Nhạc Cụ Dân Tộc
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 7 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 100 bài trong đề mục
mickey 02.07.2005 01:19:48 (permalink)
Tàn Máng

Tàn Máng là nhạc họ dây, chi gẩy của dân tộc Mường. Tàn Máng có hình dáng gần giống đàn bầu của dân tộc Việt, nhưng cấu tạo đơn giản hơn. Đàn gồm các bộ phận: Thân đàn (hộp cộng hưởng), Vòi đàn, dây đàn và trục lên dây.

Thân đàn hay còn gọi là hộp cộng hưởng được làm bằng 1 đoạn ống tre hoặc bương dài khoảng 134 cm, đường kính 14 cm, đã được lóc hết phần cật. Người ta cắt một phần mặt ống để làm đáy đàn và cũng là chỗ để thoát âm. ở phía đầu đàn có một thanh tre dài 36 cm được cắm xuyên qua thân đàn xuống đáy đàn gọi là vòi đàn. Vòi đàn đóng vai trò để tạo ra các âm thanh cao thấp khác nhau nằm ngoài các bồi âm cơ bản của đàn. Trục lên dây ở phía cuối đàn làm bằng tre dài khoảng 30 cm, cắm ngang xuyên qua 2 cạnh thân đàn. Dây đàn làm bằng tơ tằm xe thành sợi (nay thay bằng dây sắt). Dây đàn có chiều dài chạy suốt thân đàn, 1 đầu luồn qua một lỗ nhỏ ở mặt đàn rồi sâu vào trục lên dây, 1 đầu kéo chếch lên buộc vào vòi đàn. ở phía trước lỗ nhỏ có một miếng gỗ nhỏ đỡ dây đàn gọi là ngựa đàn.

Tàn Máng có âm vực là 3 quãng 8.

- Quãng tám thứ nhất: Tiếng đàn dịu ngọt, ấm áp, sâu lắng.

- Quãng tám thứ hai: Tiếng đàn trong sáng, trữ tình.

- Quãng tám thứ ba: Diễn tả tình cảm cǎng thẳng, tiếng đàn đanh khô, kém vang, ít dùng.

Người ta chơi Tàn Máng bằng cách tay phải cầm que gẩy vào dây, đồng thời cạnh bàn tay chạm nhẹ vào điểm bồi âm để tạo nên âm bồi, gẩy xong cạnh bàn tay nhấc ra khỏi dây. Tay trái điều khiển cần đàn tạo thêm nhiều âm thanh khác nhau và tạo ra các ngón kỹ thuật như: Ngón rung, ngón nhấn, ngón vỗ, ngón giật, ngón vuốt.

Tàn máng là nhạc cụ dùng để độc tấu hoặc hòa tấu trong sinh hoạt thường ngày của người Mường.



[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/421C8C1B06D44B0796BC6F6B73D0ABFA.jpg[/image]
Attached Image(s)
#76
    mickey 02.07.2005 01:21:10 (permalink)
    Đàn Tam

    Đàn Tam là nhạc cụ dây gẩy của dân tộc Việt. Đàn được mắc ba dây nên gọi là Đàn Tam (tam là ba).

    Hộp đàn là khuôn gỗ dầy hình chữ nhật (4 cạnh tròn), kích thước 14 - x 17 cm. Thành đàn cao khoảng 5 cm bằng gỗ cứng. Đáy bịt gỗ, có lỗ thoát âm. Mặt đàn làm bằng da trǎn, da kỳ đà, trên mặt có gắn một cái thú để mắc dây. Cần đàn dài 0,65 m không có phím, trên mặt cần có một miếng gỗ để luồn dây, ba dây được mắc vào cuối bầu đàn chạy qua ngựa và miếng gỗ, miếng gỗ này có tác dụng di chuyển làm cho âm thanh cả 3 dây hạ xuống hay cao lên khi cần thiết. Đầu đàn hình thang cân có 3 trục gỗ để lên dây. Dây đàn bằng tơ xe, nay bằng dây nilon được lên cách nhau một quãng 4 đúng và 5 đúng Sol - Do -Sol1 hoặc Sol - Re - Sol1

    Đàn Tam được dùng phổ biến trong dàn nhạc chèo, phường bát âm, ban nhã nhạc. Ngày nay Đàn Tam đã được đưa vào dàn nhạc dân tộc tổng hợp.



