HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 26 bài trong đề mục
lyenson 27.10.2008 18:41:56 (permalink)
HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI

LỮ HUY NGUYÊN (Tuyển, soạn, giới thiệu)
Nhà xuất bản VĂN HỌC
2004
 
Thiên tài, kỳ nữ, hay nói giản dị hơn: Danh tài độc đáo Hồ Xuân Hương, tên tuổi kỳ diệu ấy vượt qua mọi cuộc tranh luận xưa nay, tự mình sừng sững chiếm vị trí đặc biệt trong làng thơ Việt Nam với một di sản tinh thần tuy còn được lưu truyền không nhiều: bên cạnh tập Lưu hương ký mà từ khi được phát hiện, chưa mấy ai phủ định, nhưng mọi người hầu như vẫn dè dặt khi sử dụng tập thơ này (1), là dăm chục bài thơ tám câu bảy chữ hoặc bốn câu bảy chữ có một phong cách không trộn lẫn với ai, tuy còn một số bài vẫn ở dạng “tồn nghi”.

Với Dương Quảng Hàm, thì đó là nữ sĩ có thiên tài và giàu tình cảm, nhưng “vì số phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên trong thơ bà hoặc có ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình tự”. Ông khẳng định Hồ Xuân Hương là một nhà viết thơ Nôm thuần túy, thoát hẳn ảnh hưởng của thơ văn chữ Hán, với cách tả tình, tả cảnh, dùng ngữ hiệp vần rất khéo. Thời ấy, người ta còn chưa phát hiện ra Lưu hương ký.

Còn Xuân Diệu thì gọi thẳng bà là Nhà thơ dòng Việt, là Bà chúa thơ Nôm, kể về độc đáo thì đứng vào bậc nhất trong văn học Việt Nam, mà lại hai lần độc đáo, vì đó là một phụ nữ đã dám “Ví đây đổi phận làm trai được”, và Xuân Diệu cho rằng thực sự nàng đã làm trai rồi, ngay trong chế độ cũ. Thơ của người dám làm trai ấy lại hết sức phụ nữ, người đàn bà ấy đã cất tiếng lên thì đố ai đã nghe một lần lại có thể quên được, quên nổi: “Thứ thơ ấy không chịu ở trong khuôn khổ thông thường, một thứ thơ muốn lặn sâu vào sự vật, vào những đáy rất kín thẳm của tâm tư, những đáy kín thẳm ấy không phải lạc lõng, cô đơn, cá nhân chủ nghĩa, mà trái lại, đã được hàng vạn, hàng vạn người đồng tình thông cảm”.

Bản thân là người có bản lĩnh tự tin mạnh mẽ, Hồ Xuân Hương chế diễu, đả kích cả một xã hội phong kiến với giọng đường hoàng, dõng dạc, chủ động và rất “đàn chị”. Thơ ấy, người ấy đập thẳng vào mặt bọn vua quan, nho lại, sư mô, trượng phu, quân tử dỏm, coi thường bọn mày râu không có khí chất đàn ông, không có phẩm cách nam nhi, kéo cái mặt nạ giả dối đủ kiểu, lôi tuột nó để làm trơ cái mặt thớt ấy ra trước thanh thiên bạch nhật, trước dư luận người đời. Thơ ấy, người ấy cất tiếng nói phản kháng quyết liệt của bản năng bị dồn ép vì những luân lý, lễ giáo, những thói thường ích kỷ. Sự phản ứng quyết liệt ấy nhiều khi cường điệu, thâm xưng, ám ti… một cách nghệ thuật, nên thường cũng hay bị người gán ghép cho những chuyện sinh lý có lúc quá trớn, quá đà. Đạt sự bình quyền, bình đẳng giữa nam và nữ, thơ ấy, người ấy không một chút ngại ngùng tố cáo triệt để sự bất công của xã hội trên nhiều lĩnh vực trong đó có hôn nhân và gia đình, đào sâu vào thân phận của người phụ nữ đa đoan nhưng cũng đa tình.

Người phụ nữ trở thành nhân vật trung tâm trong thơ Hồ Xuân Hương, có khi xuất đầu lộ diện, có khi giấu mặt. Nếu như Vichto Huygô có lý khi cho rằng: “Người ta có một tôn giáo thứ hai là tình yêu, và Chúa của đạo ấy chính là người phụ nữ”, thì phải chăng Hồ Xuân Hương không có lý với những bài thơ đề cao người đàn bà, tất cả những “cái gì thuộc về con người đối với tôi đều quý” như câu tục ngữ cổ mà Các Mác rất thích đó, cả chuyện trong buồng kín, phòng the, cả chuyện cơ thể của đàn bà – biểu tượng của cái đẹp?.

Cái đẹp thân thể và sự dâm đãng, nghệ thuật hướng về cái đẹp và nghệ thuật khiêu dâm. Đấy là những khoảng cách, những cực của hai quan điểm thẩm mỹ đối nghịch.

Đẹp hay dâm tục câu thơ của Hồ Xuân Hương:
Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.

Nhưng quả là trong thực tế, khi thẩm định thơ Hồ Xuân Hương, dễ có khuynh hướng gán ghép chuyện sinh lý có khi quá trớn; cũng không phải không ít người còn “táy máy” nghĩ đến cái nghĩa thứ hai trần tục, nó cứ đập vào giác quan người ta gây nên sự khó chịu vì tính chất hai mặt của biểu tượng. Cả trong trường hợp ấy nữa, thơ Hồ Xuân Hương đích thực cũng không thể bị coi là loại sáng tác khiêu dâm hay tục tĩu, nếu như người đọc hiểu rõ dụng ý của “vũ khí” mà nhà thơ đang sử dụng vào mục đích gì, nếu như người đọc gạt bỏ ra ngoài sự liên tưởng gán ghép cố tình, hoặc lẫn lộn thơ Hồ Xuân Hương đích thực với thơ được sáng tác theo phong cách Hồ Xuân Hương. Sự lẫn lộn ấy cũng không mấy dễ tìm ra cho rạch ròi, thuyết phục.

Nguyễn Lộc đã có lần đề cập tới cái khao khát của nhà thơ Hồ Xuân Hương về mặt tình yêu vật chất, tình yêu thể xác. Và ông xác đáng khi cho rằng, đừng vội nghĩ nói đến tình yêu thể xác, nói đến chuyện trong buồng kín của vợ chồng là dâm đãng. Nghệ thuật quyết định chủ yếu không phải ở đề tài. Ông viết: “Nhu cầu về cuộc sống bản năng cũng là một nhu cầu chân chính của con người, xã hội phong kiến phủ nhận, nên con người mới phản ứng chống lại. Ở Hồ Xuân Hương có cái gì quá đà, nhưng đặt trong bối cảnh của xã hội phong kiến phương Đông chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo, thì chính đó lại là một sự chống trả quyết liệt. Hồ Xuân Hương nói nhiều đến dục vọng thể xác, nhưng bà thể hiện những dục vọng ấy một cách lành mạnh và khỏe khoắn. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người ta thấy nhà thơ bao giờ cũng tỉnh táo, bà đứng cao hơn hiện tượng mình miêu tả; và với một tâm hồn nghệ sĩ thực sự, nhà thơ bao giờ cũng phát hiện được những khía cạnh thẩm mỹ trong đối tượng miêu tả của mình”. Về phương diện này, chúng tôi đồng tình với ông Nguyễn Lộc.

Hướng tuyển chọn thơ Hồ Xuân Hương trong tập sách này, phối hợp nhiều cách chọn để tìm một phương án khả dĩ chấp nhận được. Phần lớn các bài trong Lưu hương ký đều được tuyển chọn dựa vào sách của Đào Thái Tôn, có tham khảo các sách khác.

Giới thiệu thơ Hồ Xuân Hương với bạn đọc rộng rãi lần này, chúng tôi muốn một lần nữa khẳng định Hồ Xuân Hương “một nhà thơ kiệt xuất, một tài năng văn học độc đáo” (Lịch sử Việt Nam, tập I, UBKHXHVN, 1970), độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Bà không chỉ được đánh giá cao ở trong nước. Chính sự đánh giá cao của nhiều người nước ngoài càng làm chúng ta thêm tự tin. R. Tago trước kia, và gần đây, nhà thơ Pháp có tên tuổi ở Châu Âu – Jăng Rixtal – trong bài Tựa bản dịch thơ Hồ Xuân Hương sang tiếng Pháp, đã coi Hồ Xuân Hương là “một trong những tên tuổi lớn của văn học Việt Nam và không chút nghi ngờ, là một trong những nữ sĩ hàng đầu của Châu Á”.

Tác phẩm của Bà quả là có sức lay động mạnh mẽ.

Mọi cuộc tranh luận về Đời Hồ Xuân Hương và Thơ Hồ Xuân Hương sẽ còn tiếp tục. Những phát hiện. tìm tòi mới về tiểu sử thân thế, thời đại, tác phẩm của bà cùng với bao nhiêu vấn đề tranh luận khác xung quanh hiện tượng xã hội văn học dân tộc độc đáo này sẽ còn tiếp tục, mãi còn tiếp tục.

