Đường Thi Trích Dịch V - Anh Nguyên
Thay đổi trang: << < 101112 > >> | Trang 11 của 14 trang, bài viết từ 151 đến 165 trên tổng số 209 bài trong đề mục
Anh Nguyên 30.11.2008 04:54:35 (permalink)
 
TIÊN TỬ TỐNG LƯU NGUYỄN XUẤT ĐỘNG
 
仙 子 送 刘 阮 出 洞
 
殷 勤 相 送 出 天 台,
仙 境 那 能 却 再 来。
云 液 每 归 须 强 饮,
玉 书 无 事 莫 频 开。
花 当 洞 口 应 长 在,
水 到 人 间 定 不 回。
惆 怅 溪 头 从 此 别,
碧 山 明 月 照 苍 苔。
曹 唐
 
Ân cần tương tống xuất thiên thai,
Tiên cảnh na năng khước tái lai.
Vân dịch ký quy tu cưỡng ẩm,
Ngọc thư vô sự mạc tần khai.
Hoa lưu động khẩu ưng trường tại,
Thủy đáo nhân gian định bất hồi.
Trù trướng khê đầu tòng thử biệt,
Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài.
Tào-Đường
 
Dịch:
 
Nàng tiên tiễn Lưu Nguyễn
 
Cửa non một bước một bùi ngùi:
Hồ dễ non tiên lại lạc vời?
Bầu rượu, khi về nên gượng uống!
Tờ mây, lúc rảnh chớ năng coi.
Bông hoa trong động nên còn mãi,
Giòng nước vòng trần chỉ chẩy xuôi.
Ngơ ngẩn đầu non, đôi ngả rẽ,
Cồn rêu man mác bóng trăng soi.
Ngô-Tất-Tố
 
Ân cần đưa khỏi chốn Thiên thai
Tiên cảnh khôn mong trở lại rồi
Chén rượu ngày về nên gượng uống
Phong thư vô sự chớ thường coi
Hoa nương cửa động hoa thơm mãi
Nước xuống khơi trần nước chảy xuôi
Theo tiễn bâng khuâng bên suối lạnh
Rêu ngàn non quạnh bóng trăng soi.
Ngân-Giang
 
Thiên-Thai, bịn rịn tiễn nhau,
Cảnh tiên trở lại, chối đâu dễ gì!
Rượu Vân-Dịch, uống nữa đi,
Ngọc-Thư, nếu có chuyện gì hãy coi.
Hoa nơi cửa động chẳng rời,
Cõi trần, nước xuống có đời nào lui.
Biệt nhau đầu suối, lệ rơi,
Non xanh, rêu biếc, trăng soi lạnh lùng...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:03:34 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 05:13:42 (permalink)
 
TIÊN TỬ ĐỘNG TRUNG HỮU HÒAI LƯU NGUYỄN
 
仙 子 洞 中 有 懷 劉 阮
 
不 將 清 瑟 理 霓 裳
塵 夢 那 知 鶴 夢 長
洞 裏 有 天 春 寂 寂
人 間 無 路 月 茫 茫
玉 沙 瑤 草 沿 溪 碧
流 水 棑 花 滿 澗 香
曉 露 風 燈 易 零 落
此 生 無 處 問 劉 郎
曹 唐
 
Bất tương thanh sắt lš nghê thường,
Trần mộng na tri hạc mộng trường.
Động lš hữu thiên xuân tịch tịch,
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang.
Ngọc sa dao thảo duyên khê bích,
Lưu thủy đào hoa mãn giản hương.
Hiểu lộ phong đăng dị linh lạc,
Thử sinh vô sứ vấn lưu lang!
Tào-Đường
 
Dịch:
 
Nàng tiên nhớ Lưu Nguyễn
 
Ngón đàn biếng lựa khúc Nghê-Thường,
Ai biết hồn ai những vấn vương?
Trời khóa non tiên xuân quạnh quẽ,
Đường đi cõi tục nguyệt mơ màng.
Men khe, lá cỏ bơ thờ biếc,
Đầy suối, hoa đào bát ngát hương.
Đèn gió, sương mai nào mấy chốc,
Kiếp này khôn chỗ hỏi tin chàng.
Ngô-Tất-Tố
 
