Đường Thi Trích Dịch VI - Anh-Nguyên
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 4 của 14 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 200 bài trong đề mục
Anh Nguyên 25.11.2008 22:27:05 (permalink)
 
TẬP LINH ĐÀI
(Kỳ nhị)
 
集 靈 臺 其 二 

虢 國 夫 人 承 主 恩
平 明 騎 馬 入 宮 門
卻 嫌 脂 粉 污 顏 色
淡 掃 蛾 眉 朝 至 尊
     
張 祐

Quắc quốc phu nhân thừa chủ ân,
Bình minh kỵ mã nhập cung môn.
Khước hiềm chi phấn ô nhan sắc,
Đạm tảo nga mi triều chí tôn.
Trương-Hựu
 
Dịch:
 
Đài Tập-Linh
(Bài hai)
 
Phu nhân Quắc-Quốc chịu ân,
Sáng ra, cỡi ngựa đến dần cửa cung.
Phấn son, sợ bẩn hình dung,
Nét ngài kẻ nhẹ, vào cung vua chầu...
Anh-Nguyên           
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2022 22:13:42 bởi Anh Nguyên >
#46
    Anh Nguyên 25.11.2008 22:33:24 (permalink)
     
    TẶNG NỘI NHÂN
     
    贈 內 人
     
    禁 門 宮 樹 月 痕 過
    媚 眼 惟 看 宿 鷺 窠
    斜 拔 玉 釵 燈 影 畔
    剔 開 紅 焰 救 飛 蛾
    張 祐
     
    Cấm môn cung thụ nguyệt ngân qua,
    Mị nhãn duy khan túc lộ khòa.
    Tà bạt ngọc soa đăng ảnh bạn,
    Dịch khai hồng diệm cứu phi nga.
    Trương-Hựu
     
    Dịch:
     
    Tặng vợ
     
    Vườn cây cửa cấm ánh trăng nhòa,
    Mãi ngắm hang cò mắt dõi xa.
    Nghiêng rút cành trâm bên đĩa nến,
    Nhẹ khơi ngọn lửa cứu phi nga.
    Lê-Nguyễn-Lưu
     
    Cây cung cấm, ánh trăng ngà,
    Tổ cò, mắt ngắm xa xa mơ màng.
    Bên đèn, thoa rút nhẹ nhàng,
    Khẽ khêu ngọn lửa cứu nàng phi nga...
    Anh-Nguyên          
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2022 22:14:38 bởi Anh Nguyên >
    #47
      Anh Nguyên 25.11.2008 23:40:39 (permalink)
       
      ĐỀ TÙNG ĐINH DỊCH
       
      題 松 汀 驛
       
      山 色 遠 含 空,
      滄 茫 澤 國 東。
      海 明 先 見 日﹐
      江 白 迥 聞 風。
      鳥 道 高 原 去﹐
      人 煙 小 徑 通。
      那 知 舊 遺 逸﹐
      不 在 五 湖 中。      
      張 祐
       
      Sơn sắc viễn hàm không,
      Thương mang trạch quốc đông.
      Hải minh tiên kiến nhật,
      Giang bạch quýnh văn phong.
      Điểu đạo cao nguyên khứ,
      Nhân yên tiểu kính thông.
      Na tri cựu di dật,
      Bất tại ngũ hồ trung.
      Trương-Hựu
       
      Dịch:
       
      Đề trạm Tùng-Đinh
       
      Núi xa hòa với không trung,
      Phía đông bát ngát một vùng đầm ao.
      Mặt trời biển sáng nhô cao,
      Dòng sông trắng xóa, gió gào từ xa.
      Cao nguyên là lối chim qua,
      Nhà ai để khói bay ra lối mòn.
      Biết xưa ẩn sĩ có còn,
      Mà không thấy bóng nước non Ngũ-Hồ...
      Anh-Nguyên 
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2022 22:16:26 bởi Anh Nguyên >
      #48
        Anh Nguyên 26.11.2008 00:05:13 (permalink)
         
        TRƯƠNG KẾ

        PHONG KIỀU DẠ BẠC
         
        楓 橋 夜 泊
         
        月 落 烏 啼 霜 滿 天,
        江 楓 漁 火 對 愁 眠。
        姑 蘇 城 外 寒 山 寺,
        夜 半 鐘 聲 到 客 船。
        張 繼
         
        Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
        Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
        Cô-Tô thành ngoại Hàn-San tự,
        Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
        Trương-Kế
         
        Dịch:
         
        Đêm đậu thuyền ở Phong-Kiều
         
        Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
        Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ.
        Thuyền ai đậu bến Cô-tô,
        Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn-san.
        Tản-Đà
         
        Quạ kêu, sương tỏa, trăng lu,
        Đèn nhòa cây bãi đối người nằm khô.
        Chùa đâu trên núi Cô-Tô,
        Tiếng chuông đưa đến bến đò canh khuya.
        Ngô-Tất-Tố
         
        Quạ kêu, trăng lặn, khắp trời sương,
        Cây bến, đèn chài, giấc ngủ suông.
        Bên núi Cô-tô thuyền khách đậu,
        Chùa Hàn đêm vẳng một hồi chuông.
        Đỗ-Bằng-Đoàn & Bùi-Khánh-Đản
         
        Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi,
        Lửa chài cây bãi đối người nằm co.
        Con thuyền đậu bến Cô-Tô,
        Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn-San.
        Trần-Trọng-Kim
         
        Quạ kêu trăng xế sương tuôn,
        Lửa chài cây bến đối buồn nằm khan.
        Thành Cô tô miếu Hàn San,
        Nửa đêm chuông vẳng tiếng sang thuyền người.
        Mai-Nguyệt Đái-Đức-Tuấn
         
        Thuyền dạo hồ Đông muôn dặm chơi,
        Quạ kêu, trăng lặn, nước mờ khơi.
        Hàn-San vẳng tiếng chuông chùa sớm,
        Cây bến, đèn ngư não mộng người.
        J. Leiba
         
        Trăng tà quạ lạc kêu sương,
        Lửa chài, phong rủ như vương giấc nồng.
        Cô-Tô, thuyền đậu bên sông,
        Nửa đêm vọng tiếng chuông ngân chùa Hàn.
         
        Sương mù, quạ réo, trăng thâu,
        Lửa chài, phong bãi, mối sầu càng thêm.
        Cô-Tô thuyền đậu nửa đêm,
        Chuông chùa vọng lại từ miền Hàn-San...
         
        Quạ kêu, sương phủ, trăng tà,
        Lửa chài, phong bãi như sa giấc sầu.
        Cô-Tô, thuyền đậu đêm thâu,
        Nửa đêm vọng tiếng chuông đâu chùa Hàn...
         
        Trăng tà, sương phủ, quạ kêu,
        Lửa chài, phong bãi, càng khêu nỗi sầu.
        Cô-Tô, thuyền đậu đêm thâu,
        Tiếng chuông vọng lại...nghe đâu chùa Hàn.
         
        Sương mù, quạ réo, trăng lu,
        Lửa chài, phong rủ, như ru giấc sầu.
        Cô-Tô thuyền đậu sông sâu,
        Hàn-San vẳng đến đêm thâu chuông chùa...
         
        Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
        Lửa chài, phong rủ, càng vương mối sầu.
        Cô-Tô, thuyền đậu đêm thâu,
        Nửa đêm vẳng tiếng chuông đâu chùa Hàn...
         
        Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
        Lửa chài, phong rủ sầu vương bên bờ.
        Thuyền ai đậu bến Cô-Tô,
        Nửa đêm vọng đến chuông chùa Hàn-San...
         
        Trăng lặn, quạ kêu, sương khắp trời,
        Lửa chài, phong rủ, giấc sầu khơi.
        Cô-Tô, ngoài núi chùa Hàn đó,
        Thuyền khách, đêm chuông vọng tới nơi...
        Anh-Nguyên
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2022 22:22:39 bởi Anh Nguyên >
        #49
          Anh Nguyên 26.11.2008 00:15:23 (permalink)
           
          XƯỚNG MÔN TỨC SỰ
           
          閭 門 即 事
           
          耕 夫 召 募 愛 樓 船
          春 草 青 青 萬 頃 田
          試 上 吳 門 窺 郡 郭
          青 明 幾 處 有 新 煙   
          張 繼
           
          Canh phu triệu mộ trục lâu thuyền,
          Xuân thảo thanh thanh vạn khoảnh điền.
          Thí thướng ngô môn khuy quân quách,
          Thanh minh kỷ xứ hữu tân yên.
          Trương-Kế
           
