Bát Tiên Đắc Đạo
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 7 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 93 bài trong đề mục
bevanng 21.07.2008 12:17:17 (permalink)
Hồi Thứ 68

Chịu quan hình, kết thúc án trộm đào
Luyện kính lạ, đánh phá giả nhãn cầu.


Huyền Châu Tử thấy Đông Phương Sóc khẩn cầu, liền đáp ứng:
 - Chúng ta cùng vì dân trừ hại, hà tất phải cảm ơn nhau.
Nói rồi, liền lấy ra một hộp nhỏ đựng tấm gương, mở ra cho mọi người cùng coi. Thì ra đó là một tấm gương lạ, phát ra ánh sáng rực rỡ. Huyền Châu Tử liền giải thích :
- Giả nhãn cầu của Lý Thiếu Quân sử dụng những thứ ô uế nhất trên đời để luyện thành, phát ra một lớp sương mù dầy đặc, dù là mắt người phàm hay người tiên cũng không thể nhìn thấy rõ. Lần trước Tuệ Thông sử dụng một chiếc bình, tốt thì có tốt, nhưng cũng chỉ phá được phép thuật, chứ chưa phá hoại được nhãn cầu. Nay tôi luyện thành tấm gương này, phát ra ánh sáng chói lòa, chẳng những phá tan lớp sương mù dầy đặc, còn đốt cháy được nhãn cầu.
Đông Phương Sóc vui mừng, nhân đó đem nói rõ những ý nghĩ còn trần trừ của mình cho hai vị tiên nghe. Hai vị tiên nói :
- Con quái này đắc tội với trời, trời đã xuống lệnh tiêu diệt, để làm gương, khiến những yêu nhân biết sợ, chẳng dám làm bậy. Sở kiến của đạo huynh hoàn toàn chính đáng, hãy mau nghĩ cách chế phục hắn, chớ sợ hắn kháng cự.
Đông Phương Sóc vui mừng, nhận là phải, hỏi liền :
- Bao giờ có thể ra tay ?
Huyền Châu Tử nói :
- Bần đạo không thể ở đây lâu, nên tức khắc bắt giữ hắn, hỏi rõ tội trạng, khiến hắn chịu chết, không lời oán thán, mà kẻ bàng quan cũng biết sợ. Sau đó tuyên bố ngọc chỉ, tức khắc xử trảm.
Đông Phương Sóc hài lòng, cùng Huyền Châu Tử, Thiết Quài tiên sinh tới nhà của Lý Thiếu Quân, ở phía Tây hoàng cung. Mấy người tiến vào, chỉ nói là mời Lý Thiếu Quân ra tiếp chỉ. Lúc đó, Thiếu Quân đang ở nhà sau, cùng đám thị thiếp uống rượu làm vui, nghe người nhà bẩm báo :
- Đông Phương đại nhân dẫn theo hai vị đạo nhân, tới nhà truyền  chỉ .
Thiếu Quân nhất thời mơ hồ, cho rằng đó là chiếu chỉ của Hán đế, vội sửa lại quần áo cho ngay ngắn, ra gặp ba người. Đông Phương Sóc tiến lên một bước, đứng nghiêm, hô to :
- Thượng đế có chỉ, Lý Thiếu Quân mau quì xuống tiếp chỉ.
Nghe câu nói đó, Thiếu Quân tỉnh rượu liền. Hắn không chịu quì, nhưng cũng không lộ vẻ giận dữ, mà cười hì hì, nói :
- Đông Phương đại nhân, chúng ta là bề tôi một triều, là chỗ đồng liêu, lại cùng thuộc Đạo môn, có tình thân mật khác hẳn người khác. Vừa rồi đại nhân nói là tới đây giáng chỉ, tiểu đệ nghĩ đó là chiếu chỉ của đương kim hoàng thượng, nên vội cung kính ra đây tiếp chỉ, không dè văn bản đại nhân định tuyên đọc lại là ngọc chỉ của Thượng đế. Đại nhân đã mập mờ đánh lận rồi đó. Trời và người cách xa nhau, sự tình này hư, thực thế nào, làm sao biết được ? Đại nhân muốn cùng tiểu đệ giải quyết chuyện này cho êm thắm, trước hết hãy đem nội dung câu chuyện nói rõ cho tiểu đệ biết họa phúc ra sao, lành dữ thế nào, để tiểu đệ chuẩn bị sẵn sàng. Đại nhân thấy thế nào?
Đông Phương Sóc thấy hắn muốn tìm cách trốn tránh loanh quanh, rõ ràng là coi thường pháp chỉ, không kính trọng trời, bất giác nổi giận, hét lên :
- Lý Thiếu Quân sao dám vô lễ như thế ? Người trong Đạo môn tất nhiên thuộc quyền quản lý của thượng giới, người bình thường tuy có đế vương dưới trần gian cai quản, nhưng chẳng lẽ Thượng đế lại không thể hỏi tới . Người là tên ngang ngược, bất pháp, nay lại tỏ rõ là bất phục Ngọc đế, rắp tâm làm phản, dám buông ra những lời ngông cuồng, miệt thị ngọc chỉ, tội chết khó tha.
Thiếu Quân nghe vậy, liền nổi giận, rõ ràng cậy mình đã có phòng bị cẩn mật, lại biết Đông Phương Sóc đạo thuật chẳng cao bao nhiêu, không tỏ ra sợ hãi chút nào, liền trở mặt, cất tiếng cười nhạt, nói :
- Theo lời ngươi nói, ngươi là người được Ngọc đế phái tới đây làm chấp pháp quan, cố tình gây sự với ta hả ? Khoan nói ta và ngươi tuy khác giáo phái, nhưng cũng kể như đồng đạo, ta hiện nay là quan đại thần ở chốn nhân gian, được hoàng đế tin dùng, bất tất phải nghe lệnh sai khiến của thượng giới.
Đông Phương Sóc nghe hắn nói giọng ngông cuồng như thế, vội hướng về hai vị tiên, nói :
- Tên này to gan như vậy, cảm phiền hai vị thay tôi bắt giữ hắn.
Thiếu Quân vừa nghe tiếng "bắt giữ", lập tức rút kiếm ra, đâm ngay Đông Phương Sóc. Huyền Châu Tử liền cầm kiếm ngăn cản.
Thiếu Quân hô to :
- Nơi đây không phải chỗ chém giết nhau. Có gan hãy theo ta vào bãi đất trống phía sau.
Ba vị tiên cùng hét lên .
- Ngươi có chạy tới sào huyệt cửa Ma giáo giáo chủ, cũng không thoát đâu !
Mọi người nói rồi, đuổi theo liền. Chẳng dè Thiếu Quân chạy qua một dẫy nhà, tới một căn phòng rộng lớn, trống trải, liền đứng lại, không chạy nữa. Ba vị tiên đuổi theo Thiếu Quân, vào tới căn phòng rộng, chợt thấy trước mặt dường như có một tấm màn đen che khuất, đối mặt không nhận ra nhau, mới biết nơi đây là chỗ treo giả nhãn cầu. May có Huyền Châu Tử phòng bị sẵn, lấy ra chiếc gương, chiếu rọi về phía trước. Tức thì căn phòng sáng rực lên, trong chớp mắt, lớp sương mù dầy đặc bị đánh tan, và rồi có tiếng nổ lách tách, giả nhãn cầu của Thiếu Quân bị đốt cháy thành than. Thiếu Quân thấy mất bảo bối, biết không thể kháng cự, liền hóa thành đám mây đen, bay thẳng lên không trung, trốn mất. Ba vị tiên cỡi mây đuổi theo, ai ngờ Thiếu Quân thường thường ra vào cung cấm, đã xây cất một căn nhà ở phía sau hoàng cung, cách nhau trong gang tấc. Lúc này, hắn biến ra một luồng sáng xanh tiến vào hoàng cung, lập tức biến mất.
Ba vị tiên thấy hắn đã trốn vào hoàng cung, không tiện đuổi theo, đành quay trở về, trước hãy lo giải quyết việc Vương Nhất Chi.
Nhất Chi không giống như Thiếu Quân, đã biết nhận tội. Ngọc chỉ vừa tới, ông ta liền phục xuống đất, xin được mau chết. Đông Phương Sóc bảo Nhất Chi trước hết hãy ra mắt sư phụ. Nhất Chi tạ ơn, đứng dậy ra mắt Thiết Quài tiên sinh, dập đầu lạy bôm bốp, chẳng dám ngước nhìn lên. Thiết Quài tiên sinh thấy học trò biết nhận lỗi, tình cũng đáng thương, bất giác thở dài một tiếng, nói :
- Số đã định trước, bất tất phải nói nhiều. Ngươi cũng đã biết tội mình không thể dung thứ rồi chứ . Việc hậu thân của người, đã có ta lo, ngươi cũng bất tất phải bận tâm. Đệ tử của ngươi là Phí Trường Phòng, có cốt cách, lại biết lễ nghĩa, hãy gọi lại đây gặp ta.
Nhất Chi đứng dậy, lên tiếng gọi Trường Phòng mau tới. Trường Phòng vào ra mắt ba vị tiên. Thiết Quài tiên sinh nói :
- Thầy của ngươi đắc tội với trời, không tránh khỏi tội chết. Sau khi ông ấy thụ hình, ta sẽ dẫn linh hồn ông ấy đi, cho cơ hội tiếp tục tu trì, nếu có tinh tiến, năm trăm năm sau cũng có chỗ tốt lành. Chức vụ của ông ấy, người có thể tiếp nhận. Hãy cẩn thận đề tâm, làm cho thật tốt.
Trường Phòng khóc mà vái tạ, nói :
- Đệ tử không muốn kế tục chức vụ của sư phụ, chỉ mong tổ sư khai ân, nghĩ tình sư phụ của tôi ngày thường thành khẩn, cần lao, chẳng phái không có chút công lao, mong tổ sư tâu lên Ngọc đế, miễn tội chết cho thầy tôi. Thầy trò đệ tử sẽ tận tâm lo công việc, làm thật nhiều việc tốt, lấy công chuộc tội, khẩn cầu tổ sư chấp thuận.
Thiết Quài tiên sinh lắc đầu, nói :
- Việc này có số định trước, không thể thay đổi. Nếu ngươi không tin, hãy hỏi sư phụ ngươi. Trước đây, khi ông ấy mới nhận chức, ta đã nói những gì với ông ta ? Còn việc ngươi tiếp nhận chức của sư phụ, cũng không phải ta có thể tác chủ, mà là ta vâng lệnh tổ sư của Đạo giáo để tới đây. Chỉ cần ngươi lúc nào cũng nhớ tới tình trạng sư phụ ngươi thụ hình ngày hôm nay, không giây phút nào quên, cố gắng làm người tốt, là ngươi đã không phụ lòng sư phụ ngươi , mà bản thân ngươi cũng được điều tốt đẹp.
Sau khi Vương Nhất Chi thụ hình, Thiết Quài tiên sinh thu nhặt linh hồn ông này, bỏ vào trong hồ lô, chắp tay chào Huyền Châu Tử, nói :
 - Chẳng bao lâu, Đông Phương đạo huynh sẽ gặp đại nạn. Đó là số định trước, không cách nào tránh khỏi. Đây tôi có một lá bùa "Cửu chuyển hoàn hồn phù”, và một cành phướn dẫn hồn, đạo huynh hãy giữ lấy bên mình. Đợi khi ông kia gặp nạn, đạo huynh hãy dán lá bùa trên cổ ông ta. Như thế có thể diệt trừ được yêu nhân. Sau đó, ông lại dùng cành phướn dẫn hồn, đưa Đông Phương đạo huynh đi. Mỗi ngày lấy một viên "Càn nguyên đoạt mệnh đan", do đạo huynh tự tay chế luyện, cho ông ấy uống một lần. Ba ngày sau, có thể phục hồi nguyên khí. Lúc đó, Đông Phương đạo huynh cũng chấm dứt trần duyên, có thể trở về thiên đình, bất tất phải ở lại chốn phàm trần. Ngay cả thiên tử nhà Hán, khí số cũng hết, chúng ta chẳng cần bận tâm.
Huyền Châu Tử nhất nhất nhận lời, nhân đó lại hỏi Thiết Quài tiên sinh :
- Tiểu đệ lần này trở về, không biết có gặp phải chuyện gì ngoài ý muốn hay không ?
Thiết Quài tiên sinh nghe Huyền Châu Tử hỏi vậy, ngạc nhiên vô cùng, liền vận mắt thần nhìn ông kia chăm chú, buông tiếng thở dài, nói :
- Lời nói là âm thanh của con tim, con tim làm chủ mọi chuyện, đạo huynh cứ lo việc công cho tốt, sao lại nghi ngờ, lo sợ như thế . Đạo huynh nói ra câu đó, là tâm động mất rồi. Mà người tu đạo kỵ nhất là động tâm. Có thể thấy tiền đồ của đạo huynh chắc chắn là không được bằng phẳng lắm đâu. Nhưng có chuyện gì chăng nữa, chúng tôi cũng tận lực cứu giúp, xin đạo huynh hãy yên tâm. Thiên cơ không thể tiết lậu, tiểu đệ chẳng dám nói nhiều. Hẹn ngày gặp lại.
Thiết Quài tiên sinh nói rồi, chắp hai tay, đưa lên tận trán, chào từ biệt, giây lát biến mất.
Đông Phương Sóc cùng Huyền Châu Tử nghe Thiết Quài tiên sinh nói mấy câu, chẳng được hài lòng, dặn dò Trường Phòng vài câu, cùng trở về nhà Đông Phương Sóc, bàn bạc nhau về biện phẩm giết Lý thiếu Quân.
Nào ngờ trước đó, Thiếu Quân đã tới ra mắt Vũ đế khóc lóc lạy nhà vua, tâu rằng:
- Đông Phương Sóc ganh ghét thần hàng ngày hầu hạ bên bệ hạ, sợ thần đem những tội khi quân của hắn trước đây nói ra hết, hắn đã đặc biệt mời các yêu nhân từ phương xa tới đây, gây sự với thần. Chúng đã đốt cháy pháp bảo, thần đã tu luyện ngàn năm mới thành, còn dám mạo xưng ngọc chỉ, đòi lấy tính mạng của thần. Rất mong bệ hạ vì thần tác chỉ.
Vũ đế nghe vậy, tức thì nổi giận, nói :
- Đông Phương Mạn Thiến đã có lần lừa dối trẫm, nay lại gạt chuyện với tiên sinh, quả đáng tội chết. Tiên sinh đừng lo, trẫm lập tức phái ngự lâm quân tới, đuổi hắn ra khỏi nước, không cho ở lại trung nguyên nữa, được không ?
Thiếu Quân vội tâu:
- Người này đạo hạnh không nông cạn, lại có yêu tinh giúp đỡ. Nếu bệ hạ không dùng hắn nữa, nên mau mau giết đi. Nếu đuổi hắn ra khỏi nước, hắn sẽ ôm hận, tính chuyện báo thù, chẳng những bản thân hạ thần không kịp đề phòng, mà bệ hạ cũng không tránh khỏi nguy hiểm. Phải mau chóng giết hắn, mới là diệu kế.
Vũ đế lúc đó đang oán hận Đông Phương Sóc, tín nhiệm Thiếu Quân, nghe tâu lập tức hạ chỉ chém đầu Đông Phương Sóc, lại sai Thiếu Quân làm giám trảm. Thiếu Quân được ngự chỉ, vui mừng hớn hở, dẫn vài trăm ngự lâm quân tới vây nhà Đông Phương Sóc.
Đông Phương Sóc đang tính ra ngoài điều tra, thì Thiếu Quân dẫn dắt bốn viên kiện tướng, rầm rập kéo tới. Vừa chạm trán Đông Phương Sóc, hắn hét lên, ra lệnh bắt giữ. Đông Phương Sóc nghe vậy, vội lùi lại vài bước, hỏi :
- Người muốn gì đây ?
Thiếu Quân cũng làm theo cách Đông Phương Sóc đã đối xử với mình, hét lên, bắt Đông Phương Sóc quì xuống tiếp chỉ. Đông Phương là người tiên đàng hoàng, tất nhiên tuân thủ đạo làm tôi, nghe có thánh chỉ liền quì xuống tiếp chỉ. Thiếu Quân đứng chính giữa, lấy thánh chỉ ra đọc. Rồi không đợi cho Đông Phương Sóc lên tiếng tạ ơn thánh thượng, hắn lập tức rút phi kiếm trong tay áo ra, chém bay đầu Đông Phương Sóc.
Việc này xảy ra là do Đông Phương Sóc ăn trộm đào, vương mẫu đã nhờ tay Lý Thiếu Quân để trừng phạt. Nhưng Đông Phương Sóc là người có đạo pháp rất cao, cái đầu vừa rơi xuống đất, trên cổ lại hiện ra một chiếc đầu khác, vài lần như thế.
Thiếu Quân suy nghĩ một hồi, nghĩ ra một kế, lập tức phái một quan viên phi ngựa về tâu Hán đế, xin nhà vua mang theo ấn ngọc tỉ và đích thân tới nhà Đông Phương Sóc. Vũ đế không hiểu chuyện này ra sao, nhưng động lòng hiếu kỳ, đồng thời cũng không muốn trái ý Thiếu Quân, lập tức sai bầy xe loan, đích thân tới nhà Đông phương Sóc. Thiếu Quân quì xuống đón tiếp, dẫn vào nhà, tâu rõ việc Đông Phương Sóc hí lộng phép thuật, khi quân. Vu đế nghe qua, tức thì nổi giận, nhưng sợ Đông Phương Sóc phép thuật cao cường, tính chuyện báo thù, mới hỏi ý Thiếu Quân coi việc này phải làm thế nào ? Thiếu Quân tâu :
- Xin bệ hạ dùng ngọc tỉ đóng dấu lên một tờ giấy, đợi khi cái đầu rơi xuống đất, tức thì dán tờ giấy lên cổ, chiếc đầu khác sẽ không thể mọc ra.
Vũ đế nghe lời, lấy ra ngọc tỉ truyền quốc, đóng dấu lên một tờ giấy. Thiếu Quân lại dùng phi kiếm chém bay đầu Đông Phương Sóc lập tức cầm tờ giấy có in quốc ấn dán lên chỗ cổ. Quả nhiên quốc pháp oai nghiêm, uy quyền của hoàng đế nằm trên tờ giấy này, Đông Phương Sóc có pháp lực cao tới đâu chăng nữa, cũng không thể thi triển. Trên cổ không mọc ra chiếc đầu nào khác.
Huyền Châu Tử đã bước ra từ sớm, dùng phép tàng hình đứng một bên, thấy đầu Đông Phương Sóc đã rơi xuống đất, trên cổ không hiện ra chiếc đầu nào khác, Thiếu Quân đang tiến lại, nói chuyện với Vũ đế chẳng ai chú ý tới thây người chết. Huyền Châu Tử liền lợi dụng cơ hội đó, xuất hiện trở lại, giả bộ làm người tới coi xác chết, lại gần bên xác Đông Phương Sóc, bóc tờ giấy in quốc ấn, dán lá bùa của Thiết Quài tiên sinh lên, lại lấy ra một thanh đoản kiếm, dài chừng vài tấc, ấn vào tay xác chết nói nho nhỏ :
- Đông Phương Sóc nghe đây. Quốc pháp đã chịu, quả báo rõ ràng. Luật trời khó tránh, nhưng trách nhiệm của người vẫn chưa dứt. Này, này, tội nhân còn kia, chờ ngươi ra tay đó !
Nói chưa dứt lời, thây ma không đầu của Đông Phương Sóc liền nắm chặt cây đoàn kiếm, theo chân Huyền Châu Tử chạy nhanh về phía trước. Trong chốc lát, đã nghe Vũ đế cùng đám cận thần, thái giám và binh sĩ, cùng kêu ầm lên :
Không xong rồi ! Thây ma biết chạy kìa !
Vũ đế tuy là bậc anh quân, nhưng nay tuổi già sức yếu, lại hàng ngày đam mê tửu sắc, tinh lực suy kiệt, thấy cảnh rùng rợn, liền đứng không vững, ngã vật ra đằng sau. Thiếu Quân tuy can đảm, nhưng lúc này hai mắt mờ đi, thần trí hôn mê, không thể kháng cự. Huyền Châu Tử đưa hai tay bóp chặt lấy cổ họng hắn, miệng tuyên đọc ngọc chỉ, kể hết từng tội ác của hắn. Mọi người chẳng dám lại gần, cũng không dám hỏi han. Đợi Huyền Châu Tử đọc xong chiếu thư, Đông Phương Sóc mới đưa cao thanh đoản kiếm. Thanh kiếm liền phát ánh sáng lấp lánh, dài ra ba thước đâm thẳng vào bụng Thiếu Quân. Thiếu Quân hét lên một tiếng ngã lăn ra đất, hiện nguyên hình là con rùa khổng lồ, cái đầu ngọ nguậy, bốn chân cử động, nhưng chỉ có thể bò loanh quanh sảnh đường. Vũ đế ngất đi không lâu, được mọi người gọi tỉnh, thấy Thiếu Quân biến thành con rùa, lập tức lên xe về cung.
Huyền Châu Tử cầm thanh kiếm tiên chém lên mai rùa ba nhát, chỉ nghe tiếng “coong coong”, như gõ vào vại sành, mai rùa không suy chuyển chút nào, mà thanh kiếm trên tay rơi xuống đất. Huyền Châu Tử tức giận, xõa tóc, cầm kiếm chạy ra ngoài, vẽ bùa niệm chú, mời ông Sấm, Bà Sét. Giữa thanh thiên bạch nhật, trời đất bỗng tối sầm, mặt trời mất ánh sáng, hai vị thần đứng trên không trung, khom lưng vái, cất tiếng hỏi :
- Pháp sư vời chúng tôi, có chuyện gì ?
Huyền Châu Tử chắp tay thi lễ, nói dõng dạc :
- Rùa tinh Lý Thiếu Quân đã nhiều lần tàn hại sinh linh, tội ác quá lớn. Gần đây, hắn lại biến thành hình người, đứng giữa triều đường, khinh miệt hồn trinh, mê hoặc hoàng đế, làm lắm chuyện bất pháp, nhất thời không thể kể hết. Có Mộc tinh Đông Phương Sóc, vâng ngọc chỉ Thượng đế, tra xét vụ án. Nhưng bản thân Mộc tinh có tội nghiệt cũ chưa giải quyết, nhân đó rùa tinh sàm tấu với hoàng đế, đem chém đầu. Hiện nay oan nghiệt của Mộc tinh đã xong, chẳng bao lâu sẽ sống lại, nhưng rùa tinh tội ác rất lớn, không thể để sống thêm một ngày nào. Mộc tinh đã ủy thác cho bần đạo giải quyết việc chém yêu quái. Hiện giờ, con yêu đã hiện nguyên hình, nhưng cái mai của nó cứng quá, bần đạo thẹn mình phép thuật non nớt, không đập vỡ được mai rùa, xin các vị tôn thần giúp một tay, dùng điện lực đập tan xác rùa, may mắn cho bần đạo lắm thay ! ông Sấm, Bà Sét nghe vậy, bàn bạc với nhau một lát, rồi nói :
- Rùa tinh đã nhiều lần làm ác, tội đáng tru diệt. Cũng may lúc này đang là mùa hè, đúng thời kỳ điện lôi thi oai, xin pháp sư hãy lùi xa một bước, để tiểu thần trổ phép.
Huyền Châu Tử cảm tạ, vẫy gọi xác Đông Phương Sóc đi theo, cùng vào nhà trong. Huyền Châu Tử lại sai người nhặt cái đầu đem vào cầm chắc hai tay, đem gắn lên chỗ cổ thật ngay ngắn, rồi lấy ra lá bùa của Thiết Quài tiên sinh, gài lên mái tóc xác chết, niệm chú lâm râm, hét lên một tiếng. Tức thì cái đầu gắn liền với cổ, không có dấu vết bị chém, chỉ không động tác, hoặc nói năng.
Huyền Châu Tử đẩy xác Đông Phương Sóc qua một bên, bản thân ghé đầu ngang cửa sổ, nhìn ra ngoài. Chợt nghe tiếng sấm nổ vang, chớp giật loang loáng, Huyền Châu Tử vội chạy ra ngoài, xem xác rùa, thấy xác rùa bị đập nát thành vài chục mảnh, máu thịt bầy nhầy, mùi tanh hôi xông lên nồng nặc, chịu không nổi.
Trở vào trong nhà, thấy Đông Phương Sóc đang đứng ngẩn ngơ, Huyền Châu Tứ lại lấy cành phướn dẫn hồn, gài lên xác chết, bản thân ông nhắm về phía trước, bước đi. Phía sau, Đông Phương Sóc cũng tự động đi theo, cùng ra cửa, bỏ đi. Huyền Châu Tử dùng phép rút đất, đưa Đông Phương Sóc về Hải Ninh. Trên đường đi, mỗi khi cần nghỉ lại nhà trọ, Huyền Châu Tử đem bỏ Đông Phương Sóc ở ngoài phòng, đứng úp mặt vào tường. Trong lúc đi đường, dân chúng thấy ông ta dẫn theo một người dở sống dở chết, chạy cùng đường khắp ngõ, ai cũng cho là chuyện quái lạ Lại nhân xác chết mỗi khi vấp té, vết thương liền ra máu, Huyền Châu Tử sợ người ta xúm lại coi, mới theo phương pháp Thiết Quài tiên sinh đã chỉ dẫn, niệm chú lâm râm, đưa tay vẽ một vòng tròn. Những người tới gần liền cảm thấy như thể có bức tường chắn ngang, không sao lại gần. Nhưng khi phải qua sông, Huyền Châu Tử đặt Đông Phương Sóc ở cuối khoang thuyền, cũng dùng phép trên ngăn cản, không cho ai tới xem. Vì thế, trên đường đi đã không xảy ra một chuyện gì ầm ĩ.

#61
    bevanng 21.07.2008 12:46:00 (permalink)
    Hồi Thứ 69

    Tiên què bày ra cách di chuyển xác chết
    Thục nữ không dè lấy phải giao tinh.


    Ở một dải đất Bảo Khánh, Thường Đức ở tỉnh Hồ Nam hiện nay, tập tục tương truyền về một phép, gọi là phép di chuyển xác chết. Hễ một người sống ở địa phương Giáp, chết ở địa phương Ất, việc di chuyển quan tài chẳng những khó khăn, mà kinh phí còn rất cao nữa. Vì thế có một loại người, chuyên lấy việc đưa xác về quê làm nghề nghiệp. Họ biết được một thứ chú ngữ bí mật, dùng một cành phướn gắn lên xác chết rồi hướng về thây ma niệm chú lâm râm, người chết liền nghe lời sai khiến, đi theo họ.
    Gặp những lúc cần nghỉ lại quán trọ, họ đem thây ma đặt ở ngoài phòng, đứng úp mặt vào tường. Khi cần qua sông, họ đem thây ma đặt ờ cuối khoang thuyền, hoặc ở đầu thuyền. Như thế, có thể bình an về tới quê hương. Dẫu cuộc hành trình có kéo dài cả tháng, lại gặp tiết trời nóng bức, xác chết cũng không biến tướng chút nào, và cũng không phát ra mùi hôi thối. Nhưng không được để xác chết ngã vật ra đằng sau, vì khi đó xác sẽ bốc mùi, giòi bọ lúc nhúc, không sao dựng xác trở dậy được nữa. Một điều kỳ lạ nữa là khi xác về đến nhà, người nhà trước đó phải chuẩn bị áo quan và đồ khâm liệm sẵn sàng, lập tức bỏ xác vào trong quan tài, đóng nắp lại ngay. Nếu để trễ chừng một hai giờ, xác sẽ nát rữa, không sao gom lại. Đại khái phép vận chuyển xác chết như vậy là rất thuận tiện và đỡ tốn kém. Từ mấy ngàn năm truyền lại, đến nay nghề này còn thịnh hành. Nhưng không biết phương pháp này có từ thời nào, và do ai phát minh. Theo sự khảo sát của người làm sách này, thì đó là do Thiết Quài tiên sinh truyền thụ bùa chú cho Huyền Châu Tử để đưa xác Đông Phương Sóc về Hải Ninh. Về sau, vì Huyền Châu Tử đắc tội, bị biến làm con hạc ở Tương Giang, đã từng biến hóa, đi lại trong đám bình dân, giúp họ vận chuyển xác chết, nhân đó phương pháp mới được lưu truyền trong tỉnh Hồ Nam. Chỉ có người trong tỉnh Hồ Nam biết được phương pháp đưa thây ma về quê , những nơi khác không hề nghe nói tới chuyện này. Nguyên nhân là do đặc tính của người Trung Quốc, hễ có phát minh gì đặc biệt, đều là ông cha truyền cho con cháu, chứ không bao giờ truyền cho người ngoài. Ngay cả con gái trong nhà cũng không được truyền thụ, vì một khi cô lấy chồng, đối với chồng có tình yêu sâu đậm, có thể đem bí mật gia đình truyền cho chàng ta. Vì tập tục của người Trung Quốc như thế, nên có nhiều điều có ích cho xã hội, chỉ vì bệnh giữ bí mật trong gia đình, đã không thể lưu truyền rộng rãi. Quả tình đó cũng là một sự thiệt thòi cho sự tiến bộ của văn hóa và khoa học vậy.
    Xin trở lại chính truyện, Huyền Châu Tử đưa Đông Phương Sóc về tới Hải Ninh rồi, liền tuân theo lời chỉ dẫn của Thiết Quài tiên sinh mà xử lý. Chẳng bao lâu, Đông Phương Sóc hồi phục tính linh, thân thể và tinh thần trở lại như cũ. Lúc đó, thời hạn biếm chức của Đông Phương Sóc cũng đã mãn, ông ta được Thượng đế vời về trời, bổ nhiệm chức cũ.
    Về phần Huyền Châu Tử, sau khi tiêu diệt được Lý Thiếu Quân, cho rằng lão giao đã mất một cánh tay đắc lực, không làm được chuyện gì nữa, nên đối với việc phòng thủ đã có phần lơ là. Người xưa có nói : "Sống vì biết lo hoạn nạn, chết trong cảnh an lạc” , Đó là tâm lý chung của người đời, Huyền Châu Tử cũng không tránh khỏi. Nhưng đó là chuyện sau này.
    Đây nói về thành Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, có một nhà giàu họ Hà, trong nhà không có đàn ông, chỉ có một bà mẹ già và cô con gái, nương tựa vào nhau mà sống. Bà mẹ là Hồ thị, tuổi đã cao, con gái tên Xuân Anh, xinh đẹp nõn nà, tính tình nghiêm chỉnh, năm đó đã hai mươi lăm tuổi. Hồ thị nghĩ mình tuổi đã cao, dưới gối chỉ được một gái, có ý kiếm người tài trai, đứng đắn, vời về làm rể trong nhà. Nhưng những chỗ sang trọng chê nhà họ Hà đã suy sụp, không xứng đáng với họ. Vả lại, tập tục vẫn lấy việc ở nhà nhờ vợ, chó nằm gầm trạn, làm sỉ nhục. Còn những nhà tầm thường lại không vừa ý mẹ con Hồ thị. Vì thế, tháng ngày lần lữa, cô nương đã hai mươi lăm tuổi vẫn chưa định mối lương duyên. Hồ thị thường lấy việc đó làm lo lắng, trong khi Xuân Anh chỉ mong được hầu hạ bên mẹ, là vui. Cô nói :
    - Việc lấy chồng hay không lấy, con chẳng bận tâm, chỉ mong sao mẹ sống lâu trăm tuổi, con ở giá, hầu hạ mẹ đến già, là đủ mãn nguyện.
    Hồ thị mắng :
    - Con nha đầu điên khùng, lớn tướng còn nói chuyện khùng điên. Mẹ chẳng có nhiều âm công cũng không tích chứa được bao nhiêu đức hạnh, làm sao có thể nói chuyện sống lâu trăm tuổi ? Vả lại nếu được đáng như chí nguyện của con trong một nhà chỉ có hai bà già sống với nhau, lúc sống không có người ngó tới, lúc chết chẳng ai tiễn đưa, mai sau tổ tiên không có người hương khói thờ phụng, rốt cuộc chẳng phải điều tốt đẹp gì. Theo mẹ tính, từ nay chúng ta đừng thèm hỏi tới gia thế ra sao, chỉ cầu được người nào nhân phẩm đoan chính, gả chồng cho con là được rồi. Nếu con biết hiếu thuận với mẹ, thì đừng nên quật cường cãi lời mẹ, đòi ở giá, hầu hạ mẹ suốt đời.
    Xuân Anh nghe vậy, liên tiếp gật đầu, nói :
    - Xin tùy ý mẹ tác chủ, con quyết không dám cãi lời mẹ.
    Hồ thị nghe con nói vậy, rất vui lòng.
    Không bao lâu, trong nhà bỗng xảy ra một vụ trộm lớn, bao nhiêu đồ đạc trong phòng Hồ thị, kẻ trộm cuỗm đi sạch sành sanh. Báo quan, cho người truy bắt, không ra tung tích. Hồ thị bất giác rơi nước mắt, nói :
    - Anh nhi, mẹ nghĩ việc này xảy ra là vì trong nhà ta không có đàn ông, mới khiến chúng coi thường, nẩy sinh lòng hiếp đáp mẹ con ta. Hôm nay mới chỉ là bọn trộm lén lút, giả sử như gặp phải một toán cướp, ngang nhiên xông vào nhà uy hiếp, thì mẹ con ta chỉ có nước đưa tay chịu trói, chứ còn làm gì khác ? Chúng cướp đi đồ đạc chưa phải điều quan trọng, vạn nhất chúng lại có hành vi vô lễ thì mẹ con ta còn làm người sao được ?
    Nói đến đó, bất giác động mối thương tâm, bà khóc rống lên. Xuân Anh khuyên giải một hồi, chợt nẩy ra một ý kiến, nói :
    - Mẹ đừng lo lắng, buồn phiền, con vừa nghĩ ra một kế này đây. Con nghĩ tặc nhân sở dĩ to gan là vì nhà ta phòng ốc nhiều mà số người ít. Vậy chúng ta nên đem những phòng trống cho người khác thuê, không cần đòi hỏi giá cao, chỉ cần tìm được những người chính trực, biết phép tắc, cho họ thuê, để làm người hàng xóm tốt, hai bên chiếu cố lẫn nhau những khi tối lửa tắt đèn. Mẹ thấy việc này có được không ?
    Hồ thị cho là ý kiến hay, liền bảo Xuân Anh viết giấy thông báo cho thuê nhà, đem dán khắp chỗ ngã ba đường. Chưa đầy ba ngày sau, người tới hỏi mướn nhà không ít, nhưng đều là những kẻ nghề nghiệp không chính đáng, hoặc là số nhân khẩu quá đông đảo chẳng vừa ý Hồ thị chút nào. Đến ngày thứ tư, từ sáng sớm đã có một vị tu sĩ áo trắng, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son, thần thái ôn nhã, nói năng dịu dàng, tới hỏi thuê nhà. Theo lời anh ta nói, anh là con quan, vì ham mê cảnh sông núi Hàng Châu thanh nhã, muốn tìm một nơi tạm trú. Anh còn nói cha anh từng làm quan lớn, đã qua đời, mẹ và các em anh hiện ở Kiến Nghiệp, chừng nào thuê được nhà, sẽ đem cả gia đình tới ớ chung. Mẹ con Hồ thị thấy chàng trai có phong thái đẹp đẽ, rất vừa ý. Lại nghe chàng là con quan, số nhân khẩu khá đông, cảm thấy không có điều gì trở ngại, liền chấp nhận. Chàng trai hỏi tới giá thuê nhà, Hồ thị nói rõ ý mình, chi muốn chọn hàng xóm tốt, chứ không đòi hỏi tiền thuê nhà cao. Chàng trai không chiếm tiện nghi về phần mình, xỉa liền hai trăm lạng bạc để làm tiền đặt cọc, chừng nào đem gia quyến tới, sẽ định lại tiền thuê nhà. Hồ thị thấy chàng ta xài tiền rộng rãi, càng tin chàng là công tử con quan. Hỏi đến tên họ, chàng khai là họ Vương, tên Thành Phu, rồi ra đi.
    Nửa tháng sau, Vương Thành Phu lại tới, nói ở bên Kiến Nghiệp có nhiều việc, nhất thời không giải quyết được, mà bản thân anh ta lại muốn ở thành Hàng Châu đọc sách, chỉ dẫn theo vài gia nhân, tới đây trước. Hồ thị cùng Xuân Anh rất tin tưởng Thành Phu là người qui củ, chính trực, lẽ nào lại không chấp thuận. Thành Phu mừng lắm, ngay hôm đó đem hành lý, đồ đạc vận chuyển tới, đều là những thứ đẹp đẽ khác thường. Họ Hà tuy là nhà giàu, đồ đạc bầy biện trong nhà cũng nhiều thứ trân quí, mà thấy đồ đạc của Thành Phu có nhiều món sang trọng, không biết tên gọi là gì. Thành Phu lại dẫn tới một đám đầy tớ nam nữ, ước chừng hơn mười người, đều có vẻ mạnh mẽ. Riêng Thành Phu là người rất mực thành thực, ân cần. Trừ những lúc đọc sách ra, anh ta tới nhà sau, cùng Hồ thị nói chuyện, nói rằng Hồ thị có tướng mạo và tính tình rất giống mẹ anh, nên nhận Hồ thị là mẹ nuôi, cùng Xuân Anh kết làm anh em, bất tất phải tránh hiềm nghi. Hai người thời thường gặp nhau, hai anh em cùng hầu hạ dưới gối Hồ thị, rất vui vẻ. Hồ thị thấy vậy, tỏ ra rất hài lòng, lâu dần có ý vời anh ta ở rể. Bà hỏi thăm đám gia nhân của Thành Phu, biết anh này có tâm chí cao, chỉ muốn chọn một người con gái tài mạo song toàn, vì thế đến giờ vẫn chưa có vợ. Năm nay, anh ta được hai mươi lăm tuổi, bằng tuổi với Xuân Anh. Hồ thị nghe được tin đó, trong lòng vui mừng, mới ướm hỏi ý Xuân Anh.
    Xuân Anh và Thành Phu quả là một cặp gái sắc, trai tài, xứng đôi vừa lứa, tình cảm thật sâu đậm. Nghe mẹ hỏi, Xuân Anh bất giác đỏ ửng đôi má, cười bẽn lẽn, nói :
    - Vương ca ca là người có nhân phẩm rất tốt, mẹ muốn tính chuyện gì, cứ việc tính đi.
    Hồ thị nghe vậy, biết con gái đã ưng chịu, chỉ chưa biết ý Thành Phu ra sao. Trước mắt không có ai để ủy thác việc mai mối, chỉ có một người em họ là Hà Đức Sơn, thường tới nhà chơi, đã gặp Thành Phu vài lần, được Thành Phu gọi là cậu, có vẻ thân thiết. Hồ thị mới gọi Đức Sơn tới, ngỏ ý cho biết.
    Hà Đức Sơn tất nhiên tán thành, vội tới gặp Thành Phu, đúng lúc Thành Phu đang ở trong phòng, làm một công việc gì đó. Đức Sơn đứng ngoài cửa sổ, cất tiếng tằng hắng. Thành Phu ở bên trong nghe được, vội chạy ra, hỏi:
    - Ông cậu tới đây có chuyện gì .
    Đức Sơn nắm tay Thành Phu, cùng bước vào phòng, nở nụ cười, nói:
    - Tôi đặc biệt tới chúc mừng anh đây.
    Thành Phu mời ngồi, hỏi :
    - Ông cậu là bậc trưởng bối, không nói chơi bao giờ. Có việc gì đáng mừng, hãy nói rõ cho cháu biết.
    Đức Sơn cười, đem ý của mình tới đây nói rõ cho Thành Phu biết. Thành Phu rất vui mừng, nói :
    - Anh muội chịu kết hôn với cháu, lẽ nào cháu lại phản đối ? Nhưng cháu một thân nơi đất khách, việc gì cũng nên làm phiên phiến cho xong, xin mẹ nuôi, cùng cậu và muội muội chu toàn mọi chuyện.
    Hà Đức Sơn cười :
    - Hai bên đã muốn kết thân, hà tất phải câu nệ thói tục ? Chỉ cần anh ở đây làm rể, mọi việc đều có thể thương lượng.
    - Hiện tại đã ở chung một nhà, có khác gì ở rể ? Sau này, thành hôn xong, cháu sẽ đón mẹ và các em về đây nuôi dưỡng, hai nhà như một, tình càng thêm thân.
    Đức Sơn nghe Thành Phu nói vậy, trở về nói lại với Hồ thị, mẹ con Hồ thị đều cho rằng giải quyết như vậy là rất thỏa đáng, nhưng hai trẻ đều không còn nhỏ tuổi, nên sớm tổ chức đám cưới là hay nhất. Đức Sơn đem ý đó nói lại với Thành Phu, tất nhiên Thành Phu đồng ý ngay. Hai bên chọn ngày lành, trang hoàng nhà cửa, tổ chức một đám cưới sang trọng, vì hai bên đều là nhà giàu có. Thành Phu tuy ở đất khách, nhưng bạn bè quen biết cũng nhiều, đều kéo tới giúp đỡ và chúc mừng đám cưới. Hồ thị thấy Thành Phu tướng mạo và thái độ chững chạc, lấy làm mừng lắm, và vì yêu con gái, càng quí trọng chàng rể.
    Một điều lạ lùng thứ nhất là Thành Phu thường nói gia quyến ở Kiến Nghiệp, mà sau khi cưới chẳng thấy đón về. Ba năm sau, cũng không hề thấy gia đình anh ta tới thăm lần nào. Hồ thị vì tuổi đã già, chỉ cầu mong con gái, con rể luôn luôn ở gần bên gối, nay được hai con ở chung nhà là đủ mãn nguyện, chẳng quan tâm tới chuyện gì khác. Xuân Anh là cô gái thông minh tuyệt đỉnh, thấy chồng có những điểm khác thường, lẽ nào lại chẳng nghi ngờ? Thường ngày, cô vẫn để ý quan sát thái độ và hành vi của anh ta, nhưng chẳng thấy có điều gì khác với người bình thường. Vả lại anh ta còn rất thương yêu vợ nữa, nên mối nghi ngờ Xuân Anh chỉ để trong dạ mà thôi. Bấy giờ, Xuân Anh đã sinh đôi được một trai, một gái. Điều kỳ lạ là trước khi sinh nở, cô nằm mơ thấy rồng vàng hiện xuống. Lúc tỉnh dậy, hỏi ý Thành Phu, anh ta nói :
    - Đó là khí tượng đế vương, chẳng phải con chúng ta có phúc phận lên ngôi cửu ngũ hay sao ?
    Nhưng sợ tin tức này đồn ra ngoài dễ mang họa, ngăn cấm Xuân Anh không được tùy tiện nói cho người khác biết. Xuân Anh cũng bán tín bán nghi.
    Qua ba năm nữa, lại sinh đôi, cũng một trai một gái, và cũng thấy mộng triệu như lần trước. Nhưng lần này, cô nhìn thấy rõ ràng hơn. Cô thấy con rồng trong mộng đích xác không phải con rồng bình thường, mà có một vẻ gì hung tợn, rất đáng sợ. Lúc tỉnh dậy, cô đem điều nghi ngờ nói với Thành Phu. Anh ta vừa nghe nói tới hình rồng kỳ dị, liền biến đổi sắc mặt, nhưng ngay sau đó lại giữ vẻ mặt tươi cười, và dùng giọng dịu dàng bàn bạc với vợ một hồi. Trong vẻ tươi cười, dịu dàng đó vẫn biểu hiện một thái độ dữ tợn, hăm dọa. Lúc đó, trong lòng Xuân Anh lưỡng lự, không biết phải suy nghĩ ra sao, là vì tình vợ chồng lâu nay vẫn khắng khít, luôn luôn đằm thắm, và thái độ của anh đối với vợ vẫn bầy tỏ thành ý. Cô cảm thấy Thành Phu có nhiều điều cổ quái, nhưng những điểm nghi ngờ đó cô chỉ có thể để trong lòng, không công khai nói ra được. Sau lần sinh nở thứ hai, Xuân Anh càng để tâm quan sát kỹ hình tích của chồng, thăm dò cả từng lời ăn tiếng nói, nhưng từ trước tới sau anh ta không biểu lộ một điều gì đặc biệt. Riêng đối với gia quyến anh ở Kiến Nghiệp cô thăm dò nhiều lần, anh ta mới thổ lộ cho biết mẹ anh qua đời đã lâu rồi, bà mẹ hiện ở Kiến Nghiệp chỉ là mẹ kế, là người hung dữ, nham hiểm, và mấy đứa con do bà ta sinh ra tất nhiên cũng giống mẹ, nên anh và các em không thể hòa thuận. Lúc chúng ta mới đính hôn, chuyện xấu trong gia đình, anh không tiện nói ra. Về sau, nhiều lần muốn thổ lộ tình thực cùng em, nhưng ngại chuyện làm con không thể nói xấu bố mẹ, anh đành nhịn? không thể nói rõ bí mật đó. Nay hiền thê đã nghi ngờ, nếu anh không nói thật, ắt trong lòng em cứ ấm ức tình cảm vợ chồng vì thế sứt mẻ, anh đành thố lộ chân tình. Nói tới chỗ thương tâm đó, anh chàng để rơi mấy giọt nước mắt, khiến Xuân Anh xúc động, xua tan mọi nghi ngờ, mà tình vợ chồng càng thêm khắng khít.
    Một buổi chiều nọ, khí trời nóng bức, Hồ thị cùng bốn đứa cháu đều ở vườn hoa đằng sau hóng mát. Thành Phu không chịu nổi trẻ con quấy nhiễu, một mình nằm trên chiếc giường thấp, kê dưới dàn dậu, ngả lưng, cách xa đám đông chừng một trăm bước. Gió mát hiu hiu, tinh thần sảng khoái, Thành Phu bất giác chìm vào giấc mộng. Hồ thị đang cùng lũ trẻ nô đùa, chẳng để ý tới anh ta.
    Gần bên dàn dậu, có trồng rất nhiều cây ăn trái, trên mỗi cây đều có tổ chim. Hồ thị vốn tính nhân từ, không cho phép gia nhân được phá tổ chim. Vì thế, chim kéo về làm tổ rất đông, hầu như mỗi cây đều có một, hai tổ. Bỗng nghe chim kêu ráo rác, cất cánh bay tứ tán, Hồ thị chợt nhớ tới con rể đang nằm ngủ dưới dàn dậu, mới bồng một đứa cháu, khoan thai bước lại gần xem thử. Nào ngờ vừa bước được chừng mười bước, nhìn về phía dàn dậu, bất giác kêu lên một tiếng, buông đứa bé trên tay xuống, ngã lăn ra đất, miệng sùi bọt mép, bất tỉnh nhân sự. Đứa bé bị quăng đau điếng, cũng khóc ré lên.

