Đường Thi Trích Dịch III - Anh Nguyên
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 8 của 14 trang, bài viết từ 106 đến 120 trên tổng số 198 bài trong đề mục
Anh Nguyên 11.11.2008 21:28:00 (permalink)

TÀM CỐC HÀNH  
 
蠶 穀 行

天 下 郡 國 向 萬 城
無 有 一 城 無 甲 兵
安 得 鑄 甲 作 農 器
一 寸 荒 田 牛 得 耕
牛 盡 耕
蠶 亦 成
不 勞 烈 士 淭 滂 沱
男 穀 女 絲 行 復 歌
杜 甫


Thiên hạ quận quốc hướng vạn thành,
Vô hữu nhất thành vô giáp binh.
Yên đắc chú giáp tác nông khí,
Nhất thốn hoang điền ngưu đắc canh.
Ngưu tân canh, Tàm diệc thành.
Bất lao liệt sĩ lệ bàng đà,
Nam cốc nữ ty hành phục ca.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Trồng lúa chăn tầm
 
Đời này có đến vạn thành,
Mỗi thành, binh giáp để dành giết nhau.
Đem làm nông cụ cho mau,
Đất hoang, mỗi tấc có trâu cầy bừa.
Trâu cầy vỡ đất sớm trưa,
Chăn tầm, dệt lụa, lại vừa trồng dâu.
Chiến binh vất vả đã lâu,
Chẳng nhờ thêm nữa lệ sầu lại tuôn.
Trai trồng lúa, gái tơ ươm,
Vừa làm vừa hát, miệng vương nụ cười...
Anh-Nguyên            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:36:17 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 11.11.2008 22:29:34 (permalink)
 
TÚC GIANG BIÊN CÁC
 
宿 江 邊 閣
 
暝 色 延 山 徑,
高 齋 次 水 門。
薄 雲 巖 際 宿,
孤 月 浪 中 翻。
鸛 鶴 追 飛 靜,
豺 狼 得 食 喧。
不 眠 憂 戰 伐,
無 力 正 乾 坤。  
杜 甫

Minh sắc diên sơn kính,
Cao trai thứ thủy môn.
Bạc vân nham tế túc,
Cô nguyệt lãng trung phiên.
Quán hạc truy phi tĩnh,
Sài lang đắc thực huyên.
Bất miên ưu chiến phạt,
Vô lực chính càn khôn.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Trọ nơi gác bên sông
 
Đường quanh núi, tối khó trông,
Nhà cao ngay chỗ cửa sông đi vào.
Lưng đèo mây mỏng phủ bao,
Trăng côi, sóng bạc lao xao in hình.
Bay theo nhau, hạc lặng thinh,
Được ăn, chồn sói giành tranh ồn ào.
Giặc, lo chẳng ngủ được nào,
Không tài giúp nước làm sao thanh bình!...
Anh-Nguyên 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:37:05 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 11.11.2008 22:35:10 (permalink)
 
BẠCH ĐẾ
 
白 帝

白 帝 城 中 雲 出 門
白 帝 城 下 雨 翻 盆
高 江 急 峽 雷 霆 鬥
翠 木 蒼 藤 日 月 昏
戎 馬 不 如 歸 馬 逸
千 家 今 有 百 家 仔
哀 哀 寡 婦 誅 求 盡
慟 哭 秋 原 何 處 村    
杜 甫
 
Bạch đế thành trung vân xuất môn,
Bạch đế thành hạ vũ phiên bồn.
Cao giang cấp giáp lôi đình đấu,
Thúy mộc thương đằng nhật nguyệt hôn.
Nhung mã bất như quy mã dật,
Thiên gia kim hữu bách gia tồn.
Ai ai quả phụ tru cầu tận,
Đỗng khốc thu nguyên hà xứ thôn.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Thành Bạch-Đế
 
Cửa thành Bạch-Đế mây tuôn,
Dưới thành Bạch-Đế mưa dồn vũng sâu.
Sông dâng, sấm sét trên đầu,
Cây xanh, dây biếc thấy đâu mặt trời.
Nên cho ngựa trận về thôi,
Nghìn nhà, nay chỉ còn vơi trăm nhà.
Góa chồng, thuế kiếm đâu ra,
Đồng Thu khóc rống, xóm nhà ở đâu?!...
Anh-Nguyên               
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:38:00 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 11.11.2008 22:43:46 (permalink)
 
DI CƯ QUỲ CHÂU TÁC
 
移 居 夔 州 作 

伏 枕 雲 安 縣,
遷 居 白 帝 城.
春 知 崔 柳 別,
江 與 放 船 清.
農 事 聞 人 說,
山 光 見 鳥 情.
禹 功 饒 斷 石,
且 就 土 微 平.

