Đường Thi Trích Dịch III - Anh Nguyên
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 14 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 198 bài trong đề mục
Anh Nguyên 08.11.2008 00:33:06 (permalink)
 
VĂN QUAN QUÂN THU HÀ NAM, HÀ BẮC
 
聞 官 軍 收 河 南 河 北
 
劍 外 忽 傳 收 薊 北,
初 聞 涕 淚 滿 衣 裳。
卻 看 妻 子 愁 何 在?
漫 卷 詩 書 喜 欲 狂。
白 日 放 歌 須 縱 酒,
青 春 作 伴 好 還 鄉。
即 從 巴 峽 穿 巫 峽,
便 下 襄 陽 向 洛 陽。     
杜 甫
 
Kiếm ngoại hốt truyền thu kế bắc,
Sơ văn thế lệ mãn y thường.
Khước khan thê tử sầu hà tại,
Mạn quyển thi thư hỷ dục cuồng.
Bạch nhật phóng ca tu túng tửu,
Thanh xuân tác bạn hảo hoàn hương.
Tức tòng ba giáp xuyên vu giáp,
Tiện há tương dương hướng lạc dương.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Nghe quan quân thu Hà-Nam, Hà-Bắc
 
Cửa Kiếm vừa loan thu Kế-Bắc,
Thoáng nghe, ướt áo lệ còn tuôn.
Vợ con, gặp lại, buồn chi nữa,
Cột vội sách, thơ, mừng muốn cuồng.
Ca hát suốt ngày và uống rượu,
Xuân xanh làm bạn để hồi hương.
Theo ngay Ba-Giáp xuyên Vu-Giáp,
Thuận xuống Tương-Dương về Lạc-Dương...
Anh-Nguyên               
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.05.2022 18:32:39 bởi Anh Nguyên >
#16
    Anh Nguyên 08.11.2008 00:42:38 (permalink)
    VU SƠN NHẬT TÌNH
     
    巫 山 日 晴
     
    久 雨 巫 山 暗,
    新 晴 錦 繡 文。
    碧 知 湖 外 草,
    紅 見 海 東 雲。
    竟 日 鶯 相 和,
    摩 霄 鶴 數 群。
    野 花 乾 更 落,
    風 處 急 紛 紛。
    杜 甫
     
    Cửu vũ vu sơn ám,
    Tân tình cẩm tú văn.
    Bích tri hồ ngoại thảo,
    Hồng kiến hải đông vân.
    Cánh nhật oanh tương họa,
    Ma thiên hạc sổ quần.
    Dã hoa can tánh lạc,
    Phong xứ cấp phân phân.
    Đỗ-Phủ
     
    Dịch:
     
    Núi Vu ngày tạnh ráo
     
    Núi Vu mờ mịt, mưa lâu,
    Tạnh rồi, như gấm sắc mầu điểm tô.
    Xanh, thời biết cỏ bên hồ,
    Đỏ, thời đông biển đang phô mây rồi.
    Suốt ngày oanh hót thảnh thơi,
    Vài đàn hạc trắng bay nơi cuối trời.
    Hoa đồng khô héo rụng rơi,
    Khắp nơi vun vút gió thời nổi lên...
    Anh-Nguyên  
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.05.2022 18:33:52 bởi Anh Nguyên >
    #17
      Anh Nguyên 08.11.2008 00:51:11 (permalink)
       
      THẬP THẤT DẠ ĐỐI NGUYỆT
       
      十 七 夜 對 月
       
      秋 月 仍 圓 夜
      江 村 獨 老 身
      捲 簾 還 照 客
      倚 杖 更 隨 人
      光 射 潛 虯 動
      明 翻 宿 鳥 頻
      芓 齋 依 橘 柚
      清 切 露 華 新
      杜 甫  

      Thu nguyệt nhưng viên dạ,
      Giang thôn độc lão thân.
      Quyển liêm hoàn chiếu khách,
      Ỷ trượng cánh tùy nhân.
      Quang xạ tiềm cầu động,
      Minh phiên túc điểu tần.
      Mao trai y quất dữu,
      Thanh thiết lộ hoa tân.
      Đỗ-Phủ
       
      Dịch:
       
