Nhạc Cụ Dân Tộc
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 7 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 100 bài trong đề mục
mickey 01.07.2005 08:16:56 (permalink)
Pí Tam Lay


Pí Tam Lay là nhạc cụ dành riêng cho trẻ em trǎn trâu và cho nam giới sử dụng khi canh lúa ở ngoài ruộng, nương của dân tộc Thái.

Pí Tam Lay là nhạc cụ họ hơi, chi lưỡi gà có cấu tạo là 3 ống nứa tép nối lồng vào nhau, tổng chiều dài chừng 70 - 80 cm, đường kính từ 0,8 - 1 cm. ống trên cùng nhỏ nhất và có mấu kín, ngay sát mấu người ta tách từ thân ống một mảnh hình chữ nhật có kích thước 1,5 x 0,5 cm, một cạnh nhỏ vẫn dính vào thân ống, mảnh tách này chính là lưỡi gà. Pí Tam Lay có 3 lỗ bấm, lỗ bấm thứ nhất cách đáy lưỡi gà một "đơn vị đo" là hai ngón tay, lỗ bấm thứ 2, 3 gần nhau trên thân ống cuối cùng.

Mầu âm của Pí Tam Lay trầm ấm có tiếng rè độc đáo. Khi chơi người ta kết hợp úp mở phía không có mấu của ống tre vào bắp chân tạo hiệu quả láy rền, tiếng vang xa, âm sắc đục nhòe.

Là nhạc cụ độc đáo mà trẻ em và thanh niên Thái ưa thích, được dùng trong sinh hoạt vui chơi giải trí. Pí Tam Lay là nhạc cụ kiêng không dùng trong làng, bản. Có một số nơi mê tín cho rằng thổi Pí Tam Lay tức là cầu mưa cho nên thời gian nào ruộng nương đủ nước hoặc sắp gặt hái thì kiêng không được thổi.




[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/CE48E0D779274801BE3FDFC903152DD1.jpg[/image]
Attached Image(s)
#61
    mickey 01.07.2005 08:17:55 (permalink)
    Kèn Xaranai

    Kèn Xaranai là nhạc cụ định âm duy nhất trong các nhạc cụ khác nhau của dân tộc Chǎm. Xaranai thuộc họ hơi chi dǎm kép. Loa kèn thân tròn, hơi bầu ở giữa, loe ở đầu, dài khoảng 10 - 11 cm, làm bằng ngà voi, sừng trâu hoặc gỗ quí (trắc, cẩm lai).Thân kèn là một ống rỗng ruột làm bằng gỗ quí (lim xanh, mun), dài 20 - 21 cm lớn dần về phía tiếp giáp với loa kèn. Thân kèn có 8 lỗ bấm,7 lỗ bấm trên cách đều nhau khoảng 2 cm (lỗ số 1 kể từ loa kèn trở xuống),1 lỗ bấm dưới (nằm giữa lỗ 6 và 7, sát phần tiếp giáp với cọc dǎm). Cọc dǎm dài 6 cm, làm bằng bạc hoặc đồng thau uốn thành hình tổ sâu. Phần lớn cắm vào thân kèn, phần nhỏ dùng để gắn dǎm kèn. Dǎm kèn (lưỡi gà) làm bằng lá nón hoặc lá buông.

    Kèn Xaranai có các âm: Đô - Mi - Fa - Sol - La - Si. Khi thổi kèn Xaranai người thổi không được ngắt hơi. Để đạt được kỹ thuật này người ta ứng dụng cách luồn hơi (dùng một phần hơi nhỏ ở khoang miệng đẩy vào dǎm kèn, cùng lúc lấy hơi đằng mũi chứa đầy phổi). Kèn Xaranai có vai trò lớn trong dàn nhạc truyền thống của người Chǎm vì âm thanh của kèn vang, khoẻ và thường đi giai điệu khi hòa tấu.



