Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
Thay đổi trang: << < 101112 > | Trang 10 của 12 trang, bài viết từ 136 đến 150 trên tổng số 178 bài trong đề mục
Anh Nguyên 06.11.2008 09:18:43 (permalink)
 
NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC
(Kỳ tam)

寓 居 同 谷 縣 作 其 三
 
有 弟 有 弟 在 遠 方
三 人 客 瘦 何 人 強
生 別 展 轉 不 相 見
胡 塵 暗 天 道 路 長
前 飛 駕 鵝 後 鶖 鶬
安 得 送 我 置 汝 旁
嗚 呼 三 歌 兮 歌 三 發
汝 歸 何 處 收 兄 骨     
杜 甫

Hữu đệ hữu đệ tại viễn phương,
Tam nhân các sấu hà nhân cường.
Sinh biệt triển chuyển bất tương kiến,
Hồ trần ám thiên đạo lộ trường.
Tiền phi giá nga hậu thu thương,
An đắc tống ngã trí nhữ bàng.
Ô hô tam ca hề ca tam phát,
Nhữ quy hà xứ thu huynh cốt.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làm khi ở huyện Đồng-Cốc
(Bài ba)
 
Có em trai ở phương xa,
Ai là người khoẻ! cả ba đều gầy.
Sống trôi nổi, gặp sao đây?!
Bụi Hồ mờ mịt, đường đầy xa xôi.
Ngỗng bay trước, vạc theo đuôi,
Sao đưa ta tới các người em ta.
Hát lên bài hát thứ ba,
Xương, em về hốt, biết ta nơi nào!...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 09:54:14 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 09:33:38 (permalink)
NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC
(Kỳ tứ)
 
寓 居 同 谷 縣 作 其 四
 
有 妹 有 妹 在 鍾 離
良 人 早 歿 諸 孤 痴
長 淮 浪 高 蛟 龍 怒
十 年 不 見 來 何 時
扁 舟 欲 往 箭 滿 眼
杳 杳 南 國 多 旌 旗
嗚 呼 四 歌 兮 歌 四 奏
林 猿 為 我 啼 清 晝   
杜 甫
 
Hữu muội hữu muội tại chung ly,
Lương nhân tảo một chư cô si.
Trường hoài lãng cao giao long nộ,
Thập niên bất kiến lai hà thì.
Biên chu dục vãng tiễn mãn nhãn,
Diểu diểu nam quốc đa tình kỳ.
Ô hô tứ ca hề ca tứ tấu,
Lâm viên vị ngã đề thanh trú.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làm khi ở huyện Đồng-Cốc
(Bài bốn)
 
Có em gái ở Chung-Ly,
Chồng thì chết sớm, con thì điên luôn.
Sông Hoài, sóng lớn, thuồng luồng,
Mười năm chẳng có một hôm trở về.
Đi thuyền, tên bắn thấy ghê,
Miền nam, cờ giặc bốn bề tung bay.
Hát lên bài thứ tư này,
Vượn vì ta hú lên ngay trong rừng...
Anh-Nguyên                 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 09:56:40 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 09:46:54 (permalink)
 
NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC               
(Kỳ ngũ)
 
同 谷 縣 作 其 五

四 山 多 風 溪 水 急
寒 雨 颯 颯 枯 樹 濕
黃 蒿 古 城 雲 不 開
白 狐 跳 梁 黃 狐 立
我 生 何 為 在 窮 谷
中 夜 起 坐 萬 感 集
嗚 呼 五 歌 兮 歌 正 長
魂 招 不 來 歸 故 鄉
杜 甫

 
Tứ sơn đa phong khê thủy cấp,
Hàn vũ táp táp khô thụ thấp.
Hoàng cao cổ thành vân bất khai,
Bạch hồ thiêu lương hoàng hồ lập.
Ngã sinh hà vi tại cùng cốc,
Trung dạ khởi tọa vạn cảm tập.
Ô hô ngũ ca hề ca chính trường,
Hồn chiêu bất lai quy cố hương.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làm khi ở huyện Đồng-Cốc
(Bài năm)