      Ngắm trăng đêm mười bảy
       
      Trăng Thu nay vẫn thấy tròn,
      Xóm sông cô quạnh vẫn còn lão đây.
      Cuốn rèm, lại chiếu khách này,
      Gậy nương, trăng cứ theo ngay trên đường.
      Rọi soi, rồng ẩn khẽ vươn,
      Sáng trưng, chim ngủ trong sương giật mình.
      Mái tranh dựa quýt bưởi xinh,
      Hạt sương trong vắt trên mình hoa tươi...
      Anh-Nguyên
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:24:09 bởi Anh Nguyên >
      #18
        Anh Nguyên 08.11.2008 07:46:18 (permalink)
               
        CỬU KHÁCH

         
        久 客
         
        羈 旅 知 交 態,
        淹 留 見 俗 情。
        衰 顏 聊 自 哂,
        小 吏 最 相 輕。
        去 國 哀 王 粲,
        傷 時 哭 賈 生。
        狐 狸 何 足 道,
        豺 虎 正 縱 橫。   
        杜 甫
         
        Cơ lữ tri giao thái,
        Yêm lưu kiến tục tình.
        Suy nhan liêu tự thẩn,
        Tiểu lai tối tương khinh.
        Khứ quốc ai vương xán,
        Thương thì khốc giả sinh.
        Hồ ly hà túc đạo,
        Sài hổ chính tung hoành.
        Đỗ-Phủ
         
        Dịch:
         
        Khách ở lâu
         
        Sống nhờ, tình bạn mới hay,
        Ở lâu mới thấy đổi thay tình đời.
        Mặt mày hốc hác, bạn cười,
        Chức thường mà lại khinh người quá thay!
        Buồn, Vương-Xán bỏ nước ngay,
        Thương đời, Giả-Nghị thường hay khóc nhiều
        Cáo chồn, chẳng nói một điều,
        Những loài sói cọp hiêu hiêu tung hoành...
        Anh-Nguyên 
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:26:35 bởi Anh Nguyên >
        #19
          Anh Nguyên 08.11.2008 07:51:31 (permalink)
           
          KHỨ THU HÀNH

           
          去 秋 行
           
          去 秋 涪 江 木 落 時,
          臂 槍 走 馬 誰 家 兒。
          到 今 不 知 白 骨 處,
          部 曲 有 去 皆 無 歸。
          遂 州 城 中 漢 節 在,
          遂 州 城 外 巴 人 稀。
          戰 場 冤 魂 每 夜 哭,
          空 令 野 營 猛 士 悲。
          杜 甫
           
          Khứ thu phân giang mộ lạc thì,
          Tý thương tẩu mã thùy gia nhi?
          Đáo kim bất tri bạch cốt xứ,
          Bộ khúc hữu khứ vô giai quy.
          Toại châu thành trung hán tiết tại,
          Toại châu thành ngoại ba nhân hy.
          Chiến trường oan hồn mỗi dạ khốc,
          Không linh dã dinh mãnh sĩ bi.
          Đỗ-Phủ
           
          Dịch:
           
          Mùa Thu năm qua
           
          Phù-Giang lá rụng Thu qua,
          Con ai thúc ngựa đi ra chiến trường.
          Nơi đâu xương trắng còn vương,
          Người đi chẳng lại, sa trường vùi thây.
          Toại-Châu cờ Hán treo đây,
          Người Ba đâu nữa, tìm đầy khó khăn.
          Oan hồn, đêm khóc quanh năm,
          Trong lều, chiến sĩ thường nằm sầu thương...
          Anh-Nguyên         
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:30:08 bởi Anh Nguyên >
          #20
            Anh Nguyên 08.11.2008 08:44:12 (permalink)
             
            TỐNG NGHIÊM CÔNG
             
            奉 濟 驛 重 送 嚴 公 四 韻
             
            遠 送 從 此 別,
            青 山 空 復 情。
            幾 時 杯 重 把?
            昨 夜 月 同 行。
            列 郡 謳 歌 惜,
            三 朝 出 入 榮。
            江 村 獨 歸 處,
            寂 寞 養 殘 生。  
            杜 甫
             
            Viễn tống tòng thử biệt,
            Thanh sơn không phục tình.
            Kỷ thời bôi trùng bả,
            Tạc dạ nguyệt đồng hành.
            Liệt quận âu ca tích,
            Tam triều xuất nhập vinh.
            Giang thôn độc quy xứ,
            Tịch mịch dưỡng tàn sinh.
            Đỗ-Phủ
             
            Dịch:
             
