Đường Thi Trích Dịch IV - Anh Nguyên
Thay đổi trang: << < 101112 > >> | Trang 12 của 14 trang, bài viết từ 166 đến 180 trên tổng số 200 bài trong đề mục
Anh Nguyên 23.11.2008 03:28:42 (permalink)

DẠ THƯỚNG THỤ HÀNG
THÀNH VĂN ĐỊCH
 
夜 上 受 降 城 聞 笛

回 樂 峰 前 沙 似 雪
受 降 城 外 月 如 霜
不 知 何 處 吹 籚 管
一 夜 征 人 盡 望 鄉 

李 益

Hồi nhạc phong tiền sa tự tuyết,
Thụ hàng thành ngoại nguyệt như sương.
Bất tri hà xứ xuy lô quản,
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.
Lý-Ích
 
Dịch:
 
Đêm nghe tiếng sáo
 
Núi Hồi-Nhạc, cát trông như tuyết,
Thụ-Hàng thành, ánh nguyệt như sương.
Nơi đâu, tiếng sáo du dương,
Suốt đêm, chiến sĩ quê hương hướng về...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:13:08 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 03:36:19 (permalink)
 
HỶ KIẾN NGOẠI ĐỆ
 
喜 見 外 弟

十 年 離 亂 後
長 大 一 相 逢
問 姓 驚 初 見
稱 名 憶 舊 容
別 來 滄 海 事
語 罷 暮 天 鐘
明 日 巴 陵 道
秋 山 又 幾 重
李 益

 
Thập niên ly loạn hậu,
Trưởng đại nhất tương phùng.
Vấn tính kinh sơ kiến,
Xưng danh ức cựu dung.
Biệt lai thương hải sự,
Ngữ bãi mộ thiên chung.
Minh nhật ba lăng đạo,
Thu sơn hựu kỷ trùng.
Lý-Ích
 
Dịch:
 
Mừng gặp em họ ngoại
 
Mười năm ly loạn qua mau,
Mãi khi lớn tuổi gặp nhau một lần.
Hỏi tên họ bởi chưa thân,
Xưng danh, dáng cũ, mới dần nhận ra.
Xa nhau, dâu biển xót xa,
Nói xong, chiều đã ngân nga chuông rồi.
Ba-Lăng, mai lại đi thôi,
Qua bao nhiêu lớp núi đồi mùa Thu!...
Anh-Nguyên

<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:53:37 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 03:43:19 (permalink)
 
ĐĂNG QUÁN TƯỚC LÂU
 
登 觀 雀

觀 雀 樓 西 百 尺 檣,
汀 州 雲 樹 共 茫 茫.
漢 家 簫 鼓 空 流 水,
魏 國 山 河 半 夕 陽.
事 去 千 年 猶 恨 遫,
愁 來 一 日 正 為 長.
風 煙 併 是 思 歸 望,
遠 且 非 春 亦 自 傷.

李 益

Quán tước lâu tây bách xích tường,
Đinh châu vân thụ cộng mang mang.
Hán gia tiêu cổ không lưu thủy,
Ngụy quốc sơn hà bán tịch dương.
Sự khứ thiên niên do hận tốc,
Sầu lai nhất nhật chính vi trường.
Phong yên tính thị tư quy vọng,
Viễn mục phi xuân diệc tự thương.
Lý-Ích
 
Lên lầu Quán-Tước
 
Tây lầu Quán-Tước: buồm cao,
Mây, cây, trên bãi nao nao nỗi buồn.
Trống, tiêu nhà Hán: nước tuôn,
Núi, sông nước Ngụy: nửa đương nắng tà.
Ngàn năm hận cũ chóng qua,
Một ngày sầu đến cho là dài ghê.
Khói mây gợi nhớ chốn quê,
Xót thương, xa tít nhìn về chẳng Xuân...
Anh-Nguyên 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.06.2022 06:11:20 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 03:57:07 (permalink)
 