Nhưng... Giờ đây quyển sách đã tới tay bạn đọc, quyền bình giá thuộc về những người say mê, mến mộ bà. Mong rằng những ý kiến đa dạng, phong phú khác nhau về tác giả và tác phẩm Hồ Xuân Hương, về Thơ và Đời của bà, được chọn lựa giới thiệu trong tập này sẽ không cản trở người đọc trong cuộc thâm nhập thế giới thơ của Bà mà quyển sách này chỉ là một cách trình bày không khỏi còn khiếm khuyết. Trong khi biên soạn, người tuyển chọn đã tham khảo nhiều công trình đi trước của các tác giả Hoàng Xuân Hãn, Trần Thanh Mại, Nguyễn Lộc, Đào Thái Tôn, Nguyễn Bỉnh Khôi; các tác giả tập thơ Hồ Xuân Hương của đồng nghiệp Vĩnh Phú và của Nhà xuất bản Văn học mới ấn hành gần đây, cùng nhiều người khác.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và cảm ơn các tác giả !.

LỮ HUY NGUYÊN

----------
(1) Trong Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục (Nxb Giáo dục, H. 1993), Đào Thái Tôn đã xem Lưu hương ký như một hệ qui chiếu để chọn lọc những bài thơ Nôm truyền tụng là của Hồ Xuân Hương và đã đặt những bài thơ này trong phần đầu của phần thơ tuyển.

Nguồn: http://www.thuvien-ebook.com
#1
    lyenson 27.10.2008 18:51:16 (permalink)
    THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG

    TRANH TỐ NỮ
    Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
    Chị cũng xinh mà em cũng xinh
    Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
    Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
    Xiếu mai chi dám tình trăng gió, (1)
    Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh, (2)
    Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
    Trách người thợ vẽ khéo vô tình.
    ----------

    (1), (2). "Xiếu mai"; (Quả mai rụng). Trong Kinh thi nói "quả mai rụng mười phần còn bảy... mười phần còn ba", ví người con gái đã muộn thì, cần có một người chồng. Câu này dùng chữ "Xiếu mai" để nói người con gái sợ lỡ thì nên chuyên tâm vào việc kén chồng, không dám nghĩ đến chuyện trăng hoa nữa. Nhưng người đẹp trong tranh thì tính sao được việc chồng con? Nên cứ đành mãi mãi giữ thân phận mỏng manh, son sẻ. (Chú thích phần thơ nôm do Nguyễn Bỉnh Khôi).
    __________________
    GIẾNG THƠI (1)
    Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
    Giếng tốt thanh thơi,(2) giếng lạ lùng
    Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
    Nước trong leo lẻo một dòng thông.
    Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
    Cá diếc le te lách giữa dòng.
    Giếng ấy thanh tân ai cũng biết(3)
    Đố ai dám thả nạ dòng dòng.(4)

     
    (1) Giếng thơi: Giếng sâu.
    (2) Thanh thơi: Trong và sâu.
    (3), (4). Thả nạ dòng dòng: Tục ngữ có câu: "Dòng dòng theo nạ", nạ nghĩa là mẹ. Cái giếng trong và sâu kia, ai dám thả vào đấy một đàn "dòng dòng theo nạ"? Ví như người con gái thanh tân tươi tốt, ai cũng biết cả đấy, song ai dám cầu xin cô làm vợ để cô sẽ trở thành người mẹ quấn quít với những đứa con, vì cô cao giá quá!
    __________________
    BÁNH TRÔI
    Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
    Bảy nổi ba chìm với nước non.(1)
    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
    Mà em vẫn giữ tấm lòng son(2)
     
    (1) Bánh trôi khi luộc trải qua chìm nổi mấy lần trong nước mới chín.
    (2) Tấm lòng son: Bánh trôi khi luộc chín thì nhân đường bánh trôi ở giữa đỏ thắm như son: ví với người con gái dù có long đong ba chìm bảy nổi, vẫn giữ tấm lòng thành thực trong tình yêu.
    __________________
    QUẢ MÍT
    Thân em như quả mít trên cây,
    Vỏ nó sù sì, múi nó dày.
    Quân tử có yêu thì đóng cọc,(1)
    Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
     
    (1) Đóng cọc: Cọc đóng sâu vào nõ quả mít đem phơi nắng cho chóng chín.
    __________________
     
    ỐC NHỒI
    Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
    Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi,
    Quân tử có thương thì bóc yếm, (1)
    Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

    (1) Bóc yếm : Chỉ cái vẩy ốc với dụng ý lỡm.
    __________________
     


    ĐỒNG TIỀN HOẺN (1)
    Cũng lò cũng bễ cũng be than,
    Mở mặt vuông tròn với thế gian.
    Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
    Đủ đồng ắt cũng đáng nên quan. (2)

     
    (1) Đồng tiền hoẻn : Đồng tiền bé, tức tiền kẽm, đơn vị nhỏ nhất trong tiền tệ của ta thời xưa.
    (2) Quan : Quan tiền là đơn vị tiền lớn, thông dụng, gồm nhiều xâu tiền kẽm. Đồng kẽm nếu tính đủ số, cũng thành một quan tiền hẳn hoi.
    __________________
     (còn tiếp)
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.10.2008 19:01:45 bởi lyenson >
    #2
      lyenson 27.10.2008 21:18:17 (permalink)
      CÁI QUẠT (I)

      Mười bảy hay là mười tám đây(1)
      Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
      Mỏng dầy chừng ấy, chành ba góc
      Rộng hẹp đường nào, cắm một cay.(2)
      Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
      Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
      Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.(3)
      Chúa dấu vua yêu một cái này.

       
      ----------

      (1) Mười bảy, mười tám: Số nan quạt giấy, cũng nói tuổi của thiếu nữ.
      (2) Cay: Cái suốt của quạt giấy, hải đầu có mảnh kim loại (nhài quạt) hình tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái.
      (3) Cậy: Giống cây hồng, quả bé và chát, nhựa dùng để phất quạt. "Má hồng không thuốc mà say" (Cung oán ngâm khúc).
      __________________
       
      CÁI QUẠT (II)

      Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,(1)
      Duyên em dính dán tự bao giờ,(2)
      Chành ra ba góc da còn thiếu,
      Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
      Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
      Che đầu quân tử lúc sa mưa.
      Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
      Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?

      ----------

      (1) Lỗ xâu: Các nan quạt đều có một cái lỗ để xâu bằng cái suốt.
      (2) Dính dán: Cái nhài quạt chốt các nan quạt lại cho khỏi xổ, để có thể mở ra, khép vào. Dính dán ở đây có nghĩa là kết dính hoặc kết tạo, chứ không phải "dính dáng" với nghĩa liên can.
      __________________
       
      TRỐNG THỦNG

      Của em bưng bít vẫn bùi ngùi,
      Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi.
      Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,
      Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi.
      Khi giang thẳng cánh bù khi cúi,
      Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.
      Nhắn nhủ ai về thương lấy với, (1)
      Thịt da ai cũng thế mà thôi. (2)
       
      ----------


      (1), (2) Yêu và thương gắn bó với nhau. Trên cơ sở đó, Hồ Xuân Hương không ưa lối thô bạo.
      __________________ 
      MIẾNG TRẦU (1)

      Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi (2)
      Này của Xuân Hương mới quệt (3) rồi
      Có phải duyên nhau thì thắm lại (4)
      Đừng xanh như lá bạc như vôi!
      ----------

      (1) Miếng trầu: Một khẩu trầu gồm ba thành phần chính hợp lại là trầu không, cau và vôi.Vỏ (rễ) và thuốc lào là thành phần phụ gia.

      (2) Trầu hôi: Lá trầu không loại xấu, nhỏ lá và có mùi hôi.

      (3) Quệt: Quệt vôi vào lá trầu rồi mới têm.

      (4) Cau đậu (cau kén), trầu lá to và mỡ, vôi vừa phải, khi ăn thì ăn không đỏ và miếng trầu không ngon. Nhà thơ nói, về cái hẩm hiu của duyên phận.
      __________________ TÁT NƯỚC

      Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,
      Rủ chị em ra tát nước khe.
      Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm, (1)
      Lênh đênh một ruộng bốn bờ be. (2)
      Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa, (3)
      Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve. (4)
      Ham việc làm ăn quên cả mệt,
      Dạng hang một lúc đã đầy phè.
       ----------

      (1) Ba góc chụm : Nhìn nghiêng thì cái gầu dây có thể quy vào hình tam giác, khác với gầu sòng có hình thang.
      (2) Bốn bờ be : Tát nước thì phải be bờ.
      (3), (4). Hai câu này miêu tả rõ động tác tát nước gầu dây (giai).
      __________________
       
      DỆT CỬI

      Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
      Con cò (1) mấp máy suốt đêm thâu.
      Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
      Một suốt (2) đâm ngang thích thích mau.
      Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,
      Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau.
      Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ (3)
      Chờ đến ba thu mới dãi màu. (4)

      ----------

      (1) Con cò: Con cò đặt ở trên và chính giữa khung dệt để thắng sợi, làm chuẩn mực cho cái go khỏi lệch theo.
      (2) Suốt: ống suốt cuốn chỉ, nằm trong ruột con thoi để nhả sợi.
      (3) Ngâm cho kỹ: Sợi vải hồ bằng nước cơm đem ngâm lâu cho bền và óng màu hồ.
      (4) Chờ đến nắng hanh của ba tháng thu, nhấn nâu đem dãi nhiều lượt thì vải nhuộm mới lên màu và sẫm dần lại.
      __________________


      THIẾU NỮ NGỦ NGÀY

      Mùa hè hây hẩy gió nồm đông.
      Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
      Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
      Yếm đào trễ xuống dưới nương long. (1)
      Đôi gò Bồng Đảo (2) hương còn ngậm.
      Một lạch Đào Nguyên (3) suối chửa thông
      Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt.
      Đi thì cũng dở ở không xong.