            Tiễn ông Nghiêm
             
            Từ đây, tiễn bác đi xa,
            Núi xanh chan chứa tình ta bao ngày.
            Bao lần nâng chén uống say,
            Dưới trăng, tôi bác, đường này hôm qua!
            Bác đi, dân tiếc, ngợi ca,
            Ba triều, bác vẫn vào ra an bình.
            Xóm sông, nay ở một mình,
            Đời tàn, lặng lẽ, tâm tình dưỡng nuôi...
            Anh-Nguyên   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:32:55 bởi Anh Nguyên >
            #21
              Anh Nguyên 08.11.2008 09:09:05 (permalink)
               
              THẢO ĐƯỜNG
               
              草 堂
               
              昔 我 去 草 堂,
              蠻 夷 塞 成 都。
              今 我 歸 草 堂,
              成 都 适 無 虞。
              請 陳 初 亂 時,
              返 復 乃 須 臾。
              大 將 赴 朝 廷,
              群 小 起 異 圖。
              中 宵 斬 白 馬,
              盟 歃 氣 已 粗。
              西 取 邛 南 兵,
              北 斷 劍 閣 隅。
              布 衣 數 十 人,
              亦 擁 專 城 居。
              其 勢 不 兩 大,
              始 聞 蕃 漢 殊。
              西 卒 卻 倒 戈,
              賊 臣 互 相 誅。
              焉 知 肘 腋 禍,
              自 及 梟 獍 徒。
              義 士 皆 痛 憤,
              紀 綱 亂 相 逾。
              一 國 實 三 公,
              萬 人 欲 為 魚。
              唱 和 作 威 福,
              孰 肯 辨 無 辜。
              眼 前 列 杻 械,
              背 後 吹 笙 竽。
              談 笑 行 殺 戮,
              濺 血 滿 長 衢。
              到 今 用 鉞 地,
              風 雨 聞 號 呼。
              鬼 妾 與 鬼 馬,
              色 悲 充 爾 娛。
              國 家 法 令 在,
              此 又 足 驚 吁。
              賤 子 且 奔 走,
              三 年 望 東 吳。
              弧 矢 暗 江 海,
              難 為 遊 五 湖。
              不 忍 竟 舍 此,
              復 來 薙 榛 蕪。
              入 門 四 松 在,
              步 屧 萬 竹 疏。
              舊 犬 喜 我 歸,
              低 徊 入 衣 裾。
              鄰 舍 喜 我 歸,
              酤 酒 攜 胡 蘆。
              大 官 喜 我 來,
              遣 騎 問 所 須。
              城 郭 喜 我 來,
              賓 客 隘 村 墟。
              天 下 尚 未 寧,
              健 兒 勝 腐 儒。
              飄 搖 風 塵 際,
              何 地 寘 老 夫。
              于 時 見 疣 贅,
              骨 髓 幸  未枯。
              飲 噣 愧 殘 生,
              食 薇 不 敢 餘。   
              杜 甫
               
              Tích ngã khứ thảo đường,
              Man di tắc thành đô.
              Kim ngã quy thảo đường,
              Thành đô thích vô ngu.
              Thỉnh trần sơ loạn thì,
              Phản phúc nãi tu du.
              Đại tướng phó triều đình,
              Quần tiểu khởi dị đồ.
              Trung tiêu trảm bạch mã,
              Minh sáp khí dĩ thô.
              Tây thủ cùng nam binh,
              Bắc đoạn kiếm các ngu.
              Bố y sổ thập nhân,
              Diệc ủng chuyên thành cư.
              Kỳ thế bất lưỡng đại,
              Thủy văn phiên hán thù.
              Tây tốt khước đảo qua,
              Tặc thần hỗ tương tru.
              Yên tri trửu dịch họa,
              Tự cập kiêu cánh đồ.
              Nghĩa sĩ giai thống phẫn,
              Kỷ cương loạn tương du.
              Nhất quốc thực tam công,
              Vạn nhân dục vi ngư.
              Xướng họa tác uy phúc,
              Thục khẳng biện vô cô.
              Nhãn tiền liệt nữu giới,
              Bối hậu xuy sinh vu.
              Đàm tiếu hành sát lục,
              Tần huyết mãn trường cù.
              Đáo kim dụng việt địa,
              Phong vũ văn hào hô.
              Qủy thiếp dữ qủy mã,
              Sắc bi sung nhĩ ngu.
              Quốc gia pháp lệnh tại,
              Thử hựu túc kinh hu.
              Tiện tử thả bôn tẩu,
              Tam niên vọng đông ngô.
              Hồ thỉ ám giang hải,
              Nan vi du ngũ hồ.
              Bất nhẫn cánh xả thử,
              Phục lai trĩ trăn vu.
              Nhập môn tứ tùng tại,
              Bộ điệp vạn trúc sơ.
              Cựu khuyển hỉ ngã quy,
              Đê hồi nhập y cư.
              Lân xá hỉ ngã quy,
              Cô tửu huề hồ lô.
              Đại quan hỉ ngã lai,
              Khiển kỵ vấn sở tu.
              Thành quách hỉ ngã lai,
              Tân khách ải thôn khư.
              Tiên hạ thượng vị ninh,
              Kiện nhi thắng hủ nho.
              Phiêu diêu phong trần tế,
              Hà địa trí lão phu.
              Ư thì kiến vưu chuế,
              Cốt tủy hạnh vị khô.
              Ẩm trác quý tàn sinh,
              Thực vi bất cảm dư.
              Đỗ-Phủ
               