Bốn bên gió núi, khe gào,
Ào ào mưa đổ thấm vào cây khô.
Thành xưa cỏ úa, mây mờ,
Chuyền cành cáo trắng, đứng trơ cáo vàng.
Hang, ta sao lại buộc ràng,
Nửa đêm ngồi dậy, nghĩ càng triền miên.
Bài năm, tiếng hát ngân lên,
Gọi hồn chẳng lại, về miền quê xưa!...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 09:58:55 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 10:18:50 (permalink)
 
NGỤ Ư ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC             
(Kỳ lục)
 
寓 居 同 谷 縣 作 其 六
 
南 有 龍 兮 在 山 湫
古 木 寵 嵷 枝 相 樛
木 葉 黃 落 龍 正 蟄
蝮 蛇 東 來 水 上 游
我 行 怪 此 安 敢 出
拔 劍 欲 斬 且 復 休
嗚 呼 六 歌 兮 歌 思 遲
溪 壑 為 我 迴 春 姿
杜 甫

 
Nam hữu long hề, tại sơn thu,
Cổ mộc lung tùng chi tương cù.
Mộc diệp hoàng lạc long chính trập,
Phục xà đông lai thủy thượng du.
Ngã hành quái thử an cảm xuất,
Bạt kiếm dục trảm thả phục hưu.
Ô hô lục ca hề ca tứ trì,
Khê hác vị ngã hồi xuân tư.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làm khi ở huyện Đồng-Cốc
(Bài sáu)
 
Phương nam, đầm núi có rồng,
Ngất cao, cổ thụ cành lồng vào nhau.
Rồng khoanh, lá úa đổ mau,
Phương đông, rắn lại đuổi nhau mặt đầm.
Ta đi, ngại chửa bước chân,
Rút gươm muốn chém, tần ngần lại thôi.
Hát bài thứ sáu, chưa rồi,
Khe, hang, Xuân đến đầy trời vì ta...
Anh-Nguyên 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:02:20 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 19:56:52 (permalink)
 

NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC
(Kỳ thất)

寓  居  同  谷  縣  作 其  七
 
男  兒  生  不  成  名  身  已  老
三  年  饑  走  荒  山  道
長  安  卿  相  多  少  年
富  貴  應  須  致  身  早
山  中  儒  生  舊  相  識
但  話  宿  昔  傷  懷  抱
嗚  呼  七  歌  兮  悄  終  曲
仰  視  黃  天  白  日  速
杜  甫

 
Nam nhi sinh bất thành danh thân dĩ lão,
Tam niên cơ tẩu hoang sơn đạo.
Trường an khanh tướng đa thiếu niên,
Phú quý ưng tu trí thân tảo.
Sơn trung nho sinh cựu tương thức,
Đãn thoại túc tích thương hoài bão.
Ô hô thất ca hề tiễu chung khúc,
Ngưỡng thị hoàng thiên bạch nhật tốc
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làm khi ở huyện Đồng Cốc
(Bài bẩy)
 
Trai chưa danh phận, già rồi,
Ba năm đói khát ở nơi núi rừng.
Trường-An, khanh tướng trẻ trung,
Giàu sang, thân sớm vẫy vùng, cửa son.
Nhà Nho quen biết núi non,
Kể nhau chí lớn xưa, còn tiếc thương.
Hát bài thứ bảy dứt luôn,
Nhìn trời cao thẳm, ngày thường qua mau...
Anh-Nguyên

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:03:42 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 20:12:26 (permalink)
   
HÀN GIÁP  
 
寒 峽 
 
行 邁 日 悄 悄,
山 谷 勢 多 端。
雲 門 轉 絕 岸,
積 阻 霾 天 寒。
寒 峽 不 可 度,
我 實 衣 裳 單。
況 當 仲 冬 交,
溯 沿 增 波 瀾。
野 人 尋 煙 語,
行 子 傍 水 餐。
此 生 免 苛 殳,
未 敢 辭 路 難。            
杜 甫 

