Thực Phẩm
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 6 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 78 bài trong đề mục
HongYen 30.05.2005 05:31:04 (permalink)
tiếp…

Giải phẩu tử thi



Theo các bản tường trình của các nhà khảo cứu và duyệt xét về magnesium ấn hành trong suốt 3 thập niên vừa qua, dựa trên những khảo nghiệm về bệnh lý, giải phẩu tử thi, thử nghiệm trên xúc vật đều nhìn nhận rằng:

(1) Bệnh đột nhiên chết thường thấy tại các nơi nhà máy cung cấp nước thiếu khoáng chất magnesium.

(2) Khoáng chất magnesium trong cơ tim của nhũng người đột nhiên chết rất thấp.

(3) Các bệnh tim đập nhanh, động mạch tim co thắt lại là do thiếu magnesium.

(4) Chích thêm magnesium đã làm giảm nguy cơ cho nhương người bị bệnh tim đập nhanh,và bệnh tim đập nhanh và bệnh nghẽn máu cơ tim.

(5) Nhiều bảng tường trình về sự liên hệ giửa bệnh xuyễn với thiếu magnesium: Dinh dưỡng thiếu magnesium đưa tới bệnh xuyển và nghẽn cuống phổi kinh niên. Quá nhiều calcium và thiếu magnesium trong máu đưa tới lá phổi thở dồn dập, và magnesium sulfate S04 dùng để chữa bệnh xuyễn rất có hiệu quả.

(6) Thiếu magnesium trong người bị bệnh tiểu đường kết quả gia tăng nhịp tim đập, gia tăng áp huyết, giảm sự biến năng chất đường và sinh bệnh nghẻn máu cơ tim.

(7) Mồ hôi ra nhiều sẽ bị mất nước đưa tới mệt mỏi, vọp bẻ vì khoáng chất giúp cho sự co thắt bắp thịt và biến đổi chất nhiều magnesium dinh dưỡng ra thành năng lượng để cơ thể sự dụng.

(8) Thiếu magnesium sinh ra bệnh mệt mỏi kinh niên triệu chứng là nhức đầu thường xuyên, xưng các hạch, xốt và ớn lạnh định kỳ, mệt mỏi, đau nhức bắp thịt, đau cổ họng, tê cóng tay chân, nhương người bị bệnh mệt mỏi kinh niên cảm thấy dễ chiu khi uống magnesium.

(9) Thiếu magnesium ảnh hưởng tới sự chuyển mạch hệ thống thần kinh không đều hoà, đưa tới chán nản, lẫn lộn, mất trí, suy nhược và rung, co dật bắp thịt. Uống thêm magnesium giúp có các bệnh về tim cũng như các bệnh về nghẽn máu cơ tim, tai biến mạch máu não, bệnh suy não, xuyễn mệt mỏi kinh niên, trước khi tắt kinh và các bệnh về tâm thần được thuyên giảm.

Số lượng magnesium uống phụ thêm mỗi ngày từ 350 tới 450mg hoặc 6mg magnesium mỗi ngày cho mỗi một ký lô sức nặng. Thực phẩm có nhiều magnesium là mầm lúa mì, cám, hạt nhân, đậu phộng, đậu nành, cần tây, bắp, củ rền, trái cây.

Trong công thức Bio-Men 62 và Bio-women 62 của Dr. Nguyen. Nutrition Therapy có đầy đủ số lượng Magnesium cần thiết cho cơ thể xử dụng mỗi ngày đặc biệt là kết hợp với các loại vitamin khoáng chất gia tăng hiệu lực.

Bác sĩ Nguyễn Thế Thứ DC, PhD.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2005 05:36:02 bởi HongYen >
#16
    HongYen 02.06.2005 13:02:30 (permalink)


    Thứ tư, 1/6/2005, 08:17 GMT+7

    Rau dấp cá - vị thuốc đa năng

    Diếp cá từ lâu đã được Đông y dùng chữa các bệnh về tiêu hóa, phát ban, tắc sữa... Gần đây, Tây y cũng phát hiện ra nhiều tác dụng quý của nó như kháng khuẩn, tiêu diệt ký sinh trùng, chống ung thư.

    Rau diếp cá còn có tên là giấp cá, cây lá giấp hoặc ngư tinh thảo, tên khoa học là Houttuynia cordata Thumb., mọc chủ yếu tại các nước châu Á, từ Ấn Độ đến Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan... Ở nước ta, diếp cá mọc hoang khắp nơi, thường ở các vùng đất ẩm, được trồng làm rau ăn hoặc dùng làm thuốc.

    Diếp cá có vị chua, cay, tính mát, tác động vào 2 kinh can và phế. Tác dụng chủ yếu là thanh nhiệt, giải độc, thoát mủ (đối với mụn nhọt làm mủ), thông tiểu tiện, giảm phù thũng, sát khuẩn, chống viêm.

    Trong y học dân gian, diếp cá được dùng chữa các chứng bệnh như: táo bón, trĩ (6-10 g sắc uống hằng ngày), sởi, mày đay (giã nát vắt nước cho uống), viêm tai giữa, sưng tuyến vú, tắc tia sữa (dùng lá khô 20 g hoặc tươi 40 g, sắc nước uống hằng ngày), viêm thận, phù thũng, kiết lỵ (dùng 50 g tươi sắc uống), tiểu buốt, tiểu dắt (dùng rau diếp cá, rau má tươi, lá mã đề rửa sạch, vò với nước sôi để nguội, gạn nước uống).

    Theo nghiên cứu của y khoa hiện đại, trong cây diếp cá có chất decanoyl-acetaldehyd mang tính kháng sinh. Loại rau này có tác dụng kháng khuẩn như ức chế tụ cầu vàng, liên cầu, phế cầu, trực khuẩn bạch hầu, e.coli, trực khuẩn lỵ, xoắn khuẩn leptospira. Nó cũng có tác dụng đối với virus sởi, herpes, cúm và cả HIV, do tác động vào vỏ bọc protein của virus. Diếp cá còn diệt ký sinh trùng và nấm. Liều dùng 30-50 g rau tươi, có thể ăn sống, xay nát uống hoặc giã đắp ngoài da.

    Cũng theo Tây y, diếp cá giúp lợi tiểu do tác dụng của chất quercitrin, làm chắc thành mao mạch, chữa trĩ do tác dụng của chất dioxy-flavonon. Ngoài ra, nó còn có tác dụng lọc máu, giải độc, giải nhiệt, kháng viêm, tăng sức miễn dịch của cơ thể.

    Một nghiên cứu tại Viện đại học Y dược Toyama, Nhật Bản, đã cho thấy tác dụng chống ôxy-hóa của 12 loại dược thảo và hợp chất được chiết xuất từ chúng. Diếp cá là một trong 4 chất có tác dụng chống ôxy hóa mạnh nhất. Hợp chất quercetin của diếp cá loại trừ được các gốc tự do "cứng đầu" nhất.

    Theo một nghiên cứu của Đại học Y khoa Koahsiung, Đài Loan, diếp cá có tác dụng ức chế đáng kể đối với sự sinh sản của virus herpes simplex. Nó được xem là dược thảo chữa trị bệnh này. Đại học Koahsiung cũng phát hiện diếp cá có tác dụng ngăn chặn 5 dòng tế nào ung thư máu.

    Một số nghiên cứu khác cho thấy diếp cá có tác dụng chống viêm xoang kinh niên và polyp, làm tăng tưới máu sau phẫu thuật. Chất Houttuynin bisulphat natri chiết xuất từ nó có thể điều trị viêm tuyến vú.