LÝ KIỀU
 
TRƯỜNG NINH CÔNG CHỦ
ĐÔNG TRANG THỊ YẾN  
    
長 甯 公 主 東 莊 侍 宴

別 業 臨 青 甸
嗚 鑾 降 紫 霄
長 筵 鴛 鷺 集
仙 管 鳳 凰 調
樹 接 南 山 近
煙 含 北 渚 遙
承 恩 咸 已 醉
戀 賞 未 還 鑣
李 嶠 

 
Biệt nghiệp lâm thanh điện,
Minh loan giáng tử tiêu.
Trường diên uyên lộ tập,
Tiên quản phụng hoàng điều.
Thụ tiếp nam sơn cận,
Yên hàm bắc chử diêu.
Thừa ân hàm dĩ túy,
Luyến thưởng vị hoàn tiêu.
Lý-Kiều
 
Dịch:
 
Dự tiệc ở Đông-Trang
của công chúa Trường-Ninh
 
Nhà riêng bên cạnh điện xanh,
Xe loan rung nhạc, mây lành xuống đây.
Tiệc to, uyên hạc về đầy,
Phụng-Hoàng, trỗi điệu vui vầy sáo tiên.
Núi Nam, cây cối tiếp liền,
Khói mây bến Bắc ở miền xa đưa.
Nhờ ơn được buổi say sưa,
Luyến lưu xem cảnh, ngựa chưa muốn về...
Anh-Nguyên 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:21:56 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 05:42:45 (permalink)
 
LÝ KỲ
 
KÝ HÀN BẰNG       

寄 韓 鵬

為 正 心 閒 物 自 閒
朝 看 飛 鳥 暮 飛 還
寄 書 河 上 神 明 宰
羨 爾 城 頭 姑 射 山
李 頎 


Vi chính tâm nhàn vật tự nhàn,
Triêu khan phi điểu mộ phi hoàn.
 thư hà thượng thần minh tể,
Tiện nhĩ thành đầu cô dịch sơn.
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Gửi Hàn-Bằng
 
Làm quan, tâm rảnh, cảnh nhàn,
Xem chim bay sớm, chiều tàn bay lui.
Gửi quan Hà-Thượng sõi đời,
Thành trên Cô-Dịch là nơi tuyệt vời...
Anh-Nguyên             
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:58:19 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 05:53:51 (permalink)
 
VỌNG TẦN XUYÊN
 
望 秦 川
 
秦 川 朝 望 迥,
日 出 正 東 峰。
遠 近 山 河 淨,
逶 迤 城 闕 重。
秋 聲 萬 戶 竹,
寒 色 五 陵 松。
客 有 歸 歟 歎,
淒 其 霜 露 濃。
李 頎
 
Tần xuyên triêu vọng quýnh,
Nhật xuất chính đông phong.
Viễn cận sơn hà tĩnh,
Uy di thành khuyết trùng.
Thu thanh vạn hộ trúc,
Hàn sắc ngũ lăng tùng.
Hữu khách quy dư thán,
Thê kỳ sương lộ nùng.
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Ngắm cảnh Tần-Xuyên

Tần-Xuyên, cảnh sớm bao la,
Chính đông, đỉnh núi ló ra vừng hồng.
Xa gần, yên ổn núi sông,
Tường thành lớp lớp chập chùng nhấp nhô.
Vạn nhà xào xạc trúc Thu,
Năm lăng, thông sắc âm u lạnh lùng.
Có người khách đến than cùng,
Móc sương giăng tỏa mịt mùng thê lương...
Anh-Nguyên      
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:59:12 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 06:09:48 (permalink)
 