       
      ----------

      (1) Nương long : Ngực. Tục ngữ có câu : “Nương long mỗi ngày mỗi cao; Má đào mỗi ngày mỗi đỏ”, nói sự phát triển của tuổi dậy thì.
      (2), (3). Bồng Đảo tức Đảo Bồng Lai; Đào Nguyên: Nguồn đào, các tên riêng trong văn học và là hình ảnh vẻ đẹp thần tiên. Thành ngữ có câu : “Đẹp như tiên Non Bồng”. Hồ Xuân Hương dùng ca ngợi vẻ đẹp thanh tân của cơ thể thiếu nữ.
      __________________
      ĐÁNH ĐU

      Bốn cột khen ai khéo khéo trồng, (1)
      Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
      Trai đu gối hạc khom khom cật
      Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
      Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
      Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
      Chơi xuân có biết xuân chăng tá. (2)
      Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không! (3)

      ----------

      (1) Bốn cột: Bốn cây tre trồng làm cây đu.
      (2) Chơi xuân: Cuộc vui chơi đón xuân. Biết xuân: Biết tình xuân.
      (3) Cuối vụ chơi xuân, các cột đu lại nhổ đi hết, chỉ còn trơ lại các lỗ cọc và rồi người ta sẽ lấp đi. Hồ Xuân Hương chua chát nói về thói vô tâm rất đáng trách về phía nam giới.
      __________________ LŨ NGẨN NGƠ (1)

      Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ ?
      Lại đây cho chị dạy làm thơ,
      Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
      Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.
       ----------

      (1) Bọn học trò mới lớn, ngốc nghếch, rủ nhau kéo đàn kéo lũ đi ghẹo gái, lại tập tọng đua đòi vần vè ví von, nên Hồ Xuân Hương lấy làm khó chịu mà viết bài thơ này.
      __________________


      PHƯỜNG LÒI TÓI (1)

      Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
      Cũng đòi học nói nói không nên.
      Ai về nhắn bảo phường lòi tói.
      Muốn sống đem vôi quét trả đền !

       
      ----------

      (1) Lòi tói : Dây sắt gồm nhiều vòng móc vào nhau. Trong cách chấm thơ văn xưa thường là khuyên và sổ, song cũng có lúc đùa mà khuyên móc xích nhiều vòng gọi là khuyên lòi tói khi gặp những đoạn văn viết bạt mạng, ẩu xị. Bọn học trò mới lớn kéo nhau đi vãn cảnh chùa. Hồ Xuân Hương không chịu nổi việc đó nên nặng lời quở trách.
      __________________ (còn tiếp)
      #3
        lyenson 28.10.2008 07:36:54 (permalink)
        XƯỚNG HỌA VỚI CHIÊU HỔ (1)
         
        XƯỚNG (I)

        Anh đồ tỉnh, anh đồ say.
        Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
        Này này chị bảo cho mà biết.
        Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
         
        CHIÊU HỔ HỌA LẠI

        Này ông tỉnh ! Này ông say !
        Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày !
        Hang hùm ví bẵng (2) không ai mó,
        Sao có hùm con bỗng (3) tróc tay ?
         
        ----------

        (1) Cuộc xướng họa giữa Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ thực là không tiền khoáng hậu trong lịch sử văn chương của ta. Sức trẻ và tình yêu sự sống, văn tài và cá tính, lối nói toạc móng heo, không úp mở bóng gió nhiều, không dùng biểu tượng hai mặt, ít tử vận (vần chết không họa được) mà chỉ có lộng ngữ (bỡn chữ). Chỉ có ba bài thơ mà đã đi thẳng vào dân chúng và từ lâu đã nảy sinh nhiều giai thoại. Cả đôi bạn đều cân xứng về tài nghệ thơ Nôm, và cũng thật tri âm, tri kỷ, không có một chút gì ngăn cách giữa đôi bạn thanh niên nam nữ.

        (2) Ví bẵng tức ví bằng, đọc theo âm trắc của thơ.

        (3) Bỗng tức là bồng, đọc theo âm trắc của thơ, mới đúng âm luật.
        __________________
         
        XƯỚNG (II)

        Sao nói rằng năm lại có ba ?
        Trách người quân tử hẹn sai ra.
        Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
        Nhớ hái cho xin nắm lá đa. (1)

        CHIÊU HỔ HỌA LẠI

        Rằng gián thì năm, quí có ba (2)
        Bởi người thục nữ tính không ra.
        Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt
        Cho cả cành đa lẫn củ đa.
         
        ----------

        (1) Huyền thoại nói : Trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc. Cuội còn là một nhân vật trong truyện cổ dân gian có đặc tính đã trở thành thành ngữ “Nói dối như Cuội”. Ở đây nhắc chuyện lên chơi cung trăng và Chiêu Hổ sẽ cho Xuân Hương nắm lá đa, có ý nói Chiêu Hổ cũng chẳng khác gì Cuội “nói Cuội”.

        (2) Tiền gián ăn 36 đồng kẽm. Tiền quý ăn 60. Như vậy 5 đồng gián hay 3 đồng quý đều bằng 180 đồng kẽm. Có thể cách hỏi vay của Hồ Xuân Hương với Chiêu Hổ không giao hẹn rõ ràng, cũng có thể cách trả lời chỉ là chữa khéo của Chiêu Hổ.
        __________________
         
        XƯỚNG (III)

        Những bấy lâu nay luống nhắn nhe.
        Nhắn nhe toan những sự gùn ghè (1)
        Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám
        Chưa dám cho nên phải rụt rè.


        CHIÊU HỔ HỌA LẠI


        Hỡi hỡi cô bay tố hão nhe (2),
        Hão nhe không được, gậy ông ghè.
        Ông ghè không được, ông ghè mãi,
        Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè.
         
        ----------

        (1) Gùn ghè : gạ gẫm.

        (2) Tố hão : Cáo tố hão huyền. Chúng tôi ghi theo Hồ Xuân Hương, giai thoại thơ, của Sở Văn hóa Vĩnh Phú – 1989.

        Hai chữ này gắn với cách đá đáp của hai bài họa, khác với nhiều bản vẫn chép là “tới bảo”.
        __________________

        #4
          lyenson 28.10.2008 12:38:09 (permalink)
          THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG (tt)
           
          KHÔNG CHỒNG MÀ CHỬA

          Cả nể cho nên hoá dở dang,
          Nỗi niềm nàng có biết chăng chàng.
          Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, (1)
          Phận liễu sao đà nảy nét ngang. (2)
          Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? (3)
          Mảnh tình một khối thiếp xin mang. (4)
          Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
          Không có, nhưng mà có, mới ngoan! (5)
          ----------

          (1), (2) ở đây, dùng lối chơi chữ Hán. Chữ Thiên là trời nhô đầu lên thì thành chữ Phu là chồng; chữ Liễu là rõ hoặc hết, đồng âm với cây liễu chỉ người con gái, nếu thêm một nét ngang thì thành chữ Tử là con. Hai câu này ý nói: Gái chưa chồng mà sao đã có con trong bụng?

          (3), (4) Tình và nghĩa gắn liền đặc tính truyền thống của ta. Hồ Xuân Hương nhấn mạng cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn ông nào đó thường vô tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ.

          (5) Tác giả đứng về phía người con gái mà dùng ý một câu ca dao:


          "Không chồng mà chửa mới ngoan
          Có chồng mà chửa thế gian sự thường!"

          __________________
          DỖ NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÓC CHỒNG
           


          Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
          Nín đi kẻo thẹn với non sông.
          Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
          Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung (1)

          ----------

          (1) Tục ngữ có câu: "Xấu máu đừng thèm ăn của độc" Khem: ăn kiêng khi mới ở cữ nên thường nói kiêng khem hoặc kiêng cữ. Miếng đỉnh chung: của ngon vật lạ thường có ở những nơi quyền quí cao sang. ý cả câu: Nếu đã xấu máu mà gặp phải của ngon vật lạ có thèm quá không nhịn được thì dùng ít thôi! Dỗ dành khuyên nhủ và nói bỡn.
          __________________
           
          BỠN BÀ LANG KHÓC CHỒNG

          Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
          Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
          Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo (1)
          Cay đắng chàng ơi vị quế chi. (2)
          Thạch nhũ, trần bì sao để lại, (3)
          Quy thân, liên nhục tẩm mang đi. (4)
          Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ? (5)
          Sinh ký chàng ơi! Tử tắc quy. (6)
          ----------

          (1) Cam thảo: Cỏ ngọt, tên vị thuốc ta.
          (2) Quế chi: Cành quế vị cay, tên thuốc ta.
          (3), (4) Thạch nhũ nghĩa đen là vú đá; Trần bì: vỏ quít khô, đều dùng làm thuốc. Quy thân: Vị đương quy có ba phần: đầu, thân và đuôi, có tính dược khác nhau; quy thân là phần củ của đương quy. Liên nhục: Hạt sen, cũng dùng làm thuốc; Vì ông chồng là lang thuốc nên tác giả dùng những tên vị thuốc. ý hai câu: Giờ thì kẻ mất người còn, "của anh anh mang, của nàng nàng xách". Bỡn cợt bà lang là ở hai câu này.
          (5), (6) Dao cầu: Dao dùng riêng trong nghề thuốc, tác dụng thái thuốc mạnh và nhanh hơn dao thường. Sinh ký tử quy: Sống gửi thác về.

          Ở đây tác giả vận dụng linh hoạt thành ngữ này. Người phụ nữ goá trẻ này nếu không ở vậy được mà phải qua hai lần đò "thì kỷ vật này sẽ trao lại cho ai? Chàng ơi! Trong cuộc sống tạm bợ này, chỉ có lúc chết đi thì mới có thể về nơi ở mãi mãi cùng chàng được".
          __________________
          CÁI NỢ CHỒNG CON

          Hỡi chị em ơi có biết không?
          Một bên con khóc một bên chồng.
          Bố cu lổm ngổm bò trên bụng,
          Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.
          Tất cả những là thu với vén, (1)
          Vội vàng nào những bống cùng bông (2)
          Chồng con cái nợ là như thế,
          Hỡi chị em ơi có biết không?
          ----------

          (1), (2) Duyên đi đôi với nợ, phần gánh chịu thường rơi vào người phụ nữ. Có hạnh phúc thì có hy sinh mà các thiếu nữ cần biết rõ sự thể.