              Dịch:
               
              Mái nhà tranh
               
              Xưa ta rời bỏ mái tranh,
              Thành-Đô đầy ắp cả thành man di.
              Mái tranh, nay lại trở về,
              Thành-Đô, đã đến, chẳng hề lo âu.
              Loạn, xin kể lại từ đầu:
              Trở lòng thoáng chốc, ai đâu nghi gì.
              Về triều, Đại tướng mới đi,
              Bọn người cấp nhỏ tính gì rồi đây?!
              Giữa đêm, chém ngựa trắng ngay!
              Ăn thề uống máu, khí đầy bạo tham.
              Tây, cùng với lính Cùng-Nam,
              Bắc, ngăn Kiếm-Các chặn đàng tiến vô.
              Chỉ vài chục kẻ áo thô,
              Một thành, chiếm giữ, mưu đồ mai sau.
              Cả hai thế chẳng lớn mau,
              Mới phân Phiên, Hán, với nhau cho rồi.
              Phía tây quay giáo cả thôi,
              Quan quân chém giết tơi bời lẫn nhau.
              Họa kề xát nách, hay đâu!
              Quạ diều, chó má, dễ hầu thoát sao.
              Những người nghĩa sĩ giận, đau,
              Kỷ cương hỗn loạn, còn đâu ra gì.
              Tam-Công, một nước, ba vì,
              Mọi người như cá nằm kề bên dao.
              Làm oai, làm phúc, hùa nhau,
              Những người vô tội, ai đâu kêu dùm.
              Bày ra trước mắt gông cùm,
              Sau lưng, ca hát um xùm ngày đêm.
              Nói cười, giết chóc ngay bên,
              Máu hồng lai láng khắp trên đường dài.
              Đến nay, nơi chốn pháp đài,
              Gió mưa, nghe tiếng bi ai kêu gào.
              Chết rồi, vợ, ngựa, yên sao?
              Buồn rầu, chúng có tha nào, càng vui!
              Phép nhà nước vẫn còn thôi,
              Nghĩ càng kinh hãi, ngậm ngùi thở than.
              Kẻ hèn tạm chạy cho an,
              Ba năm trông ngóng, nghĩ toàn Đông-Ngô.
              Cung tên u ám sông hồ,
              Khó lòng lại được Ngũ-Hồ dạo chơi.
              Chốn này không nỡ bỏ rơi,
              Lại về phá cỏ khắp nơi mọc đầy.
              Cửa vào, thông vẫn bốn cây,
              Vạn cây tre đã mọc đầy nhưng thưa.
              Ta về, mừng rỡ, chó xưa,
              Áo ta, cúi xuống, chui bừa vào trong.
              Mừng ta, lối xóm đến đông,
              Mang theo bầu rượu để cùng ta vui.
              Quan mừng ta đã về rồi,
              Sai ngay lính kỵ, hỏi thời cần chi?
              Trong thành vui thấy ta về,
              Khách xa cũng đến tràn trề xóm đây.
              Nước non, giặc giã còn đầy,
              Con trai khoẻ mạnh, hơn thầy đồ Nho.
              Nổi trôi, gió bụi phó cho,
              Nơi nào dùng đến lão Nho hủ này?
              Ta như cục bướu, buồn thay!
              Tủy xương chưa cạn là may lắm rồi.
              Uống ăn, thẹn với cuộc đời,
              Rau vi, chẳng dám bỏ rơi cọng nào!...
              Anh-Nguyên     
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:45:07 bởi Anh Nguyên >
              #22
                Anh Nguyên 08.11.2008 09:23:36 (permalink)
                 