    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/27C47D8411064EF3B7982091BE7B1DAF.jpg[/image]
    Attached Image(s)
    #62
      mickey 01.07.2005 08:18:48 (permalink)
      Xi-u

      Xi-u là nhạc cụ họ hơi, chi dǎm kép của dân tộc H'mông, một dân tộc sống ở vùng núi phía Bắc Việt Nam.

      Xi-u gồm 4 bộ phận: Thân kèn, loa kèn, cọc dǎm và dǎm. Thân kèn là một ống rỗng hình trụ làm bằng gỗ cứng dài khoảng 25 cm. Trên thân ống có khoét 8 lỗ bấm hình tròn, một lỗ phía sau ngay gần cọc dǎm, 7 lỗ phía trước được bố trí với khoảng cách gần như đều nhau tạo thành một hàng dọc. Loa kèn bằng đồng mỏng hình chóp. Cọc dǎm cuốn bằng kim loại. Dǎm làm bằng lông ngỗng.

      Khi thổi Xi-u phải ngậm gần hết phần dǎm, rồi lấy hơi đằmg mũi, đẩy hơi ra đằng miệng tác động vào dǎm kèn. Bằng cách luồn hơi liên tục như vậy các nghệ nhân có thể thổi hàng giờ mà không cần ngắt hơi.

      Âm vực của Xi-u rộng 2 quãng 8 là các âm: Đồ (đúng) - Rê (non) - Mi (non) - Fa ( già) - Sol (đúng) -La (non) - Si (non) - Đô (đúng).

      Xi-u có các ngón kỹ thuật thổi như ngón láy, ngón vuốt, ngón rung vỗ, khi diễn tấu tuỳ theo tính chất từng bài mà người ta áp dụng các kỹ thuật trên.

      Xi-u là nhạc cụ do nam giới sử dụng để hoà tấu với các nhạc cụ khác trong các nghi lễ phong tục của đồng bào dân tộc H'mông.



      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/10A9D8591E7D42B69CCD9369C85565A8.jpg[/image]
      Attached Image(s)
      #63
        mickey 01.07.2005 08:19:51 (permalink)
        Pí Sên

        Pí Sên là nhạc cụ họ hơi, chi lưỡi gà rung tự do của dân tộc Thái - tỉnh Sơn La. Pí Sên được làm từ 1 ống nứa có chiều dài 71 cm, đường kính khoảng 1,5 - 2 cm, một đầu có mấu kín. Ngay sát mấu có một lỗ hình chữ nhật kích thước 1 cm x 2 cm là nơi đặt lưỡi gà đồng. Lưỡi gà hình tam giác cân được cắt rời 2 cạnh bên để dính lại phần đồng ở cạnh đáy. Trên thân ống có 7 lỗ bấm. Lỗ bấm thứ nhất ở mặt sau thân ống cách chỗ thổi là 27cm, lỗ thứ 2 ở mặt trước cách lỗ thứ nhất 3cm, 5 lỗ còn lại nằm thẳng hàng với lỗ thứ hai và cách đều nhau (3cm), riêng lỗ 4 và 5 cách nhau 6 cm. ở quãng giữa lưỡi gà và lỗ bấm thứ hai người ta khoét thêm một lỗ rồi lấy màng mỏng của ruột nứa hay vỏ trứng nhện phủ lên, khi thổi màng này rung lên tạo âm sắc rè.

        Pí Sên có hàng âm như sau : Sol, Si, Rêb1, Mi1, Fa1, Sol1, La1, Si1. Khi thổi Pí Sên, người thổi đặt Pí sang phải hơi chéo xuống, miệng ngậm hết phần lưỡi gà rồi thổi truyền hơi ra liên tục làm sao cho tiếng Pí không ngắt khi thổi.

        Pí Sên có các ngón kỹ thuật : Rung hơi, luyến hơi và láy rền.

        Âm thanh của Pí Sên trầm đục và rè, có mầu sắc huyền bí.

        Thuở xưa Pí Sên là nhạc cụ của các thầy mo chỉ dùng đệm cho hát khi hành lễ. Ngày nay người Thái đã dùng Pí Sên như một nhạc cụ trong sinh hoạt đời thường.