TÚC OÁNH CÔNG THIỀN PHÒNG VĂN PHẠN
 
宿 瑩 公 禪 房 聞 梵

花 宮 仙 梵 遠 微 微,
月 隱 高 城 鐘 漏 稀。
夜 動 霜 林 驚 落 葉,
曉 聞 天 籟 發 清 機。
蕭 條 已 入 寒 空 靜,
颯 遝 仍 隨 秋 雨 飛。
始 覺 浮 生 無 住 著,
頓 令 心 地 欲 皈 依。
李 頎
 
Hoa cung tiên phạn viễn vi vi,
Nguyệt ẩn cao thành chung lậu hi.
Dạ động sương lâm kinh lạc diệp.
Hiểu văn thiên lại phát thanh ky,
Tiêu điều dĩ nhập hàn không tĩnh.
Táp đạp nhưng tùy thu vũ phi.
Thủy giác phù sinh vô trụ trước,
Đốn linh tâm địa dục quy y.
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Trọ ở phòng thiền của Oánh công
 
Hoa-Cung kinh Phạn vang xa,
Đồng hồ nhỏ chậm, trăng ngà, tường cao.
Rừng sương, lá rụng lao xao,
Sáo trời nghe sớm, sạch bao nỗi lòng.
Tiêu điều lạnh buốt không trung,
Ao ào như lẫn vào cùng mưa Thu.
Kiếp phù sinh trụ mãi ru?
Quy y Tam-Bảo, mau tu tâm này...
Anh-Nguyên  
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:27:30 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 06:19:38 (permalink)
 
CỔ Ý
 
古 意
 
男 兒 事 長 征,
少 小 幽 燕 客。
賭 勝 馬 蹄 下,
由 來 輕 七 尺。
殺 人 莫 敢 前,
鬚 如 蝟 毛 磔。
黃 雲 隴 底 白 雪 飛,
未 得 報 恩 不 能 歸。
遼 東 小 婦 年 十 五,
慣 彈 琵 琶 解 歌 舞。
今 為 羌 笛 出 塞 聲,
使 我 三 軍 淚 如 雨。
李 頎
 
Nam nhi sự trường chinh,
Thiếu tiểu u yên khách.
Đỗ thắng mã đề hạ,
Do lai khinh thất xích.
Sát nhân mạc cảm tiền,
Tu như vi mao trách.
Hoàng vân lũng để bạch vân phi,
Vị đắc báo ân bất đắc quy.
Liêu đông tiểu phụ niên thập ngũ,
Quán đàn tỳ bà giải ca vũ.
Kim vi khương địch xuất tái thanh,
Sử ngã tam quân lệ như vũ.
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Ý xưa
 
Làm trai chinh chiến lâu dài,
 
U-Yên, tuổi trẻ là trai can trường.
Thắng người dưới ngựa là thường,
Tấm thân bẩy thước sa trường nhẹ tênh.
Giết người, ai thấy cũng kinh,
Râu như lông nhím mặc tình đâm ra.
Như làn mây trắng bay xa,
Ơn vua chưa báo, về nhà được đâu.
Gái Liêu mười sáu tuổi đầu,
Tỳ bà, múa hát, từ lâu đã rành.
Sáo Khương, ngoài ải chậm, nhanh,
Ba quân, giọt lệ tuôn thành mưa rơi...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:29:33 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 06:38:31 (permalink)
 
TỐNG TRẦN CHƯƠNG PHỦ
 
送 陳 章 甫
 
四 月 南 風 大 麥 黃,
棗 花 未 落 桐 陰 長。
青 山 朝 別 暮 還 見,
嘶 馬 出 門 思 舊 鄉。
陳 侯 立 身 何 坦 蕩?
虯 鬚 虎 眉 仍 大 顙。
腹 中 貯 書 一 萬 卷,
不 肯 低 頭 在 草 莽。
東 門 酤 酒 飲 我 曹,
心 輕 萬 事 皆 鴻 毛。
醉 臥 不 知 白 日 暮,
有 時 空 望 孤 雲 高。
長 河 浪 頭 連 天 黑,
津 口 停 舟 渡 不 得。
鄭 國 遊 人 未 及 家,
洛 陽 行 子 空 嘆 息。
聞 道 故 林 相 識 多,
罷 官 昨 日 今 如 何?
李 頎
 