Một khúc Nghê thường chẳng dạo đâu!
Mộng trần sao biết mộng tiên lâu?
Riêng trời trong động xuân man mác,
Khuất lối về xuôi nguyệt dãi dầu...
Cát ngọc cỏ ngà khe thắm sắc,
Hoa đào nước chảy suối thơm màu.
Sương mai đèn gió mong manh kiếp,
Nay hỏi chàng Lưu biết ở đâu?
Lê-Nguyễn-Lưu
 
Khúc đàn chẳng chọn Nghê-Thường,
Mộng trần nào biết mộng trường cõi tiên.
Trời Xuân trong động lặng yên,
Cõi người không lối, trăng lên mơ màng.
Cỏ xanh, bờ suối cát vàng,
Nước trôi, đào nở, hương tràn khe Xuân.
Sương mai, đèn gió, ngại ngần,
Lưu-Lang, nay biết cõi trần hỏi đâu?!...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:07:24 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 05:23:45 (permalink)
 
LƯU NGUYỄN TÁI ĐÁO THIÊN THAI
 
劉 阮 再 到 天 台
 
再 到 天 台 訪 玉 真
青 苔 白 石 已 成 塵
笙 歌 寂 寞 閑 深 洞
雲 鶴 蕭 條 絕 舊 鄰
草 樹 總 非 前 度 色
煙 霞 不 似 往 年 春
桃 花 流 水 依 然 在
不 見 當 時 勸 酒 人
曹 唐
 
Tái đáo thiên thai phỏng ngọc chân,
Thương đài bạch thạch dĩ thành trần.
Sinh ca tịch mịch nhàn thâm động,
Vân hạc tiêu điều tuyệt cựu lân.
Thảo thụ tổng phi tiền độ sắc,
Yên hà bất tự vãng niên xuân,
Đào hoa lưu thủy y nhiên tại.
Bất kiến đương thì khuyến tửu nhân.
Tào-Đường
 
Dịch:
 
Lưu Nguyễn lại đến Thiên-Thai
 
Non Thai lối cũ, hỏi người xưa,
Đá trắng, rêu xanh những bụi dơ.
Quạnh quẽ hang sâu, đàn hát vắng,
Đìu hiu xóm cũ, hạc mây thưa,
Cỏ cây thay hẳn mầu năm trước,
Mây dáng còn đâu vẻ bấy giờ!
Hờ hững hoa đào theo nước suối,
Nào người kê chuốc lúc say sưa!
Ngô-Tất-Tố
 
Tìm nàng, trở lại núi Thiên-Thai,
Đá trắng, rêu xanh, bụi tả tơi.
Hang thẳm, đàn ca im lặng tiếng,
Xóm xưa, mây bạc xác xơ nơi.
Cỏ cây năm trước không tươi nữa,
Mây khói xuân qua nhạt thắm rồi.
Nước vẫn êm trôi, đào vẫn nở,
Rượu mời ngày ấy, thấy đâu ai.
Trần-Trọng-San
 
Thiên-Thai, tìm gặp Ngọc-Chân,
Rêu xanh, đá trắng bụi trần lấp che.
Động sâu, đàn hát chẳng nghe,
Hạc, mây xóm cũ bay về nơi đâu?
Cỏ cây thay đổi sắc mầu,
Khói mây chẳng giống, Xuân hầu khác xưa.
Hoa đào vẫn nước đẩy đưa,
Rượu tiên đâu nữa người xưa mời chào!...
Anh-Nguyên     

<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:10:12 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 08:23:15 (permalink)
 