    #62
      bevanng 21.07.2008 14:33:45 (permalink)
      Hồi Thứ 70

      Nguyễn Đức Lân dịch
      bevanng sưu tầm và hiệu đính.

      Hiện nguyên hình, dọa chết mẹ vợ
      Được mộng triệu, xóa tan nghi ngờ.


      Hồ thị lại gần dàn dậu, mở cặp mắt già kèm nhèm nhìn chàng rể, bỗng hét lên một tiếng, ngã lăn ra đất. Đứa bé bồng trên tay lúc đó vừa bốn tuổi, bị quăng ra đất, khóc ré lên, mở mắt nhìn cha đang nằm trên giường, cũng hét lên một tiếng, lăn ra chết giấc, như bà ngoại. Những tiếng ầm ĩ làm kinh động Thành Phu đang nằm trên giường. Anh ta vội tỉnh dậy, leo xuống giường, nâng Hồ thị lên, và ẵm lấy đứa bé. Ngay lúc đó, Xuân Anh và hai người hầu gái vội chạy tới, thấy Thành Phu đang bối rối, mới hỏi nguyên do. Đứa bé tỉnh lại trước, thấy người đỡ mình dậy chính là cha, lại khóc thét lên, ra sức quẫy đạp, thoát khỏi tay cha, níu chặt lấy mẹ, miệng kêu lên:
      - Cha không phải người ta, cha không phải người ta. Con không chịu cho cha ôm.
      Xuân Anh nghe vậy, ngạc nhiên quá chừng, vội ôm lấy đứa bé, đồng thời lên tiếng hỏi Thành Phu, đầu đuôi chuyện này thế nào ?
      Thành Phu nghe con nói, không hiểu nghĩa gì trong đầu, chỉ đứng ngây người ra một hồi. Chừng nghe vợ hỏi, anh ta mới nói :
      - Chính anh cũng không hiểu con bé nó nói gì. Bây giờ phải mau mau đưa nó vào nhà, rồi sẽ tính. Mọi người xúm lại đây, chẳng làm được chuyện gì.
      Nghe câu nói đó, Xuân Anh bừng tỉnh, ôm chặt lấy đứa bé. Những đứa trẻ khác nghe tin, cùng chạy lại. Thành Phu ngẩn ngơ một lát, chợt cau mày, trừng mắt, bỗng đưa tay đấm vào bụng mình bình bịch, trên mặt hiện ra vẻ sát khí đằng đằng, quay lại đám gia nhân .
      - Hãy trông coi các vị công tử, đừng để chúng chạy lung tung.
      Rồi tự mình phấn chấn tinh thần, ghé vai cõng mẹ vợ. Xuân Anh muốn ngăn cản. Thành Phu nói liền:
      - Mẹ xưa nay ưa sạch sẽ, lại là một vị thái thái lão thành, qui củ, không chịu cho người khác cõng bà đâu. Ta là con rể, được bà coi chẳng khác gì con trai, đương nhiên không cần câu nệ. Vả lại lão nhân gia rất ưa thích ta, chưa bao giờ chê ta không sạch sẽ.
      Xuân Anh đành nghe theo. Mọi người đi trước, Thành Phu cõng mẹ vợ theo sau, cùng rời khỏi vườn hoa, tiến về nhà. Thành Phu đi chậm rãi, cách mọi người chừng mười bước, Xuân Anh nghe được rõ ràng Hồ thị còn phát ra tiếng thở khò khè từ trong cổ họng. Mọi người đều cho rằng bà lão chẳng bao lâu sẽ tỉnh lại thôi, nên có thể yên tâm. Hồi lâu, mọi người tiến vào phòng chính, Thành Phu đặt Hồ thị xuống giường, thật nhẹ nhàng. Đột nhiên, anh ta kêu lên :
      - Tại sao bà già vẫn chưa lên tiếng ? Mọi người lại mà coi, dường như bà đã..., bà làm sao thế này ?
      Nghe câu nói nửa chừng, Xuân Anh kinh hãi, biết mẹ mình đã gặp lành ít dữ nhiều, vội đưa đứa bé cho hai người hầu gái, đích thân chạy tới coi, thấy Hồ thị hai mắt lồi lên, cái lưởi thè lè, giống như người thắt cổ. Sờ mó thân thể mẹ, thấy không còn chút hơi thở. Xuân Anh đập giường, đập bàn, kêu trời kêu đất, khóc lóc thảm thiết. Thành Phu cũng tự động nằm phục xuống giường, khóc rống lên. Hai người khóc một hồi, đám gia nhân đều kéo vào, cùng khuyên giải. Đi phía sau là ông cậu Đức Sơn, và bà mẹ Vưu thị, cùng đám con ông bà, được tin, nhất tề kéo đến. Mọi người lại khóc lóc một hồi, Thành Phu không đợi người khác mở miệng, đã lên tiếng trước :
      - Mẹ vợ tôi chết rất kỳ lạ, thật cổ quái. Nếu nói là bị người ám hại, lão nhân gia xưa nay có thù oán với ai đâu . Vả lại chính tôi cõng bà vào nhà, mọi người đều nhìn thấy rõ ràng, vì không rời xa tôi một bước, cho tới lúc tôi đặt bà lên giường. Có thể có một con ma thắt cổ, đi theo bà sát nút, lợi dụng lúc chúng ta sơ hở, đã lấy đi tính mạng của bà, ngay lúc bà còn nằm trên lưng tôi, cũng chưa biết chừng. Việc này xét cho cùng, quả thật hoang đường. Có ông cậu ở đây, là bậc trưởng bối cua chúng cháu, cậu thử điều tra việc này xem sao.
      Đức Sơn là một vị thánh hiền trong làng men, chỉ biết uống rượu ngon, ăn thịt béo, ai mà đem rượu thịt mời ông, ông đáp ứng liền, chứ lúc này nghe Thành Phu nói, ông giữ vững tông chỉ của mình là không xen vào chuyện người khác, nên ông vội nói :
      - Cháu rể nói không sai chút nào. Mẹ vợ cháu do cháu đích thân cõng vào phòng, kẻ nào có thể, không hơi không tiếng, lấy đi sinh mạng của mẹ vợ cháu, ngay trên vai cháu được chứ ? Lại nói chơi cho vui, nếu cháu rể có ý mưu lại mẹ vợ mình, thì việc đó cũng chẳng phải dễ dàng.
      Nghe câu nói đó, Thành Phu bất giác biến sắc mặt. Nhưng anh ta chưa kịp lên tiếng, đã nghe Đức Sơn nói tiếp :
      - Suy nghĩ kỹ thì thấy, ngoại trừ điều anh vừa nói về con ma thắt cổ, lợi dụng lúc sơ hở để ám hại mẹ vợ anh, thì không còn cách giải thích nào khác có thể chấp nhận. Tóm lại một câu, đây hoàn toàn là oan nghiệt từ kiếp trước, hôm nay báo ứng. Người đã chết không thể sống lại, việc khẩn yếu lúc này là lo hậu sự, chứ nói chuyện không đâu, có làm được điều gì ?
      Thành Phu nghe vậy, như được cất đi khối đá ngàn cân trong lòng. Mọi người nghe theo, lo việc ma chay cho Hồ thị được tươm tất
      Xuân Anh ừ khi nghe Thành Phu giải thích rõ việc nhà của anh ta ở Kiến Nghiệp, bao mối nghi ngờ trong lòng đã dứt bỏ hết. Nào ngờ không bao lâu, lại xảy ra đám tang kỳ lạ này. Thấy mẹ chết thảm, cô lại nẩy sinh mối nghi ngờ trong lòng. Có một chứng nhân là con bé con, được bốn tuổi, đã có hiểu biết một phần nào. Theo lời nó nói thì : "Chiều hôm đó, bà ngoại ẵm con tới chỗ cha đang nằm, thì không thấy cha đâu, chỉ thấy một con rắn, lớn thật là lớn, lại giống như con rồng, được mô tả trong cuốn sách học của ca ca. Nguyên cha chỉ đóng một cái khố, từ cái khố trở lên là hình rồng từ cái khố trở xuống là thân rắn. Ngoại trông thấy, liền kinh hãi, thét lên một tiếng quăng con xuống đất. Khi con đau đớn, hét lên một tiếng, con vật kia liền biến mất, chỉ thấy cha từ trên giường leo xuống, ẵm con. Lúc đó, mẹ và các anh đều chạy lại. Đến nay, mỗi lần nhìn thấy cha, con vẫn còn sợ hãi, run bần bật".
      Xuân Anh nghe lời báo cáo đó, lại nhớ tới mộng triệu, mỗi lần sắp sinh các con. Tất cả những điều nghi ngờ cũ đều trở lại, tạo thành một nghi án. Cô chỉ cảm thấy rằng người chồng thân ái của cô ắt phải là một thần long chuyển kiếp, nó mới có những chứng tích kỳ lạ như vậy. Mà những chứng triệu đó, e rằng vị tất chồng cô đã biết được. Vì thế, anh ta mới không thể giải thích rõ rang. Nhưng chẳng cần anh ấy biết được hay không biết, rốt cuộc đã đều là những chứng triệu tốt, cho thấy anh là người phi thường, mai sau làm nên sự nghiệp lẫy lừng, cũng chưa biết chừng. Nghĩ đến đó, cô cảm thấy vui mừng, an ủi.
      Ngày tháng thoi đưa, thấm thoát lại qua nhiều năm, đứa con gái nhỏ của Thành Phu đã được mười một, mười hai tuổi. Thành Phu ít khi rời khỏi nhà, và cũng không thấy bạn bè quí hiển nào của anh ta tới chơi. Tuy nhiên, tình vợ chồng ân ái trước sau vẫn không thay đổi. Xuân Anh cũng chẳng mong mỏi chồng mình cầu danh, cầu lợi, phong hầu, bái tướng. Nhưng cuộc đời thay đổi không chừng, ảo cảnh vô cùng, một tấm lòng ưa yên tĩnh rốt cuộc cũng bị những cảnh tượng quái dị cũ quấy rối. Một hôm, vợ chồng Đức Sơn tới chơi, nói chuyện vãn, gặp đúng lúc Thành Phu vắng nhà. Bà vợ Đức Sơn là Vưu thị tính tình rất thành thật, trung hậu, xưa nay lại rất yêu quí Xuân Anh. Xuân Anh cũng coi cậu mợ như cha mẹ, có những điều không thể nói trước mặt Thành Phu, cô đều đem ra bàn bạc với cậu mợ. Hôm đó, trong lúc vô tình có nhắc tới việc Hồ thị chết rất kỳ lạ, thảm thương, mọi người đều không hiểu chân tướng việc đó ra sao. Xuân Hương đem những lời con bé đã nói, thuật lại rõ ràng, nói :
      - Cháu có một vấn đề nan giải, đã lâu muốn thỉnh giáo cậu mợ. Việc này rất quan trọng, không dám tùy tiện nói ra. Hôm nay, nhân nhắc tới chuyện của mẹ cháu, cháu nín nhịn không được, phải đem nỗi lòng chất chứa bấy lâu, bộc bạch hết cùng cậu mợ.
      Hai người hỏi chuyện gì quan trọng, mà phải đắn đo như thế. Xuân Anh mới đem những điều nghi ngờ về chồng mình, kể từ những ngày đầu đính hôn, cho tới lúc Thành Phu dọa chết mẹ mình, nói ra tường tận. Nói xong, lại đau đớn, chảy nước mắt, nói tiếp :
      - Cháu vẫn biết mẹ cháu chết oan, nhưng thật tình anh ấy cũng không có lòng dạ nào mưu sát mẹ cháu. Vả lại, việc này làm ầm ĩ lên, một nhà tan nát, đám con thơ biết lấy ai nuôi nấng, dạy dỗ ? Một điều nữa là cháu thấy anh ấy có nhiều chứng triệu kỳ lạ, nghĩ rằng anh ấy phải là người anh tuấn kỳ tài. Một tấm lòng ngu si vẫn hy vọng anh sẽ lập nên sự nghiệp lớn lao, làm vẻ vang cho mẹ cháu, khiến lão nhân gia ở dưới suối vàng cũng được nhắm mắt, mà bản thân Thành Phu cũng kể như lấy công chuộc tội. Vì nghĩ vậy mà đối với việc này, cháu đành giữ kín trong lòng, không dám tiết lộ với người nào. Cháu thường nghĩ đến người mẹ đã qua đời nếu ở dưới suối vàng có hiểu biết, chắc cũng không oán hận cháu chỉ biết ủng hộ chồng, mà quên báo thù cho mẹ. Đáng thương cho cháu, từ khi mẹ cháu mất đi, cháu không hiểu Thành Phu suy nghĩ những gì. Mỗi khi nghĩ tới mối thù của mẹ, cháu tự giận thân, sao không đem chuyện anh ấy dọa chết mẹ cháu, tuyên bố cho mọi người cùng biết, dù anh ấy cố ý hay vô tình, có tội hay không tội, cũng phải chịu vương pháp xét đoán. Nhưng cũng vì nghĩ đến mẹ, cháu lại chuyển nghĩ khác, mong anh ấy lập nên sự nghiệp lớn lao, lo cho dân cho nước, lại có thể xin phong cáo cho mẹ cháu, vì đàn con nhỏ lập chút căn cơ, thì chắc rằng mẹ cháu dù đã qua đời, cũng có thể lượng thứ cho anh ấy. Nhưng chuyện đó cứ như mối bòng bong trong đầu óc và tâm khảm cháu, rốt cuộc cũng không sao giải quyết. Nhưng chiếu theo chí hướng và hành vi, thì con người đó chẳng có hy vọng làm nên anh hùng, hào kiệt, chẳng thể làm vinh diệu tổ tông. Mà anh ta không làm nên sự nghiệp, thì tâm nguyện của cháu đối với mẫu thân rốt cuộc chẳng thể hoàn thành. Điều kỳ lạ là con người này, nếu nói chỉ là một nhân vật bình thường, tại sao lại có quá nhiều chứng triệu khác thường, mà đã có chứng triệu khác thường, tại sao đã lâu vẫn chưa thấy biểu hiện điều bất ngờ ? Cháu thủa nhỏ đọc sách, từng biết rằng từ xưa đến nay có biết bao đế vương, danh thần, lúc mới chào đời đều có những chứng triệu khác thường, mà mộng thấy rồng vàng là điềm đại quí, phi phàm. Thưa cậu mợ, chẳng những lúc sinh bốn đứa bé, cháu đều có điềm báo mộng rồng vàng như nhau, mà bản thân Thành Phu cũng hiện nguyên hình, dọa chết mẹ cháu. Những hiện tượng đã có rất nhiều, tại sao đến giờ vẫn chưa thấy tình trạng phát đạt, bay cao ? Đối với việc này, cháu cứ ôm lòng hoài nghi cho tới tận hôm nay, thiết nghĩ cậu mợ là người biết nhiều hiểu rộng, nhất định phải biết nguyên do việc này ra sao chứ.
      Đức Sơn nghe cháu gái nghị luận dài dòng, chỉ biết được cháu rể quả thật đã có những cử động gì đặc biệt, nhưng anh ta lại không để ý tới chuyện công danh, phú quí. Ông rất sợ bị lôi kéo vào chuyện nhà người khác, nên ngồi ngẩn mặt ra như con gà gỗ, không biết đường nào mà trả lời những điều Xuân Anh xin thỉnh giáo. Vưu thị thấy vậy, mới nói :
      - Này cháu gái, cháu là người thông minh, lại đọc sách đã nhiều, còn giỏi hơn nhiều người đàn ông nhà khác, tại sao lại đi hỏi cậu mợ là những người quê mùa dốt nát, không thông hiểu việc đời ? Nhưng mợ có nghe nói : ngoài thành có Đông Hoa đế quân linh ứng khác thường, nhiều người tới cầu phúc được phúc, cầu tài được tài, cầu con được con. Cháu đã có điều hoài nghi trong lòng, lúc này mọi người lại đang nhàn rỗi, không có việc gì làm, tại sao chúng ta không chuẩn bị nhang, nến, cùng tới miếu giãi tỏ lòng mình, cầu đế quân ban cho lá xăm linh thiêng, thì mọi chuyện sẽ sáng tỏ ngay chứ gì ?
      Câu nói đó thức tỉnh Xuân Anh, cô vội nói :
      - Mợ nói không sai chút nào. Đông Hoa đế quân quả là vị thần tối linh cảm, miếu của ngài lại không xa mấy, chúng ta chọn ngày tốt, sao bằng chọn ngày hôm nay ? Nhân tiện cậu mợ đều có mặt ở đây, cháu xin theo cậu mợ đi liền tức thời. Thành Phu có nói là đi chơi tới chiều tối mới về, lúc này đang là giờ ngọ, chúng ta đi sớm về sớm, anh ấy không biết được việc của chúng ta.
      Đức Sơn, Vưu thị nghe vậy, tức thì cao hứng trở lại, kêu gọi gia nhân chuẩn bị kiệu, sắm sửa nhang nến đầy đủ. Ba người cùng ngồi kiệu, ra đi. Vưu thị ngồi kiệu, dẫn theo thằng con trai út của Xuân Anh, Xuân Anh cũng dẫn theo đứa gái út, lại có một toán gia nhân nam và nữ đi theo, thành một đoàn bảy, tám người, cùng ra khỏi thành, kéo tới miếu Đông Hoa đế quân. Tới nơi, ba người xuống kiệu, đám gia nhân dẫn hai đứa bé cho chúng đi chơi, ngắm cảnh.
      Xuân Anh nhường cho cậu mợ thắp nhang trước, cô theo sau, tiến lên, thành khẩn quì xuống, dập đầu lạy, cầu xin một lá xăm linh ứng. Hồi lâu, xin được một quẻ, ba người cùng xúm lại coi. Thì ra chỉ là một tờ giấy trắng, không có chữ nào in trên đó. Ba người không hiểu ý ra sao. Xuân Anh mới nói :
      - Tại chúng ta không chọn ngày, trai giới, tắm gội, nên thần linh trách chúng ta không thành tâm, mới không chịu ban xăm.
      Vưu thị khuyên cháu gái xin một quẻ xăm khác, Xuân Anh nghe lời, lại quì xuống cầu khẩn, khấn vái lâm râm. Hồi lâu, lại xin được một quẻ, nhưng vẫn chỉ là tờ giấy trắng, không chữ. Vưu thị thay mặt cháu, cũng cầu xin một quẻ, nhưng cũng như hai lần trước mà thôi. Vưu thị nói :
      - Nhất định ba chúng ta đã có người đắc tội với thần linh, ở lâu trong miếu càng khiến đại đế chán ghét, chi bằng mau trở về nhà thôi.
      - Xuân Anh cũng tin tưởng như vậy. Ba người cao hứng ra đi, bây giờ tiu nghỉu trở lại nhà. Xuân Anh vì muốn giải mối ngờ mà ra đi, nay trở về càng nghi ngờ thêm lên.
      Tối hôm đó, cô cảm thấy thần trí không yên, cứ nằm trằn trọc suốt đêm, khiến Thành Phu không sao ngủ được. Lúc đầu, anh nghi cô mắc bệnh, hỏi han mấy lần. Xuân Anh sợ chồng nghi ngờ, đành nằm cuộn tròn, không động đậy, Thành Phu mới nhắm mắt ngủ say. Xuân Anh vẫn còn bàng hoàng. Cho đến lúc gà gáy lần thứ ba, hừng Đông ló rạng, cô mới cảm thấy vô cùng mệt mỏi, ngủ thiếp đi.
      Trong giấc mơ, cô thấy một người tiên trẻ tuổi, mặc quần áo đạo sĩ, tay cầm phất trần, tự xưng là đồ đệ của Đông Hoa đế quân, tên gọi Chung Li Quyền, nói :
      - Vâng pháp chỉ đế quân, ta tới báo cho biết chồng ngươi đắc tội với trời, đã nhiều lần lọt lưới trời. Lần này tội ác của hắn chất đầy, đế quân sai ta tới giết hắn. Vì nghĩ ngươi tính tình trung hậu, bình sinh không phạm tội gì, lấy lầm phải kẻ phỉ đồ, tình cũng đáng thương, nên ta đặc biệt cảnh giới người. Nếu gặp việc gì khác ý hãy mau tránh đi chỗ khác, không được nuôi lòng luyến ái riêng tư, mà nghĩ chuyện làm xằng, tự rước lấy họa. Hôm nay, các người tới miếu xin xăm, đế quân không chịu chỉ bảo, là vì việc này tiết lậu ra, yêu nhân lẽ nào chịu bó tay đợi hành hình ? Vạn nhất hắn có hành động bất ngờ, há chẳng phải điều nguy hiểm đáng sợ hay sao ? Vì thế mới phải đặc biệt giữ bí mật. Người đã hiểu việc này lợi hại ra sao, phải nên cẩn thận, giữ gìn, răn trừng, chớ để hối tiếc về sau.
      Nói rồi, bỏ đi liền. Xuân Anh chợt tỉnh dậy, sợ toát mồ hôi. Nhớ lại cảnh trong mộng, dường như vẫn rành rành trước mắt. Qua tình hình việc xin xăm, cô cảm thấy chuyện này lành ít dữ nhiều. Lại nhớ tới tình vợ chồng lâu năm, biết chắc chồng mình là người khá giữ gìn phép tắc, có tội lớn gì đâu mà trời phải trừng phạt ? Nghĩ tới đó, cảm thấy ảo mộng không bằng cớ, chẳng đáng tin lắm. Ngay lúc đó, Thành Phu tỉnh dậy, thấy Xuân Anh vẫn còn ngơ ngác, nhìn bên dưới, dường như có điều suy nghĩ lung. Anh lấy làm lạ, lại sợ cô mắc bệnh gì chăng, mới đẩy nhẹ một cái, dùng lời ôn tồn an ủi, hỏi thăm cô có cảm xúc gì mà đột nhiên có vẻ thất thường như thế ? Xuân Anh được vỗ về , cảm thấy chồng yêu thương mình rất sâu đậm, đối xử tử tế, bất giác vất bỏ tất cả những lời người tiên đã ân cần dặn dò trong giấc mộng ra khỏi đầu óc, tự nghĩ mình đã đem thân làm vợ người ta, cùng chồng, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu, giấu ai khác thì giấu, chứ giấu chồng là không được. Vì thế cô đem hết những điều đã nghe và thấy trong mộng, nhất nhất kể lại cho Thành Phu nghe. Đưa hai tay ôm ngang lưng Thành Phu, cô cất giọng tỉ tê :
      - Ca ca hãy nghĩ giùm em, cơn ác mộng này có đáng kinh hãi hay không ?
      Hỏi đi hỏi lại mấy lần, Thành Phu vẫn không nói tiếng nào, cô lấy làm lạ, ghé nhìn tận mặt anh ta, bỗng thấy Thành Phu mặt lạnh như băng, hai mắt mở trừng trừng, ngó đăm đăm ra ngoài màn.

      #63
        bevanng 21.07.2008 15:03:53 (permalink)
        Hồi Thứ 71

        Dịch Nguyễn Đức Lân
        Text Version by bevanng

        Thổ lộ chân tình, yêu nhân dụ vợ hiền
        Truyền thụ tà thuật, đất bằng nổi sóng gió.


        Xuân Anh ghé lại nhìn, thấy Thành Phu mặt lạnh như băng, hai mắt mở trừng trừng. Cô kinh hãi quá chừng, vừa lay vừa gọi, Thành Phu bừng tỉnh, cất tiếng cười khan, nói :
        - Chà, thì ra lão già Đông Hoa cố tình gây khó cho ta, sai thằng lỏi con tới đây gây sự. Hắn đã nhận ra tung tích lão giao ta rồi sao ?
        Xuân Anh nghe vậy, lại càng kinh hãi, buông hai tay ra, ngồi ngay ngắn trên giường, đưa mắt nhìn Thành Phu đăm đăm, từ đầu tới chân. Lão giao biết mình lỡ lời, vội làm bộ mặt tươi cười, nói với Xuân Anh :
        - Nói thật với em, vừa rồi anh chỉ hù dọa em chơi thôi. Ai bảo em đem mộng cảnh mơ hồ hăm dọa người ta ? Em hù dọa anh, lại không cho anh hù dọa lại hay sao ? Em coi em kìa ! Sao em có thái độ kỳ lạ như thế ? Cứ như thể lấy mộng làm thực, coi anh là kẻ tội phạm cùng hung cực ác, trời không dung, đất không tha, phải vậy không ? Nói thật với em, anh không có thân phận lớn đến thế, cũng không đủ tư cách làm những chuyện như vậy. Em là người thông minh, sao lại coi ảo mộng không bằng cớ là chuyện thật, mới sáng sớm đã đem ra quấy rầy anh ?
        Xuân Anh xét tình hình, thấy anh ta nói năng không được tự nhiên, rõ ràng là có điều gì muốn che giấu, mà vì tìm cách che đậy như thế, lại càng tỏ lộ cho thấy anh ta đã làm những chuyện quấy.
        Vì thế, cô nghĩ : "Một là không làm, đã làm phải làm cho tới nơi, cô mới đem chuyện đi xin xăm ngày hôm qua, nói rõ cho anh ta biết để coi anh trả lời thế nào. Có thể dựa vào thần sắc, thái độ của anh ta, để tìm ra sự thật. Hai bên thương yêu, coi nhau như một, có tình cảm đôn hậu, nếu quả thật anh ta không phạm tội gì lớn, hoặc giả đó là oan trái từ kiếp trước, thì hai người có thể chuẩn bị sẵn sàng, cùng kéo nhau lên miếu thành hoàng, bầy tỏ tâm nguyện, hứa làm nhiều công đức, cũng có thể tiêu trừ tội lỗi trước đây. Nếu quả thật anh ta mắc đại tội, làm những việc trái lệ, ông trời không thể phù hộ, lúc đó cô lại có chủ kiến : hoặc là sống chết cùng anh, hoặc là đem các con đi xa, vĩnh viễn không bận tâm tới anh nữa. Quyết định như thế rồi, cô đem những điều nghi ngờ trước đây nói rõ, từ lúc anh hiện hình, cho tới việc xin xăm hôm qua, ba lần liên tiếp đều là lá xăm trắng, rồi tới tình huống trong mộng, kể ra rành mạch. Thành Phu nghe kể, chỉ ngước mặt nhìn trời, cất tiếng cười lạt, không nói một câu. Nghe Xuân Anh kể xong, Thành Phu mới chuyển đề tài, hỏi ngược lại cô:
        - Nếu anh vô tội, chẳng nói làm gì. Nếu quả thật anh là tội nhân, xứng đáng bị hành hình, xin hỏi hiền thê, em định đối xử với anh thế nào ?
        Xuân Anh nghe hỏi, buộc miệng nói liền :
        - Chẳng cần phải hỏi, em nhất định giúp anh, cùng chống lại kẻ địch. Nếu chẳng may anh bị người sát hại, em sẽ hướng dẫn các con báo thù, rửa hận cho anh, chết cũng không oán thán.
        Thành Phu nghe vậy, ngồi bật dậy, leo xuống giường, chắp tay vái Xuân Anh, nói :
        - Mong hiền thê đừng quên câu nói hôm nay. Anh sẽ đem hết những việc đã qua, cùng lai lịch xuất thân của anh, nhất nhất nói cho em nghe, để những điều nghi ngờ em chất chứa trong lòng, từ nay sẽ tan tành như ngói vỡ.
        Xuân Anh đáp lễ, khoác chiếc áo lên mình. Hai vợ chồng cùng ngồi chỗ mép giường, Thành Phu buông tiếng thở dài, nói:
        - Ngày nay, thế giới phàm trần không có công đạo, ngay cả các thần tiên trên thượng giới cũng họp thành một đoàn thể thế lợi. Chúng ta chẳng may sinh ra ở thế giới đó, cùng một đám người thế lợi quay cuồng trong đó, chẳng trách được nơi nơi nổi sóng gió. Hiền thê ơi, hôm nay anh sẽ nói hết sự thật cho em biết, mong em đừng kinh hãi. Anh tuy cùng em làm vợ chồng đã lâu năm, lại sinh một đàn con, và giờ khắc này cùng em sánh vai ngồi trên giường nói chuyện chơi, theo tình hình đó, tự nhiên là anh chẳng khác em chút nào, đều là người phàm trần như nhau, nhưng thật ra anh không phải người phàm trần, mà là rồng vàng ở Tây Hải, tu luyện được pháp thân vạn năm không hủy hoại.
        Nói xong câu đó, Thành Phu quay đầu nhìn đăm đăm vào Xuân Anh, coi thần sắc cô ra sao. Xuân Anh nghe câu nói đó, tự nhiên là kinh hãi vô cùng, nhưng cũng may trong đầu cô đã sẵn có chứng triệu kỳ lạ về chồng mình, trong lòng cô đã sẵn hoài nghi anh ta không phải người bình thường, nên mối kinh sợ của cô đã giảm đi phân nửa. Vả lại, cô vừa đáp lời anh, thề cùng sống chết, lại yêu cầu anh nói ra hết sự thật, có gì mà không thể chấp nhận ? Tuy nhiên, Thành Phu cũng nhận ra cô sắc mặt tai tái, mồ hôi ra ướt đẫm, lập tức giữ vẻ mặt tươi cười, tìm lời trấn an :
        - Em gái ngoan, đừng nên sợ. Hiện giờ anh chẳng phải người phàm trần như em hay sao ? Con người ta sinh ra ở đời đều có lai lịch, hoặc là loài vật đầu thai, hoặc là thần tiên bị biếm chích, làm sao biết em kiếp trước không phải một vì tinh tú hoặc quỉ thần chuyển sinh ? Chẳng qua là em không tự biết thân phận mình đấy thôi. Bản thân anh từ lúc sinh ra chưa từng chết lần nào, không biết thế nào là kiếp luân hồi, chỉ có tài biến hóa, không chết mà thôi. Xét cho cùng, hiện giờ em đã có được khí chất của anh, không khác nhau bao xa, nếu gia công tu luyện, cũng có thể đạt tới chỗ vạn kiếp bất tử. Điều đó, người khác cầu cũng không được, em vô tâm lại có cơ duyên đó, quả là điều may mắn vô cùng, còn sợ gì nữa ?
        Xuân Anh nghe nói có thể thành tiên, nửa tin nửa ngờ, mà mừng nhiều, sợ ít, mới gật đầu liền mấy cái, nói :
        - Nếu đã vậy, chúng ta làm vợ chồng đã lâu năm, tại sao anh che giấu em đến tận bây giờ, chưa từng thổ lộ cùng em một lời nào?
        - Anh cũng thường nghĩ chuyện nói rõ cho em biết từ lâu, và khuyên em dụng công tu luyện, sớm thành chính quả. Nhưng vì hôm đó, anh vô tình hiển hiện chân hình, khiến mẹ khiếp sợ mà chết, nên anh nói ra, tất nhiên em sẽ ôm mối thù giết mẹ, mà gây khó với anh. Trong lòng cứ bứt rứt không vui: làm sao em có thể tu luyện ? Và rõ ràng tình cãm của em đối với anh ắt bị thương tổn.
        Xuân Anh nghe vậy, lại liên tiếp gật đầu, nói :
        - Việc đã vì vô tâm mà xảy ra, em còn thù ghét anh làm gì ? Và còn điều này nữa : anh đã là người tiên, tại sao còn kết hôn với em, là một cô gái phàm trần ?
        Thành Phu cười, đáp :
         - Việc này em không biết được đâu. Việc tu đạo thiên biến vạn hóa, có một hạng người không được phép gần nữ sắc, nhưng cũng có những người khác dựa vào việc nam nữ giao hợp để điều hòa âm dương, và dùng vào việc luyện đan. Anh thuộc hạng người sau, và là người của Ma giáo. Nhưng người con gái đã kết hôn với người khác phàm, ắt phải là người sinh ra đã sẵn có tiên duyên, nếu biết tinh nhất tu trì, lâu ngày cũng phải thành tiên. Những người như anh kén vợ, không thể tìm bừa bãi một người phàm nào đó để kết hôn phối. Nếu là người không có chút tiên duyên, mà chỉ là một thân xác hoàn toàn trần tục, thì qua một lần giao hợp, cô ta chẳng có lợi ích gì, mà trái lại anh sẽ bị tổn thất. Tụ họp với nhau vài chục năm, chẳng những không được điều tốt lành gì, mà còn suy cạn tinh khí, nhân đó đọa lạc phàm trần, vĩnh viễn không có hy vọng thành tiên. Vậy chẳng là nguy hiểm lắm sao ?
        Xuân Anh cười cười, nói :
        - Nếu đã nói vậy, bản thân anh cũng phải lưu tâm, đừng tham luyến ái tình, mà công hạnh tu luyện vạn năm phải một sớm tiêu diệt.
        - Điều đó thì không đáng sợ. Chính anh hận nhất là thiên đạo bất công, bị chúng khinh miệt tệ hại. Theo tình hình em thấy trong giấc mộng, thì người nói chuyện với em chính là Chung Li Quyền. Những lời hắn tố cáo với em cho thấy thật tình bọn chúng đang có lòng tru diệt anh.
        Xuân Anh nghe vậy, liền kinh hãi, nói :
        - Tuy rằng nói vậy, nhưng em nghĩ đó chỉ là mộng mị không bằng cứ, có lẽ không phải sự thật đâu.
        Thành Phu cười nhạt, nói :
        - Không phải đâu, không phải đâu. Theo lời hắn nói, anh đã nhiều lần lọt lưới trời. Việc đó quả thật có lai lịch hẳn hoi. Là vì bọn chúng đã vài ba phen gây khó cho giáo phái của anh. Nhưng anh là một nhân tài trong đám thủ hạ của giáo chủ, và là một đại đệ tử của ngài. Những người mà bọn chúng hận nhất, kỵ nhất, ngoài giáo chủ ra, chính là anh. Vì thế bọn chúng đã tìm đủ cách để thu phục anh, nhưng trong Đạo giáo không có mấy người đối địch anh. Năm xưa ở thôn Hoài Hải, đã có nhiều người thuộc phe đó kéo tới, đều bị anh đánh cho thất điên bát đảo, phải trốn chạy khắp bốn phía để giữ lấy mạng sống. Bọn chúng không biết làm sao, mới nghĩ ra một kế sách hèn hạ là dùng nhiều tiền mua chuộc một người đồng đạo của bọn anh là bạng tinh. Nhân lúc anh không đề phòng, tên đó đã trở giáo đánh lại. Việc đó hoàn toàn bất ngờ, anh có nằm mơ cũng không nghĩ tới nổi, đến nỗi bọn anh bị một trận thua liểng xiểng.
        Xuân Anh nghe đến đây, vì tình vợ chồng sâu đậm, bất giác tỏ lòng công phẫn thay cho Thành Phu, nói :
        - Thiên hạ có hạng người vô lương tâm như thế, đáng giết cho rồi ! Không hiểu tên tiểu yêu đó, về đầu bên kia, có được điều tốt đẹp nào hay không ?
        Thành Phu nghe hỏi, ngẩn ngừ một lát, mới cười, nói :
        - Hạng người âm hiểm, gian ác đó, làm sao có ngày phát tích lên được ? Nghe nói hiện nay hắn đang làm thủ hạ cho một điền loa tinh thuộc phe bên kia, mang danh là tu đạo, chứ thật tình chỉ là tôi tớ, là trâu ngựa cho người ta sai khiến. Hạng người vô liêm sỉ đó, anh chẳng buồn nhắc tới làm chi. Sau lần thất bại nặng nề đó, anh vâng pháp chỉ của giáo chủ, tạm ẩn thân, tu dưỡng một thời gian. Ngài nói với anh rằng : "Công hạnh và chí khí của con, so với long vương ở dưới biển hiện nay, cao hơn gấp mấy lần. Theo lý, chức vị long vương đó thuộc về con mới phải. Chỉ vì tâm khí của con quá cao ngạo, con mới bị Thượng đế ghét bỏ, các tiên ganh tị. Vì vậy, vợ chồng Bình Hòa mới chiếm đoạt được địa vị đó. Hiện nay, con cháu chúng sinh sôi nẩy nở, chia nhau chiếm giữ các nơi quan trọng. Bốn người con là Ngạo Quảng, Ngao Nhuận, Ngao Tường, Ngao Quí được phân phong ở các sông hồ. Con có tư chất cao hơn bọn chúng, chỉ vì Thượng đế không ưa, mà trở thành một kẻ tội nhân, đến nỗi thiên hạ lớn là thế, bốn biển rộng là vậy, con cũng không có một chỗ dung thân. Nay nhờ pháp lực của ta, con hãy tạm ở Đông Hải mai danh ẩn tích. Nếu để chúng phát hiện, ắt lại xảy ra một trận đấu tranh. Để giúp cho con có ngày xuất đầu lộ diện, ta khuyên con phải chọn một nơi làm căn cứ địa. Xét địa thế của các sông ngòi, thì sông Tiền Đường là nơi mà thủy thế mạnh nhất, hai bên là những núi cao hiểm trở, chính là nơi để con phát tích. Con muốn làm việc lớn, lập nên sự nghiệp cao cả, hãy chọn nơi này làm căn cứ địa, ẩn thân tu dưỡng, một trăm năm sau có thể dựa vào thế nước mà ra tay". Đương nhiên anh tuân theo pháp chỉ, ẩn mình dưới biển một trăm năm, lại theo lời dạy của sư tôn, tới đầu sông Tiền Đường điều tra một hồi. Không dè bị chúng phát hiện, đặc biệt phái tên đạo sĩ giặc Huyền Châu tới trấn thủ Hải Ninh. Lại có một con chồn yêu đắc đạo là Tuệ Thông, hợp đồng cùng vợ chồng Bình Hòa và các con, giúp đỡ Huyền Châu, định ra kế hoạch điều tiết nước sông Tiền Đường, trấn giữ các nơi hiểm yếu, nhiều phen gây khó cho anh. Anh ẩn mình dưới nước, men theo dòng sông, tiến vào đất liền, quan sát tình huống. Đến đâu cũng gặp chúng canh phòng cẩn mật, khiến anh không thể thừa thế ra tay, trổ hết pháp lực bình sinh của mình. Vì thế, anh mới biến thành hình người, tới Hàng Châu thăm dò. Đó là tất cả lai lịch của anh trước đây, cho tới khi anh được gặp em.
        Xuân Anh lúc đó nói chuyện với Thành Phu đã nhiều, cảm thấy người chồng giao long của mình không đáng sợ nữa, mà còn vô cùng thân thiết, liền nhoẻn miệng cười, hỏi :
        - Anh ở đây đã lâu năm, không có động tác gì, đại khái là vì phe bên kia phòng thủ nghiêm ngặt, nhất thời anh không thể ra tay, có phải vậy không ?
        Thành Phu gật đầu, nói :
        - Đúng đó. Xem ra tên đạo sĩ giặc Huyền Châu cũng có bản lãnh đấy. Trước anh, đã có một vị đồng đạo tới đây. Người đồng chí này đã không tuân theo nghiêm lệnh của giáo chủ, tự ý xâm nhập vào vùng sông Tiền Đường để điều tra tình hình, cũng đã bị Tuệ Thông xua đuổi. Nhưng vị đồng chí này rất ưa cảnh phồn hoa, đã lân la làm quen với một vị hoàng đế trên trần gian, được ông này sủng ái, cho ở gần bên mình, làm một chức quan rất lớn. Về sau, bị Huyền Châu phát giác, truy đuổi, lấy đi sinh mạng. Nhắc tới chuyện đó càng khiến người ta phải đau buồn. Về sau, giáo chủ biết được, nói ông kia không hiểu thời vụ, không đợi thời cơ, đã mạo muội làm liều, mới mắc phải họa sát thân. Ngài năm lần bảy lượt cảnh giới bọn anh, nói thời cơ chưa tới, không được khinh suất, vọng động, đạp chân lên vết xe đổ. Vì thế lần này anh vào đất Chiết, thường để ý cẩn thận, bình thời không dám ra khỏi cửa nhà, cũng chẳng dám qua lại với người phàm, nói năng lung tung. Cũng chỉ vì anh sợ lúc chưa khởi sự mà cơ mưu đã tiết lộ.
        Thành Phu nói tới đó, bỗng nắm tay, giậm chân, hét to lên :
        - Hoàn toàn không thể ngờ được hiền thê đã lầm lẫn nghe theo lời cậu mợ, tới miếu của lão Đông Hoa để xin lá xăm quỉ quái. Việc làm đó há chẳng phải "Lạy ông, tôi ở bụi này ?". Đem tin tức của chồng mình nói rõ cho người khác biết, thú nhận trong nhà tôi hiện đang ẩn giấu kẻ đối đầu với các ông đấy !
        Ngẫm nghĩ một lát, Thành Phu lại nói tiếp :
        - Nhưng thật tình cũng không thể trách em nhiều chuyện. Ở địa vị em, thấy chồng mình có hình tích khả nghi, anh cũng phải cầu thần, hỏi bói, để biết được sự thật ra sao. Chỉ tiếc rằng anh ẩn thân chốn này đã lâu năm, khổ công chờ đợi thời cơ, kế hoạch đó một sớm đã bị em phá hỏng hoàn toàn !
        Nói rồi, đưa mắt quan sát Xuân Anh, thấy cô run rẩy, nước mắt lưng tròng, dường như không thể tự tha thứ cho mình, Thành Phu vội tìm lời an ủi:
        - Hiền thê chẳng nên làm như vậy. Trước đây anh đã nói : tất cả mọi chuyện đều bởi khí số mà ra. Thời cơ chưa tới cho anh, chẳng liên quan gì tới em. Huống chi em vừa nói rõ, tình nguyện báo thù rửa hận cho anh, thề cùng sống chết với anh, khiến anh cảm kích vô cùng. Nếu chẳng may anh phải chết, cũng cam lòng nhắm mắt.
        Xuân Anh nghe vậy, gục đầu vào vai Thành Phu mà thổn thức, Thành Phu lại phải tìm lời an ủi cô một hồi nữa.
        Vì muốn biến Xuân Anh làm một trợ thủ đắc lực, hoặc lưu giữ cô lại để bảo vệ các con, tìm cách báo thù, rửa hận cho mình, Thành Phu đã đem nhiều thứ pháp thuật truyền thụ cho cô, bắt cô phải đọc lại những khẩu quyết cho thật thuộc. Lại lựa những lúc trời tối vắng vẻ, Thành Phu dẫn vợ con ra chỗ bãi cỏ trong vườn hoa, tự mình hiển hiện chân thân cho họ coi. Sau đó, anh ta niệm chú lâm râm, đưa tay vỗ lên đỉnh đầu các con. Tức thì, bốn đứa con bay lên không trung, biến thành bốn con giao long nho nhỏ, ở trên không bay lượn, vô cùng thích thú. Xuân Anh nhìn ngắm, lúc đầu có chút kinh sợ, nhưng rồi lấy lại can đảm, hỏi Thành Phu:
        - Các con đều có thể đằng vân biến hóa, liệu em cũng có thể biến đổi thân xác, bay đi được không ?
        Thành Phu cất tiếng cười ha hả, nói :
        - Nếu em không thể đạt được bản lãnh đó, sao có thể kể là có tiên duyên ? Vả lại, em cùng anh làm vợ chồng đã lâu năm, cũng đã nhận được nhiều tinh khí của anh rồi. Từ đó, công phu tu luyện cua em đã tăng gấp bội. Nếu em không tin, hãy thử một lần xem sao.
        Nói rồi, niệm chú lâm râm, không cần phải đưa tay đập vào mình Xuân Anh, chỉ hướng về cô thổi phù một hơi, hét lên một tiếng. Lập tức Xuân Anh từ từ bay lên cao, lên tuốt trên mây. Thành Phu lại chỉ trỏ, vẽ bùa, hô : "Biến ?", lập tức Xuân Anh không thể tự chủ, biến thành một giao long, nhưng trong lòng vẫn hiểu rõ mọi chuyện. Thành Phu lại sợ cô không đủ can đảm, đưa tay vẫy gọi. Xuân Anh từ từ hạ xuống, tới mặt đất liền biến thành hình người trở lại.
        Thành Phu còn đem phép hút nước, tạo thành mây mù, dạy cho năm mẹ con, năm người đều mau chóng lãnh hội được. Thành Phu lại tới chỗ đập nghênh rồng, hút đầy một bụng nước, bay vọt lên không trung, từ trên đó phun nước xuống, tạo nên một cơn mưa rất lớn, hỏi năm người kia :
        - Đã hiểu rõ chưa. Có học được không ?
        Câu nói chưa dứt, đã nghe giữa không trung có tiếng người thét lên :
        - Yêu giao to gan xâm nhập nội địa, mưu đồ việc bất quĩ, tội giết khó dung tha, lại còn dám dụ dỗ đàn bà nữa sao ? Hành vi đó càng đáng giận. Nay ta vâng pháp chỉ Đông Hoa tổ sư tới bắt người, đem về qui án, hãy mau mau cùng vợ con quì xuống chịu trói, may ra còn có thể dung thứ một, hai phần. Nếu dám kháng cự, quyết giết sạch cả nhà ngươi không tha một mạng nào ?
        Thành Phu nghe vậy, kinh hãi vô cùng. Ngửng nhìn lên, chỉ thấy một đạo nhân trẻ tuổi, tay cầm kiếm báu, đứng trên mây.
        Xuân Anh bỗng hô to :
        - Hắn chính là yêu đạo em đã nhìn thấy trong giấc mơ, tự xưng tên là Chung Li Quyền. Chính là người đó, không sai.
        Thành Phu nghe nói, nổi giận đùng đùng, nhảy vọt một cái, lên tới lưng chừng trời, hiện xuất nguyên hình, nhắm hướng Chung Li Quyền mà lao tới.