          Dịch:
           
          Trước cổng Ngô Môn
           
          Dân cày, bắt lính, xuống thuyền,
          Ruộng Xuân cỏ mọc, khắp miền xanh xanh.
          Ngô Môn, lên ngó quanh thành,
          Thanh minh, khói mới bay quanh nơi nào?!...
          Anh-Nguyên           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2022 22:25:07 bởi Anh Nguyên >
          #50
            Anh Nguyên 26.11.2008 00:25:53 (permalink)
             
            TRƯƠNG KIỀU

            THƯ BIÊN SỰ
             
            書 邊 事
             
            調 角 斷 清 秋,
            征 人 倚 戍 樓。
            春 風 對 青 塚,
            白 日 落 梁 州。
            大 漠 無 兵 阻,
            窮 邊 有 客 遊。
            蕃 情 似 此 水,
            長 願 向 南 流。
            張 喬
                 
            Điệu giác đoạn thanh thu,
            Chinh nhân ỷ thú lâu.
            Xuân phong đối thanh trũng,
            Bạch nhật lạc lương châu.
            Đại mạc vô binh trở,
            Cùng biên hữu khách du.
            Phiên tình tự thử thủy,
            Trường nguyện hướng nam lưu.
            Trương-Kiều
             
            Dịch:
             
            Chép chuyện ngoài biên giới
             
            Trời Thu trong, tiếng ốc ngừng,
            Chinh nhân gác giặc tựa lưng vọng lầu.
            Gió Xuân, cỏ mộ xanh mầu,
            Mặt trời lặn ở Lương-Châu, xuống dần.
            Binh đao, sa mạc, chẳng ngăn,
            Tận cùng biên giới, chơi dăm ba người.
            Tình Phiên như nước chảy trôi,
            Hướng nam, luôn nguyện chảy xuôi theo dòng...
            Anh-Nguyên   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.05.2022 18:42:38 bởi Anh Nguyên >
            #51
              Anh Nguyên 26.11.2008 00:34:11 (permalink)
               
              TRƯƠNG KÍNH TRUNG

              BIÊN TỪ
               
              邊 詞
               
              五 原 春 色 舊 來 遲,
              二 月 垂 楊 未 掛 絲;
              即 今 河 畔 冰 開 日,
              正 是 長 安 花 落 時。
              張 敬 忠
               
              Ngũ nguyên xuân sắc cựu lai trì,
              Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti.
              Tức kim hà bạn băng khai nhật,
              Chính thị trường an hoa lạc thì.
              Trương-Kính-Trung
               
              Dịch:
               
              Bài hát nơi biên giới
               
              Xuân xưa đến muộn Ngũ-Nguyên,
              Tháng hai chưa liễu bên thềm buông tơ.
              Bờ sông băng giá tan giờ,
              Là khi hoa rụng bơ thờ Trường-An...
              Anh-Nguyên
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2022 16:26:39 bởi Anh Nguyên >
              #52
                Anh Nguyên 26.11.2008 00:41:51 (permalink)
                 
                TRƯƠNG LAI

                HIỂU VŨ
                 
                曉 雨 
                 
                輕 陰 江 上 千 峰 秀
                小 雨 牆 邊 百 草 生
                惟 有 春 禽 慰 孤 客
                曉 啼 渾 似 故 園 聲
                張 來
                 
                Khinh âm giang thượng thiên phong tú,
                Tiểu vũ tường biên bách thảo sinh.
                Duy hữu xuân cầm úy cô khách,
                Hiểu đề hồn tự cố viên thanh.
                Trương-Lai
                 
                Dịch:
                 
                Mưa buổi sớm
                 
                Núi xinh bóng mát rợp sông,
                Mưa biên, ngoài luỹ, cỏ đồng trổ ra.
                Chim Xuân an ủi khách xa,
                Tự nhiên sớm hót như là tiếng quê...
                Anh-Nguyên
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2022 16:29:32 bởi Anh Nguyên >
                #53
                  Anh Nguyên 26.11.2008 03:41:34 (permalink)
                   