    (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

    http://www.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2005/06/3B9DE3E0/
    #17
      HongYen 02.06.2005 13:06:17 (permalink)


      Thứ ba, 31/5/2005, 16:19 GMT+7

      Lô hội - mỹ phẩm diệu kỳ

      Để làm mát mắt, cắt lạng 2 lá lô hội rồi đắp mặt có chất dịch vào mí mắt (phải nhắm mắt lại), nằm yên trong 15 phút. Dịch trong lá lô hội có tác dụng làm dịu mát mắt khi mỏi mệt.

      Cây lô hội có vị trí rất quan trọng trong dược học cổ truyền Á Đông. Nhiều gia đình trồng lô hội làm thuốc trị bỏng. Khắp thế giới đánh giá cao khả năng chữa lành vết thương và làm đẹp của nó. Cléopatra đã từng dùng lô hội để dưỡng da. Ngày nay, lô hội được dùng nhiều trong công nghiệp mỹ phẩm và để trị bỏng do phóng xạ.

      Lô hội là một cây lưu niên và quanh năm xanh lá. Trong làm đẹp, lô hội có tác dụng dưỡng da và làm mượt tóc. Muốn dùng lô hội để dưỡng da, dưỡng tóc, trước hết phải có "dịch lô hội".

      Cách chế "dịch lô hội": Chọn những lá dày, cắt sát gốc, rửa sạch để khô, loại bỏ gai ở mép, cắt thành đoạn ngắn, xay hoặc giã nhỏ. Dùng vải màn, gạc hoặc phin cà phê lọc bỏ bã. "Dịch lô hội" tươi có tác dụng mạnh, đặc biệt phần màng xanh bên ngoài có những chất kích thích da có thể gây ngứa. Những người có làn da quá mẫn cảm nên sắc lá lô hội rồi cô đặc lại. Loại "dịch lô hội chín" này có tác dụng tương đối ôn hòa và có thể bảo quản trong tủ lạnh được lâu hơn.

      Bạn có thể tự chế kem dưỡng với "dịch lô hội" như sau: Dùng lòng trắng trứng gà tươi cho vào một bát sạch, đánh thành bọt, thêm 5 -10 giọt dịch lô hội vào đánh đều.

      Dưỡng da: Trước khi đi ngủ, rửa mặt sạch, dùng loại kem này bôi đều lên da mặt, sau khoảng 15-20 phút thì rửa sạch bằng nước ấm, rồi xoa nhẹ lên da mặt vài phút. Làm khoảng 2-3 lần/tuần.

      Làm mượt tóc: Cũng dùng loại kem tự chế trên bôi lên da đầu và tóc. Khoảng 10-15 phút sau gội sạch bằng nước ấm.

      (Theo Tiền Phong)
      http://www.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/Lam-dep/2005/05/3B9DDC90/

      #18
        HongYen 04.06.2005 21:28:13 (permalink)
        Thứ năm, 2/6/2005, 11:15 GMT+7



        8 loại trái cây dành cho người ăn kiêng

        Lo sợ vì tăng cân, bạn tìm đủ mọi cách để hóa giải lượng mỡ thừa như lập trình chế độ ăn uống, thậm chí có lúc kiêng khem quá mức. Điều đó chẳng nên chút nào. Một số hoa quả có thể giúp bạn giảm cân.

        Cam: Dùng cam mỗi ngày, bạn sẽ có một làn da mịn màng và loại bỏ được lượng calories không cần thiết.

        Chanh: Vitamin C trong chanh giúp da mịn màng, tươi sáng. Ngoài ra, uống 1 ly nước chanh mỗi ngày sẽ giúp cơ thể phân giải độc tố, mỡ thừa và hỗ trợ tiêu hóa. Không uống khi đang đói.

        Chuối: Mỗi bữa dùng hai bát cơm. Nếu muốn giảm cân, bạn có thể ăn một bát cơm với thức ăn, sau đó dùng 2-3 quả chuối thay cho bát cơm còn lại.

        Dứa: Chứa bromelain nên có thể phân giải protein trong dạ dày, giúp quá trình tiêu hóa diễn ra thuận lợi. Dứa còn có tác dụng phân giải lượng calories thừa trong cơ thể.

        Nho: Dùng 100-150 g nho mỗi ngày là bạn đã "nạp" cho cơ thể nguồn năng lượng tương đương một bát cơm chan với canh rau nấu thịt nạc. Nước ép từ nho tươi có tác dụng làm chậm quá trình lão hóa.

        Táo: Hàm lượng dinh dưỡng trong táo tương đương hai bát cơm. Dự định ăn kiêng của bạn sẽ thành công nếu một bữa trong ngày, bạn dùng hai quả táo.

        Xoài: Xoài chín rất giàu axit folic, canxi, vitamin B1, B2, có khả năng xua tan chứng đầy bụng và phân giải lượng mỡ thừa. Sau mỗi bữa cơm, bạn có thể dùng 1/2 quả. Không nên ăn trừ bữa sẽ gây nóng ruột.

        Sơri: Giàu vitamin, không chỉ tốt cho da, có lợi cho hệ tiêu hóa mà còn tiêu hao bớt lượng calories mà bạn "nạp" quá nhiều vào mỗi bữa.

        (Theo Tiếp Thị & Gia Đình)

        http://www.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2005/06/3B9DEB49/
        #19
          HongYen 20.06.2005 03:43:16 (permalink)
          Uống Sữa Giảm Nguy Cơ Bệnh Tim Mạch và Tai Biến Mạch Máu Não


          Nghiên cứu cho 764 bệnh nhân phái nam, tuổi trung bình 45 tới 59, theo dõi cân lượng và đồ ăn uống. Bệnh nhân theo dõi tình trạng sức khỏe, đo điện tâm đồ trước
          khi vào chương trình nghiên cứu, rồi đo lại tâm điện đồ 5 năm một lần, trong vòng 20 năm. Trong thơì gian nghiên cứu này, 54 bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, 139 bệnh bệnh tim mạch, cơn đau tim và đau ngư.c. 225 bệnh nhân tử vong.

          Lúc đầu thì bệnh nhân uống sữa tươi thường, nhưng tơí năm 2000 thì hầu hết bệnh nhân đổi sang sữa skimmed milk hay semi- skimmed milk. Bệnh nhân đàn ông uống trên ½ lít sữa mỗi ngày. Đo lượng cholesterol trong máu và huyết áp không thay đổi khi uống trên hay dưới ½ lít sữa mỗi ngày. Bệnh nhân nào uống ít sữa lại thường hay uống rươ.u.
          Bệnh nhân uống nhiều sữa mỗi ngày giảm nguy cơ bệnh tim mạch hay tai biến mạch máu não. Journal of Epidemiol Community Health, 59: 505, 2005


          Bàn thêm: Kết quả nghiên cứu dịch tễ kể trên khác vơí lời khuyên thông thường là uống sữa tăng cao bệnh cholesterol trong máu. Các bác sĩ thường khuyên bệnh nhân không nên uống nhiều sữa thường (lượng mỡ 2%), mà nên uống sữa mỡ thấp (low fat) hay sữa không có mỡ (non fat milk). Tuy nhiên, sữa chứa nhiều chất vôi. Chất calcium giúp răng tốt, đỡ bị lơi niếu răng, và giúp xương hàm mạnh thêm. Ăn uống sữa hay đồ ăn chứa nhiều calcium giúp xương trẻ em tăng trưởng, rất lợi khi lớn lên. Trong một nghiên cứu khác do Ts Catherine S. Berkey tại Đại Học Y Khoa Harvard nghiên cứu 13000 trẻ em tuổi từ 9 tơí 14, trong 3 năm liên tục, từ 1996, cho thấy khi trẻ em uống sữa hơn 3 li mỗi ngày cân lượng tăng cao, mập hơn 25%, so với trẻ em uống dưới 3 li sữa mỗi ngày.
          25% trẻ trai và 15% trẻ gái uống nhiều hơn 3 li mỗi ngày.