          Ở đây Hồ Xuân Hương muốn nói đến tài đảm đang của người vợ một con. Tất cả đều tất bật vội vàng : vừa chăm lo cho con mọn vừa chăm lo thu vén việc nhà. Ca dao :

          “Có chồng chẳng được đi đâu
          Có con chẳng được đứng lâu nửa giờ.”
          __________________
          LÀM LẼ

          Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
          Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
          Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
          Một tháng đôi lần có cũng không.
          Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm, (1)
          Cầm bằng làm mướn, mướn không công. (2)
          Thân này ví biết dường này nhỉ (3)
          Thà trước thôi đành ở vậy xong.
          ----------

          (1), (2) Vận dụng các thành ngữ "Cố đấm ăn xôi", "Làm mướn không công".
          (3) Dường này: nông nổi cụ thể ra đến thế này.
          __________________ 

          KHÓC TỔNG CÓC

          Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
          Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.
          Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, (1)
          Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi! (2)

          ----------

          (1), (2) "Đứt đuôi nòng nọc", thành ngữ chỉ sự cắt đứt hẳn; "Cóc bôi vôi lại về": Bôi vôi để đánh dấu vào cóc, thì cóc đi đâu rồi cũng lại trở về. Nhưng nay duyên vợ chồng đã đứt hẳn. Cóc đi đã đem theo cả dấu vôi, dẫu có nghìn vàng cũng không chuộc lại được vì mất Cóc là mất luôn cả dấu.

          Theo cụ Dương Văn Thâm sưu tầm tài liệu về giai thoại thơ Hồ Xuân Hương (tài liệu đã dẫn) thì Hồ Xuân Hương làm bài Khóc tổng Cóc trong thời gian đã lấy ông phủ Vĩnh Tường. Do sự rẽ duyên của người vợ cả và gia đình họ hàng nhà Cóc, nên Hồ Xuân Hương mới đưa cả họ hàng nhà Cóc vào bài thơ để giễu: nhái bén, chẫu chàng, nòng nọc, chẫu chuộc, tất nhiên là giễu một Tổng Cóc còn sống, chứ không phải là khóc khi Tổng Cóc chết, như bấy nay có người hiểu, e rằng bất nhẫn.
          __________________ KHÓC ÔNG PHỦ VĨNH TƯỜNG

          Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi! (1)
          Cái nợ ba sinh đã trả rồi (2)
          Chôn chặt văn chương ba thước đất (3)
          Tung hê hồ thỉ bốn phương trời. (4)
          Cán cân tạo hoá rơi đâu mất? (5)
          Miệng túi tàn khôn khép lại rồi. (6)
          Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc. (7)
          Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!
          ----------

          (1) Vĩnh Tường: Phủ Vĩnh Tường, thuộc tỉnh Vĩnh Yên. Nhiều giai thoại đều thống nhất về việc Hồ Xuân Hương có lấy lẽ ông phủ Vĩnh Tường.

          (2) Nợ ba sinh: Nhân duyên vợ chồng trải qua ba kiếp; sống là một sự trả nợ lẫn nhau (theo Phật giáo). Nợ ba sinh đã trả tức là chỉ người chồng đã chết.

          (3), (4) Ông phủ Vĩnh Tường là một người có học vấn (văn chương) nay mất đi, Hồ Xuân Hương mất một người chồng và cũng mất luôn cả một người bạn văn chương. Hồ thỉ: cung và tên, tượng trưng cho chí nam nhi hoặc chí làm trai vốn ở bốn phương trời, không chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình vợ con.

          (5), (6) Ông trời là người cầm cân nảy mực đã ở chẳng công bằng, cán cân của ông đã đánh rơi. Càn khôn tức trời đất ví như một cái túi lớn đã khép hẳn lại. Ông Phủ đã đi sang một thế giới khác.

          (7) Hồ Xuân Hương sống với chồng trong một thời gian quá ngắn: 27 tháng.
          __________________
           



           
           
          #5
            lyenson 28.10.2008 18:23:28 (permalink)

            TỰ TÌNH (I)

            Chiếc bách (1) buồn về phận nổi nênh,
            Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
            Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng, (2)
            Nửa mạn phong ba luống bập bềnh. (3)
            Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến, (4)
            Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh. (5)
            Ấy ai thăm ván cam lòng vậy, (6)
            Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh! (7)

            ----------

            (1) Chiếc bách : Chiếc thuyền gỗ bách trong văn học gợi hình ảnh tâm trạng một người hóa trẻ với bài thơ Bách chu trong Cổ thi.

            (2), (3) Tình và nghĩa vẫn đương còn chan hòa dào dạt. Sóng gió vẫn cứ đe dọa liên tiếp vỗ vào bên ngoài mạn thuyền. Tâm trạng chung của bốn câu đếu là buồn rầu ngao ngán cho thân phận.

            (4), (5) Dự định của ai lăm le cầm lái để đưa thuyền đậu vào bến, cũng như kẻ rắp tâm dong lèo để cho cánh buồm vượt qua ghềnh thác mà trôi xuôi cũng thây mặc, vì nhà thơ không quan thiết.

            (6), (7) Còn ai nữa là người sẽ tìm đến với mình (thăm ván)? Nếu việc ấy xảy ra thì cũng cam lòng. Mặc dầu cũng chẳng hay gì với chuyện tập tễnh ôm đàn sang thuyền người khác, song tình thế cũng không thể khác được.

            Cổ thi có câu : “Khẳng bà tỳ bà quá biệt thuyền”, nghĩa là không chịu ôm đàn tỳ bà sang thuyền người khác, để nói chuyện không chịu lấy chồng khác. Tục ngữ “Thăm ván bán thuyền” ở đây vận dụng chỉ có nghĩa là “người mới”, không giữ ý “có mới nới cũ”.
            __________________
            TỰ TÌNH (II)

            Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom (1)
            Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
            Mõ thảm không khua mà cũng cốc. (2)
            Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om (3)?
            Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
            Sau giận vì duyên để mõm mòm.
            Tài tử văn nhân ai đó tá?
            Thân này đâu đã chịu già tom! (4)
            ----------

            (1) Bom: Mỏm đất.

            (2), (3) Mõ và chuông dùng trong nhà chùa có tác dụng làm nguôi dịu lòng người. ở đây nhà thơ vận dụng khác. Mõ thảm, chuông sầu: Tiếng lòng sầu thảm trong đêm khuya vắng lặng không khua không đánh mà vẫn vang lên dữ dội những âm thanh khô khốc, ầm ĩ, cốc như mõ và om như chuông.

            (4) Già tom: Như già đanh. Tục ngữ: "Trẻ dôi ra, già co lại".
            __________________
             

            TỰ TÌNH (III)

            Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
            Trơ cái hồng nhan với nước non.
            Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
            Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn!
            Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
            Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
            Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
            Mảnh tình san sẻ tí con con! (1)

            ----------

            (1) Bài “Tự tình” thứ ba này như thu lòng mình lại : Xinh, nhẹ, dịu, êm. Các chữ hương, xuân như nhắc đến tên mình một cách thân thương, trìu mến, như trễ nải, như chếch mác, buông lơi. Hồn thơ, chất thơ Hồ Xuân Hương lan tỏa khắp toàn bài.
            __________________
            #6
              lyenson 29.10.2008 07:08:21 (permalink)

              QUAN THỊ

              Mười hai Bà Mụ (1) ghét chi nhau
              Đem cái xuân tình vứt ở đâu ? (2)
              Rúc rích thây cha con chuột nhắt, (3)
              Vo ve mặc mẹ cái ong bầu. (4)
              Đố ai biết đó vông hay trốc (5)
              Còn kẻ nào hay cuống với đầu (6)
              Đã thế thì thôi, thôi mặc thế.
              Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu. (7)

              ----------

              (1), (2) Mười hai Bà Mụ : Thần thoại: Nữ thần đã nặn ra hình đứa bé sơ sinh và trông nom săn sóc nó cho đến năm 12 tuổi. tục lệ cũ ở ta đứa trẻ đầy tuổi tôi thì cúng Mụ. Câu này nói có sự bất hoà giữa mười hai Bà Mụ, nên đứa bé bẩm sinh đã không có sinh thực khí. Từ đây đưa đến đầu bài thơ là Quan thị: bọn hoạn quan, đám quan hầu hạ nhà Chúa thời bấy giờ.

              (3), (4) Các câu ca dao tiếu lâm đã được nhà thơ vận dụng: “Con gái mười bảy mười ba; Đêm nằm với mẹ chuột tha mất đồ”. – “Bà cốt đánh trống long tong; Nhảy lên nhảy xuống con ong đốt đồ”.

              (5), (6) Các câu tục ngữ được nhắc đến: “Ngồi lá vông, chổng mông lá trốc”. – “Đầu trở xuống, cuống trở lên”.

              (7) Nương dâu: do thành ngữ “Trên bộc trong dâu” chỉ thói dâm ô. “Ra tuồng trên bộc trong dâu; Thì con người ấy ai cầu làm chi” (Truyện Kiều). Đã là quan thị rồi thì khỏi mang tiếng ấy.
              __________________
               
              SƯ BỊ ONG CHÂM

              Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
              Đi đâu chẳng đội để ong châm?
              Đầu sư há phải gì... bà cốt, (1)
              Bá ngọ con ong bé cái nhầm. (2)
              ----------

              (1), (2) Vận dụng câu ca dao tiếu lâm đã nhắc đến trong câu thứ 4 bài Quan thị.
              __________________ CÁI KIẾP TU HÀNH (1)

              Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
              Vị gì một chút tẻo tèo teo.
              Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc, (2)
              Trái gió cho nên phải lộn lèo.
              ----------

              (1) Bài này nói về một nhà sư phá giới.