        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/483422C41402401796AEF6102A500D7B.jpg[/image]
        Attached Image(s)
        #64
          mickey 01.07.2005 08:20:50 (permalink)
          Ala

          Bahnar là một dân tộc lớn ở Tây Nguyên, cư trú tập trung ở hai tỉnh Gia Lai và KonTum, có số dân đứng thứ 3 sau các dân tộc Giarai và Êđê. Người Bahnar rất yêu âm nhạc và nhảy múa. Trong nhiều nhạc cụ còn dùng trong sinh hoạt thì sáo Ala rất được yêu thích.

          Sáo Ala là nhạc cụ họ hơi, chi lưỡi gà. Thân sáo Ala là một ống nứa dài khoảng từ 30 - 40 cm, đường kính khoảng 1,5 cm, thông hai đầu. ở gần đầu ống có một lỗ hình chữ nhật dài khoảng 4 cm, rộng xấp xỉ 1,5 cm đó là nơi đặt lưỡi gà, lưỡi gà làm bằng tre. Theo cuốn "Nhạc khí truyền thống Việt Nam" của tác giả Lê Huy thì lưỡi gà còn được làm bằng đồng. Chỗ đặt lưỡi gà là miếng thổi đắp bằng sáp ong hoặc nhựa cây cao hơn mặt ống 2 cm.

          Sáo Ala có 3 lỗ bấm. Khi thổi người ta ngậm toàn bộ miếng thổi, hơi từ miệng thổi ra sẽ làm rung lưỡi gà, làm chuyển động cột không khí trong ống và thoát ra âm thanh. Người ta dùng ngón trỏ, giữa, ngón áp út của bàn tay phải bịt, mở các lỗ bấm cùng với ngón cái ở bàn tay trái bịt một phần đầu ống tạo âm vuốt lướt cho các giai điệu bài sáo.

          Sau đây là hàng âm sáo ALa : Đô2 - Rê2 - Fa#2 - Sol2 - Đô2

          Theo tác giả Đào Huy Quyền (Cuốn nhạc khí dân tộc Giarai và Bahnar) nếu biết cách thổi sẽ được một âm trầm thấp hơn nốt trầm nhất là C (đô) một quãng 8. ở giữa 2 âm này là một khoảng trống. Theo ông hàng âm có được là: Đô - Đô1 - Rê1 - Fa#1 - Sol1 - La1.

          Tiếng sáo Ala ấm áp, mơ màng khi thực khi ảo nghe rất hấp dẫn. Vào những lúc nghỉ ngơi, sau một ngày lao động vất vả, Ala là tiếng nói tâm tình, cởi mở của các chàng trai Bahnar. Và cũng chỉ có các chàng trai ấy mới được quyền thổi cây sáo quyến rũ này.



          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/E292257EB77A45C99C641D7D6080B72C.jpg[/image]
          Attached Image(s)
          #65
            mickey 01.07.2005 08:22:42 (permalink)
            Kèn Bầu

            Kèn Bầu còn có tên gọi khác là Già nam, Kèn loa, Kèn bóp, Kèn bát là nhạc khí hơi dǎm kép của dân tộc Việt. Kèn có 3 loại : Kèn tiểu (giọng C hoặc D), Kèn trung (giọng G hoặc A), Kèn đại (giọng E0 hoặc F).

            Cấu tạo của kèn được chia ra làm 4 phần : ống kèn, dǎm, cọc dǎm và loa kèn.

            - ống kèn (hay còn gọi là thân kèn) là một ống rỗng lòng bằng gỗ cứng hình trụ, đường kính trên hẹp hơn đường kính dưới. Trên ống kèn có 7 lỗ bấm phía trước, một lỗ bấm phía sau sát đầu ống. Bảy lỗ bấm phía trước được bố trí với những khoảng cách đều nhau.

            - Dǎm kèn : Là loại dǎm kép, làm bằng ống sậy hoặc tổ sâu, một đầu được bóp bẹp.