          Nói tóm lại trẻ cần uống sữa, dưới 3 li một ngày thì tốt hơn uống quá nhiều sữa, trên 3 li mỗi ngày. Trong nghiên cứu này, phần lớn trẻ uống sữa ít chất mỡ hơn trẻ uống sữa thường tức là có 2% chất mỡ. Tuy nhiên uống sữa skim milk lại không tốt bằng sữa
          thường. Ngoài ra theo các tác giả thì dường như kích thích tố estrone và bạch đản trong sữa làm trẻ em bị mập? Estrone là 1 trong 3 kích thích tố estrogens thiên nhiên. (Hai (2)
          kích thích tố estrogens thiên nhiên khác là estradiol và estriol).

          Theo kết quả nghiên cứu kể trên cho biết trẻ uống sữa vừa đủ (dưới 3 li mỗi ngày) tốt hơn uống quá nhiều sữa (trên 3 li mỗi ngày), và uống sữa thường tốt hơn uống sữa skimmed milk. Cơ Quan Hướng dẫn đồ ăn kim tự tháp do Bộ Canh Nông Hoa Kỳ cũng khuyến cáo nên uống 2 tới 3 li sữa mỗi ngày rất tốt bồi bổ chất vôi calcium cho cơ thể và
          phòng ngừa bệnh loãng xương khi về già. Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine, June 2005.

          Những kết quả kể trên cho thấy những khác biệt và lợi hại khi trẻ em và người lớn uống sữa

          Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D.
          #20
            HongYen 21.06.2005 22:57:17 (permalink)
            Thứ ba, 21/6/2005, 12:18 GMT+7

            Tăng cường trí nhớ bằng dâu tây


            Dâu tây rất tốt cho não.


            Người có tuổi muốn nuôi dưỡng trí nhớ nên tìm đến dâu tây, cam, đậu hạt và các loại rau lá xanh đậm. Nguyên nhân là do những thực phẩm này rất giàu axit folic.

            Axit folic là một loại vitamin B, có nhiều trong ngũ cốc và rau hoa quả đậm màu. Ở Mỹ, vi chất này được bổ sung vào các sản phẩm bột mì và ngũ cốc. Liều khuyến cáo mỗi ngày ở đây là 400 mcg, đặc biệt phụ nữ mang thai phải hấp thu đủ. Tầm quan trọng của axit folic đã được khẳng định từ lâu, ví dụ như làm giảm nguy cơ phá huỷ khuyết tật bẩm sinh của não và tuỷ sống, ngăn ngừa bệnh tim và đột quỵ. Ngoài ra, axit folic còn đóng vai trò quan trọng đối với chứng mất trí. Những người có ít vi chất này rẫt dễ mắc bệnh tim và bị giảm chức năng nhận thức, tắc nghẽn động mạch ảnh hưởng tới lưu lượng máu trong não.

            Khi về già, tình trạng suy giảm chức năng não là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, liệu những người khỏe mạnh có thể kiềm chế tốc độ suy kiệt của bộ não bằng cách tăng cường bổ sung axit folic hay không. Các nhà khoa học Hà Lan đã tìm hiểu vấn đề này trên hơn 800 người từ 50 đến 75. Liều axit folic thử nghiệm gấp đôi khuyến cáo của Mỹ, tương đương với khoảng 1 kg dâu tây.

            Số người tham gia nghiên cứu ngẫu nhiên uống viên vitamin tổng hợp chứa 800 mcg axit folic mỗi ngày, hoặc dùng giả dược trong vòng 3 năm. Kết quả cho thấy axit folic đã phát huy tác dụng bảo vệ não, trưởng nhóm nghiên cứu Jane Durga , Đại học Wageningen, khẳng định.

            Trong các bài kiểm tra trí nhớ, những người được bổ sung axit folic có điểm số tương đương với người trẻ hơn 5,5 năm. Còn trong các test về tốc độ nhận thức, họ thực hiện tốt như người trẻ hơn 1,9 năm. Nhóm của Durga chưa rõ axit folic bảo vệ não bằng cách nào, song có giả thuyết cho rằng vi tố này làm giảm viêm sưng não, hoặc tác động tới hoạt động của các gene liên quan đến chứng mất trí.

            Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ xem xét trên những người già khỏe mạnh và không có triệu chứng Alzheimer, nên chưa thể biết liệu axit folic có đối phó với căn bệnh này không.

            Mỹ Linh (theo AP)

            http://www.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2005/06/3B9DF5E0/
            #21
              HongYen 21.06.2005 23:15:05 (permalink)
              #22
                HongYen 03.07.2005 11:09:05 (permalink)
                Chất Ðạm (Protein)

                Thursday, June 30, 2005


                Bác sĩ Nguyên Thế Thứ, DC., PhD.


                Thực phẩm nuôi dưỡng chúng ta sinh sống hàng ngày gồm chất Ðường, chất Ðạm, chất Béo và 70 loại vitamines và khoáng chất, chúng ta sẽ khảo sát các chất dưỡng sinh này để sống khỏe, sống vui, và sống lâu.


                Ðịnh Nghĩa

                Chất đạm là vật liệu chính tạo dựng cơ thể con người và động vật, là nền tảng cấu tạo ra các loại tế bào, các loại kháng sinh, các chất xúc tác và các chất kích thích tố (Hormones). Chất đạm còn được biến đổi ra thành năng lượng cho cơ thể sử dụng, cứ mỗi gam chất đạm biến năng ra được 4 kí lô calories cho cơ thể sử dụng, đáp ứng khoảng từ 15% tới 20% số năng lượng cần thiết cho các hoạt động hàng ngày.

                Chất đạm giống như chất đường là một hợp chất hữu cơ gồm có Carbon, Hy drô, Ốc-xy và thêm vào đó 16 phần trăm chất Ni tơ, chất Sulfur, chất Phốt pho, chất Sắt và chất Cobalt. Tinh thể căn bản của chất đạm là Amino acid, các Amino acid kết tinh với nhau thành chất đạm Protein. Khi chất đạm trong thực phẩm được để ra ngoài dễ bị các vi trùng, vi khuẩn làm hư thối ăn vào rất độc. Khi được thủy giải chất đạm được phân nhỏ ra thành Amino acid.


                Cấu tạo

                Có tất cả 22 loại Amino acid được thấy trong chất đạm, tất cả thuộc loại Alfa-amino Carboxylic acid gồm loại Amino (NH2) và loại Acid Carboxylic (COOH).

                Cùng với phương thức cấu tạo tương tự, các Amino acid kết hợp với nhau thành chuỗi xoắn từ 10, 100 đến 300 Amino acid (3) được gọi là Polypeptide. Những chuỗi xoắn Polypeptide nầy có thể kết hợp dưới nhiều hình thức như: Nhiều chuỗi có thể kết hợp với nhau thành một chuỗi dài, có thể đứt đoạn thành hình cầu, hay những hình khác

                Amino acid được chia ra làm bốn loại cấu tạo hình thể:

                - Cấu tạo nhất dạng: Theo số loại, thứ tự những chuỗi Amino acid.