杜 甫
 
Phục chẩm vân an huyện,
Thiên cư bạch đế thành.
Xuân tri thôi liễu biệt,
Giang dữ phóng thuyền thanh.
Nông sự văn nhân thuyết,
Sơn quang kiến điểu tình.
Vũ công nhiêu đoạn thạch,
Thả tựu thổ vi bình.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Làm khi chuyển nhà về Qùy-Châu
 
Nằm ôm gối, huyện Vân-An,
Nay, thành Bạch-Đế, ta đang chuyển về.
Liễu Xuân, đi thấy buồn ghê,
Trên sông thuyền thả, bốn bề nước trong.
Nghe người nói chuyện ruộng đồng,
Núi quang, chim lượn trên không từng đàn.
Công vua dời núi rõ ràng,
Cho nên mới có đất bằng như nay...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:38:41 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 11.11.2008 22:57:01 (permalink)
 
NHẬP TRẠCH
(Kỳ nhất)
 
入 宅 三 首 其 一

奔 峭 背 赤 甲,
斷 崖 當 白 鹽。
客 居 愧 遷 次,
春 色 漸 多 添。
花 亞 欲 移 竹,
鳥 窺 新 捲 簾。
衰 年 不 敢 恨,
勝 概 欲 相 兼。
      
杜 甫
 
Bôn tiễu bối xích giáp,
Đoạn nhai đương bạch diêm.
Khách cư quí thiên thứ,
Xuân sắc tiệm đa thiêm.
Hoa á dục di trúc,
Điểu khuy tân quyển liêm.
Suy niên bất cảm hận,
Thắng khái dục tương kiêm.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Vào nhà
(Bài một)
 
Sau lưng, Xich-Giáp vút cao,
Bạch-Diêm trước mặt cao nào thua đâu.
Dời nhà, thẹn chẳng ở lâu,
Dần dần ngày tháng thêm mầu sắc Xuân.
Hoa kề, đẩy trúc đi dần,
Cuốn rèm, chim lại bay gần nhòm vô.
Tuổi già chẳng hận chẳng thù,
Đẹp và khẳng khái muốn vừa cả hai...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:39:41 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 11.11.2008 23:42:16 (permalink)
 
NHẬP TRẠCH
(Kỳ nhị)
 
入 宅 三 首 其 二

亂 後 居 難 定,
春 歸 客 未 還。
水 生 魚 腹 浦,
雲 暖 麝 香 山。
半 頂 梳 頭 白,
過 眉 拄 杖 斑。
相 看 多 使 者,
一 一 問 函 關。

杜 甫
 
Loạn hậu cư nan định,
Xuân quy khách vị hoàn.
Thủy sinh ngư phúc phố,
Vân noãn xạ hương sơn.
Bán đỉnh sơ đầu bạc,
Qúa mi trụ trượng ban.
Tương khan đa sứ giả,
Nhất nhất vấn hàm quan.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Vào nhà
(Bài hai)
 
Loạn yên, biết ở nơi nào,
Xuân về mà khách vẫn sao chưa về.
Nước dâng Ngư-Phúc tràn trề,
Những vầng mây ấm trở về Xạ-Hương.
Đỉnh đầu, chải tóc nhuốm sương,
Gậy vằn, tay chống cao thường quá mi.
Gặp người trên bước đường đi,
Thấy ta đều hỏi thăm về Hàm-Quan...
Anh-Nguyên       
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2015 03:08:24 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 12.11.2008 00:02:46 (permalink)
 
NHẬP TRẠCH
(Kỳ tam)
 
入 宅 三 首 其 三

宋 玉 歸 州 宅,
雲 通 白 帝 城。
吾 人 淹 老 病,
旅 食 豈 才 名。
峽 口 風 常 急,
江 流 氣 不 平。
只 應 與 兒 子,
飄 轉 任 浮 生。

杜 甫
 
Tống ngọc quy châu trạch,
Vân thông bạch đế thành.
Ngô nhân yêm lão bệnh,
Lữ thực khởi tài danh.
Giáp khẩu phong thường cấp,
Giang lưu khí bất bình.
Chỉ ưng dữ nhi tử,
Phiêu chuyển nhiệm phù sinh.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Vào nhà
(Bài ba)
 
Nơi nhà Tống-Ngọc, Quy-Châu,
Trên thành Bạch-Đế mây đâu trôi hoài.
Thân ta già, bệnh dài dài,
Đi xa kiếm sống, có tài danh chi.
Gió nơi cửa kẽm mạnh ghê,
Dòng sông nước chảy có bề chẳng yên.
Chỉ mong con nhỏ ở bên,
Đó đây trôi nổi sống trên đời này...
Anh-Nguyên       
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:40:56 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 12.11.2008 00:12:56 (permalink)
 