                KHỔ CHIẾN HÀNH
                 
                苦 戰 行
                 
                苦 戰 身 死 馬 將 軍,
                自 雲 伏 波 之 子 孫。
                干 戈 未 定 失 壯 士,
                使 我 歎 恨 傷 精 魂。
                去 年 江 南 討 狂 賊,
                臨 江 把 臂 難 再 得。
                別 時 孤 雲 今 不 飛,
                時 獨 看 雲 淚 橫 臆。  
                杜 甫
                 
                Khổ chiến thân tử mã tướng quân,
                Tự vân phục ba chi tử tôn.
                Can qua vị định thất tráng sĩ,
                Sử ngã thán hận thương tinh hồn.
                Khứ niên nam hành thảo cuồng tặc,
                Lâm giang bả tý nan tái đắc.
                Biệt thì cô vân kim bất phi,
                Thì độc khán vân lệ hoành ức.
                Đỗ-Phủ
                 
                Dịch:
                 
                Chiến trường gian khổ
                 
                Chiến trường, tướng Mã bỏ thân,
                Phục-Ba, dòng dõi cũng gần cháu con.
                Chiến tranh, tráng sĩ chẳng còn,
                Khiến ta than tiếc, thương hồn của ông.
                Đi nam dẹp giặc cuồng ngông,
                Còn đâu lại được bên sông tay cầm.
                Chia ly, mây nổi một vầng,
                Nhìn mây, nước mắt ướt đầm ngực ta...
                Anh-Nguyên 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:48:16 bởi Anh Nguyên >
                #23
                  Anh Nguyên 08.11.2008 09:34:00 (permalink)
                   
                  ĐẠI MẠCH HÀNH
                   
                  大 麥 行
                   
                  大 麥 乾 枯 小 麥 黃,
                  婦 女 行 泣 夫 走 藏。
                  東 至 集 壁 西 梁 洋,
                  問 誰 腰 鐮 胡 與 羌。
                  豈 無 蜀 兵 三 千 人,
                  部 領 辛 苦 江 山 長。
                  安 得 如 鳥 有 羽 翅,
                  托 身 白 雲 還 故 鄉。   
                  杜 甫
                   
                  Đại mạch càn khô tiểu mạch hoàng,
                  Phụ nữ hành khấp phu tẩu tàng.
                  Đông chí tập bích tây lương dương,
                  Vấn thùy yêu liêm hồ dữ khương.
                  Khởi vô thục binh tam thiên nhân,
                  Bộ lãnh tân khổ giang sơn trường.
                  An đắc như điểu hữu vũ xí,
                  Thác thân bạch vân hoàn cố hương.
                  Đỗ-Phủ
                   
                  Dịch:
                   
                  Lúa Đại mạch
                   
                  Đại mạch héo, tiểu mạch vàng,
                  Chồng đi, để vợ khóc than trên đường.
                  Đông: Tập, Bích - Tây: Lương, Dương,
                  Hỏi liềm ai có? Hồ, Khương giữ rồi.
                  Ba nghìn binh Thục khắp nơi,
                  Núi sông dài rộng giữ thời đủ đâu.
                  Làm sao có cánh bay mau,
                  Theo làn mây trắng cùng nhau về làng...
                  Anh-Nguyên                
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:51:20 bởi Anh Nguyên >
                  #24
                    Anh Nguyên 08.11.2008 09:59:49 (permalink)
                     
                    THIÊN BIÊN HÀNH
                     
                    天 邊 行
                     
                    天 邊 老 人 歸 未 得,
                    日 暮 東 臨 大 江 哭。
                    隴 右 河 源 不 種 田,
                    胡 騎 羌 兵 入 巴 蜀。
                    洪 濤 滔 天 風 拔 木,
                    前 飛 禿 鶖 後 鴻 鵠。
                    九 度 附 書 向 洛 陽,
                    十 年 骨 肉 無 消 息。   
                    杜 甫
                     
                    Thiên biên lão nhân quy vị đắc,
                    Nhật mộ đông lâm đại giang khốc.
                    Lũng hữu hà nguyên bất chủng điền,
                    Hồ kỵ khương binh nhập ba thục.
                    Hồng đào thao thiên phong bạt mộc,
                    Tiền phi thốc thu hậu hồng hộc.
                    Cửu độ phụ thư hướng lạc dương,
                    Thập niên cốt nhục vô tiêu tức.
                    Đỗ-Phủ
                     
                    Dịch:
                     