              (2) Xưa người ta gọi nước Ấn Độ là Tây Trúc, quê hương của Phật giáo.
              __________________ SƯ HỔ MANG

              Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,
              Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
              Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
              Vãi núp sau lưng sáu bảy bà.
              Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,
              Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
              Tu lâu có lẽ lên Sư cụ, (1)
              Ngất nghểu toà sen nọ đó mà.
              ----------

              (1) Sư cụ: Chủ nhân một ngôi chùa, người có uy tín và cao tuổi hơn cả chỉ có mặt trong các buổi lễ trọng của nhà chùa.
              __________________ ĐÁ ÔNG CHỒNG BÀ CHỒNG (1)

              Khéo khéo bày trò tạo hoá công,
              Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng.
              Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
              Thớt dưới sương pha đượm má hồng.
              Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt,
              Khối tình cọ mãi với non sông.
              Đá kia còn biết xuân già giặn, (2)
              Chả trách người ta lúc trẻ trung.
              ----------

              (1) Hiện vẫn chưa rõ xuất xứ của đá, chỉ mới nghe truyền ngôn.

              (2) Xuân già giặn, có nghĩa là già giặn tình xuân. Hồ Xuân Hương tỏ ra rất rộng lượng với tuổi trẻ.
              __________________ ĐÀI KHÁN XUÂN

              Êm ái chiều xuân (1) tới khán đài, (2)
              Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai!
              Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng, (3)
              Một vũng tang thương nước lộn trời. (4)
              Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
              Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
              Nào nào cực lạc là đâu tá, (5)
              Cực lạc là đây chín rõ mười. (6)
              ----------

              (1) Chiếu xuân: Vẻ xuân.

              (2) Khán đài: Trong trại Bách Thảo có một ngôi điện gọi là điện Khán Xuân. Khoảng năm 1916 còn quả núi Khán Sơn hai chỏm. Từ Khán Sơn đến Xuân Sơn hẳn là xóm Khán Xuân đầy thi vị của mạn Hồ Tây, Hà Nội. (Theo Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội của Hoàng Đạo Thuý – Hội Văn nghệ Hà Nội – 1971).

              (3), (4) Triêu mộ: Sớm chiều. Tang thương: Dâu bể. Theo nhà thơ Xuân Diệu thì “Hồ Xuân Hương là trong thơ có người, trong thơ có tiên, và trong thơ có quỷ. Tiên là những lúc…” như bốn câu đầu của bài thơ này.

              (5), (6) Ca ngợi cực lạc không chỉ ở cõi Nát Bàn, mà ở ngay trong cuộc sống trần gian là một đặc điểm của chủ nghĩa nhân đạo thế kỷ 18 và nửa đầu 19 của văn học truyền thống.
              __________________ CHÙA QUÁN SỨ

              Quán Sứ (1) sao mà cảnh vắng teo
              Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
              Chày kình (2), tiểu để suông không đấm,
              Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo.
              Sáng banh không kẻ khua tang mít (3),
              Trưa trật nào ai móc kẽ rêu.
              Cha kiếp đường tu sao lắt léo
              Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo!
              ----------

              (1) Chùa Quán Sứ: Thời cuối Lê -Trịnh thuộc huyện Thọ Xương. Bây giờ ở phố Quán Sứ, Hà Nội.

              (2) Chày kình: Chày tạc hình con cá kình bằng gỗ, thay cho vồ đánh chuông.

              (3) Tang mít: Tang trống làm bằng gỗ mít.
              __________________ ĐỀN SẦM NGHI ĐỐNG (1)

              Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
              Kìa đến thái thú(2) đứng cheo leo.
              Ví đây đổi phận làm trai được,
              Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
              ----------

              (1) Đền Sầm Nghi Đống trước ở ngõ Sầm Công nay là phố Đào Duy Từ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sầm Nghi Đống là tướng theo Tôn Sĩ Nghị sang ta chiếm đóng thủ đô Đông Kinh (Thăng Long). Nghị bị vua Quang Trung đánh đuổi về Tàu năm 1789. Sầm Nghi Đống chạy không kịp, thắt cổ tự tử ở nơi mà sau khi quan hệ bang giao đã trở lại bình thường vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ.

              (2)Thái thú: Đống làm tri huyện, khi sang Đông Đô được Tôn Sĩ Nghị cho làm chức thái thú.
              __________________ ĐỘNG HƯƠNG TÍCH (1)

              Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm (2)
              Nứt ra một lỗ hỏm hòm hòm.
              Người quen cõi Phật chen chân xọc,
              Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
              Giọt nước hữu tình rơi thánh thót, (3)
              Con thuyền vô trạo cúi lom khom. (4)
              Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại, (5)
              Rõ khéo trời già đến dở dom.
              ----------

              (1) Động Hương Tích: Động chính của chùa Hương trước thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông, nay là huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.

              (2) Khéo phòm: Như khéo phạm, thật là khéo!

              (3) Giọt nước... rơi: Các thạch nhũ trên cửa động luôn từng giọt rỏ xuống.

              (4) Vòm động có những chạm vẽ của thiên nhiên được hình dung ra cảnh trí như mặt trăng, con thuyền v.v... Vô trạo: Không có bơi chèo.

              (5) Nơi rừng suối (lâm tuyền) mà cuốn hút lại đây cả một cảnh phồn hoa đô hội.
              __________________ 

              CHỢ TRỜI CHÙA THẦY (1)

              Hoá công xây đá đắp bao đời,
              Nọ cảnh Sài Sơn (2) có chợ Trời.
              Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
              Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
              Bày hàng hoa quả tư mùa sẵn,
              Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
              Bán lợi mua danh nào những kẻ
              Chẳng lên mặc cả một đôi lời?

              ----------

              (1) Chợ Trời chùa Thầy, hay còn gọi là chợ Trời Sài Sơn cũng như chợ Trời Hương Tích, đều do các phiến đá sắp đặt của thiên nhiên trên một chóp núi được hình dung như một cái chợ của người ta. Với con mắt nhà thơ thì cảnh quan thiên nhiên của chợ Trời chùa Thày rất là kỳ thú.

              (2) Sài Sơn: Núi Sài Sơn có chùa Thầy, ở huyện Sài Sơn, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
              __________________
              #7
                lyenson 29.10.2008 18:45:08 (permalink)
                HANG THÁNH HOÁ (1)

                Khen thay con tạo khéo khôn phàm, (2)
                Một đố giương ra biết mấy ngoàm. (3)
                Lườn đá cỏ leo sở rậm rạp,
                Lách khe nước rỉ mó lam nham.
                Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
                Hai tiểu lưng tròn đứng giữa am.
                Đến mới biết là hang Thánh Hoá,
                Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!

                ----------

                (1) Tên cái hang trong chùa Thầy. Truyền rằng Từ Đạo Hạnh đã hoá ở đây nên gọi là Thánh Hoá.

                (2) Khôn phàm: Như khôn phạm.

                (3) Đố ngoàm: Thành ngữ "ngoàm nào đố ấy" nói về cách kiến trúc nhà ở xưa : Một mảnh đố tre thì ngoạm tre; đố gỗ thì ngoàm gỗ. Một đố nhiều ngoàm ở đây nói về cấu tạo hang động tự nhiên. Nếu coi cả vách động là một đố, thì vòm động với các hõm to, nhỏ là những ngoàm.
                __________________
                 
                HANG CẮC CỚ (1)

                Trời đất sinh ra đá một chòm,
                Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
                Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
                Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
                Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
                Con đường vô ngạn (2) tối om om.
                Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc (3)
                Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!
                ----------

                (1) Tên một cái hang ở trong chùa Thầy. Ca dao có câu: "Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ; Trai chưa vợ thì đến hội này".

                (2) Vô ngạn: Không có thành bờ tay vịn.

                (3) Xuyên tạc: Xoi và đục thông qua đá.
                __________________ KẼM TRỐNG (1)

                Hai bên thì núi giữa thì sông.
                Có phải đây là Kẽm Trống Không?
                Gió giật sườn non khua lắc cắc,
                Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
                Ở trong hang núi còn hơi hẹp,
                Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
                Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại, (2)
                Nào ai có biết nỗi bưng bồng. (3)
                ----------

                (1) Kẽm Trống ở huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, nay thuộc Nam Hà. Kẽm: Hẻm giữa hai sường núi dốc, giữa có lối đi.

                (2), (3) Bồng: Tên một thứ trống. Trong lễ hội xưa có điệu múa trống gọi là múa con đĩ (gái) đánh bồng.
                __________________ QUÁN KHÁNH (1)

                Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo, (2)
                Đường đi thiên thẹo quán cheo leo.
                Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
                Xo kẽ kèo tre đốt khẳng kheo. (3)
                Ba chạc cây xanh hình uốn éo,
                Một dòng nước biếc cành leo teo.
                Thú vui quên cả niềm lo cũ,
                Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
                ----------

                (1) Quán Khánh: Các công trình nghiên cứu và các văn bản có chú thích đều thống nhất ghi là ở tỉnh Thanh Hoá, song chưa rõ huyện nào.

                (2) Hắt heo: Âm chính xác là hắt hiu.