TẦN-THAO-NGỌC 

BẦN NỮ
 
贫 女
 
蓬 门 未 识 绮 罗 香,
拟 托 良 媒 益 自 伤。
谁 爱 风 流 高 格 调,
共 怜 时 世 俭 梳 妆。
敢 将 十 指 夸 针 巧,
不 把 双 眉 斗 画 长。
苦 恨 年 年 压 金 线,
为 他 人 作 嫁 衣 裳。
秦 韬 玉
 
Bồng môn vị thức ỷ la hương,
Nghĩ thác lương mai diệc tự thương.
Thùy ái phong lưu cao cách điệu,
Cộng liên thì thế kiệm sơ trang.
Cảm tương thập chỉ khoa châm xảo,
Bất bả song mi đấu họa trường.
Mỗi hận niên niên áp kim tuyến,
Vị tha nhân tác giá y thường.
Tần-Thao-Ngọc
 
Dịch:
 
Cô gái nghèo
 
Lều tranh, chưa biết lụa là,
 
Định nhờ mai mối, xót xa phận mình.
Ai yêu phong cách đẹp xinh,
Thương người trang điểm dáng hình qua loa.
Chẳng khoe mười ngón tài hoa,
Đôi mày không muốn kẻ ra cho dài.
Hận đo kim tuyến cho ai,
Vì người, áo cưới, trổ tài cắt may...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:13:06 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 08:36:23 (permalink)
 
 TÂY-BỈ-NHÂN
 
KHA THƯ CA
 
哥 舒 歌
 
北 斗 七 星 高,
哥 舒 夜 帶 刀。
至 今 窺 牧 馬,
不 敢 過 臨 洮。
西 鄙 人
 
Bắc đẩu thất tinh cao,
Kha thư dạ đới đao.
Chí kim khuy mục mã,
Bất cảm quá lâm thao.
Tây-Bỉ-Nhân
 
Dịch:
 
Khúc hát Kha-Thư
 
Bẩy sao Bắc-Đẩu lên cao,
Kha-Thư đêm vắng mang đao đứng chờ.
Nay người chăn ngựa còn ngờ,
Lâm-Thao, chẳng dám bao giờ đi qua...
Anh-Nguyên 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:14:16 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 08:51:12 (permalink)
 
THÁI-THƯỢNG ẨN GIẢ
 
ĐÁP NHÂN
 
答 人
 
偶 来 松 树 下
高 枕 石 头 眠
山 中 无 历 日
寒 尽 不 知 年
太 上 隐 者
 
Ngẫu lai tùng thụ hạ,
Cao chẩm thạch đầu miên.
Sơn trung vô lịch nhật,
Hàn tận bất tri niên.
Thái-Thượng Ẩn-Gia
 
Dịch:
 
Trả lời người
 
Tình cờ đến dưới gốc thông,
Gối cao trên đá, giấc nồng về ngay.
Núi non, không lịch xem ngày,
Lạnh vừa dứt hết, biết nay năm nào!...
Anh-Nguyên 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:15:35 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 09:08:10 (permalink)
 
THẨM THUYÊN KỲ
 
MANG SƠN
 
邙 山
 
北 邙 山 上 列 墳 塋,
萬 古 千 秋 對 洛 城。
城 中 日 夕 歌 鐘 起,
此 山 唯 聞 松 柏 聲。
沈 佺 期
 
Bắc mang sơn hạ liệt phần oanh,
Vạn cổ thiên thu đối lạc thành.
Thành trung nhật tịch ca chung khởi,
Thử sơn duy văn tùng bách thanh.
Thẩm-Thuyên-Kỳ
 
Dịch:
 
Núi Mang
 
Núi Mang, dưới, mộ rải quanh,
Nghìn thu muôn kiếp, trước thành Lạc-Dương.
Trong thành, tiếng hát, tiếng chuông,
Núi này chỉ thấy bách, dương, reo hoài...
Anh-Nguyên 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:17:14 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 09:19:16 (permalink)
 
TẠP THI
 
雜 詩
 
聞 道 黃 龍 戍
頻 年 不 解 兵
可 憐 閨 裏 月
長 在 漢 家 營
少 婦 今 春 意
良 人 作 夜 情
誰 能 將 旗 鼓
一 為 取 龍 城
沈 佺 期
 