    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/8D69FFCF99D7454886595EAFF86A9D07.jpg[/image]
    Attached Image(s)
    #77
      mickey 02.07.2005 01:23:11 (permalink)
      Đàn sến

      Là nhạc khí dây gẩy của dân tộc Việt. Được dùng phổ biến ở Miền Nam. Hộp đàn hình hoa đào sáu cánh hoặc hình lục giác, đường kính 28 cm. Mặt đàn và đáy đàn làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Thành đàn dày 6 cm, làm bằng gỗ cứng. Cần đàn dài 70 cm, trên mặt đàn có 17 phím bấm. Phím đàn được gắn dựa theo thang âm 7 cung chia đều. Đàn có 3 trục gỗ nhưng chỉ dùng 2 trục để lên dây còn 1 để trang trí. Hai dây đàn bằng tơ se, được lên cách nhau một quãng 4 hoặc quãng 5: Fa - Do1 hoặc Sol - Do1. Khi diễn tấu nhạc công gẩy đàn bằng miếng gẩy nhựa tạo ra âm sắc trong trẻo, tươi sáng.

      Đàn sến thường dùng trong các dàn nhạc sân khấu tuồng, cải lương.



      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/CA880DF4C73D4DBB8C5D20F3875438E2.jpg[/image]
      Attached Image(s)
      #78
        mickey 02.07.2005 01:24:40 (permalink)
        Đàn Hồ

        Đàn Hồ hay còn gọi là Đàn Gáo, là nhạc khí họ dây, chi kéo cung vĩ của dân tộc Việt.

        Đàn Hồ làm bằng gỗ trụ hay trắc. Bầu cộng hưởng làm bằng gáo dừa hoặc gỗ rỗng lòng đường kính 14,5 cm, một đầu bịt da trǎn hay da kỳ đà. Cần đàn tròn hoặc vuông không có phím bấm dài khoảng 82,5 cm, đầu dưới cần đàn xuyên thủng qua bầu cộng hưởng. Đầu trên gọi là thủ đàn hình chữ nhật được uốn vát về phía sau, có gắn hai trục gỗ tròn để lên dây. Ngựa đàn làm bằng tre hay gỗ dài 1,5 cm đặt khoảng giữa mặt da. Khuyết đàn làm bằng sợi tơ xe néo 2 dây vào gần sát cần đàn. Khuyết đàn có tác dụng điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh. Cung vĩ làm bằng tre, hoặc gỗ được uốn cong hình cánh cung. Vĩ đàn đặt giữa hai dây, khi đàn vĩ cọ sát vào dây phát ra âm thanh. Đàn Hồ có 2 dây bằng tơ xe, ngày nay đã thay bằng dây kim khí, dây đàn được lên cách nhau một quãng nǎm đúng Sol - Re1 hoặc Fa - Do1.

        Đàn Hồ tham gia trong dàn nhã nhạc, phường bát âm, dàn nhạc sân khấu tuồng, chèo và giữ vai trò quan trọng trong ban nhạc xẩm.



        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/1C8EA594D5C645C08232F2BF62717169.jpg[/image]
        Attached Image(s)
        #79
          mickey 02.07.2005 01:27:11 (permalink)
          Cò Ke

          Cò ke là nhạc cụ họ dây, chi cung kéo của dân tộc Mường. Cò ke có hình dáng giống Đàn Nhị của dân tộc Việt nhưng chế tác thô sơ hơn.

          Cần đàn là một đoạn gỗ tròn đường kính 1,5 cm, chiều dài 65 - 78 cm, phía đầu trên cần đàn có đục hai lỗ để cắm trục vặn dây, đầu còn lại được cắm xuyên qua bầu cộng hưởng. Bầu cộng hưởng là 1 đoạn ống bương rỗng cả hai đầu, dài khoảng 13,8 cm, đường kính 5 cm, một đầu được bịt bằng một mảnh mo bương hoặc da ếch. Ngựa đàn làm bằng tre hay gỗ dài 1 cm đặt khoảng giữa mặt da. Cò ke mắc hai dây bằng xơ dứa dại hay tơ tằm se lại, vuốt nhựa khoai lang. Hai dây lên cách nhau 1 quãng 4 hay quãng 5 (tuỳ theo từng bài). Một sợi dây tơ néo 2 dây vào sát cần đàn gọi là "cữ đàn" có tác dụng điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh. Khi đưa cữ đàn xuống làm ngắn quãng dây phát âm, đàn có âm thanh cao, đẩy cữ đàn lên làm dài quãng phát âm, đàn có âm thanh trầm. Cung kéo là một cành tre nhỏ được uốn cong và mắc túm xơ dứa hay những sợi giang tước nhỏ dài khoảng 53 cm, luồn vào giữa hai dây đàn.