NGUYỆT
 


天 上 秋 期 近
人 間 月 影 清
入 河 蟾 不 沒
搗 藥 兔 長 生
只 益 丹 心 苦
能 添 白 髮 明
干 戈 知 滿 地
休 照 國 西 營
杜 甫
 
Tứ canh sơn thổ nguyệt,
Tàn dạ thủy minh lâu.
Trần hạp nguyên khai kính,
Phong liêm tự thượng câu.
Thố ưng nghi hạc phát,
Thiềm diệc luyến điêu cừu.
Châm chước hằng nga quả,
Thiên hàn nại cửu thu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Vầng trăng
 
Canh tư, núi nhả trăng ra,
Đêm tàn, ánh nước sáng loà lầu cao.
Hộp gương bụi mới vừa lau,
Gió rèm vừa cuốn, móc câu khác nào.
Thỏ giờ giống tóc bạc sao,
Áo lông, chắc cóc thế nào cũng ưa.
Hằng-Nga cô độc, thương chưa,
Tiết trời lạnh lẽo đã vừa chín Thu...
Anh-Nguyên          
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:41:56 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 12.11.2008 00:22:21 (permalink)
 
THÍNH DƯƠNG THỊ CA
 
聽 楊 氏 歌

佳 人 絕 代 歌,

獨 立 發 皓 齒。
滿 堂 慘 不 樂,

響 下 清 虛 裏。
江 城 帶 素 月,

況 乃 清 夜 起。
老 夫 悲 暮 年,

壯 士 淚 如 水。
玉 杯 久 寂 寞,

金 管 迷 宮 徵。
勿 云 聽 者 疲,

愚 智 心 盡 死。
古 來 傑 出 士,

豈 待 一 知 己。
吾 聞 昔 秦 青,

傾 側 天 下 耳。       
杜 甫
 
Giai nhân tuyệt đại ca,
Độc lập phát hạo xỉ.
Mãn đường thảm bất lạc,
Hưởng hạ thanh hư lý.
Giang thành đới tố nguyệt,
Huống nãi thanh dạ khởi.
Lão phu bi mộ niên,
Tráng sĩ lệ như thủy.
Ngọc bôi cửu tịch mịch,
Kim quản mê cung chủy.
Vật vân thính giả bì,
Ngu trí tâm tận tử.
Cổ lai kiệt xuất sĩ,
Khởi đãi nhất tri kỷ.
Ngô văn tích tần thanh,
Khuynh trắc thiên hạ nhĩ.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Nghe cô gái họ Dương hát
 
Nhất đời đẹp, lại hát hay,
Đứng, hàm răng trắng phơi bày khi ca,
Chẳng vui, phòng lại buồn ra,
Tiếng ca vang vọng như là trên không.
Trăng soi thành ở bên sông,
Lại thêm tiếng hát cất trong đêm trường.
Xót đời lão đã cuối đường,
Nếu như trai trẻ, buồn thương lệ tràn.
Từ lâu, chén ngọc chẳng màng,
Sáo, đàn, cung điệu, lại càng nhớ chi.
Người nghe mệt, nói làm gì,
Dại khôn đều đã chết đi cõi lòng.
Xưa nay người trí chẳng mong,
Chẳng chờ ai hiểu được lòng mình đâu.
Tần-Thanh, nghe đã từ lâu,
Khiến thiên hạ phải ghé đầu lắng tai...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:44:46 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 12.11.2008 00:53:09 (permalink)
 
