tiếp.....
Công dụng của amino acid phụ yếu Các chất Amino acid phụ yếu là những chất cơ thể có thể tự sản xuất biến chế ra được.
Alanine do ông Strecker phân chất và đặt tên ra từ chất Acetaldehyde vào năm 1850 là chất Amino acid phụ có trong thảo mộc và do vi khuẩn tạo ra, đồng thời cơ thể có thể tiết chế ra được. Alanine có thể biến đổi ra thành Pyruvic acid vào chu trình Kreb để tạo ra năng lượng.
Arginine do ông Schulze và Steiger tìm ra vào năm 1886 là một loại Amino acid thiết yếu cho cơ thể tăng trưởng nhưng không có trách nhiệm bảo trì tế bào bị thương hay bệnh hoạn. Arginine góp phần tạo ra chất Urea. Có năm loại ảnh hưởng di truyền về khiếm khuyết sự tạo thành Urea có thể đưa đến hỏng bộ óc, bất tỉnh, co giật tay chân.
Cystine do ông Wollaston tìm ra năm 1810, cơ thể có thể biến chế chất nầy ra từ chất Methionine và Serine. Biến chứng di truyền trong sự biến tạo Cystine đưa đến sự thải quá nhiều qua đường tiểu tiện sinh ra sạn ở thận và ở bọng đái hoặc tồn trữ quá nhiều trong người đưa tới các bệnh hỏng thận, tủy xương, bạch huyết, bệnh về xương có thể chết yểu.
Glutamic acid do ông Ritthansen tìm ra năm 1866 là chất độc nhất được tiết chế ra rất nhiều tại óc chiếm tới 37% so với gan chỉ có 5.2% (26), đồng thời có trong động vật và thảo mộc. Quá nhiều chất Glutamic acid có thể đưa tới quá nhiều amonia trong máu có thể làm cho bất tỉnh, chết. Ăn đồ ăn có nhiều bột ngọt có chất Glutamic gọi là Monosodium Glutamate đưa tới thần kinh bấn loạn, mặt nóng bừng, đau ngực, nhức đầu. Glycine do ông Braconnot tìm ra năm 1820 và do ông Berzelins đặt tên năm 1848, là chất Amino acid phụ yếu có thể biến chế trong cơ thể ra từ chất serine và là chất tiền chế của Creatine rất cần cho bắp thịt hoạt động. Quá nhiều Glycine trong máu đưa tới cơ thể lười biếng, chậm chạp, bộ óc thiếu minh mẫn.
Proline và Hydroxyproline do ông Fischer tìm ra năm 1904. Proline do Glutamate tạo thành và Proline là chất tiền dẫn của Hydroxyprolin. Cả hai chất là những chất chính trong các sơ thớ (Collagen) của bắp thịt kể cả da, gan, phổi, tim và xương. Thiếu chất nầy cơ thể có thể bị hư thận và óc ngu đần.
Serine do ông Cramer tìm ra và đặt tên vào năm 1865 và trong cơ thể Glycine biến tạo thành Serine và ngược lại. Serine có nhiều tại gan và thận.
Tyrosine do ông Liebig tìm ra vào năm 1846 và trong cơ thể do Phenylalanine tạo thành. Tyrosine là chất tiền dẫn của nhiều chất khác, tạo thành những chất kích thích tố Thyroid ở cổ, chất Epinephrine, chất chuyển mạch thần kinh biến đổi sắc tố mầu tại da, tạo thành chất Tyramine làm cho cao máu. Những bệnh di truyền ảnh hưởng đến Tyrosine được ghi trong phần Amino acid thiết yếu Phenylalanine.
Phân loại chất đạm 1. Phân loại theo hình thể gồm có: * Loại hình cầu: Loại nầy có hình dáng theo tỷ lệ chiều dài chia cho chiều ngang không quá 10, thường khoảng 3, 4 có đặc tính dễ hòa tan trong nước, hay trong dung dịch điện giải, dễ hư thối được thấy như:
- Bạch đạm (Albumins): Ðiển hình trong lòng trắng trứng. Bạch đạm dễ hòa tan trong nước, dễ đông đặc bởi sức nóng. Bạch đạm trong máu có tác dụng như một chất trung hòa.