            - Cọc dǎm hay còn gọi là thắng kèn là một ống kim loại để nối liền dǎm kèn với thân kèn.

            - Loa kèn : Hình chóp, làm bằng vỏ quả bầu hoặc bằng gỗ tiện hay cuốn bằng đồng lá.

            Âm thanh kèn Bầu khoẻ, vang, hơi chói. Khoảng cách các lỗ bấm đều nhau đã tạo ra các âm gần với thang âm bẩy bậc chia đều. Ví dụ thang âm của Kèn tiểu: Đồ (đúng) - Rê (non) - Mi (non) - Fa (già) -Sol (đúng) - La (non) - Si (non) - Đồ (đúng).

            Kèn Bầu là nhạc cụ không thể thiếu của các dàn nhạc: Nhã nhạc, Đại nhạc, Lễ nhạc, Huyền nhạc và đặc biệt là dàn nhạc Tuồng. Ngày nay Kèn Bầu đã tham gia trong dàn hòa tấu nhạc dân tộc tổng hợp, hoặc được dùng như một nhạc cụ độc tấu.



            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/9863334CF28347A0A971FB265B923278.jpeg[/image]
            Attached Image(s)
            #66
              mickey 01.07.2005 08:24:05 (permalink)
              Khèn Bè (Kén Pé)

              Khèn Bè là nhạc cụ họ hơi chi lưỡi gà của dân tộc Thái Việt Nam. Khèn Bè có tên Thái là Kén Pé hoặc Pí Pe.

              Khèn Bè có 14 ống nứa tép, đường kính ống khoảng 1 cm, mỗi ống có cài một lưỡi gà đồng (hay bạc). Trên thực tế chỉ có 13 ống phát ra âm thanh, ống còn lại được xếp theo hàng cho chiếc

              Khèn Bè được cân đối. Người ta ghép các ống cạnh nhau theo hai hàng, mỗi hàng 7 ống, độ dài ngắn của mỗi cặp ống đều bằng nhau (từ 61 - 93 cm), đây chỉ là chiều dài hình thức, chiều dài thực tế để tạo âm được khoét một lỗ trên thân ống phía mặt trong hai ống úp vào nhau.

              Ngay phía trên gần nơi đặt lưỡi gà, người ta khoét các lỗ bấm ở phía mặt ngoài của ống khèn. Muốn có âm thanh của một ống người ra phải bịt lỗ bấm này, tạo áp lực làm rung lưỡi gà. Bầu khèn được gọt từ loại gỗ nhẹ, dẻo có thớ vặn để khó nứt. Phần có lưỡi gà của các ống được giấu trong bầu khèn. Sau khi xuyên các ống qua bầu khèn, người ta lấy sáp ong đen miết kín các kẽ hở giữa ống khèn và bầu khèn.

              Khèn bè là nhạc cụ hơi đa thanh, âm vực rộng gần 2 quãng 8. Hàng âm của Khèn Bè như sau : La1, Đô, Rê, Fa, Sol, La, Đô1, Rê1, Fa1, Sol1.

              Khèn Bè được thổi bằng cả 2 chiều: hít vào, thở ra. Kỹ thuật diễn tấu của Khèn Bè có các ngón vê, ngón láy rền tạo hiệu quả âm thanh giòn, rè và mảnh, các kỹ thuật thổi chồng âm dùng âm trì tục cho nhịp điệu khèn nhịp nhàng tươi vui, đầy đặn, có chiều dày, là nhạc cụ thuận tiện cho việc diễn tấu những bản nhạc đa thanh.

              Khèn Bè Thái là nhạc cụ của nam giới, dùng trong sinh hoạt vui chơi giải trí, thường để đệm cho hát, múa trong những đêm trǎng sáng. Đêm đêm các chàng trai đến dưới nhà sàn của các cô gái thổi Khèn Bè để giãi bày tâm sự. Cũng có khi Khèn Bè được sử dụng trong lao động như trên đường đi làm nương rẫy. Có thể nói Khèn Bè là nhạc cụ đa âm có tính chuyên nghiệp cao trong âm nhạc dân tộc Thái.