                (3) Khẳng kheo: Âm chính xác là khẳng khiu.
                __________________ ĐÈO BA DỘI (1)

                Một đèo, một đèo, lại một đèo,
                Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
                Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
                Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
                Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
                Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
                Hiền nhân quân tử ai là chẳng
                Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
                ----------

                (1) Đèo Ba Dội hay Ba đèo tên chữ là đèo Tam Điệp, thuộc huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Không phải Đèo Ngang như có sách đã nhầm.
                __________________ CẢNH CHÙA BAN ĐÊM

                Tình cảnh ấy, nước non này,
                Dẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đây,
                Hành Sơn (1) mực điểm đôi hàng nhạn, (2)
                Thức Lĩnh (3) đen trùm một thức mây.
                Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,
                Phất phơ sườn núi lá thu bay,
                Hỡi người quân tử đi đâu đó,
                Thấy cảnh sao mà đứng lượm tay. (4)
                ----------

                (1) Hành Sơn : Tên một ngôi chùa lớn của tỉnh Hàng Châu (Trung Quốc).

                (2) Đôi hàng nhạn : Nhạn, quạ, hoa sen v.v… được coi như các biểu trưng của nhà Phật. Chim nhạn chắp cánh thành hai hàng để trang trí trên mái chùa, tương tự như lưỡng long triều nguyệt ở các mái đình, đến v.v…

                (3) Thứu Lĩnh : Còn gọi là núi Linh Thứu ở Ấn Độ nơi thường ở của Phật Tổ lúc sinh thời.

                (4) Lượm tay : Lòng bàn tay phải áp vào nắm tay trái đặt trước ngực, một nghi thức cung kính (khác với chắp tay là hai lòng bàn tay ấp vào nhau đặt trước ngực). Trước cảnh đẹp thiên thần như vậy, mà người quân tử đầu óc cứ rỗng tuếch.
                __________________ CẢNH THU

                Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
                Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ, (1)
                Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
                Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
                Bầu dốc giang sơn say chấp rượu, (2)
                Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ (3)
                Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ,
                Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
                ----------

                Có sách gán cho Bà huyện Thanh Quan. Ở văn bản Landes 1893, bài thơ này không có đầu đề. Câu thứ hai là 'Đố ai vẽ được cảnh tiếu sơ' và có lời dẫn: "Ngày xưa Xuân Hương đi chơi gặp mưa, vào chơi thăm làng Văn Giáp, thấy có một chùa xưa, Xuân Hương và chùa lậy Phật, rồi đi xem ngoài chùa. Thấy bên chùa có cây đa. Ngửng lên xem thì cao ngút không biết tới đâu, cho nên làm bài thơ này (cây đa này đến này còn)". Ở bản Đông châu 1917, có lời dẫn: "Một ngày kia đang mùa quý thu, giời lún phún dăm ba hạt mưa, hơi ngăm ngăm rét, quan phủ nhân vô sự, mới sai bày cuộc rượu, cho gọi cô hai ra cùng ngồi uống rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu.Đương khi chén quỳnh đầu vơi, chiều thu hiu hắt, quan phủ liền bảo Xuân Hương vịnh bài tức cảnh. Thơ rằng..."

                (1) Tiêu sơ : Cảnh sắc sơ sài mà thanh nhã.

                (2), (3) Chất men say của bầu non sông dốc cạn vào tâm hồn nữ sĩ còn say hơn rượu nhiều, không cần phải mượn rượu để tăng cảm xúc nữa. Non sông là bầu rượu lớn của nhà thơ.

                Túi thơ : Túi bằng lục đựng những mảnh giấy ghi lại những tứ thơ hoặc bài thơ của tác giả. Túi thơ tuy nhẹ và tư liệu đựng cũng không đầy, song tình thơ chất chứa trong đó ghi lại cảnh vật gió trăng của thiên nhiên thì nặng : Nhà thơ nặng tình với cảnh đẹp thiên nhiên cần phải ghi lại bằng nhu74nh tứ thơ, câu thơ, bài thơ tuyệt tác.
                __________________
                TRĂNG THU

                Một trái trăng thu chín mõm mòm,
                Nảy vừng quế đỏ (1) đỏ lòm lom!
                Giữa in chiếc bích (2) khuôn còn méo,
                Ngoài khép đôi cung (3) cánh vẫn khòm.
                Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
                Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom. (4)
                Hỡi người bẻ quế (5) rằng ai đó,
                Đó có Hằng Nga (6) ghé mắt dòm.
                ----------

                (1) Quế đỏ: Huyền thoại nói trong mặt trăng có cây quế đỏ.

                (2) Chiếc bích: Chiếc ngọc bích hình tròn dẹt, giữa có lỗ, người ta gọi mặt trăng là bích nguyệt.

                (3) Người ta thường ví đường cong của mặt trăng như người tráng sĩ giương cánh cung.

                (4) Ca dao: "Thằng Cuội ngồi gốc cây đa; Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời..." ở đây vì tức tối nên thằng Cuội không ngồi mà đứng.

                (5) Bẻ cành quế đỏ (đan quế) trên cung trăng, chỉ người thi đỗ tiến sĩ.

                (6) Hằng Nga: Huyền thoại nói Hằng Nga vợ Hậu Nghệ ăn trộm thuốc tiên của chồng do bà Tây Vương mẫu cho, rồi một mình trốn lên ở cung trăng.
                __________________ HỎI TRĂNG

                Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,
                Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
                Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi? (1)
                Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?
                Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?
                Ngày xanh sao lại thẹn vừng son? (2)
                Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
                Hay có tình riêng với nước non?

                ----------

                (1) Ngọc Thỏ: Huyền thoại nói trên mặt trăng có con Thỏ Ngọc ngồi giã thuốc trường sinh.

                (2) Vừng son: Chỉ mặt trời.
                __________________
                #8
                  lyenson 30.10.2008 06:22:48 (permalink)
                  CÂU ĐỐI LƯU TRUYỀN (1)
                   
                  * Tối ba mươi khép cánh kiền khôn, ních chặt lại kẻo ma vương bồng qủy tới.

                  Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào.


                  * Khéo khen ai, đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá.

                  Gớm con tạo, lừa cơ tem hẻm, rút nút xuôi cho lọt khách cổ kim.


                  * Mặc áo giáp, dải cài chư đinh; mậu, kỷ, canh, khoe mình rằng quý.

                  Làm đĩ càn, tai đeo hạt khảm; tốn, ly, đoài khéo nói rằng khôn.


                  *Thị vào chầu, thị đứng thị xem, thị thấy thèm thị không có ấy. (Thị: quan thị).

                  Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ múa, vũ mắc mưu vũ ướt cả lông. (Vũ: quan võ).

                  ----------

                  (1) Chúng tôi chọn mấy câu đối này, nhưng không rõ vế nào của Hồ Xuân Hương, vế nào của người khác, vì giai thoại truyền lại có khác nhau.
                  __________________
                  #9
                    lyenson 31.10.2008 17:05:13 (permalink)
                    LƯU HƯƠNG KÝ
                     
                    Lưu hương ký mới được phát hiện từ năn 1964, bao gồm thơ chữ Hán và chữ Nôm, đầu đề ghi là của Xuân Hương, người Nghệ An, sáng tác ở Cổ Nguyệt đường. Tập thơ ghi lại tâm sự và tình cảm của tác giả với các bạn trai của mình, như Tốn Phong Thị, Hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần; Mai Sơn Phủ; Chí Hiên; đặc biệt còn có cố nhân của nữ sĩ họ Hồ là Cần chánh học sĩ Nguyễng hâu, tức đại thi hào Nguyễn Du. Tình cảm thắm thiết, táo bạo, nghệ thuật già dặn. Phong cách thơ trong Lưu hương ký có gì không thật ăn khớp với phong cách những bài thơ Nôm vốn đã được truyền tụng lâu nay của bà.

                    Ý kiến của các nhà nghiên cứu có phần bị phân rẽ về việc xác định tác giả đích thực của Lưu hương ký. Tuy vậy, ngày càng có nhiều người khẳng định tác giả Lưu hương ký không thể ai khác ngoài Hồ Xuân Hương. (1)

                    Các bài dịch từ văn bản chữ Hán trong phần này là của các ông Hoàng Xuân Hãn, Trần Thanh Mại, Đào Thái Tôn, Nguyễn Lộc… Bài Tựa tập thơ Lưu hương ký của Tốn Phong Thị, chúng tôi xin giới thiệu ở một phần dưới cho bố cục tập sách được thống nhất.

                    ----------

                    (1) Xem Đào Thái Tôn: Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục (Nxb Giáo dục. H. 1993).
                    __________________


                    NGỤ Ý TỐN PHONG (1),
                    KÝ NHỊ THỦ (*)

                    I

                    Chồn bước may đâu khéo hẹn hò
                    Duyên chi hay bởi nợ chi ru?
                    Sương xoa áo lục nhồi hơi xạ,
                    Gió lọt cành lê lướt mặt hồ.
                    Muốn chắp chỉ đào theu trướng gấm,
                    Mà đem là thắm thả dòng Tô.
                    Trong trần mấy kẻ tinh con mắt
                    Biết ngọc mà trao mới kể cho.

                    ----------

                    (*) Hai bài ngụ ý gửi Tốn Phong Thị.

                    (1) Chưa rõ Tốn Phong Thị là ai? Theo bài tựa, ông họ Phan. Còn tên, có lẽ là Huân, nghĩa là “Nam Phong” (gió Nam), cũng gọi là Tốn Phong. Nham Giác là tên hiệu. Nham Giác phu là “anh chàng ẩn ở núi nhưng hiểu sự đời”.
                    __________________
                     




                    II





                    Đường hoa dìu dặt bước đông phong
                    Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công.
                    Lạ mặt dán quen cùng gió nước,
                    Nặng lòng nên nhẹ đến non sông.
                    Da trời nắng nhuôm tười màu biếc,
                    Phòng gấm trăng in dãi thức hồng.
                    Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ,
                    Trước trăm năm hẳn nợ chi không?