Tứ nguyệt nam phong đại mạch hoàng,
Cức hoa vị lạc đồng diệp trường.
Thanh sơn triêu biệt mộ hoàn kiến,
Tê mã xuất môn tư cố hương.
Trần hầu lập thân hà thản đảng,
Cầu tu hổ mi nhưng đại tảng.
Phúc trung trữ thư nhất vạn quyển,
Bất khả đê đầu tại thảo mảng.
Đông môn cô tửu ẩm ngã tào,
Tâm khinh vạn sự như hồng mao.
Túy ngọa bất tri bạch nhật mộ,
Hữu thì không vọng cô vân cao.
Trường hà lãng đầu liên thiên hắc,
Tân lại đình chu độ bất đắc.
Trịnh quốc du nhân vị cập gia,
Lạc dương hành tử không thán tức.
Văn đạo cố lâm tương thức đa,
Bãi quan tạc nhật kim như hà?
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Tiễn Trần-Chương-Phủ
 
Tháng tư đại mạch chín vàng,
Ngô đồng tươi tốt, gai đang hoa nhiều.
Núi xanh, đi sáng, về chiều,
Ngựa ra khỏi cổng lòng đều nhớ quê.
Ông Trần bình thản hay ghê,
Râu rồng, mày cọp, thêm bề trán cao.
Bụng đầy vạn sách khác nào,
Miền xuôi ông ở, làm sao cúi đầu.
Cửa đông mua rượu đãi nhau,
Lòng xem muôn việc khác đâu lông hồng.
Say, chiều chưa tỉnh giấc nồng,
Có khi hờ hững ngửa trông mây trời.
Trời đen sóng vỗ tận nơi,
Neo thuyền, lính giữ biết thời nào qua.
Sang chơi Trịnh, chửa về nhà,
Lạc-Dương, cất bước sao mà than chi.
Rừng xưa, bạn cũ thiếu gì,
Từ quan hôm trước, nay thì ra sao?...
Anh-Nguyên 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:32:07 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 07:54:02 (permalink)
 
TỐNG NGUỴ VẠN CHI KINH
 
送 魏 萬 之 京

朝 聞 遊 子 唱 驪 歌,
昨 夜 微 霜 初 度 河。
鴻 雁 不 堪 愁 裡 聽,
雲 山 況 是 客 中 過。
關 城 樹 色 催 寒 近,
御 苑 砧 聲 向 晚 多。
莫 見 長 安 行 樂 處,
空 令 歲 月 易 蹉 跎。

李 頎


Triêu văn du tử xướng ly ca,
Tạc dạ vi suơng sơ độ hà.
Hồng nhạn bất kham sầu lý thính,
Vân sơn huống thị khách trung qua.
Quan thành thụ sắc thôi hàn cận,
Ngự uyển châm thanh hướng vãn đa.
Mạc thị trường an hành lạc xứ,
Không linh tuế nguyệt dịch sa đà.
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Tiễn Ngụy-Vạn về kinh
 
Biệt ly, du tử sớm ca,
Đêm qua, sương mỏng, sông qua lúc nào.
Buồn, nghe tiếng nhạn nổi sao?
Huống là còn phải đi vào núi mây!
Thành biên, cây giục lạnh đây,
Tiếng chầy vườn ngự chiều nay thấy sầu.
Trường-An, hưởng lạc, phải đâu?
Để cho năm tháng dãi dầu trôi qua!...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:34:55 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 08:00:41 (permalink)

KÝ KỲ VÔ TAM
 (TỐNG CƠ VÔ TIỀM)
 