Hành mại nhật tiễu tiễu,
Sơn cốc thế đa đoan.
Vân môn chuyển tuyệt ngạn,
Tích trở mai thiên hàn.
Hàn Giáp bất khả độ,
Ngã thực y thường đơn.
Huống đương trọng đông giao,
Tố diên tăng ba lan.
Dã nhân tầm yên ngữ,
Hành tử bàng thuỷ xan.
Thử sinh miễn hà thù,
Vị cảm từ lộ nan.          
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Kẽm Hàn Giáp
 
Âm thầm đi mãi, ngày qua,
Đường hang ngoắt ngoéo thật là khó đi.
Cửa, bờ mây phủ mầu chì,
Đã lâu tụ lại, trời thì lạnh hung.
Kẽm Hàn Giáp, vượt được không?!!
Áo quần ta mặc vô cùng mỏng manh.
Trọng Đông lại đến thật nhanh,
Ngược dòng sóng gió lại thành khổ thêm.
Dân tìm lửa khói chuyện đêm,
Người đi ăn vội, sông bên, ngại gì.

Kẻ thù, tránh được, nên đi,
Dẫu đường có khó ngại gì gian nan...
Anh-Nguên

<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:07:16 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 20:23:13 (permalink)
 
CẦM ĐÀI
 
琴 臺
 
茂 陵 多 病 後,
尚 愛 卓 文 君,
野 肆 人 間 世,
琴 臺 日 暮 雲,
野 花 留 寶 靨,
芳 草 見 羅 裙,
歸 鳳 求 凰 意,
寥 寥 不 可 聞。
杜 甫
 
Mậu lăng đa bệnh hậu,
Thượng ái trác văn quân.
Tửu tứ nhân gian thế,
Cầm đài nhật mộ vân.
Dã hoa lưu bảo diện,
Mạn thảo kiến la quần.
Quy phượng cầu hoàng ý,
Liêu liêu bất phục văn...
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Lầu đàn
 
Sau khi (Tương-Như) tỉnh ở Mậu-Lăng,
Trác-Văn-Quân, vẫn yêu nàng chẳng phai.
Lại bày bán rượu sinh nhai,
Chiều, đàn, mây phủ lầu hoài không tan.
Hoa đồng, trang điểm mặt nàng,
Cỏ hoang, quần lụa còn đang bám đầy.
‘‘Phượng tìm Hoàng’’, ý thật hay,
Đã lâu, vắng bặt khúc này chẳng nghe...
Anh-Nguyên         
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:08:57 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 20:34:17 (permalink)

TẨY BINH MÃ
 
洗 兵 馬
 
中 興 諸 將 收 山 東,
捷 書 夜 報 清 晝 同。
河 廣 傳 聞 一 葦 過,
胡 危 命 在 破 竹 中。
只 殘 鄴 城 不 日 得,
獨 任 朔 方 無 限 功。
京 師 皆 騎 汗 血 馬,
回 紇 喂 肉 葡 萄 宮。
已 喜 皇 威 清 海 岱,
常 思 仙 仗 過 崆 峒。
三 年 笛 里 關 山 月,
萬 國 兵 前 草 木 風。
成 王 功 大 心 轉 小,
郭 相 謀 深 古 來 少。
司 待 清 鑒 懸 明 鏡,
尚 書 氣 與 秋 天 杳。
二 三 豪 俊 為 時 出,
整 頓 乾 坤 濟 時 了。
東 走 無 復 憶 鱸 魚,
南 飛 覺 有 安 巢 鳥。
青 春 復 隨 冠 冕 入,
紫 禁 正 耐 煙 花 繞。
鶴 禁 通 宵 風 輦 備,
雞 鳴 問 寢 龍 樓 曉。
攀 龍 附 風 勢 莫 當,
天 下 盡 化 為 侯 王。
汝 等 豈 知 蒙 帝 力?
時 來 不 得 誇 身 強。
關 中 既 留 蕭 丞 相,
幕 下 復 用 張 子 房。
張 公 一 生 江 海 客,
身 長 九 尺 鬚 眉 蒼。
征 起 適 遇 風 雲 會,
扶 顛 始 知 籌 策 良。
青 袍 白 馬 更 何 有?
後 漢 今 周 喜 再 昌。
寸 地 尺 天 皆 入 貢。
奇 祥 異 端 爭 來 送:
不 知 何 國 致 白 環,
復 道 諸 山 得 銀 瓮。
隱 士 休 歌 紫 芝 曲,
詞 人 解 撰 河 清 頌。
田 家 望 望 惜 雨 乾,
布 谷 處 處 催 春 種。
淇 上 健 兒 歸 幕 懶,
城 南 思 婦 愁 多 夢。
安 得 壯 士 挽 天 河,
淨 洗 甲 兵 長 不 用!    
杜 甫
 
