Đường Thi Trích Dịch V - Anh Nguyên
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 4 của 14 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 209 bài trong đề mục
Anh Nguyên 27.11.2008 10:21:35 (permalink)
 
THU NHẬT ĐĂNG NGÔ CÔNG ĐÀI THƯỢNG TỰ VIỄN DIẾU
 
秋 日 登 吳 公 臺 上 寺 遠 眺
 
古 臺 搖 落 後,
秋 日 望 鄉 心。
野 寺 人 來 少,
雲 峰 水 隔 深。
夕 陽 依 舊 壘,
寒 磬 滿 空 林。
惆 悵 南 朝 事,
長 江 獨 至 今。
劉 長 卿
 
Cổ đài dao lạc hậu,
Thu nhật vọng hương tâm.
Dã tự lai nhân thiểu,
Vân phong cách thủy thâm.
Tịch dương y cựu lũy,
Hàn khánh mãn không lâm.
Trù trướng nam triều sự,
Trường giang độc chí câm.
Lưu-Trường-Khanh
 
Dịch:
 
Mùa Thu lên chùa trên đài Ngô-Công trông xa
 
Đài xưa đổ nát tan hoang,
Ngày Thu, lòng bỗng bàng hoàng nhớ quê.
Chùa làng, người ít có về,
Núi, mây, nước thẳm, chẳng hề gần nhau.
Nắng tà, lũy cũ, xuống mau,
Rừng vang tiếng khánh lạnh màu thê lương.
Nam triều, chuyện cũ xót thương,
Trường-Giang nay vẫn còn đương chảy dài...
Anh-Nguyên  
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 21:50:02 bởi Anh Nguyên >
#46
    Anh Nguyên 27.11.2008 10:29:07 (permalink)
     
    TỐNG LÝ TRUNG THỪA
     
    送 李 中 丞

    流 落 征 南 將,
    曾 驅 十 萬 師。
    罷 歸 無 舊 業,
    老 去 戀 明 時。
    獨 立 三 邊 靜,
    輕 生 一 劍 知。
    茫 茫 江 漢 上,
    日 暮 復 何 之。
    劉 長 卿
     
    Lưu lạc nam chinh tướng,
    Tằng khu thập vạn si.
    Bãi quan vô cựu nghiệp,
    Lão khứ luyến minh thì.
    Độc lập tam biên tĩnh,
    Khinh sinh nhất kiếm tri.
    Mang mang giang hán thượng,
    Nhật mộ dục hà chi.
    Lưu-Trường-Khanh
     
    Dịch:
     
    Tiễn Lý-Trung-Thừa
     
    Chinh nam, tướng đánh nhiều nơi,
    Đã từng điều khiển một thời vạn binh.
    Hưu, không cơ nghiệp cho mình,
    Tuổi già, còn tiếc bình minh thuở nao.
    Một mình, biên giới yên sao!
    Tấm thân coi nhẹ thế nào, kiếm hay.
    Mênh mang Giang, Hán chốn này,
    Chiều rồi, ông muốn đi ngay đâu giờ?!...
    Anh-Nguyên
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 21:52:21 bởi Anh Nguyên >
    #47
      Anh Nguyên 27.11.2008 10:38:14 (permalink)
       
      TẦM NAM KHÊ
      THƯỜNG ĐẠO SĨ     
       
      尋 南 溪 常 道 士

      一 路 經 行 處,
      莓 苔 見 屐 痕。
      白 雲 依 靜 渚,
      芳 草 閉 閒 門。
      過 雨 看 鬆 色,
      隨 山 到 水 源。
      溪 花 與 禪 意,
      相 對 亦 忘 言。

      劉 長 卿

      Nhất lộ kinh hành xứ,  
      Môi đài kiến kịch ngân.
      Bạch vân y tĩnh chử,
      Phương thảo bế nhàn môn.
      Quá vũ khan tùng sắc
      Tùy sơn đáo thủy nguyên.
      Khê hoa dữ thiền ý,
      Tương đối diệc vong ngôn.
      Lưu-Trường-Khanh
       
      Dịch:
       
      Tìm đạo sĩ Thường ở Nam-Khê
       
      Kinh hành qua ngả đường này,
      Rõ ràng dấu guốc còn đầy trên rêu.
      Bãi im, mây trắng phủ đều,
      Cửa nhàn đóng kín, mọc nhiều cỏ thơm.
      Mưa qua, thông sắc xanh rờn,
      Đi ven theo núi, đến nguồn nước trong.
      Hoa khe, thiền ý trong lòng,
      Đối nhau, lời nói cũng không còn gì...
      Anh-Nguyên           
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 21:54:29 bởi Anh Nguyên >
      #48
        Anh Nguyên 27.11.2008 10:44:56 (permalink)
         