                - Cấu tạo nhị dạng: Theo chuỗi xoắn với nhau.

                - Cấu tạo tam dạng: Hỗn hợp nhiều loại, nhiều hình thể khác nhau.

                - Cấu tạo tứ dạng: Hai hay nhiều chuỗi Polypeptide kết hợp với nhau bằng sức hút hơn là bằng phép nối.


                Phân loại Amino acid thiết yếu

                Trong số 22 loại Amino acid được thấy trong chất đạm có 8 loại được xếp vào loại thiết yếu cho cơ thể vì phải ăn từ những thực phẩm hàng ngày đem vào trong cơ thể, không có những chất nầy, cơ thể không thể tăng trưởng phát triển điều hòa mà còn sinh bệnh tật. Tám loại chính cần cho người lớn là: Valine, Lysine, Threonine, Leucine, Isoleucine, Trytophan, Phenylalamine và Methionine, và thêm loại Histidine cần cho trẻ em mau lớn (1). Và mới đây các học giả nghiên cứu còn cho rằng Histidine cũng cần cho người lớn (2). Những loại nầy sẽ được trình bày cặn kẽ sau.

                Còn có 14 loại Amino acid còn lại, trong cơ thể có thể tự tạo ra được bằng các chất đường, chất béo và chất Amino acid khác, do đó được gọi là Amino acid phụ yếu:

                Glycine

                Alanine

                Serine

                Cystine

                Tyrosine

                Aspartic acid

                Asparagine

                Glustamic acid

                Proline

                Hydroxyproline

                Citrulline

                Arginine

                Norleucine

                Hydroxyglutamic acid


                Sự ước lượng nhu cầu về Amino acid tối cần cho cơ thể người lớn và trẻ em hàng ngày được liệt kê trong bảng 3-1.

                #23
                  HongYen 03.07.2005 11:15:25 (permalink)
                  tiếp.....

                  Công dụng của Amino acid thiết yếu

                  Leucine do ông Proust phân chất từ trong Pho mát (Cheese) ra vào năm 1819 (17) và năm 1820 ông Braconnot (18) phân chất được đưa ra từ chất đạm có mầu trắng được đặt tên là Leucine.

                  Isoleucine do ông Ehzlich phân chất ra đầu tiên vào năm 1904 từ đường củ cải và sau đó trong lúa mì, trứng, thịt bò (19).

                  Valine được phân chất ra trong lá lách vào năm 1856 do ông Gorup-besanez và ông Schiitzenberger (20) đến năm 1906 ông Fischer (21) mới xác định được phương trình cấu tạo và chứng minh được trong một số các chất đạm có số lượng tương đối rất nhỏ.

                  Leucine, Isoleucine và Valine cả ba loại cùng có công thức hóa học Amino acid cấu tạo theo dây chuỗi có nhánh và có đặc tính gần giống nhau, cơ thể không thể tự tạo được mà phải ăn các đồ ăn hàng ngày. Nếu thực phẩm hàng ngày thiếu loại Amino Acid Valine hoặc trong cơ thể thiếu các chất điều tố để biến tạo ra những chất hữu dụng, Valine sẽ có nhiều trong máu và đi tiểu ra chất Valine. Nếu thiếu Valine triệu chứng chính là hay buồn nôn, bộ óc phát triển chậm chạp, đần độn. Nếu trẻ em sinh ra cơ thể không biến tạo được chất Isoleucine, Leucine và Valine, những chất nầy được đào thải qua đường tiểu tiện, nước tiểu có mùi mật ngọt, sau đó ói mửa, co quắp tay chân và có thể chết. Nguyên nhân chính là thiếu Vitamin B12 làm cho tiến trình biến tạo bị đứt đoạn.

                  Leucine và Valine có trong thảo mộc và vi khuẩn. Isoleucine do vi khuẩn tạo ra.

                  Lysine do ông Drechsel tìm ra năm 1889 nhưng mãi tới năm 1902 ông Fischer (21) mới xác định được phương trình cấu tạo, chỉ có rất ít trong một số động vật mà không có trong thảo mộc, thiếu chất này hoặc cơ thể không có thể biến chế được chất Lysine con người sinh ra chậm chạp, bộ óc không phát triển được bình thường. Lysine được thấy trong vi khuẩn, rong, rêu, men rượu.

                  Methionine do ông Mueller tìm ra vào năm 1922 trong lúc nghiên cứu sự sinh sản của vi trùng Streptococcus, sau đó ông Baiger và Coyne xác định phương trình cấu tạo và đặt tên vào năm 1928 (22). Methionine là loại Amino acid thiết yếu có Sulfure trong phương trình cấu tạo và khi được biến tạo để sử dụng trong cơ thể phải có Folic acid và Vitamin B12 tác dụng. Nếu sự biến chế bị đứt đoạn hoặc vì thiếu những chất điều tố do ảnh hưởng di truyền đưa đến bộ óc không phát triển bình thường được, hoặc ảnh hưởng tới bộ xương sống, xương lồng ngực phát triển không đồng đều, méo, vẹo, tay chân dài quá khổ, bàn chân bẹt ra, ngón chân cái giao chỉ, nhiều khi còn bị kinh phong. Methionine có trong thảo mộc và vi khuẩn.

                  Phenylalamine và Tyrosine được tìm thấy trong măng vào năm 1879 do ông Schulze và ông Bariberi, đến năm 1882 ông Erlenmeyer và Lipp xác định phương trình cấu tạo chất Phenylalamine là chất tiền chế của Tyrosine, cả hai chất biến tạo ra các chất kích thích tố Thyroxine, chất Tyramine tăng áp huyết, chất chuyển mạch thần kinh.

                  Epinephrine và chất Melamin tạo ra da màu. Khi có những bất biến di truyền về sự biến tạo Phenylalamine và Tyrosine sinh ra bệnh bạch tạng (Albinism) do sự thiếu chất điều tố Tyrosinase. Bệnh đái ra nước tiểu đen (Alkaptonuria) có nhiều nồng độ acid do thiếu điều tố Homogentisic Acid Oxidase. Bệnh đái ra chất Tyrosine do thiếu chất điều tố Hydroxy-Phenylpyruvate Oxidase đưa đến bệnh hư gan có thể chết trong vòng 6 tháng sau khi sinh, nếu sống sót sinh bệnh viêm gan. Bệnh thường thấy nhiều là bệnh đái ra Phenyl gọi là Phenylketouria viết tắt PKU. Do thiếu chất điều tố Phenylalamine Hydoxylase sinh ra mất trí, kinh phong lở loét, run rẩy tay chân, dễ khích động. Ðể đề phòng bị hư óc, hiện nay tại các bệnh viện tân tiến đều được bó buộc phải thử máu PKU cho các trẻ em sơ sinh. Số trẻ sơ sinh bị bệnh này theo tỷ lệ .

                  Tryptophan được tìm thấy vào năm 1901 do ông Hopkins và Cole là chất tiền chế của Niacin gọi tắt là Vitamin B3, tiền chế của chất Serotonin, một chất chuyển mạch thần kinh cho ta thấy được cảm giác và làm co mạch máu, co thắt bắp thịt. Ảnh hưởng di truyền về sự không biến tạo được chất Trytophan đưa đến các loại bệnh về sẩn, lở loét gọi là bệnh Hartnup và “Blue diaper syndrome” (tã lót có màu xanh) của trẻ em. Trytophan được dùng để chữa bệnh mất ngủ. Sử dụng quá chất L-tryptophan đưa đến bệnh mất bạch huyết cầu và đau bắp thịt có thể đưa đến chết (5) và ảnh hưởng tới di truyền, đứa trẻ đẻ ra cũng bị ảnh hưởng tới bệnh bạch huyết (27) nhưng có bản báo cáo mới nhất những biến chứng ở trên không phải do sự nhiễm độc của L-tryptophan mà do biến chứng của cơ thể (28). Tryptophan có trong thịt cá.