Văn đạo hoàng long thú,
Tần niên bất giải binh.
Khả liên khuê lš nguyệt,
Trường tại hán gia dinh.
Thiếu phụ kim xuân š,
Lương nhân tạc dạ tình.
Thùy năng tương kỳ cổ,
Nhất vị thủ long thành.
Thẩm-Thuyên-Kỳ
 
Dịch:
 
Thơ vặt
 
Nghe quân đóng ở Hoàng-Long,
Lâu năm mà vẫn thấy không được về.
Thương cho vầng nguyệt phòng khuê,
Nơi dinh trại Hán không hề đổi thay.
Ý người thiếu phụ Xuân này,
Cũng tình đêm trước ngại thay cho chàng.
Ai giương cờ, thúc trống vang,
Thành Long, giữ giúp cho chàng một phen...
Anh-Nguyên                        
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:18:29 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 09:29:13 (permalink)
 
CỔ Ý
 
古 意
 
盧 家 少 婦 鬱 金 香,
海 燕 雙 棲 玳 瑁 梁。
九 月 寒 砧 催 木 葉,
十 年 征 戍 憶 遼 陽。
白 狼 河 北 音 書 斷,
丹 鳳 城 南 秋 夜 長。
誰 為 含 愁 獨 不 見,
更 教 明 月 照 流 黃。
沈 佺 期
 
Lư gia thiếu phụ uất kim hương,
Hải yến song thê đại mạo lương.
Cửu nguyệt hàn châm thôi mộc diệp,
Thập niên chinh thú ức liêu dương.
Bạch lang hà bắc âm thư đoạn,
Đan phụng thành nam thu dạ trường.
Thùy vị hàm sầu độc bất kiến,
Cánh giao minh nguyệt chiếu lưu hoàng.
Thẩm-Thuyên-Kỳ
 
Dịch:
 
Ý xưa
 
Nàng Lư mùi nghệ còn vương,
Từng đôi hải yến trên rường dừng chân.
Tiếng chầy giục lá rụng dần,
Mười năm lính thú, nhớ thầm Liêu-Dương.
Bạch-Lang, tin tức không đường,
Nên thành Đan-Phụng, Thu đương đêm dài.
Ngậm sầu, chẳng thấy được ai,
Màn Lưu-Hoàng để rọi hoài ánh trăng...
Anh-Nguyên                   

<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:20:09 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 09:38:50 (permalink)
 
THỊ YẾN
 
侍 宴
 
皇 家 貴 主 好 神 仙
別 業 初 開 雲 漢 邊
山 出 盡 如 鳴 鳳 嶺
氾 成 不 讓 飲 龍 川
妝 樓 翠 幌 教 春 住
舞 閣 金 鋪 借 日 懸
侍 從 乘 輿 來 此 地
稱 觴 獻 壽 樂 鈞 天
沈 佺 期
 
Hoàng gia quš chủ hiếu thần tiên,
Biệt nghiệp sơ khai vân hán biên.
Sơn xuất tận như minh phụng lĩnh,
Trì thành bất nhượng ẩm long xuyên.
Trang lâu thúy hoảng giao xuân trú,
Vũ các kim phô tá nhật huyền.
Thị tủng thừa dư lai thử địa,
Xứng trường hiến thọ nhạc quân thiên.
Thẩm-Thuyên-Kỳ
 
Dịch:
 
Hầu tiệc
 
Hoàng gia, công chúa chuộng tiên,
Bên bờ Vân-Hán, dựng riêng tòa nhà.
Núi như Minh-Phụng trải ra,
Ao đào trông giống như là Ẩm-Long.
Lầu trang, màn thúy Xuân nồng,
Vách vàng, gác múa tưởng trông mặt trời.
Hầu xe vua đến tận nơi,
Nâng ly chúc thọ, ca lời Quân-Thiên...
Anh-Nguyên                            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:21:47 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 30.11.2008 09:49:26 (permalink)
 