寄 綦 毋 三
 
新 加 大 邑 綬 仍 黃,
近 與 單 車 去 洛 陽。
顧 眄 一 過 丞 相 府,
風 流 三 接 令 公 香。
南 川 粳 稻 花 侵 縣,
西 嶺 雲 霞 色 滿 堂。
共 道 進 賢 蒙 上 賞,
看 君 幾 歲 作 臺 郎。
李 頎

Tân gia đại ấp thụ nhưng* hoàng,
Cận dữ đơn xa khứ (hướng) lạc dương.
Cố hễ nhất qua thừa tướng phủ,
Phong lưu tam tiếp lệnh công hương.
Nam xuyên canh đạo hoa xâm huyện,
Tây lĩnh vân hà sắc mãn đường.
Cộng đạo tiến hiền mông thượng thưởng,
Khan quân kỷ tuế tác đài lang.
Lý-Kỳ
 
Dịch:

Gửi Ký Kỳ-Vô-Tam
(Tiễn Cơ-Vô-Tiềm)
 
Ấp, phong thêm giải nhung vàng,
Một xe sắp sửa lên đàng Lạc-Dương.
Nhìn dinh Thừa-Tướng bên đường,
Ba lần được tiếp, mùi hương chưa tàn.
Nam-Xuyên, hương nếp tràn lan,
Ráng, mây Tây-Lĩnh đầy tràn qua song.
Tiến hiền sẽ được thưởng công,
Hàng quan, sắp thấy được ông trên đài...
Anh-Nguyên 
 
* Nhung = 絨 ?
          
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2022 19:57:05 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 08:19:13 (permalink)
 
THÍNH ĐỔNG ĐẠI ĐÀN HỒ GIÀ
 
聽 董 大 彈 胡 笳 
 
蔡 女 昔 造 胡 笳 聲,
一 彈 一 十 有 八 拍。
胡 人 落 淚 沾 邊 草,
漢 使 斷 腸 對 歸 客。
古 戍 蒼 蒼 烽 火 寒,
大 荒 沈 沈 飛 雪 白。
先 拂 聲 弦 後 角 羽,
四 郊 秋 葉 驚 慽 慽。
董 夫 子, 通 神 明,
深 山 竊 聽 來 妖 精。
言 遲 更 速 皆 應 手,
將 往 復 旋 如 有 情。
空 山 百 鳥 散 還 合, 
萬 里 浮 雲 陰 且 晴。
嘶 酸 雛 雁 失 群 夜,
斷 絕 胡 兒 戀 母 聲。
川 為 靜 其 波,
鳥 亦 罷 其 鳴。
烏 孫 部 落 家 鄉 遠,
邏 娑 沙 塵 哀 怨 生。
幽 音 變 調 忽 飄 灑,
長 風 吹 林 雨 墮 瓦。
迸 泉 颯 颯 飛 木 末,
野 鹿 呦 呦  走堂 下。
長 安 城 連 東 掖 垣,
鳳 凰 池 對 青 瑣 門。
高 才 脫 略 名 與 利,
日 夕 望 君 抱 琴 至。
李 頎
 
Thái nữ tích tạo hồ già thanh,  
Nhất đàn nhất thập hữu bát phách.
Hồ nhân lạc lệ triêm biên thảo,
Hán sứ đoạn trường đối quy khách.
Cổ thú thương thương phong hỏa hàn,
Đại hoang trầm âm phi tuyết bạch.
Tiên phất thương huyền hậu giốc vũ,
Tứ giao thư diệp kinh thích thích.
Đổng phu tử thông thần minh,
Thâm tùng thiết thính lai yêu tinh.
Ngôn trì cánh tốc giai ứng thủ,
Tương vãn phục tuyền như hữu tình.
Không sơn bách điểu tán hoàn hợp,
Vạn lý phù vân âm thả tình.
Tê toan sồ nhạn thất quần dạ,
Đoạn tuyệt hồ nhi luyến mẫu thanh.
Xuyên vi tĩnh kỳ ba,
Điểu diệc bãi kỳ minh.
Ô châu bộ lạc gia hương viễn,
La sa sa trần ai oán sinh.
U âm biến điệu hốt phiêu sái,
Trường phong xuy lâm vũ đọa ngoã.
Bích tuyền táp táp phi mộc mạt,
Dã lộc ao ao tẩu đường hạ.
Trường an thành liên đông dịch viên,
Phụng hoàng trì đối thanh tỏa môn.
Cao tài thoát lược danh dữ lợi,
Nhật tịch vọng quân bão cầm chí.
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Nghe Đổng-Đại gẩy đàn Hồ-già
 