TRÁNG DU
 
壯 遊

往 昔 十 四 五,出 遊 翰 墨 場。
斯 文 崔 魏 徒,以 我 似 班 揚。
七 齡 思 即 壯,開 口 詠 鳳 凰。
九 齡 書 大 字,有 作 成 一 囊。
性 豪 業 嗜 酒,嫉 惡 懹 剛 腸。
脫 略 小 時 輩,結 交 皆 老 蒼。
飲 酣 視 八 极,俗 物 都 茫 茫。
東 下 姑 蘇 臺,已 具 浮 海 航。
到 今 有 遺 恨,不 得 窮 扶 桑。
王 謝 風 流 遠,闔 廬 丘 墓 荒。
劍 池 石 壁 仄,長 洲 荷 芰 香。
嵯 峨 閶 門 北,清 廟 映 迴 塘。
每 趨 吳 太 伯,撫 事 淚 浪 浪。
枕 戈 憶 勾 踐,渡 浙 想 秦 皇。
蒸 魚 聞 匕 首,除 道 哂 要 章。
越 女 天 下 白,鑒 湖 五 月 涼。
剡 溪 蘊 秀 异,欲 罷 不 能 忘。
歸 帆 拂 天 姥,中 歲 貢 舊 鄉。
氣 劘 屈 賈 壘,目 短 曹 劉 墻。
忤 下 考 功 第,獨 辭 京 尹 堂。
放 蕩 齊 趙 間,裘 馬 頗 清 狂。
春 歌 藂 臺 上,冬 獵 青 丘 旁。
呼 鷹 皂 櫪 林,逐 獸 雲 雪 岡。
射 飛 曾 縱 鞚,引 臂 落 鶖 鶬。
蘇 侯 據 鞍 喜,忽 如 攜 葛 強。
快 意 八 九 年,西 歸 到 咸 陽。
許 與 必 詞 伯,賞 遊 實 賢 王。
曳 裾 置 醴 地,奏 賦 入 明 光。
天 子 廢 食 召,群 公 會 軒 裳。
脫 身 無 所 受,痛 飲 信 行 藏。
黑 貂 不 免 敝,斑 鬢 兀 稱 觴。
杜 曲 晚 耆 舊,四 郊 多 白 楊。
坐 深 鄉 黨 敬,日 覺 死 生 忙。
朱 門 任 傾 奪,赤 族 迭 罹 殃。
國 馬 竭 粟 豆,官 雞 輸 稻 粱。
舉 隅 見 煩 費,引 古 惜 興 亡。
河 朔 風 塵 起,岷 山 行 幸 長。
兩 宮 各 警 蹕,萬 里 遙  相望。
崆 峒 殺 氣 黑,少 海 旌 旗 黃。
禹 功 亦 命 子,涿 鹿 親 戎 行。
翠 華 擁 吳 岳,螭 虎 啖 豺 狼。
爪 牙 一 不 中,胡 兵 更 陸 梁。
大 軍 載 草 草,凋 瘵 滿 膏 肓。
備 員 竊 補 袞,懮 憤 心 飛 揚。
上 感 九 廟 焚,下 憫 萬 民 瘡。
斯 時 伏 青 蒲,廷 諍 守 御 床。
君 辱 敢 愛 死,赫 怒 幸 無 傷。
聖 哲 體 仁 恕,宇 縣 復 小 康。
哭 廟 灰 燼 中,鼻 酸 朝 未 央。
小 臣 議 論 絕,老 病 客 殊 方。
郁 郁 苦 不 展,羽 翮 困 低 昂。
秋 風 動 哀 壑,碧 蕙 捐 微 芳。
之 推 避 賞 從,漁 父 濯 滄 浪。
榮 華 敵 勛 業,歲 暮 有 嚴 霜。
吾 觀 鴟 夷 子,才 格 出 尋 常。
群 凶 逆 未 定,側 佇 英 俊 翔。