        TÂN NIÊN TÁC
         
        新 年 作
         
        鄉 心 新 歲 切,
        天 畔 獨 潸 然。
        老 至 居 人 下,
        春 歸 在 客 先。
        嶺 猿 同 旦 暮,
        江 柳 共 風 煙。
        已 似 長 沙 傅,
        從 今 又 幾 年。
        劉 長 卿  
         
        Hương tâm tân tuế thiết,
        Thiên bạn độc san nhiên.
        Lão chí cư nhân hạ,
        Xuân quy tại khách tiên.
        Lĩnh viên đồng đán mộ,
        Giang liễu cộng phong yên.
        Dĩ tự trường sa truyện,
        Tòng kim hựu kỷ niên.
        Lưu-Trường-Khanh
         
        Dịch:
         
        Thơ làm lúc năm mới
         
        Nhớ quê năm mới thiết tha,
        Một mình, giọt lệ bỗng sa chân trời.
        Già còn cứ ở nhờ người,
        Xuân về trước với kẻ rời xa quê.
        Sớm chiều, cùng vượn đi về,
        Gió và khói biếc, liễu kề bên sông.
        Trong Trường-Sa truyện, giống ông...
        Nay về sau nữa, còn chừng bao năm?...
        Anh-Nguyên
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 21:57:37 bởi Anh Nguyên >
        #49
          Anh Nguyên 27.11.2008 10:56:08 (permalink)
           
          TIỄN BIỆT VƯƠNG THẬP
          NHẤT NAM DU         
           
          餞 別 王 十 一 南 游

          望 君 煙 水 闊,
          揮 手 淚 沾 巾。
          飛 鳥 沒 何 處,
          青 山 空 向 人。
          長 江 一 帆 遠,
          落 日 五 湖 春。
          誰 見 汀 洲 上,
          相 思 愁 白 蘋?

          劉 長 卿

           
          Vọng quân yên thủy khoát,
          Huy thủ lệ triêm cân.
          Phi điểu một hà xứ,
          Thanh sơn không hướng nhân.
          Trường giang nhất phàm viễn,
          Lạc nhật ngũ hồ xuân.
          Thùy kiến đinh châu thượng,
          Tương tư sầu bạch tần.
          Lưu-Trường-Khanh
           
          Dịch:
           
          Tiễn Vương-Thập-Nhất đi nam chơi
           
          Mênh mang khói nước, anh đi,
          Vẫy nhau, lệ thấm đầm đìa khăn tay.
          Phương nào chim ngút cánh bay,
          Hướng người dãy núi chiều nay xanh mờ.
          Cánh buồm sông nước xa đưa,
          Chiều tà xuân vẫn say sưa Ngũ-Hồ.
          Nào ai thấy bãi bên bờ,
          Nhớ nhau buồn bã, bạc phơ rau tần...
          Anh-Nguyên    
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:00:59 bởi Anh Nguyên >
          #50
            Anh Nguyên 27.11.2008 11:03:52 (permalink)
             
            QUÁ TRƯƠNG MINH
            PHỦ GIAO CƯ 

            過 張 明 府 郊 居

            寂 寥 東 郭 外,
            白 首 一 先 生。
            解 印 孤 琴 在,
            移 家 五 柳 成。
            夕 陽 臨 水 釣,
            春 雨 向 田 耕。
            終 日 空 林 下,
            何 人 識 此 情。 

            劉 長 卿


            Tịch liêu đông quách ngoại,
            Bạch thủ nhất tiên sinh.
            Giải ấn cô cầm tại,
            Di gia ngũ liễu thành.
            Tịch dương lâm thủy điếu,
            Xuân vũ hướng điền canh.
            Chung nhật không lâm hạ.
            Hà nhân thức thử tình.
            Lưu-Trường-Khanh
             
            Dịch:
             
            Qua nhà Trương-Minh-Phủ ở ngoại thành
             
            Đông thành, vắng vẻ xóm ngoài,
            Có thầy đầu tóc để dài, bạc phơ.
            Từ quan, vui với dây tơ,
            Dời nhà thành mới liễu giờ năm cây.
            Chiều ra câu cá sông này,
            Mưa Xuân thì lại đi cày đồng kia.
            Rừng hoang, quanh quẩn ngoài bìa,
            Nào ai biết được tình kia thế nào...
            Anh-Nguyên
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:04:11 bởi Anh Nguyên >
            #51
              Anh Nguyên 27.11.2008 11:16:27 (permalink)
               