              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/FF4BDE482DB44B8F9944095B0D9AF65E.jpg[/image]
              Attached Image(s)
              #67
                mickey 01.07.2005 08:25:29 (permalink)
                Klon-Pút

                Klon-Pút là nhạc cụ họ hơi, chi hơi vỗ của người Xê Đǎng. Đàn gồm nhiều ống bằng nứa, mỗi ống là một âm. Các ống đàn được xếp thứ tự từ thấp lên cao trên một giá đỡ bằng tre rất thô sơ.

                Khi chế tác các ống đàn, người ta đục thông các dóng ống. Đàn có 11 ống: ống 1 (tính từ trái sang phải) dài 2m40cm, ống 2 dài 2m30cm, ống 3 dài 1m70cm, ống 4 dài 1m30cm, ống 5 dài 2m20cm, ống 6 dài 0,80 m, ống 7 dài 60 cm, ống 8 dài 50 cm, ống 9 dài 40 cm, ống 10 dài 30 cm, ống 11 dài 24 cm.

                Trật tự âm thanh được sắp xếp như sau : Đô (ống 1) - Rê (ống 2) - Sol (ống 3) - La (ống 4) - Rê1 (ống 5) - Sol1 (ống 6) -Đô2 (ống 7) - Rê2 (ống 8) - Sol2 (ống 9) - Đô3 (ống 10) - Rê3 (ống 11).

                Theo cuốn "Nhạc cụ dân tộc thiểu số Việt Nam" của giáo sư - tiến sĩ khoa học Tô Ngọc Thanh thì người Xê Đǎng từ xa xưa có một loại Klon-Pút chỉ có 5 ống nứa loại lớn. Đường kính các ống từ 5 - 8 cm, dài nhất từ 110 cm đến 120 cm. Giáo sư Tô Ngọc Thanh cho rằng đàn làm bằng ống nứa sẽ trong và cao hơn làm bằng tre. Khi chơi đàn, các cô gái đứng khom người. Hai bàn tay khum lại, vỗ vào nhau làm chuyển động cột không khí trong ống và tạo ra âm thanh.

                Klon-Pút là nhạc cụ chỉ dành cho nữ giới. Tại sao vậy? lý do này có liên quan đến truyền thuyết mẹ lúa. Theo truyền thuyết thì mỗi một ống tre, hay nứa đều có linh hồn mẹ lúa trú ngụ. Nếu như đánh Klon-Pút vào mùa tra hạt thì mẹ lúa sẽ về ở đó và bảo trợ cho thóc gạo trong kho. Vì vậy nếu như nam giới mà vỗ đàn Klon-Pút thì mẹ lúa sẽ sợ hãi mà đi mất.

                Tương tự như đàn Klon-Pút, người Xê đǎng có Đinh - Pút, người Bahnar có Đing - Pol, nhưng Klon -Pút của dân tộc Xê - Đǎng khác biệt hẳn với Klon -Pút của các dân tộc khác là đàn có thể giành cho nhiều người chơi cùng một lúc. Họ chơi theo kiểu bè tòng hoặc một bè nền kéo dài trong khi bè giai điệu chạy ở phía trên hoặc ngược lại.

                Vào những đêm trǎng sáng những ngày lễ hội, từ bàn tay tài hoa của những cô gái Xê - Đǎng, tiếng Klon-Pút vang lên làm rộn vui buôn rẫy.



                [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/736D10A9BC614BEA9AAE13EA14438983.jpg[/image]
                Attached Image(s)
                #68
                  mickey 01.07.2005 08:26:43 (permalink)
                  Pí Lè

                  Pí Lè là nhạc cụ thuộc họ hơi, chi dǎm kép, của dân tộc Thái ở huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.