杜 甫
 
Vãng tích thập tứ ngũ,
Xuất du hàn mặc trường.
Tư văn thôi ngụy đồ,
Dĩ ngã tự ban dương.
Thất linh tứ tức tráng,
Khai khẩu vịnh phượng hoàng.
Cửu linh thư đại tự,
Hữu tác thành nhất nang.
Tính hào nghiệp thị tửu,
Tật ố hoài cương trường.
Thoát lược tiểu thì bối,
Kết giao giai lão thương.
Ẩm hàm thị bát cực,
Tục vật đô mang mang.
Đông há cô tô đài,
Dĩ cụ phù hải hàng.
Đáo kim hữu di hận,
Bất đắc cùng phù tang.
Vương tạ phong lưu viễn,
Hạp lư khâu mộ hoang.
Kiếm trì thạch bích trắc,
Trường châu kỹ hà hương.
Ta nga xương môn bắc,
Thanh miếu ánh hồi đường.
Mỗi xu ngô thái bá,
Phủ sự lệ lang lang.
Chẩm qua ức câu tiễn,
Độ chiết tưởng tần hoàng.
Chưng ngư văn chủy thủ,
Trừ đạo sẩn yêu chương.
Việt nữ thiên hạ bạch,
Giám hồ ngũ nguyệt lương.
Diễm khê uẩn tú dị,
Dục bãi bất năng vương.
Quy phàm phất thiên mụ,
Trung tuế cống cựu hương.
Khí mi khuất giả lũy,
Mục đoản tào lưu tường.
Ngỗ há hảo công đệ,
Độc từ kinh doãn đường.
Phóng đãng tề triệu gian.
Cừu mã phả thanh cuồng.
Xuân ca tùng đài thượng,
Đông lạp thanh khâu bàng.
Hô ưng tạo lịch lâm,
Trục thú vân tuyết cương.
Xạ phi tằng túng khống,
Dẫn tý lạc thu thương.
Tô hầu cứ yên hỷ,
Hốt như huề cát cương.
Khoái ý bát cửu niên,
Tây quy đáo hàm dương.
Hứa dữ tất từ bá,
Thưởng du thực hiền vương.
Duệ cứ trí lễ địa,
Tấu phú nhập minh quang.
Thiên tử phế thực triệu,
Quần công hội hiên thường.
Thoát thân vô sở trụ,
Thống ẩm tín hành tàng.
Hắc điêu bất miễn tệ,
Ban mấn ngột xứng trường.
Đỗ khúc hoán kỳ cựu,
Tứ giao đa bạch dương.
Tọa thâm hương đảng kính,
Nhật giác tử sinh mang.
Chu môn nhiệm khuynh đoạt,
Xích tộc điệt la ương.
Quốc mã kiệt túc đậu,
Quan kê thâu đạo lương.
Cử ngung kiến phiền phí,
Dẫn cổ tích hưng vong.
Hà sóc phong trần khởi,
Mân sơn hành hạnh trường.
Lưỡng cung các cảnh tất,
Vạn lý dao tương vương.
Không đồng sát khí hắc,
Thiếu hải tinh kỳ hoàng.
Vũ công diệc mệnh tử,
Trác lộc thân nhung hàng.
Thúy hoa ủng ngô nhạc,
Ly hổ đạm sài lang.
Trảo nha nhất bất trúng,
Hồ binh cánh lục lương.
Đại quân tái thảo thảo,
Điêu trái mãn cao hoang.
Bị viên thiết bổ cổn,
Ưu phẫn tâm phi dương.
Thượng cảm cửu miếu phần,
Hạ mẫn vạn dân sang.
Tư thì phục thanh bồ,
Đình tránh thủ ngự sàng.
Quân nhục cảm ái tử,
Hách nộ hạnh vô thương.
Thánh triết thể nhân thứ,
Vũ huyện phục tiểu khang.
Khốc miếu hôi tẫn trung,
Tỵ toan triều vị ương.
Tiểu thần nghị luận tuyệt,
Lão bệnh khách thù phương.
Uất uất khổ bất triển,
Vũ cách khốn đê ngang.
Thu phong động ai hác,
Bích huệ quyên vi phương.
Chi thôi tỵ thưởng tòng,
Ngư phủ trạc thương lương.
Vinh hoa địch huân nghiệp,
Tuế mộ hữu nghiêm sương.
Ngô quan chi di tử,
Tài cách xuất tầm thường.
Quần hung nghịch vị định,
Trắc trữ anh tuấn tường.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Rong chơi thời trẻ
 