                  Histidine được tìm thấy vào năm 1896 do Kossel (23), là chất Amino acid cần thiết cho trẻ em lớn bình thường, thay thế các tế bào bị thương, bị bệnh. Ðối với người lớn Histidine làm cho mạch máu nở rộng, làm giảm áp huyết. Quá nhiều Histidine sinh ra dị ứng. Nếu bị ảnh hưởng di truyền cơ thể không thể biến tạo được chất Histidine con người sinh ra bệnh nói ngọng. Histidine có trong thịt cá, thảo mộc.

                  tiếp....
                  #24
                    HongYen 03.07.2005 11:21:49 (permalink)
                    tiếp.....

                    Công dụng của amino acid phụ yếu

                    Các chất Amino acid phụ yếu là những chất cơ thể có thể tự sản xuất biến chế ra được.

                    Alanine do ông Strecker phân chất và đặt tên ra từ chất Acetaldehyde vào năm 1850 là chất Amino acid phụ có trong thảo mộc và do vi khuẩn tạo ra, đồng thời cơ thể có thể tiết chế ra được. Alanine có thể biến đổi ra thành Pyruvic acid vào chu trình Kreb để tạo ra năng lượng.

                    Arginine do ông Schulze và Steiger tìm ra vào năm 1886 là một loại Amino acid thiết yếu cho cơ thể tăng trưởng nhưng không có trách nhiệm bảo trì tế bào bị thương hay bệnh hoạn. Arginine góp phần tạo ra chất Urea. Có năm loại ảnh hưởng di truyền về khiếm khuyết sự tạo thành Urea có thể đưa đến hỏng bộ óc, bất tỉnh, co giật tay chân.

                    Cystine do ông Wollaston tìm ra năm 1810, cơ thể có thể biến chế chất nầy ra từ chất Methionine và Serine. Biến chứng di truyền trong sự biến tạo Cystine đưa đến sự thải quá nhiều qua đường tiểu tiện sinh ra sạn ở thận và ở bọng đái hoặc tồn trữ quá nhiều trong người đưa tới các bệnh hỏng thận, tủy xương, bạch huyết, bệnh về xương có thể chết yểu.

                    Glutamic acid do ông Ritthansen tìm ra năm 1866 là chất độc nhất được tiết chế ra rất nhiều tại óc chiếm tới 37% so với gan chỉ có 5.2% (26), đồng thời có trong động vật và thảo mộc. Quá nhiều chất Glutamic acid có thể đưa tới quá nhiều amonia trong máu có thể làm cho bất tỉnh, chết. Ăn đồ ăn có nhiều bột ngọt có chất Glutamic gọi là Monosodium Glutamate đưa tới thần kinh bấn loạn, mặt nóng bừng, đau ngực, nhức đầu.

                    Glycine do ông Braconnot tìm ra năm 1820 và do ông Berzelins đặt tên năm 1848, là chất Amino acid phụ yếu có thể biến chế trong cơ thể ra từ chất serine và là chất tiền chế của Creatine rất cần cho bắp thịt hoạt động. Quá nhiều Glycine trong máu đưa tới cơ thể lười biếng, chậm chạp, bộ óc thiếu minh mẫn.

                    Proline và Hydroxyproline do ông Fischer tìm ra năm 1904. Proline do Glutamate tạo thành và Proline là chất tiền dẫn của Hydroxyprolin. Cả hai chất là những chất chính trong các sơ thớ (Collagen) của bắp thịt kể cả da, gan, phổi, tim và xương. Thiếu chất nầy cơ thể có thể bị hư thận và óc ngu đần.

                    Serine do ông Cramer tìm ra và đặt tên vào năm 1865 và trong cơ thể Glycine biến tạo thành Serine và ngược lại. Serine có nhiều tại gan và thận.

                    Tyrosine do ông Liebig tìm ra vào năm 1846 và trong cơ thể do Phenylalanine tạo thành. Tyrosine là chất tiền dẫn của nhiều chất khác, tạo thành những chất kích thích tố Thyroid ở cổ, chất Epinephrine, chất chuyển mạch thần kinh biến đổi sắc tố mầu tại da, tạo thành chất Tyramine làm cho cao máu. Những bệnh di truyền ảnh hưởng đến Tyrosine được ghi trong phần Amino acid thiết yếu Phenylalanine.


                    Phân loại chất đạm

                    1. Phân loại theo hình thể gồm có:

                    * Loại hình cầu: Loại nầy có hình dáng theo tỷ lệ chiều dài chia cho chiều ngang không quá 10, thường khoảng 3, 4 có đặc tính dễ hòa tan trong nước, hay trong dung dịch điện giải, dễ hư thối được thấy như:

                    - Bạch đạm (Albumins): Ðiển hình trong lòng trắng trứng. Bạch đạm dễ hòa tan trong nước, dễ đông đặc bởi sức nóng. Bạch đạm trong máu có tác dụng như một chất trung hòa.

                    - Cầu đạm (Globulins): dễ hòa tan trong dung dịch điện giải dễ đông đặc khi gặp sức nóng, trong máu huyết tương. Cầu đạm giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống lại mọi vi trùng, bệnh tật.

                    * Loại hình chỉ sợi: Có những thớ tỷ lệ chiều dài so với chiều ngang trên 10 dài như sợi, có thể co, giãn, là nền tảng cấu tạo hình thể của sinh vật thảo mộc, không tan trong nước. Gồm có:

                    - Collagens (sơ thớ): Là chất chính yếu cho các mô liên kết, quá nửa số chất đạm trong cơ thể con người thuộc loại sơ thớ. Khi sơ thớ được nấu trong nước sôi biến dạng ra chất keo dẻo (Gelatins) dễ tiêu hóa, dễ hòa tan.

                    - Elastin (sơ dai): Gần giống như sơ thớ nhưng khi bị nấu trong nước sôi không bị biến dạng ra chất keo dẻo được thấy trong các động mạch, các Tendon nối liền xương với bắp thịt.

                    - Keratin (sơ cứng): Là những chất làm ra tóc, lông, móng tay, vẩy.


                    2. Phân loại theo công dụng trong cơ thể gồm:

                    - Tạo hình thể như loại hình chỉ sợi.

                    - Chất điều tố là chất tác động các chất khác gia tăng tác dụng hữu ích cho cơ thể

                    - Chất kích thích tố đa số các chất kích thích tố là chất đạm.

                    - Chất độc tố do vi trùng, vi khuẩn sinh ra rất độc cho cơ thể.

                    - Chất kháng sinh do cơ thể tạo ra để chống lại các vi trùng hoặc các chất lạ ngoại nhập vào cơ thể.

                    - Chất huyết đạm: Ðiều dưỡng khí như Hemoglobin trong hồng huyết cầu có nhiệm vụ mang dưỡng khí nuôi cơ thể và đẩy thán khí ra ngoài.