                  Pí Lè có 4 bộ phận : Thân kèn, loa kèn, cọc dǎm và dǎm. Thân kèn là một ống rỗng hình trụ dài khoảng 30 cm, làm bằng gỗ cứng, trên thân ống có khoét 8 lỗ bấm hình tròn, 7 lỗ phía trước được bố trí với những khoảng cách gần như đều nhau tạo thành một hàng dọc, lỗ thứ 8 ở phía sau ngay gần cọc dǎm. Loa kèn làm bằng gỗ đẽo mỏng hình chóp cụt, đầu nhỏ của loa nối liền với ống kèn. Phần đầu nhỏ của ống kèn, người ta gắn một cọc cắm dǎm. Dǎm làm bằng ống sậy, hoặc làm bằng tổ sâu cắm vào cọc dǎm.

                  Âm vực của Pí Lè rộng 2 quãng 8 là các âm Đồ (đúng) - Rê (non) - Mi (non) - Fa (già) -Sol (đúng) - La ( non) - Si (non) - Đố (đúng).

                  Người ta thổi Pí Lè bằng cách ngậm gần hết phần dǎm, rồi lấy hơi đằng mũi, đẩy hơi ra miệng tác động vào dǎm kèn. Bằng cách luồn hơi liên tục như vậy, các nghệ nhân có thể thổi hàng giờ, không cần ngắt hơi. Khi diễn tấu tùy từng bài mà người ta áp dụng các kỹ thuật rung hơi, đánh lưỡi, vuốt hơi. Các ngón bấm như ngón láy, ngón vuốt, ngón rung vỗ.

                  Pí Lè là nhạc cụ dùng trong dàn nhạc nghi lễ phong tục của đồng bào Thái, do nam giới sử dụng. Đặc biệt Pí Lè được dùng nhiều nhất trong nhạc tang lễ. Hòa tấu với Pí Lè còn có chũm choẹ , thanh la to, thanh la nhỏ và trống. Tiếng Pí Lè không thể thiếu được trong các nghi lễ phong tục mang tính chất trang nghiêm và thiêng liêng của người Thái.



                  [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/AE9DE9DE56B34B30BA390AC289ECE995.jpg[/image]
                  Attached Image(s)
                  #69
                    mickey 01.07.2005 08:27:49 (permalink)
                    Pí Pặp

                    Pí Pặp là nhạc cụ họ hơi, chi lưỡi gà. Đây là nhạc cụ rất phổ biến ở đồng bào dân tộc Thái, đặc biệt là Thái Tây Bắc.

                    Thân Pí Pặp là một ống nứa tép dài khoảng 30 - 35 cm, một đầu có mấu kín. Đường kính ống chừng 0,8 cm. Ngay xát mấu người ta khoét một lỗ hình chữ nhật kích thước 0,4 cm x 1,5 cm để đặt lưỡi gà đồng (lưỡi gà hình tam giác cân được cắt rời hai cạnh bên để dính lại phần đồng ở cạnh đáy). Trên thân ống có khoét 6 lỗ bấm, lỗ bấm trên cùng nằm ở mặt sau thân ống còn 5 lỗ tiếp theo nằm thẳng hàng với lưỡi gà. Mặc dù Pí Pặp có 6 lỗ bấm nhưng người ta chỉ bấm 5 lỗ. Mở dần các ngón ở 5 lỗ bấm ta sẽ có các âm : Si, Rê1, Fa1, Sol1, La1. Lỗ cuối cùng không bấm là lỗ thoát âm.

                    Khi thổi Pí Pặp, Thân Pí đặt ngang sang phải hơi chếch xuống, miệng ngậm kín phần ống có gắn lưỡi gà. Người thổi Pí Pặp thường thổi hơi luồn liên tục. Pí Pặp cũng có các kỹ thuật : Rung, luyến, láy, đánh lưỡi, nhấn hơi, vuốt hơi, nén hơi.
                    Âm thanh của Pí Pặp ấm nhưng rè, có pha chất âm bồi, tiếng trong, trữ tình giống như giọng hát của các cô gái.