        #64
          bevanng 21.07.2008 21:39:25 (permalink)
          Hồi Thứ 72

          Chính đạo phá tà thần, các tiên cùng trổ phép.
          Một thùng chứa nửa số nước biển, vợ lão giao báo thù.


          Chung Li Quyền vâng pháp chỉ của Đông Hoa đế quân, đi hàng phục lão giao, đã sớm ở trên không đợi thời cơ, để ra tay.
          Trong khi đó, lão giao không biết gì cả, đang ở nhà huấn luyện vợ con, nổi mây làm mưa, quấy nhiễu dân gia. Chung Li Quyền không nhẫn nại nữa, liền xuất hiện bản thân, hét lên :
          - Yêu giao không được gây độc hại. Ta vâng pháp chỉ, tới hàng phục ngươi đây.
          Lão giao và vợ con đều nghe rõ, Xuân Anh lại nhận ra là người đã thấy trong mộng. Lão giao tức thì nổi giận, tung mình lên cao, hiển xuất nguyên hình, há cái miệng to như chậu máu, tới nuốt Chung Li Quyền. Chung Li Quyền thấy hắn làm dữ, vội biến thân hình, thành người cao một trăm trượng, chu vi mười người ôm không xuể. Nào ngờ lão giao có pháp lực rất lớn, thấy Chung Li Quyền biến ra hình dạng quá cao lớn, cũng không chịu kém, lắc mình một cái, biến ra thân hình thô kệch, dài như cầu vồng vắt ngang trời. Chung Li Quyền cười, nói :
          - Yêu nô không biết xấu, muốn so lớn nhỏ với ta, lại phô ra thân hình thô kệch cho vợ con coi hay sao ? Pháp thân của ta có thể lớn đến độ che lấp trời đất, mặc cho ngươi biến hóa cách nào chăng nữa, cũng không vượt nổi ta đâu. Nhưng việc hôm nay không phải là giỡn chơi với ngươi, mà là ngăn cản ngươi không được làm hại dân chúng. Hãy mở mắt mà xem ta lấy tính mạng đây !
          Lão giao không thèm để ý nghe, nhảy lên mấy cái, xông về phía trước, há miệng định cắn. Chung Li Quyền nắm chắc thanh kiếm trong tay, hô to "Dài ra ? Dài ra !", tức thì thanh kiếm dài chừng hai, ba chục trượng, nhắm vào miệng lão giao mà đâm. Lão giao kinh hãi, vội co rút thân mình, trở lại tình trạng ban đầu, tìm đường bỏ trốn. Chung Li Quyền không chịu buông tha, vội đuổi theo, đâm ngay một nhát kiếm vào đầu lão giao, máu tuôn như xối, rơi xuống thành một cơn mưa máu, mùi hôi tanh không chịu nổi.
          Lão giao đau đớn, kêu lên một tiếng, chấn động núi non, vội biến thành hình người, cầm cây "câu liêm thương " (1), là một sợi râu giao long luyện thành, xông lại tấn công Chung Li Quyền. Giáo tới kiếm ngăn, kiếm qua thương đón, hai bên đánh nhau chừng vài chục hiệp. Chung Li Quyền vội niệm chân ngôn, vời gọi mười vạn thiên binh, thiên tướng, giăng thiên la địa võng, vây chặt lấy lão giao. Lão giao sớm nhận trên mình vài chục mũi kiếm, máu ra càng nhiều, mưa máu càng lớn. Lão giao phẫn uất, không biết trút vào đâu, tung mình nhảy lên, nhắm về phía Đông Hải, dùng sức hút một hơi, được vô số nước biển, rồi hạ miệng, nhắm về phía thiên binh, thiên tướng mà phun. Bấy giờ ba cõi : thượng giới, trung giới, hạ giới, đều chìm trong màn mưa, phía hạ lưu sông Tiền Đường, nước chảy cuồn cuộn, biến thành một thủy quốc. Thiên binh, thiên tướng vội thoái lui vài bước, bị giao long đánh rát, mở một con đường máu, trốn đi.
          -------------------------------
          (1) Cây giáo có mũi cong như móc câu.


          Bốn đứa con thấy lão giao gặp nguy khốn, được lệnh mẹ, liền xông lên tiếp ứng, mỗi đứa đều cầm binh khí hăng hái đánh dần vào trận, cùng lão giao tụ họp một chỗ, tìm đường trốn xuống hạ giới. Nào ngờ cơn nước lũ không nhỏ, đã đánh động Huyền Châu Tử, đang ngồi trấn Hải Ninh, chỉ vì nhất thời lơ là việc phòng bị, cứ tưởng lão giao đang ẩn mình dưới đáy biển, không dám xuất đầu lộ diện, dè đâu nó hiện nguyên hình, gây ra tai họa lớn. Thấy nước từ trên núi băng băng chảy xuống, ông tra ra lão giao đang gây độc hại, tự biết tội mình không nhỏ, vội thống lĩnh thần tướng bộ hạ, chạy như bay, tới nơi nghênh chiến. Gặp đúng lúc lão giao và các con đang ở nửa lưng trời, ông liền hét lên :
          - Nghiệt súc sao dám gây rối, hại người ?
          Liền chia quân ra bốn mặt vây bọc. Lão giao và các con cũng chia nhau ra đối địch. Đánh nhau chưa được ba hiệp, phía sau Chung Li Quyền thống lĩnh thiên binh, thiên tướng, cũng vừa đuổi tới, cùng Huyền Châu Tử tụ họp một chỗ. Bốn con tiểu giao chưa đủ bản lãnh, bị chém chết trước hết, chỉ còn lại một mình lão giao, vừa buồn vừa giận, lại đang nóng vội, không dám ham đánh, vội biến thành một con cú mèo, bay lên cao. Huyền Châu Tử và Chung Li Quyền đang tìm kiếm xem lão giao ở chỗ nào, may sao có thần Nhị lang phụng mệnh tuần tra ba cõi, thấy lão giao biến thành chim bay đi, liền biến ra một con chim ưng rất lớn, đuổi bắt cú mèo. Lão giao hoảng hốt, lắc mình một cái, biến thành con cá chình, lặn xuống sông. Nhị lang hiện xuất chân thân, ra mắt Huyền Châu Tử và Chung Li Quyền, rồi vì mắc công vụ bên mình, vội vã đi ngay. Hai vị tiên gom thần binh lại, rồi nhắm hướng bờ sông đuổi theo lão giao. Thấy cá chình đang ở dưới nước sủi tăm, Chung Li Quyền chỉ mũi kiếm vào sông, nước sông liền đóng băng. Lão giao thấy vậy, vội biến thành một con chó vàng, chui vào nhà xí của dân chúng để ăn phân. Hai vị tiên gớm mùi hôi thối, không dám lại gần. Chung Li Quyền nói với Huyền Châu Tứ :
          - Đạo huynh coi con yêu quái này bê bối quá. Pháp bảo của chúng ta phải nhờ tinh hoa của mặt trời, mặt trăng mới luyện thành, rất kỵ những điều ô uế. Bây giờ, đạo huynh hãy làm phép cho nước lụt rút xuống để cứu sinh linh, trong lúc tiểu đệ tìm người giúp đỡ để thu phục con quái này.
          Huyền Châu Tử nhận lời, chống kiếm bắt quyết, thu hồi số nước biển lão giao đã hút, trả về biển cả. Trong khi đó, Chung Ly Quyền mời gọi ông Sấm, Bà Sét tới, nói rõ cho biết nguyên do, yêu cầu họ dùng lôi hỏa đánh chết lão giao. Hai vị thần tuân lệnh, trổ phép. Chung Li Quyền lại giăng thiên la địa võng, không để lão giao trốn thoát. Giữa lúc thanh thiên bạch nhật, bỗng nghe tiếp sấm nổ vang, người dân trong miền thấy một con giao long cực kỳ to lớn bị sét đánh cháy sém, nát thành mười bảy, mười tám mảnh.
          Xong việc, Chung Li Quyền rút thần binh, trở về phục mệnh Đông Hoa đế quân, nói rõ việc Huyền Châu Tử và Nhị lang giúp đỡ, mới hoàn thành công việc. Đông Hoa đế quân nói :
          - Nhị lang tới giúp, cũng là phần việc ông ta phải làm, còn như Huyền Châu Tử, bình thời ngồi trấn một phương, trông coi việc gì vậy ? Ông ta lo ngại nhất là lão giao, vậy mà để hắn dung thân ở đây trong mấy chục năm, không hề phát hiện, để bây giờ hắn phun nước, gây lụt lội, làm hại biết bao sinh mạng và tài sản của nhân dân. Huyền Châu Tử tuy có công giúp đỡ, cũng khó bù đắp tội lơ là công việc, Thượng đế hiện có pháp chỉ, nói rõ ông ta vốn là con hạc trắng tu thành, nay lại phạt tội làm con hạc trắng ở bờ sông Tương Giang, trấn giữ những nơi hiểm yếu, năm trăm năm sau, sẽ có người đồng đạo tới độ cho ông, chứ hiện giờ sẽ phải nếm mùi đau khổ không ít đó.
          Nói rồi, lại buông tiếng thở dài, nói tiếp :
          - Việc làm hôm nay là do lỗi của Huyền Châu Tử lơ là công việc đã đành, nhưng nếu vợ chồng Bình Hòa không mở đường núi, đoạn triệt long mạch, lão giao cũng không có đường mà vào đất liền. Xét cho cùng, việc này cũng còn lắm chuyện lôi thôi, để bàn sau, tạm thời không nói đến nữa. Tuy nhiên, hơn mười năm sau, ngươi lại phải tới Hàng Châu một chuyến, vì còn một việc cần tới người giải quyết cho dứt, trách nhiệm của ngươi mới hoàn tất.
          Chung Li Quyền hỏi là việc lớn lao gì, đế quân nói :
          - Lão gia và các tiểu giao tuy đã chết hết, vẫn còn người vợ lập chí trả thù cho chồng con. Người đàn bà này vốn không có tội gì nặng, nhưng phép trả thù của bà ta, nếu dùng lầm, sẽ gây tai hại rất nhiều. Trước đây, vì nghi ngờ lão giao, bà ta đã tới miếu của ta xin xăm. Giả sử nhân dân Hàng Châu không tin ta linh ứng, bà ta đã không tới miếu thắp hương, và nếu bà ta không thắp hương, việc của chồng bà ta đã không tiết lộ ra, và cũng không xảy ra một trường thảm kiếp. Hiện nay, bà ta đang chiếu theo phương pháp mà chồng bà chỉ bảo để ngày đêm tu luyện. Khi tu luyện xong, bà ta có thể hút được nửa số nước biển, làm chìm ngập toàn thể mặt đất Chiết Giang, khiến miếu vũ của ta, pháp thân của Huyền Châu, cùng toàn thể nhân dân, gia súc đất Chiết đều bị xóa sạch, mới tan oan khí cua bà ta.
          Chung Li Quyền nghe vậy, thè lưới, nói :
          - Không dè người đàn bà này lợi hại, độc ác đến vậy ?
          Đế quân lại buông tiếng thở dài, nói :
          - Tâm địa đó đáng giết, nhưng chí nguyện đó đáng thương ! Các ngươi hạ phàm giúp dân, gặp phải hạng người như thế, nên lưu tâm bảo toàn, vạn nhất không giữ nổi, mới phải khai sát giới. Đó chính là đường lối tích phúc của các ngươi.
          Chung Li Quyền quì xuống vái mà xin tuân mệnh, nhân đó hỏi:
          - Vợ lão gia đã có lòng trả thù cho chồng, nếu để bà ta tu luyện thành công, sẽ khó tiêu diệt: hoặc giá không thể báo toàn tính mạng, chi bằng sớm hiểu dụ một phen, khiến bà ta hiểu ra rằng chồng bà ta chết là đáng tội, khuyên bà ta đừng uổng công phí sức làm chuyện dại dột, tự chuốc lấy họa diệt vong. Làm sao để bà ta giác ngộ, gột tâm sửa tính, quay về với Đạo, sau này sẽ được hưởng phúc vô cùng, còn hơn là đợi bà ta phạm tội, rồi đem binh tiêu diệt.
          Đông Hoa đế quân lắc đầu, nói :
          - Người ta hễ bị kích thích mạnh mẽ , nhất thời khó có thể dằn lòng, nén tức. Các ngươi đã giết chồng bà ta, lại tiêu diệt hết các con bà, đương nhiên bà ta có mối thâm thù với các ngươi. Vả lại lúc lão giao chưa chết, bà ta đã thề cùng sống chết với hắn, quyết tâm báo thù rửa hận cho hắn. Hạng đàn bà đó tình rất sâu, lòng rất tha thiết, hiện tại chồng chết, các con cũng không còn, nên lòng báo thù rất kiên quyết, một câu nói của ngươi không giải tỏa được đâu. Hiện nay bà ta sống lẻ loi trên đời, sống ngày nào coi như dư thừa ngày đó, cảm nhận rằng báo thù ắt chết, nhưng không báo thù chưa chắc đã sống. Vả lại báo thù mà chết đi, còn được gặp chồng con dưới suối vàng nữa, chứ phản bội lời thề để sống thừa trên cõi đời này, có gì là lạc thú ? Ngươi có nói tới việc nuôi ung nhọt để họa về sau, thì ta thấy không ắt hẳn như vậy đâu. Người đàn bà này tuy có nuôi lòng báo thù, nhưng không có ý hại tính mạng người khác, kết quả chỉ là bản thân chịu khốn khổ thôi. Chúng ta cứ giữ lòng bảo toàn tính mạng cho bà ta, còn kết quả ra sao phải nhờ vào định số. Sau khi chịu khổ, nếu bà ta biết hồi tâm chuyển ý, bỏ tà qui chính, lúc đó chúng ta sẽ tìm cách chu toàn cho.
          Chung Li Quyền lĩnh chỉ, lui ra, hôm sau phụng chỉ trở về núi Hoa sơn.
          Thấm thoắt mà đã qua hơn mười năm. Chung Li Quyền đạo lực càng thuần, công hạnh càng sâu, đã có thể xuất thần rong chơi cõi ngoài, biết được những chuyện vị lai. Hôm đó, anh ta đang ở trong thạch động luyện công, chợt thấy máu nhồi lên tim, biết rằng pháp chỉ của tổ sư đã tới, vội sửa lại quần áo cho ngay ngắn, ra khỏi động. Liền thấy giữa không trung có đôi chim đỏ, sà xuống núi, hóa thành hai đồng tử, Chung Li Quyền nhận ra ngay đó là hai đồng tử áo xanh và áo trắng, thường đứng hầu bên cạnh tổ sư vội tiến lại, hỏi :
          - Hai vị sư đệ đưa pháp chỉ của tổ sư tới, phải không ?
          Hai đồng tử cười, chào ra mắt Chung Li Quyền. Thanh đồng nói ngay :
          - Tổ sư truyền cho sư huynh tới Hàng Châu một chuyến.
          Bạch đồng nói tiếp :
          - Sự tình ra sao, sư huynh tới Hàng Châu sẽ biết liền.
          Chung Li Quyền nghe vậy, hiểu liền. Đây là vụ án lão giao mười năm trước, đến giờ vẫn chưa kết thúc. Anh ta liền lên tiếng hô : "Tuân chỉ ?", và mời hai đạo đồng vào bên trong, lấy những trái cây ngon, đặc sản ở trên núi, đưa biếu. Hai đạo đồng mừng rỡ, cảm tạ, ra đi. Chung Li Quyền không chần chừ, vội vã sửa soạn hành lý, gài thanh kiếm báu bên mình, cưỡi mây bay đi, tới thẳng chỗ đầu sông Tiền Đường mới hạ xuống. Chợt nghĩ rằng mình ăn mặc thế này rất không tiện cho việc thăm dò tin tức, là vì đã gặp vợ lão giao tới hai lần, nếu bà ta nhớ ra, sẽ phòng bị trước, chẳng tốt đẹp chút nào. Vì thế, anh ta liền hóa ra một người đàn bà đứng tuổi, dùng phép rút đất, tới nội thành Hàng Châu, đi rong chơi nhiều nơi. Bấy giờ ở Hàng Châu có tin đồn đại nói rằng trước đây lão giao bị sét đánh, có một người vợ còn sống, chuẩn bị báo thù cho chồng, hiện đang ngày đêm dụng công, luyện chế một chiếc thùng xách nước. Thùng này có thể chứa đựng được phân nửa lượng nước biển, chừng nào bà ta luyện thành, có thể đem ra để làm hại nhân dân. Câu đồng dao lưu truyền rộng rãi, đàn bà, trẻ con đều biết cả. Chung Li Quyền nghe được câu nói đó, liền níu một người lại, hỏi câu đồng dao đó ở đâu ra. Người đó nói :
          - Lão thái thái có phải người địa phương hay không, mà sự việc lớn như thế chẳng hay biết gì cả ? Hiện nay trong và ngoài thành Hàng Châu, ai nấy đều biết vợ lão giao định báo thù cho chồng. Người có tiền của đều tìm nơi xa đi lánh nạn, chỉ những người nghèo khó, chẳng có đồ đạc gì lớn, mà có trốn đi nơi khác cũng không thoát, đành ở lại chịu trận, phó mặc tính mạng cho trời.
          Chung Li Quyền vội hỏi :
          - Vợ lão giao tất nhiên bản thân cũng là một giao long cái. Chồng nó bản lãnh như thế mà rồi cung bị tan xương nát thịt, tính mạng giữ không nổi, chẳng lẽ giao cái này lại có đạo hạnh cao hơn chồng mình hay sao ?
          Người kia cười, trả lời :
          - Lần trước lão giao tạo phản, có thiên binh, thiên tướng hạ phàm tiêu diệt, phen này không có thần nhân tới bảo hộ chúng tôi người phàm chúng tôi làm sao sống nổi ? Lại nói chuyện lần trước, có ông Sấm, bà Sét và các thiên tiên tới, đánh lão giao nát như tương, nhưng những trận mưa máu, cảnh lụt lội, chúng tôi đều phải gánh chịu cả.
          Chung Li Quyền nghe vậy, trầm ngâm một hồi. Nghe người kia kể lể, nhắc tới những chuyện trước đây, Chung Li Quyền mới hỏi :
          - Giao cái gây rối, mà nó có ra cáo thị, phát hiệu lệnh cho các vị biết trước hay không ?
          - Chuyện này có lai lịch rõ ràng. Nguyên bản thân giao cái không phải là giao long, mà là một phụ nữ họ Hà ở trong thành này, tên gọi Xuân Anh tiểu thư, trước đây bị lão giao mê hoặc, kết làm vợ chồng. Về sau, lão giao chết đi, thiên binh lại đánh chết luôn cả bốn đứa con của bà ta. Người đàn bà đó có phúc khí rất lớn nên không chết, nhưng hiện nay bà ta lâm vào hoàn cảnh nhà tan, người mất. Bà ta lại từng thề trước mặt chồng là sẽ báo thù rửa hận cho anh ta, nên mới có việc ngày hôm nay. Thật ra bà ta còn có ông cậu, bà mợ, năm lần bảy lượt khuyên cháu gái đừng làm chuyện thương thiên hại lý, mà rốt cuộc cô cháu gái chẳng chịu nghe. Cậu mợ của bà ta là những người tốt, năm nay đã ngoài sáu mươi tuổi, biết được tin đó, chạy từng nhà, khuyên người ta sớm chuẩn bị để tránh khỏi nạn lũ lụt. Từ đó, một đồn hai, hai đồn ba, mọi người đều biết được. Tuy nhiên cũng có nhiều đàn ông ngang ngạnh, nói đó là chuyện hoang đường, quyết không có lý đó, khuyên mọi người đừng nên tin. Lại có một vị đã từng làm quan to, là Lưu đại nhân, nhất quyết nói người đàn bà đặt điều gạt chúng, khiến mọi người hoang mang: đáng tội chết, mới đi báo, quan phu phái người đi bắt. Cũng may hàng xóm láng giếng tỏ lòng công phẫn, nói bà kia là người tốt, không nên bắt tội oan uổng người ta. Họ làm ầm ĩ lên, khiến người của quan phu không biết làm sao, đành bỏ qua. ..
          Chung Li Quyền nghe nói, gật đầu nói :
          - Thì ra là vậy. Nhưng không biết người đàn bà định báo thù cho chồng hiện nay có ở trong thành hay không ?
          Người kia lắc đầu, nói :
          - Hiện giờ bà ta đã là người đắc đạo, tới không dấu vết, đi không vết tích, biến hóa không cùng, ấn hình không thấy, chẳng ai biết bà ta đang ở đâu. Chẳng qua chỉ dựa vào lời ông cậu bà mợ nói, dường như thường thường bà ta trở lại nhà, mỗi năm đều tới phần mộ chồng tế lễ. Điều đó cho thấy bà ta vẫn thường lui tới, nhưng muốn tìm kiếm bà ta thì tìm không ra.
          Chung Li Quyền nói :
          - Nếu đã vậy, cảm phiền ông thông báo cho mọi người biết, nói việc giao cái báo thù là chân thật, nhưng trên trời đã phái thần nhân tới thu phục nó, lại đã phòng bị cẩn mật, không để xảy ra mưa máu, lũ lụt đâu. Những người tính trốn tránh đi xa, cũng nên cân nhắc, đừng vọng động; những người không tính đi xa, xin cứ ở yên, đừng quá sợ hãi mà bỏ bê công việc làm ăn.
          Người kia không đợi Chung Li Quyền nói hết, liền trở mặt, nhổ nước bọt vào mặt, cất tiếng mắng chửi :
          - Mụ già đê tiện ở đâu tới đây ? Ta vì lòng tốt nói rõ cho mụ biết chuyện, mụ lại nói với ta những câu nhảm nhí, tính chọc cười ta hả ? Nên biết nước lụt một khi kéo đến, ngay cả những tráng đinh như ta cũng không có con đường sống, huống chi thứ già lụ khụ như mụ, chỉ có nước nằm bò trên mặt đất, chuẩn bị làm thức ăn cho loài cá dưới biển, lúc đó thử coi mụ có thời giờ nói chuyện cười nữa hay không ?
          Nói rồi, quay mình định đi, không thèm ngó tới Chung Li Quyền. Chung Li Quyền bị một trận te tua, bất giác cất tiếng cười ha hả, cười lớn đến độ người kia tự động quay nhìn lại, để thấy một luồng kim quang sáng lòa, Chung Li Quyền theo luồng sáng đó bay vọt lên mây. Bấy giờ, bên cạnh người kia cũng có một đám người khá đông đảo. Người kia vội quì xuống, dập đầu lạy bôm bốp, hô to:
          - Xin đạo tiên tha thứ cho tiểu nhân có mắt không tròng, nói năng đường đột. Nay xin tuân lời đại tiên dặn dò, đi báo ngay cho mọi người cùng biết.
          Những người khác thấy Chung Li Quyền bay lên mây, cũng bắt chước người kia, quì xuống lạy lia lịa. Lạy xong, mới hỏi người kia coi chuyện gì đã xảy ra ? Anh kia mới hoa tay múa chân, kể hết sự tình. Diễn thuyết một hồi, viện dẫn nhiều người làm chứng, bảo nhau chia ra, đi khắp các nhà thông báo. Chỉ trong thoáng chốc, cả thành Hàng Châu đều tuyên truyền tin người tiên hạ phàm thu phục giao cái, cứu nhân dân thoát nạn lũ lụt.
          Tin tức đó đến tai bà mợ của Xuân Anh là Vưu thị. Vị lão thái thái này là người rất nhiệt tâm, vội chạy đi báo cho cháu gái, khóc mà khuyến cáo, khuyên cô đừng khinh suất làm việc này, một là tránh gây tổn thương cho sinh linh vô tội, hai là khỏi giẫm lên vết xe đổ của Thành Phu. Nào ngờ Xuân Anh chẳng cần suy nghĩ, nói ngay:
          - Cháu làm việc này, đã có quyết tâm từ lâu, chuyện thành bại, lợi hại chẳng cần hỏi tới. Cháu nay một thân trơ trọi, sống cũng như chết. Mặc kệ thiên thần, thiên tướng tới đánh, cháu chẳng qua cũng chỉ một lần chết. Chết chính là chí nguyện của cháu. Chỉ có báo thù thành công, oán khí của cháu mới xuất ra được. Nếu báo thù không được, chết về tay thần tướng, cháu sớm được gặp cha con chúng nó dưới suối vàng, lại càng tốt. Xin cậu mợ giữ gìn sức khỏe, đừng nghĩ tới đứa cháu gái này nữa.
          Vưu thị thấy khuyên không có hiệu quà, khóc mà bỏ đi. Xuân Anh liền biến ra hình dạng một bà già, lấy ra chiếc thùng xách nước mà bà ta đã phí biết bao tâm huyết mới luyện thành, chiếu theo bí quyết mà chồng bà đã truyền thụ cho, hút được phân nửa số nước biển, dùng một sợi dây thừng, buộc vào quai thùng nước, vắt lên vai, thất thểu bước đi. Bà ta dự bị sẽ leo lên núi Thành Hoàng sơn, là chỗ cao nhất của thành Hàng Châu. Từ trên đó, sẽ nghiêng chiếc thùng, trút nưóc xuống ào ạt, có thể khiến cho một vùng phụ cận rộng vài trăm dặm đều biến thành thủy quốc. Bà ta lại chuẩn bị một cây đao sắc, đợi khi nước lên lớn, sẽ đâm cổ tự vẫn, rồi nhảy xuống nước, để cùng các thần tiên, nhân, vật đều chết một lượt, mới thỏa chí nguyện của mình, lại đáp ứng lời ước hẹn với chồng khi lâm biệt.
          Đi một hồi, đã tới lưng chừng núi, chợt cảm thấy mệt mỏi, mới hạ chiếc thùng xuống, ngồi nghỉ một lát cho đỡ mệt, lại đi tiếp. Ngồi một thời gian, chợt ngửng nhìn lên trời, thấy bầu trời xanh biếc, đẹp như bức tranh, tai nghe tiếng gió rì rào qua cành lá chợt cảm thấy lòng xúc động, bất giác hồi tưởng những chuyện trong đời mình, từ lúc phụ thân mất đi, mẫu thân vỗ về, nuôi dường, lại chọn cho một người chồng tốt, hơn mười năm trời đã bỏ biết bao tâm lực cho con gái. Đến khi chọn được Thành Phu làm rể, coi như con trai? đã tưởng hai mẹ con đã có chỗ nhờ cậy suốt đời, chẳng còn điều gì để lo lắng. Ai ngờ thảm họa xảy đến cho cả gia đình. Mẫu thân đã vì Thành Phu hiện hình mà kinh sợ, lăn ra chết, bản thân cũng vì chuyện của Thành Phu mà đến nỗi lẻ loi một bóng, không tấc đất cắm dùi. Nay lại phải thay anh ta nhận lãnh trách nhiệm báo thù. Báo thù được hay không, Cũng chưa biết được, nhưng một kiếp sống buồn bã, đối với thế gian nay chẳng còn quan hệ. Nghĩ mình hồng nhan bạc mệnh, kiếp sống trước đây đã như thế, sau khi chết đi sẽ ra sao ? Nghĩ tới đó, bất giác thấy lòng đau như cắt, nhìn chung quanh thấy vắng vẻ, bất giác ngước nhìn trời, cất tiếng khóc rống lên. Đột nhiên nghe đằng sau có tiếng người hỏi :
          - Vị thái thái này, vì lẽ gì mà một mình leo lên lưng chừng núi, ngồi khóc thảm thương thế ?
          Xuân Anh kinh ngạc, quay nhìn lại, thấy một cô bé chưa từng quen biết.

          #65
            bevanng 21.07.2008 21:59:05 (permalink)
            Hồi Thứ 73

            Lòng trẻ khuyến hóa đàn bà bướng bỉnh
            Một hớp nước hút cạn nước biển.