Trung hưng chư tướng thâu sơn đông,
Tiệp thư dạ báo thanh trú đồng.
Hà quảng truyền văn nhất vĩ quá,
Hồ nguy mệnh tại phá trúc trung.
Chỉ tàn nghiệp thành bất nhật đắc,
Độc niệm sóc phương vô hạn công.
Kinh sư giai kỳ hãn huyết mã,
Hồi ngột ổi nhục bồ đào cung.
Dĩ hỷ hoàng uy thanh hải đại,
Thường tư tiên trượng quá không đồng.
Tam niên địch lý quan san nguyệt,
Vạn quốc binh tiền thảo mộc phong.
Thành vương công đại tâm chuyển tiểu,
Quách tướng mưu thâm cổ lai thiểu.
Tư đồ thanh giám huyền minh kính,
Thượng thư khí dữ thu thiên diểu.
Nhị tam hào tuấn vị thì xuất,
Chỉnh đốn càn khôn tế thì liễu.
Đông tẩu vô phục ức lư ngư,
Nam phi giác hữu an sào điểu.
Thanh xuân phục tùy quan miện nhập,
Tử cấm chính nại yên hoa nhiễu.
Hạc giá thông tiêu phuợng liễn bị,
Kê minh vấn tẩm long lâu hiểu.
Phan long phụ phụng thế mạc đương,
Thiên hạ tận hóa vi hầu vương.
Nhữ đẳng khỉ tri mông đế lực,
Thì lai bất đắc khoa thân cường.
Quan trung ký lưu tiêu thừa tướng,
Mạc hạ phục dụng trương tử phòng.
Trương công nhất sinh giang hải khách,
Thân trường cửu xích tu mi thương.
Trưng khởi thích ngộ phong vân hội,
Phù điên thỉ tri trù sách lương.
Thanh bào bạch mã cánh hà hữu,
Hậu hán kim chu hỷ tái xương.
Thốn địa xích thiên giai nhập cống,
Kỳ tường dị thụy tranh lai tống.
Bất tri hà quốc trí bạch hoàn,
Phục đạo chư sơn đắc ngân úng.
Ẩn sĩ hưu ca tử chi khúc,
Từ nhân giải soạn hà thanh tụng.
Điền gia vọng vọng tích vũ can,
Bố cốc xứ xứ thôi xuân chủng.
Kỳ thượng kiện nhi quy mạc lãn,
Thành nam tư phụ sầu đa mộng.
An đắc tráng sĩ vãn thiên hà,
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Rửa binh khí
 