                    Pí Pặp là nhạc cụ dùng trong sinh hoạt giao duyên. Nam giới sử dụng Pí đệm cho nữ giới hát. Cách đệm tòng rất giản đơn: những khi người hát ngưng nghỉ, người đệm Pí Pặp lấy giai điệu hát làm gian tấu. Tuy nhiên giai điệu này đã được người chơi ngẫu hứng biến tấu đi nhiều so với giai điệu hát. Chàng trai nào biến tấu càng giỏi thì sức hấp dẫn với bạn hát càng cao. Chính vì vậy mà Pí Pặp rất được trai gái dân tộc Thái yêu thích



                    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/97E93FD141E342E186FA3D1F85D7AC5B.jpg[/image]
                    Attached Image(s)
                    #70
                      Viet duong nhan 01.07.2005 09:51:38 (permalink)
                      Vào đây đọc và xem những nhạc cụ - thật tuyệt diệu !
                      7_NN cảm ơn Mickey nhiều
                      #71
                        mickey 02.07.2005 01:15:02 (permalink)
                        Goong Kram

                        Goong Kram hay Goong Đer (Giarai), Goong Rơ La (Mnông gar), Koktalư (Raglay)... là nhạc cụ họ dây chi gẩy của dân tộc Êđê.


                        Thân đàn là một ống tre già hai đầu có mấu được đục thông, dài 70 cm, đường kính 10 cm. Từ chính phần cật của ống tre người ta tách ra 2 cặp dây đôi và 2 dây đơn (6 dây). Trên đầu mỗi dây được đệm bằng những mảnh tre nhỏ để làm ngựa đàn và để điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh (âm thanh cao ngựa đàn cao, âm thanh thấp ngựa đàn thấp). 6 dây đàn cho 6 âm: Đô1- Sol1 (cặp dây đôi 1) Sol1- Si1 (cặp dây đôi 2); Si - Mi (2 dây đơn).

                        Khi sử dụng, người biểu diễn ngồi xếp bằng trên sàn, hai chân tỳ giữ đàn, các ngón tay lần lượt búng vào các dây đàn tạo ra âm thanh nghe giòn giã vui tai.

                        Goong Kram là nhạc cụ do nam giới sử dụng ở những nơi yên tĩnh trong sinh hoạt thường ngày và trong sinh hoạt giao duyên.



                        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/838ED4060A644151806DCFA9DB566D12.jpg[/image]
                        Attached Image(s)
                        #72
                          mickey 02.07.2005 01:16:13 (permalink)
                          Kok-ta-lư

                          Kok-ta-lư là nhạc cụ họ dây, chi gảy của dân tộc Raglay tỉnh Ninh Thuận Thân đàn được làm từ một ống tre thông hai đầu, đường kính 8 cm, dài 50 cm. Đàn có 12 dây được tách ra từ chính phần cật của ống tre, dây đàn được chia thành 6 cặp dây đôi. Cứ mỗi cặp dây được nối với nhau bằng một miếng tre ở khoảng giữa của dây đàn. Miếng tre vừa có tác dụng là điểm gẩy, vừa có tác dụng để truyền âm vào bầu cộng hưởng thông qua lỗ thủng ở thành bầu cộng hưởng nằm ở dưới miếng tre. Hai đầu của mỗi dây đàn được kê bằng những miếng tre nhỏ vừa làm ngựa đàn, vừa để điều chỉnh cao độ. Mỗi dây đôi cho một cao độ, Kok-ta-lư gồm có 5 âm như sau: Mi - Sol - La - Si - Đô.

                          Khi sử dụng, người chơi có thể đứng hoặc ngồi, hai tay cầm Kok-ta-lư đặt trước bụng, các ngón tay lần lượt bật vào các dây đàn tạo ra âm thanh nghe đục nhưng vang.

                          Kok-ta-lư là nhạc cụ dành cho nam giới dùng để độc tấu, hòa tấu, mô phỏng lại âm thanh, bài bản của dàn mã la 6 chiếc.