            Xuân Anh đang nghĩ tới những chuyện trước đây, ngước mặt lên trời mà khóc lóc thảm thiết, bỗng nghe phía sau có người nói :
            - Vị thái thái này có chuyện thương tâm, leo lên lưng chừng núi, ngồi kêu khóc, chắc là vì có chuyện oan khổ gì đây ?
            Xuân Anh quay đầu nhìn lại, thấy một cô bé để tóc xõa, cười hì hì, đang đứng trên một tảng đá, nhìn mình chăm chú. Xuân Anh vốn không có lòng dạ nào để bắt chuyện với cô bé, nhưng thấy cô lanh lợi, thông minh, lại hiền lành, xinh đẹp, trông thật dễ thương, nên không nỡ từ chối trả lời cô. Bà lại nghĩ tới mình lúc thủa bé cũng thường ưa thích leo núi, lội sông, lại cũng ưa xen vào những chuyện người khác, mỗi khi ra khói cửa, gặp những người nghèo khó, cơ nhờ, đều tìm cách cứu giúp. Nay thấy cô bé tướng mạo, tinh thần có nhiều điểm rất giống mình, cũng ưa xen vào chuyện người khác như mình hồi nhỏ, Xuân Anh chợt thấy lòng mình nở hoa, tưởng đâu vừa được tưới mấy giọt nước cam lộ, nẩy sinh ý tưởng yêu đời. Nghĩ vậy rồi, bà gạt nước mắt, nén đau thương, gật đầu nhè nhẹ, nói với cô bé :
            - Tiểu cô nương quả là người ngay thẳng, vui tính, là người có hạnh phúc nhất trên đời, làm sao có thể hiểu được rằng cùng trong vòng trời đất, cùng trên nhân thế, cùng một kiếp sống, lại có người đột nhiên bước vào con đường cùng . Có thể nói người đó hồi nhỏ cũng hoan lạc như cô, cũng có hạnh phúc như cô, mà rồi kết cuộc trái ngược hẳn. Đến lúc này có thể nói là muốn sống không được sống, muốn chết không chết cho mau. Tiểu cô nương, cô phải đợi tới ngày đó mới hiểu được tình cảnh này. Cô là cô bé rất dễ thương, thật nhân từ, những lời tôi nói chẳng biết có lọt nổi vào tai cô hay không, cô có hiểu được chút nào chăng ? Chẳng cần nói tới ai khác, hãy nói tới bản thân tôi, lúc nhỏ cũng giống hệt tiểu cô nương hiện giờ, giả sử có người nào đem những chuyện tương tự nói với tôi, chắc hẳn tôi cũng không tin. Tiểu cô nương, cô là người nhiệt tâm, đa tình, quan thiết tới chuyện của tôi, nhưng tôi lại không thể trả lời cô. Chẳng những là không thể, mà còn không cần thiết nữa, là vì tôi đem chuyện đời mình kể cho cô nghe, e rằng cô không tin tôi đâu. Thời gian của tôi có hạn, tôi không thể ngồi lại trò chuyện cùng cô, vậy xin tiểu cô nương lượng thứ. Tôi phải đi đây ! Hẹn gặp lại ?
            Xuân Anh nói rồi đứng dậy, vác thùng nước lên vai, thong thả bước đi. Cô bé liền cười hì hì, tiến lại, đưa bàn tay nhỏ bé giữ chặt lấy thùng nước, miệng nói :
            - Ma ma đừng đi. Má không chịu kể chuyện cho con nghe thì thôi, con cũng không hỏi nữa, kẻo động tới mối thương tâm của má. Nhưng hà tất má phải vội vội vàng vàng như thế ? Trời còn sớm, má hãy ngồi lại nói chuyện chơi, được không ?
            Xuân Anh bị cô bé giữ chặt thùng nước, không thể gỡ ra mà đi được Lại nghe cô gọi ma ma, từ âm thanh đến thái độ đều vô cùng thân thiết, bà chợt cảm thấy lòng mình chùng xuống, nhớ lại những kỷ niệm thời thơ ấu, nên tự động dừng chân, và cảm thấy toàn thân tê liệt, mắt nhìn cô bé trừng trừng, chân tay bất động. Cô bé liền giúp bà kia hạ thùng nước xuống? đặt lên trên một tảng đá rồi nói :
            - Ma ma chẳng cần phải nóng vội. Có điều gì nan giải, hãy nghĩ một biện pháp giải quyết từng bước, rồi cũng xong xuôi, tự nhiên khổ tận, cam lai, lại hưởng những ngày hạnh phúc về sau.
            Xuân Anh nghe nói, tự nhiên nước mắt tuôn trào như mưa, tuy miệng nói là không có thời giờ ngồi nán lại, mà bản thân tự động ngồi xuống, kêu trời trách đất, khóc lóc thảm thiết. Cô bé khuyên giải một hồi, thấy bà ta vẫn khóc không ngừng, đành giữ yên lặng, ngồi một bên, chờ đợi. Xuân Anh thấy vậy, cảm kích trong lòng, gạt nước mắt, nói giọng thổn thức :
            -Ý tốt của tiểu cô nương, tôi hiểu lắm chứ. Nhưng những lời cô nương khuyên nhủ, tôi không thể lảnh nhận. Là vì tôi ở trên đời này, chỉ còn trơ trọi một thân. Tôi đã không thể chế tạo hạnh vận, tại không có người thân thích cốt nhục, thì hạnh phúc ở đâu ra mà đem lại cho tôi ? Vì thế, nói đơn giản một câu, trong kiếp sống này, bất luận thế nào, tôi cùng không tìm thấy con đường sống. Đường sống đã không tìm thấy, thì hai chữ "hạnh phúc" hoàn toàn không thể nói tới. Chúng ta bèo nước gặp nhau, mà cô đem lòng quan thiết thế này, lòng tôi thật vô cùng cảm kích. Mười năm về trước, tôi thấy trên trời toàn là những vị chính thần, dưới phàm trần toàn là những người tốt; chứ bây giờ, tôi thấy chẳng những trên đời không có người nào tốt, mà trên thiên tào cũng không có một vị thần tiên chân chính nào. Tiểu cô nương, cô đừng cười tôi, đừng trách tôi. Hiện giờ tôi rất muốn đem sự việc một đời mình, nói hết cho cô nghe, nhưng quả thật... tiểu cô nương ơi... tôi không thể. Tóm tắt một câu, tôi chỉ có thể nói cho cô biết tôi là một bà lão không giống với những bà lão thông thường, là vì tôi đã trải qua quá nhiều thảm cánh, mà những bà lão khác quyết nhiên không hề gặp phải. Chuyện đời tôi khác xa với chuyện các bà già tầm thường, nên trước mắt tôi phải làm một việc gì thật khủng khiếp, để ngàn năm sau người ta còn nhắc nhở tới như một cố sự. Tiểu cô nương, cô thấy bà già này đã lợi hại chưa ? Cô nên biết tôi đã luyện được một ma lực rất lớn, có thể làm chấn động thế giới, kinh động nhân dân.
            Xuân Anh nói tới đó, cô bé không nhịn được cười, nói :
            - Những điều má nói, con tin hoàn toàn. Dường như theo má, má đang tính làm một việc ác rất lớn, dự định hại chết rất nhiều người, có phải không ? Con không dám hỏi đó là việc ác gì, nhưng con cảm thấy rằng trên đời không lẽ lại có người biết rõ việc ác, biết rõ là sẽ hại chết nhiều người, mà vẫn cứ làm ? Con thấy má là người lương thiện, đàng hoàng, tại sao lại cố ý phạm tội ác, hại người như thế ? Con chỉ là một cô gái nhỏ bình thường, nhưng từ bé con đã được cha mẹ dạy dỗ, cho ăn học, hiểu đạo lý làm người, phải nên hướng thiện, tránh xa điều ác.
            Việc này, cô không hiểu được đâu. Mà chuyện đời tôi cũng dài dòng lắm, trong một thời gian ngắn, không thể nói hết được. Lúc này trời cũng không còn sớm sủa, tôi phải đi làm công việc của mình đây. Chỗ này tuy không có cọp beo, nhưng kẻ xấu có thể xuất hiện đột ngột. Tôi chắc tiểu cô nương rời nhà cũng đã lâu rồi, nên trở về kẻo cha mẹ trông mong. Nếu có duyên, kiếp sau gặp lại, không chừng tôi và tiểu cô nương trở thành đôi bạn tri giao.
            Xuân Anh nói rồi, lại xốc thùng nước lên vai, lộ nét mặt buồn thảm, hướng về phía cô bé mà nở một nụ cười tê tái, rồi quay mình bỏ đi.
            Cô bé thấy vậy, lật đật đứng dậy, đưa bàn tay bé nhỏ giữ lấy thùng nước, vội vã nói :
            - Ma ma, má nhất định đi để thực hiện công việc của má đấy ư? Con chẳng dám lưu giữ má, cũng không hỏi han lôi thôi gì nữa đâu. Có điều rằng chúng ta gặp nhau hôm nay chẳng phải việc ngẫu nhiên, con muốn xin má ban cho con một tặng vật, để sau này mỗi khi nhìn tới vật đó, con lại nhớ đến má, có được hay không ?
            Xuân Anh nghe câu hỏi bất ngờ, nhưng thấy giọng cô bé rất thành khẩn, không nỡ từ chối. Nhưng mò trong người, chẳng thấy vật gì đáng giá để tặng cô bé, nên tỏ ra rất lúng túng. Cô bé thấy vậy, vội nói :
            - Má không có vật gì để tặng con thì thôi, con cũng chẳng dám đòi hỏi, chỉ xin má cho con uống một ngụm nước trong thùng nước của má, coi như má đã ban cho con một tặng vật vậy.
            Xuân Anh nghe vậy, liền tươi nét mặt, nở một nụ cười :
            - Như vậy quá tốt, tiểu cô nương cứ tự nhiên uống đi.
            Nói rồi, lại ngồi xuống, mở nắp thùng, đưa thùng nước cho cô bé. Cô bé nhìn vào trong thùng nước, bỗng nhiên lắc đầu, nói:
            - Không được rồi, không được rồi !
            Xuân Anh vội hỏi :
            - Vì sao không được ? Nước không được sạch hay sao ? Nước biển đó. Tuy có hơi mặn một chút, nhưng đó là nước sạch, mới múc lên đấy.
            Cô bé lại lắc đầu, nói :
            - Con không định nói vậy. Con thấy nãy giờ má ngồi, giữ khư khư thùng nước, không chịu buông ra một giây phút nào, chắc hẳn chỗ nước này đối với má rất quí, có công dụng lớn lắm đây. Con e rằng con uống một hơi, cạn hết số nước của má thì sao ?
            Xuân Anh nghe vậy, bất giác cất tiếng cười ha hả, nói:
            - Tiểu cô nương đừng chê nước ít. Số nước này đã cung cấp cho nhiều người, uống hoài không cạn. Chỉ sợ cái bụng cô quá nhỏ...
            Xuân Anh bỏ lửng câu nói, chợt hối hận mình đã lỡ lời, không muốn nói rõ cho cô bé biết về lai lịch số nước này.
            Ngần ngừ giây lát, lại nói tiếp :
            - Mời cô bé uống thoải mái. Cô có uống cạn thùng nước, thì cũng không hối tiếc gì đâu.
            Cô bé lại cất tiếng cười ha hả, nói :
            - Vậy thì được. Con chỉ sợ con uống một hơi, cạn hết thùng nước, làm má buồn lòng thôi. Đừng nói lý lắt nữa, mau uống nước đi. Ta không tiếc rẻ gì đâu. Chẳng lẽ cô uống cạn, ta lại bắt cô ói ra, đền số nước cho ta hay sao ?
            Cô bé nghe vậy, liền cất tiếng cười hì hì, nâng cao thùng nước, dốc ngược thùng, ngửa cổ ra tu. Đột nhiên, bỏ thùng nước xuống, lắc đầu, nói :
            - Bà má này lừa dối người quá đáng. Số nước ít xỉn mà má nói là nhiều lắm. Chẳng đã khát chút nào !
            Cô bé nói chưa dứt lời, Xuân Anh đã kinh hãi, ngã lăn ra đất, bất tỉnh nhân sự.

            #66
              bevanng 21.07.2008 22:21:25 (permalink)
              Hồi Thứ 74

              Hà nữ chấp mê, bị trấn áp
              Người tiên thương tình, ban ánh sáng.


              Xuân Anh sử dụng phép thuật, thu được phân nửa số nước biển Đông Hải vào trong một chiếc thùng nhỏ, xách thùng nước lên núi Thành Hoàng, định trút nước biển xuống, làm chìm ngập nhà cửa, tài sản, dìm chết số đông dân chúng ở thành Hàng Châu, để trả thù cho lão giao. Nào ngờ lên tới lưng chừng núi, gặp được một cô bé, cùng cô trò chuyện nửa ngày trời. Lúc chia tay, cô bé đòi uống một ngụm nước biển. Xuân Anh không nỡ từ chối lời yêu cầu khẩn thiết của cô bé, đồng ý cho cô uống nước. Ai dè cô bé chỉ hớp một hớp, số nước trong thùng cạn sạch, không còn một giọt. Xuân Anh thấy vậy, kinh hãi quá chừng, ngã lăn ra đất, nằm ngay đơ.
              Cô bé vội chạy lại, đỡ Xuân Anh ngồi dậy, nói :
              - Con đã nói rồi, số nước trong thùng của má không đủ cho con uống một ngụm đâu. Nay con đã lỡ cạn thùng nước, má đừng buồn phiền nữa.
              Xuân Anh được cô bé đỡ dậy, đặt ngồi trên tảng đá, đưa mắt nhìn lại cô bé từ đầu tới chân, chợt hiểu ra, cất tiếng khóc rống lên, nói :
              - Được lắm, được lắm. Ta đã nhận ra ngươi rồi. Ngươi chẳng phải một cô bé tử tế, mà là Chung Li Quyền, trước đây đã vâng lệnh lão Đông Hoa sai phái, tới giết chồng và các con của ta đó mà. Nay biết ta nhất quyết trả thù cho chồng, ngươi lại cố tình tới để thu phục ta. Hôm nay, ta làm việc này là quyết liều thân, cùng chết với thần nhân và mọi người. Nếu người không tin, hãy coi con dao nhọn ta mang theo đây. Ta tính rằng sau khi báo thù cho chồng ta xong, ta sẽ đâm cổ tự tận, để xuống suối vàng gặp lại chồng và các con ta. Ta đã tưởng mình tu luyện nhiều năm, được chồng truyền thụ di khí, dạy bảo cho nhiều phép thuật, nhất định sẽ trả thù được cho chồng. Nào ngờ ngươi có đạo thuật cao thâm hơn ta rất nhiều, chỉ hớp một hớp đã hút cạn số nước trong thùng của ta, chẳng còn một giọt. Vậy là bao tâm huyết của ta trong mười năm qua một sớm bị ngươi phá tan, ta không còn thiết sống nữa.
              Chung Li Quyền nghe Xuân Anh nói rõ hành tung của mình, tự nhận thấy không cần ẩn thân nữa, liền lắc mình một cái, biến trở lại nguyên hình, là một đạo sĩ trẻ tuổi, mặt trắng môi đỏ. Nghe bà kia nói giọng thắm thiết, đáng thương, anh động lòng trắc ẩn, không nỡ hại bà ta, lại tìm lời khuyên giải một chập nữa, vạch rõ cho bà ta biết lão giao chính là kẻ thù đã hại chết mẫu thân của bà, khuyên bà đừng nên nặng tình với lão giao nữa, mà hãy hồi tâm chuyển ý, tự tu thành chính đạo. Chung Li Quyền nói :
              - Trong tương lai, bà sẽ tu thành chính quả, hưởng phúc vô cùng, hà tất phải đem hạnh phúc cả cuộc đời mình vất bỏ, chỉ vì kẻ thù đã hại chết mẫu thân của mình ? Hôm nay, nếu không gặp tôi bị tôi ngăn cản, có thể bà đã trả được thù cho chồng êm thắm, dù có phải hại chết nhiều người chăng nữa. Tuy nhiên, đời sau thiên hạ sẽ phê bình bà ra sao . Chỉ sợ người ta không khen bà là người vợ nghĩa dũng, hết lòng vì chồng, mà trái lại còn trách bà vì tội bất hiếu với mẹ nữa đó. Chuyện đó đã quá rõ ràng, chẳng cần phải giải thích dài dòng. Bà là người thông minh tuyệt đỉnh, lẽ nào lại không hiểu rõ đạo lý đó ?
              Chung Li Quyền nói mấy lời, tin chắc Xuân Anh phải hiểu rô điều lợi hại, thị phi, lập tức tỉnh ngộ, thoát khỏi lầm đường lạc lối. Nào ngờ Xuân Anh bẩm sinh có tính cố chấp, tự tin, một khi đã cố định kiến, không ai có thể thay đổi. Bà ta nghe những lời nói của Chung Li Quyền như gió thoảng bên tai. Bà ta đã tin chắc chồng mình là một vị thần tiên chân chính, lại là người đa tình, hết lòng thương yêu vợ, thì những kẻ đã giao chiến với anh ấy, tru lục anh ấy đều là yêu tinh, quỉ quái mà thôi. Vả lại, bà ta đã từng thề thốt, quyết trả thù cho chồng, lời thề ấy làm sao thay đổi được ? Tự biết mình pháp lực có hạn, không địch lại nổi Chung Li Quyền, bà không quan tâm tới chuyện thành bại, chỉ biết là mình phải hành động để trả thù cho chồng thì lòng mới yên. Nay thấy mình không còn hy vọng gì, bà lên tiếng cầu xin Chung Li Quyền mau giết bà đi. Trong khỉ đó Chung Li Quyền lại không nở xuống tay, nên mới cố gắng tìm lời khuyên nhủ. Nhưng rồi, nghe bà ta nói, anh biết bà coi anh như kẻ thù không đội trời chung. "người không giết ta ta cũng giết ngươi". Con người này thật tình là kẻ quá cố chấp, không thể khuyên giải nữa rồi. Để bà ta sống trên đời, cuối cùng bà ta cũng gây hại cho người khác mà thôi. Nhưng ý của Đông Hoa đế quân lại không muốn cho ta giết người đàn bà này, chi bằng ta hãy tạm tha, nhưng phải cấm cố một nơi, đợi qua nhiều năm tháng, bà ta có thay đổi tính tình, mới có hy vọng khuyên bà ta quay về chính đạo. Trước mắt chỉ thấy bà ta là một người đàn bà có khí tiết, ta xuống tay hành tội, lòng nào mà yên ổn cho được ?
              Chung Li Quyền bất giác nhỏ hai hàng nước mắt bi thương, nhìn vào mặt Xuân Anh, nói giọng buồn thảm :
              - Này phu nhân, tôi khuyên bà lần cuối. Lão giao là kẻ thù giết hại mẫu thân của bà đó. Chiếu theo lệ cũ, đối với kẻ thù của cha mẹ mình, ta phải coi là kẻ thâm thù, không đội trời chung. Bà chỉ biết báo thù cho chồng, mà không biết người chồng đó chính là kẻ thù không đội trời chung của mình. Lúc trước, bà bị hắn mê hoặc, sau lại vì tình ân ái giữa vợ chồng mà mắc sai lầm, nay bần đạo đã vạch rõ cho bà thấy, sao bà còn hồ đồ và cố chấp mà quên đi hiếu đạo như thế ? Bần đạo thương bà vô tình mà mắc tội, kính bà khí tiết thuần lương, tính tình trung hậu, mới xin với tổ sư mở cho bà một con đường sống, hy vọng bà tu tâm dưỡng tính, quay về với chính đạo. Bần đạo tuy bất tài, cũng xin nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn cho bà chứng ngộ đại đạo, thoát kiếp hồng trần, siêu thăng tiên phủ, cùng thọ với trời đất. Đó há chẳng phải niềm vui tột đỉnh hay sao ? Phu nhân thông minh hơn người, xin nghĩ lại cho chín.
              Chung Li Quyền nói mấy lời đó, đã thổ lộ hết lòng trắc ẩn của mình, nhưng Xuân Anh chỉ thấy đó là những lời khuyên nhủ mình gia nhập Đạo môn, liền đáp lại bằng giọng lạnh lùng :
              - Chẳng cần nói nhiều. Ta nghe chồng ta nói anh ấy cùng các ngươi đều chung giáo phái, phân biệt ra nhánh nọ ngành kia, bài xích lẫn nhau. Chồng ta vì không chịu theo giáo hệ của các ngươi, các ngươi mới tìm cách giết anh ấy cho bằng được, lại sát hại luôn bốn đứa con của ta. Mối hận thù đó so với mối thù không đội trời chung cũng chẳng sai nhau bao nhiêu. Ta chỉ biết phản bội chồng là bất nghĩa, quên các con là bất từ, báo thù không xong là vô dũng, muối mặt phục vụ kẻ thù là vô sỉ. Hạng người bất nghĩa, bất từ, vô dũng, vô sỉ có sống trên đời cũng uổng một kiếp. Nếu người quá thật có lòng nhân, hãy ban cho ta một nhát kiếm. Hãy mau giết ta đi, cho ta toàn chí nguyện. Đừng ở đó mà nói những lời giả nhân, giả nghĩa, ta không muốn nghe đâu.
              Nói rồi, vươn cổ đợi chết, hô to :
              - Mời dụng hình.
              Chung Li Quyền thấy bà ta chấp mê như thế, buồn bực trong lòng, mới lùi lại ba bước, nói lớn tiếng :
              - Phu nhân nghe cho rõ đây. Bà cứ một mực chấp mê, ta đành phải thay trời hành tội, chiếu luật xử phân. Nhưng gươm báu của ta không nỡ chém người vô tội, ta sẽ đem bà nhốt dưới chân ngọn núi này. Ta lại ban cho bà một viên thuốc, bảo đảm bà sẽ không thấy đói khát nữa. Nếu bà biết hồi tâm chuyển ý, sau này sẽ có ngày xuất đầu lộ diện. Vả lại, số trời đã định, trong tương lai sẽ có người cứu bà. Bà hãy nhẫn nại, tu tâm dưỡng tính mà chờ đợi.
              Nói rồi, đưa tay che lấy mặt, thảy xuống một viên thuốc mầu hồng, sau đó giơ cao một bàn tay, úp chụp lên mình Xuân Anh. Liền nghe một tiếng nổ vang trời, quả núi Thành Hoàng Sơn úp chụp lên Xuân Anh, nhốt bà ta trong một thạch động, đồng thời Xuân Anh biến đổi thân hình, trở thành một giao long cái, khuất phục bên trong hang động. Lúc đầu nó ráng nhịn đói, nhịn khát muốn chết mà chết không được. Sau rồi, chịu không nổi đói khát, đành bỏ viên thuốc vào miệng, nuốt đi, quả nhiên không cảm thấy đói khát gì nữa. Tuy nhiên, bị nhốt trong núi sâu, nó xoay chuyển không được, khó chịu vô cùng, lâu dần cũng tự an. Chỉ có điều phiền muộn là không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, chẳng phân biệt là ngày hay đêm. Vả lại, lòng thì là lòng người, mà thân hình là thân hình giao long, thiếu nước không thể sống nổi. Trong núi cũng có nước suối, nhưng hang động quá chật hẹp, không đủ chỗ cho nó hoạt động? vẫy vùng. Lại không biết ngày nào mình mới được xuất đầu lộ diện đây ? Khi ra ngoài, cảnh tượng sẽ thay đổi ra sao nhỉ? Mỗi khi nghĩ đến những điều đó, giao long cái cảm thấy không sao chịu đựng nổi.
              Mãi tới đời nhà Nam Tống, mới có Hứa Tinh Dương tu hành đại đạo, được phong chân nhân, vân du qua đây, cảm thấy ưa thích cảnh núi non thanh nhã, lưu luyến chẳng nỡ rời chân. Bỗng nhiên ông nhận thấy chỗ đầu núi lờ mờ có oán khí phát ra. Bấm đốt ngón tay, hiểu rõ sự tình, ông mới thi triển đại pháp lực, dùng phép mật âm truyền vào trong núi, hỏi chuyện người bên trong . Giao long cái bị nhốt lâu lắm rồi, nay đột nhiên nghe được tiếng người, mừng rỡ vô cùng, mới lên tiếng trả lời, kể lại chuyện đời mình, sau đó năn nỉ van xin, muốn được di chuyển đến chỗ có nhiều nước, lại xin được thưởng thường nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Hứa chân nhân động lòng thương, lập tức thi triển pháp lực, dời giao long cái tới một nơi có nguồn nước suối chảy qua, lại khai mở hang động rộng ra, để ánh mặt trời có thể chiếu tới.
              Đúng thời gian đó, nhân dân địa phương muốn đào một giếng lớn để lấy nước sinh hoạt, nhưng chưa đủ phương tiện thực hiện. Hôm đó, họ bỗng thấy đất bằng sụt xuống, thành một hang động sâu thăm thẳm. Mọi người lấy làm lạ, tìm cách thăm dò. Xuống tới đáy hang động, chỉ thấy nước suối tràn đầy, họ mừng rỡ cho rằng trời ban giếng tiên, liền chất đá, xây thành miệng giếng, có những bậc thềm lên xuống, biến nơi đó thành một miệng giếng rất lớn.
              Từ đó, giao long cái có nước sâu để bơi lội thỏa thích, có ánh mặt trời soi sáng. Hứa chân nhân sợ nó có thể thoát ra ngoài miệng giếng, mới dán một lá bùa trên vách đá, ngăn cản giao long cái thoát ra ngoài. ông lại dạy cho nó nhiều khẩu quyết về tu tâm dưỡng khí, bảo nó yên tâm luyện tập, sống thanh nhàn ở chốn hang động. Giao long cảm kích xin vâng lời, nhân đó lại hỏi bao giờ có thể xuất đầu lộ diện. Hứa chân nhân nói :
              - Cảnh vật là do lòng người tạo ra, hễ lòng ngay thẳng sẽ thấy cảnh vật rộng lớn. Người muốn biết bao giờ có thể xuất đầu, hãy tự mình xem ngày nào có thể minh tâm kiến tính.
              Giao long cái kể lại chuyện đời mình, than thở những điều oan khuất từng gặp phải, chân nhân mới cười, bảo :
              - Ngươi vốn vô tội, chỉ vì cố chấp mới mắc phải tai ách này. Những chuyện ngày trước, ta biết cả rồi, bất tất phải nói nhiều. Ngươi nên biết việc tu chân học đạo mà được ở nơi hang động là thích hợp hơn cả. Nếu ngươi biết dụng tâm tu trì, sẽ có ngày thành phật thành tiên. Sau này còn có thiên thần hạ giáng: đón ngươi lên trờ, hà tất ngươi phải nóng vội, cầu mong được xuất đầu lộ diện ở chốn trần gian ? Nếu ngươi biết thành tâm tu đạo, lòng tinh tiến không đổi dời, thì ta ước tính cho ngươi ba ngàn năm sau có thể thành công, ngươi vốn có tính chất đơn thuần, không nhiều vật dục, nên dễ tiến bộ, hơn hẳn người bình thường. Sở dĩ ta ước tính cho ngươi ba ngàn năm, là vì ngươi mắc đường tình ái quá thâm sâu Đó chẳng phải điều thích hợp cho người tu đạo. Chính vì duyên cớ đó, ta toán định cho ngươi, phải tu hành một thời gian dài, mới đạt được pháp lực, đạo hạnh, có thể tiêu trừ tội ác cho chồng ngươi.
              Giao long cái nhỏ nước mắt, nói :
              - Theo lời pháp sư, chồng tôi chết thảm như thế, mà còn phải chịu tội ở dưới địa ngục nữa sao ?
              Chân nhân cười lớn tiếng :
              - Chồng ngươi phạm nhiều tội ác lớn lao, làm sao có thể tiêu trừ ? Trước đây, Chung Li tiên đã nói với ngươi những gì, đều là chân thật cả đấy. Chỉ tại ngươi không chịu tin đó thôi. Chiếu theo những điều chồng ngươi đã làm trước đây, tàn hại nhân dân và vật loại quá nhiều, thì tội ác đó đáng bị giam cầm ở mười tám tầng địa ngục hàng ngàn, hàng vạn năm, cũng chẳng phải là quá đáng. Vừa rồi, ta nói thời gian ba ngàn năm là để cho ngươi tu thành tiên đạo mới có thể cứu chồng ngươi ra khỏi địa ngục.
              Giao long cái nghe vậy, lặng yên, chân nhân mới tìm lời an ủi:
              - Ngươi đừng nóng vội, chớ ngại buồn chán. Lời tục nói rằng..: “Có nếm mùi đau khổ, mới nên người tốt", người tu đạo chẳng cầu ăn miếng ngon, ở chỗ tốt. Nay ngươi đã có nước, có ánh sáng, lại có hang động, có thể ở yên. Chỗ này lại không phải lo sợ vì hùm sói, yêu quái nên so với người tu đạo bình thường, ngươi chiếm được nhiều điều tiện nghi lắm rồi. Hãy coi cảnh trước mắt là điều hưởng phúc. Một khi tâm khí bình thản, sẽ tự vui với cảnh. Nỗ lực dụng công, sẽ có ngày thành công. Ta đi đây !
              Hai chân vừa nhấc khỏi mặt đất, Hứa chân nhân đã biến đâu mất. Giao long cái ở trong động quì xuống, làm lễ tiễn đưa.

              #67
                bevanng 21.07.2008 22:42:53 (permalink)
                Hồi Thứ 75

                Miệng giếng lớn, người tiên lưu cổ tích
                Núi Bạch Vân, quỉ lại cầu danh sư.


                Hứa chân nhân cứu giao long cái, mở một miệng giếng ở dưới chân núi Thành Hoàng để đưa một tia sáng mặt trời xuống bên dưới. Ông lại đem một nguồn nước vào hang động cho giao long cái có chỗ dung thân, lại hứa hẹn rằng chừng nào nó tu thành đại đạo tự nhiên sẽ có ánh sáng rực rỡ phát hiện. Riêng dân chúng thành Hàng Châu tự nhiên được Hứa chân nhân mở cho một miệng giếng lớn, cung cấp nước dùng cho nhân dân cả một vùng, múc hoài không hết. Về sau, người ta ngoa truyền rằng giếng này là nơi mà Hứa chân nhân dùng để nhốt giao long cái. Lại đồn rằng hễ có ánh sáng rực rỡ, giao long cái sẽ xuất đầu lộ diện. Vì thế, dân chúng bảo nhau răn trừng, mỗi khi trời chạng vạng tối, không ai được đem đèn đuốc tới gần miệng giếng, để đề phòng giao long cái có thể thoát ra ngoài. Đó chẳng qua chỉ là những lời ngoa truyền, lừa gạt đàn bà, con trẻ, chứ Hứa chân nhân đã hứa cho giao long cái ba ngàn năm tu thành đại đạo, đến nay còn phải đợi hơn hai ngàn năm nữa, mới tới kỳ hẹn đó, làm sao có thể xảy ra chuyện bất trắc được chứ ? Sự thật thế nào, kẻ làm sách này cũng không thể thăm dò được, đành bỏ qua một bên.
                Đây đề cập tới một người, mà những hồi trước đã nhắc tới. Đó là phí Trường Phòng, học trò của Vương Nhất Chi. Trường Phòng được Nhất Chi truyền thụ cho tất cả kỹ năng của mình, lại khắc khổ dụng công, học có phương pháp, nên tài năng có phần vượt trội hơn thầy. Sau khi Vương Nhất Chi qua đời, chức vụ trị quỉ lại trao cho Trường Phòng đảm nhiệm. Chức vụ này không cao, lại hàng ngày gần gũi với ma quỉ, âm khí nặng nề. Cũng vì xử trị đám quỉ dữ, không tránh khỏi nhiều lần gây thù kết oán với ma quỉ.
                Lúc Vương Nhất Chi còn tại thế, ông ta cũng không ưa công việc dễ gây thù kết oán này. Kết cuộc mắc phải đại họa, nhưng được chết toàn thây, lại tránh khỏi sa vào địa ngục, là may lắm rồi.
                Được Thiết Quài tiên sinh đề bạt, Phí Trường Phòng tiếp nhận chức vụ của thầy, cũng không ham muốn công việc vất vả mà nguy hiểm này. Anh ta tuổi còn trẻ, chí hướng cực cao, đã nhập Đạo môn, lẽ nào là không hy vọng đạt tới địa vị thiên tiên ?
                Gương thầy còn rành rành ra đó, chỉ vì một lúc sơ suất, mà kết quả là mắc đại họa, chết bất đắc kỳ tử. Điều đó cho thấy chức vụ này chẳng vừa ý anh ta chút nào. Chỉ vì mệnh trời khó tránh, miễn cưỡng phải tuân chỉ đó thôi. Vì thế, anh ta lập chí tinh tiến, không dám lơ là công việc một giây phút nào, để đợi kỳ siêu thăng thiên giới. Nào ngờ có Văn Mỹ chân nhân đi qua chốn này, nghe nói có người chăm lo việc tu đạo rất thành khẩn, mới báo tin cho đệ tử là Trương Quả, bảo Trương Quả hãy tới thăm dò, thử thách Phí Trường Phòng, coi thử anh này có phúc phận thành tiên hay không.
                Trương Quả tuân lệnh thầy, tới thăm Phí Trường Phòng. Giữa đường lại gặp Lam Thái Hòa cùng Hà tiên cô, đang rủ nhau đi rong chơi. Ba người gặp nhau cùng chuyện trò thăm hỏi, Trương Quả mới rủ hai người cùng đi một chuyến. Hai vị tiên liền vui vẻ nhận lời, cùng Trương Quả cưỡi mây bay đi.
                Ba người tới địa giới Lạc Dương, là nơi trú ngụ của Phí Trường Phòng. Lựa một bãi đất trống, họ hạ đám mây xuống thấp, rồi biến đổi thành ba vị đạo nhân bình thường, tìm tới nhà của Trường Phòng, xin ra mắt. Trường Phòng đang lúc chuyên tâm học đạo, nghe có đồng đạo cầu kiến, tự nhiên là rất hoan hỉ, vội chỉnh đốn lại quần áo, ra ngoài nghênh tiếp, mời vào trong nhà, thi lễ rồi ngồi xuống. Trường Phòng hỏi thăm tên họ, ba vị tiên không muốn chường mặt cho biết, bịa đặt một tên gọi khác để đáp lại, và nói:
                - Chúng tôi từ Lĩnh Nam tới đây. Nghe tiên sinh đạo hạnh uyên thâm, thống suất các quỉ hồn trong thiên hạ, quả là một kẻ sĩ tài trí, đạo đức, nên chúng tôi mạo muội tới đây bái yết.
                Nguyên Phí Trường Phòng giữ chức vụ thấp hèn, bản thân lại cao ngạo, tự kiêu, bình sinh rất ghét những ai nói tới việc anh ta trị quỉ, cho rằng người đó có ý lăng nhục mình. Rõ ràng là người đó đã coi anh ta không đủ tư cách để tu tiên, học đạo. Bạn bè biết tính khí anh ta như vậy, tuy biết rõ bản thân anh là quỉ sư, nhưng cũng phái né tránh, không bao giờ dám nhắc tới chữ "Quỉ" trước mặt anh ta. Không dè hôm nay có ba người khách không mời mà tới, vừa mở miệng nói câu đầu tiên đã nhắc ngay tới việc "trị quỉ".
                Trường phòng vừa nghe câu nói đó, liền đỏ rần hai má, không biết đường nào mà trả lời. Nhưng người ta là khách phương xa tìm tới, lần đầu tiên tới chơi nhà mình, Trường Phòng cũng không thể gây sự, đành nín khe. Ba vị tiên đều không thông hiểu việc đời, chẳng nhìn nét mặt cau có để hiểu rằng Trường Phòng bất mãn, cứ đem chuyện trị quỉ mà bàn tới bàn lui. Lại hỏi anh ta tình hình trị quỉ ra sao ? Bình thời đã thấy những loại quỉ dữ như thế nào ? Còn nhắc cả tới chuyện của thầy anh ta là Vương Nhất Chi, nói ông này hồ đồ, không biết chọn bạn mà chơi, cả tin vào người bạn xấu mà làm việc phạm pháp, mang lấy họa sát thân. Trường Phòng thực tình không chịu đựng nổi nữa, nhưng lại không thể đắc tội với khách phương xa, đành giữ thái độ thờ ơ. Mấy người kia hỏi ba, bốn câu, anh mới trả lời nhát gừng nửa câu. Ba người kia vẫn không hiểu ý, cứ tiếp tục bàn bạc lăng xăng, khiến Trường Phòng nghi ngờ. Ba vị khách quí này chẳng phải viễn khách, mộ danh tiếng mình mà lặn lội tới thăm. Nhất định họ đã có điều hiềm khích gì với ta từ trước, không chừng họ là kẻ thù của thầy ta trước đây, nay biết lão nhân gia đã qua đời, nên tới tìm ta để gây chuyện cũng nên. Trường Phòng đang tuổi niên thiếu, nóng tính, không thể để cho người khác lấn lướt như thế, mới đứng dậy, hướng về phía ba vị khách, chắp tay vái một vái, lên tiếng :
                - Xin lỗi ba vị, kẻ hèn này phụng chỉ biện lý việc quỉ, thứ nhất là để tiếp nối công việc dở dang của tiên sư, sau nữa vì nhàn rỗi, lạm dự công việc để giúp đỡ dân địa phương một phần nào. Chẳng dám chê quan nhỏ, chức thấp, nhưng thật tình chí nguyện của tôi không đặt ở đây. Đáng tiếc rằng chúng ta là chỗ sơ giao, hai bên chẳng có quan hệ gì sâu đậm, mà từ nãy đến giờ ba vị chỉ nói tới chuyện quỉ mà thôi. Kẻ hèn này chẳng dám nghi ngờ ba vị từng có mối qua lại với đám quỉ dữ, cũng không dám tin rằng ba vị nhận lệnh của người nào đó, tới đây để điều tra về chức vụ của tôi. Kẻ hèn này bình sinh vốn hiếu khách, gặp kẻ sĩ đồng đạo lại càng hoan nghênh, không dè hôm nay gặp được ba vị đạo trưởng, nghe những lời bàn bạc, khiến tôi rất thất vọng. Cứ tưởng các vị có điều gì hay để chỉ giáo, không ngờ ba vị chẳng bàn tới chuyện người, chỉ nói tới chuyện quỉ, khiến tôi chẳng hiểu ý ba vị ra sao, dám xin ba vị nói rõ cho biết, có được không ?
                Ba vị tiên nghe nói, nhìn nhau cười ngất, cùng nói :
                - Tiên sinh quả là một kỳ sĩ nóng tính trong thiên hạ. Chí nguyện của người đời nay, nếu không làm quan chốn dương gian, thì cũng làm lại nơi âm tào, địa phủ, cùng tốt như nhau. Tiên sinh đảm nhiệm chức vụ quan trọng hiện nay, chẳng lẽ còn có điều bất mãn ? Thế mới biết người đời hoài bão lớn nhỏ, chí hướng cao thấp, chẳng ai giống ai. Nhưng không hiểu chí tiên sinh cao tới bậc nào, nhắm tới sự nghiệp lớn tới đâu, có thể cho nghe được không ?
                Trường Phòng đáp giọng lạnh tanh :
                - Mỗi người một chí hướng, chẳng ai giống ai. Chúng ta là chỗ bèo nước gặp nhau, chẳng có quan hệ gì, tôi đã không mất thời giờ hỏi lai lịch ba vị, ba vị lại đòi biết chí hướng của tôi, há chẳng phải nhiều chuyện hay sao ?
                Trương Quả thấy Trường Phòng giận dữ thật sự, vội cười, nói :
                - Chúng tôi thật không biết tiên sinh giữ chức vụ này lại miễn cưỡng như thế. Chắc hẳn chí nguyện của tiên sinh đặt ở chỗ cao hơn địa vị hiện thời gấp bội. Chúng tôi không biết trước, nên đã lỡ lời nói năng đường đột, xin tiên sinh tha thứ. Vừa rồi chúng tôi hỏi chí của tiên sinh, cũng chỉ vì ngưỡng mộ khí tiết, muốn kết giao cùng tiên sinh. Dè đâu một người đức độ như tiên sinh, vừa nghe mấy lời nhỏ nhặt, chẳng quan trọng gì, đã vội nổi cơn thịnh nộ. Người có khí lượng hẹp hòi như thế, e rằng chỉ có thể biện lý việc cõi âm, sung chức quỉ lại, còn chuyện thần tiên đại đạo, chắc là không thích hợp. Giả sử tiên sinh đặt chí ở việc tu tiên, hoặc là các việc thần tiên đại loại, thì với khí độ đó, dường như tiên sinh không học nổi đâu, mong ông xét lại.
                Trường Phòng nghe vậy, vội nói :
                - Ba vị tới đây, chỉ nói một lời đã giúp ích cho tôi rất nhiều, tôi xin vái nhận. Chẳng giấu gì ba vị, tôi sinh ra đã gặp vận số long đong. Lúc bé mồ côi, không từng được nghe những lời giáo huấn, sau này theo tiên sư Vương Nhất Chi, học được phép bùa chú, chẳng liên quan gì tới đại đạo. Lúc tiên sư còn tại thế, tôi đã có ý bỏ nhà đi vân du, phỏng cầu danh sư. Sau rồi lại phụng mệnh, kế thừa chức vụ của thầy, không dám lơ là với chức trách, nên chẳng có thời giờ mà nghĩ tới việc chuyên tinh huyền lý, vì thế lòng thường buồn bực. Không dè, ba vị từ xa tới, không đem chính đạo giúp đỡ nhau, trái lại còn đề cặp những điều mà tôi thường ấm ức trong lòng, nói hoài nói hủy, lại nói giọng chê bai, giễu cợt nữa. Đối với ba vị, đó là những lời nói vô tâm, đối với tôi lại là những điều đáng thất vọng, bất giác biểu hiện thái độ bất mãn. Nguyên nhân chính là như thế.
                Ba vị tiên nghe nói, lại đưa mắt nhìn nhau, gật gù mấy cái, cùng nói : - "Thằng bé này dạy dỗ được đây !", rồi đưa mắt cho nhau, cùng nhảy vọt lên. Chân họ vừa rời khỏi mặt đất, cả gian nhà bỗng hiện ra mây lành ngũ sắc, ba người cùng bay lên trời, để lại hương thơm ngào ngạt khắp căn phòng. Trường Phòng kinh hãi, vội dập đầu vái, thì ba vị đã ở trên đám mây nhìn xuống, cất tiếng cười ha hả. Trường Phòng quì lạy tận đất, hô to :
                - Thưa ba vị tiên sư, vừa rồi đệ tử có mắt không tròng, nói năng bừa bãi, xin ba vị niệm tình đệ tử thành tâm mà tha thứ, thu nhận đệ tử vào môn hạ, giúp đệ tử sớm thoát khỏi bể khổ, thì ơn đức ấy đệ tử suốt đời ghi nhớ.
                Trương Quả ở trên mây, phất tay một cái, bảo Trường Phòng đứng dậy, rồi đem lai lịch của ba người nói rõ cho biết, bảo anh ta nếu có thành tâm, nội trong ba ngày hãy lên đỉnh núi Bạch Vân ở phía Tây thành, tìm tới một tòa miếu cổ, sẽ thấy ba người ở đó, truyền diệu đạo cho. Câu nói vừa dứt, mây ngũ sắc tan đi, ba người biến mất.
                Trường Phòng lạy xong, vào nhà trong. Số là vợ anh ta mất sớm, gần đây anh nối duyên với một cô gái, con nhà đại gia, tài mạo song toàn, vợ chồng rất thương yêu nhau. Thấy mặt chồng, cô ta liền hỏi :
                Hôm nay có những ai tới thăm, mà bàn luận lâu lắt đến tận giờ này ?
                - Nói để phu nhân mừng cho ta. Ta bình sinh không ham phú quí chỉ chuyên cầu tiên, hỏi đạo, chẳng dè hôm nay quả có ba vị thần tiên, thương ta thành tâm, đặc biệt tới chỉ giáo. Các ngài còn bảo ta ngày mai lên đỉnh núi Bạch Vân gặp mặt, các ngài sẽ truyền thụ đại đạo...
                Bà vợ không đợi nghe hết câu, chu cái mỏ, nói :
                - Quan nhân đúng là mắc chứng khùng điên. Ai chẳng biết trên núi Bạch Vân có rất nhiều hổ báo, mỗi năm ăn thịt người không ít. Ông tuy có chút pháp thuật, nhưng chỉ đủ đối phó với người ta, chứ gặp phải dã thú không thông tính linh, cũng đành bó tay. Tội gì mà phải mạo hiểm, chỉ vì những chuyện viển vông như thế ?
                Trường Phòng lắc đầu .
                - Ta có phép rút đất, chỉ nhảy một cái là lên tới đỉnh núi, mãnh thú cũng chẳng đuổi kịp Người tu đạo mà còn sợ điều này, ngại điều kia, làm sao tỏ được thành tâm, thành ý ?
                - Chúng ta sống trên chốn phàm trần mà được thế này là tốt lắm rồi, hà tất phải cầu tu đạo nào nữa ?
                Phu nhân khuyên giải đôi ba phen, Trường Phòng vẫn khăng khăng không nghe, lại nghĩ thầm : “người tiên dặn bảo ta đi lần này, chỉ ra một địa phương nguy hiểm, đa phần là muốn thăm dò xem ta có thành tâm hay không ? Nếu ta dùng phép rút đất, nhảy một cái là tới nơi ngay, sao tránh khỏi người tiên chê cười ta múa búa qua cửa Lỗ Ban ?". Vì thế, anh ta giấu vợ, âm thầm dự bị lương khô, sáng sớm ngày hôm sau len lén rời khỏi nhà, nhắm hướng Bạch Vân sơn tiến phát. Bà vợ cũng không kịp ngăn cản, đành âm thầm chờ đợi chồng về.
                Núi Bạch Vân tuy ở gần miền, nhưng trước nay trên đó có nhiều mãnh thú, nên Trường Phòng cũng chưa lên núi lần nào. Đường đi lại quanh co, hiểm trở, hỏi thăm người địa phương nhiều lần, mới lên tới chân núi, lúc đó, trời đã về chiều. Nhìn thế núi, vô cùng hiểm trở. Tuy có lối đi nhỏ, nhưng quá chật hẹp, rất khó đặt chân. Cuối cùng, lên tới chỗ vách núi thì mồ hôi ra ướt đẫm, gân cốt mỏi rồi. Tuy vậy, cũng không dám ngừng lại nghĩ ngơi. Mặt trăng ló ra, thúc đẩy dũng khí, Trường Phòng tiếp tục leo lên cho đến lúc hai chân mềm nhũn toàn thân rã rượi, chịu không nổi nữa, ánh trăng lại lúc sáng lúc tối, khi trăng sáng còn có thể phân biệt lối đi, chứ khi mây đen che khuất, không còn nhận rõ đường đi nước bước, đành phải chọn một tảng đá, ngồi đợi sáng. Suốt một đêm, cũng từng nghe cọp gầm trên hang núi, mắt thấy ma núi hoành hành. Nhưng ma vốn sợ Trường Phòng, tự nhiên chẳng dám hại, riêng các loài hùm, sói, Trường Phòng không có cách nào chế ngự. Cũng may, anh biết phép rút đất, nếu mãnh thú xông tới tấn công, có thể đem ra sử dụng. Tuy nhiên, suốt một đêm đợi sáng, anh cũng không phải dùng tới lần nào.
                Trời rạng sáng, Trường Phòng ăn lót dạ qua loa, rồi đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Nhìn lên trên, thấy đỉnh núi hiện ra thấp thoáng, trên đó lại thấy một tòa miếu cổ cũ kỹ, cho rằng các vị tiên sư ắt đang ở đó đợi ta. Lòng mừng khấp khởi, lập tức phấn chấn tinh thần, không buồn để ý gì tới đôi giày rách bươm vì leo núi ngày hôm qua, cũng không thấy gân cốt rã rượi nữa, có thể leo lên đỉnh núi dễ dàng. Lập tức đưa chân tiến bước. Lại vất vả leo một ngày trời mới lên tới nơi. Vừa ngừng chân, ngửng đầu nhìn lên, bất giác kêu khổ.