                    3. Phân loại theo đặc tính kết hợp với chất khác

                    Khi các chất Amino acid kết hợp với một chất không phải là chất đạm tạo ra đặc tính và công dụng khác như:

                    - Glycoprotein: Kết hợp giữa chất đạm và chất đường như Mucin chất nhờn trong nước dãi và trong nước ở bao tử.

                    - Nucleoprotein: Sự kết hợp chất đạm với một chất Nucleic acid như trong DNA và RNA trong yếu tố di truyền.

                    - Lipoprotein: Phối hợp chất đạm với chất mỡ như chất Cholesterol hoặc trong màng mỡ của tế bào, lòng đỏ trứng.

                    - Chromoprotein: Chất đạm phối hợp với chất mầu như trong huyết đạm, các vết nám.

                    Metalloprotein: Các chất sắt với chất đạm.


                    Nguồn cung ứng chất đạm trong thực phẩm

                    Thực phẩm được chia làm hai loại: Loại có đầy đủ Amino acid thiết yếu được gọi là thực phẩm đầy đủ chất đạm như trứng, sữa, thịt, cá, gà vịt.

                    Loại không đủ chất amino acid thiết yếu được gọi là thực phẩm không đủ chất đạm như: Rau, đậu, ngũ cốc là những chất không đủ chất đạm. Các loại nầy thường thiếu bốn thứ chính Lysine, Tryptophan, Thereonine và Methionine. Thiếu những chất nầy cơ thể chậm lớn và bộ óc không nẩy nở thông minh được. Tất cả các loại rau thiếu ba loại Amino acid thiết yếu là: Lysine, Tryptophan và Methionine.

                    Tất cả loại ngũ cốc thiếu Lysine, ngoài ra gạo và bắp còn thiếu thêm Tryptophan và Threonine. Ðậu nành thiếu Methionine, đậu phộng thiếu Methionine và Lysine. Trái cây thiếu Methionine và Tryptophan (4).


                    Nhu cầu hằng ngày cần và đủ chất đạm cho cơ thể con người

                    Nhu cầu cần và đủ chất đạm để nuôi cơ thể tùy thuộc vào tình trạng của mỗi người lúc khỏe mạnh bình thường hay lúc đau yếu. Trong những trường hợp bệnh tật, giải phẫu, bị phỏng hay mang thai số lượng chất đạm cần phải được gia tăng để thay thế số tế bào bị hủy hoại vì bệnh tật. Các trẻ em đang lớn cần nhiều chất đạm hơn để cho các tế bào tăng trưởng. Số lượng chất đạm cần thiết tùy thuộc bởi sức nặng dự tính cho mỗi mục đích mong muốn như:

                    Cho trẻ em mới lớn: Thời kỳ tăng trưởng cơ thể của các trẻ em là thời kỳ cần rất nhiều thực phẩm đầy đủ chất đạm hơn bất cứ thời kỳ nào hết. Theo sự nghiên cứu của viện nghiên cứu thực phẩm và dinh dưỡng của Hoa Kỳ (The Food and Nutrition Board of the National Research Council) nhu cầu cần và đủ mỗi ngày cho trẻ em là 2.2 gam cho mỗi kí lô sức nặng cơ thể. Trẻ sơ sinh tới 6 tháng cần 2 gam mỗi ngày cho mỗi kí lô. Từ 6 tháng tới 1 năm cần 1.7 gam cho mỗi kí lô, từ 1 tới 8 tuổi cần 1.8 gam đến 1.5 gam cho mỗi kí lô, từ 4 tuổi tới 10 tuổi cần từ 1.5 đến 1.2 gam.

                    - Cho thai nghén và cho con bú: Vì bào thai cần tăng trưởng mau, do đó người mẹ mang thai cần phải được cung cấp thêm số lượng chất đạm, khoảng 30 gam thêm cho số lượng trung bình cần cho người đàn bà là 0.8 gam mỗi ngày cho mỗi kí lô sức nặng. Người cho con bú cần thêm hơn số lượng trung bình từ 12 tới 15 gam chất đạm mỗi ngày để làm thành sữa và khoảng 20 gam mỗi ngày nữa trong suốt thời gian cho con bú.

                    - Cho tuổi già: Trung bình người lớn cần khoảng 0.8 gam mỗi ngày cho mỗi kí lô sức nặng cơ thể nhưng vì tuổi càng cao số lượng Acid tiết ra trong bao tử để biến đổi chất đạm ra thành Amino acid càng ít, do đó số lượng chất đạm ăn vào chưa bài tiết hết đã bị đào thải ra ngoài, vì vậy phải cần thêm số lượng chất đạm.

                    - Cho người đau yếu và giải phẫu: Bất cứ những bệnh tật nào hay giải phẫu cơ thể đều bị mất chất đạm do các tế bào bị hủy diệt và số lượng chất đạm dự trữ bị thiếu hụt. Nếu số lượng chất đạm trong máu bị mất một cách đột ngột như thương tích mất máu, bị phỏng mất huyết thanh người bệnh có thể ngất xỉu. Nếu mất chất đạm một cách từ từ người bệnh có thể sụt cân, da xanh xao và khô có vẩy, sức đề kháng trong cơ thể bị suy yếu sinh ra nhiều chứng bệnh khác.

                    Tóm lại nhu cầu cần và đủ cho đàn ông khoảng 60 kí và đàn bà 45 kí vào khoảng 0.8 gam mỗi ngày cho mỗi kí lô (12) là 46 gam chất đạm mỗi ngày cho đàn ông và đàn bà là 36 gam mỗi ngày.

                    Hai bảng tường trình nhu cầu cần thiết về Amino acid của ông Rose và các cộng tác viên của ông (10) và của ông Hegsted (15) đã được các khoa học gia khác xác định dựa theo sự phân tích, thống kê liên hệ giữa Amino acid và Nitrogen tồn trữ trong cơ thể của đàn ông và đàn bà, trẻ em được liệt kê như sau cho ta khái niệm về sự cần thiết chất đạm hằng ngày.

                    Kết quả cho thấy số lượng hằng ngày của đàn ông nhiều hơn số nhu cầu ấn định. Nhưng ông Rose và các khoa học gia của ông vẫn chấp nhận vì dựa theo kết quả của những người tình nguyện thí nghiệm. Kết quả của đàn bà gần sát với nhu cầu ấn định.


                    Bác sĩ Nguyễn Thế Thứ DC., PhD

                    7891 Westminster Blvd.

                    Westminster, CA-92683. USA

                    ÐT: 714- 891-7775

                    (Chuyên trị đau lưng và cụp xương sống)

                    http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=28067&z=14
                    #25
                      HongYen 17.07.2005 15:33:36 (permalink)
                      Lối Sống Mới Và Cách Ăn Uống Cho Năm 2005

                      Bộ Canh Nông và Y Tế Hoa Kỳ vừa đưa ra những khuyến cáo năm 2005 cho dân chúng đặc biệt giảm năng lượng calories khi ăn uống, chọn những đồ ăn lành mạnh, tập thể dùng hàng ngày và giảm cân lượng, giảm mập. Ăn những loại nguyên hạt hơn là xay nghiền nát như ăn 3 ounces đồ ăn nguyên hạt mỗi ngày, tương đương vơí 3 lát bánh mì làm bằng nguyên hạt. Tức là giữ năng lượng không quá 2000 calories mỗi ngày. Nên ăn nhiều rau và trái cây (5-9 phần ăn, tương đương 41/2 chén mỗi ngày) tức là tăng cao gấp 2 lần trước đây.