                    Nơi chân trời
                     
                    Chân trời, lão chửa được về,
                    Chiều tà đứng khóc đầm đìa bên sông.
                    Hà-Nguyên, Lũng-Hữu bỏ không,
                    Ngựa Hồ, Ba-Thục, vào cùng lính Khương.
                    Sóng cao, gió bật cây đường,
                    Bồ nông bay trước, hộc thường theo sau.
                    Chín thư gửi đã từ lâu,
                    Mười năm ruột thịt thấy đâu tin gì!...
                    Anh-Nguyên       
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:54:03 bởi Anh Nguyên >
                    #25
                      Anh Nguyên 08.11.2008 10:21:48 (permalink)
                       
                      TÂN CHÍ
                       
                      賓 至
                       
                      幽 棲 地 僻 經 過 少
                      老 病 人 扶 再 拜 難
                      豈 有 文 章 驚 海 內
                      漫 勞 車 馬 駐 江 干
                      竟 日 淹 留 佳 客 話
                      百 年 麤 糲 腐 儒 餐
                      不 嫌 野 外 無 供 給
                      乘 興 還 來 看 藥 欄      
                      杜 甫
                       
                      U thê địa tích kinh qua thiểu,
                      Lão bệnh nhân phù tái bái nan.
                      Khởi hữu văn chương kinh hải nội,
                      Mạn lao xa mã trú giang can.
                      Cánh nhật yêm lưu giai khách thoại,
                      Bách niên thô lệ hủ nho xan.
                      Bất hiềm dã ngoại vô cung cấp,
                      Thừa hứng hoàn lai khán dược lan.
                      Đỗ-Phủ
                       
                      Dịch:
                       
                      Khách đến
                       
                      Nơi thanh vắng, ít ai qua,
                      Bệnh, già, phải đỡ, khách, ta khó chào,
                      Văn chương kinh động được sao?
                      Mà phiền xe ngựa ra vào bến sông.
                      Suốt ngày, khách quý chuyện cùng,
                      Trăm năm, cơm nước chỉ dùng gạo thô.
                      Chẳng hiềm quê kệch, đơn sơ,
                      Thuốc trồng, còn đến bên bờ đứng coi...
                      Anh-Nguyên                        
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:56:32 bởi Anh Nguyên >
                      #26
                        Anh Nguyên 10.11.2008 06:28:42 (permalink)
                         
                        KÝ ĐỀ GIANG NGOẠI THẢO ĐƯỜNG
                         
                        寄 題 江 外 草 堂
                         
                        我 生 性 放 誕,
                        雅 欲 逃 自 然。
                        嗜 酒 愛 風 竹,
                        卜 居 必 林 泉。
                        遭 亂 到 蜀 江,
                        臥 痾 遣 所 便。
                        誅 茅 初 一 畝,
                        廣 地 方 連 延。
                        經 營 上 元 始,
                        斷 手 寶 應 年。
                        敢 謀 土 木 麗,
                        自 覺 面 勢 堅。
                        臺 亭 隨 高 下,
                        敞 豁 當 清 川。
                        雖 有 會 心 侶,
                        數 能 同 釣 船。
                        幹 戈 未 偃 息,
                        安 得 酣 歌 眠。
                        蛟 龍 無 定 窟,
                        黃 鵠 摩 蒼 天。
                        古 來 達 士 志,
                        寧 受 外 物 牽。
                        顧 惟 魯 鈍 姿,
                        豈 識 悔 吝 先。
                        偶 攜 老 妻 去,
                        慘 澹 凌 風 煙。
                        事 跡 無 固 必,
                        幽 貞 愧 雙 全。
                        尚 念 四 小 松,
                        蔓 草 易 拘 纏。
                        霜 骨 不 甚 長,
                        永 為 鄰 裡 憐。   
                        杜 甫
                         