Hồ-già, Thái-Diệm soạn ra,
Đàn mười bản, tám nhịp ca, tiếp liền.
Dân Hồ, lệ ướt cỏ biên,
Người về, sứ Hán thấy thêm đau lòng.
Ải Tần, đài lửa lạnh lùng,
Đồng hoang trắng xoá, khắp vùng tuyết rơi.
Cung thương, giốc vũ dạo chơi,
Lá Thu lay động ngoài trời lao xao.
Thần linh, bác Đổng cảm giao,
Yêu tinh rừng rậm cũng vào lén nghe.
Nỉ non, nhanh chậm, tay nghề,
Lướt qua thời cũ, lại về ngày nay.
Núi, chim tan lại họp bầy,
Mây trôi ngàn dặm, chỗ dầy chỗ quang.
Xót, đêm én nhỏ lạc đàn,
Bé Hồ nức nở, mẹ sang ngang rồi.
Dòng sông sóng lặng êm trôi,
Đàn chim tụ họp, cũng thôi kêu đàn.
Ô-Châu, quê cách muôn vàn,
La-Sa, cát bụi lại càng oán thương.
Chợt như gió thổi mưa tuôn,
Mưa trên mái ngói, gió luồn rừng cây.
Ao ào suối đổ đâu đây,
Nai kêu tác tác chạy đầy trước hiên.
Trường-An, Đông-Dịch sát liền,
Trước cung Thanh-Tỏa, ao tiên Phụng-Hoàng.
Tài cao, danh lợi chẳng màng,
Ngày đêm mong bác ôm đàn đến chơi...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:48:15 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 08:29:41 (permalink)
[This post was marked as helpful]
 
CỔ TÒNG QUÂN HÀNH         
 
古 從 軍 行

白 日 登 山 望 烽 火,
黃 昏 飲 馬 傍 交 河。
行 人 刁 斗 風 沙 暗,
公 主 琵 琶 幽 怨 多。
野 雲 萬 里 無 城 郭,
雨 雪 紛 紛 連 大 漠。
胡 雁 哀 鳴 夜 夜 飛,
胡 兒 眼 淚 雙 雙 落。
聞 道 玉 門 猶 被 遮,
應 將 性 命 逐 輕 車。
年 年 戰 骨 埋 荒 外,
空 見 葡 萄 入 漢 家。

李 頎 

Bạch nhật đăng sơn vọng phong hỏa,
Hoàng hôn ẩm mã bạng giao hà.
Hành nhân điêu đẩu phong sa ám,
Công chủ tỳ bà u oán đa.
Dã dinh vạn lý vô thành quách,
Vũ tuyết phân phân liên đại mạc.
Hồ nhạn ai minh dạ dạ phi,
Hồ nhi nhãn lệ song song lạc.
Văn đạo ngọc môn do bị già,
Ưng tương tính mệnh trục khinh xa,
Niên niên chiến cốt mai hoang ngoại,
Không kiến bồ đào nhập hán gia.
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Đi lính thời xưa
 