                #68
                  bevanng 21.07.2008 23:10:34 (permalink)
                  Hồi Thứ 76

                  Lam Thái Hòa hát bài ca, chê bai khách tục
                  Phí Trương Phòng đầu óc hẹp hòi, gặp nhiều trắc trở.


                  Phí Trường Phòng chịu trăm cay ngàn đắng, mới bò lên đỉnh núi Bạch Vân. Lúc trước, ngửng đầu nhìn lên quả thấy một tòa miếu cổ nguy nga, nằm ẩn mình trong chỗ rừng sâu. Nào ngờ leo lên đỉnh núi nhìn lại, chẳng thấy tòa miếu cổ ở đâu. Trường Phòng vừa ngạc nhiên vì kinh hãi, sợ rằng người tiên giận mình thiếu thành tâm, đã đem tòa miếu cổ giấu biến đi đằng nào, biểu thị ý cự tuyệt. Nghĩ đến đó, bất giác đau lòng, kêu trời trách đất, khóc lóc hồi lâu.
                  Khóc một chập, thấy sắc trời lại sụp xuống, ánh tà dương chiếu trên ngọn cây, bầy ra một cảnh chiều tà thê lương. Trường Phòng lúc đó cảm thấy quả tình tiến lên không có đường, lui về không có nẻo, một mình đứng ở chỗ vắng vẻ, mà lòng ngần ngừ, không quyết. Tai nghe lá cây rừng xào xạc, mắt nhìn đàn chim bay tán loạn, Trường Phòng bất giác suy nghĩ : người ta sống trên đời, khác gì khách lữ hành ở nơi quán trọ ? Nhất đán đại hạn lâm đầu, mọi chuyện đều không. Suy nghĩ cho kỹ, còn lại gì nữa đâu ?".
                  Chuyển nghĩ lại bản thân, lúc nhỏ đã gặp nhiều khốn khó, lớn lên học được phép thuật với Vương Nhất Chi. Tuy được chút pháp thuật, nhưng điều đó thật tình rất xa với đại đạo. Về sau, kế thừa chức vị của sư tôn, càng không có thời giờ mà tu trì. May mắn sao gặp được ba vị tiên trưởng, đã tưởng rằng được độ cho khỏi đường mê, tu thành đại đạo. Chẳng dè, tuân lệnh ba vị, không ngại nguy hiểm, trải trăm cay ngàn đắng mới leo lên tới đỉnh núi, mà rồi không hiểu mình đã mắc tội gì với các vị tiên sư, khiến các ngài dùng phép ảo hóa, đem tòa cổ miếu giấu béng đi đâu, chứng tỏ các ngài đã không chịu cho thấy mặt. Cơ hội này đã lỡ, bao giờ mới được gặp chân tiên ? Chân tiên đã không thể gặp, đại đạo làm sao thành ? Nếu phải tiếp tục chịu đựng những hệ lụy của cuộc đời trần tục, chi bằng sớm giải thoát cho rồi ? Nghĩ đến đó, bất giác tỏ ý cương quyết, đứng dậy, hô to :
                  - Các vị tiên sư đã không chịu thu nhận đệ tử, đệ tử có sống trên đời này cũng chẳng có gì là tốt đẹp. Người ta sớm muộn cũng một lần chết, đệ tử cũng không muốn tiếp tục làm một tục khách nữa. Xin bái biệt ba vị tiên trưởng, đệ tử xuống âm tào ngay đây !
                  Nói rồi, quì gối, lạy dập đầu bôm bốp. Vừa muốn cởi dây lưng để thắt cổ, chợt nghe phía sau núi có tiếng người ca một bài :
                  Người mê tìm kiếm mãi
                  Chẳng thấy chốn đường mây
                  Núi cao lắm hiểm trở
                  Động biếc rộng và dầy
                  Vách đá liền sau trước
                  Trên trời mây trắng bay
                  Đường mây như muốn hỏi
                  Đâu đó, nào ai hay ?

                  Bài ca rất dài, gồm mười bốn đoản khúc tất cả, đại ý chê bai người khách tục, vì lòng tham lam, nhiều ham muốn và mê muội, mà không thấy cuộc đời này là ngắn ngủi, bấp bênh, để tìm đại đạo, là điều lạc thú vĩnh cửu.
                  Trường Phòng nghe dứt bài ca, ngạc nhiên, nói :
                  - Bài ca này thoát tục, hàm chứa ý tiên. Há chẳng phải các vị tiên sư vẫn còn ở trong núi, chưa bỏ đi xa ? Hẳn là các vị thương ta mê muội, có ý cứu vớt ta đây.
                  Vì thế, phục xuống đất, hô to lên :
                  - Các vị tiên sư hiện ở đâu . Đệ tử Phí Trường Phòng tuân chỉ lên núi, cầu kiến các vị, nay chuẩn bị tự sát để tạ ơn các vị. Nếu các vị tiên sư thấy Trường Phòng này còn có chỗ khả thủ, hãy mau hiển thị pháp lực, cho đệ tử được thấy dung quang, có chết xuống suối vàng, còn có thể nhắm mắt.
                  Đang lên tiếng năn nỉ cầu xin, chợt thấy người vừa hát bài ca, từ phía sau ngọn núi phía trước, từ từ tiến ra. Vừa thấy mặt Trường Phòng, người đó tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi :
                  - Vị tiên sinh này thực đáng tức cười. Ông leo lên núi cao, để ở đó mà hành đại lễ, chẳng là điều quái lạ lắm sao ?
                  Trường Phòng ngửng đầu lên nhìn, thấy người kia tuy không phải một trong ba vị tiên sư hôm trước, nhưng cũng có tiên phong đạo cốt, thần thái tiêu sái. Vả lại, ở chỗ núi sâu, vào buổi chiều tà này, một mình vừa đi vừa hát, thì người đó quyết không phải hành khách phàm tục, mà là bạn bè hoặc đệ tử của ba vị tiên sư, được đặc biệt sai phái tới đây để gặp ta. Vì thế, lại khấu đầu làm lễ, rồi mới đứng dậy, nói :
                  - Tôn huynh nhất định là người do ba vị tiên sư sai phái đến đây để nâng đỡ tôi, có phải không ? Vừa rồi, nghe tôn huynh ca, tôi đã biết ngay tôn huynh không phải hạng người tầm thường, lưu tục.
                  Người kia cười, một mặt đáp lễ, một mặt hỏi nguyên do.
                  Trường Phòng kể lại chuyện mình, người đó cất tiếng than thở:
                  - Thì ra là vậy. Chẳng trách túc hạ đã quá thương tâm như thế. Ba vị tiên sư mà túc hạ vừa nhắc tới, tôi cũng quen biết sơ qua một, hai vị. Các vị đó chẳng phải không chịu gặp anh đâu, và cũng không hề có ý ghét bỏ gì cả. Họ cũng biết anh không ngại nguy hiểm lên đây, nên có ý khen ngợi anh đấy. Tuy nhiên, lần này anh mắc một quan ải, e rằng vượt qua không dễ dàng gì đâu. Thứ nhất là trong nhà anh còn có người vợ trẻ xinh đẹp, chẳng biết có dứt bỏ được hay không ? Thứ hai, tuy anh có can đảm, nhưng chẳng biết anh có biếng nhác, ngại khó hay không...
                  Nghe câu nói đó, Trường Phòng hiểu ra liền : người tiên không chịu cho gặp mặt là vì tối hôm qua anh đã tỏ ra thiếu thành khẩn, và người trước mặt hắn là người do các vị tiên sai phái tới đây, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhân đó, vội hỏi thăm tên họ, người đó đáp liền:
                  - Chúng ta bèo nước gặp nhau, chớp mắt đã chia rẽ Đông, Tây. Nếu quả thật vừa rồi anh tự sát, thì giờ này chúng ta kẻ sống, người chết, hà tất phải để lại danh tính ? Thản hoặc sau này có duyên, lại có lúc tụ hội một chỗ, đôi bên tự nhiên biết nhau, cần gì phải thông tên gọi từ trước ?
                  Trường Phòng không dám hỏi nữa, vội bày tỏ lòng thành :
                  - Nếu nói tới tình nhi nữ, tiểu đệ tự tin có thể dứt bỏ dễ dàng, chẳng hay tôn huynh có thể thay mặt tôi bầy tỏ lòng thành khẩn cùng các vị tiên sư, nói rõ tiểu đệ có ý hối hận, thành tâm tin đạo, hứa tự sửa đổi, để các vị chấp thuận cho vào môn hạ, có được hay không ?
                  - Tu đạo ở mình, chứ không ở người. Nếu quả thật có thể lập chí tinh thuần, nỗ lực phấn đấu không trễ biếng, đại đạo ở ngay trong lòng, chẳng cần phải cầu bên ngoài. Trái lại, ngày ngày nói cầu sư giờ phút nói hỏi đạo, kết quả chỉ là tự lừa dối, chẳng ích lợi gì.
                  Trường Phòng là người rất thông minh, từ nhỏ đã vào làm môn hạ cho Vương Nhất Chi, được truyền thụ đạo, pháp, gần đây rất tiến bộ, vừa nghe nói đã hiểu ra liền. Lại nhớ lại lời ca lúc nãy, nhìn lại người trước mặt, hoạt nhiên tỉnh ngộ, đoán chắc người này phải là một trong ba vị tiên đã gặp hôm trước. Câu nói vừa rồi chính là lời mở đầu của các vị, hứa truyền thụ tiên đạo, là câu khai tông minh nghĩa của bản môn. Vì thế, Trường Phòng vội cúi lạy, nói :
                  - Đệ tử đã hiểu rõ. Dụng công học tập cần phải dựa vào thực tế không có chút nào là không thành tâm, cầu đạo thì vạn duyên phải tĩnh, không cho hứa hẹn lôi thôi. Xin hỏi tiên sư, như vậy có đúng hay không .
                  - Dựa vào thực tế là việc chẳng dễ dàng chút nào. Nói thì dễ, làm mới khó. Nói ra điều gì, phải làm cho bằng được, thế gọi là nói và làm phù hợp với nhau. Nho, Thích, Đạo ba đạo giáo, cũng một đạo lý ấy thôi. Nói nghe hay lắm, mà không đúng sự thật, chỉ là lời nói suông. Đã nói suông, thì không thành thật, và người không thành thật, tiên gia rất ghét, nói chi tới chuyện học đạo ?
                  Trường Phòng nói giọng buồn bã :
                  - Đệ tử đi chuyến này là cầu bái yết ba vị tiên sư, nghe lời giáo huấn, chẳng dè không được thấy mặt tiên sư, lại gặp được tiên trưởng, chỉ nói một câu đã khai sáng cho đệ tử. Đệ tử hiện giờ nghĩ chuyện xuất gia tu đạo, đã có quyết tâm hoàn toàn. Tâm không quyết, nói nhiều cũng vô ích, chẳng những không thành thật, còn tự dối mình, khiến các vị tiên sư ghét bỏ. Đệ tử nay đã giác ngộ, nếu không quyết định tu tiên, còn tham luyến hồng trần, ắt bỏ lỡ cơ hội, không còn dịp nào để thành công, làm trò chơi cho thiên hạ.
                  Người kia nghe vậy, gật đầu mấy cái, nói :
                  - Nói vậy là anh đã quyết tâm vất bỏ vợ đẹp con khôn, cùng với tất cả những sự vật dễ thương trên đời, từ nay trở đi, thực hành việc xuất gia, hỏi đạo, có phải không ?
                  - Đúng là như vậy.
                  - Tuy nói vậy, tình vợ chồng anh thương yêu nhau rất tốt đẹp, anh lại có các con ngoan, thông minh tuấn tú, cần phải chăm sóc cho nên người, mà anh tính vất bỏ tất cả hay sao ? Như vậy, há chẳng phải quá nhẫn tâm ư ?
                  Trường Phòng nói giọng quả quyết :
                  - Chỉ có người chí tình mới có thể quên tình, quên tình ngày hôm nay chính là chân tình mai sau. Tiên trưởng đừng nói khích, thử thách tôi nữa. Tôi chính là người đồ tể vất bỏ con dao chọc tiết heo, quyết tâm tinh tiến, không còn gì để luyến tiếc nữa.
                  - Nếu đã vậy, ta sẽ thay mặt anh, bầy một trò chơi nho nhỏ, khiến người nhà anh tưởng anh đã chết, không còn nhớ tiếc tới anh nữa. Sau đó, ta mới dẫn anh đi gặp ba vị tiên sư, có được không ?
                  Trường Phòng mừng rỡ, nói :
                  - Thâm cảm mối thịnh tình của tiên trưởng.
                  Người kia liền mò trong tay áo, lấy ra một viên thuốc, nói :
                  - Hãy nuốt viên thuốc này, sẽ hết đói khát, mà mắt lại sáng ra nữa. Uống xong viên thuốc, có thể không cần ăn, suốt một năm, và trong đêm tối phân biệt được mọi vật.
                  Trường Phòng vái mà nhận lãnh viên thuốc, nuốt ngay vào bụng. Liền cảm thấy tinh thần sảng khoái gấp bội, và hai mắt sáng rực. Lúc đó, trời đã tối mịt, ánh trăng lờ mờ, vừa trú mục nhìn liền nhận rõ đường đi, phân biệt được mọi vật, như giữa ban ngày. Trường Phòng mừng rỡ, bái tạ, người kia liền bảo anh tiến lại chỗ cây cổ thụ đằng trước, bẻ một cành khô, vất xuống đất.
                  Trường Phòng vội hỏi :
                  - Vậy là ý gì ?
                  - Cái này tạm thời để thay thế thân xác cho anh.
                  Người kia nói rồi, nhắm về phía cành cây khô, niệm chú lâm râm, và hét lên một tiếng. Tức thì, cành cây khô biến mất, thay vào đó là một hình người, giống hệt như Phí Trường Phòng, lồm cồm ngồi dậy, tới đứng kế bên Trường Phòng. Trường Phòng vội hỏi :
                  - Đây là người giả chết, thay cho đệ tử , phải không ?
                  Người kia cười, nói :
                  - Ta không có thời giờ đưa anh này đi, đành phải tìm một người giúp đỡ vậy.
                  Nói rồi, niệm chú vời thổ địa bản sơn tới, bảo ông này đưa Phí Trường Phòng giả tới một miếu thổ địa ở ngoại thành phía Tây nhờ ông thổ địa ở đó báo mộng cho vợ Trường Phòng, kêu chị ta dẫn các con tới miếu thổ địa, mang xác Trường Phòng về . Thổ địa bản sơn lãnh pháp chỉ. Người kia lại nhắm vào Trường Phòng giả, thổi một làn hơi, thổ địa liền đưa tay đập lên mình Trường Phòng giả một cái, hô to :
                  - Đi theo ta ?
                  Trường Phòng giả liền hoạt động như một người sống, ngoan ngoãn đi theo thổ địa, xuống núi.
                  Trường Phong thấy vậy, cảm khái trong lòng, lặng yên, không nói tiếng nào, ra điều suy nghĩ hồi lâu. Người kia cười, hỏi :
                  - Cái gì vậy ? Anh vẫn không dứt bỏ được người trong nhà hay sao ? Nói thật cho anh biết, nếu bây giờ anh trở về nhà, vợ con anh đều nghi hoặc, không biết anh là thần hay quỉ. Anh hãy nghĩ lại coi anh rời nhà được bao lâu rồi ?
                  Trường Phòng vội đáp :
                  - Không quá hai ngày.
                  Người kia cười rộ, nói :
                  - Nơi đây là chốn tiên ở, ngày tháng không giống như ở chốn nhân gian đâu. Anh hãy tự hỏi lại mình, sẽ hiểu ra rằng anh tới đây đã được nhiều tháng rồi đó. Không tin, anh hãy lưu ý tới cơ thể mình xem sao. Há chẳng phải đã từ nóng sang lạnh, lại từ lạnh dần dần chuyển sang ôn hòa hay sao ?
                  Trường Phòng nghe nói, mới nhớ lại lúc mình rời khỏi nhà, trời đang tiết thu, chỉ cần mặc một chiếc áo đơn. Đến chừng lên tới trên núi, đã thấy tiết đông hàn lạnh giá, nhưng vì tìm ba vị tiên không được, trong lòng nóng nẩy, mới không cảm nhận được cái lạnh khó chịu đựng. Đến khi gặp được người kia, cùng nhau bàn luận về huyền lý, lại thấy ấm áp trở lại, té ra đã chuyển sang khí hậu ôn hòa của buổi dương xuân. Trong lòng cảm thấy quái lạ, mới hỏi :
                  - Ngọn núi Bạch Vân này, chỗ nào cũng có thần tiên trú ngụ hay sao ?
                  Người kia cười, nói :
                  - Thần tiên họ phải có chỗ trú ngụ thường xuyên, như người phàm trần hay sao ? Vắn tắt một lời, cảnh trời rộng, đất lành đều bởi lòng mình mà ra. Lòng anh càng thành thật, anh càng tới gần tiên cảnh. Anh thử nhớ lại coi, lúc anh mới lên núi, thời tiết thế nào? Sau khi leo lên đỉnh núi, khí hậu biến đổi ra sao ?
                  Trường Phòng suy nghĩ lại, thấy' những lời tiên trưởng vừa nói đều là chân thật, liền tỉnh ngộ, vái lạy cầu xin người kia dẫn mình đi tìm kiếm ba vị tiên.
                  Người đó ưng thuận, cười hỏi Trường Phòng :
                  - Anh có phép rút đất, đem ra thi thố, để chúng ta cùng xuống núi, há chẳng dễ dàng lắm sao ?
                  Trường Phòng vội đáp :
                  Đệ tử cầu đạo cốt ở thành tâm, chẳng dám tự khoe khoang chút kỹ năng trước mặt người tiên, xin được theo chân tiên trường, đi bộ xuống núi.
                  Người kia cười lớn tiếng :
                  - Anh đã không chịu dùng phép rút đất, hãy theo ta lên trời vậy.
                  Nói rồi, nhắm về phía Trường Phòng, thổi một làn hơi, tức thì dưới chân hiện ra một đám mây lành, đưa hai người lên cao dần dần. Hai người cưỡi mây bay đi chừng nửa giờ đồng hồ, người kia bỗng chỉ một ngón tay, đám mây liền xuống thấp. Người kia nói :
                  - Tiên, Phật, thánh hiền đều không thể quên tình cốt nhục. Nay căn nhà của anh đang ở bên dưới, anh hãy thử ngó xuống, xem tình hình vợ con anh hiện giờ ra sao.
                  Trường Phòng vội nói :
                  - Tiên trưởng đừng nên bầy trò chọc ghẹo đệ tử. Thứ nhất là đệ tử căn cơ nông cạn, tuy hiện giờ lập chí xuất gia, nhưng đó chỉ là chút công phu tự kiềm chế, nếu trông thấy vợ con, khó tránh khỏi lòng lo lắng trần tục lại nổi lên. Thứ hai là vợ con của đệ tử trông thấy đệ tử, ắt khóc lóc ầm ĩ, níu kéo đệ tử, chẳng chịu buông ra cho đi, há chẳng phải để lầm lỡ việc lớn cua đệ tử hay sao ?
                  - Anh ở trên không trung, vợ con anh ở dưới phàm gian, nếu ta không kêu gọi bọn họ, làm sao họ biết mà nhìn lên, thấy được anh? Còn bản thân anh có động tâm hay không, hoàn toàn do anh có tự kiềm chế được hay không. Nếu anh miễn cường xuất gia, vừa nhìn thấy người nhà liền động tâm, thì tu tiên cũng chẳng ích gì.
                  Nói rồi, không đợi cho Trường Phòng ưng thuận, người đó làm phép cho đám mây hạ thấp, nhìn xuống cỏ thể thấy rõ cảnh vật bên dưới. Trường Phòng tuy đứng trên mây, cũng nghe được tiếng người trong nhà đang kêu gào, khóc lóc. Số là vợ anh được thổ địa báo mộng, đã tìm thấy xác Trường Phòng giả, đem về chôn, và hiện giờ đang là tuần thất thứ hai. Nhớ tới chồng, chị ta khóc lóc thảm thiết. Các con Trường Phòng cũng đang kêu khóc, nói :
                  - Cha ơi, mau trở về đi. Nếu cha không sống lại, mẹ sẽ đau đớn, khóc đến chết đó.
                  Trường Phòng nghe từng câu lọt vào trong tai, từng chập xuyên vào tâm khảm. Ngoài mặt, anh cố làm ra vẻ vô sự, để đối phó với người kia, nhưng không ngăn nổi hai đòng nước mắt tuôn xuống, thấm ướt vạt áo. Người kia không nói gì, chỉ nhìn anh mỉm cười.
                  Trường Phòng đang thương cảm, chịu không nổi, lòng đau như cắt, nên cũng không để ý tới người kia. Người đó lại làm phép cho đám mây bay lên. Trường Phòng ở trên mây vẫn thỉnh thoảng quay đầu nhìn về hướng nhà mình. Người kia nói gì, anh cũng chẳng để tâm, nhiều khi hỏi một đằng, trả lời một nẻo.
                  Hai người lại cưỡi mây bay đi, được chừng hai tiếng đồng hồ, người đó chợt lên tiếng :
                  - Bây giờ phải vượt biển. Chúng ta xuống đi bộ nhé.
                  Trường Phòng ngạc nhiên, vội hỏi :
                  - Tại sao ba vị tiên sư lại ra ngoài biển ?
                  Người kia chỉ gật đầu vài cái, không lên tiếng giải thích, mà đưa tay ra, chỉ xuống bên dưới, đám mây liền lao xuống như sao băng, đáp xuống đất. Trường Phòng kinh hãi quá chừng, vội nhắm chịt hai mắt. Đến chừng hai chân đụng mặt đất, mới mở mắt ra nhìn, quả thấy mình đang đứng trên bờ của một vùng biển. Người kia đưa tay chỉ ra biển, vẫy gọi :
                  - Bác lái đò ơi, mau ghé thuyền lại đây !
                  Không biết từ đâu, liền xuất hiện một chiếc thuyền nho nhỏ. Lúc đó, gió biển đang nổi lên rất mạnh, sóng bạc đầu đang cao ngất. Chiếc thuyền kia, nhìn từ xa, to bằng một cỗ xe ngựa, nào ngờ càng đến gần càng nhỏ đi, chừng cập bến chỉ to bằng một tàu lá chuối. Bác lái đò đã chiếm hết phân nửa con thuyền, chỗ còn dư không đủ cho hai người cùng ngồi. Trường Phòng thấy vậy, bất giác kinh hãi, cũng không biết phải làm thế nào. Người kia tung mình nhẩy xuống, đứng một bên bác lái đò. Chỗ còn lại tất nhiên là hẹp tè, mà người đó cứ liên tục đưa tay vẫy Trường Phòng, nói :
                  - Mau xuống đây, thuyền sắp nhổ sào rồi !
                  Trường Phòng do dự, vội hỏi :
                  - Thưa tiên trưởng, chúng ta đông người, chiếc thuyền nhỏ hẹp như thế, làm sao chứa đựng nổi ? Vả lại sóng gió nổi dậy đùng đùng, thuyền đi ra biển, chẳng là nguy hiểm lắm sao ?
                  Người kia còn tiếp tục đưa tay vẫy, không dè một đợt sóng lớn đổ ụp xuống, lôi kéo cả thuyền lẫn người xuống đáy biển. Trường Phòng không biết bơi lội, nhìn quanh chẳng thấy người nào để kêu cứu, đành đứng than thở mà thôi.
                  Sau đó, tìm đường đi, bất kể phương hướng, vội vã tiến bước về phía trước. Nào ngờ bờ biển dài tới vài trăm dặm, đi nửa ngày trời, cảm thấy thân thể vô cùng mệt mỏi. Quay nhìn lại, vẫn thấy mình đang ở trên bờ của vùng biển, không thấy đâu là bờ bến.
                  Trường Phòng tạm đứng lại nghỉ ngơi, tự nghĩ nếu dùng phép rút đất chắc hẳn có thể tìm tới nơi thị tứ, hỏi thăm dân địa phương, rồi thuê thuyền ra biển. Nhưng mình đã quyết tâm tu đạo, đi lần này là để tìm kiếm tiên sư, đã nói là không dám dùng xảo thuật, sao nay lại đổi lòng ? Trước mắt chỉ thấy bãi đất hoang, chạy dài vô tận, không tìm đâu ra chỗ nghỉ qua đêm. Không biết phải đi bao lâu nữa, mới tới chỗ có người ở ? Nghĩ tới đó, trong lòng vô cùng hoang mang. Lại nghĩ tiếp : vị tiên trưởng cùng đi với mình vừa rồi, không biết có phải một trong ba vị tiên hay không . Người đó không cưỡi mây bay đi, lại đáp chiếc thuyền nhỏ xíu để vượt biên, đến nỗi táng thân vào bụng cá, há chẳng đáng thương, đáng tiếc hay sao ? Bỗng lại nghĩ khác : vị tiên trưởng này đạo lực rất cao, làm sao chết chìm dưới nước được ? Nghĩ tới nghĩ lui, chợt hiểu ra, hô to lên :
                  - Không xong rồi ! Ta đã bị tiên sư lừa gạt !
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 09:35:43 bởi bevanng >
                  #69
                    bevanng 22.07.2008 10:03:02 (permalink)
                    Hồi Thứ 77

                    Cầu người tiên , lại bị người tiên gạt
                    Chế quỉ vật, lại bị quỉ vật mê.