                        Ngã sinh tính phóng đản,
                        Nhã dục đào tự nhiên.
                        Thị tửu ái phong trúc,
                        Bốc cư tất lâm tuyền.
                        Tao loạn đáo thục giang,
                        Ngọa kha khiển sở tiên.
                        Tru mao sơ nhất mẫu,
                        Quảng địa phương liên diên.
                        Kinh dinh thượng nguyên thủy,
                        Đoạn thủ bảo ứng niên.
                        Cảm mưu thổ mộc lệ,
                        Tự giác diện thế kiên.
                        Đài đình tùy cao hạ,
                        Sưởng khoát đương thanh xuyên.
                        Duy hữu hội tâm lữ,
                        Sổ năng đồng điếu thuyền.
                        Can qua vị yển tức,
                        An đắc hàm ca miên.
                        Giao long vô định quật,
                        Hoàng hộc ma thương thiên.
                        Cổ lai đạt sĩ chí,
                        Ninh thụ ngoại vật khiên.
                        Cố duy lỗ độn tư,
                        Khởi thức hối lận tiên.
                        Ngẫu huề lão thê khứ,
                        Thảm đạm lăng phong yên.
                        Sự tích vô cố tất,
                        U trinh quý song tuyền.
                        Thượng niệm tứ tiểu tùng,
                        Man thảo dịch câu triền.
                        Sương cốt bất thậm trưởng,
                        Vĩnh vi lân lý liên.
                        Đỗ-Phủ
                         
                        Dịch:
                         
                        Gửi đề nhà tranh ngoài sông
                         
                        Ta sinh, phóng khoáng tính trời,
                        Vì ưa thanh nhã, thích đời tự nhiên.
                        Rượu mê, gió trúc cũng ghiền,
                        Ở thì chọn chỗ rừng liền suối sâu.
                        Loạn ly, sông Thục ở lâu,
                        Ốm đau, chỉ việc nằm, sau cũng lành.
                        Lúc đầu, dẹp mẫu cỏ tranh,
                        Đất đai rộng rãi, trông thành mênh mông.
                        Thượng-Nguyên năm ấy khởi công,
                        Đến năm Bảo-Ứng mới ngừng được tay.
                        Đẹp sang, chẳng dám đựng xây,
                        Chỉ mong sao được nơi đây vững bền.
                        Nhà, sân nhiều bậc bước lên,
                        Đất nhiều, sông mát ở bên ngay nhà.
                        Có khi họp bạn gần xa,
                        Dong thuyền câu cá la đà trên sông.
                        Binh đao cũng chửa có xong,
                        Há say, ca hát, yên lòng ngủ sao.
                        Hang, rồng chưa có chốn nào,
                        Hộc vàng bay xát trời cao xanh rì.
                        Xưa nay, sĩ khí nam nhi,
                        Không cho ngoại vật vướng gì đến thân.
                        Nghĩ mình tư chất ngu đần,
                        Hối không biết tính xa gần trước sau.
                        Vợ già, vội kéo đi mau,
                        Trải bao mưa gió đớn đau buồn phiền.
                        Việc đời đâu có đứng yên,
                        Kiên trinh, u nhã, trước tiên giữ tròn.
                        Còn hay nhớ bốn thông con,
                        Cỏ thường chằng chịt vây tròn chung quanh.
                        Vóc sương không thể lớn nhanh,
                        Khiến cho lối xóm thương đành xót xa...
                        Anh-Nguyên
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 17:59:48 bởi Anh Nguyên >
                        #27
                          Anh Nguyên 10.11.2008 06:45:40 (permalink)
                           
                          TỐNG LĂNG CHÂU LỘ SỨ QUÂN
                           
                          送 陵 州 路 使 君
                           
                          王 室 比 多 難,
                          高 官 皆 武 臣。
                          幽 燕 通 使 者,
                          岳 牧 用 詞 人。
                          國 待 賢 良 急,
                          君 當 拔 擢 新。
                          佩 刀 成 氣 象,
                          行 蓋 出 風 塵。
                          戰 伐 乾 坤 破,
                          瘡 痍 府 庫 貧。
                          眾 僚 宜 潔 白,
                          萬 役 但 平 均。
                          霄 漢 瞻 佳 士,
                          泥 途 任 此 身。
                          秋 天 正 搖 落,
                          回 首 大 江 濱。  
                          杜 甫
                           
                          Vương thất tỷ đa nan,
                          Cao quan giai vũ thần.
                          U yên thông sứ giả,
                          Nhạc mẫu dụng từ nhân.
                          Quốc đãi hiền lương cấp,
                          Quân đương bạt trạc tân.
                          Bội đao thành khí tượng,
                          Hành cái xuất phong trần.
                          Chiến phạt càn khôn phá,
                          Sang di phủ khố bần.
                          Chúng liêu nghi khiết bạch,
                          Vạn dịch đán bình quân.
                          Tiêu hán chiêm giai sĩ,
                          Nê đồ nhiệm thử thân.
                          Thu thiên chính dao lạc,
                          Hồi thủ đại giang tân.
                          Đỗ-Phủ
                           