          Khi diễn tấu người sử dụng dùng tay phải kéo, đẩy cọ sát dây kéo vào 2 dây đàn để phát âm thanh. Tay trái bấm dây, với các kỹ thuật ngón rung, vuốt, nhấn, láy... Kỹ thuật tay phải gồm: Vĩ rời, vĩ luyến, vĩ ngắt.

          Âm thanh của Cò Ke ấm, trong trẻo, gần giống tiếng người.

          Cò Ke là nhạc cụ dùng để hòa tấu cùng với các nhạc cụ khác trong đám ma và dàn nhạc lễ của người Mường.



          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/97457BDA694346F6B8D086AB0225DBA5.jpg[/image]
          Attached Image(s)
          #80
            mickey 02.07.2005 01:28:36 (permalink)
            Broh

            Broh là tên gọi nhạc cụ họ dây, chi búng gẩy của dân tộc Giarai. Broh được cấu tạo từ một quả bầu già và một ống tre lồ ô dài 25 cm nối với một thanh gỗ khoảng 100 cm, có khoét thành mấu để lắp dây đàn. Thân đàn có gắn 4 phím bấm bằng sáp ong. Đàn có 2 dây bằng kim loại mắc dọc theo thân đàn, 2 trục đàn cách nhau 7 cm. Bầu cộng hưởng là 1 quả bầu khô nằm ở giữa thân đàn.

            Khi diễn tấu, Broh do một người nam giới ngồi và đặt quả bầu vào trong lòng, dùng một miếng tre dài 2 cm buộc với một đoạn cước buộc vào ngón trỏ tay phải để diễn tấu.

            Âm thanh của đàn trầm, đục, buồn mang chất tự sự. Khả nǎng diễn tấu của Broh linh hoạt, độc đáo.

            Broh không phải là nhạc cụ kiêng cấm, được dùng trong lúc tỏ tình bên dòng suối hay trên nương.



            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/69FE1689A20E48709699A726372D5677.jpg[/image]
            Attached Image(s)
            #81
              mickey 02.07.2005 01:30:05 (permalink)
              Brố

              Brố là nhạc cụ họ dây, chi búng gẩy phổ biến ở dân tộc Êđê. Brố được làm bằng một ống tre dài khoảng 109 cm, đường kính 3 cm. Cuối ống đàn người ta gắn một miếng gỗ nhỏ có lỗ để mắc dây đàn. Đàn được buộc chặt với 1/2 quả bầu già bằng sợi dây vải.

              Đàn có 5 phím bấm bằng sáp ong và cách nhau 8 cm. Một đầu ống có2 trục lên dây. Đàn có 2 dây, 1 dây buông và một dây chơi giai điệu. Hai dây này được lên theo quãng 5.

              Tiếng Brố trầm, đục thích hợp với những khúc hát tâm sự, chất trữ tình. Brố là đàn của nam giới tự đệm khi hát. Khi diễn tấu đàn được cầm ngang, tay phải của người chơi được buộc vào một miếng sừng nhỏ làm móng gẩy. Đàn dành riêng cho nam giới diễn tấu và không phải nhạc cụ bị cấm kỵ. Brố dùng rộng rãi trong buôn làng, đôi khi trên nương rẫy.



              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/473839E1496945DEB0C5DD1D72954EA9.jpg[/image]
              Attached Image(s)
              #82
                mickey 02.07.2005 01:31:28 (permalink)
                Poòng Păng

                Poòng Pǎng - nhạc cụ họ dây chi gõ dành cho trẻ em dùng để độc tấu và đệm cho hát đồng dao.

                Poòng Pǎng gồm 3 ống nứa (hai đầu có mấu) dài 50 - 53 cm, đường kính 3 - 4 cm. Mỗi ống có 1 dây tách ra từ thân ống, hai đầu mỗi dây được chêm hai mẩu che hoặc gỗ để làm ngựa đàn. Khi diễn tấu trẻ em dùng que gõ lên các dây đàn tạo ra âm thanh nghe ròn rã vui tai.



                [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/875D0720A5034C5C994DA0F319C61AFC.jpg[/image]
                Attached Image(s)
                #83
                  mickey 02.07.2005 01:32:27 (permalink)
                  Đing Goong

                  Đing goong là nhạc cụ họ dây chi gẩy búng của dân tộc Gia Rai.