Nhớ xưa, mười bốn mười lăm,
Nơi trường bút mực xăm xăm bước vào.
Ngụy, Thôi, đánh giá thật cao,
Bảo ta đâu có khác nào Ban, Dương.
Ý, từ bẩy tuổi cang cường,
Phượng Hoàng, mở miệng đã thường vịnh ngâm.
Chữ to, chín tuổi dự phần,
Văn thơ sắc thái khác văn thuở nào.
Rộng lòng, lượng rượu lại cao,
Ghét cay kẻ ác, lúc nào cũng ngay.
Bạn thời thơ ấu, đổi thay,
Kết thân cùng với những tay tuổi già.
Uống say, nhìn tám hướng xa,
Tầm thường, mọi vật sao mà mênh mông.
Đài Cô-Tô, xuống phía đông,
Xong xuôi, tầu biển quyết lòng ra khơi.
Đến nay còn hận xuốt đời,
Phù-Tang, chẳng được đến chơi xứ người.
Phong lưu, Vương, Tạ, xa rồi,
Hạp-Lư, gò mộ nay thời bỏ hoang.
Kiếm-Trì, tường đá điêu tàn,
Trường-Châu, sen, ấu, hương đang thơm nồng.
Xương-Môn, hướng bắc cao trông,
Miếu Thanh soi bóng trên dòng nước trong.
Nhớ Ngô-Thái-Bá, thăm ông,
Việc xưa nhìn lại, hai dòng lệ tuôn.
Gối gươm, Câu-Tiễn, nhớ luôn,
Tần Hoàng, sông Chiết, lại buồn cho ông.
Dấu dao cá hấp nghe không,
Quét đường, thấy ấn đeo hông, tức cười.
Trắng da, gái Việt nhất đời,
Giám-Hồ, mát mẻ vào thời tháng Năm.
Diễm-Khê, đẹp đẽ ghé thăm,
Muốn thôi, sao vẫn nhùng nhằng chưa quên.
Buồm về, Thiên-Mụ ngay bên,
Giữa năm, Hương-Cống thi miền quê xưa.
Khí ngang Khuất, Giả, đâu vừa,
Tào, Lưu, tường ấy thấy chưa cao gì.
Làm sai ý, hỏng kỳ thi,
Phủ đường Kinh-Doãn ra đi một mình.
Rong chơi Tề, Triệu, thỏa tình,
Áo cừu, ngựa tốt, nghĩ mình cuồng ngông
Tùng-Đài, Xuân hát thỏa lòng,
Thanh-Khâu, săn bắn trong vòng mùa Đông.
Trong rừng Tạo-Lịch săn ưng,
Đuổi nai, Vân-Tuyết, trên vùng núi cao.
Buông cương, bắn chẳng có sao,
Dương cung, thả nhẹ, ngỗng nào không rơi.
Ông Tô tựa ngựa mỉm cười:
Tưởng như đang đứng bên người Cát-Cương.
Sướng vui tám chín năm trường,
Phía tây, lại hướng Hàm-Dương đi về.
Bạn cùng thi bá sành nghề,
Vương hầu, Hiền triết, rủ rê chơi cùng.
Áo dài, rượu quý, ngồi chung,
Quang-Minh, phú được tâu cùng nhà vua.
Triệu vào, vua bỏ ăn trưa,
Công khanh gặp gỡ xe xua áo quần.
Ra về không nhận một ân,
Uống say chẳng thiết ẩn thân hay làm.
Áo điêu cũ đã rách màng,
Muối tiêu mái tóc, rượu đang ly đầy.
Lão già xóm Đỗ đổi thay,
Ngoại ô, bốn phía trồng đầy bạch dương.
Sống lâu, thôn xóm kính nhường,
Mỗi ngày, sống chết, thấy đương vội vàng.
Cửa son, mặc ý chiếm ngang,
Giết luôn ba họ, họa đang đến dần.
Ngựa ăn hết lúa đậu dân,
Gà vua, cũng phải nạp phần gạo kê.
Dân phiền, tổn phí mọi bề,
Tích xưa đã nói rõ về thịnh suy.
Loạn từ Hà-Bắc khởi đi,
Núi Mân ở lại thời kỳ dài lâu.
Hai cung nghiêm ngặt bắt đầu,
Xa xăm vạn dặm ngóng nhau từng ngày.
Không-Đồng sát khí mù bay,
Miền đông, Thiếu-Hải, gió lay cờ vàng.
Truyền ngôi, vua Vũ đáng làm,
Thân như Trác-Lộc, coi hàng ngũ quân.
Thuš-Hoa, Ngô-Nhạc đóng gần,
Hăm he mãnh hổ thịt dần sói lang.
Vuốt nanh vồ trượt bẽ bàng,
Quân Hồ được thế, lại càng hung hăng.
Đại quân cực khổ ai bằng,
Điêu tàn như bệnh càng tăng mỗi ngày.
Làm quan vô dụng lúc này,
Lo và căm phẫn tim lay phập phồng.
Chín lăng bị đốt sạch không,
Vạn dân thương tích, trong lòng cảm thương.
Chiếu bồ, ta phục bất thường,
Lựa lời can gián bên giường tâu vua.
Nhục vua, có chết cũng vừa,
Bừng bừng tức giận, may chưa chém đầu.
Vua thường khoan thứ từ lâu,
Người dân lại được bắt đầu yên thân.
Miếu lăng tro bụi, khóc thầm,
Vị-Ương, cay đắng đem thân vào chầu.
Tiểu thần thôi nói từ lâu,
Già và bệnh hoạn sống đâu quê người.
Uất không được nói ra lời,
Cột, chim không thể tung trời bay cao.
Gió Thu, hang núi buồn sao,
Huệ xanh phảng phất, ai nào thiết đâu.
Chi-Thôi, khen thưởng chẳng cầu,
Ngư ông rửa ráy nơi đầu Thương-Lương.
Vinh hoa, tình đổi là thường,
Như năm đã hết đầy đuờng tuyết sương.
Thấy ông Phạm-Lãi, thật thương,
Tài năng, phong cách khác thường người ta.
Quân hung nghịch, chửa dẹp mà,
Chờ mong anh tuấn đứng ra giúp đời...
Anh-Nguyên      
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:55:56 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 12.11.2008 01:00:14 (permalink)
 
MẠN THÀNH NHẤT TUYỆT
 
漫 成 一 絕 

江 月 去 人 只 數 尺
風 燈 照 夜 欲 三 更
沙 頭 宿 鷺 聯 拳 靜
船 尾 跳 魚 撥 刺 鳴

杜 甫

Giang nguyệt khứ nhân chỉ số xích,
Phong đăng chiếu dạ dục tam canh.
Sa đầu túc lộ liên quyền tĩnh,
Thuyền vĩ khiêu ngư bát thích minh.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Viết tản mạn thành bài Tuyệt cú
 
Trăng sông, vài thước, cách người,
Đèn chài le lói, ngoài trời canh ba.
Lặng yên cò nghỉ bãi xa,
Cuối thuyền lõm bõm, chắc là cá thôi...
 