Thâu Sơn-Đông, tướng phục hưng,
Nhận thư thắng trận không ngừng ngày đêm.
Thuyền nan, sông rộng qua bên,
Hồ nguy, tre chẻ tiến lên dễ dàng.
Một ngày thành Nghiệp ắt hàng,
Tướng, công phương bắc đảm đang một mình.
Ngựa hay, người cưỡi trong kinh,
Bồ-Đào, Hồi-Ngột thỏa tình thịt ngon.
Uy vua, Hải-Đại mãi còn,
Nhớ xưa vua vượt núi non Không-Đồng.
Sáo ‘‘Quan san nguyệt’’ ba Đông,
Quân đi, các nước, cỏ đồng nằm yên.
Thành-Vương công lớn lại quên,
Mưu sâu, tướng Quách, nghe tên mấy người?
Tư-Đồ gương sáng để đời,
Thượng thư khí tiết như trời Thu cao.
Hai ba hào kiệt bước vào,
Đất trời, chỉnh đốn, công lao cứu đời.
Về đông, cá vược hết rồi,
Xuôi nam, chim có tổ nơi an toàn.
Quan chầu, áo mũ xênh xang,
Cung vua bao bọc bởi toàn khói hoa.
Chờ, xe hạc phượng canh tà,
Thăm vua sức khoẻ canh gà sớm mai.
Dựa hơi rồng phượng những, ai?
Khắp trong thiên hạ thành vai vương hầu.
Uy vua, người há biết đâu,
Gặp thời, chớ có bắt đầu kể công.
Tiêu-Hà thừa tướng Quan-Trung,
Người tài dưới trướng, lại dùng Trương-Lương.
Cả đời, khách biển họ Trương,
Thân cao chín thước, mày thường bạc phơ.
Gió mây gặp hội bây giờ,
Ngả nghiêng, giúp nước có cơ yên lành.
Không còn ngựa trắng áo xanh,
Hán xưa, Chu cũng sẽ thành thịnh thôi.
Thước trời tấc đất cống rồi,
Điềm lành việc lạ khắp nơi dâng về.
Biếu vòng ngọc trắng quý ghê,
Núi non, bì bạc hiến về lập công.
‘‘Tử chi’’ thôi hát, hết mong,
Nhà văn ca tụng nước trong sông nhà.
Dân mừng mưa nắng thuận hòa,
Tiếng chim thúc giục người ta vụ mùa.
Sông Kỳ, trai hết chơi đùa,
Nam-Thành, thiếu phụ buồn vừa mộng ai.
Thiên-Hà sao kéo nào ai?
Giáp binh rửa sạch, chẳng sài nữa đâu...
Anh-Nguyên             
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:13:55 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 21:01:17 (permalink)
 
LƯU HOA MÔN
 
留 花 門
 
北 門 天 驕 子,
飽 肉 氣 勇 決。
高 秋 馬 肥 健,
挾 矢 射 漢 月。
自 古 以 為 患,
詩 人 厭 薄 伐。
修 德 使 其 來,
羈 縻 固 不 絕。
胡 為 傾 國 至,
出 入 暗 金 闕。
中 原 有 驅 除,
隱 忍 用 此 物。
公 主 歌 黃 鵠,
君 王 指 白 日。
連 雲 屯 左 輔,
百 里 見 積 雪。
長 戟 鳥 休 飛,
哀 笳 曙 幽 咽。
田 家 最 恐 懼,
麥 倒 桑 枝 折。
沙 苑 臨 清 渭,
泉 香 草 豐 潔。
渡 河 不 用 船,
千 騎 常 撇 烈。
胡 塵 踰 太 行,
雜 種 抵 京 室。
花 門 既 須 留,
原 野 轉 蕭 瑟。    
杜 甫
 
Hoa môn thiên kiêu tử,
Bão nhục khí dũng quyết.
Cao thu mã phì kiện,
Hiệp thỉ xạ hán nguyệt.
Tự cổ dĩ vị lai,
Thi nhân yếm bạc phiệt.
Tu đức sử kỳ lai,
Ky my cố bất tuyệt.
Hồ vi khuynh quốc chí,
Xuất nhập ám kim khuyết.
Trung nguyên hữu khu trừ,
Ẩn nhẫn dụng thử vật.
Công chúa ca hoàng hạo,
Quân vương chỉ bạch nhật.
Liên vân truân tả phụ,
Bách lý kiến tích tuyết.
Trường kích điểu hưu phi,
Ai già thự u yết.
Điền gia tối khủng cụ,
Mạch đảo tang chi chiết.
Sa uyển lâm thanh vị,
Tuyền hương thảo phong khiết.
Độ hà bất dụng thuyền,
Thiên kiêu thường phiệt liệt.
Hồ trần du thái hàng,
Tạp chủng để kinh thất.
Hoa môn ký tu lưu,
Nguyên dã chuyển tiêu sắt.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Giữ Hoa-Môn lại
 