                  TRƯƠNG NHƯỢC HƯ

                  XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ
                   
                  春 江 花 月 夜
                   
                  春 江 潮 水 连 海 平,
                  海 上 明 月 共 潮 生。
                  滟 滟 随 波 千 万 里,
                  何 处 春 江 无 月 明。
                  江 流 宛 转 绕 芳 甸,
                  月 照 花 林 皆 似 霰。
                  空 里 流 霜 不 觉 飞,
                  汀 上 白 沙 看 不 见。
                  江 天 一 色 无 纤 尘,
                  皎 皎 空 中 孤 月 轮。
                  江 畔 何 人 初 见 月,
                  江 月 何 年 初 照 人。
                  人 生 代 代 无 穷 已,
                  江 月 年 年 只 相 似。
                  不 知 江 月 待 何 人,
                  但 见 长 江 送 流 水。
                  白 云 一 片 去 悠 悠,
                  青 枫 浦 上 不 胜 愁。
                  谁 家 今 夜 扁 舟 子,
                  何 处 相 思 明 月 楼。
                  可 怜 楼 上 月 裴 回,
                  应 照 离 人 妆 镜 台。
                  玉 户 帘 中 卷 不 去,
                  捣 衣 砧 上 拂 还 来。
                  此 时 相 望 不 相 闻,
                  愿 逐 月 华 流 照 君。
                  鸿 雁 长 飞 光 不 度,
                  鱼 龙 潜 跃 水 成 文。
                  昨 夜 闲 潭 梦 落 花,
                  可 怜 春 半 不 还 家。
                  江 水 流 春 去 欲 尽,
                  江 潭 落 月 复 西 斜。
                  斜 月 沉 沉 藏 海 雾,
                  碣 石 潇 湘 无 限 路。
                  不 知 乘 月 几 人 归,
                  落 月 摇 情 满 江 树。
                  张 若 虚
                   
                  Xuân giang triều thủy liên hải bình,
                  Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
                  Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,
                  Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh?
                  Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,
                  Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiển,
                  Không lý lưu sương bất giác phi,
                  Đinh thượng bạch sa khan bất kiến.
                  Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
                  Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.
                  Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?
                  Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?
                  Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
                  Giang nguyệt niên niên vọng tương tự.
                  Bất tri giang nguyệt chiếu hà nhân,
                  Đản kiến trường giang tống lưu thủy.
                  Bạch vân nhất phiến khứ du du,
                  Thanh phong phố thượng bất thăng sầu.
                  Thùy gia kim dạ biên chu tử?
                  Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?
                  Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi,
                  Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.
                  Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,
                  Đảo y châm thượng bất hoàn lai.
                  Thử thời tương vọng bất tương văn,
                  Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
                  Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
                  Ngư long tiềm dược thủy thành văn.
                  Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
                  Khả liên xuân bán bất hoàn gia!
                  Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,
                  Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
                  Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
                  Kiệt-Thạch, Tiêu-Tương vô hạn lộ.
                  Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy?
                  Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.
                  Trương-Nhược-Hư
                   
                  Dịch:
                   
                  Đêm trăng trên sông Xuân
                   
                  Thủy triều dậy sông xuân liền biển,
                  Nước mênh mông một phiến trăng ngà.
                  Dập dồn sóng vỗ dặm xa,
                  Nơi nào mà chẳng trăng ngà sông xuân?
                  Nước uyển chuyển theo rừng thơm ngát,
                  Nguyệt hoa kia tươi mát xinh xinh.
                  Trời cao sương giãi vô tình,
                  Trên bờ cát trắng nhạt hình xa trông.
                  Không mảy bụi trời sông một sắc,
                  Lửng từng không vằng vặc trăng soi.
                  Ai kìa thấy trước trăng trời,
                  Và trăng kia lại soi người năm mô?
                  Kiếp hóa sinh những vô cùng tận,
                  Năm lại năm trăng vẫn như xưa.
                  Trăng sông biết chiếu ai giờ,
                  Trường giang chỉ thấy lờ đờ nước trôi.
                  Mảnh mây bạc bên trời bay mãi,
                  Rừng phong xanh sông trải u sầu.
                  Thuyền ai lơ lửng đêm thâu,
                  Nơi mô trăng giải trên lầu tương tư.
                  Trăng lầu ấy nguyệt như thương cảm,
                  Vào trang đài dục thảm, ly nhân.
                  Trong rèm trăng những tần ngần,
                  Chày kia đập áo bao lần không đi.
                  Mong gặp gỡ tin thì vắng bặt,
                  Nguyện theo trăng giáp mặt người thân.
                  Nhạn bay trăng vẫn ở gần,
                  Ngư long khuất bóng nước vờn nao nao.
                  Mộng đêm trước nghe bao hoa rụng,
                  Thương nửa xuân lận đận phương trời.
                  Dòng sông cuồn cuộn xuân trôi,
                  Sông sâu hoa rụng nguyệt dời phương tây.
                  Trăng xế thấp chìm ngay bể cả,
                  Sông núi xa vạn ngả mông lung.
                  Người nào cỡi nguyệt về chung,
                  Trăng tàn cây nước một vùng buồn sao.
                  Lam-Nguyên
                   