- Cầu đạm (Globulins): dễ hòa tan trong dung dịch điện giải dễ đông đặc khi gặp sức nóng, trong máu huyết tương. Cầu đạm giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống lại mọi vi trùng, bệnh tật.
* Loại hình chỉ sợi: Có những thớ tỷ lệ chiều dài so với chiều ngang trên 10 dài như sợi, có thể co, giãn, là nền tảng cấu tạo hình thể của sinh vật thảo mộc, không tan trong nước. Gồm có:
- Collagens (sơ thớ): Là chất chính yếu cho các mô liên kết, quá nửa số chất đạm trong cơ thể con người thuộc loại sơ thớ. Khi sơ thớ được nấu trong nước sôi biến dạng ra chất keo dẻo (Gelatins) dễ tiêu hóa, dễ hòa tan.
- Elastin (sơ dai): Gần giống như sơ thớ nhưng khi bị nấu trong nước sôi không bị biến dạng ra chất keo dẻo được thấy trong các động mạch, các Tendon nối liền xương với bắp thịt.
- Keratin (sơ cứng): Là những chất làm ra tóc, lông, móng tay, vẩy.
2. Phân loại theo công dụng trong cơ thể gồm: - Tạo hình thể như loại hình chỉ sợi.
- Chất điều tố là chất tác động các chất khác gia tăng tác dụng hữu ích cho cơ thể
- Chất kích thích tố đa số các chất kích thích tố là chất đạm.
- Chất độc tố do vi trùng, vi khuẩn sinh ra rất độc cho cơ thể.
- Chất kháng sinh do cơ thể tạo ra để chống lại các vi trùng hoặc các chất lạ ngoại nhập vào cơ thể.
- Chất huyết đạm: Ðiều dưỡng khí như Hemoglobin trong hồng huyết cầu có nhiệm vụ mang dưỡng khí nuôi cơ thể và đẩy thán khí ra ngoài.
3. Phân loại theo đặc tính kết hợp với chất khác Khi các chất Amino acid kết hợp với một chất không phải là chất đạm tạo ra đặc tính và công dụng khác như:
- Glycoprotein: Kết hợp giữa chất đạm và chất đường như Mucin chất nhờn trong nước dãi và trong nước ở bao tử.
- Nucleoprotein: Sự kết hợp chất đạm với một chất Nucleic acid như trong DNA và RNA trong yếu tố di truyền.
- Lipoprotein: Phối hợp chất đạm với chất mỡ như chất Cholesterol hoặc trong màng mỡ của tế bào, lòng đỏ trứng.
- Chromoprotein: Chất đạm phối hợp với chất mầu như trong huyết đạm, các vết nám.
Metalloprotein: Các chất sắt với chất đạm.
Nguồn cung ứng chất đạm trong thực phẩm Thực phẩm được chia làm hai loại: Loại có đầy đủ Amino acid thiết yếu được gọi là thực phẩm đầy đủ chất đạm như trứng, sữa, thịt, cá, gà vịt. Loại không đủ chất amino acid thiết yếu được gọi là thực phẩm không đủ chất đạm như: Rau, đậu, ngũ cốc là những chất không đủ chất đạm. Các loại nầy thường thiếu bốn thứ chính Lysine, Tryptophan, Thereonine và Methionine. Thiếu những chất nầy cơ thể chậm lớn và bộ óc không nẩy nở thông minh được. Tất cả các loại rau thiếu ba loại Amino acid thiết yếu là: Lysine, Tryptophan và Methionine.