                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.10.2008 17:08:22 bởi lyenson >
                    #10
                      lyenson 01.11.2008 09:34:50 (permalink)
                      TỐN PHONG ĐẮC MỘNG CHI
                      DỮ NGÃ KHAN NHÂN
                      THUẬT NGÂM TỊNH KÝ
                      (*)

                      Nhớ ai mà biết nói cùng ai
                      Rằng chữ đồng ta quyết một hai.
                      Hoa liễu vui đâu mình dễ khéo,
                      Non sông đành giả nợ còn dài.
                      Chén tình dầu nhẫn lâu mà nhạt
                      Giải ước nguyền âu thắm chẳng phai.
                      Đày đoạ duyên trần thôi đã định.
                      Xương giang duềnh để ngắm tương lai.

                      ----------

                      (*) Tốn Phong Thị nằm mộng ghi lại mang cho xem, nhân đó ghi, thuật lại bằng thơ.

                      Xin lưu ý bạn đọc, trong Lưu hương ký, các bài thơ Nôm lại có đầu đề bằng chữ Hán.
                      __________________
                       HỌA TỐN PHONG NGUYÊN VẬN (1)



                      Kiếp này chẳng gặp nữa thì liều,
                      Những chắc trăm năm há bấy nhiêu.
                      Nghĩ lại huống đau cho phận bạc,
                      Nói ra thêm nhẹ với thân bèo.
                      Chén thề thủa nọ tay còn dính,
                      Món tóc thời xưa cánh vẫn đeo.
                      Được lứa tài tình cho xứng đáng,
                      Nghìn non muôn nước cũng tìm theo.

                      ----------

                      (1) Hoạ nguyên vần thơ ông Tốn Phong.
                      __________________

                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.11.2008 09:56:07 bởi lyenson >
                      #11
                        lyenson 02.11.2008 08:34:23 (permalink)
                        TẶNG TỐN PHONG TỬ (*)
                        (Họa vận tại hậu)
                        Bướm ong mừng đã mấy phen nay,
                        Hồng nhạn xin đưa ba chữ lại;
                        Dám đâu mưa gió giở bàn tay,
                        Những sự ba đào xeo tấc lưỡi,
                        Nam Bắc xa xa mấy dặm đây,
                        Hải sơn ước để ngàn năm mãi,
                        Bức tranh khôn vẽ tấm lòng ngay.
                        Tơ nguyệt rày xe ba mối lại,
                        Hỏi khách đa tình nhỏ có hay.
                        Năm canh hồn bướm thêm bơ bải

                        ----------

                        (*) Tặng chàng Tốn Phong. Dưới đầu đề có ghi rõ "Hoạ vận tai hậu" (hoạ vần ở phía sau), nhưng không thấy bài thơ hoạ. Bài thơ còn như dang dở. Thể thơ ít gặp. Có thể là một điệu ca từ nào đó ? Hai chữ bơ bải là phiên âm tạm.
                        __________________
                         
                        BẠCH ĐẰNG GIANG TẶNG BIỆT (*)
                        Khấp khểnh đường mây bước lại dừng,
                        Là duyên là nợ phải hay chăng.
                        Vịn hoa khéo kẻo lay cành gấm,
                        Vục nước xem mà động bóng giăng.
                        Lòng nọ chớ rằng mây nhạt nhạt
                        Lời kia này đã núi giăng giăng.
                        Với nhau tình nghĩa sao là trọn,
                        Chớ thói lưng voi cỡ nước Đằng. (1)

                        ----------

                        (*) Tặng bạn khi chia biệt ở sông Bạch Đằng.

                        (1) Lưng vơi cỡ nước Đằng: Nước Đằng là nước nhỏ ở thời Xuân Thu Chiến Quốc, bị ép giữa hai nước lớn là Tề, Sở nên luôn phải giữ gìn. Đây chỉ sự lúng túng của người đa thê.
                        __________________ LƯU BIỆT THỜI TẠI AN QUẢNG, AN HƯNG NGỤ THỨ (*)

                        Người về người ở khéo buồn sao,
                        Tức tối mình thay biết lẽ nào.
                        Tơ tóc lời kia còn nữa hết,
                        Đá vàng lòng nọ xiết là bao.
                        Nổi cơn riêng giận ngày giời ngắn,
                        Mỏi mắt chờ xem bóng nguyệt cao.
                        Sớm biết lẽ giời lí có hợp,
                        Thì mười năm trước bận chi nao.

                        ----------

                        (*) Ghi lại lúc chia tay tại An Quảng, An Hưng.
                        __________________



                         
                         
                        #12
                          lyenson 04.11.2008 14:25:39 (permalink)
                          CẢM CỰU KIÊM TRÌNH CẦN
                          CHÁNH HỌC SĨ NGUYỄN HẦU
                          (*)
                          (Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân)
                           
                          Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
                          Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
                          Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
                          Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
                          Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
                          Phấn son càng tủi phận long đong.
                          Biết còn mảy chút sương siu mấy, (1)
                          Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
                          ----------

                          (*) Nhớ người cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu.

                          Sau đầu đề trên, tác giả có chú: "Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân" (Hầu người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Như vậy, ở đây Nguyễn Hầu đúng là Nguyễn Du tiên sinh (1765 - 1820), tác giả Truyện Kiều. Tước Hầu vào hàng á khanh, dưới tước Công - Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi rõ mùa hè năm Kỉ Tỵ (1809), Nguyễn Du được bổ làm cai bạ Quảng Bình. Tháng 2 năm Quý Dậu (1813) ông được phong Cần chánh điện học sĩ, rồi được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc tuế cống.

                          (1) Sương siu: bịn rịn, quấn quít. Cách đọc chữ Nôm xưa, một chữ có thể đọc nhiều âm: Mái, mấy; An, yên; Buồng, phòng… Từ mấy ở đây nếu hiểu theo ngữ nghĩa thì có nghĩa là với. Cả câu này có thể hiểu: “Nguyễn Du có còn mảy may vương vít chút nào với mình nữa chăng?“ Trong khi đó, Hồ Xuân Hương – như ý câu sau – vẫn nhớ người cũ, một mình một bóng, chong đèn ngồi suốt năm canh.
                          __________________
                           
                          THU NGUYỆT HỮU ỨC
                          MAI SƠN PHỦ KÝ
                          (*)
                           Lá ngọc chiều thu giận hẳn du
                          Tuần trăng sẽ nhớ bữa đêm thu.
                          Bên am Nhất Trụ trông còn đấy,
                          Ngọn nước Tam Kì chảy lại đâu. (1)
                          Son phấn trộm mừng duyên để lại,
                          Bèo mây thêm tủi phận về sau.
                          Trăm năm biết có duyên thừa nữa,
                          Cũng đỏ tay tơ cũng trắng đầu.
                          ----------

                          (*) Đêm thu, nhớ Mai Sơn Phủ, gởi bài này.

                          (1) Nguyên chú: “Đã giải kết đưa tình”. Giải kết theo Đào Duy Anh là “Gửi mối tình kết buộc với nhau (dénouer) “Còn giải kết đưa tình là gì? Chưa rõ lắm.
                          __________________
                          #13
                            lyenson 04.11.2008 15:47:57 (permalink)
                            HỌA SƠN PHỦ CHI TÁC (*)
                             
                            Này đoạn chung tình biết mấy nhau,
                            Tiễn đưa ba bước cũng nên câu.
                            Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
                            Trước mặt đi về gấp bóng câu.
                            Nước mắt trên hoa là lỗi cũ.
                            Mùi hương trong nệm cả đêm thâu.
                            Vắng nhau mới biết tình nhau lắm,
                            Này đoạn chung tình biết mấy nhau.

                            ----------

                            (*) Hoạ lại thơ Mai Sơn Phủ. Chưa rõ Mai Sơn Phủ là ai?.
                            __________________
                             
                            NGUYỆT DẠ CA (I)
                             Lộ như châu hề nguyệt như sai,
                            Thúc vãng lai hề chiếu dư hoài.
                            Uyển cố nhân hề thiên nhai,
                            Ái bất kiến hề tâm bồi hồi.
                            Đài hoang Thần nữ miếu,
                            Vân tán Sở vương đài.
                            Minh nguyệt quang như hử,
                            Ngã tư nhân chi hề, yên tại tai.

                            Dịch nghĩa : BÀI CA ĐÊM TRĂNG (I) Sương như hạt châu chừ, trăng như ngọc
                            Vụt qua lại chừ, soi chiếu lòng ta
                            Người xưa dịu dàng chử phương trời
                            Yêu nhưng không gặp chừ lòng bồi hồi
                            Rêu hoang miếu Thần Nữ (1)
                            Mây tan đài Sở Vương
                            Ánh trăng sáng như vậy
                            Người mà ta nhớ chù, ở nơi đâu?
                            ----------

                            (1) Thần Nữ miếu ở phía đông Vu Sơn, tỉnh Tây Xuyên. Con gái của Xích đế là Giao Cơ chết, chôn ở Bắc vu Sơn, Sở Hoài Vương đi chơi ở Vu Sơn, tới Dương Đài nằm mơ giao hoan cùng nữ thần, bèn lập miếu thờ.
                            __________________ NGUYỆT DẠ CA (II) Hoa kỳ tự hề ba kỳ thi,
                            Hà vi thường hề vân vi y,
                            Diệc ký cấu hề ngã tâm tắc di,
                            Ngữ hạt ký hề thê trì,
                            Sầu lưu Tương thuỷ thính,
                            Muộn áp Thục sơn đê,
                            Nhật nguyệt hề vô căn hề,
                            Tình chi sở chung,
                            Bất tri kỳ kỳ.