                  Sông xuân, biển nước triều bằng,
                  Mênh mông mặt nước, trăng vằng vặc soi.
                  Dập dờn sóng vỗ dặm khơi,
                  Sông xuân đâu chẳng sáng ngời ánh trăng.
                  Sông quanh hoa ngát bãi bằng,
                  Rừng hoa như tuyết ánh trăng êm đềm.
                  Trên không mù bỗng dâng lên,
                  Bên bờ cát trắng chẳng nhìn được xa.
                  Lưng trời lồng lộng gương nga,
                  Sông, trời một sắc không pha bụi trần.
                  Trăng, ai mới thấy một lần?
                  Năm nào người mới một lần trăng soi?
                  Đời đời người cứ sinh sôi.
                  Năm năm trăng ấy vẫn thời chẳng thay.
                  Nào hay trăng chiếu ai đây,
                  Chỉ hay nước vẫn tuôn đầy dòng sông.
                  Một vầng mây trắng bềnh bồng,
                  Hàng phong trên bến càng trông thêm sầu.
                  Thuyền ai lờ lững đêm thâu,
                  Nơi nào có nhớ đến lầu trăng soi?
                  Cảm thương, trăng cũng bồi hồi,
                  Đài gương, chiếu sáng cho người chia ly.
                  Cuốn rèm trăng chẳng chịu đi,
                  Lau hòn đá giặt, trăng thì cáo lui.
                  Nhớ nhau nghe chẳng được lời,
                  Nguyện theo trăng để tới nơi soi chàng.
                  Nhạn đi bỏ ánh trăng vàng,
                  Cá rồng lặn, nhảy, gợn làn sóng hoa.
                  Nằm mơ hoa rụng đêm qua,
                  Tuổi xuân quá nửa, xót xa chưa về.
                  Nước sông cuốn mãi xuân đi,
                  Trên sông, trăng ngả dần về hướng tây.
                  Trăng chìm biển cả mù mây,
                  Tiêu-Tương, Kiệt-Thạch, đường đầy thẳm xa.
                  Nào ai trăng cỡi về nhà,
                  Trăng tàn xao xuyến sông và cỏ cây...
                  Anh-Nguyên                                      
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2022 16:39:35 bởi Anh Nguyên >
                  #54
                    Anh Nguyên 26.11.2008 03:55:04 (permalink)
                     
                    TRƯƠNG QUÂN

                    NHẠC DƯƠNG VÃN CẢNH
                     
                    岳 陽 晚 景
                     
                    晚 景 寒 鴉 集
                    秋 風 旅 雁 歸
                    水 光 浮 日 出
                    霞 彩 映 江 飛
                    洲 白 蘆 花 吐
                    園 紅 柿 葉 稀
                    長 沙 卑 濕 地
                    九 月 未 成 
                    張 均
                     
                    Vãn cảnh hàn nha tập,
                    Thu phong lữ nhạn quy.
                    Thủy quang phù nhật xuất,
                    Hà thái ánh giang phi.
                    Châu bạch lô hoa thổ,
                    Viên hồng thị diệp hi.
                    Trường sa ti thấp địa,
                    Cửu nguyệt vị thành y.
                    Trương-Quân
                     
                    Dịch:
                     
                    Cảnh chiều Nhạc-Dương
                     
                    Chiều về, quạ rét đậu đầy,
                    Gió Thu, phiêu bạt nhạn nay trở về.
                    Mặt trời ánh nước tràn trề,
                    Dòng sông bóng ráng đi về trên không.
                    Hoa lau rụng trắng bãi sông,
                    Trong vườn, lá thị đỏ hồng lưa thưa.
                    Trường-Sa ẩm thấp gió mưa,
                    Trời vào tháng chín, áo chưa may thành...
                    Anh-Nguyên       
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2022 16:40:34 bởi Anh Nguyên >
                    #55
                      Anh Nguyên 26.11.2008 04:11:41 (permalink)
                       