                  Thân đàn là một ống tre dài 70 - 90 cm, đường kính 5 - 8 cm. Đàn có 9 - 11 dây mắc dọc theo thân đàn, khóa đàn bằng tre vót nhọn cắm xuyên qua thân đàn. Bầu khuếch đại làm bằng vỏ quả bầu nậm già đường kính 16 - 23 cm được gắn vào cuối thân đàn. Là nhạc cụ của nam giới dùng để độc tấu, hòa tấu và đệm cho hát trong sinh hoạt thường ngày.

                  Đing goong có thể chơi được nhiều loại tốc độ nhanh chậm khác nhau, âm thanh của Đing goong nghe thánh thót, vang xa rất có sức truyền cảm.



                  [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/7588606092C54E659A549A24848EAB19.jpg[/image]
                  Attached Image(s)
                  #84
                    mickey 02.07.2005 01:33:26 (permalink)
                    Tâm Plưng

                    Tâm Plưng là nhạc cụ họ dây chi gẩy búng của dân tộc Cơ Tu.

                    Thân đàn là một ống nứa dài 83 cm, đường kính 1,8 cm. Đàn có 2 dây, một bằng kim loại (dây giai điệu), một bằng tơ (dây trì tục) mắc dọc theo thân đàn. Bầu khuếch đại làm bằng vỏ quả bầu khô nằm lệch về phía tay gẩy.

                    Là nhạc cụ độc tấu, hòa tấu do nam giới sử dụng trong sinh hoạt thường ngày, âm thanh của Tâm Plưng nghe trầm lắng, ấm áp rất thích hợp với tính chất tâm sự.



                    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/01BBEE2DA6D546A38F951672D48FB453.jpg[/image]
                    Attached Image(s)
                    #85
                      mickey 02.07.2005 01:35:08 (permalink)
                      Tính Then

                      Tính Then là nhạc cụ họ dây, chi gẩy rất phổ biến củ a dân tộc Tày.

                      Cần đàn làm bằng gỗ nhẹ dài 75 - 90 cm không có phím bấm. Bầu đàn làm bằng nửa quả bầu khô có k hoét lỗ thoát âm hình hoa thị, đường kính 15 - 20 cm. Mặt đàn làm bằng gỗ nhẹ, xốp để mộc, gắn với bầu đàn. Đàn có 3 dây bằng tơ hoặc nilon. Âm thanh Tính Then nhỏ, êm dịu, nhẹ nhàng, đầm ấm. Là nhạc cụ độc tấu, hòa tấu và đệm cho hát trong các nghi lễ then.



                      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/3DDFB057E176458B87A1CE3403B875A2.jpg[/image]
                      Attached Image(s)
                      #86
                        mickey 02.07.2005 01:36:40 (permalink)
                        Abel

                        Abel - nhạc cụ họ dây, chi cung kéo của dân tộc Cơ Tu, là nhạc cụ dành cho nam giới sử dụng để đệm cho hát trong sinh hoạt thường ngày.

                        Abel không có bầu cộng hưởng, thân Abel được làm bằng một ống nứa nhỏ dài 43 cm, đường kính 2 cm. 1 cần kéo bằng cật nứa dài 56 cm, 1 dây bằng kim loại mắc dọc theo thân đàn. Để khuếch đại âm thanh người ta dùng một sợi dây tơ, một đầu buộc vào dây đàn, đầu kia buộc vào ảnh sừng trâu bóc mỏng hình tròn gọi là lam đàn.

                        Khi chơi đàn người ta ngậm toàn bộ lam đàn vào miệng, lúc này khoang miệng đóng vai trò là bầu cộng hưởng, kết hợp với giọng hát Abel cho người nghe một cảm giác âm thanh kỳ lạ.



                        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/6D29C73B1CFD44BD9D749A7FFEB60422.jpg[/image]
                        Attached Image(s)
                        #87
                          mickey 02.07.2005 01:37:53 (permalink)
                          Đàn Bầu

                          Đàn Bầu có tên chữ là Độc Huyền Cầm, là nhạc cụ họ dây chi gẩy của dân tộc Việt. Đàn có hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.

                          Đàn thân tre: là đàn của những người hát Xẩm. Thân đàn làm bằng 1 đoạn tre hoặc bương dài khoảng 120 cm, đường kính 12 cm. Mặt đàn là chỗ đã được lóc đi một phần cật thích hợp trên đoạn tre hoặc bương.