                          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/BF2D5AF50FA8445C9ECA61072F6F4988.jpg[/image]
                          Attached Image(s)
                          #73
                            mickey 02.07.2005 01:17:24 (permalink)
                            Zèn xìn

                            Zèn xìn là nhạc cụ thuộc họ dây, chi gẩy của dân tộc H?mông (cư trú ở miền núi phía Bắc Việt).


                            Zèn xìn gồm: Cần đàn, thùng đàn, mặt đàn, thủ đàn và dây đàn. Cần đàn làm bằng gỗ cứng hình chữ nhật to và ngắn, chiều dài 20 cm, dày 2 cm, rộng 2,5 cm. Thùng đàn (hộp cộng hưởng) hình hộp tròn dẹt đường kính 32 cm, thành hộp cao 2,5 cm. Mặt đàn làm bằng gỗ mỏng có khắc hoa vǎn trang trí và khoét lỗ thoát âm. Thủ đàn được tạo dáng hình con dơi có gắn 4 trục lên dây. Dây đàn se bằng tơ tằm vuốt sáp ong hay nhựa khoai lang (nay người ta dùng dây ni lông). Zèn xìn có 11 lỗ bấm, 5 phím gắn trên cần đàn, 6 phím gắn trên mặt đàn. 4 dây đàn, 2 dây to đồng âm, 2 dây nhỏ đồng âm được lên cách nhau một quãng nǎm: Fa1 - Do2.


                            Âm vực của Zèn Xìn rộng 2 quãng 8. Âm thanh của Zèn Xìn trong sáng, thanh thoát, đều đặn, đanh khô ít vang.
                            Người ta chơi Zèn Xìn bằng cách đặt đàn trước bụng tay trái bấm phím đàn, tay phải dùng miếng gẩy nhựa hình tam giác gẩy vào dây đàn với các kỹ thuật gẩy, hất, vê... Kỹ thuật tay trái có ngón vuốt, ngón nhấn, ngón luyến, đánh chồng âm. Zèn Xìn dùng để độc tấu, hoà tấu với kèn lá, do nam giới sử dụng trong sinh hoạt thường ngày.



                            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/5F4FD9E569BB421C9804011BF6209BE5.jpg[/image]
                            Attached Image(s)
                            #74
                              mickey 02.07.2005 01:18:28 (permalink)
                              Tam Thập Lục

                              Là nhạc khí dây, chi gõ của dân tộc Việt. Đàn có 36 dây nên được gọi là Tam Thập Lục.

                              Đàn Tam thập lục hình thang cân, mặt đàn hơi phồng lên ở giữa, làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Cầu đàn, thành đàn làm bằng gỗ cứng, trên mặt đàn đặt so le hai hàng ngựa, mỗi hàng 18 ngựa. Cần đàn bên trái có 36 móc để mắc dây, bên phải có 36 trục để lên dây. Dây đàn làm bằng kim khí. Que đàn được làm bằng hai thanh tre mỏng, dẻo, ở đầu được quấn dạ để tiếng đàn được êm. Âm thanh đàn Tam thập lục trong sáng, thánh thót, rộn rã.

                              Âm vực đàn Tam thập lục tương đối rộng. Từ âm trầm nhất đến âm cao nhất trên hai quãng 8, được mắc theo gam nguyên.

                              - Khoảng âm dưới: Tiếng đàn ấm áp, khá vang.

                              - Khoảng âm giữa: Tiếng đàn đầy đặn, trong.

                              - Khoảng âm cao nhất: Tiếng đàn sắc, gọn.

                              Khi biểu diễn nhạc công dùng 2 que gõ vào mặt đàn tạo ra các ngón như: Ngón rung, ngón vê, ngón bịt, ngón á, đánh cồng âm, hợp âm...

                              Đàn Tam thập lục giữ vai trò quan trọng trong các dàn nhạc sân khấu chèo, cải lương. Đàn đệm cho hát, độc tấu, tham gia dàn nhạc dân tộc tổng hợp.



                              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/BA5FFE8F06AA4B88B9A89FC18934F004.jpg[/image]
                              Attached Image(s)
                              #75
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 7 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 100 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9