Hoa-Môn kiêu ngạo, con trời,
Là dân ăn thịt, tính thời ngược ngang.
Trời Thu cao, ngựa béo căng,
Lắp tên, trăng Hán, hung hăng bắn hoài.
Từ xưa làm hại dài dài,
Thi nhân ghi chép chẳng ai ưa gì.
Lấy nhân đức xử khó chi,
Sợi dây ràng buộc chẳng khi nào rời.
Tại sao mỹ kế dùng rồi?
Vào ra, cung cấm là nơi hẹn hò.
Trung nguyên, trừ loạn, việc to,
Nên đành nín nhịn để cho chúng vào.
Hộc vàng, công chúa ước ao,
Nhà vua chỉ mặt trời cao mà thề.
Mây trời vần vũ nặng nề,
Cả trăm dặm tuyết tràn trề trắng phau.
Giáo dài, chim hết bay mau,
Tù và eo óc, bắt đầu rạng đông.
Nhà nông sợ hãi vô cùng,
Lúa nghiêng, dâu gẫy khắp vùng còn đâu.
Sa-Uyển, Thanh-Vị, dòng sâu,
Suối trong, gió nhẹ, cỏ mầu xanh tươi.
Qua sông, thuyền bỏ, lội người,
Con trời ngang ngược, đánh thời hăng say.
Thái-Hàng, bụi giặc Hồ bay,
Quê mùa, hỗn tạp, hôm nay vào thành.
Hoa-Môn, hãy giữ lại nhanh,
Cánh đồng quê đã vắng tanh lúc này...
Anh-Nguyên          
 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:17:17 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 21:12:44 (permalink)
 
PHÁT ĐỒNG CỐC HUYỆN
 
發 同 谷 縣
 
賢 有 不 黔 突,
聖 有 不 暖 席。
況 我 饑 愚 人,
焉 能 尚 安 宅。
始 來 茲 山 中,
休 駕 喜 地 僻。
奈 何 迫 物 累,
一 歲 四 行 役。
忡 忡 去 絕 境,
杳 杳 更 遠 適。
停 驂 龍 潭 雲,
回 首 白 崖 石。
臨 岐 別 數 子,
握 手 淚 再 滴。
交 情 無 舊 深,
窮 老 多 慘 戚。
平 生 懶 拙 意,
偶 值 棲 遁 跡。
去 住 與 願 違,
仰 慚 林 間 翮。  
杜 甫
 
Hiền hữu bất linh huyệt,
Thánh hữu bất noãn tịch.
Huống ngã cơ ngu nhân,
Yên năng thượng an trạch.
Thủy lai tư sơn trung,
Hưu giá hỷ địa tịch.
Nại hà bức vật lụy,
Nhất tuế tứ hành dịch.
Sung sung khứ tuyệt cảnh,
Liểu liểu cánh viễn thích.
Đình tham long đàm vân,
Hồi thủ hổ nham thạch.
Lâm kỳ biệt số tử,
Ác thủ lệ tái trích.
Giao tình vô cựu thâm,
Cùng lão đa thảm thích.
Bình sinh lãn chuyết ý,
Ngẫu trị thê độn tích.
Khứ trụ dữ nguyên vi,
Ngưỡng tàm lâm gian cách.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Đi từ huyện Đồng-Cốc
 
Người Hiền bếp khói lạnh tanh,
Lại xem bậc Thánh chẳng manh chiếu nào.
Ta ngu, nghèo, đói, sánh sao,
Lại mong tìm được chốn nào ấm êm.
Núi rừng nghĩ đến trước tiên,
Ngưng tìm xe ngựa, vui miền lặng yên.
Vật đâu dám đổi, để nguyên,
Bốn mùa thay đổi nhau liền mỗi năm.
Bồn chồn, bỏ cảnh đẹp chăng?
Long đong, lại phải dứt lòng đi thôi!
Long-Đàm, ngừng, ngắm mây trôi,
Hổ-Nham, ngoảnh lại, núi đồi xanh tươi.
Chia tay từ biệt mọi người,
Nắm tay, lệ lại tuôn rơi từng hồi.
Giao tình cũng mới đây thôi,
Thân già nghèo khổ dễ khơi thảm sầu.
Cuộc đời vụng tính từ lâu,
Cho nên đến ẩn chốn sâu thẳm này.
Ra đi lỗi hẹn rồi đây,
Ngửa trông rừng, thẹn với bầy chim kia...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:19:46 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 21:25:14 (permalink)
 