                          Đàn hộp gỗ là loại đàn cải tiến sau này, dùng cho các nghệ sĩ chuyên nghiệp. Đàn hộp gỗ có nhiều hình dáng, kích thước khác nhau. Loại phổ biến nhất là loại hình thang có chiều dài khoảng 115 cm. Đầu lớn rộng 10 cm, cao 9 cm, đầu nhỏ rộng 8 cm, cao 7 cm. Mặt đàn cong làm bằng loại gỗ nhẹ, xốp như gỗ Ngô Đồng, gỗ Vông. Đáy đàn phẳng cũng làm bằng gỗ nhẹ, xốp có lỗ thoát âm. Thành đàn làm bằng một loại gỗ cứng như gỗ Trắc, Mun.

                          Về hình dáng và chất liệu của hộp cộng hưởng (tức Thân đàn) của hai loại đàn có khác nhau, nhưng về cấu tạo, hai đàn hoàn toàn giống nhau.

                          Dây đàn có chiều dài chạy suốt thân đàn. Thuở xưa dây đàn làm bằng tơ tằm se thành sợi, về sau thay bằng dây sắt.

                          Bầu đàn làm bằng 1/2 vỏ quả bầu nậm (lấy đoạn núm thắt cổ bồng). Bầu đàn lồng vào giữa vòi đàn nơi buộc dây đàn. Bầu đàn có tác dụng tǎng thêm âm lượng cho đàn. Ngày nay người ta tiện bầu đàn bằng gỗ và chỉ có tác dụng tạo dáng mà thôi.

                          Trục lên dây làm bằng tre (ở đàn tre) hoặc bằng gỗ (ở đàn gỗ). Trục lên dây nằm ở cạnh trong sát phía dưới thân đàn. Dây đàn luồn qua một lỗ nhỏ ở mặt đàn rồi sâu vào trục lên dây. Phía trước lỗ nhỏ có một ngựa đàn đỡ dây đàn.

                          Âm hưởng của Đàn Bầu nhỏ chỉ thích hợp với không gian yên tĩnh. Thủa xưa Đàn Bầu là nhạc cụ của những người hát rong (hát Xẩm). Về sau này Đàn Bầu đã tham gia trong các dàn nhạc Chèo, Tài Tử, Ngâm Thơ, tốp nhạc, nhóm nhạc và độc tấu. Rất nhiều tác phẩm sáng tác cho Đàn Bầu độc tấu như : Vũ Khúc Tây Nguyên - Đức Nhuận, Dòng Kênh Trong - Hoàng Đạm, Vì Miền Nam - Huy Thục...

                          Trong số những cây đàn một dây của các nước trên thế giới như đàn Tuntina của ấn Độ, Đàn Cung ở vùng Đông Phi, đàn TushuenKin (độc huyền cầm) của Trung Quốc. Không có cây đàn một dây nào phát ra cả một hệ thống âm bồi vừa có tính phổ cập, vừa có tính nghệ thuật cao như cây Đàn Bầu của Việt Nam



                          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/34CE9D1DA4714CE58BD0D80A1E93BC96.jpg[/image]
                          Attached Image(s)
                          #88
                            mickey 02.07.2005 01:39:44 (permalink)
                            Đàn Đáy

                            Đàn Đáy thuộc họ dây chi gẩy là nhạc cụ của người Việt. Vì đàn không có đáy, nên có tên chữ là Vô đề cầm.

                            Hộp đàn hình thang cân, đáy lớn rộng 24 cm, đáy nhỏ rộng 20 cm. Đáy đàn khoét một khoảng trống hình chữ nhật. Thành đàn cao khoảng 9 cm bằng gỗ cứng. Mặt đàn làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc, trên mặt có gắn một cái thú để mắc dây. Cần đàn dài 1,16 cm trên có gắn từ 10 - 12 phím bằng tre. Đầu đàn hình lá đề có 3 trục gỗ để lên dây. Đàn có 3 dây bằng tơ xe, cách nhau một quãng 4 đúng, khi nhạc công bấm vào cung phím thứ nhất trên cả 3 dây, sẽ cho 3 âm: Sol - Dô1 - Fa1 (khác với các loại đàn khác, Đàn Đáy cổ truyền không bao giờ đánh dây buông).