VU SƠN
 
巫 山
 
巫 山 高 不 極,
合 遝 狀 奇 新。
暗 谷 疑 風 雨,
陰 崖 若 鬼 神。
月 明 三 峽 曙,
潮 滿 九 江 春。
為 問 陽 臺 客,
應 知 入 夢 人。
沈 佺 期
 
Vu sơn cao bất cực,
Hàm đạp trạng kỳ tân.
Ám cốc nghi phong vũ,
Âm nhai nhược qủy thần.
Nguyệt minh tam giáp hiểu,
Hồ mãn cửu giang xuân.
Vị vấn dương đài khách,
Ưng tri nhập mộng nhân.
Thẩm-Thuyên-Kỳ
 
Dịch:
 
Núi Vu
 
Núi Vu cao ngất không cùng,
Gồm bao hình dạng lạ lùng đổi thay.
Hang sâu, mưa gió chốn này?
Âm u vách núi, ở đây có thần?
Sớm, trăng ba kẽm sáng ngần,
Chín sông đầy ắp vẻ Xuân hồ này.
Hỏi xem người khách Dương-Đài,
Trong mơ, có biết được ai không nào?!...
Anh-Nguyên                   
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:24:09 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 01.12.2008 04:28:18 (permalink)
 
YẾT VÔ NGẠI THƯỢNG NHÂN
 
謁 無 礙 上 人
 
大 士 生 天 竺,
分 身 化 日 南。
人 中 出 煩 惱,
山 下 即 伽 藍。
小 澗 香 為 刹,
危 峰 石 作 龕。
候 禪 青 鴿 乳,
窺 講 白 猿 參。
藤 愛 雲 間 壁,
花 憐 石 下 潭。
泉 行 幽 供 好,
林 掛 浴 衣 堪。
弟 子 哀 無 識,
醫 王 惜 未 談。
超 然 虎 溪 夕,
雙 樹 下 虛 嵐。
沈 佺 期
 
Đại sĩ sinh thiên trúc,
Phân thân hóa nhật nam.
Nhân trung xuất phiền não,
Sơn hạ tức già lam.
Tiểu giản hương vi sát,
Nguy phong thạch tác kham.
Hậu thiền thanh cáp nhũ,
Khuy giảng bạch viên tham.
Đằng ái vân gian bích,
Hoa lâu thạch hạ đàm.
Tuyền hành u cúng hảo,
Lâm quải dục y kham.
Đệ tử ai vô thức,
Y vương tích vị đàm.
Siêu nhiên hổ khê tịch,
Chích thụ há hư lam.
Thẩm-Thuyên-Kỳ
 
Dịch:
 
Yết kiến Vô-Ngại thượng nhân
 
Đại nhân, Thiên-Trúc, nơi sinh,
Phân thân hóa độ dân tình Nhật-Nam.
Trong người, phiền não đã tan,
Dưới chân núi dựng già lam tu hành.
Khe thơm, dựng lá phướn lành,
Đầu non, góp đá tạo thành tháp cao.
Hầu thiền, chim đến lúc nào,
Giảng kinh, vượn trắng cũng vào lắng nghe.
Dây leo bám vách mây che,
Hoa giăng trên đá xe me dưới đầm.
Suối trong lấy nước cúng dâng,
Rừng cây, áo giặt phơi gần đây thôi.
Trò không hiểu biết, thương ôi,
Y vương, chưa được trình lời, tiếc thay.
Đêm về suối Hổ, qua đây,
Dưới cây đơn lẻ, hơi bay u huyền...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:25:51 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 01.12.2008 04:38:52 (permalink)
 
DẠ TÚC THẤT BÀN LĨNH
 
夜 宿 七 盤 嶺
 
獨 遊 千 里 外,
高 臥 七 盤 西。
曉 月 臨 窗 近,
天 河 入 戶 低。
芳 春 平 仲 綠,
清 夜 子 規 啼。
浮 客 空 留 聽,
褒 城 聞 曙 雞。  
沈 佺 期
 