Người cách trăng sông mấy thước thôi,
Canh ba đèn gió vẫn còn soi.
Đàn cò bãi cát im lìm nghỉ,
Cá quẫy đuôi thuyền tiếng lẻ loi...
Anh-Nguyên    
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 16:59:43 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 12.11.2008 01:27:14 (permalink)
 
HỰU TRÌNH NGÔ LANG
 
又 呈 吳 郎

堂 前 撲 棗 任 西 鄰
無 食 無 兒 一 婦 人
不 為 囷 窮 寧 有 此
只 緣 恐 懼 轉 須 親
即 防 遠 客 誰 多 事
便 插 蔬 籬 卻 甚 真
已 訴 徵 求 貧 到 骨
正 思 戎 馬 淚 盈 巾
杜 甫


Đường tiền phác tảo nhiệm tây lân,
Vô thực vô nhi nhất phụ nhân.
Bất vị khốn cùng ninh hữu thử,
Chỉ duyên khủng cụ chuyển tu thân.
Tức phòng viễn khách thùy đa sự,
Tiện sáp sơ ly khước thậm chân.
Dĩ tố trưng cầu bần đáo cốt,
Chính tư nhung mã lệ doanh cân.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Lại gửi bác Ngô
 
Trước nhà, đập táo, mỗi ngày,
Không con, không gạo, thương thay một bà,
Đều do túng quẫn sinh ra,
Nay vì e ngại, tìm ta chuyện trò.
Khách xa nhiều chuyện, bà lo,
Rào thưa cố để không cho ai vào.
Than nghèo thấu cốt: thuế cao,
Chiến tranh, ta nghĩ, lệ trào đầy khăn...
Anh-Nguyên          
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 17:03:15 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 12.11.2008 01:38:39 (permalink)
 
THƯƠNG THU
 
傷 秋

林 僻 來 人 少,

山 長 去 鳥 微。
高 秋 收 畫 扇,

久 客 掩 荊 扉。
懶 慢 頭 時 櫛,

艱 難 帶 減 圍。
將 軍 猶 汗 馬,

天 子 尚 戎 衣。
白 蔣 風 飆 脆,

殷 檉 曉 夜 稀。
何 年 減 豺 虎,

似 有 故 園 歸。
杜 甫
 
Lâm tích lai nhân thiểu,
Sơn trường khứ điểu vi.
Cao thu thâu hoạ phiến,
Cửu khách yểm sài phi.
Lạn mạn đầu thì trất,
Gian nan đới giảm vi.
Tướng quân do hãn mã,
Thiên tử thượng nhung y.
Bạch tương phong tiên thúy,
Ân sanh hiểu dạ hy.
Hà niên giảm sài hổ,
Tự hữu cố viên quy.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Thu đau thương
 
Rừng biên, người ít lại qua,
Núi dài, chim lượn là là nhỏ thay.
Tranh Thu nơi cửa sổ này,
Cửa rào, khách ở lâu ngày đóng yên.
Đầu, lười chẳng chải để nguyên,
Đai quần, vất vả nên liền rộng ra.
Tướng quân cỡi ngựa xông pha,
Nhà vua áo trận, sẵn ra chiến trường.
Nấm sao gió thổi nát bươm,
Liễu xanh buổi sớm còn đương mượt mà.
Năm nào sói, hổ, ít ra,
Hẳn ta về được căn nhà quê xưa...
Anh-Nguyên   
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 17:05:59 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 12.11.2008 03:30:12 (permalink)
 
TÔNG VŨ SINH NHẬT
 
宗 武 生 日
 
小 子 何 時 見,
高 秋 此 日 生。
熟 精 文 選 理,
休 覓 彩 衣 輕。
雕 瘵 筵 初 秩,
欹 斜 坐 不 成。
自 從 都 邑 語,
已 伴 老 夫 名。
詩 是 吾 家 事,
人 傳 世 上 情。
流 霞 分 片 片,
涓 滴 就 徐 傾。
杜 甫

Tiểu tử hà thì kiến,
Cao thu thử nhật sinh.
Tự tòng đô ấp ngữ,
Dĩ bạn lão phu danh.
Thi thị ngô gia sự,
Nhân truyền thế thượng tình.
Thục tinh văn tuyển lý,
Hưu mịch thái y khinh.
Điêu sái diên sơ trật,
Y tà tọa bất thành.
Lưu hà phân phiến phiến,
Quyên trích tựu từ khuynh.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Ngày sinh của Tông-Vũ
 