                      Tránh ăn thịt nhiều mỡ, tránh thịt đỏ (như thịt bò hay thịt heo). Nên tập thể dục 30 phút mỗi ngày để giảm nguy cơ bệnh kinh niên hay tâp luyện nhiều hơn, 60-90 phút mỗi ngày, khi cần phải giảm cân lượng. Khuyến cáo kể trên đặc biệt lưu ý những chuyên viên y tế kể cả bác sĩ phải khuyến cáo bệnh nhân thường xuyên, mỗi lần bệnh nhân tới khám bệnh vì những lý do bệnh tật nào khác. Tiểu sử hồ sơ bệnh lý cần thêm phần theo dõi cân lượng, hoạt động của mỗi bệnh nhân, đồ ăn thức uống, điều chỉnh năng lượng mỗi ngày, v…v…

                      Ngoài ra, bệnh nhân tránh ăn đồ mặn, tức là giảm muối sodium, tránh uống rượu quá mức (bệnh nhân bị bệnh kinh niên nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi uống rượu, vì có rất nhiều trường hợp không thể uống rượu). Tồn trữ đồ ăn an toàn để tránh những bệnh truyền nhiễm do vi trùng Salmonella hay E Coli. Bệnh nhân phải năng rửa tay, rửa rau, rửa trái cây. Phải để riêng rẽ đồ ăn còn sống vơí đồ ăn đã nấu chin. Nhiệt độ nấu phải cao vừa đủ để tiêu diệt vi trùng. Ðồ ăn dễ hư phải để ngay vào tủ lạnh hay đông lạnh. Nếu cần biết thêm chi tiết, nên hỏi: ccjm@ccf.org. (Cleveland Clinical Journal of Medicine, volume 72, July 2005).

                      (Bàn thêm: Nói tóm lại, Khuyến Cáo Ăn Uống Cho năm 2005 gồm có: ăn nhiều rau, trái cây, nhiều đồ ăn nguyên hạt, đồ ăn sữa không có chất béo. Lưu ý năng lượng đồ ăn mỗi ngày, để ý phần ăn vừa đủ dưới 2000 calories mỗi ngày, những người không bệnh tật cũng phải cữ giảm rượu, tránh đồ ăn mặn, tránh đồ ăn có nhiều mỡ bão hòa (saturated fats), tránh cholesterol, tránh ăn đồ quá ngọt. Tập thể dục 30 phút mỗi ngày để giảm nguy cơ bệnh tật và tập thể dục 60-90 phút mỗi ngày để giảm cân lượng hay khỏi mập).

                      Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714)547-3915; E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/Group/DienDanYKhoa/; www.KhoaHoc.Net, Sức Khỏe

                      Số: 3757
                      Ra Ngày: 16/7/2005
                      http://www.vietbao.com/
                      #26
                        HongYen 17.07.2005 16:07:21 (permalink)
                        Thứ Bảy, 16/07/2005, 18:27 (GMT+7)

                        Các thức ăn giúp cơ thể khỏe mạnh


                        Tỏi là một vị thuốc chữa nhiều bệnh về dạ dày, cảm cúm.

                        TTCN -

                        1) Tóc.

                        Ngũ cốc là thực phẩm quan trọng, nhiều dưỡng chất, rất có ích lợi cho sức khỏe, làm tóc bóng mượt.

                        2) Não

                        Đường, bí đỏ cung cấp nhiều năng lượng cho não, giúp tăng cường trí thông minh.

                        3) Mắt

                        Các loại quả màu đỏ như cà rốt, bí đỏ, đu đủ, gấc có nhiều vitamin A, làm sáng mắt. Uống trà cũng làm tăng thị lực.

                        4) Phổi

                        Ăn nhiều cà chua sẽ giúp cơ thể hạn chế những bệnh liên quan đến đường hô hấp.

                        5) Da

                        Các loại hoa quả như cam, chanh, nho chứa nhiều vitamin C, rất có lợi cho da, giúp da mịn màng.

                        6) Tim

                        Các loại thực phẩm có nhiều vitamin E, magnê như quả hạnh, đỗ tương giúp ngăn ngừa bệnh nghẽn mạch máu, cao huyết áp. Uống trà cũng là một cách tốt để ngăn ngừa bệnh đau tim.

                        7) Dạ dày

                        Tỏi là một vị thuốc chữa nhiều bệnh về dạ dày, cảm cúm.

                        8) Xương, chân

                        Bơ, cà rốt, chuối là những thực phẩm giàu kali, magnê giúp xương vững chắc, cơ bắp hoạt động dẻo dai.

                        9) Móng tay, móng chân

                        Cua, thịt bò, sữa, nấm, nghêu, sò, hến là những thực phẩm khuyến khích, chứa nhiều kẽm, giúp móng tay, móng chân khỏe mạnh. g

                        HÀ HƯƠNG (tổng hợp)

                        http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=88980&ChannelID=12
                        #27
                          HongYen 08.08.2005 08:22:22 (permalink)
                          Vitamin

                          Wednesday, August 03, 2005


                          Bác sĩ Nguyễn Thế Thứ DC., PhD.

                          Trước khi chưa tìm ra Vitamin, con người phải chịu khổ sở về một số bệnh như Pellagra (bệnh tróc vẩy ở da, tiêu chảy, lở miệng), Scurvy (chảy máu ở lợi, rụng răng, phù, đau các khớp xương, xương phát triển không bình thường), bệnh quáng gà (không thể nhìn thấy về đêm), Ricket (bệnh thiếu Calcium), làm cho sưng gan, đau mình, sốt, xương mỏng biến dạng dễ gẫy. Những bệnh này hoành hành như là một bệnh dịch làm chết cả một làng, một đội quân, các thủy thủ trong một chiếc tàu.

                          Những chứng tích lịch sử ghi nhận trên những bức tường cổ Ai Cập hơn năm ngàn năm về trước có vẽ những hình khuyên ăn gan gia súc, cầm thú có Vitamin A để tránh bệnh mù. Những hình vẽ thượng cổ Trung Hoa ghi nhận cách chữa bệnh vẹo xương Ricket, một loại bệnh thiếu Vitamin D. Thời kỳ đế quốc Hy Lạp có viết cả một thành phố chịu khổ đau về bệnh chảy máu lợi bể các mạch máu dưới da, bệnh Scurvy thiếu Vitamin C. Bệnh Scurvy đã giết chết 626 thủy thủ trong cuộc hành trình vòng quanh thế giới của Sir George Anson vào năm 1747. Bệnh phù thũng Beriberi đã tàn phá nước Nhật vì ăn toàn gạo giã, thiếu Vitamin B1 vào thế kỷ thứ 19, mãi tới năm 1887 ông Takaki mới tìm ra cách chữa bệnh phù thũng Beriberi bằng cách dinh dưỡng. Vào cuối thế kỷ thứ 19, khoa học rầm rộ phát triển, nhiều lý thuyết nổi tiếng ra đời, nhiều phát minh khoa học được tìm thấy: Darwin đưa ra lý thuyết biến thiên (Theory of Evolution). Freud đưa ra lý thuyết nhân vị. Pasteur, Kock, Metchnikoff đưa ra lý thuyết vi trùng sinh ra bệnh tật (Germ Theory of Diseases) và sản xuất ra nhiều loại thuốc chữa được nhiều loại bệnh dịch. Tất cả những quan niệm trên làm nền tảng cho sự hiểu biết và tìm kiếm ra Vitamin.