Độc du thiên lý ngoại,
Cao ngoạ thất bàn tê.
Sơn nguyệt lâm song cận,
Thiên hà nhập hộ đê.
Phương xuân bình trọng lục,
Thanh dạ tử quy đề.
Phù khách không lưu thính,
Bao thành văn thự kê.
Thẩm-Thuyên-Kỳ
 
Dịch:
 
Đêm trọ ở núi Thất-Bàn
 
Một mình nghìn dặm rong chơi,
Lên cao nằm nghỉ ở nơi Thất-Bàn.
Bên song, trăng núi ánh vàng,
Ngân-Hà trước cửa, như đang thấp dần.
Xuân thơm, cây cỏ xanh rần,
Đêm về vắng lặng, xa gần cuốc kêu.
Nổi trôi, lữ khách nghe đều,
Bao-Thành, gà gáy sớm khêu mối sầu...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:27:54 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 01.12.2008 04:47:14 (permalink)

 THÊ NHẤT
 
HOÀI LƯ SƠN CỰU ẨN
 
懷 廬 山 舊 隱
 
九 疊 芙 蓉 峭 到 天
悔 隨 瀑 水 下 寒 煙
深 秋 猿 鳥 來 心 上
徹 夜 松 杉 在 眼 前
書 架 壞 知 成 朽 菌
石 窗 倒 定 漫 流 泉
一 枝 竹 杖 遊 江 北
不 見 廬 峰 二 十 年
棲 一
 
Cửu điệp phù dung tiếu đáo thiên,
Hối tùy bộc thủy há hàn yên.
Thâm thu viên điểu lai tâm thượng,
Triệt dạ tùng sam tại nhãn tiền.
Thư giá hoại tri thành hủ khuẩn,
Thạch song đảo định mạn lưu tuyền.
Nhất chi trúc tượng du giang bắc,
Bất kiến lư phong nhị thập niên.
Thê-Nhất
 
Dịch:
 
Phù-Dung trùng điệp ngất trời,
Hối theo thác xuống, khói, hơi lạnh lùng.
Cuối Thu, chim, vượn, não nùng,
Thâu đêm, trước mắt, thông cùng với sam.
Kệ bày sách, mục nát tan,
Cửa song đá đổ, phó làn nước trôi.
Gậy tre, Giang-Bắc, về chơi,
Núi Lư, hai chục năm trời thấy đâu!...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 19:29:49 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 01.12.2008 05:13:29 (permalink)
 
THÍCH-XỬ-MẶC
 
THÁNH QUẢ TỰ
 
聖 果 寺
 
路 自 中 峰 上,
盤 回 出 薜 蘿。
到 江 吳 地 盡,
隔 岸 越 山 多。
古 木 叢 青 靄,
遙 天 浸 白 波。
下 方 城 郭 近,
鐘 磬 雜 笙 歌。
釋 處 默
 
Lộ tự trung phong thướng,
Bàn hồi xuất bệ la.
Đáo giang ngô địa tận,
Cách ngạn việt sơn đa.
Cổ mộc tùng thanh ái,
Dao thiên xâm bạch ba.
Bất phương thành quách cận,
Chung khánh tạp sanh ca.
Thích-Xử-Mặc
 
Dịch:
 
Chùa Thánh-Qủa
 
Đường theo giữa núi vượt qua,
Quẩn quanh đạp cỏ bệ la từng hồi.
Đất Ngô, sông đã ngăn rồi,
Bên kia là Việt, núi đồi nhấp nhô.
Rừng cây cổ thụ xanh mờ,
Chân trời sóng bạc, bến bờ thấy đâu.
Quách thành liền dưới, phơi mầu,
Khánh chuông sênh hát xen nhau vang rền...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2022 22:44:51 bởi Anh Nguyên >
Thay đổi trang: << < 101112 > >> | Trang 11 của 14 trang, bài viết từ 151 đến 165 trên tổng số 209 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9