              VỌNG NHẠC DƯƠNG KÝ
              NGUYÊN-TRUNG-THỪA

               
              望 岳 陽 寄 源 中 丞

              汀 洲 無 浪 復 無 煙,
              楚 客 相 思 益 渺 然。
              漢 口 夕 陽 斜 渡 鳥,
              洞 庭 秋 水 遠 連 天。
              孤 城 背 嶺 寒 吹 角,
              獨 戍 臨 江 夜 泊 船。
              賈 誼 上 書 憂 漢 室,
              長 沙 謫 去 古 今 憐。

               劉 長 卿


              Đinh châu vô lãng phục vô yên,
              Sở khách tương tư ích diểu nhiên.
              Hán khẩu tịch dương tà độ điểu,
              Động đình thu thủy viễn liên thiên.
              Cô thành bối lĩnh hàn xuy giác,
              Độc thụ lâm giang dạ bạc thuyền.
              Giả nghị thướng thư ưu hán thất,
              Trường sa trích khứ cổ kim liên.
              Lưu-Trường-Khanh
               
              Dịch:
               
              Ngóng Nhạc-Dương gửi Nguyên-Trung-Thừa
               
              Bãi sông không sóng, khói, sương,
              Nhớ nhau, khách Sở lòng đương rối bời.
              Nắng chiều Hán-Khẩu, chim trời,
              Động-Đình Thu, nước xa thời liển mây.
              Núi, thành, tiếng ốc lạnh thay,
              Dưới cây, thuyền đậu đêm nay bên dòng.
              Tờ trình, Giả-Nghị dâng xong,
              Trường-Sa đày tới, xót lòng xưa nay...
              Anh-Nguyên           
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:06:38 bởi Anh Nguyên >
              #52
                Anh Nguyên 28.11.2008 01:34:19 (permalink)
                 
                ĐĂNG TÙNG GIANG ĐỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN
                 
                登 松 江 驛 樓 北 望 故 園
                 
                淚 盡 江 樓 北 望 歸,
                田 園 已 陷 百 重 圍。
                平 蕪 萬 里 無 人 去,
                落 日 千 山 空 鳥 飛。
                孤 舟 漾 漾 寒 潮 小,
                極 浦 蒼 蒼 遠 樹 微。
                白 鷗 漁 父 徒 相 待,
                未 掃 欃 槍 懶 息 機。
                劉 長 卿
                 
                Lệ tận giang lâu vọng bắc quy,
                Điền viên dĩ hãm bách trùng vi.
                Bình vu vạn lš hà nhân khứ,
                Lạc nhật thiên sơn không điểu phi.
                Cô chu dạng dạng hàn triều tiểu,
                Cực phố thương thương viễn thụ vi.
                Bạch âu ngư phủ đồ tương đãi,
                Vị tảo sam thương lãn tức ky.
                Lưu-Trường-Khanh
                 
                Dịch:
                 
                Trông về quê cũ
                 
                Lên lầu, hướng bắc, lệ sa,
                Ruộng vườn, vây bọc quê ta trăm hàng.
                Cỏ đồng vạn dặm bỏ hoang,
                Chiều tà, nghìn núi không đàn chim bay.
                Dập dờn, thuyền nhỏ triều lay,
                Xanh xanh bến nước, hàng cây xa mờ.
                Chim âu, ngư phủ đang chờ,
                Quét chưa xong giặc, bây giờ chưa tu...
                Anh-Nguyên
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:10:36 bởi Anh Nguyên >
                #53
                  Anh Nguyên 28.11.2008 02:53:49 (permalink)
                   
                  ĐIỀU KHÊ THÙ LƯƠNG CẢNH BIỆT HẬU KIẾN KÝ
                   
                  苕 溪 酬 梁 耿 別 後 見 寄  
                   
                  清 川 永 路 何 極,
                  落 日 孤 舟 解 攜。
                  鳥 向 平 蕪 遠 近,
                  人 隨 流 水 東 西。
                  白 雲 千 里 萬 里,
                  明 月 前 溪 後 溪。
                  惆 悵 長 沙 謫 去,
                  江 潭 芳 草 萋 萋。
                  劉 長 卿
                   