                          Dịch:
                           
                          Tiễn quan sứ quân họ Lộ ở Lăng-Châu
                           
                          Nhà vua nhiều việc khó khăn,
                          Cho nên quan võ nắm phần chức cao.
                          U Yên thu chửa là bao,
                          Vùng châu quận đó trông vào quan văn.
                          Nước đang chờ bậc tài năng,
                          Bác nay xứng đáng được thăng chức rồi.
                          Đeo gươm thành khí phách thôi,
                          Lên xe, gió bụi tìm nơi đi vào.
                          Chiến tranh, đất nước tiêu hao,
                          Vết thương để lại : kho nào còn chi!
                          Làm quan, trong sạch tạc ghi,
                          Công bằng vạn sự, dẫu gì chẳng quên.
                          Như sao, giới sĩ nhìn lên,
                          Thân này vốn đã quen trên bùn lầy.
                          Trời Thu khiến dạ buồn lây,
                          Quay đầu, sông rộng, còn đây bến bờ.
                          Anh-Nguyên
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 18:17:05 bởi Anh Nguyên >
                          #28
                            Anh Nguyên 10.11.2008 07:01:38 (permalink)
                                       
                            CỬU NHẬT ĐĂNG TỬ CHÂU THÀNH
                             
                            九 日 登 梓 州 城 其 一
                             
                            伊 昔 黃 花 酒,
                            如 今 白 髮 翁。
                            追 歡 筋 骨 異,
                            望 遠 歲 時 同。
                            弟 妹 悲 歌 裏,
                            乾 坤 醉 眼 中。
                            兵 戈 與 邊 塞,
                            此 日 意 無 窮。   
                            杜 甫
                             
                            Y tích hoàng hoa tửu,
                            Như kim bạch phát ông.
                            Truy hoan cân cốt dị,
                            Vọng viễn tuế thì đồng.
                            Đệ muội bi ca lý,
                            Càn khôn túy nhãn trung.
                            Binh qua dữ biên tái,
                            Thử nhật ý vô cùng.
                            Đô-Phủ
                             
                            Dịch:
                             
                            Lên thành Tử-Châu
                             
                            Như xưa có rượu Hoàng-Hoa,
                            Bạc đầu, nay có ông già mà thôi.
                            Ăn chơi, gân cốt khác đời,
                            Trẻ già cùng ngóng về nơi quê nhà.
                            Thơ buồn em ở chốn xa,
                            Đất trời trong mắt đã ngà ngà say.
                            Binh đao biên giới lúc này,
                            Hôm nay ý nghĩ tràn đầy tâm tư...
                            Anh-Nguyên
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 18:20:17 bởi Anh Nguyên >
                            #29
                              Anh Nguyên 10.11.2008 07:10:11 (permalink)
                               
                              PHÁT LĂNG TRUNG
                               
                              發 閬 中
                               
                              前 有 毒 蛇 後 猛 虎,
                              溪 行 盡 日 無 村 塢。
                              江 風 蕭 蕭 雲 拂 地,
                              山 木 慘 慘 天 欲 雨。
                              女 病 妻 懮 歸 意 速,
                              秋 花 錦 石 誰 復 數。
                              別 家 三 月 一 得 書,
                              避 地 何 時 免 愁 苦。   
                              杜 甫
                               
                              Tiền hữu độc xà hậu mãnh hổ,
                              Khê hành tận nhật vô thôn ổ.
                              Giang phong tiêu tiêu vân phất địa,
                              Sơn mộc thảm thảm thiên dục vũ.
                              Nữ bệnh thê ưu quy ý tốc,
                              Thu hoa cẩm thạch thùy phục số.
                              Biệt gia tam nguyệt nhất đắc thư,
                              Tị địa hà thì miễn sầu khổ.
                              Đỗ-Phủ
                               
                              Dịch:
                               
                              Đi từ Lãng-Trung
                               
                              Hổ gầm, rắn độc, trước sau,
                              Suốt ngày men suối, thấy đâu xóm làng.
                              Gió sông, mây rợp đất vàng,
                              Núi cây rậm rạp, mưa đang đến rồi.
                              Vợ lo, gái bệnh, về thôi,
                              Hoa Thu, đá đẹp, ai thời còn trông.
                              Đi ba tháng, một thư hồng,
                              Bao giờ tỵ nạn mà không khổ sầu?!...
                              Anh-Nguyên             
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2022 18:23:24 bởi Anh Nguyên >
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 14 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 198 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9