                      TRƯƠNG TỊCH
                       
                      KÝ TÂY PHONG TĂNG
                       
                      寄 西 峰 僧
                       
                      松 暗 水 涓 涓
                      夜 涼 人 未 眠
                      西 峰 月 猶 在
                      遙 憶 草 堂 前
                      張 籍
                       
                      Tùng ám thủy quyên quyên,
                      Dạ lương nhân vị miên.
                      Tây phong nguyệt do tại,
                      Dao ức thảo đường tiền.
                      Trương-Tịch
                       
                      Dịch:
                       
                      Gửi vị tăng ở núi Tây
                       
                      Thông âm u, nước rì rào,
                      Trời đêm mát mẻ, người nào ngủ đâu.
                      Núi Tây, trăng gác trên đầu,
                      Trước nhà cỏ nhớ mặc dầu xa xôi...
                      Anh-Nguyên

                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2022 16:42:51 bởi Anh Nguyên >
                      #56
                        Anh Nguyên 26.11.2008 04:29:11 (permalink)
                         
                        THU TỨ
                         
                        秋 思
                         
                        洛 扬 城 裡 見 秋 風
                        欲 作 家 書 意 萬 重
                        復 恐 匆 匆 说 不 盡
                        行 人 臨 發 又 開 封
                         
                        張 籍
                         
                        Lạc dương thành lý kiến thu phong,
                        Dục tác gia thư ý vạn trùng.
                        Phục khủng thông thông thuyết bất tận,
                        Hành nhân lâm phát hựu khai phong.
                        Trương-Tịch
                         
                        Dịch:
                         
                        Ý Thu
                         
                        Lạc thành trông thấy gió thu sang,
                        Muốn viết thư nhà ý ngổn ngang.
                        Luống ngại vội vàng chưa nói hết,
                        Người đi sắp trẩy, mở thêm hàng.
                        Lê-Nguyễn-Lưu
                         
                        Thành Lạc-Dương, gió Thu sang,
                        Thư nhà muốn viết, ngổn ngang bao điều.
                        Vội nên sợ nói thiếu nhiều,
                        Người đi sắp sửa, còn liều mở ra...
                        Anh-Nguyên                                
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2022 16:43:46 bởi Anh Nguyên >
                        #57
                          Anh Nguyên 26.11.2008 04:47:39 (permalink)
                           
                          SƠN TRUNG TẶNG NHẬT NAM TĂNG

                          山 中 贈 日 南 僧 
                           
                          獨 向 雙 峰 老,
                          松 門 閉 兩 崖。
                          翻 經 上 蕉 葉,
                          掛 衲 落 藤 花。
                          甃 石 新 開 井,
                          穿 林 自 種 茶。
                          時 逢 海 南 客,
                          蠻 語 問 誰 家。

                          張 籍
                           
                          Độc hướng song phong lão,
                          Tùng môn bế lưỡng nhai.
                          Phiên kinh tiêu diệp thượng,
                          Quải nạp lạc đằng hoa.
                          Trứu thạch tân khai tỉnh,
                          Xuyên lâm tự chủng ma.
                          Thì phùng nam hải khách,
                          Man ngữ vấn thùy gia.
                          Trương-Tịch
                           
                          Dịch:
                           
                          Tặng thầy Nhật-Nam ở trong núi
                           
                          Hướng hai ngọn núi, một nhà,
                          Cửa thông, đôi vách, lối ra đóng rồi.
                          Dịch kinh trên lá chuối thôi,
                          Vắt dây hoa rủ, tạm thời, áo lam.
                          Đá, chồng quanh giếng mới làm,
                          Xuyên rừng, trồng lấy mấy hàng cây gai.
                          Khách Nam-Hải, gặp một vài,
                          Dùng lời Thổ hỏi: ‘‘Nhà ai thế này?’’...
                          Anh-Nguyên    

                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2022 16:45:14 bởi Anh Nguyên >
                          #58
                            Anh Nguyên 26.11.2008 04:57:48 (permalink)
                             