                            Đàn Đáy chỉ dùng để đệm cho hình thức âm nhạc duy nhất - Hát ả Đào. Theo phó giáo sư tiến sĩ Thụy Loan, phải tới thế kỷ XVI - XVII - XVIII Đàn Đáy mới xuất hiện ở các đình (Lỗ Hạnh, Hoàng Xá) và đền (Tam Lang). Tóm lại, niên đại xuất hiện của Đàn Đáy được các nhà nghiên cứu nghi nhận sớm nhất là thế kỷ XV. Niên đại xuất hiện này hoàn toàn phù hợp với những ghi chép trong thư tịch cổ và những tư liệu mỹ thuật đã được phát hiện.

                            Từ hình dáng, âm thanh đến thể loại âm nhạc mà Đàn Đáy biểu diễn chỉ có ở Việt Nam - Đàn Đáy là nhạc cụ do người Việt Nam sáng tạo.



                            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/A2AF157A95DA4776B679CDB6ABB52464.jpeg[/image]
                            Attached Image(s)
                            #89
                              mickey 02.07.2005 01:41:00 (permalink)
                              Đàn Nhị

                              Đàn Nhị còn có tên gọi khác là Cò Líu, Cò Lòn hoặc Nhị Líu, Nhị Lòn, là nhạc khí dây, chi kéo cung vĩ.

                              Theo tài liệu khảo cổ đã phát hiện ở chùa Vạn Phúc (Phật Tích - Thanh Sơn - Hà Bắc) có khắc chạm một dàn nhạc ở bệ đá kê chân cột chùa Phật Tích, với những nhạc cụ có xuất xứ từ ấn Độ và Trung Hoa. Dàn nhạc đó gồm 10 nhạc công ǎn mặc giống như người Chǎm và chơi các loại nhạc cụ trong đó có một nhạc cụ gần giống như Đàn Hồ 2 dây và là tiền thân của cây đàn Nhị bây giờ. Cǎn cứ vào đó người ta đã ước đoán Đàn Nhị có thể du nhập vào Việt Nam theo con đường của người Chǎm và cũng có thể du nhập theo con đường Trung Hoa tùy theo từng thời gian địa điểm khác nhau. (Theo lịch sử âm nhạc của giáo sư Trần Vǎn Khê và Vǎn Thương)

                              Đàn Nhị làm bằng gỗ gụ hay trắc. Bầu cộng hưởng gọi là bát nhị. Bát nhị hình ống rỗng lòng, dài khoảng 13,8 cm, một đầu bịt da trǎn hay da kỳ đà. Cần đàn tròn không có phím, đầu dưới cắm xuyên qua bầu đàn, đầu trên gọi là Thủ đàn. Thủ đàn hình đầu con cò, có gắn hai trục gỗ tròn để lên dây, có khi trục đàn được chạm khắc cầu kỳ.

                              Ngựa đàn làm bằng tre hay gỗ dài 1 cm đặt khoảng giữa mặt da. Khuyết đàn còn gọi là "Cữ đàn" là một sợi tơ xe néo vào 2 dây đàn. Cữ đàn có tác dụng điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh. Khi đưa cữ đàn xuống là làm ngắn quãng dây phát âm, đàn có giọng cao. Khi đẩy cữ đàn lên, làm dài quãng dây phát âm, đàn có giọng trầm.

                              Cung vĩ làm bằng tre, hoặc gỗ được uốn cong hình cánh cung, người ta mắc vĩ như dây cung. Vĩ đàn đặt giữa hai dây, khi đàn vĩ cọ xát vào dây phát ra âm thanh.

                              Đàn Nhị có 2 dây bằng tơ xe, gần đây đã thay bằng dây kim khí, được lên theo quãng 5 đúng. Ví dụ muốn đánh những bài Bắc (có tính chất vui) tương ứng với hai âm G1 - D2, bài Nam (tính chất buồn) F1 - C2, bài Chèo C1 - G1...

                              Đàn Nhị thường tham gia trong dàn Nhã Nhạc, phường Bát Âm, ban nhạc Tài Tử, ban nhạc Chầu Vǎn, dàn nhạc sân khấu Tuồng, Chèo...

                              Ngày nay nhiều nhạc sĩ đã sáng tác các tác phẩm cho cây Đàn Nhị. Nhờ những tác phẩm ấy, Đàn Nhị đang dần trở thành cây đàn độc tấu có chất lượng nghệ thuật cao.



                              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/7DDD0D65BECF4DB79CE15CBC6CFD88D1.jpg[/image]
                              Attached Image(s)
                              #90
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 7 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 100 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9