TUẾ YẾN HÀNH
 
歲 晏 行
 
歲 雲 暮 矣 多 北 風,
瀟 湘 洞 庭 白 雪 中。
漁 父 天 寒 網 罟 凍,
莫 徭 射 雁 鳴 桑 弓。
去 年 米 貴 闕 軍 食,
今 年 米 賤 大 傷 農。
高 馬 達 官 厭 酒 肉,
此 輩 杼 軸 茅 茨 空。
楚 人 重 魚 不 重 鳥,
汝 休 枉 殺 南 飛 鴻。
況 聞 處 處 鬻 男 女,
割 慈 忍 愛 還 租 庸。
往 日 用 錢 捉 私 鑄,
今 許 鉛 錫 和 青 銅。
刻 泥 為 之 最 易 得,
好 惡 不 合 長 相 蒙。
萬 國 城 頭 吹 畫 角,
此 曲 哀 怨 何 時 終。   
杜 甫
 
Tuế vân mộ hỹ đa bắc phong,
Tiêu tương động đình bạch tuyết trung.
Ngư phụ thiên hàn võng cổ đống,
Mạc dao xạ nhạn minh tang cung.
Khứ niên mễ quý khuyết quân thực,
Kim niên mễ tiện đại thương nông.
Cao mã phùng quan yêm tửu nhục,
Thử bối trữ trục mao tỳ không.
Sở nhân trọng ngư bất trọng điểu,
Nhữ hưu uổng sát nam phi hồng.
Huống văn xứ xứ chúc nam nữ,
Cát từ nhẫn ái hoàn tô dung.
Vãng nhật dụng tiền tróc tư chú,
Kim hứa diên tích hòa thanh đồng.
Khắc nê vi chi tối dị đắc,
Háo ố bất hợp trường tương mông.
Vạn quốc thành đầu xuy họa giác,
Thử khúc ai oán hà thì chung.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Chiều cuối năm
 
Năm tàn, gió bắc từng hồi,
Tiêu-Tương, cả Động-Đình, trời tuyết rơi.
Lạnh nên tay lưới cóng rồi,
Cung dâu đừng bắn lên trời nhạn kêu.
Năm qua, lính thiếu ăn nhiều,
Năm nay, lúa rẻ, tiêu điều nhà nông.
Quan cao, rượu thịt thừa dùng,
Bọn này, thợ dệt, còn không túp lều.
Sở ưa cá, ghét chim nhiều,
Chim hồng chớ hại, chúng đều về nam.
Bán con trai gái, khóc than,
Cắt thương yêu, thuế lo toan cho tròn.
Xưa, tiền lậu, bắt chẳng còn,
Nay, đồng pha kẽm cho tròn một thoi.
Khuôn bằng đất dễ làm thôi,
Tốt và xấu sẽ muôn đời lấn nhau.
Tù và khắp chốn, thương đau,
Bao giờ cái khúc thảm sầu này ngưng!...
Anh-Nguyên          

<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:22:35 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 21:33:55 (permalink)
 
TÂY SƠN
(Kỳ nhất)
 
西 山 其 一
 
彝 界 荒 山 頂,
蕃 州 積 雪 邊。
築 城 依 白 帝,
轉 粟 上 青 天。
蜀 將 分 旗 鼓,
羌 兵 助 井 泉。
西 戎 背 和 好,
殺 氣 日 相 纏。  
杜 甫
 
Di giới hoang sơn đỉnh,
Phiên châu tích tuyết biên.
Trúc thành y bạch đế,
Chuyển túc thượng thanh thiên.
Thục tướng phân kỳ cổ,
Khương binh trợ khải diên.
Tây nhung bội hòa hảo,
Sát khí nhật tương triền.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Núi Tây
(Bài một)
 
Đỉnh non ranh với man di,
Ở nơi mọi rợ, tuyết thì đầy biên.
Hướng tây, thành được dựng lên,
Gạo như chuyển tít tận miền trời xanh.
Trống, cờ, tướng Thục chia nhanh,
Lính Khương mâu, giáp, quẩn quanh rình mò.
Tây-Nhung, hòa hảo rở trò,
Tình hình ngày một gay go hơn nhiều...
Anh-Nguyên                 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:24:02 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 21:43:24 (permalink)
 