                            MỘT PHIÊN CỐ NHÂN
                             
                            沒 蕃 故 人
                             
                            前 年 伐 月 支,
                            城 上 沒 全 師。
                            蕃 漢 斷 消 息,
                            死 生 長 別 離。
                            無 人 收 廢 帳,
                            歸 馬 識 殘 旗。
                            欲 祭 疑 君 在,
                            天 涯 哭 此 時。
                            張 籍
                             
                            Tiễn niên thú nguyệt chi,
                            Thành hạ một toàn sư.
                            Phiên hán đoạn tiêu tức,
                            Tử sinh trường biệt ly.
                            Vô nhân thu phế trướng,
                            Quy mã thức tàn kỳ.
                            Dục tế nghi quân tại,
                            Thiên nhai khốc thử thì.
                            Trương-Tịch
                                                                                                                                              
                            Dịch:
                             
                            Bạn cũ mất tích ở Phiên
                             
                            Năm rồi, anh đến Nguyệt-Chi,
                            Dưới thành, một đạo quân đi tan tành.
                            Hán Phiên tin tức vắng tanh,
                            Chết hay còn sống mãi đành xa nhau.
                            Trướng tàn, ai nhặt được đâu,
                            Ngựa về, chỉ thấy cờ nhầu yên không.
                            Tế anh, e sống vẫn trông,
                            Chân trời, giờ chỉ đôi dòng lệ tuôn...
                            Anh-Nguyên

                             
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2022 17:05:10 bởi Anh Nguyên >
                            #59
                              Anh Nguyên 26.11.2008 05:11:25 (permalink)
                               
                              TIẾT PHỤ NGÂM
                               
                              節 婦 吟
                               
                              君 知 妾 有 夫,
                              赠 妾 双 明 珠。
                              感 君 缠 绵 意,
                              系 在 红 罗 褥。
                              妾 家 高 楼 连 苑 起,
                              良 人 持 戟 明 光 里。
                              知 君 用 心 如 明 月,
                              事 夫 誓 拟 同 生 死。
                              还 君 明 珠 双 泪 垂,
                              恨 不 相 逢 未 嫁 时。
                              張 籍
                               
                              Quân tri tiếp hữu phu,
                              Tặng thiếp song minh châu.
                              Cảm quân triền miên ý,
                              Hệ tại hồng la nhu.
                              Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
                              Lương nhân chấp kích minh quang lý.
                              Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt,
                              Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử,
                              Hoàn quân minh châu song lệ thùy,
                              Hận bất tương phùng vị giá thì.
                              Trương-Tịch
                               
                              Dịch:
                               
                              Người đàn bà tiết hạnh
                               
                              Chàng hay em đã có chồng,
                              Còn yêu còn tặng đôi vòng hạt châu.
                              Cảm chàng ý nặng tình sâu,
                              Vòng kia em ấp áo mầu hồng tươi.
                              Nhà em vườn ngự kề nơi,
                              Chồng em cầm kích vốn người điện Quang.
                              Biết chàng lòng sáng như gương,
                              Thờ chồng sinh tử đạo thường dám sai.
                              Châu về quện hạt châu rơi,
                              Hận rằng ai chẳng biết ai...những ngày.
                              Nhất-Anh
                               
                              Chàng hay em có chồng rồi,
                              Yêu em, chàng tặng một đôi ngọc lành.
                              Vấn vương, những cảm mối tình,
                              Em đeo trong áo lót mình màu sen.
                              Nhà em vườn ngự kề bên,
                              Chồng em cầm kích trong đền Minh-Quang.
                              Như gương, vâng biết lòng chàng,
                              Thờ chồng quyết chẳng phụ phàng thề xưa.
                              Trả chàng ngọc, lệ như mưa,
                              Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.
                              Ngô-Tất-Tố
                               
                              Chàng hay em chẳng còn son,
                              Mà đôi ngọc quý chàng còn tặng nhau.
                              Cảm chàng tình nặng ý sâu,
                              Em đeo áo lót lụa mầu đào hoa.
                              Nhà em vườn ngự bước qua,
                              Chồng em cầm kích trong toà Minh-Quang.
                              Biết chàng lòng tựa trăng vàng,
                              Thờ chồng thiếp nỡ phụ phàng được sao.
                              Trả chàng ngọc, lệ tuôn trào,
                              Chưa chồng chẳng gặp, biết bao hận lòng...
                              Anh-Nguyên         
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2022 17:10:19 bởi Anh Nguyên >
                              #60
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 4 của 14 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 200 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9