Bao giờ con mới biết rành,
Ngày này, Thu ấy, con sanh ra đời.
Học làng xóm nói từng lời,
Tên ta, quen biết từ nơi chốn này.
Nghiệp nhà, thơ phú vẫn hay,
Người đời cho đến ngày nay còn truyền.
Bài văn chọn, hiểu ý huyền,
Xênh xang áo mũ, đừng chuyên tìm cầu.
Bệnh hoài, bổng lộc có đâu,
Dựa vào các vật, từ lâu chẳng ngồi.
Ráng trời từng mảng mảng trôi,
Nước từng giọt rỏ, thế rồi cũng nghiêng!...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 17:08:31 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 12.11.2008 03:39:06 (permalink)
 
KÝ HÀN GIÁN NGHỊ          
 
寄 韓 諫 議

今 我 不 樂 思 岳 陽,
身 欲 奮 飛 病 在 床。
美 人 娟 娟 隔 秋 水,
濯 足 洞 庭 望 八 荒。
鴻 飛 冥 冥 日 月 白,
青 楓 葉 赤 天 雨 霜。
玉 京 群 帝 集 北 斗,
或 騎 麒 麟 翳 鳳 凰。
芙 蓉 旌 旗 煙 霧 落,
影 動 倒 景 搖 瀟 湘。
星 宮 之 君 醉 瓊 漿,
羽 人 稀 少 不 在 旁。
似 聞 昨 者 赤 松 子,
恐 是 漢 代 韓 張 良;
昔 隨 劉 氏 定 長 安,
帷 幄 未 改 神 慘 傷。
國 家 成 敗 吾 豈 敢?
色 難 腥 腐 餐 楓 香。
周 南 留 滯 古 所 惜, 
南 極 老 人 應 壽 昌。
美 人 胡 為 隔 秋 水?
焉 得 置 之 貢 玉 堂。
杜 甫

Kim ngã bất lạc tư nhạc dương,
Thân dục phấn phi bịnh tại sàng.
Mỹ nhân quyên quyên cách thu thủy,
Trạc túc động đình vọng bát hoang.
Hồng phi minh minh nhật nguyệt bạch,
Thanh phong diệp xích thiên vũ sương.
Ngọc kinh quần đế tập bắc đẩu,
Hoặc kỵ kỳ lân ế phượng hoàng.
Phù dung tinh kỳ yên vụ lạc,
Ảnh động đảo cảnh dao tiêu tương.
Tinh cung chi quân túy quỳnh tương,
Vũ nhân hy thiểu bất tại bàng.
Tự văn tạc giả xích tùng tử,
Khủng thị hán đại hàn trương lương.
Tích tùy lưu thị định trường an,
Duy ốc vị cải thần thảm thương.
Quốc gia thành bại ngô khởi cảm,
Sắc nan tinh hủ xan phong hương.
Chu nam lưu trệ cổ sở tích,
Nam cực lão nhân ưng thọ xương.
Mỹ nhân hồ vi cách thu thủy,
Yên đắc trí chi cống ngọc đường.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Gửi quan Gián-Nghị họ Hàn
 
Không vui vì nhớ Nhạc-Dương,
Muốn bay nhưng bệnh liệt giường, biết sao.
Nước Thu người đẹp nơi nào,
Động-Đình, chân rửa, trông vào tám phương.
Hồng bay trăng nhạt đêm trường,
Lá phong đỏ ối, trời sương mịt mờ.
Chư tiên, cung Bắc-Đẩu chờ,
Cưỡi lân, hoặc phượng nãy giờ kéo xe.
Cờ Phù-Dung, khói sương che,
Rung rinh cảnh vật nhạt nhòe Tiêu Tương.
Quỳnh-Tương, tiên vẫn say thường,
Mà người có cánh giờ đương nơi nào!
Nghe như Xích-Tử dự vào,
E là đời Hán thuở nào Trương-Lương?
Trường-An dân được bình thường,
Trướng màn chưa đổi, thảm thương vẫn còn.
Quốc gia suy thịnh dám nhòm!
Tanh hôi tránh hết, bữa toàn hương phong.
Chu-Nam, ẩn mãi, buồn lòng,
‘‘Lão ông Nam Cực’’, ta mong sống hoài.
Có người đẹp cách lâu dài!
Sao nơi Điện Ngọc người tài dâng lên?!...
Anh-Nguyên        
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2022 17:10:28 bởi Anh Nguyên >
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 8 của 14 trang, bài viết từ 106 đến 120 trên tổng số 198 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9