                  Tình xuyên vĩnh lộ hà cực,
                  Lạc nhật cô chu giải huề.
                  Điểu hướng bình vu viễn cận,
                  Nhân tùy lưu thủy đông tê.
                  Bạch vân thiên lý vạn lý,
                  Minh nguyệt tiền khê hậu khê.
                  Trù trướng trường sa trích khứ,
                  Giang đàm phương thảo thê thê.
                  Lưu-Trường-Khanh
                   
                  Dịch:
                   
                  Ở sông Điều Khê đáp Lương Cảnh sau khi chia tay
                   
                  Sông quang, đường mãi trải dài,
                  Chiều tà, thuyền nhỏ, dây ai cởi rồi.
                  Cỏ đồng, chim liệng khắp nơi,
                  Đông tây, theo nước mọi người nổi trôi.
                  Trắng, nghìn vạn dặm mây trời,
                  Suối sau, suối trước, sáng ngời ánh trăng.
                  Trường-Sa đày đến, sầu dâng,
                  Cỏ thơm, sông nước, bên đầm, xanh xanh...
                  Anh-Nguyên                 
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:12:51 bởi Anh Nguyên >
                  #54
                    Anh Nguyên 28.11.2008 03:05:05 (permalink)
                     
                    TỐNG LINH TRIỆT
                    THƯỢNG NHÂN HOÀN VIỆT 

                    送 靈 徹 上 人 還 越

                    禪 客 無 心 錫 杖 還
                    沃 洲 深 處 草 堂 閒
                    身 隨 敝 履 經 殘 雪
                    手 綻 寒 衣 入 舊 山
                    獨 向 青 溪 依 樹 下
                    空 留 白 日 在 人 間
                    邢 堪 別 後 長 相 憶
                    雲 木 蒼 蒼 但 閉 關
                    劉 長 卿 


                    Thiền khách vô tâm tích trượng hoàn,
                    Ốc châu thâm sứ thảo đường nhàn.
                    Thân tùy tệ lý kinh tàn tuyết,
                    Thủ trán tàn y nhập cựu san.
                    Độc hướng thanh khê y thu hạ,
                    Không lưu bạch nhật tại nhân gian.
                    Na kham biệt hậu trường tương ức,
                    Vân mộc thương thương đản bế quan.
                    Lưu-Trường-Khanh
                     
                    Dịch:
                     
                    Tiễn Linh-Triệt thượng-nhân về đất Việt
                     
                    Tâm không, chống gậy về nhà,
                    Ốc-châu, mái cỏ, chốn xa, nhàn gì!...
                    Dép mòn đạp tuyết ra đi,
                    Tay vin áo rách trở về núi xa.
                    Suối xanh, tựa gốc cây già,
                    Mặt trời, để lại người ta ở đời.
                    Chia tay, nhớ mãi chẳng nguôi,
                    Mây xanh, cây biếc, cửa thời đóng im...
                    Anh-Nguyên          

                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:15:26 bởi Anh Nguyên >
                    #55
                      Anh Nguyên 28.11.2008 03:21:05 (permalink)
                       
                      TẶNG BIỆT NGHIÊM SĨ NGUYÊN   
                       
                      贈 別 嚴 士 元

                      春 風 倚 棹 闔 閭 城
                      水 國 春 寒 陰 復 晴
                      細 雨 濕 衣 看 不 見
                      閒 花 落 地 聽 無 聲
                      日 斜 江 上 孤 帆 影
                      草 綠 湖 南 萬 里 情
                      東 道 若 逢 相 識 問
                      青 袍 今 已 誤 儒 生
                      劉 長 卿

                       
                      Xuân phong ỷ trạo hạp lư thành,
                      Thủy quốc xuân hàn âm phục tình.
                      Tế vũ thấp y khan bất kiến,
                      Nhàn hoa lạc địa thính vô thanh.
                      Nhật tà giang thượng cô phàm ảnh,
                      Thảo lục hồ nam vạn lš tình.
                      Đông đạo nhược phùng tương thức vấn,
                      Thanh bào kim dĩ ngộ nho sinh.
                      Lưu-Trường-Khanh
                       
                      Dịch:
                       