Tất cả loại ngũ cốc thiếu Lysine, ngoài ra gạo và bắp còn thiếu thêm Tryptophan và Threonine. Ðậu nành thiếu Methionine, đậu phộng thiếu Methionine và Lysine. Trái cây thiếu Methionine và Tryptophan (4). Nhu cầu hằng ngày cần và đủ chất đạm cho cơ thể con người Nhu cầu cần và đủ chất đạm để nuôi cơ thể tùy thuộc vào tình trạng của mỗi người lúc khỏe mạnh bình thường hay lúc đau yếu. Trong những trường hợp bệnh tật, giải phẫu, bị phỏng hay mang thai số lượng chất đạm cần phải được gia tăng để thay thế số tế bào bị hủy hoại vì bệnh tật. Các trẻ em đang lớn cần nhiều chất đạm hơn để cho các tế bào tăng trưởng. Số lượng chất đạm cần thiết tùy thuộc bởi sức nặng dự tính cho mỗi mục đích mong muốn như:
Cho trẻ em mới lớn: Thời kỳ tăng trưởng cơ thể của các trẻ em là thời kỳ cần rất nhiều thực phẩm đầy đủ chất đạm hơn bất cứ thời kỳ nào hết. Theo sự nghiên cứu của viện nghiên cứu thực phẩm và dinh dưỡng của Hoa Kỳ (The Food and Nutrition Board of the National Research Council) nhu cầu cần và đủ mỗi ngày cho trẻ em là 2.2 gam cho mỗi kí lô sức nặng cơ thể. Trẻ sơ sinh tới 6 tháng cần 2 gam mỗi ngày cho mỗi kí lô. Từ 6 tháng tới 1 năm cần 1.7 gam cho mỗi kí lô, từ 1 tới 8 tuổi cần 1.8 gam đến 1.5 gam cho mỗi kí lô, từ 4 tuổi tới 10 tuổi cần từ 1.5 đến 1.2 gam.
- Cho thai nghén và cho con bú: Vì bào thai cần tăng trưởng mau, do đó người mẹ mang thai cần phải được cung cấp thêm số lượng chất đạm, khoảng 30 gam thêm cho số lượng trung bình cần cho người đàn bà là 0.8 gam mỗi ngày cho mỗi kí lô sức nặng. Người cho con bú cần thêm hơn số lượng trung bình từ 12 tới 15 gam chất đạm mỗi ngày để làm thành sữa và khoảng 20 gam mỗi ngày nữa trong suốt thời gian cho con bú.
- Cho tuổi già: Trung bình người lớn cần khoảng 0.8 gam mỗi ngày cho mỗi kí lô sức nặng cơ thể nhưng vì tuổi càng cao số lượng Acid tiết ra trong bao tử để biến đổi chất đạm ra thành Amino acid càng ít, do đó số lượng chất đạm ăn vào chưa bài tiết hết đã bị đào thải ra ngoài, vì vậy phải cần thêm số lượng chất đạm.
- Cho người đau yếu và giải phẫu: Bất cứ những bệnh tật nào hay giải phẫu cơ thể đều bị mất chất đạm do các tế bào bị hủy diệt và số lượng chất đạm dự trữ bị thiếu hụt. Nếu số lượng chất đạm trong máu bị mất một cách đột ngột như thương tích mất máu, bị phỏng mất huyết thanh người bệnh có thể ngất xỉu. Nếu mất chất đạm một cách từ từ người bệnh có thể sụt cân, da xanh xao và khô có vẩy, sức đề kháng trong cơ thể bị suy yếu sinh ra nhiều chứng bệnh khác.
Tóm lại nhu cầu cần và đủ cho đàn ông khoảng 60 kí và đàn bà 45 kí vào khoảng 0.8 gam mỗi ngày cho mỗi kí lô (12) là 46 gam chất đạm mỗi ngày cho đàn ông và đàn bà là 36 gam mỗi ngày.
Hai bảng tường trình nhu cầu cần thiết về Amino acid của ông Rose và các cộng tác viên của ông (10) và của ông Hegsted (15) đã được các khoa học gia khác xác định dựa theo sự phân tích, thống kê liên hệ giữa Amino acid và Nitrogen tồn trữ trong cơ thể của đàn ông và đàn bà, trẻ em được liệt kê như sau cho ta khái niệm về sự cần thiết chất đạm hằng ngày.
Kết quả cho thấy số lượng hằng ngày của đàn ông nhiều hơn số nhu cầu ấn định. Nhưng ông Rose và các khoa học gia của ông vẫn chấp nhận vì dựa theo kết quả của những người tình nguyện thí nghiệm. Kết quả của đàn bà gần sát với nhu cầu ấn định.
Bác sĩ Nguyễn Thế Thứ DC., PhD
7891 Westminster Blvd.
Westminster, CA-92683. USA
ÐT: 714- 891-7775
(Chuyên trị đau lưng và cụp xương sống)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=28067&z=14