                    Trường Phòng nhất thời mê hoặc, nhận lầm rằng người tiên đi cùng đã chết chìm dưới biển, thầm mừng mình đã không theo ông ta xuống thuyền, nên giữ được tính mạng. Giả sứ mình liều lĩnh xuống thuyền, lúc này đã chôn thân vào bụng cá lớn, rùa to.
                    Vừa đi vừa nghĩ, lết đôi chân lếch thếch suốt nửa ngày trời, quay đầu nhìn lại, vẫn thấy mình đang ở chỗ bờ biển. Nhìn lại chỗ người tiên chết chìm, chỉ cách xa chừng một làn tên bắn. Đưa mắt nhìn quanh, chẳng thấy đâu là bờ bến, không biết bao giờ mới tới chỗ có hình bóng người. Chuyển nghĩ trong lòng, hoạt nhiên tỉnh ngộ : dường như người tiên kia không có vẻ gì là chẳng đủ bán lãnh rẽ nước, chế ngự sóng. Huống chi ông ấy đã luyện được tấm thân bất hoại, lẽ nào lại chết chìm giữa biển ? Suy nghĩ kỹ, nhận thấy ông ta, suốt cuộc hành trình, chỉ đi trên mây, sao bỗng nhiên lại nẩy ý vượt biển ? Giữa biển khơi vốn không có thuyền, sao ông ấy vẫn vẫy gọi, đã có một chiếc hiện ra, tiến lại tiếp đón ? Bình thường thuyền bè, nhìn từ xa thấy bé, càng tiến lại càng lớn, sao chiếc thuyền này lại trái ngược với nguyên tắc đó ? Những sự tình này quả thực kỳ quái. Thêm một điều nữa : chiếc thuyền rất nhỏ, có bác lái đò đứng trên đó, xem ra không đủ chỗ để đón khách, vậy mà người tiên leo lên, vẫn thấy không hẹp đi chút nào. Người đó đứng trên thuyền rồi, còn vẫy gọi ta, chẳng lẽ ông ta không sợ chết ? Hoặc giả ông ta đi tìm cái chết, còn muốn lôi kéo ta chết chìm . Những nghi vấn đó, suy nghĩ lại thấy đủ chứng minh rằng mọi chuyện đều do người tiên ảo hóa ra. Thậm chí lúc ở trên không trung, ta còn nghe được rất rõ tiếng vợ con ta kêu khóc.
                    Nhất quyết là không có lý đó, mà chắc rằng tất cả đều là do người tiên hí lộng, bầy trò hư huyễn. Ta có phép rút đất, có thể tự vệ, nhưng lại không dám đem ra thi thố, sợ rằng người tiên chê là không có thành ý. Ban nãy, ông ta nhắc đi nhắc lại : "Không thành ý, bất tất cầu học đạo", cho thấy ta đã bị cự tuyệt, không còn cơ hội nhập đạo. Nay nghĩ lại, thấy rõ vị tiên trưởng cùng đi với ta phải là một trong ba vị tiên đã gặp hôm trước, mà bác lái đò kia cũng là một người trong số đó. Người tiên từng nói rằng tiên cảnh ở ngay trong lòng ta mà ra. Xét cho cùng, ta cũng hiểu rõ lẽ đó, chỉ không làm đúng thực sự mà thôi. Chỉ vì lòng tu đạo không bền, ta mới bị tiên sư bỏ rơi. Sự thật là ta đã định chết trên đỉnh núi Bạch Vân, tình cờ lại được tiên sư điểm tỉnh đường mê, dẫn ta đến chỗ này. Nay ta muốn tìm cái chết lần nữa, e rằng tiên sư có biết chăng nữa, cũng chẳng chịu ra tay cứu vớt nữa đâu. Nghĩ tới đó, bất giác đau lòng, khóc rống lên. Chợt nghe trên không trung có tiếng đàn bà nói :
                    - Phí Trường Phòng, lòng ham muốn của anh chưa đẩy lui, đạo tâm chưa vững bền, có miễn cưỡng xuất gia, e rằng rốt cuộc chẳng tốt đẹp gì đâu. Chi bằng sớm trở về nhà, tiếp tục hưởng phúc chốn nhân gian vài trăm năm. Hãy thận trọng giữ chức vụ, khiêm cung trong đối nhân xử thế, rồi cũng được thiện chung, được thành địa tiên. Hãy xem gương thầy anh là Vương Nhất Chi, vết xe đổ không xa. Chớ biếng nhác, đừng vội vã. Chỗ này nằm trong địa giới đảo Bồng Lai, thuộc tỉnh Sơn Đông. Cách đây chừng ba trăm dặm, có chốn chợ búa đông đúc, anh có thể dùng phép thuật để đi tới đó, rồi sáng sớm mai lại dùng phép thuật đi về Tây, nửa ngày sẽ về đến nhà. Ta chính là Hà tiên cô, bác lái đò mà anh đã gặp chính là Trương Quả đạo hữu, và người anh gặp trên đỉnh núi Bạch Vân chính là Lam Thái Hòa đạo hữu. Ba chúng ta nghe tiếng anh tu đạo có chỗ sở đắc, rất muốn thành toàn cho anh. Nhưng pháp duyên chưa tới cơ hội tốt đẹp do anh tự lầm lỡ, rất đáng tiếc. Từ nay về sau, nếu anh dốc chí làm lành, ra sức phấn đấu, không biếng nhác, ắt tiền trình rộng lớn, hà tất phải cầu làm thần tiên . Hãy gắng gỏi, gắng gỏi ! Hai vị đạo hữu Lam và Trương đang đợi ta ở ngoài biển, để cùng tới bái yết Chung Li đạo hữu. Chuyện đó ta không tiện nói rõ. Ta đi đây !
                    Trường Phòng ngước nhìn lên. Từ trước tới sau, chỉ thấy một đám mây ngũ sắc, lơ lửng giữa không trung, chứ không thấy bóng người. Nhưng tiếng nói rõ rệt, lọt vào trong tai, từng tiếng rành rẽ, Trường Phòng biết đó là diệu dụng của tiên gia, vội phục xuống đất, đấu đầu tạ tội. Đợi tiên cô đi rồi, mới đứng dậy, ngồi trên bài biển, suy nghĩ một hồi. Tiên duyên đã lỡ, đều bởi tự mình chuốc lấy tội. Tiên nhân đà khuyên cố gắng, sao dám chẳng nghe lời, để mang lấy tội nghịch trời ? Trong phút chốc, đạo tâm tiêu tan, ý niệm trần tục lại vẩn lên, hận không lập tức về tới nhà. Đã lâu lắm rồi xa cách vợ yêu, con ngoan, sao không quay về, hưởng phúc gia đình ? Trường Phòng vội thi triển phép rút đất, chẳng bao lâu tới nơi thị tứ. Ở lại qua một đêm, sáng sớm mai xuất phát, một buổi trời về tới nhà. Vợ con thấy mặt anh ta, ngỡ là ma quỉ, không khỏi kinh hãi, lo lắng. Trường Phòng kể rõ nguyên nhân cho biết, sau đó dẫn vợ con tới chỗ còn quàng quan tài. Mở áo quan ra xem, quả nhiên bên trong chỉ là một nhánh cây khô. Trường Phòng tính lại từng ngày, từ hôm ra khỏi nhà, đến nay trở về, không quá bốn ngày. Nhưng theo lời vợ nói, thời gian đó là hơn trăm ngày. Vợ chồng, cha con gặp lại nhau, kể như đã qua một đời, vui mừng, buồn thương chen lẫn nhau. Từ đó, Trường Phòng luôn luôn ghi nhớ lời tiên cô, đối nhân xử thế, trị sự tiếp vật, đều thận trọng hơn trước.
                    Kể từ đời Vũ đế nhà Tây Hán, Vương Nhất Chi qua đời, truyền chức cho Trường Phòng, cho tới khi Trưởng Phòng cầu tiên không thành, không còn thiết gì tới chuyện tiến thủ nữa, chỉ chuyên tâm với chức vụ trị quỉ mà thôi. Đó là giai đoạn đầu.
                    Trường Phòng trải qua hai đời Tây Hán, Đông Hán, rồi tới hai triều nhà Tấn và thời Ngũ Đại, quá nhiên mạnh khóe, bình yên, tiêu dao ngày tháng, tuy không thành tiên, cũng được thong dong tự tại. Ai hay kết quả một đời người đều có số định trước. Tiên cô đã nói anh ta không có hy vọng tu tiên, khuyên nhủ anh nên về nhà hưởng phúc, và đừng đi theo vết xe đổ của thầy. Trường Phòng nghe lời tiên dạy, cố gắng làm người thiện, trải qua bao đời loạn, chưa từng mắc tại họa. Đến kết quả cuối cùng, chẳng những không thành tiên, còn mắc sai lầm của thầy. Đại khái là số mạng anh ta đã định như thế, rốt cuộc cũng chẳng được thiện chung. Cũng giống như lời người xưa thường nói . "Giỏi bơi lội cho lắm, rốt cuộc cũng đến chết chìm", hoặc là “Người trị quỉ lại chết về tay quí". Kể từ Vương Nhất Chi, Phí Trường Phòng, cho tới Chung tiến sĩ ở đời nhà Đường, ba đời quỉ sư, không người nào thoát chết về tay quỉ.
                    Đó là lẽ thường, chẳng đáng bàn bạc nhiều lời. Đây chỉ nói tới chung cuộc không lành của Trường Phòng thôi. Vào cuối đời nhà Tấn, Trường Phòng kết giao với một người bạn, họ Hoàn tên Cảnh. Người này là một danh sĩ đương thời, những ai đọc qua Tấn sử đều nghe danh. Ông Hoàn Cảnh này cũng là một kỳ nhân.
                    Tương truyền hồi còn nhỏ, ông ta có gặp một đạo nhân què, nói rằng kiếp trước Hoàn Cảnh ham ăn thịt chó, kiếp này ắt bị một đàn chó xúm vào cắn chết. Hoàn Cảnh thấy đạo nhân đó tướng mạo thanh kỳ, cốt cách phiêu dạt, tuy ăn mặc rách rưới, vẫn hiện lộ vẻ tinh hoa, anh tuấn, trong lòng ngờ rằng ông này chính là Lý Thiết Quài mà người đời truyền tụng, mới xuống nước năn nỉ, cầu xin đạo nhân thi thố pháp thuật, giúp mình tránh khỏi tai nạn. Bị Hoàn Cảnh quấn lấy mà xin xỏ, đạo nhân không biết làm sao, mới bầy cho một cách, nói rằng :
                    - Anh hãy tới một chỗ nọ, ở trên núi. Mỗi ngày, cứ vào giờ tí, đều có một con chó sói rất lớn, nhìn lên mặt trăng mà phun ngọc đan. Nay ta cho anh một lá bùa, hãy nuốt vào bụng, có thể tàng hình, không bị chó sói nhìn thấy. Anh hãy tính đúng giờ giấc mà tới chỗ nọ, ẩn thân đằng sau con sói. Đợi lúc nó phun viên đan, lập tức chộp lấy, nuốt vào bụng, thì từ đó về sau, chó không dám lại gần anh nữa. Còn có một điều tốt đẹp là cặp mắt anh có thể nhìn thấy các vật cõi âm. Bất kể là ma mới, ma cũ, ma lớn, ma nhỏ, không ma nào thoát khỏi cặp mắt anh. Như thế có thể phòng thân, lại có thể trị bệnh giúp người nữa. Quả là nhất cử lưỡng đắc.
                    Đạo nhân nói rồi, đưa cho Hoàn Cảnh một lá bùa, biến thành một trận gió mát, không thấy đâu nữa.
                    Hoàn cảnh nuốt lá bùa rồi, chiếu theo lời chỉ dẫn của đạo nhân, tìm tới nơi nọ. Quả thấy một con sói rất cao lớn và hung dữ, đang ở trên đỉnh núi, ngước mặt nhìn trăng mà vái. Mỗi lần vái xuống, đều phun ra một viên đan, theo gió lên cao, lại rơi xuống, và con sói đưa mõm ra hứng, nuốt vào bụng. Hoàn Cảnh không dám hấp tấp, cũng không thể chậm trễ, len lén tiến lại gần bên con sói, lòng phập phồng lo sợ, nghĩ thầm : "Lá bùa mà không linh thiêng, ắt ta bỏ mạng. Không chết vì chó cắn trong tương lai, mà táng thân vào bụng sói ngay lúc này". Nào ngờ anh ta rón rén tiến lại con sói vẫn không phát giác. Bấy giờ, Hoàn Cảnh mới phóng tâm, thu hết can đảm, chiếu theo lời đạo nhân mà thi hành, chộp được viên đan, bỏ ngay vào miệng, nuốt đi.
                    Con sói mất linh đan, liền phát cuồng, chồm chồm nhẩy tới nhẩy lui trên đỉnh núi, vừa gào vừa hú, khiến Hoàn Cảnh bay hồn, bở vía, chẳng dám động đậy. Nào ngờ con sói nhẩy nhót lung tung rốt cuộc vẫn không thể đến gần Hoàn Cảnh. Hoàn Cảnh biết viên đan đã có công hiệu, con sói kia hung dữ lạ thường, nhưng không thể hại được anh. Hoàn Cảnh mừng rỡ quá chừng, vội vã tìm đường trở về nhà.
                    Từ đó, Hoàn Cảnh vừa có thể nhìn được người và vật trên đường thế, vừa có thể thấy các quỉ vật cõi âm. Gặp những lúc trong nhà có người bị quỉ ám, đến nỗi thành bệnh, người ta liền mời anh tới nhìn coi, bầy việc cúng kiếng để tống tiễn quỉ đi. Có khi gặp phải quỉ dữ, quấy nhiễu dai dẳng, Hoàn Cảnh phải đi tìm anh bạn Phí Trường Phòng, phái quỉ tốt đi bắt, đem về trị tội. Vì thế, nhiều lần bị đám quỉ dữ oán hận. Có một số quỉ khắc bạc, quỉ điêu ngoa, quỉ lanh lợi, quỉ hạ lưu... rủ nhau mở một đại hội, thảo luận để tìm biện pháp khả dĩ nắm được sinh mạng của Hoàn Cảnh. Bàn bạc một hồi, có con quỉ khắc bạc nghĩ ra một kế, nói :
                    - Chúng ta chịu đầy đọa dưới âm tào, khốn khổ muôn vẻ. Có những người làm ác, hoặc kiếp trước thiếu nợ bọn quỉ chúng ta, chúng ta mới tới quậy phá một chập, kiếm ăn chút đỉnh. Không dè tên Hoàn Cảnh này may mắn được sống trên nhân thế, cùng bọn quỉ chúng ta ở cõi âm, phân chia hai ngả. Hắn chỉ dựa vào thế mạnh của viên cẩu đan, vô duyên vô cớ, không thù không oán, lại tìm cách chống đối chúng ta. Thậm chí hắn còn nhờ cậy Phí trưởng quan, để bắt chúng ta, đem về trị tội rất nặng. Bọn chúng ta mắc phải tay hắn, không biết bao nhiêu mà kể. Hạng người đó, nếu còn dung tha ở trên trần thế lâu ngày, bọn quỉ chúng ta khổ càng thêm khổ, vĩnh viễn không có ngày xuất đầu.
                    Nghe vậy, bọn nam quỉ nhiều đứa căm giận, trừng mắt, nắm chặt bàn tay, còn bọn nữ quỉ đứa nào đứa nấy đều thương tâm, rơi nước mắt, buồn thảm chịu không nổi. Chúng đều lên tiếng hỏi :
                    - Anh quỉ có cao kiến gì, mau nói ra cho mọi người cùng biết.
                    - Chúng tôi bị người này quậy phá đến khổ. Nếu quả thật có cách nắm được tính mạng hắn, mọi người tình nguyện nghe lời anh chỉ huy.
                    Quỉ khắc bạc nói lớn tiếng :
                    - Tên Hoàn Cảnh này là người rất thông minh. Hắn lại có cặp mắt sáng, lại nghĩ ra nhiều mưu kế, còn được Phí trưởng quan của chúng ta hỗ trợ nữa. Nếu chúng ta mở cờ, đánh trống, công khai tuyên chiến với hắn, thua là cái chắc. Kế tốt nhất hiện giờ không gì bằng bắn lén hại người. Theo ý tôi, lúc này đang tiết thu lạnh lẽo, là lúc bệnh dịch hoành hành, chúng ta có thể mời một số bạn bè trong ôn bộ, tiến về nhà Hoàn Cảnh, bao vây bốn mặt, rải những mầm ôn dịch, chẳng những giết được Hoàn Cảnh, còn có thể tiêu diệt cả nhà hắn. Anh em chúng ta, lớn cũng có, nhỏ cũng có, bị hại về tay hắn, vô số kể, nên lần này chúng ta báo thù, không thể coi là tàn khốc được. Sau này Phí quan trưởng biết được, Hoàn Cảnh cũng đã chết rồi. Nếu ông ta vì bạn bè báo thù, rõ ràng là đắc tội với toàn thể thuộc hạ. Vả lại, Hoàn Cảnh vô cớ gây chuyện hung ác, chết là đáng tội, Phí trưởng quan không thể bênh bạn, trừng phạt chúng ta. Nếu ông ta tự ý làm càn, toàn thể chúng ta sẽ kéo nhau lên điện Sum La, trình bày mọi chuyện rõ ràng, đại khái Diêm vương cũng không thể trái ý đám đông, bênh vực Phí trưởng quan. Các vị nghĩ coi, kế sách của tôi có thi hành được hay không ?
                    Chúng quỉ đều hoan nghênh, hô to :
                    - Kế đó hay lắm ! Kế đó hay lắm ! Hèn chi lúc anh còn sống trên nhân gian, người ta đã kêu anh là quỉ khắc bạc. Chúng tôi nhất định chiếu theo kế sách của anh mà thi hành. Trước hết, hãy giết cả nhà Hoàn Cảnh chết sạch, không còn một đứa. Sau đó, đợi xem Phí trưởng quan đối phó với chúng ta thế nào, sẽ tính kế hoạch tiếp theo.
                    Chúng quỉ bàn xong độc kế, liền kéo mấy trăm con quỉ ôn dịch, nhắm hướng nhà Hoàn Cảnh tiến phát. Sợ Hoàn Cảnh nhìn ra, chúng vừa tiến qua cửa, liền vội vã phân tán ra, mỗi đứa ẩn thân một nơi. Nhân lúc ban ngày ban mặt, chúng không đám động thủ, phải đợi tới lúc tối mịt, vợ chồng và các con Hoàn Cảnh, cùng với đám gia nhân nam nữ đều ngủ say, chúng mới nhảy ra, nhất tề động thủ. Chúng hấp ta hấp tấp, vội vội vàng vàng, đem gieo rắc những mầm ôn dịch lên thức ăn, nước uống, cùng các vật dụng, quần áo trong nhà. Như vậy, cả nhà Hoàn Cảnh sẽ phải chết hết ráo. Làm xong mọi việc, chúng mới kéo nhau ra khỏi nhà Hoàn Cảnh.
                    Nhưng quỉ tính không bằng trời tính. Số Hoàn Cảnh chưa đáng chết tự nhiên sẽ có cao nhân tới cứu. Người đó chẳng phải ai khác, chính ông bạn tốt Phí Trường Phòng, hiện đang giữ chức quỉ sư.
                    Hôm đó, phí Trường Phòng đi dự tiệc đêm ở nhà một người bạn, trở về, đi qua nơi nọ, ngổn ngang những nấm mồ hoang, lập lòe ánh lửa ma trơi, chợt nghe những tiếng nói cười ầm ĩ. Thì ra đó là đám quỉ, trong đó có những quỉ ôn dịch, vừa rời khỏi nhà Hoàn Cảnh, khoe khoang với nhau về những việc vừa làm, ra chiều đắc ý. Từng câu lọt vào tai, Trường Phòng hiểu ra sự việc nghiêm trọng, vô cùng kinh hãi. Anh ta không vội về nhà, mà hấp tấp tiến lại nhà Hoàn Cảnh, gõ cửa vào nhà, xin gặp mặt Hoàn cảnh. Hoàn Cảnh nghe Trường Phòng canh khuya tới thăm, ngạc nhiên quá chừng, vội hỏi nguyên do. Trường Phòng suy nghĩ : “Ta chỉ cần cứu được tính mạng cả nhà anh ấy, chẳng cần phải nói rõ chân tình, kẻo anh ấy oán hận chúng quỉ, kết mãi oan thù, chẳng hay ho gì”. Vì thế, tìm lời bóng gió nói vài câu. Lúc ra đi, mới dặn dò :
                    - Nhà anh đang mắc đại họa. Sáng sớm mai, anh hãy dẫn dắt toàn thể gia đình, nam nữ, lớn nhỏ, cùng lên núi cao, rong chơi một ngày. Mỗi người cần đeo theo một túi đẫy trên vai, trong đó chất đầy những cành thù du. Nếu không có túi đẫy, có thể nhét trong túi áo cũng được. Thứ cây thù du này có thể giải độc ôn dịch, chống yêu, tránh quỉ. Có một câu này cần ghi nhớ, đừng quên : Vừa thức dậy, lập tức ra khỏi cửa, không được ăn chút thức ăn nào, uống một ngụm nước nào. Nếu trái lời tôi, dẫu có trốn lên núi, cũng không giữ nổi tính mạng đâu. Sau khi cả nhà anh đi khỏi, tôi sẽ phái quỉ tốt tới đây, giải trừ những điều bất tường cho gia đình anh. Mọi người phải đợi tới lúc mặt trời ngả về Tây, đêm tối trăng lên, mới được trở về. Về sớm một khắc cũng không được.
                    Trường Phòng nói rồi, từ biệt ra đi. Hoàn Cảnh suy nghĩ rất lâu, nằm mộng cũng không nghĩ ra nổi đám quỉ lại dám kéo tới nhà mình mà quấy rối. Nhưng biết Trường Phòng đạo hạnh cao thâm, lời anh ta nói ắt có nguyên do, mới đánh thức cả nhà đậy, nói sơ qua vài lời cho họ hiểu. Mọi người kinh hãi, không dám ngủ tiếp, ngồi đợi sáng. Sau đó, họ kéo nhau ra khỏi nhà, khóa trái cửa lại. Đi dọc đường, mỗi người lượm lặt một bó thù du, giắt bên mình, rồi vội vã kéo nhau lên núi. Họ ở đó rong chơi một ngày, tới tối mịt mới trở lại nhà. Vừa qua khỏi cửa, họ thấy ngay : tất cả những động vật nuôi trong nhà, như lợn, dê, gà, vịt đều chết sạch. Bấy giờ Hoàn Cảnh mới biết Trường Phòng có thuật dự tri. Cả nhà cảm kích vô cùng. Vừa tính phái người đi mời Trường Phòng tới chơi, hỏi thăm anh ta về cách giải trừ bất tường, đã thấy người nhà Trường Phòng chạy tới, báo tin Trường Phòng đã bị ác quỉ hại chết rồi.

                    #70
                      bevanng 22.07.2008 10:31:49 (permalink)
                      Hồi Thứ 78

                      Ngày trùng cửu (1) lên cao, tránh ôn dịch
                      Quỉ vương sụt hầm, tiến sĩ bị khinh.


                      Hoàn Cảnh bị bọn quỉ ám toán, may được Phí Trường Phòng chỉ điểm, đem cá nhà lên núi lẩn tránh, mới thoát đại nạn. Trở về nhà, thấy đàn gia súc, gồm bò, dê, gà, chó đều chết hết ráo. Tra xét xác chúng, thấy tất cả đều vì bệnh dịch, mới hiểu rằng Trường Phòng khuyên mọi người lên núi tránh nạn, là đã biết trước quỉ dịch hãm hại, thầm cảm ơn Trường Phòng đã cứu tính mạng cho cả nhà mình. Đang huy động người nhà thu dọn xác gia súc, bỗng được tin bản thân Trường Phòng đã bị ác quỉ hãm hại, nằm chết ở khe suối. Hoàn Cảnh kinh hãi, kiếm một con khoái mã, chạy tới nhà họ Phí. Vừa tới cửa, đã nghe trong nhà có tiếng khóc vang động. Hoàn Cảnh vội nhẩy xuống ngựa, buộc ngựa vào một gốc cây. Chợt nhìn lên, thấy hai bên cánh cửa nhà họ Phí, có vô số ác quỉ mặt mày hung dữ đang đứng đầy dẫy. Chúng chụm đầu, ghé tai nhau, dường như đang bàn bạc điều gì, và tất cả đều hớn hở mặt mày, Hoàn Cảnh vốn có tài trông thấy quỉ vật, nhưng không nghe được lời quỉ nói chuyện. Gần đây, thường qua lại với Phí Trường Phòng, cũng học được phép nghe tiếng quỉ, tuy rằng không nghe rõ rệt bằng Trường Phòng. Nhưng nghe lõm bõm, cũng hiểu được đại ý. Trước những điều tai nghe, mắt thấy, lòng thầm tức giận, kinh hãi.
                      ---------------------------
                      (1) Ngày 9 tháng 9. Nhưng 9 lại là con số biểu thị quẻ dương (số 6 biểu thị quẻ âm), nên ngày này còn gọi là trùng dương.

                      Nguyên Phí Trường Phòng, sau khi thông tri cho Hoàn Cảnh, dặn bảo bạn đi lánh nạn, liền trở về nhà, đem chuyện này nói cho cả nhà đều biết. Có người chắt năm đời, tên gọi Cảnh Hầu, lúc đó đã ngoài sáu mươi tuổi, oán giận ông cố của mình quá nhiệt tâm, ưa xen vào chuyện người khác, nói rằng :
                      - Thiết nghĩ những người bị quỉ chọc ghẹo, đại khái đều có nguyên nhân. Còn như những người chính trực, quang minh, qui củ nhân hậu, khoan nói là quỉ hồ chẳng dám lại gần, ngay cả Thần, Phật, người tiên, cũng phải kính trọng vài ba phần. Những người như thế, quỉ hồn đã không dám xâm phạm, mà họ cũng chẳng bao giờ chịu giúp đờ, cứu vớt Hoàn Cảnh. Vì vậy, Hoàn Cảnh đáng cứu hay không, còn là điều nghi ngờ. Ông cố làm công việc vừa rồi, vốn bởi lòng trắc ẩn, nhưng bản thân ông làm quỉ sư, là lãnh tụ của muôn quỉ, nếu quỉ có làm điều gì bất pháp, thì chiếu theo chức vụ mà trừng trị, còn không, ông phải đối xử tử tế với chúng, mới phải đạo ân, vai nâng đỡ lẫn nhau, khiến cho toàn thể quỉ hồn nghe danh đã cảm phục, từ đó ông cố giải quyết việc gì cũng được dễ dàng. Nếu chỉ cậy pháp lực mà giúp đỡ bạn bè, khinh miệt đám quỉ thuộc hạ, thì khó mà cảm phục được lòng quỉ. Huống chi việc làm vừa rồi vị tất đã hoàn toàn chính đáng ? Thưa ông cố, ông thử nghĩ lại xem, việc làm này có phần nào nguy hiểm hay không.
                      Trường Phòng nghe người chắt nói, bất giác cảm thấy ăn năn, hối hận. Nhưng ông ta vốn tính cương cường, hiếu thắng, việc đã lỡ làm sai, không cứu vãn được nữa, ông cũng chẳng chịu cho người ta bàn ra tán vào.
                      Ai ngờ đám quỉ nghe biết Trường Phòng phá hoại kế hoạch của chúng, quả nhiên nổi lòng công phẫn, lại mở một đại hội mới. Bọn quỉ khắc bạc, quỉ lanh lợi tuyên bố :
                      - Những hành vi đó của Trường Phòng, đối với quỉ giới chúng ta, là vô tình, vô nghĩa. Vả lại, Hoàn Cảnh biết được chuyện này, càng thêm thù hận. Hắn còn sống ngày nào, còn ra sức phá hoại công việc của chúng ta ngày đó. Còn như Phí Mỗ, bản thân là quỉ sư chính là lãnh tụ của chúng ta. Nếu chúng ta có kẻ bất tiếu, ông ấy cứ chiếu theo chức vụ mà trừng phạt, trái lại, nếu chúng ta có điều oan khuất, ông ấy phải giải oan cho chúng ta, giúp đỡ, báo thù cho chúng ta, mới không phụ lòng chúng ta cung kính, sùng bái; và như thế, ông ta mới đủ tư cách làm quan trưởng của chúng ta chứ. Chiếu theo việc làm ngày hôm nay, đúng là ông ta đã ra mặt đối địch với đám quỉ hồn chúng ta rồi. Hạng lãnh tụ như thế còn dùng vào việc gì nữa đây ? Chi bằng nhân cơ hội này, chúng ta hãy vạch rõ những chỗ sai lầm, hạ bệ ông ấy đi cho rồi ! Hắn đã cứu kẻ thù của chúng ta, thì cũng là kẻ thù của chúng ta luôn !
                      Đám quỉ nghe nói, lúc đầu tỏ lòng phẫn khích, sau rồi hò hét, tán thành kế hoạch, đòi hạ bệ Trường Phòng.
                      Bàn tới biện pháp thực hiện, lại nẩy sinh một vấn đề. Số là Trường Phòng chế phục quỉ hồn, tuy có sử dụng pháp lực của bản thân, cũng phải dựa vào bùa chú do Vương Nhất Chi truyền thụ. Mỗi ngày, ông ta đều phải đeo lá bùa bên mình, tới lúc đi ngủ lại giắt vào búi tóc, kể như không giờ khắc nào ly khai. Vừa rời xa lá bùa, liền thấy trước mắt như có tấm màn che, không nhìn thấy quỉ vật ở đâu, mà rồi pháp lực cũng tự nhiên mất hiệu năng. Bình thời đám quỉ tùng phục Trường Phòng, chẳng đứa nào dám nghĩ chuyện đụng tới ông ta. Nhân đó, Trường Phòng cũng lơ là, chẳng gia tăng phòng bị chút nào.
                      Bây giờ, đám quỉ muốn gây chuyện với Trưòng Phòng, bước thứ nhất trong kế hoạch là phải trộm lấy lá bùa cho bằng được. Nhưng lá bùa này rất lợi hại, quỉ hồn một khi lại gần, liền mất hồn lạc vía. Phảng phất như luồng khói xanh, không thể gom tụ lại được, hồn vía liền tiêu vong. Vì thế, quỉ hồn nào cũng sợ. Nay hỏi tới ai dám đi lấy trộm lá bùa, chúng quỉ đều đưa mắt nhìn nhau, không kẻ nào dám đảm nhiệm công việc nguy hiểm đó.
                      Đang lúc khó khăn, bỗng thấy một oan quỉ xăm xăm tiến vào. Oan quỉ này là một người mắc bệnh tâm thần, trở thành điên cuồng, mất vía, lạc hồn mà chết. Oán thù chưa trả, một điểm oan khí cứ kết tụ mãi, mới trở thành thứ oan quỉ này. Nó tiến vào hội trường, hướng về phía các ma cũ mà làm lễ tham bái. Chúng quỉ đang nhíu mày nhăn mặt, nghĩ kế chưa ra rảnh đâu mà để ý đến oan quỉ, trả lễ lại nó ? Xưa nay, ma mới bái kiến ma cũ cũng là sự thường tình, xảy ra luôn luôn, có gì là lạ ? Nào ngờ, quỉ lanh lợi vừa nhìn thấy con oan quỉ kia, liền mừng rỡ, vội chạy lại vái chào, cất tiếng hỏi han thân mật, lại đưa mắt ra hiệu cho bọn quỉ khắc bạc, quỉ thông minh, quỉ tư cách, quỉ lão thành... nhất tề tiến lại thi lễ. Oan quỉ kia không ngờ đám quỉ tiền bối lại kính trọng mình như thế, tỏ ra vô cùng cảm kích, mới hỏi chúng quỉ ở đây khai hội, là vì chuyện gì ? Quỉ khắc bạc buông tiếng thở dài, đem sự tình đầu đuôi kể lại, còn chêm thêm một câu, đại ý nói : Trường Phòng có lá bùa này, chuyên dùng để trừng phạt những con ma mới tới, bùa đó rất lợi hại, đáng sợ vô cùng. Oan quỉ nghe nói, quả nhiên kinh sợ, xin thỉnh giáo đàn anh, hỏi coi có cách nào chế ngự được hay không. Quỉ lanh lợi mới thủng thỉnh đáp :
                      - Chúng ta đều là quỉ hồn, không phân biệt mới cũ, kể như đồng hội đồng thuyền. Hôm nay có một số đông anh em mới tới, vì sợ lá bùa lợi hại, nếm khổ đã nhiều, mới đặc biệt tới cầu xin chúng tôi một nhóm quỉ già, chỉ cho một biện pháp. Chúng tôi, vì muốn giúp đỡ những ma mới, mới nhóm họp đại hội này, bàn định kế sách. Bước thứ nhất là tìm cho ra một quỉ mất hồn, lạc phách, để đi lấy trộm lá bùa. Bước thứ hai là chúng ta sẽ kéo nhau tới phòng ngủ của Trường Phòng, dùng phân bò trộn với bùn đất, trét kín thất khiếu của hắn, khiến hắn bị ngộp thở mà chết. Bước thứ ba, chúng ta sẽ kéo toàn bộ lên điện Sum La, xin Diêm vương lão gia xét xử trị tội Trường Phòng lạm dụng hình phạt, khinh miệt quỉ mới, lại còn không giữ công tâm, vì tình riêng mà hỗ trợ người khác. Hiện giờ, chúng tôi đã tìm ra biện pháp đối phó, bàn định xong kế sách, chỉ còn một việc khó khăn là tìm chưa ra một quỉ mất hồn lạc phách. Vì thế, mọi người còn đang bàn bạc lăng xăng.
                      Oan quỉ là kẻ mắc bệnh cuồng mà chết, chính là một con ma mất hồn lạc vía, nên rất liều lĩnh, lại ưa nhiều chuyện. Nó nghe quỉ lanh lợi nói, liền tỏ ra mừng rờ, hăng hái nói :
                      - Quỉ tôi mới tới, chưa lập được chút công lao. Các vị lão tiền bối đã muốn tìm một quỉ mất hồn lạc phách, thì quỉ tôi chính là hạng quỉ đó. Chẳng hay các vị có thấy quỉ tôi có chỗ dùng được hay không ?
                      Chúng quỉ thường có lòng khinh rẻ đám ma mới, nay thấy oan quỉ trọng nghĩa như thế, liền đổi lại thành lòng khâm phục, tán tụng một hồi.
                      Cuối cùng, quỉ lanh lợi phát hiệu lệnh, phái tân quỉ đi lấy trộm lá bùa, lại sai bốn quỉ lanh lợi, tám quỉ hung hăng, mỗi đứa đều cầm một món đồ đựng phân, đợi tân quỉ ra tay, lấy được lá bùa, lập tức thi hành bước thứ hai trong kế hoạch. Ngoài ra còn có hai quỉ tinh tế đi sau tiếp ứng. Âm phong thảm thảm, quỉ khí đăng đăng, đám quỉ ùn ùn kéo nhau đi, chạy tới nhà Phí Trường Phòng.
                      Chúng kéo tới nhà Trường Phòng vừa lúc sang canh tư, oan quỉ xông thẳng vào phòng ngủ. Đêm đó, Trường Phòng mệt mỏi, ngủ say như chết. Oan quỉ đã mất hồn, chẳng còn hồn nào để mất, đã lạc phách, chẳng còn phách nào để lạc. Nó trở nên liều lĩnh, tiến thắng về phía trước, đưa tay thăm dò búi tóc, quả nhiên tìm ra được mảnh giấy nhỏ, liền rút ra, đem về dâng công. Bên kia, chúng quỉ thấy Trường Phòng mất bùa, liền reo hò xông lên, động thủ tức thời, nhét những đồ dơ bẩn lên bảy lổ hổng. Trường Phòng không kịp đề kháng, hồn sớm về âm tào. Chúng quỉ cũng ùn ùn kéo nhau đi, lên điện Sum La để tố cáo Trường Phòng. Hoàn Cảnh nghe rõ sự tình, xuất mồ hôi lạnh khắp mình. Về tới nhà, kinh hãi quá chừng, không bao lâu cũng theo ông bạn Trường Phòng xuống địa phủ, để nghe xét xử.
                      Sách này không chuyên ghi chép những chuyện xảy ra dưới địa phủ, cũng không có trách nhiệm ghi lại bút lực của vụ án dưới âm, nên không biết phán quyết cuối cùng ra sao.
                      Hoàn Cảnh lên núi để tị nạn vào ngày 9 tháng 9. Từ đó về sau, người ta cho đó là ngày tốt, gọi là trùng dương giai tiết. Ngày nay, nhiều người cũng cứ nhắm ngày đó mà lên núi, nhưng bất tất phải nói là bắt chước Hoàn Cảnh đi tị nạn. Hoàn Cảnh năm đó vì đắc tội với quỉ vật, bị quỉ vật báo thù, mới phải lên núi tị nạn. Ngày nay, có ai gây thù chuốc oán với quỉ vật, mà phải học theo Hoàn Cảnh ? Một chuyện cực kỳ vô lý, lưu truyền suốt hai ngàn năm, thật đáng chê cười. Người làm sách này không hề phản đối việc lên cao, cũng không nói rằng ngày 9 tháng 9 chẳng nên lên cao. Ta nên biết rằng lên cao là để mở rộng tầm mắt, sảng khoái tâm hồn, rất có ích cho cơ thể, nhưng nên tùy thời mà làm công việc đó, bất tất phải chọn đúng ngày trùng cửu. Nhưng ngày trùng dương cũng bất tất phải ẩn thân trong nhà, cố ý phản đối tập tục có từ xưa. Nói tóm lại là lên cao cũng tốt, không lên cao cũng tốt, ngày trùng cửu lên cao cũng tốt, ngày thường lên cao cũng được. Nhưng không nhất thiết phải tị nạn mới lên núi.
                      Nói tiếp chuyện Trường Phòng sau khi chết, có một người gọi là Hồ Tử Vũ tiếp nhận công việc. Tử Vũ chết rồi, lại truyền chức cho hai người, cho tới đời nhà Đường, có ông tiến sĩ Chung Húc ở Chung Nam Sơn nối chức. Chung Húc tuy là một văn nhân, nhưng có tướng người cao lớn, khôi ngô, có sức mạnh như cọp. Vì công danh lận đận, ông lui về ở ẩn. Vì là người chính trực, ông được truyền chức trị quỉ. Không ngờ ông có tính nóng nẩy, thường khi cơn giận nổi lên, ông giận lây tới đám quỉ vật. Ông có một pháp bảo, quỉ vật rất sợ. Báu vật này, nói ra thêm tức cười, chỉ là một cành liễu mà thôi. Ông hướng vào một cây liễu, đọc bùa chú ba lần, tùy tiện bẻ xuống một cành. Cây roi đó đánh lên mình quỉ, người ngoài không hề nhìn thấy quỉ vật ở chỗ nào, chỉ nghe tiếng quỉ kêu gào. khóc lóc, và khi đánh xong, trên mặt đất hiện ra vết máu. Vì thế, người ta truyền lại cho tới ngày nay, nói rằng cành liễu có tính chất đe dọa được ma quỉ. Ở nơi nông thôn, mỗi khi có người mắc bệnh cần điều trị, người ta ra ngoài bẻ một cành liễu, đem về giắt lên mình bệnh nhân, hoặc chỉ cần đặt ở trong phòng, cũng xua đuổi được tà ma. Có biết đâu rằng Chung tiến sĩ dùng roi đánh quỉ phải dựa vào bùa chú. Có lời chú ngữ, thì cành đào, cành mai cũng dùng được cả. Nay người ta bỏ lời chú ngữ, chuyên dùng cành liễu, quả là bỏ gốc lấy ngọn, còn gì ngu ngốc hơn ?
                      Lại nói về Chung Húc, chuyên dùng bạo lực để trị quỉ, làm sao quỉ vật cam tâm ? Có một con quỉ mạnh, can đảm mà có trí khôn, nhóm họp một đám quỉ, đề xuất việc phản kháng Chung Húc. Chúng quỉ vốn chịu khổ về hình phạt đã lâu, thường muốn thoát khỏi sự áp chế đó, nay có quỉ mạnh đề xướng, tự nhiên là toàn thể tán đồng. Chúng bầy ra một kế sách, chẳng lấy gì làm tốt đẹp. Nguyên Chung Húc có tật mắt, mỗi khi ra đường đều phải mang cặp mắt kiếng to tổ bố, mới phân biệt được đường đi. Bỏ mắt kiếng ra, chẳng khác gì anh mù, dò dẫm từng bước đi. Đám quỉ lợi dụng nhược điểm đó, đợi khi ông ta ra khỏi cửa, liền phái hai con quỉ cao lớn, ngang ngang với Chung Húc, đi theo. Chúng lẽo đẽo theo sau, rình cơ hội ông kia không phòng bị, liền với tay ra đằng trước, giật lấy cặp mắt kính, liệng đi. Chung Húc mất kính, vội quay đầu nhìn lại, hai con quỉ đã biến đằng nào, mất tung tích. Chung Húc giận dỗi, trở nên hung hăng, không tự kềm chế được nữa, bước tràn về phía trước. Không ngờ dưới chân có một đám tiểu quỉ phục sẵn, lăn những viên đá ra giữa đường, làm vướng chân Chung Húc, khiến ông ngã lăn ra đất, đưa vó lên trời. Sau cùng, những con quỉ lớn, có sức mạnh, xô ông xuống hầm phân. Chung tiến sĩ vùng vẫy một hồi, cũng không leo lên được, càng nổi nóng, la hét um sùm.
                      Chừng nửa đêm, mới có một người mót đi cầu, nghe hầm phân có tiếng người, mới kêu gọi nhiều người, tới cứu Chung Húc ra. ông tiến sĩ phải một phen nhục nhã, về đến nhà uất ức mà thành bệnh. Ngẫm nghĩ mới hay đó là kế của bọn quỉ báo thù. Nghĩ mình bản thân là quỉ sư, bị thuộc hạ lăng nhục, uy tín mất hết, vừa giận vừa thẹn, chẳng bao lâu qua đời.
                      Từ đó về sau, việc trị quỉ không có người đủ can đảm nhận lãnh. Tuy nhiên, uy danh Chung tiến sĩ vẫn còn truyền tụng lâu dài, ai cũng biết Chung Húc có tài trị quỉ, xưng tụng ông ta là Quỉ vương. Mỗi năm, tới trước ngày tết Đoan ngọ, nhà nhà đều kiếm hình Chung Húc, đem treo trước cửa, để đuổi tà.

                      #71
                        bevanng 22.07.2008 11:02:55 (permalink)
                        Hồi Thứ 79

                        Trương phán quan đùa giỡn, chọc giận quỉ
                        Trương thiên sư bị ma ám, thủ ấn mất linh.