                      Tặng Nghiêm-Sĩ-Nguyên
                       
                      Gió Xuân, chèo đến Hạp-Lư,
                      Nước Xuân lạnh lẽo, tối mờ, lại quang.
                      Hạt mưa thấm áo, chẳng màng,
                      Hoa rơi mặt đất nhẹ nhàng như không.
                      Chiều tà, buồm lẻ trên sông,
                      Nam hồ, cỏ biếc ẩn trong bao tình.
                      Nếu ai hỏi, đáp hộ mình:
                      ‘‘Áo xanh, lỡ kiếp Nho-sinh mất rồi’’...
                      Anh-Nguyên  

                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:17:29 bởi Anh Nguyên >
                      #56
                        Anh Nguyên 28.11.2008 03:31:13 (permalink)
                         
                        TỐNG LINH TRIỆT
                        THƯỢNG NHÂN  


                        送 灵 澈 上 人

                        苍 苍 竹 林 寺,
                        杳 杳 钟 声 晚。
                        荷 笠 带 斜 阳,
                        青 山 独 归 远。
                        劉 長 卿

                         
                        Thương thương trúc lâm tự,
                        Yểu yểu chung thanh vãn.
                        Hạ lạp đới tà dương,
                        Thanh sơn độc quy viễn.
                        Lưu-Trường-Khanh
                         
                        Dịch:
                         
                        Tiễn đưa ngài Linh-Triệt
                         
                        Xanh xanh, chùa Trúc Lâm đây,
                        Tiếng chuông văng vẳng chiều nay đổ hồi.
                        Nón sen che nắng tà rơi,
                        Một mình, hướng núi xa xôi đi về...
                        Anh-Nguyên
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:18:48 bởi Anh Nguyên >
                        #57
                          Anh Nguyên 28.11.2008 03:45:19 (permalink)
                                           
                          LƯU-VŨ-TÍCH

                          THU PHONG DẪN           
                           
                          秋 風 引

                          何 處 秋 風 至,
                          蕭 蕭 送 雁 群。
                          朝 來 入 庭 樹,
                          孤 客 最 先 聞。

                          劉 禹 錫


                          Hà xứ thu phong chí,
                          Tiêu tiêu tống nhạn quần,
                          Triêu lai nhập đình thụ,
                          Cô khách tối tiên văn.
                          Lưu-Vũ-Tích
                           
                          Dịch:
                           
                          Gió Thu
                           
                          Gió Thu đến tự nơi nào,
                          Hắt hiu như thể tiễn chào nhạn đi.
                          Cây sân, gió sớm thầm thì,
                          Cô đơn, khách thấy gió về trước tiên...
                          Anh-Nguyên    
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:20:28 bởi Anh Nguyên >
                          #58
                            Anh Nguyên 28.11.2008 03:52:56 (permalink)
                             
                            THỊ ĐAO HOÀN CA
                             
                            視 刀 環 歌
                             
                            常 恨 言 語 淺
                            不 如 人 意 深
                            今 朝 兩 相 視
                            脈  脈萬 重 心
                            劉 禹 錫  

                            Thường hận ngôn ngữ thiển,
                            Bất như nhân ý thâm.
                            Kim triêu lưỡng tương thị,
                            Mạch mạch vạn trùng tâm...
                            Lưu-Vũ-Tích
                             
                            Dịch:
                             
                            Nhìn đao và vòng
                             
                            Giận vì lời nói cạn nông,
                            Ý người sâu sắc, nói không hết lòng.
                            Sớm, nam nữ thấy nhau xong,
                            Ngổn ngang vạn mối trong lòng dấy lên...
                            Anh-Nguyên    
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:22:08 bởi Anh Nguyên >
                            #59
                              Anh Nguyên 28.11.2008 04:00:24 (permalink)
                               
                              KHUÊ OÁN TỪ    

                              閨 怨 詞

                              關 山 征 戍 遠
                              閨 閣 別 離 難
                              苦 戰 應 憔 悴
                              寒 衣 不 要 寬
                              劉 禹 錫 

                               
                              Quan sơn chinh thú viễn,
                              Khuê các biệt ly nan.
                              Khổ chiến ưng tiều tụy,
                              Hàn y bất yếu khoan.
                              Lưu-Vũ-Tích
                               
                              Dịch:
                               
                              Nỗi buồn trong phòng khuê
                               
                              Người đi lính thú ải xa,
                              Phòng khuê, ly biệt thật là khổ thay.
                              Chiến trường, hốc hác mặt mày,
                              Mong sao áo lạnh không may thùng thình...
                              Anh-Nguyên         
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2022 22:23:31 bởi Anh Nguyên >
                              #60
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 4 của 14 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 209 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9