Lên non, lửa hiệu, đứng trông,
Chiều về, ngựa uống nước sông Giao-Hà.
Lệnh vang trong gió cát xa,
Oán sầu, nghe tiếng Tỳ-bà đâu đây.
Giữa đồng, doanh trại mọc đầy,
Bời bời mưa tuyết phủ đầy bãi hoang.
Nhạn Hồ, đêm đến, kêu than,
Trẻ Hồ, đôi mắt hai hàng lệ rơi.
Ngọc-Môn, giặc chặn khắp nơi,
Đem thân phò tướng quyết thời theo xe.
Bãi hoang, xương lính ai che,
Hàng năm, cống Hán, chỉ nghe Bồ-Đào!...
Anh-Nguyên        
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 22:51:01 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 09:14:48 (permalink)
 
ĐỀ TUYỀN CÔNG SƠN TRÌ
 
題 璿 公 山 池
 
遠 公 遁 跡 廬 山 岑
開 出 幽 居 祇 樹 林
片 石 孤 雲 窺 色 相
清 池 白 月 照 禪 心
指 揮 如 意 天 花 落
坐 臥 閑 房 春 草 深
此 外 俗 塵 都 不 染
惟 餘 玄 度 得 相 尋
李 頎
 
Viễn công độn tích lư sơn sầm,
Khai xuất u cư kỳ thụ lâm.
Phiến thạch cô vân khuy sắc tướng,
Thanh trì bạch nguyệt chiếu thiền tâm.
Chỉ huy như ý thiên hoa lạc,
Tọa ngọa nhàn phong xuân thảo thâm.
Thử ngoại tục trần đô bất nhiễm,
Duy dư huyền độ đắc tương tầm.
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Đề ao ở núi của Tuyền-Công
 
Viễn-Công về ẩn Lư-San,
Kỳ-Viên, mở một chỗ nhàn tu thân.
Đá, mây, sắc tướng thấy dần,
Ao trong, trăng sáng, trong ngần nơi tâm.
Ý yên, hoa rụng chẳng cần,
Ngồi nằm phòng vắng, cỏ Xuân mọc đầy.
Bụi đời chẳng nhuốm nơi này,
Chỉ riêng lý diệu, vào đây cùng tìm...
Anh-Nguyên    
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.06.2022 10:47:55 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 23.11.2008 09:21:44 (permalink)
 
KÝ TƯ HUÂN LƯ VIÊN NGOẠI
 
寄 司 勳 盧 員 外
 
流 澌 臘 月 下 河 陽,
草 色 新 年 發 建 章。
秦 地 立 春 傳 太 史,
漢 宮 題 柱 憶 仙 郎。
歸 鴻 欲 度 千 門 雪,
侍 女 新 添 五 夜 香。
早 晚 荐 雄 文 似 者,
故 人 今 已 賦 長 楊。
李 頎 
 
Lưu tư lạp nguyệt há hà dương,
Thảo sắc tân niên phát kiến chương.
Tần địa lập xuân truyền thái sử,
Hán cung đề trụ ức tiên lang.
Quy hồng dục độ thiên môn tuyết,
Thị nữ tân thiêm ngũ dạ hương.
Tảo vãn tiến hùng văn tự giả,
Cố nhân kim dĩ phú trường dương.
Lý-Kỳ
 
Dịch:
 
Gửi Viên Ngoại Tư-Huân-Lư
 
Cuối năm, nước xuống Hà-Dương,
Đầu năm, cỏ mọc Kiến-Chương xanh rần.
Đất Tần, Thái-sử báo Xuân,
Chàng Tiên cung Hán nhớ lần đề thơ.
Chim hồng, nghìn cửa tuyết chờ,
Hương thơm Ngũ-Dạ, hầu tơ thay rồi.
Văn Dương-Hùng được dâng thôi,
Phú Trường-Dương, bạn làm rồi còn chi...
Anh-Nguyên             

<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2022 23:10:09 bởi Anh Nguyên >
Thay đổi trang: << < 101112 > >> | Trang 12 của 14 trang, bài viết từ 166 đến 180 trên tổng số 200 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9