                        Những người trị quỉ xưa nay, hầu hết đều bị quỉ chọc phá. Sau thời Chung Húc, chức vụ đó bị bỏ trống, không người nào dám đảm nhiệm. Mãi tới cuối đời nhà Đường, mới có Thái Bạch Kim tinh hội họp toàn thể tinh quân, tâu lên Thượng đế. Nói rằng trên đời, ác quỉ ngày càng nhiều, thường hay xuất hiện giữa chốn nhân gian, quấy nhiễu dân chúng, phải nên khẩn trương tra xét, phái người tài năng, chuyên lo việc trị quỉ. Ngọc đế chuẩn tấu, hỏi lại :
                        - Chức vụ này, người nào làm được ?
                        Thái Bạch Kim tinh lại đem chuyện các viên chức trước đây đã làm lỡ việc, trình bày đại lược, nhân đó tiến cử Trương chân nhân ở Long Hổ sơn, có thể kiêm nhiệm chức này, là vì ông ấy sinh ra đã có sẵn dấu ấn trong lòng bàn tay. Ấn này có thể trị được chồn tinh, quỉ quái, nếu Ngọc đế cho chân nhân kiêm nhiệm chức trị quỉ, ắt ông ấy hoàn thành chức vụ. Ngọc đế chuẩn tấu, phái Thái Bạch tinh quân đích thân đi tuyên chỉ.
                        Tinh quân tới núi Long Hổ, Trương thiên sư được trực nhật công tào báo cho biết, liền ra khỏi động nghênh tiếp. Chủ khách chào hỏi nhau xong, cùng vào bên trong. Trước hết, tinh quân đọc chiếu chi Ngọc đế, thiên sư quì xuống nhận chiếu, sau đó hai bên lại thi lễ, ngồi xuống. Hai người bàn bạc chuyện trên trời, dưới nhân gian, thiên sư mới hỏi :
                        - Gần đây nghe Đông Hoa đại đế phụng chỉ hạ phàm, chuyện đó có hay không ?
                        Tinh quân đáp :
                        - Có thật đấy. Đại đế từng nói : "Trên trời bớt đi một thần nhân, chẳng bằng nhân thế thêm một thần tiên". Lại có lần, trước mặt đệ tử là Chung Ly Quyền, ông có nói lỡ lời : "Trong tương lai người sẽ làm thầy, độ cho ta". Câu nói vô tâm ấy, ai ngờ trở thành điềm báo trước. Lần đó, Thượng đế nghe nói trên trần gian, người ác quá nhiều, lòng người hư hỏng, muốn chọn trong giới thần tiên, tinh tú lấy một người có tài, có đức, công hạnh cao thâm, để hạ phàm một phen, thường xuyên hiển lộ pháp thân, chỉ bảo đường mê, rộng mở bến giác. Nhưng nhất thời, khó tìm được một người tài như thế. Sau nghe đế quân có chí nguyện hạ phàm, nhưng mắc đệ tử của ngài là Chung Li Quyền chưa thành đại đạo, không thể độ cho ngài xuất thế, thực hiện lời ước xưa, vì thế còn chần chừ chưa quyết. Nay Chung Li Quyền đã được Lý Huyền truyền thụ Huyền kinh, sớm thành đại đạo, chính là lúc có thể làm thầy, độ cho đế quân. Năm xưa, Ngọc đế từng có lần gợi chuyện này trước mặt Thái thượng Lão quân, Lão quân có nói : "Đế quân tính tình đoan chính, hành vi tiêu sái, có phong độ thần tiên. Đã có lời ước ngày trước, nên hạ phàm một chuyến, thay mặt bệ hạ cảm hóa muôn dân, tránh tà qui chính, quả là một việc làm rất tốt. Không phải người có đức hạnh, sự nghiệp đế quân, ai mà đương nổi trọng trách đó ?". Ngọc đế nghe tâu, rất hài lòng. Đúng lúc đó, đế quân vào triều, Ngọc đế mới nhắc tới chuyện này. Đế quân khẳng khái vâng chỉ, tình nguyện xuống trần tức thời. Hiện giờ, ngài đã sinh ra làm con nhà họ Lã, ở Hà Trung, lấy tên là Động Tân. Lần này, tôi từ biệt chân nhân, sẽ lên núi Hoa Sơn một chuyến, thông báo cho Chung Li Quyền biết, bảo anh ta mau mau tới điểm độ cho đế quân, đừng để ngài dây dưa chốn hồng trần, mắc thêm nhiều tội nghiệt. Sau này, đến chỗ khó khăn, tôi sẽ cùng chân nhân tận lực, tùy thời điểm độ tinh quân, cũng là công quả rất lớn vậy.
                        Chân nhân nghe vậy, gật đầu khen phải.
                        Tinh quân đi rồi, thiên sư liền tập hợp tất cả linh quan, pháp quan, công tào, thư lại, trong phủ, nói rõ cho họ biết đế mệnh mới ban xuống. Từ nay, tất cá quỉ vật khắp bốn biển, đều thuộc thiên sư quản lý. Tương truyền rằng tới cuối đời nhà Thanh, không hề xảy ra biến cố nào. Nhưng có một chuyện nho nhỏ, khá lý thú, từ lâu người đời còn hoài ghi, không sao hiểu nổi. Đó là giai thoại về việc Trương thiên sư bị quỉ ám, cho thấy người có thân phận, pháp lực như thiên sư, cũng không tránh khỏi giẫm lên vết xe đổ của Phí Trường Phòng và Chung Húc, và việc trị quỉ quả thật chẳng phải dễ dàng. Tuy nhiên, trong chuyện này, lỗi không phái ở thiên sư, mà ở một vị pháp quan, bộ hạ của thiên sư. Các vị pháp quan vốn được chọn trong số những người có đức độ trên đời, ai có đạo hạnh, pháp lực mới được sung chức. Người ta còn căn cứ vào đạo pháp cao thấp mà chia ra làm ba cấp : thượng, trung và hạ.
                        Cuối đời nhà Đường, trong phủ thiên sư có một vị pháp quan mới tuyển, cùng họ với thiên sư, tuổi còn trẻ mà tướng mạo rất tốt, khá được thiên sư tin yêu, lúc mới tới chỉ ở hạ đẳng pháp quan, chưa đầy nửa năm đã thăng lên trung đẳng. Người này vốn là con của một người nghèo khó ở đất Giang Tây, lúc còn trẻ phải theo cha mẹ đi xin ăn. Người ta thấy anh có có tướng mạo thanh tú, phẩm chất đoan chính, dẫu ở trong đám hành khất, vẫn có khí phách của một đại gia công tử, nên đem lòng thương yêu. Mỗi khi tới một địa phương nào, anh ta chưa cần mở miệng, người ta đã chiếu cố, thí cho gấp bội đứa trẻ khác. Cha mẹ anh nhờ vậy được no ấm. Trương pháp sư lại là người rất hiếu thuận, hễ xin được thức ăn gì, trước hết đem dâng cha mẹ, sau mới ăn chỗ thừa. Gặp khi trời làm rét mướt, anh an trí cha mẹ ở nơi cổ miếu, một mình ra ngoài xin ăn, được thức ăn, đều hiếu kính song thân. Về sau, cha anh bị bệnh nặng, không tiền mời thầy thuốc, anh mới đem khổ tình viết ra thành một bài văn rất hay, đem đọc cho các thí chủ nghe. Văn từ không phải tầm thường, người ta đặc biệt thương xót bố thí rộng rãi. Có nửa ngày trời, anh ta xin được tới mười lạng bạc, mừng rỡ đem về cổ miếu. Ai ngờ cha anh ta không có phúc hưởng thụ, bệnh đang ở tình trạng nguy kịch. Trương pháp quan gấp gáp quá, ra chỗ vắng, không cho ai thấy, xẻo một mảng thịt đùi, đem nướng lên, dâng cha xơi, thay thuốc. Người cha ăn một miếng, quả nhiên bệnh biến chuyển. Sáng sớm hôm sau, anh ta vào trong thành, hỏi thăm người ta, tìm được một thầy thuốc, năn nỉ ông này quá bộ tới cổ miếu thăm bệnh. Không ngờ cha anh ta số thọ đã hết, không sao cứu nổi. Mời được ông thầy về tới miếu cổ thì ông già đã tắt thở. Trương pháp quan vô cùng đau đớn, khóc lóc thảm thương. Cuối cùng, lo việc tang ma, số bạc xin được mười lạng đem ra chi dùng hết nhẵn, hai mẹ con lại dắt nhau đi xin ăn khắp nơi. Phải năm trời làm mất mùa, đói kém, trộm cắp như rươi, dân làng bỏ đi phương xa kiếm ăn, chỉ còn lại mấy nhà làm ruộng, nghèo khó không thua gì mẹ con Trương pháp quan, nên hai người đi xin ăn, chẳng ai cho. Trương pháp quan còn trai tráng, chịu đựng được đói khát, chứ bà mẹ già yếu, chịu khổ không kham.
                        Mỗi ngày đi xin ăn, trở về tay không, nhìn thấy mẹ già khổ sở, Trương pháp quan không khỏi đau lòng. Không muốn cho mẹ già biết, thêm thương tâm, anh ta mới kiếm chỗ vắng vẻ, âm thầm khóc lóc, nghĩ tình cảnh mình thật đã đến chỗ sơn cùng thủy tận. Nào hay người có thiện tâm, trời cũng biết cho, không nỡ thấy người đó đi vào tuyệt lộ. Có Trương Quả đại tiên, nghe hết sự tình, liền hóa thành một đạo nhân, dùng phép điểm đá hóa vàng, cấp cho Trương pháp quan năm chục lạng bạc, lại dạy cho anh ta nhiều đạo pháp cứu người giúp đời. Vì thế, Trương pháp quan mới thuê một căn phòng, chuyên nghề thầy pháp trị bệnh, cũng khá hiệu nghiệm, nhà cửa trở nên thịnh vượng. Như thế được ba năm, bà lão yên ổn trong lòng, cơ thể khoan khoái, bệnh dường dứt hẳn, trở nên khang kiện như xưa. Trương Quả lại tới, nói với Trương pháp quan :
                        - Đạo pháp ta dạy anh trước đây, nửa phần để cứu đời, nửa phần để giúp anh có số tiền nuôi dưỡng mẹ già. Nhưng việc đó không thể kéo dài, chi bằng anh hãy theo ta lên Long Hổ sơn, ta sẽ tiến cử anh với Trương thiên sư, cho anh làm một chức pháp quan, có tốt hay không .
                        Trương pháp quan vâng lời, thu dẹp căn phòng hành nghề thầy pháp, đem số tiền bạc tích góp lâu nay, một phần phân phát cho những người nghèo khổ, còn lại đem biếu mẫu thân, làm tiền dưỡng già. Bản thân anh ta đi theo Trương Quả, lên Long Hổ sơn, làm một vị pháp quan.
                        Trương pháp quan là một người thông minh tuyệt đỉnh. Mỗi khi gặp lúc Trương thiên sư làm phép, vẽ bùa, niệm chú, ông ta đều đứng một bên, để ý quan sát, tự nhiên học được nhiều bùa chú. Một hôm Trương thiên sư được một đạo hữu rủ đi đánh cờ, mới bảo Trương pháp quan ở lại giữ động phủ. Nhân lúc ngồi không, nhàn rỗi, Trương pháp quan nghĩ thầm : "Ngại gì mà không đem phép vời quỉ đã học lỏm ra thí nghiệm một phen ?". Bèn vẽ bùa, bắt quyết, cầm tấm thẻ bài của Trương thiên sư đập xuống một cái. Tức thì trong phòng có vô số quỉ hồn đứng chật ních : có đứa gẫy chân gẫy tay, có đứa sứt đầu sém trán, có đứa thè lưỡi ra ngoài, có đứa lồi hai con mắt, cùng nhiều con quỉ cổ quái, dị kỳ, coi rất ghê sợ Chúng ào ào tụ lại một chỗ, nhận ra người vời gọi không phải Trương thiên sư, mà là một người lạ hoắc, chưa từng nhận biết. Nhận thấy Trương pháp quan không xứng đáng quản hạt mình, chúng quỉ tỏ lòng bất phục, thi nhau lên tiếng vặn hỏi, vây chặt lấy Trương pháp quan, hỏi có chuyện gì mà ông vời gọi chúng tôi ?
                        Trương pháp quan nhìn thấy quá nhiều con quỉ xấu xí, tỏ vẻ sợ sệt, ngơ ngơ ngác ngác, không biết đường nào mà trả lời. Trong nhà, đám quỉ đã đứng kín mít, tưởng chừng một giọt nước cũng không rỉ được ra ngoài, bên ngoài cửa chính, những con quỉ khác lại kéo tới, kết thành đội ngũ, ùn ùn kéo vào. Chúng quỉ thấy Trương pháp quan nhát gan, lại càng làm dữ, có đứa lên tiếng nhục mạ, có đứa cười mỉa chê bai, có đứa nói : "Đánh chết đạo nhân quê mùa đi !", có đứa nói : "Lôi hắn ra ngoài, đẩy xuống hầm phân !". Lại có đứa nói : "ở địa phương nọ, đang tổ chức đàn tràng, chúng ta tính kéo tới, kiếm một bữa đầy bụng, dè đâu bị hắn vô cớ dùng bùa chú vời gọi, thế là mất toi một bữa no say. Hắn phải bồi thường cho chúng ta". Chúng làm ồn ào lên, khiến Trương pháp quan bở vía, ngay cả câu chú đẩy lui quỉ cũng quên béng. Chúng quỉ càng lúc càng hung hăng, nắm lấy Trương pháp quan, dốc ngược đầu xuống đất, hai chân chổng lên trời. Chúng bắt ông trồng cây chuối cả nửa ngày trời, sau đó mới hạ ông xuống, lấy phân ngựa, nước đái trâu, tống vào miệng, còn tính lôi ông đi, xô xuống hầm phân. Cũng may có Trương thiên sư về kịp, thấy cảnh tượng đó, kinh hãi quá chừng, vội niệm chú đẩy lui quỉ, để xua đuổi đám quỉ. Chúng quỉ ồn ào tranh cãi, nói Trương pháp quan vô cớ đem chúng ra làm trò cười, không trừng trị không xong. Trương thiên sư khó chống lại ý kiến đám đông, phải lấy lời êm dịu vỗ về, hứa sẽ dạy bảo Trương pháp quan. Chúng quỉ vẫn không chịu giải tán, đòi thiên sư phải giải quyết tức thì. Thiên sư nổi giận, tay trái bắt quyết, tay phải hiển ấn, hét lên :
                        - Tiểu quỉ chúng bay, sao dám bất tuân ước thúc như thế ? Nếu còn vô lễ, ta sẽ dùng thủ ấn, hợp cùng bùa chú, biến các ngươi tan thành máu, trong chớp mắt !
                        Số là thiên sư chẳng khác chi người thường, chỉ có điều rằng được trời ban cho chức trị quỉ, trừng quái, nên sinh ra đã sẵn co dấu ấn trong lòng bàn tay. Bùa chú được ấn này hỗ trợ, càng thêm linh nghiệm, nên đám quỉ hồn rất sợ. Thấy thiên sư nổi giận, chúng vội vã rút lui. Thiên sư nhìn lại Trương pháp quan, lúc đó đã không nói được nữa, khắp mình sưng phù, đau đớn không sao kể xiết. Thiên sư thấy vậy, vừa tức cười vừa giận dữ, nhưng thấy Trương pháp quan đã nếm mùi đau khổ quá nhiều, ngày thường lại yêu mến ông ta, nên cũng không nỡ trách phạt nặng, trái lại còn dùng bùa chú trị vết thương cho, sau đó mới dặn bảo :
                        - Bùa chú rất linh nghiệm, cũng rất đáng sợ. Dùng mà không đích đáng, có thể chết dễ như chơi, huống hồ lại lạm dụng bùa chú, làm trò chơi, há chẳng thêm nặng tội hay sao ? Cũng may, anh chỉ vời gọi một đám dã quỉ, cô hồn, vạn nhất đụng mấy vị thần trên trời, hoặc linh quan bản phủ vời gọi, rồi không có việc chính đáng nhờ họ đi giải quyết, rất có thể lúc này thân xác anh đã nát ra như cám. Trước đây, trong phủ của ta, có một Vương pháp quan, vì đi cầu mà quên đem theo giấy vệ sinh, đã bắt quyết, vời gọi trực nhật linh quan, nhờ ông này kiếm giùm cho mảnh giấy vệ sinh, bị Hoàng linh quan dùng roi sắt đánh văng xuống vực sâu, không tìm thấy xác. Những sự việc đó, ngay cả ta cũng không cách gì cứu nổi.
                        Trương pháp quan nghe nói, đổ mồ hôi lạnh khắp mình, không dám nói một câu.
                        Nào ngờ bọn quỉ hồn, tuy không có vẻ oai nghiêm của thần tướng, thân phận của linh quan, cũng tỏ ra rất quật cường. Nghe biết thiên sư không chịu trừng phạt Trương pháp quan, chúng tỏ lòng công phẫn, họp nhau ở chốn đồng hoang, lại mở một đại hội quỉ hồn, bàn chuyện trừng trị Trương pháp quan. Trong nhóm có một hồ li tinh, từng bị sét đánh chết, nhưng vì nó từng giao tiếp với người sống, nhận được nhân khí, nên được tiếp nhận vào trong quỉ giới. Con vật này không thuộc loài người, có tính âm hiểm, giảo hoạt, quỉ kế đa đoan, mới hiến kế rằng :
                        - Xưa nay, những người làm quỉ sư, cai quản chúng ta, tài giỏi như thầy trò Phí Trường Phòng, độc ác như Chung tiến sĩ, cũng từng bị chúng ta họp nhau lại, quậy phá cho xất bất xang bang, huống gì là Trương thiên sư, chỉ trông cậy vào thủ ấn ? Trừ cái ấn ấy ra, bùa chú chẳng đáng sợ. Chúng ta hãy giả bộ năn nỉ, tìm cách lại gần ông ấy, thừa lúc bất ngờ nắm chặt lấy bàn tay có dấu ấn, đè xuống, khiến ông ta không nhấc cánh tay lên nổi. Rồi mọi người kéo tới, vây chặt lấy ông ấy, sử dụng phép "quỉ xây tường", khiến ông ấy mê lẫn, không biết đường đi, không sao ra thoát chỗ vây hãm của chúng ta. Như thế, ông ta sẽ mất hết uy tín, từ nay trở đi, không dám lên mặt đe dọa chúng ta nữa.
                        Chúng quỉ nghe vậy, đều lên tiếng tán thành. Tối hôm đó, đợi lúc Trương thiên sư ra khỏi cửa, chúng kéo tới, chặn đường. Lúc đầu, chúng dùng lời nhỏ nhẹ thỉnh cầu, xin ông trừng trị Trương pháp quan. Thiên sư nghe giọng uy hiếp, tỏ ý không hài lòng. Chúng quỉ đã chọn sẵn một bọn ác quỉ có sức mạnh, dữ như cọp, giả bộ van xin, ở sát bên thiên sư. Vừa nghe ông này lên tiếng thét mắng, tất cả hăng hái đứng dậy, nắm chặt lấy bàn tay có dấu ấn Thiên sư vội vã đưa một tay ra bắt quyết, đồng thời nâng cao bàn tay có dấu ấn, nào ngờ cảm thấy bàn tay đó như có ngàn cân đè xuống, không sao nhấc lên nổi. Thiên sư hoảng quá, chưa biết phải làm sao, đã nghe những tiếng ma quỉ thét mắng ồn ào, xen lẫn tiếng cười hì hì, ha hả.
                        Trương thiên sư lúc đó có cảm nhận mơ hồ, trước mắt chỉ thấy bên Đông là một vách núi hiểm trở, bên Tây là con sông rộng. Tuy tìm được một lối đi nhỏ, nhưng vừa đi được mấy bước, đã lại thấy vách núi chắn ngang. Điều khó chịu nhất vẫn là bàn tay có dấu ấn, nặng chình chịch, càng lúc càng bị đè xuống, đau đớn, chịu không nổi. Lại nghe bên tai có tiếng nói :
                        - Trương chân nhân còn không chịu đầu hàng sao ?
                        - Trương thiên sư mau thoái vị đi !
                        - Ông còn dám quật cường nữa sao ? Còn dám coi thường chúng tôi ư ? Sao không mau mau đem đứa họ Trương giao cho chúng tôi ?
                        Trương thiên sư bị đám quỉ đưa vào thế cùng quẫn, có pháp lực mà không thể thi triển, nghĩ thầm : "Chỉ còn cách đợi sáng. Một khi dương khí thịnh lên, quỉ hồn ắt bị xua tan, lúc đó sẽ tính kế khác , Nhưng cánh tay bị đè xuống, tưởng chừng như muốn gẫy, thật tình không chịu nổi, ông đành ngồi xuống đất, đặt cánh tay lên một tảng đá, hy vọng nhờ sức tảng đá, có thể giảm bớt áp lực.
                        Nhưng trái lại, vì có tảng đá cản bên dưới, sức nặng đè lên cánh tay lại gia tăng. Trương thiên sư chịu không nổi, ngước mặt nhìn trời, cất tiếng than dài :
                        - Không thể nào ngờ bản thân làm thiên sư, tước phong chân nhân, lại bị quỉ vật quấy nhiễu, tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc. Ông Trời, hỡi ông Trời, không chịu phù hộ tôi, còn sai tôi làm quỉ sư làm chi ? Tôi chết chẳng đáng tiếc, chỉ sợ từ nay về sau, chẳng ai dám phụ trách việc trị quỉ, mà chức vị tiên sư cũng không người nào dám nhận.
                        Câu than thở chưa dứt, đã nghe trên không có tiếng hô to :
                        - Chân nhân đã làm thiên sư, lẽ nào một dúm quỉ nhỏ bầy trò xây tường ghẹo ông, ông cũng không biết nữa sao ?
                        Chân nhân nghe vậy, hốt nhiên tỉnh ngộ, nghĩ thầm : "Quả thật ta đã lú lẫn. Có một phép trừ tà tầm thường, ta cũng không nghĩ ra". Nghĩ rồi, đứng dậy vạch quần, phóng ra một bãi nước tiểu nong nóng, tưới khắp chung quanh. Lập tức nghe tiếng ma quỉ kêu chí chóe, những ảo cảnh trước mặt biến đấu mất, đồng thời cánh tay bị đè cảm thấy thư thái. Thiên sư vọng lên không trung, chắp tay vái tạ, người tiên đã điểm tỉnh cho mình, sau đó tìm đường đi, thong thả trở về .

                        #72
                          bevanng 22.07.2008 11:21:28 (permalink)
                          Hồi Thứ 80

                          Mắc lầm lỗi, Trương pháp quan mất chức
                          Theo ước cũ, Lã Thuần Dương ra đời.


                          Trương thiên sư chịu nhục một phen, trở về phủ. Các thuộc hạ hay tin, tới hỏi thăm, thiên sư đem sự việc kể lại, không giấu giếm điều gì. Có hai vị linh quan, họ Vương, họ Hoàng bị kích động, lập tức rút roi sắt ra, hô to :
                          - Quỉ vật khinh nhờn, lăng nhục thiên sư, thì bọn tôi, chúng cũng chẳng coi ra gì. Xin thiên sư lập tức vời bọn quỉ tới, đập cho chúng một trận. Nếu không, sau này chúng càng lừng, thế lực quỉ bồng bột, làm sao trị được ?
                          Nói rồi, lập tức đứng thẳng người, đợi lệnh. Thiên sư cười, vỗ về :
                          - Ta há không biết đám quỉ đáng ghét, nhưng nghĩ bọn chúng, thân làm quỉ vật, đã lâu không ai tế tự, tình cảnh cũng đáng thương. Vả lại, cũng bởi Trương pháp quan không hiểu biết, bừa bãi thi thố đạo pháp, mới gây ra vụ này. Ta đã trách mắng nặng nề ông ấy, nhưng việc đó bọn quỉ không thấy, và vì chúng thâm hận Trương pháp quan, mới giận lẫy mà làm khó dễ ta. Việc làm đáng ghét, nhưng tình đáng thương. Vả lại bản thân ta cũng chưa bị thiệt hại bao nhiêu, chi bằng đặc cách thi ân, tha thứ cho chúng, biểu thị lòng khoan dung, độ lượng của mình. Mong các ông dẹp bớt cơn giận, đừng để ý đến nữa.
                          Hai vị linh quan nghe vậy, bình thản trở lại, Vương linh quan thu lại roi sắt, thung dung nói :
                          - Thiên sư vốn nhân từ, có thể thi ân, nhưng luật trời làm sao bỏ được ? Hạng ác quỉ này không tha thứ được đâu. Nếu bỏ qua không cứu xét, cũng không biểu thị được lòng khoan dung của thiên sư, mà trái lại bọn chúng còn cho rằng thiên sư nhát gan, ngại việc. Nếu chúng ta lơ là chức vụ, bỏ phế pháp luật, sau này, đụng một tí là chúng làm lớn chuyện, tùy lúc tùy nơi, kéo nhau tới uy hiếp chúng ta. Đó là mầm mống của tội lỗi, rất đáng sợ. Thế lực của quỉ lấn lướt, con người đều học theo quỉ, còn ra thế giới gì nữa?
                          Thiên sư nghe vậy, tỏ vẻ sợ sệt, lo lắng. Ông chưa kịp đáp, đã nghe trên không trung có tiếng hạc kêu, người tiên đột ngột xuất hiện. Thiên sư vội cùng hai vị linh quan, bốn vị tiên lại, cùng ra ngoài nghênh tiếp. Người mới tới chẳng phải ai khác, chính là Trương Quả đại tiên, người đã tiến cử Trương pháp quan. Trương Quả vừa thấy mặt thiên sư, liền chắp tay chào, nói :
                          - Bần đạo thật tình có lỗi lớn với chân nhân. Chỉ vì người tôi tiến cử, mà chân nhân bị ma quỉ ám toán. Nếu bần đạo không tình cờ qua đường, điểm tỉnh một lời, chân nhân còn bị bọn chúng gây phiền nhiễu, tội lỗi của bần đạo càng nặng thêm.
                          Bấy giờ, Trương chân nhân mới hiểu người ở trên không trung, điểm tỉnh mình, chính là Trương Quả, vội tạ ơn. Mọi người kéo nhau vào trong nhà, chia ngôi chủ khách, cùng ngồi xuống. Trương Quả trước hết lên tiếng, nói với hai vị linh quan :
                          - Vừa rồi ở trên không trung, đã được nghe lời cao luận của hai ông. Hai ông nói rằng thế lực của quỉ lấn lướt, người người học theo quỉ, nghe ra thật đáng sợ. Kỳ thực, rốt cuộc cũng có một ngày đó, chẳng qua là chuyện đó chưa xảy ra ngay, mà phải đợi một ngàn năm sau mới thấy. Đại để thiện, ác hai trường, là do âm, dương phân biệt ra. Thủa khai thiên lập địa, ai nấy đều hồn nhiên. Người hồn nhiên thì không cơ trá, mà không cơ trá tự nhiên là thiện nhân. Về sau, thói cơ trá ngày một thịnh, do đó thế đạo, nhân tâm ngày một mỏng, đến lúc mỏng cùng cực, tức dương khí tiêu diệt, âm thế cực thịnh. Hai ông nói tới thế lực của quỉ lấn lướt, chính là vào lúc này. Quỉ thuộc âm, người thuộc dương. Người mà không dương khí, thử hỏi có khác gì quỉ ? Xét sự tình trên thế giới ngày nay, toàn là tính chất ti tiện, âm hiểm, gian trá. Người làm quan chẳng ngó tới việc công, chỉ biết ăn hối lộ, lại hối lộ công khai, bất kể ngày đêm, có khác gì lũ quỉ tranh ăn ? Ở người dân thường, thì hiếu đạo bị phế bỏ, dâm phong được đề xướng, người ta chỉ cầu có lợi cho mình, không hỏi tới lễ nghĩa, liêm sỉ. Thứ lòng dạ của quỉ, mưu trí của quỉ đó, dần dần truyền cho người sống, đến một lúc, người và quỉ không còn phân biệt. Những thói xấu đó tràn ngập vũ trụ, biến thế giới của người thành thế giới của quỉ Nhưng đó đều là chuyện trong tương lai. Theo nhãn quang của bần đạo, đại khái từ nay tới một ngàn năm trăm năm sau, mới bày ra cảnh tượng đó, nói tới lúc đó e rằng quá sớm.
                          Trương thiên sư cười, nói :
                          - Cố nhân từ xa tới thăm, té ra chỉ để nói chuyện cằn nhằn, than thở.  
                          - Câu chuyện này, các vị mới được nghe lần đầu, tất nhiên cho rằng tôi nói quá đáng, nhưng quyết không phải chuyện nói chơi cho vui, mà nhất định sau này sẽ có ngày đó. Đạo của trời đất không ngoài hai chữ âm dương, dương thịnh thì âm suy, âm thịnh ắt dương phải tiêu ma. Người xưa có nói : việc trong thiên hạ, một trị một loạn, chính là đạo lý đó. Bàn về thực chất, chẳng qua chỉ là đao với thương, ta sống ngươi chết, bốn phương tám hướng bày ra một cảnh chiến trường. Nhưng đó cũng chưa phải là loạn thật sự. Chỉ chừng nào lòng người mất đi, người biến thành quỉ, lúc đó mới kể là đại loạn. Có thể nói đó là sự tương phản hoàn toàn với thời trị của con người hồn nhiên. Nói cách khác, thời của con người hồn nhiên là toàn dương thời đại, mà thế giới của quỉ là toàn âm thời đại. Như thế, từ dương biến dần sang âm, thời gian đó trải qua không biết là mấy ngàn, mấy vạn năm. Sau đó, trời đất mới phục hồi, trở lại thời của người hồn nhiên, là khởi đầu của trị. Đạo trời như thế, biết làm sao đây ? Dẫu có người đại trí đại thành, như Ngọc đế, Nguyên Thủy, Lão Quân, hay Phật Tây phương, cũng không xoay chuyển lại được.
                          Thiên sư cùng các vị linh quan nghe vậy, đều than thở không đứt. Trương Quả không muốn bàn tới những chuyện mà người đời cho là vu khoát, mới đổi sang câu chuyện khác, dần dần nhắc tới chuyện của Trương pháp quan. Trương thiên sư vội cho gọi pháp quan tới. Trương pháp quan thấy mặt Trương Quả, tỏ vẻ áy náy.
                          Trương Quả mới cười, bảo :
                          - Người tuổi trẻ làm việc gì, thường không ngó tới lợi hại, không biết tiến thoái. Trên đời, mọi người đại khái đều như vậy, không riêng gì anh. Tuy nhiên, hôm nay tôi đến đây, có ý cùng mọi người giải quyết việc công án. Điều thứ nhất là Trương chân nhân, đúng như lời linh quan đã nói, vốn có lòng nhân từ, khoan dung, nhưng luật trời lại không bỏ được, ít nhất cũng phải đem mấy tên quỉ hồn thủ xướng ra trừng trị một phen.
                          Nói đến đó, liền rút tay áo ra một danh sách, giao cho Trương thiên sư, nói tiếp :
                          - Bần đạo đã thay mặt chân nhân, điều tra vụ này. Mấy tên ác quỉ đây, chính là những kẻ bầy mưu, thủ xướng. Những tên này mà không trừng phạt, quỉ giới làm sao yên được ? Điều thứ hai là chuyện của Trương pháp quan. Việc này tuy không lớn lắm, cũng không thể kể là nhỏ. Nhưng chẳng qua chỉ vì anh ta nhất thời ham đùa giỡn, muốn đem những điều đã học được hàng ngày ra thí nghiệm một phen, mong có ngày giúp đỡ thiên sư. Nếu nói là ác ý, thì hoàn toàn không. Vì thế, việc này xét cho cùng, cũng có chỗ đáng tha thứ. Nhưng bây giờ, dứt khoát anh ấy không thể ở lại đây. Điều thứ nhất là chân nhân quá khoan hồng, sau này khó chế phục được người khác, thứ hai là trong đám quỉ hồn, còn nhiều đứa hậm hực. Lần này, chân nhân trừng trị những đứa chủ mưu xong, những đứa khác còn oán ghét Trương pháp quan sâu hơn, anh ấy lại không có bản lãnh, làm sao chống đối nổi ? Chẳng gì bằng rời khỏi nơi này, về nhà phụng dưỡng mẹ. Đợi khi mẹ anh qua đời, ta sẽ lại tìm cho anh một nơi danh sơn động phủ, làm chỗ tu dưỡng. Nếu biết khổ công tu hành, sau này có hy vọng được làm địa tiên.
                          Trương pháp quan vội tạ lỗi cùng thiên sư, từ biệt cùng các vị đồng sự trong phủ, sau đó đi theo Trương Quả. Trương Quả cưỡi mây bay đi, dẫn anh kia trở về chốn cũ, gặp mẹ. Lúc ra đi. Trương Quả thẩy cho anh một thoi bạc, dặn dò :
                          - Anh có thể giữ số bạc này làm vốn, tần tiện mưu sinh, thấy ai nghèo khổ lại có thể giúp đỡ người ta, tạo công đức. Nay ta muốn nói rõ cho anh biết về kiếp trước của anh. Lúc đó, Chung Li tiên sư chưa đắc đạo, gặp anh trong núi, đã thu nhận anh làm đồ đệ, đặt tên cho là Sơn Nguyệt Nhi. Về sau, tiên sư bị sư phụ là Đông Hoa đế quân trách mắng, nói tiên sư chưa đắc đạo, sao dám tự phụ thu nhận đệ tử ? Vì thế, tiên sư không dám trở lại tìm kiếm anh nữa. Nhưng người tiên không nói chơi bao giờ, ông ấy đã hứa giúp đỡ anh, lại thấy anh cũng có chỗ tốt, nên trước sau gì cũng tìm cách thành toàn cho anh. Vì thế, sau khi đắc đạo, ông ấy đã gởi điệp văn đưa anh xuống âm ti, cho đi đầu thai ở chỗ này. Lại khảo sát con người của anh, thấy anh khá hiếu thảo, tính tình trung hậu, mới quyết ý nâng đỡ anh một phen, để hoàn thành túc nguyện. Đó là lai lịch kiếp trước của anh. Hiện giờ Đông Hoa đế quân đã hạ phàm, theo định số phải làm học trò của Chung Li tiên sư _ ông này nghĩ mình đã từng chịu ơn đế quân nâng đỡ, giáo huấn, mới được địa vị ngày nay, nên đã giả dạng làm một thầy giáo, tới nhà xin việc, nhận làm gia sư, để tùy lúc tùy nơi điểm độ cho đế quân. Vì ông ta không thể phân thân, nên đã nhờ cậy ta chăm sóc cho anh. Hiện giờ, mẹ anh đã mang bệnh, số thọ chẳng còn bao lâu. Anh đã rời phủ thiên sư, hãy ở lại nhà, phụng dưỡng mẫu thân, để làm tròn trách nhiệm của người con. Đợi khi mẹ anh qua đời, anh có thể tìm tới chỗ vách núi Bạch Phong nham, dưới chân núi Võ Đang, thuộc tỉnh Phúc Kiến, lấy nơi đó làm chỗ tu dưỡng. Đợi cơ hội tới, ta sẽ lại đến đó, chỉ dẫn cho anh về phép tu luyện.
                          Nói rồi, phất tay áo một cái, biến mất. Trương pháp quan vội quì xuống, đưa tiễn. Từ đó, ông tuân lời tiên sư, ở lại nhà, làm nghề đoán số mạng, chọn ngày lành cho người ta, lấy tiền nuôi mẹ. Qua năm năm, mẹ ông qua đời, ông bỏ nhà đi rong chơi, tới núi Võ Đang, thuộc tỉnh Phúc Kiến, quả nhiên tìm ra vách núi Bạch Phong nham. Dưới vách núi đó có một hang động, ông mới ở lại đó, dụng công tu dưỡng. Năm mươi năm sau, Trương Quả đích thân tới khảo sát trình độ, dạy cho ông nhiều đạo pháp. Lại ba trăm năm sau, độ cho ông làm địa tiên. Nhưng đó là những chuyện về sau.
                          Nay nói tới chuyện Chung Li Quyền ở nhà Lã Động Tân, dạy cho cậu này đọc sách trong năm năm. Đó là đời nhà Đường, sau khi Vũ Hậu rời bỏ chính quyền. Họ Lã là một nhà đời đời làm quan, cha mẹ Động Tân tự nhiên là hy vọng cho con trai kế thừa nghiệp quan. Nhưng Động Tâm lại có chí hướng khác. Đối với việc học hành, thi đỗ, cậu ta chẳng quan tâm tới chút nào. Những sách vở, điển tịch của người xưa, cậu ta đều chê là thô thiển, chẳng đáng đọc. Cha cậu tức giận vô cùng, trước mặt ông thầy giáo, đích thân khảo sát bài vở của con trai. Nào ngờ đưa sách cho đọc, cậu ta chỉ nhìn lướt qua một cái, là đọc vanh vách từ đầu tới cuối, không quên một chữ. Bấy giờ, cậu mới tám tuổi, đã biết làm văn, vừa tinh vừa khéo, nên người cha không thể không bội phục. Lại cố tình tìm những vấn đề nan giải trong cổ thư ra khảo sát con trai, thì cậu ta, hỏi đâu đáp đó, trôi chảy như nước, lại có nhiều nghĩa lý, phát hiện những điều mà người xưa chưa phát hiện. Người cha không làm khó được con trai, đành gật đầu, nói :
                          - Quả là con ngựa non chạy ngàn dặm của nhà ta. Nhưng trẻ con, miệng còn hôi sữa, mà dám chê sách của cổ nhân là không đáng xem, sao tránh khỏi tội quá cuồng vọng . Phải biết rằng chúng ta đi học, ngoài kinh truyện của thánh hiền ra, còn sách nào đáng đọc nữa chứ ?
                          Động Tân đáp liền :
                          - Cái học của Khổng thánh nhân là nhập thế chính đạo, lời lời bình dị mà cận nhân tình, có thể làm mẫu mực cho người đời. Nếu ai ai cũng như vậy, thì thiên hạ khá được thái bình, nhưng đó chưa phải là đạo thường trị vĩnh cửu. Còn như diệu nghĩa xuất thế, đều nằm trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Nếu mọi người đều học tập theo, ắt muôn năm thường trị, vĩnh viễn không có chuyện loạn. Đạo tối cao trong sách đó, mọi người đều chịu là đúng, nhưng người ngày nay chỉ nhìn thoáng qua, mới cho là mối học dị đoan. Lại còn có nhiều yếu chỉ của Huyền môn, đạo thuật chính tông, đều là học vấn tối cao về nhân sinh. Ngày nay, những người tự nhận là thông đạt, lại khinh rẻ, chê bai đạo đó. Chỉ vì đạo đó không thi hành, thiên hạ mới thường loạn vậy.
                          Nghe những lời đó, người cha cho là kỳ lạ, và càng bực bội.

                          #73
                            bevanng 22.07.2008 11:53:05 (permalink)
                            Hồi Thứ 81

                            Lã tổ Cao luận khiến thầy đồ kinh hãi
                            Chung Tiên ngâm mấy câu, cảnh tỉnh học trò.


                            Lã Động Tân trước mặt phụ thân, đưa ra những lời bàn cao siêu về đạo xuất thế, khiến ông này tròn xoe hai mắt, há hốc miệng, hét lên :
                            - Trẻ con mới ti toe vài ba chữ, sao dám chê bai thánh hiền, phỉ báng đạo, liều lĩnh đưa ra những lời bàn luận quái gở ? Trung Quốc của chúng ta là nước văn hiến, từ xưa vốn coi đạo của Nghiêu, Thuấn, Văn, Vũ Vương, Chu Công và Khổng Thánh là đạo trị quốc, lưu truyền đã mấy ngàn năm, không gì thay thế. Cho tới bản triều hưng thịnh, bao đời thánh chúa đều chăm lo việc sùng chính, truất tà, biết bao nhà Nho thông đạt, học vấn uyên thâm, chẳng ai dám có lời bàn bạc chê bai, mà ngươi là đứa con nít, kiến thức được bao lăm, dám nói ra những lời cuồng ngôn vô pháp vô thiên như thế ?
                            Nói rồi, hướng về phía ông thầy, chắp tay vái, nói tiếp :
                            - Thằng con nó ngu xuẩn nói năng bừa bãi như thế, cảm phiền sư phụ để ý uốn nắn, dẫn nó về nẻo chính, khiến gia đình tôi không phế bỏ dòng thư hương, tiếp nối nghiệp tổ, thì tiểu đệ cảm ơn vô cùng.
                            Nói rồi, giận dữ, đùng đùng bỏ vào nhà trong.
                            Chung Li Quyền cười, nói với Động Tân :
                            - Cậu nói mấy câu cuồng ngôn, để liên lụy tới tôi, bị trách mắng là vô ý tứ.
                            Động Tân đứng thẳng người, tròn xoe hai mắt, nói :
                            - Sư phụ đừng nên nói vậy. Đệ tử được sư phụ dạy dỗ, đã biết rằng trong vòng trời đất, chỉ có một đạo, ngoài đạo đó ra, không còn đạo nào khác. Đệ tử tuy còn nhỏ tuổi đã biết đạo cứu đời là đạo duy nhất. Trời đã sinh ra đệ tử, đệ tử thề rằng phải đưa tất cả chúng sinh trên thế giới, dẫn nhập vào đại đạo, còn một người không đắc đạo, đệ tử quyết không thành đạo một mình. Đệ tử cũng tin chắc vào những lời dạy về ngũ luân (l) của họ Khổng , hiểu lẽ thờ song thân. Gia gia dẫu không dung cho đệ tử tu đạo, đệ tử cũng phải dần dần cảm hóa, khuyên cha nhập đạo. Vả lại, ý riêng cua đệ tử cho rằng việc khuyên đời, cứu người phải thực hiện từ chỗ thân đến chỗ sơ, từ gần tới xa. Người ruột thịt của mình còn không chịu tin, làm sao ta cảm hóa được người khác ? Thưa sư phụ, công phu cứu đời của đệ tử nhất định phải thực hiện từ trong gia đình. Hiện tại, ý của cha là muốn đệ tử đọc sách thành danh, đậu cao, làm quan lớn, sinh con đẻ cái, tiếp nối dòng hương khói. Đệ tử muốn cảm hóa cha, nhất định là việc gì cũng phải tuân lời cha, làm sao cha hoan hỉ trong lòng, mới có thể chuyển đổi tâm ý của cha. Sư phụ thấy kiến giải của đệ tử thế nào ?
                            ---------------------------------
                            (1) Ngủ luân : năm mối quan hệ : vua tôi, cha con, thẩy trò, vợ chồng và bè bạn.