                            Dịch nghĩa : BÀI CA ĐÊM TRĂNG (II)

                            Hoa là chữ chừ nhuỵ là thơ
                            Dáng làm xiêm chừ mây làm áo
                            Cũng là gặp nhau chừ, lòng ta thảnh thơi
                            Lời sao đà chừ chậm trễ
                            Nghe sầu trôi trên sông Tương
                            Nén nỗi buồn tới núi Thục (1)
                            Tháng ngày không gốc rễ chừ
                            Nơi tình hội tụ
                            Biết hẹn khi nào.
                            ----------

                            (1) Sông Tương (Tương thủy): còn gọi là Tương Giang, bắt nguồn từ núi Duyên huyện Hưng Yên, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Núi Thục (Thục Sơn) ở phía đông nam huyện Tuyên Hưng, tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), là những danh lam thắng cảnh nổi tiếng.
                            __________________ THỆ VIẾT HỮU CẢM (*)
                            Mười mấy năm trời một chữ tình
                            Duyên tơ này đã sẵn đâu đành
                            Mái mây cắt nửa nguyền phu phát
                            Giọt máu đầy hai chén tử sinh
                            Một kiếp đã thề cùng dạ thắm
                            Trăm năm đừng phụ với đầu xanh
                            Mai sau lòng chẳng như lời nữa
                            Dao búa nguyền xin luỵ đến mình.
                            ----------

                            (*) Có cảm xúc khi viết lời thề.
                            __________________
                            #14
                              lyenson 05.11.2008 08:18:56 (permalink)
                              DỮ SƠN NAM THƯỢNG HIỆP TRẤN
                              QUAN TRẤN HẦU XƯỚNG HỌA
                              (*)
                               
                              I. Xuân Hương xướng :

                              Bình thuỷ tương phùng (1) nguyệt hạ tôn
                              Cương trường phiến phiến thuộc nan ngôn
                              Khiêu cầm hữu ý minh hoàng xướng
                              Nhiễu thụ vô đoan ngữ thước huyên.
                              Thuỳ tục già thanh quy Han khuyết
                              Tự tu liên bộ xuất Hồ môn
                              Bán diên biệt hậu tình đa thiếu
                              Mạch mạch không li Sảnh Nữ hồn. (3)
                               
                              (*) Xướng họa cùng ông Trần hầu – quan Hiệp trấn Sơn Nam thượng.

                              (1) Bình thuỷ tương phùng : Bèo nước gặp nhau: chỉ việc ngẫu nhiên gặp gỡ. Vương Bội có câu: "Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chỉ khách" (bèo nước gặp nhau thảy đều là khách tha hương). Trong văn chương, bèo nước, ngọn bèo, phận bèo... còn để chỉ người phụ nữ: "Phận bèo bao quản nước sa - Lênh đênh đâu cũng là lênh đênh" "Ngọn bèo chân sóng lạc loài - Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu li" (Kiều).

                              (2) Sảnh nữ hồn: Sảnh Nương là con gái Trương Dật, muốn lấy Vương Trụ. Cha mẹ không bằng lòng. Nàng ốm liệt gường. Vương Trụ buồn bỏ đi, thấy Sảnh Nương theo. Hai người lấy nhau, trốn đi xa làm ăn, năm năm sau về nhà xin lỗi bố mẹ. Bố mẹ Sảnh Nương sửng sốt vì năm năm qua Sảnh Nương vẫn nằm liệt gường. Khi vợ chồng vào đến sân, Sảnh Nương chạy ra đón. Hai Sảnh Nương ôm nhau nhập làm một. Thì ra suốt năm năm qua, hồn Sảnh Nương đã lìa khỏi xác theo Vương Trụ.

                              Dịch thơ :

                              Gặp gỡ dưới trăng chuốc chén mời,
                              Lòng son đòi đoạn chẳng nên lời.
                              Khúc đàn ai gảy đà đưa ý,
                              Ngoài ngõ khách kêu chẳng thấy người.
                              Ai chuộc tiếng kèn về Hán đó ?
                              Tủi lê gót ngọc đất Hồ rồi!
                              Biệt li dở tiệc tình lưu luyến,
                              Hồn Sảnh sầu đau mạch mạch khơi.
                              (TRẦN THANH MẠI dịch)
                               
                              II. Xuân Hương xướng :

                              E lệ đàn tao dám cất cờ.
                              Phong tình chước ấy đã hay chưa.
                              Đem lời vàng ngọc gieo nên tiếng,
                              Sẻ nợ tang bồng giả với thơ,
                              Gặp gỡ cũng là trong bốn bể,
                              Phao tung kẻo thẹn trước nghìn xưa.
                              Sau này dầu có bao nhiêu nữa.
                              Dầu có bao nhiêu mặc bấy giờ.
                               
                              III. Xuân Hương họa :

                              Quỹ vô tài điệu sử nhân kinh,
                              Thập tải phong trần quán nhi linh.
                              Di thị lâm bình tri địch thủ,
                              Mạc tu sao nguyệt (1) khổ đàn tinh.
                              Vị luân vị đạn tuỳ tao ngộ,
                              Thuỳ phượng thuỳ oanh nhậm phú sinh.
                              Tạo vật ư nhân hà câu tích,
                              Minh châu hưu hướng ám trung trình.
                               
                              Dịch nghĩa :
                               
                              Tôi thẹn vì không đủ tài điệu để người khiếp sợ,
                              Mười năm gió bụi đã quen rồi,
                              Đã là ngồi trước bàn cờ thì biết địch thủ,
                              Làm chi phải chọn ý chọn tứ khổ sở vỉ thơ. (2)
                              Là bánh xe hay viên đạn là do hoàn cảnh,
                              Là phượng hay loan vốn bẩm sinh.
                              Tạo vật đối với con người không phú bẩm cẩu thả.
                              Nên đã là hạt trai sáng thì chớ đem ra bóng tối.
                              ----------

                              (1) Xao nguyệt: Giả Đảo làm được câu thơ “Điền túc tri trung thụ - Tăng thôi nguyệt hạ môn”. Đắn đo mãi xem nên dùng chữ “Thôi nguyệt” hay “Xao nguyệt”. Từ đó, Thôi xao, xao nguyệt, chỉ việc lựa chọn chữ dùng trong văn thơ.

                              (2) Dịch chữ khổ đàn. “Khổ đàn” có lẽ lấy ý “Khổ trung tác nhạc” – sáng tác âm nhạc trong cảnh khốn khổ. Ý nói quá căng thẳng trong hoạt động sáng tác văn chương.
                              __________________
                               
                              IV. Xuân Hương họa :
                              Hàn danh cửu ngưỡng hỉ tương phùng,
                              Cận tiếp quang nghi nhật chính đông.
                              Hậu ý thuỷ giao tri thuỷ đạm,
                              Tình hoài sơ ẩm giác thuần nùng.
                              Ngô châu thanh khí hoàn tương thượng,
                              Ngã bối tài tình chính sở chung.
                              Ác thủ đàm tâm quân mạc quái,
                              Lục giang nhất khứ thuỷ thiên trùng. Dịch nghĩa :
                              Bấy lâu ngưỡng mộ tiếng văn chương nay mừng được gặp mặt
                              Lại được tiếp cận với dung nghi vào buổi hừng đông.
                              Vốn sẵn nhã ý nên chưa biết nhau đã biết tính tình thanh đạm.
                              Chén tình vừa nhấp đã nồng nàn, đôn hậu
                              Thanh khí của châu ta còn được ưa chuộng
                              Tài tình của chúng ta chính là chung đúc nơi đây
                              Cầm tay thổ lộ nỗi lòng, xin chàng chớ ngại.
                              Vì sau khi chàng tới Lục Đầu giang, lại xa nhau non nước muôn trùng. V. Xuân hương họa : Thắc mắc sầu riêng khó giở ra,
                              Đêm tàn khêu mãi thấy thêm hoa.
                              Muốn về nhưng có về sao đến,
                              Biếng nói song le nói được mà.
                              Sông Bắc trông chừng chênh bóng thỏ,
                              Lầu Nam nghe đã trống canh gà.
                              Trăm năm gặp gỡ là bao nả,
                              Thắc mắc sầu riêng khó giở ra. VI. Xuân Hương xướng :
                              Ma diệt thông minh giảm kiến linh,
                              Tái mao tâm khiếu thăng như đình.
                              Chỉ duyên tuỳ phận cấp bôn tẩu,
                              Vị đắc phóng hoài tề nhục vinh.
                              Đầu thượng tuyết sương thần diệc quyện,
                              Vẫn dư tao phách vị phi hinh.
                              Liên hương tình chủng si ư ngã,
                              Tiễn tận hàn đăng bất yên canh.
                              Dịch nghĩa : Cuộc sống mài diệt sự thông minh, làm giảm hết những điều mắt thấy tai nghe.
                              Giác quan mờ tối chỉ còn thân như lá cỏ.
                              Chỉ vì tùy phận nên phải long đong bôn tẩu
                              Chưa có cái nhìn thoáng đạt để coi vinh nhục ngang nhau
                              Trên đầu đã điểm sương tinh thần cũng mỏi mệt.
                              Có ai bảo mùi vị cám bã dư thừa là thơm !
                              Thương giống tình quê say đắm hơn ta,
                              Khêu cạn ngọn đèn tàn trong đêm lạnh còn thích ngâm vịnh.
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 26 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9