yêu vật này vốn là một con rùa lớn, tu luyện năm ngàn năm, đã có một pháp bảo luôn đem theo bên mình, có tên là "Giả nhãn cầu”. Đó là con ngươi, hắn đã sử dụng những đồ ô uế nhất trên đời, dùng bùa chú mà luyện thành. Nhãn cầu đó một khi xuất hiện, mọi người đều bị một lớp sương mù dày đặc che khuất hai mắt, đối diện không nhìn thấy nhau.
                              Huyền Châu Tử vừa nói tới đó, Đông Phương Sóc liền hiểu ra, gật đầu, nói :
                              - Hèn chi tôi nghe nói, lúc hắn đem quỉ hồn của Anh Anh, đóng thế vai Lý phi để cùng hoàng đế gặp mặt, hoàng đế chỉ nhìn thấy người, chứ không nhận rõ dung mạo, mờ mịt như ở trong lớp sương mù. Lúc đó, tôi không biết hắn có pháp lực gì mà có thể tạo ra cảnh tượng đó. Nay theo lời đạo huynh nói, có thể biết được là do nhãn cầu đó gây ra.
                              Huyền Châu Tử gật đầu, nói:
                              - Đó chẳng qua chỉ là chuyện nhỏ. Hoàng đế nhìn thấy Lý phu nhân hay không, cũng chẳng quan trọng gì. Đạo huynh vẫn chưa biết tình hình hắn quậy phá ở sông Tiền Đường ra sao đâu. Số là thủy triều ở sông Tiền Đường lên rất cao. Sau khi tôi tới nhận chức, mới dùng phép gom thủy triều các nơi về một chỗ, khiến tinh giao và rùa quái không thể đắc chí, đành ẩn thân ở dưới đáy biển. Những chỗ thủy triều lên quá cao, cũng có bần đạo quản lý, sai thủy binh trấn giữ, khiến bọn chúng dẫu giảo hoạt, cũng không làm gì được. Chẳng dè lão giao bày ra kế độc, năm trước đã mời rùa quái về hợp tác, lại cử binh xâm phạm. Rùa quái đem treo nhãn cầu, làm phép, khiến các thần tướng của tôi không thể nhìn thấy nhau. May nhờ Văn Mỹ chân nhân phái đồ đệ là Tuệ Thông dự tính trước, ở trên ngọn núi Văn Bút phong, thuộc tỉnh Phúc Kiến, luyện được một bình thủy tính, phát rạ ánh sáng chiếu vào, thu hút được sương mù của yêu quái. Vì thế rùa quái phải ẩn thân dưới biển, không dám ló đầu lên nữa. Ai ngờ con quái này lại biến thành hình người, tới đây mê hoặc hoàng đế. Bần đạo nghĩ, con quái này không bị trừ khử, còn làm hại cho người, nên vội tới đây trợ giúp đạo huynh, cùng trừ quái vật. Con quái này làm ác đã nhiều, sợ bị trời giết, nên nó thường đem treo giả nhãn cầu trong phòng, một là đề phòng người hành thích, hai là khiến người ta mờ mắt, không nhìn rõ nó ở chỗ nào. Nay đạo huynh phụng chỉ giải quyết việc này, nhưng sợ nhất thời chưa trừ nổi rùa tinh đâu.
                              Đông Phương Sóc nghe vậy, bất giác sợ hãi, vội chắp tay vái :
                              - Được đạo huynh không ngại đường xa ngàn dặm, tới đây chỉ giáo, dạy cho cách nào trừ khử yêu quái, thật may cho tiểu đệ, may cho dân chúng khắp nơi.

                              #60
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 4 của 7 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 93 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9