                            Chung Li Quyền tán thành liền :
                            - Tam giáo khác đường, nhưng lý là một. Nho gia dạy người ta, trọng nhất là trung hiếu. Chúng ta đã muốn sửa đạo lý, càng phải giữ lấy trung hiếu đại tiết, luôn luôn ghi vào tâm khảm. Đúng như lời đệ tử nói, phải làm tròn trách nhiệm làm người, sau đó mới vào núi tu dưỡng. Đó là điều tốt đẹp nhất. Nhưng sợ rằng thế tình một khi đặt nặng, đạo niệm ắt phải xem khinh, chẳng những khó quán triệt được hoằng nguyện phổ độ chúng sinh, mà rồi thân xác mình mục nát với cỏ cây, chẳng đạt tới kết quả gì, há chẳng đáng sợ lắm sao ?
                            - Sư phụ nói vậy là quá xem thường đệ tử. Lúc đệ tử chưa ra đời, thân mẫu từng có hai điềm mộng triệu, nói rằng có nhiều vị tiên quan, bày nghi trượng, đưa đệ tử đi đầu thai, và lúc bà hạ sinh, căn phòng sực nức mùi hương thơm, bên ngoài căn nhà, nghe có tiếng tiên nhạc du dương trên không trung, hồi lâu mới dứt. Vì thế, thân phụ thường nói rằng đệ tử sau này ắt có phúc lớn. Một điều kỳ lạ nữa là đệ tử thường mộng thấy một vị tinh quan, râu trắng tóc bạc, tự xưng là Lý Trường Canh. Đệ tử có nghe nói trong điện Ngọc đế có một vị Thái Bạch Kim tinh họ Lý, tên Trường Canh, chắc là ông này. Trong giấc mộng, ông ấy thường dạy bảo đệ tử nhiều điều về huyền lý Đạo môn, còn kêu đệ tử phải luôn luôn ghi nhớ câu : "Trên trời bớt đi một người tiên, chẳng bằng dưới trần thế thêm lên một thánh nhân". Ông ấy còn nói rằng câu đó là lời của đệ tử nói ra. Trong giấc mộng, đệ tử dường như có nhớ rằng quả thật mình có nói câu đó, chỉ không nhớ rõ là đã nói hồi nào, và nói với ai. Lúc tỉnh dậy, đệ tử thấy lòng dạ vô cùng sáng suốt, đã đem câu nói đó ghi vào tâm khảm, vì thế mới có hoằng nguyện phổ độ tất cả người đời. Thưa sư phụ, câu nói này đích xác không phải câu nói trong lúc ngẫu hứng, buột miệng nói ra trong lúc trò chuyện, nên đệ tử ghi nhớ rất kỹ.
                            Chung Li Quyền cười, nói :
                            - Nếu đã vậy, cậu có nhớ được là đã gặp tôi ở chỗ nào hay không?
                            - Điều đó, đệ tử không nhớ rõ. Nhưng đệ tử đã có lần nói với sư phụ rằng vừa thấy mặt sư phụ, đệ tử đã thấy quen quen, dường như đó là những chuyện ở kiếp trước.
                            Chung Li Quyền nghe vậy, đưa tay vuốt râu, cất tiếng cười ha hả. Cười xong, khe khẽ gật đầu, không nói tiếng nào. Động Tân chẳng hiểu ý ra sao, lại nói :
                            - Những điều đệ tử vừa nói tới là những việc lớn, đệ tử thường ôm ấp trong lòng.
                            - Ta hiểu, ta hiểu. Nhưng chuyện đó cứ để từ từ.
                            Động Tân tỏ vẻ bồn chồn, hỏi :
                            - Sư phụ đoán tâm sự của đệ tử thế nào ?
                            - Ta nghĩ chí của cậu đặt vào việc tu đạo, muốn độ hết người đời nên không thể không cảm hóa cha mẹ. Chuyện công danh, phú quí, cậu đã sẵn có, trong vòng mười năm, chẳng cần lo giải quyết. Chỉ còn một việc là sinh con, tất phải lấy vợ. Cậu rất lo chuyện phá pháp thân, không tránh khỏi trở ngại cho công phu tu đạo. Đó là điều cậu lo lắng, có phải không ? Nhưng nên biết thể chất của cậu là thuần dương, nếu có phá sắc giới, cũng không hại gì.
                            Động Tân nghe vậy, mừng rỡ nói :
                            - Đệ tử lo lắng nhất, chính là chuyện này. Nay được sư phụ chỉ điểm, mối lo đó đã được cất đi. Đệ tử rất muốn hỏi sư phụ thật tình là người hay là tiên, mà biết quá nhiều về đệ tử như thế ? Vã lại sư phụ hàng ngày giảng về Huyền môn đại đạo, đệ tử dẫu ngu cũng biết rằng huyền lý đó, nếu không phải đại la kim tiên, có công hạnh ngàn năm, chẳng thể hiểu được rành rẽ. Có thể thấy sư phụ quyết không phải người bình thường. Đệ tử còn nhớ lúc sư phụ tới nhà đệ tử, đã xảy ra nhiều tình huống đặc biệt. Đến nay, đám gia nhân trong nhà đệ tử vẫn còn nhắc tới, cho là chuyện kỳ lạ.
                            Không đợi Động Tân nói hết câu, Chung Li Quyền vội hỏi :
                            - Họ nói về tôi thế nào ?
                            - Họ nói rằng lúc mới tới, sư phụ xăm xăm tiến vào cửa, đòi gặp gia gia. Gia gia thấy sư phụ ăn mặc rách rưới, cho rằng sư phụ muốn xin ăn, nên lúc đầu không chịu tiếp. Về sau, đứng ở sau cánh cửa, lén nhòm ra, thấy sư phụ hai mắt sáng rỡ, có thần, khí thanh tỏa ra khắp khuôn mặt, mới tin chắc sư phụ không phải người tới xin xỏ, vội đối đãi tử tế. Đến khi nghe sư phụ bàn luận cao minh, nói năng trôi chảy, gia gia rất khâm phục, tỏ lòng tôn kính, mới hỏi sư phụ tới đây với ý gì. Sư phụ trả lời thắng thắn : "Tôi muốn thu nhận công tử làm đồ đệ". Lúc đó, vì thấy đệ tử quá thông minh, lại rất bướng bỉnh, gia gia đang lo tìm một ông thầy giỏi, nay thấy sư phụ có đại tài, lại tự tiến thân, lẽ nào gia gia không hài lòng ? Tuy nhiên, đến nay người trong nhà vẫn có điều thắc mắc, không hiểu được, là vì đã lâu năm, sư phụ chưa hề cho biết quê quán ở đâu, xuất thân thế nào, và đã làm những việc gì ? Vì sao đã lâu năm, sư phụ không về nhà lần nào, cũng chưa ai thấy sư phụ viết thư về thăm nhà, hoặc có bạn bè, người thân tới thăm hỏi. Đó là những điều người ta còn nghi ngờ về sư phụ.
                            Chung Li Quyền nghe vậy, bất giác cười ha hả. Động Tân lại nói:
                            - Lúc sư phụ tới nhà, đệ tử mới có năm tuổi. Gia gia thường nói đệ tử thông minh từ bé. Lên bốn, đệ tử đã làu thông kinh sử, vừa lên năm đã có những lời nghị luận thâm sâu, khiến thầy đồ kinh hãi, liên tiếp hai ông thầy bẽ mặt, xin thôi. Đúng lúc đó, sư phụ tới nhà, xin dạy. Gia gia còn sợ đệ tử cậy tài, xem thưởng sư phụ, mới kêu đệ tử ra, bái kiến sư phụ. Nào ngờ, đệ tử vừa thấy mặt sư phụ, đã tưởng chừng như quen biết từ lâu, tỏ lòng khâm phục, nói rằng : "Đây mới là sư phụ của ta !".
                            Chung Li Quyền gật đầu, nói :
                            - Hẳn là chúng ta đã có duyên với nhau từ kiếp trước.
                            - Có thể chúng ta có tiền duyên, đệ tử vẫn nghĩ rằng sư phụ nhất định phải là một vị thần tiên trên trời, có ước hẹn từ kiếp trước, đặc biệt hạ phàm để dạy dỗ đệ tử, chỉ dẫn cho đệ tử nhập Đạo môn. Hôm nay nhân lúc nhàn rỗi, sư phụ không ngại đem chuyện kiếp trước, nói cho đệ tử biết chứ ?
                            Chung Li Quyền nghĩ vậy, bất giác biến sắc mặt, hét lên :
                            - Trên đời làm sao có thần tiên ? Thần tiên há có thể xuống phàm trần, dạy dỗ người ta ? Thằng bé này quả là nói năng nhảm nhí, hèn gì bị cha mắng là cuồng vọng !
                            Lã Động Tân bị trách mắng, chẳng hề sợ hãi, còn cười, nói :
                            - Sư phụ cố tình nói giỡn đấy thôi, chứ đệ tử biết chắc thầy là thiên tiên hạ giáng. Còn như sư phụ nói thần tiên không thể hạ phàm, tại sao trên đời còn truyền lại rất nhiều dấu tích của thần tiên? Đại để là người tiên không chịu hiển lộ chân tướng, vì chân tướng lộ ra, ắt gặp phải nhiều phiền toái. Sư phụ đã không chịu thừa nhận, đệ tử cũng chẳng dám hỏi dò nữa. Chừng nào cơ hội tới sư phụ ắt nói rõ cho đệ tử biết.
                            Nói rồi, không hỏi nữa, trở lại với việc học tập.
                            Lã Động Tân có thân phận rất cao, lại được danh sư chỉ dẫn, tự nhiên là trở thành nhân tài tuyệt đỉnh. Bấy giờ, vào niên hiệu Trinh Quán, đời nhà Đương, Lã Động Tân được mười hai tuổi, theo chân một đám bạn bè, cùng đi ứng thí. Thi một lần, đậu ngay, trúng tiến sĩ đệ nhất danh, được người đời xưng tụng là "Hà Trung tiểu tài tử”. Những danh gia, vọng tộc đương thời, có con gái, đều muốn vời cậu ta vào làm rể. Lã Động Tân tuân lời dạy của sư phụ, thể theo ý cha mẹ, năm mười lăm tuổi, cưới con gái Hà thái thú, người cùng quận, về làm vợ. Vợ chồng thương yêu nhau đằm thắm, hai năm sau, sinh được một trai.
                            Lã Động Tân nhờ tài danh được bổ làm quan, hoạn lộ thênh thang mười mấy năm liền. Chung Li Quyền trước sau vẫn đi theo, không rời bỏ . Một hôm, thầy trò, cha con ở nha môn mở một tiệc nhỏ, bàn những chuyện chính trị, dân sinh, bỗng có người nha lại tiến vào chúc mừng, nói Động Tân được vinh thăng, bổ đi nơi khác. Cha con Động Tân nghe vậy, đểu lộ vẻ mừng rỡ, riêng Chung Li Quyền chỉ mỉm cười, không nói một tiếng, cũng không chúc mừng. Người cha cười, nói :
                            - Tiên sinh là cao sĩ, nên không bận lòng về chuyện công danh. Tiểu nhi tuổi trẻ đỗ đạt, hoạn lộ hanh thông, theo thói thường của người, sớm đắc chí dễ sinh lòng kiêu căng, vọng tưởng. Kiêu thì không tiến xa, vọng tưởng thì bị người đời khinh rẻ, chê bai, tôi lo rằng đó không phải điều phúc. Nhờ có tiên sinh thủy chung quản lý, ngăn chặn lỗi lầm, thật may mắn cho thằng cháu, may mắn cho họ Lã?
                            Chung Li Quyền nghe vậy, ngước mặt nhìn trời, cất tiếng cười vang:
                            - Trên đời làm gì có người mê đắm vì danh lợi, lại có thể tiến về đường Đạo ? Lão đại nhân chỉ lo kiêu vọng không phải điều phúc, há chẳng phải những lời thô thiển hay sao ?
                            Nghe câu đó, hai cha con đều lặng yên, không nói một lời.
                            Chung Li Quyền đẩy chén rượu ra xa, đứng lên, lảo đảo rời khỏi bàn tiệc. Bước đi vài bước, liền cất tiếng ngâm :
                            Chân tiên truyền đạo, khó tìm thay
                            Thầy trò quấn quít bấy lâu nay
                            Trú xứ vững vàng, tìm đâu nhỉ ?
                            Núi cao một ngọn, đảo Bồng Lai.
                            Ngâm rồi, cười lớn tiếng, nói :
                            - Không xong rồi ! Hôm nay, ta bị học trò chuốc say túy lúy, đành xin kiếu.
                            Nói rồi, nhắm hướng bên ngoài, bước vội. Cha con Động Tân đều quái lạ, sao hôm nay ông thầy có lời nói và thái độ thất thường như thế, và cho rằng ông say thật tình. Động Tân xưa nay đối với thầy một lòng tôn kính, thấy ông đỏ gay mặt, lật đật đi ra, vội xin phép cha, đích thân đuổi theo, tới thẳng phòng ngủ của Chung Li Quyền. Chung Li Quyền vừa bước đi, vừa nói lảm nhảm, không rõ là nói gì. Vừa tiến qua cửa, ông liền nôn thốc nôn tháo, mùi xú uế nồng nặc. ông cũng chẳng để ý có ai theo sau, tiến thẳng về phía giường ngủ, nằm lăn ra. Lã Động Tân sợ thầy lạnh, lấy chăn đắp cho, ghé lại gần, nói nho nhỏ bên tai :
                            - Sư phụ ngủ ngon nhé. Nằm thế này, dễ bị cảm lạnh lắm đấy.
                            Chung Li Quyền nghe tiếng, nhướng cặp mắt lờ đờ nhìn học trò. cất tiếng cười ha hả, nói :
                            - Người sống trên đời, được một lần say, như lên thiên phủ. Đệ tử có thể theo ta lên trời, rong chơi một chuyến, được không ?
                            Động Tân cười, đáp :
                            - Sư phụ nói chơi rồi. Đệ tử mang xác phàm, nặng nề, làm sao có thể lên thiên đình ? Lên trời là điều đệ tử cầu mong chẳng được lẽ nào lại không tình nguyện ?
                            Chung Li Quyền hét lên :
                            Nói nhảm. Ngươi vốn là người trên trời, ngang ngạnh đòi xuống địa ngục thăm dò, còn nói những gì là tình nguyện lên trời với không tình nguyện.
                            Nói rồi, lại cất tiếng cười ha hả, rồi lắc đầu, nói :
                            - Cái cũi nhốt này thật đáng sợ, đáng sợ !
                            Vừa nói xong, đã ngáy vang lên, chìm vào giấc mộng.
                            Lã Động Tân từ khi thi đậu, đường công danh thuận lợi. Những việc phiền toái hàng ngày chẳng phải là không có, nhưng cũng may anh ta đang lúc tuổi trẻ, sức lực mạnh mẽ, lại tài cao, tất cả những vụ nghi án, oan uổng, hoặc những chuyện khó xử, một khi qua tay anh, đều được nhanh chóng giải quyết ổn thỏa. Thanh danh ngày một cao, dần dần anh cảm thấy lạc thú trong đời làm quan, rơi vào tình huống chìm đắm về đường công danh. Bà vợ là Hà thị, tài mạo hơn người, từ sau chồng ra làm quan, đã tự chọn cho chồng hai cô hầu thiếp, đều xinh đẹp, thanh nhã, thông minh hơn người. Lã Động Tân không khỏi quyến luyến với tình, thường khi trước mặt sư phụ tán dương vợ hiền, thiếp xinh. Chung Li Quyền chỉ mỉm cười, gật đầu, đã không ngăn cản, còn tránh làm học trò cụt hứng, chỉ nói một, hai câu khuyên can chiếu lệ mà thôi.
                            Đã có lúc Lã Động Tân bồn chồn, hỏi :
                            - Không phải sư phụ nghi ngờ đệ tử bất tiếu, vừa bước vào con đường làm quan, đã quên ngay bản lai diện mục, có ý bỏ rơi đệ tử mà đi đấy chứ ?
                            Chung Li Quyền cười, đáp :
                            - Không đâu, không đâu ! Tu đạo há ở chỗ lắm lời ? Đạo quí vô vi một khi đã phải giảng giải nhiều lời, không còn là đạo chân chính. Anh muốn ta bàn bạc những gì, mới vừa ý anh ?
                            Lã Động Tân không dám nói thêm, nhưng thường ngày tự để tâm khắc chế, chỉ sợ vạn nhất không cẩn thận, để dao động tâm chí bị ngoại vật dẫn dụ, lôi cuốn. Có biết đâu rằng vật dục cám dỗ con người, đều phải rình lúc người ta lơ là, mất tri giác mới ra tay  lôi kéo, chuyên hóa mỗi lúc một chút. Lã Động Tân là người có căn cơ thông minh tuyệt đỉnh, lập chí vững vàng, lại được tiên sư chỉ dẫn, giám sát hàng ngày, theo lý mà nói, anh ta phải mỗi ngày mỗi hướng về đại đạo. Nhưng công danh, thanh sắc, cùng với cảnh phồn hoa trên đời, vẫn có sức hấp dẫn rất mạnh. Chung Li Quyền ở địa vị làm thầy, đời trước lại là đệ tử của Động Tân, thì trách nhiệm về việc tu đạo của Động Tân, đặt tất cả trên vai Chung Li Quyền, làm sao ông ta có thể dễ dàng bỏ đi được ? Đành phải thừa cơ điểm hóa một phen, và nếu thuận tiện có thể khuyên anh ta bỏ quan, lui về lâm tuyền, đoạn tuyệt sắc dục, mới có thể tu thành đại đạo, không trái với lời ước hẹn hai kiếp. Vì thế, hôm nay ở bàn tiệc, ông ta đã cáo say, về phòng. Nếu Động Tân tới hỏi thăm, ta giả say nói vài lời phúng thích. Quả đúng như vậy, Động Tân là người có căn khí thâm hậu, vừa nghe thầy nói, như nhận một gậy lên đầu, lại như nghe tiếng chuông chùa, giữa đêm thanh vắng, liền tỉnh cơn mộng. Nhìn lại, đã thấy sư phụ chìm vào giấc ngủ say, tiếng ngáy như sấm, mùi rượu nồng nặc. Ngay cả đồ ăn thức uống ông thầy vừa nôn ọe vẫn còn xông lên mũi, chịu không nổi.
                            Với thân phận ông quan, kiêm công tử nhà đại gia, anh ta vẫn giả ngây, giả điếc, không biểu lộ điều gì bất mãn, trước mặt Chung Li Quyền ngủ say, anh ta chỉ khoanh tay, đứng nghiêm chỉnh bên cạnh giường, không dám rời xa một bước, cũng chẳng lên tiếng kêu gọi, đứng liền một lúc ba tiếng đồng hồ. Trong thời gian đó, cũng có nhiều người ra ra, vào vào, thấy công tử nhà mình, đứng như ngây như ngốc bên giưỏng sư phụ, cho là chuyện quái lạ, nhưng không dám hỏi một lời.
                            Trong đám gia nhân, có một vị lão quản gia, đã ba đời làm tôi tớ cho nhà họ Lã, nên trước mặt lão đại nhân cũng dám nói năng tự nhiên, không kiêng nể gì. Huống chi bên cạnh tiểu chủ, tất nhiên ông lão có quyền lực cao hơn. Nghe đám gia nhân báo cáo? ông lão sợ rằng có một nội tình gì đặc biệt, quan hệ tới tiền trình của tiểu chủ, ta phải tới tra xét thử xem sao. ông lại sợ cậu chủ đứng lâu mỏi chân, tê lưng, ngày mai làm sao giải quyết được việc công ? Vả lại, thường ngày ông thầy rất yêu quí, chăm sóc tiểu chủ, vì sao hôm nay ông ấy lại bày ra những trò này, bắt trò cưng phải lo lắng, thành khẩn giữ lễ ? Chẳng lẽ quả thật tiểu chủ đã có điều gì không phải với lão sư ? Nếu quả như vậy, ta phải lấy tư cách là lão quản gia, thay mặt tiểu chủ tạ tội cùng sư phụ. Suy đi nghĩ lại một hồi, ông lão mạnh dạn tiến vào phòng, len lén đập lên vạt áo tiểu chủ một cái. Động Tân nhẩy dựng lên, như tỉnh giấc mộng, sỗ sàng lên tiếng :
                            - Kẻ nào dám vô lễ như thế ?
                            Quay đầu nhìn lại, nhận ra lão quản gia, vội cười mơn, chắp tay vái, lên tiếng hỏi :
                            - Lão công công tới đây làm gì ?
                            Lão quản gia kể lại những suy nghĩ của mình, đem những điều hoài nghi hỏi han tiểu chủ, Động Tân bối rối, không biết đường nào trả lời. Quả thật tình huống của anh khiến người ta phải nghi ngờ, bàn tán, nhưng chính xác là anh chẳng có điều gì không phải đối với sư phụ, cũng không có điều gì yêu cầu tiên sinh. Nhưng trong thâm tâm anh nghĩ dường như đã xảy ra một sự việc trọng đại khác thường, phải đợi tiên sinh thức dậy, nói rõ cho biết, chứ chuyện này quyết không thể nói một hai câu mà xong, và cũng không nên nói với lão quản gia làm chi. Vì thế, anh ta ngần ngừ, rồi cười, nói :
                            - Lão công công đừng nên nghĩ bậy, đoán liều. Tôi có một vấn đề muốn thỉnh giáo tiên sinh, nhưng thấy tiên sinh say rượu, nằm nghỉ, lại không dám làm kinh động, nên tính đứng ở đầu giường, đợi ông tỉnh lại, nghĩ tình tôi thành tâm, mà chỉ bảo cho. Không dè làm phiền tới công công, vì tôi mà lo lắng. Công công đã tới đây, cũng là việc tốt. Nhờ công công thay mặt tôi nói với người dưới, bảo họ khiêng vào đây một cái giường. Tôi tính cùng sư phụ đàm đạo chuyện học vấn. Còn một điều này nữa : nếu lão đại nhân, thái phu nhân, cùng phu nhân có nhắc tới tôi, công công cũng bất tất phải đem tình hình này nói rõ cho họ biết, kẻo mọi người lại vì tôi mà lo nghĩ.
                            Lão quản gia nghe tiểu chủ nói vậy, tỏ ý thông cảm, gật đầu liền mấy cái, nói :
                            - Lão nô đã hiểu ý. Nhưng công tử cũng nên sớm sớm về phòng, chiếu theo lệ cũ, mỗi tối đều tới thỉnh an lão đại nhân và thái phu nhân, cùng phu nhân chuyện trò đằm thắm.
                            Động Tân nhất nhất đáp ứng. Lão quản gia vui vẻ ra đi. Đám gia nhân mau chóng tới quét dọn sạch sẽ chỗ thức ăn Chung Li Quyền ói ra, rồi khiêng vào một giường nằm, xếp đặt gọn ghẽ.
                            Động Tân bảo bọn họ ra đi, nếu không truyền gọi, bất tất phải vào. Gia nhân luôn miệng dạ dạ, rút lui.
                            Động Tân lại nhìn sư phụ, nhưng ông ta vẫn ngáy vang như sấm, ngủ rất say. Anh ta cất tiếng gọi khe khẽ, không nghe trả lời, mới than dài :
                            - Sư phụ là thần tiên chân chính, sao mới uống đã say, không biết trời trăng, lại ngủ mê mệt như thế ? Chắc là lão nhân gia yêu ta quá tha thiết, hy vọng ở ta quá nhiều, gần đây thấy ta quá thân cận với thê thiếp, sợ ta mê luyến nữ sắc, có chướng ngại tới việc tu đạo, nên mới giả say để thử lòng thành của ta, sau đó mới lại dùng lời lẽ thẳng thắn dạy dỗ ta. Nếu ta khinh mạn tiên sinh, ắt thầy coi ta là không đủ tư cách để gây dựng, sẽ bỏ ta mà đi. Ta biết tìm đâu ra một cao nhân như thế để làm sư phụ ?
                            Nghĩ vậy rồi, lại cung kính tới đứng ở chỗ đầu giường.
                            Nhìn sắc trời đã tối, lão quản gia hiểu ý tiểu chủ, bưng cơm tối tới, bầy ngay trong phòng. Động Tân ngồi ăn một mình, ăn vội ăn vàng cho no bụng, lại đứng hầu sư phụ như cũ. Nhìn lại, thấy Chung Li Quyền xoay mặt vào bên trong, vẫn ngáy ồ ồ, không có vẻ gì là sắp tỉnh dậy. Động Tân giữ ý, không dám trễ nải, lại khoanh tay đứng nghiêm.
                            Qua một giờ nữa, theo lệ cũ, đã tới lúc Động Tân phải đi ngủ, lão quản gia sợ tiểu chủ quên giờ giấc, sẽ chịu nhiều vất vả. Lại thấy ông thầy vẫn ngủ say như cũ, rất lấy làm lạ, ông lão nghĩ rằng những lời tiểu chủ không đúng tình thật, bên trong hẳn có ẩn tình gì đây. Vì thế, ông trở lại phòng, xin tiểu chủ đi ngủ. Chủ tớ còn đang tranh cãi đã thấy Chung Li Quyền xoay mình trở lại, miệng hô to :
                            - Ờ ờ từ nay trở đi, không còn đường sống !

                            #74
                              bevanng 22.07.2008 12:27:35 (permalink)
                              Hồi Thứ 82

                              Dùng cách mạnh bạo, điểm tỉnh đường mê
                              Chung Li Quyền giúp Động Tân nhập đạo.


                              Lã Động Tân nghiêm trang đứng hầu giấc ngủ của sư phụ, bỗng Chung Li Quyền thức dậy, hô to :
                              - Từ nay trở đi, không còn con đường sống !
                              Động Tân tâm cơ nhạy bén, nghe câu nói đó, như thể gáo nước lạnh dội lên lưng, như cây gậy phang lên đầu, vội bước lại gần, hạ thấp giọng, nói :
                              - Thưa sư phụ, đệ tử đang ở đây. Đệ tử ở đây, đứng hầu sư phụ đã lâu rồi.
                              Chung Li Quyền vặn mình ngồi dậy, hé mở hai mắt, nhìn ra bên ngoài, nói giọng ngạc nhiên :
                              - Sao ta ngủ một giấc lâu thế này. Trời tối mịt mất rồi ?
                              Lão quản gia tiến lại, nói :
                              - Lão sư gia ngủ một giấc say thật là say. Tiểu chủ chúng tôi nghiêm chỉnh đứng hầu cả nửa ngày trời, ngay cả ngồi nghỉ một lát cũng không dám. Hiện giờ đã sang canh hai, lão nô đặc biệt tới thăm hỏi tiểu chủ, mời cậu về giường đi nghỉ.  
                              Lã Động Tân nghe nói, tỏ vẻ sợ sệt, vội nói :
                              - Lão công công thỉnh an rồi đi đi, để tôi hầu chuyện sư phụ. Tôi cũng đã chợp mắt được một lát, chẳng phiền công công phải lo lắng.
                              Chung Li Quyền toét miệng ra cười, nói :
                              - Hôm nay, ta quấy rầy cha con anh quá đi mất. Ta thấy ê mình ê mẩy, gần đây tinh thần ngày càng sa sút. Anh coi đó, ta mới uống có hơn mười chén đã say bí tỉ, để phiền cho đệ tử phải cực khổ nửa ngày trời, thật không nên, không phải chút nào.
                              Động Tân sợ hãi, nói :
                              - Sư phụ nói vậy, đệ tử sao dám nhận ?
                              Quay đầu lại, thúc giục lão quản gia mau đi đi. Đám gia nhân lại tiến vào, dâng trà, nước, Chung Li Quyền bảo họ :
                              - Bụng ta đang óc ách, ăn uống gì cũng không vô, chỉ muốn ngủ thôi. Mọi người cũng nên đi ngủ đi, chẳng cần thức, nghe sai bảo.
                              Mọi người tuân lệnh, lui ra. Chung Li Quyền mới hỏi Động Tân:
                              - Đệ tử đứng ở đây, có ý gì ? Tại sao lại kê thêm một chiếc giường ? Chuẩn bị để thầy trò bàn luận suốt đêm sao ?
                              Động Tân nghe vậy, vội quì xuống, lạy dập đầu, nói:
                              - Thưa sư phụ, đệ tử đã hiểu thâm ý của thầy, tự biết mình không nên không phải, đã tham luyến thê thiếp, làm phiền tới sư phụ phải quan tâm, tội không thể tha. Nhưng đệ tử tự tin rằng chí hướng đặt ra trước đây, vẫn quyết tâm gìn giữ. Vật dục trên đời có hấp dẫn thế nào chăng nữa, đệ tử cũng quyết không để chúng dẫn dụ. Xin sư phụ yên tâm, đệ tử quyết không để phụ lòng sư phụ kỳ vọng, uổng công ơn thầy dạy dỗ. Xin sư phụ, trước sau như một, thương mà dạy cho.
                              Chung Li Quyền nghe vậy, cất tiếng than dài :
                              - Người ta ở đời không sợ thiếu hiểu biết, chỉ sợ hiểu biết không chân thật. Người không biết, gặp người hiểu biết chỉ dẫn, lập tức biết liền. Riêng có tự tin là hiểu biết, mà lại hiểu biết không chân thật, mới thật tai hại, mà suốt đời không có dịp tỉnh ngộ. Anh có căn cơ thâm hậu, thân phận cực cao, gặp những việc người khác không làm nổi, hoặc hiểu không rõ, anh đều giải quyết trong khoảnh khắc. Chính vì vậy, không khỏi nhiều khi tự tin thái quá. Tự tin là pháp môn đầu tiên trong việc nhập đạo. Người không tự tin, ai bảo sao cũng gật, không làm nên một việc gì, nói chi đến việc tu đạo . Nhưng quá tự tin dẫn đến quá khích, cuồng vọng, tệ nhất là học không thực tế, chỉ biết hời hợt bề ngoài, và rồi suốt đời không sửa đổi. Đại để những người thông minh thường hay mắc phải tật này. Như vừa rồi, anh nói tới quyết tâm,cũng là một dạng của quá tự tin vậy. Điều gì cũng nói quyết, quyết, mà có giải quyết được việc gì hay không. Lại thêm một điều, anh chỉ biết tham luyến thê thiếp, thì cũng là một bệnh gần đây anh thường mắc phải. Ngoài ra, còn có việc nhiệt tâm với công danh, cũng tai hại như hiếu sắc vậy. Nói thật cho anh biết, hôm nay ta làm cuộc thử thách này là muốn biết: trong chỗ sai lầm, anh có hiểu ra những tật bệnh mắc phải hay không, hay cứ một mực kiêu căng, cuồng vọng, hoàn toàn không biết suy nghĩ lại ? Đứng lâu nửa ngày trời, anh đã hiểu được cảm giác hốt hoảng, vội vã. Bằng không, ta có say rượu, ngủ li bì mười ngày, nửa tháng, cũng vất đi mà thôi. Hễ có cảm giác đó tức nhiên có thể hồi tâm, tự xét lại mình, có cơ hội chuyển hối, vội vã sửa đổi lỗi lầm.
                              Động Tân nghe xong, mồ hôi toát ra đầy mình, vội quì xuống, dập đầu lạy bôm bốp, khóc mà thưa:
                              - Đệ tử đã hiểu rõ, đệ tử đã hối ngộ. Những chuyện ngày trước, dứt bỏ từ hôm qua, những chuyện về sau, phát sinh từ hôm nay. Đệ tử đã hối tâm, tự xét lại mình, nhận thấy những việc làm gần đây có nguy cơ thâm nhập vào mê cảnh. Đệ tử đã không biết đó là nguy, còn dám ở trước mặt sư phụ mà khoe tài khoe giỏi, nên sự nguy hiểm càng tăng lên.
                              Chung Li Quyền bảo học trò đứng dậy, tới đứng hầu bên cạnh, nghiêm sắc mặt, nói :
                              - Anh thường nghi ngờ, cho ta là kim tiên trên trời, điều đó cũng đúng. Nhưng vì cơ hội chưa tới, còn nhiều mối tục duyên chưa kết liễu, nên nhất thời ta không thể nói ra. Tức như những việc anh làm, ta cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Anh có biết kiếp trước anh là ai hay không ? Nói thực cho anh biết, anh chính là Đông Hoa đại đế mà người đời thường kính lễ, còn ta chính là môn sinh của anh, tên gọi Chung Li Quyền, chuyên trách việc văn phòng, nên được người ta gọi là Văn Phòng tiên sinh. Anh ôm ấp hoằng nguyện phổ độ người đời, nên đã vâng chiếu chỉ Ngọc đế, xuống phàm trần một chuyến. Lúc anh ra đi, Ngọc đế dặn dò, trao cho anh sứ mạng trọng đại. Trách nhiệm càng cao, anh càng phải kiên tâm, khổ chí, thận trọng cố gắng, mới không uổng ước nguyện xuống trần, và không phụ lòng Ngọc đế ủy thác cho anh.
                              Động Tân nghe nói, sợ hãi vái một vái, nói:
                              - Đệ tử rất sợ phụ lòng sư phụ dạy dỗ, theo sát đệ tử từ bấy lâu đến nay, không biết sư phụ là đại la kim tiên chân chính, chuyên chăm lo cho đệ tử, từ khi xuống trần thế. Vì không rõ tiền nhân hậu quả từ kiếp trước đến kiếp này, không hiểu trách nhiệm mang theo bên mình trọng đại ra sao, nên trước nay đệ tử ở trước mặt sư phụ từng nói nhiều câu cuồng vọng. Nay nghĩ lại, mới biết rằng cần phải hồi tâm, tự xét, mới làm đầy đủ được bốn chữ "tận chức, tận tâm", và không uổng công xuống trần một chuyến. Thưa sư phụ, đệ tử hiện nay đã thật tình quyết tâm, tình nguyện rời xa gia đình, từ bỏ quan chức, để được thảnh thơi, tự do, tiêu dao khắp núi sông, đoàn luyện gân cốt, tăng trưởng học thức. Vài năm sau, nếu có chút thành tựu, lại cầu xin sư phụ truyền thụ đại đạo, sớm thành thần tiên, mới có thể cứu vớt người đời. Đệ tử còn có việc tư tình, chưa thể dứt bỏ. Mong sư phụ giúp đệ tử giải thoát.
                              Chung Li Quyền thấy Động Tân dễ dàng thấu triệt như thế, bất giác gật đầu tán thưởng, nói :
                              - Điều anh lo lắng hiện nay là song thân còn tại thế, nhất thời khó dứt bỏ. Muốn giải thích rõ ràng rồi mới đi, lại sợ không được chấp thuận, khó nỗi ra đi, có phải vậy không ?
                              - Sư phụ thật sáng suốt, hiểu rõ gan ruột đệ tử. Tâm tư đệ tử hiện nay, kể từ lúc giữa trưa đến giờ, đã đổi khác. Trước kia, đệ tử thường nghĩ tới công danh, lợi lộc, vợ đẹp, con khôn, nay những chuyện đó chẳng còn vương vấn trong lòng. Ngay cả thê thiếp, con cái cũng coi như người qua đường. Riêng có hai đấng sinh thành, gần đây không còn tráng kiện lắm, tinh thần ngày một sa sút, nếu đệ tử bỏ nhà đi xa, hai vị vừa tức giận vừa đau khổ, lập tức trở bệnh nặng, biết làm sao đây ?
                              Chung Li Quyền cười, nói :
                              - Đương sơ, chẳng phải anh đã từng nói rằng muốn hóa độ người đời, phải bắt đầu từ cha mẹ, vợ con hay sao ? Sao nay lại nghĩ tới chuyện bỏ rơi cha mẹ ? Ta cũng có nói với anh, tiên đạo không ngoài nhân tình, muốn thành tiên mà không hiếu kính cha mẹ, từ ái với vợ con, sẽ thành kẻ nhẫn tâm nhất trong thiên hạ, làm sao nhập đạo được ?
                              Động Tân nghe vậy, tỏ vẻ bồn chồn, nóng vội :
                              - Những lời sư phụ dạy bảo, đệ tử luôn ghi nhớ từng câu trong lòng. Việc hôm nay quả thật khó vẹn toàn hai bề. Đệ tử không chút đạo hạnh, làm sao cảm hóa người khác ? Quả thật vô cùng khó khăn cho đệ tử.
                              Chung Li Quyền cười lớn tiếng :
                              - Anh tự biết mình không có bản lãnh, tính nhờ người khác giúp đỡ đấy ư ?
                              Động Tân lập tức quì dài, dập đầu lạy, nói :
                              - Đệ tử đã quyết tâm xuất gia, quyết không đổi ý nữa. Sư phụ đã nói vậy, đệ tử xin thành khẩn đem chuyện này làm phiền tới sư phụ.
                              Chung Li Quyền lại cười, nói :
                              - Thôi thôi, nói qua nói lại chỉ mang tiếng lắm điều. Ta đã lỡ nói, đành chịu, phải tìm cách giúp anh một phen vậy. Giao tình thế tục của chúng ta nên chấm dứt ở đây. Sau này có gặp lại, chỉ nên coi là thầy trò ở một kiếp xa xôi nào thôi.
                              Động Tân hiểu ra, mừng rỡ lạy tạ, hỏi :
                              - Đệ tử quyết định sáng sớm mai rời nhà. Theo ý sư phụ, đệ tử nên đi theo con đường nào ?
                              Chung Li Quyền suy nghĩ hồi lâu, mới nói :
                              - Anh đã ôm ấp hoằng nguyện, lại có căn cơ vững vàng, đi đâu mà chẳng được ? Nhưng hiện giờ, anh phải lên Lư Sơn một chuyến. Hiện có một vị thần tiên, đang ở trong động Ngọc Ốc trên núi, đợi anh để truyền thụ Thiên độn kiếm pháp. Anh học được kiếm pháp đó cũng như trong tay có thanh kiếm vô hình, lợi hại hơn tất cả các vũ khí khác. Vậy anh phải chuyên tâm học tập trong ba năm cho thành thục. Trong nửa năm, có thể tịch cốc, hai năm sau có thể đằng vân giá vụ, vời thần khiển tướng. Mãn kỳ hạn ba năm, anh hãy tới bờ sông Tương Giang đợi ta. Chúng ta sẽ cùng tới độ thoát cho một vật hữu duyên, và lúc đó ta lại truyền thụ cho anh một số kiến thức vừa tinh vừa sâu.
                              Nói rồi, lại lấy ra một chiếc áo đạo, tự tay khoác lên mình Động Tân, dặn bảo :
                              - Đừng xem thường chiếc áo này, có tên là "Hỗn nguyên bát quái bào", nước lửa không thể lại gần, binh đao không thể xâm phạm, trời lạnh đem lại hơi ấm, trời nóng đem tới gió mát. Thường thường khoác lên mình, chẳng cần quần áo nào khác, những loài yêu quái tránh xa, chẳng dám tìm tới gây chuyện. Đại phàm những người tu đạo, đến đâu cũng là nhà, dù nơi núi hoang, miếu cổ, hay chỗ bờ sông, vách núi, tất cả đều là vườn nhà trời ban cho ta. Vả lại, điều yêu cầu thứ nhất của người xuất gia là biết chịu khổ. Nhưng anh là người sẵn có căn cơ, thì những cảnh nhịn đói nhịn khát, thiếu ăn mất ngủ, đội gió nằm sương, thời thường chưa tập quen bao giờ, đối với anh lại là tiện nghi.
                              - Đệ tử đã hiểu, xin thầy yên tâm.
                              - Còn một việc này, là một trò chơi ta dạy cho anh, vừa tiện lợi cho anh, vừa có thể giúp đời.
                              Chung Li Quyền nói xong, liền dạy cho Động Tân phép điểm đá hóa bạc, điểm sắt thành vàng. Động Tân vội hỏi :
                              - Thưa sư phụ, những vàng bạc biến ra này, có thể vĩnh viễn không biến thành nguyên chất hay không ?
                              Đại khái có thể giữ được năm trăm năm, năm trăm năm sau mới trở về nguyên chất.
                              Động Tân giẫy nẩy lên :
                              - Nếu vậy, đệ tử không chịu dùng phép này, để tránh gây hại cho người của năm trăm năm sau.
                              Chung Li Quyền nghe vậy, bất giác gật đầu, tán thưởng :
                              - Điều đó ngay cả ta cũng không nghĩ tới, chỉ thấy trước mắt là học được phép này, thì có phương tiện để cứu giúp những người cùng khổ, cũng kể như một thiện quả rất lớn, một tâm thuật rất tốt, ai hơi đâu mà để ý tới người của năm trăm năm sau nắm trong tay khối vàng bạc này, bỗng nhiên biến trở lại thành đá và sắt . Chẳng những là ta, ngay cả vô số các vị thần tiên, cũng chẳng ai nghĩ tới tình huống này, ai ngờ lại bị một kẻ sơ học như anh điểm tỉnh. Có thể nói anh đã phát hiện ra những điều mà cổ nhân chưa phát hiện, cả chính đa số các vị thần tiên chỉ biết chuyện trước mắt, không kể tới chuyện tương lai. Chỉ một lời nói đó cũng đủ tạo nên năm trăm năm công hạnh. Giỏi lắm, giỏi lắm. Đáng kính, đáng phục.
                              Nói rồi, vỗ lên vai Động Tân, vui vẻ nói :
                              - Cậu bé này có trí tuệ rất tốt, kiến thức rất rộng, một ngàn năm sau, ắt thành lãnh tụ quần tiên, tiền trình rộng lớn, biết đâu mà lường. Gắng lên, gắng lên, đừng để uổng công phí tư chất tốt đẹp trời ban cho!
                              Động Tân được khen, có phần áy náy, không yên :
                              - Sư phụ quá khen, đệ tử làm sao dám nhận ? Đệ tử chỉ cầu mong sớm thành chính giác, tùy cơ khuyến hóa người đời, là đủ mãn nguyện. Còn tiền trình của bản thân, sao dám mơ tưởng ?
                              Hai thầy trò nói chuyện với nhau cho tới khi trời rạng sáng. Động Tân không dám nấn ná thêm, bái biệt sư phụ. Anh vừa tính cất bước, Chung Li Quyền nói :
                              - Hiện nay, cửa đang đóng mấy lớp, làm sao anh ra ngoài được? Đợi chút, để ta tiễn anh một quãng.
                              Nói rồi, cầm tay Động Tân lôi đi, ra ngoài cửa phòng. Bên ngoài là một mảnh sân nho nhỏ, ở giữa căn nhà. Ngước nhìn lên trời, ánh trăng mờ mờ, những đám mây đen bay qua, bay lại, làn gió sớm nổi lên, những lá cây ngô đồng kêu xào xạc, và trên những cành cây, mấy con chim vừa kiếm ăn trở về, cất tiếng kêu lao xao. Động Tân xúc động, nói giọng buồn bã :
                              - Thưa sư phụ, người tham tiền mà chết, chim tham ăn phải tiêu vong. Người ta sống trên đời, tại sao phải chìm đắm trong thế tình, dục vọng, vướng mắc trong vòng danh lợi, có khác chi mấy con chim vất vả đi kiếm ăn suốt đêm ? Nhìn cảnh này, đệ tử càng thêm buồn bã, lo lắng, không biết làm cách gì để cứu giúp cho tất cả người đời khỏi vất vả.
                              - Phật Như Lai có nói : "Ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục đây ?” , Đệ tử ơi ! Anh có tấm lòng như thế, đừng tự hỏi mai sau có làm được hay không làm được, mà hãy cố gắng, làm hết sức mình. Đạo trời rất công bằng, lòng trời rất nhân ái, người có thiện niệm, trời cũng nghe theo. Hãy bắt tay vào việc, thẳng đường trước mà đi. Tận tâm tận lực, còn chuyện tương lai, để tương lai trả lời. Tạm biệt Động Tân, làm việc cho tốt, đừng quên ước hẹn ba năm sau gặp lại trên bờ sông Tương.
                              Chung Li Quyền nói rồi, đưa tay lên không trung, vẫy một cái. Tức thì, nghe nơi cuối trời có tiếng chim kêu lanh lảnh. Động Tân kinh ngạc đứng ngó, đã thấy một con hạc trắng từ trên cao bay xuống, lượn quanh rừng cây ba vòng. Chung Li Quyền thét mắng :
                              - Nghiệt súc sao dám đùa giỡn, bỏ bê việc công ? Còn không mau tới đây, đưa sư huynh của ngươi ra khỏi nhà ?
                              Chim hạc nghe vậy, lập tức bay là là, đáp xuống. Vừa tới mặt đất, liền biến ra một đồng tử, mày thanh mắt sáng, môi đỏ răng trắng, coi rất dễ thương. Nó hướng về phía Động Tân, cúi đầu chào, hỏi :
                              - Thưa sư phụ, vị sư huynh nào đây ?
                              Đó là Lã sư huynh. Anh ấy đang cần tới địa giới Nam Xương, ngươi có thể đưa anh ấy tới bờ sông ở Giang Bắc, rồi để anh tự đi lấy.
                              Động Tân nhìn đồng tử, chắp tay vái, đồng tử cũng đáp lễ trả lại. Lúc đó, Động Tân còn quyến luyến, không nỡ rời xa, nắm lấy tay sư phụ mà thổn thức, chợt nghe Chung Li Quyền hét lên :
                              - Đã quyết chí tu đạo, sao còn nặng lòng trần ? Mau đi đi !
                              Nói rồi, đưa tay đập lên trán Động Tân một cái. Động Tân kinh hãi, vội nhắm mắt lại. Chừng mở mắt ra đã thấy thân mình lơ lửng trên chín tầng mây. Không hiểu mình leo lên lưng đồng tử bằng cách nào, cũng không biết đồng tử biến trở lại thành chim hạc từ bao giờ.

                              #75
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 7 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 93 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9