TÂY SƠN
(Kỳ nhị)
 
西 山 其 二
 
辛 苦 三 城 戍,
長 防 萬 里 秋。
煙 塵 侵 火 井,
雨 雪 閉 松 州。
風 動 將 軍 幕,
天 寒 使 者 裘。
漫 山 賊 營 壘,
回 首 得 無 憂。
杜 甫
 
Tân khổ tam thành thú,
Trường phòng vạn lý thu.
Yên trần xâm hỏa tỉnh,
Vũ tuyết bế tùng châu.
Phong động tướng quân mạc,
Thiên hàn sứ giả cầu.
Mạn sơn tặc dinh lũy,
Hồi thủ đắc vô ưu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Núi Tây
(Bài hai)
 
Khổ thay cho lính ba thành,
Canh phòng vạn dặm, phải đành một Thu.
Kìa nơi Hỏa-Tỉnh kói mù,
Tùng-Châu tuyết phủ chẳng trừ nơi đâu.
Tướng quân, màn, gió lay mau,
Áo cừu, sứ giả bắt đầu lạnh rung.
Núi non, trại giặc chập chùng,
Quay đầu mới hết ngại ngùng lo âu...
Anh-Nguyên          

<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:25:49 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 22:23:09 (permalink)
 
TÂY SƠN
(Kỳ tam)
 
西 山 其 三
 
子 弟 猶 深 入,
關 城 未 解 圍。
蠶 崖 鐵 馬 瘦,
灌 口 米 船 稀。
辯 士 安 邊 策,
元 戎 決 勝 威。
今 朝 烏 鵲 喜,
欲 報 凱 歌 歸。
杜 甫
 
Tử đệ do thâm nhập,
Quan thành vị giải vi.
Tàm nhai thiết mã sấu,
Quán khẩu mễ thuyền hy.
Biện sĩ an biên sách,
Nguyên nhung quyết thắng uy.
Kim triêu ô thước hỷ,
Dục báo khải ca quy.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Núi Tây
(Bài ba)
 
Binh sĩ tuy đến được nơi,
Giải vây thành ải vẫn thời chưa xong.
Tàm-Nhai, ngựa chiến ốm tong,
Lúa, thuyền Quán-Khẩu, trên dòng ít đi.
Tham mưu bày kế hoạch gì,
Tướng, quân, quyết thắng, ra đi hào hùng.
Sáng nay thước báo tin mừng,
Quân về chiến thắng tưng bừng hát ca...
Anh-Nguyên       

<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:27:28 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 23:00:51 (permalink)
 
CÔ NHẠN
 
孤 雁 - 後 飛 雁
 
孤 雁 不 飲 啄,
飛 鳴 聲 念 群。
誰 憐 一 片 影,
相 失 萬 重 雲。
望 盡 似 猶 見,
哀 多 如 更 聞。
野 鴉 無 意 緒,
鳴 噪 自 紛 紛。
杜 甫
 
Cô nhạn bất ẩm trác,
Phi minh thanh niệm quần.
Thùy lân nhất phiến ảnh,
Tương thất vạn trùng vân.
Vọng tận tử do kiến,
Ai đa như cánh văn.
Dã nha vô ý thự,
Minh táo tự phân phân.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Nhạn lẻ
 
Lẻ loi, nhạn chẳng ăn gì,
Bay, kêu những tiếng sầu bi gọi đàn.
Ai thương chiếc bóng ngút ngàn,
Dần dần mất giữa muôn vàn đám mây.
Ráng nhìn như vẫn thấy đây,
Tiếng buồn nên đến lúc này vẫn nghe.
Quạ đồng vô ý bay về,
Quà quà kêu réo chẳng hề biết chi...
Anh-Nguyên              
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:29:57 bởi Anh Nguyên >
Thay đổi trang: << < 101112 > | Trang 10 của 12 trang, bài viết từ 136 đến 150 trên tổng số 178 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9