                          Năm 1911 nhà sinh hóa học người Ba Lan ông Casimir Funk nghiên cứu các loại bệnh Scurvy, Benberi, Rickets, Pellagra đã đưa tới kết luận là nguyên do chính là thiếu dinh dưỡng. Mặc dầu thời đó các chất đường chất đạm chất béo đã được nhìn nhận là thực phẩm căn bản. Ông Funk đề nghị rằng một loại cần thiết thứ tư, tuy rất ít nhưng rất cần thiết cho cơ thể không có không được ông ta gọi là Vitamin.

                          Năm 1913 Osborne, Mendel (3) McCollum và David (2) nghiên cứu riêng rẽ đã tìm ra trong dầu gan cá, trong bơ và lòng đỏ trứng một loại dinh dưỡng tan được trong chất béo gọi là Vitamin A. Sau đó thêm ba loại Vitamin có thể tan trong dung dịch chất béo và chín loại Vitamin tan trong dung dịch nước (1). Ngày nay Vitamin được coi rất quan trọng trong vai trò dinh dưỡng .


                          Định nghĩa


                          Vitamin là một hợp chất hữu cơ có rất ít trong các chất dinh dưỡng nhưng rất cần thiết cho từng giai đoạn của sự biến tạo thực phẩm trong tế bào để tăng trưởng và duy trì đời sống. Cơ thể không thể tự điều chế ra được mà phải ăn từ những thực phẩm, ngoại trừ Vitamin D có thể điều chế khi có ánh mặt trời nhưng phải có các chất tiền dẫn trong da thịt, một vài loại Vitamin khác như Vitamin K, B12, Thiamin, có thể do các vi trùng, vi khuẩn trong ruột tạo ra và hấp thụ vào máu. Vitamin không tạo ra Calori, không làm cho cơ thể tăng trưởng có nghĩa là nếu cơ thể nhịn ăn mà uống thuốc bổ không giúp ích được gì cho sự tăng trưởng và tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động.

                          Nhu cầu Vitamin trong cơ thể của mỗi loại động vật và con người khác nhau thí dụ như: người, khỉ, heo cần Vitamin C trong khi đó chó, chuột, thỏ cơ thể chúng có thể tự tạo ra Vitamin C được. Nếu thiếu Vitamin trong đồ ăn, hoặc bộ máy tiêu hóa không hấp thụ được vào máu để nuôi cơ thể thì sẽ sinh ra một số bệnh đặc biệt.


                          Phân loại và đặt tên

                          Vitamin được chia làm hai loại:

                          ***Loại có thể hòa tan trong các chất béo như rượu và Eter gồm Vitamin A, D, E, và K.

                          ****Loại có thể hòa tan trong nước gồm các loại Vitamin B và C.



                          tiếp....
                          #28
                            HongYen 08.08.2005 08:24:52 (permalink)
                            Danh mục : Vitamin được đặt theo mẫu tự A, B, C


                            Sau khi đã phân chất được tính chất hóa học của vitamin, người ta đã bắt đầu đặt tên theo sự cấu tạo hóa chất để dễ phân biệt và hiểu được đặc tính, càng ngày càng nhiều Vitamin được tìm ra và biến chế theo các phương trình hóa học, sự đặt tên càng phức tạp. Tuy nhiên các nhà khoa học trên thế giới đã thỏa thuận giữ nguyên các tên nguyên thủy theo mẫu tự và kèm thêm vào đó tên khoa học như: Vitamin A (Retinol), B1 (Thiamin), C (Ascorbic acid), D (Calciferol) v.v...

                            Sự phân loại và danh mục các loại Vitamin được trình bày trong các phần kế tiếp dựa trên quyết định của IUPAC (International Union of Pure and Applied Chemistry) thỏa thuận vào năm 1957. Và chỉ trình bày các loại Vitamin ảnh hưởng đến cơ thể con người.

                            Sau đây là phần tóm lược, danh mục, công dụng của các loại Vitamin do ông Cheldelin xếp loại vào năm 1951:

                            Vitamin A: Ngăn ngừa được bệnh quáng gà Nyctalopia, bệnh khô mắt Xerophthalmia, bệnh hoa mắt không nhìn rõ khi có nhiều ánh sáng Hemeralopia. Rất cần thiết cho tế bào tăng trưởng. Gồm có các loại có tên như Retinol, Retinoic acid, 3-dehydroretinol.

                            Vitamin B: Nguyên thủy dùng để chữa bệnh phù thũng Beriberi, hiện nay có rất nhiều công dụng được gọi là Vitamin B Complex.

                            Vitamin B1: Chữa bệnh Beriberi, và các bệnh đau nhức thần kinh. Được gọi là Thiamin tại Hoa Kỳ và Aneurine tại Anh Quốc.

                            Vitamin B2: Kích thích sự tăng trưởng, ngăn ngừa bệnh ngứa mắt, lở mép, lở tai. Được gọi là Riboflavin.

                            Vitamin B3: Ngừa bệnh Pellagra, thần kinh suy nhược. Được gọi là Niacin hay Nicotinic Acid.

                            Vitamin B4: Giúp cho các bắp thịt của chuột và gà khỏi suy yếu là hợp chất vừa Riboflavin và Pyridoxol.

                            Vitamin B5: Giúp cho biến năng các chất đạm, đường, béo, được gọi là Pantothenic acid.

                            Vitamin B6: Cần thiết cho các hoạt động biến năng, tăng trưởng, thiếu máu, các bệnh về da, về thần kinh. Được gọi Peridoxine, Peridoxal, Peridoxamine.

                            Vitamin B7: Cần thiết cho sự thủy giải các chất béo, chất đạm, đào thải các thán khí. Được gọi là Biotin.

                            Vitamin B8: Adenylic acid, hiện không còn được kể là Vitamin.

                            Vitamin B9: Cần thiết cho hồng huyết cầu và sinh phân Nucleic acid. Được gọi là Folacin, Folic acid.

                            Vitamin B10: Giúp cho gà và chim mau lớn, gồm hợp chất Cyanocobalamin và Pteroylmonoglutamic.

                            Vitamin B11: Giúp cho gà và chim mau lớn hợp chất giống như B4

                            Vitamin B12: Chữa bệnh máu hồng huyết cầu không được bình thường ở con người, giúp cho súc vật mau lớn, được gọi Cyanocobalamin.

                            Vitamin B13: Chưa được xác nhận.

                            Vitamin B14: Chưa được xác nhận.

                            Vitamin B15: Chưa được Hoa Kỳ công nhận. Được dùng nhiều tại Nga và các nước khác để chữa bệnh tim và mạch máu gọi là Pangamic acid (23).

                            Vitamin C: Chữa được Scurvy, được gọi là Ascorbic acid.

                            Vitamin D: Chữa bệnh Rickets gọi là Calciferol.

                            Vitamin E: Ngăn ngừa ốc-xýt hóa, giữ cho hồng huyết cầu khỏi bị tiêu hủy. Ngừa bệnh bất lực trong động vật. Được gọi Alpha, Beta-tocopherols.

                            Vitamin F: Cần thiết cho Fatty acid, và ngăn cứng động mạch trong động vật dùng nhiều ở Âu Châu.

                            Vitamin G: Không còn được dùng cho Riboflavin.

                            Vitamin H: Không được dùng cho Biotin.

                            Vitamin I: Ngăn ngừa bệnh không tiêu hóa trong chim bồ câu.

                            Vitamin J: Ngừa bệnh sưng phổi còn được gọi Vitamin C2.

                            Vitamin K: Ngừa bệnh máu loãng, giúp cho diễn trình đông máu. Được gọi Phyuoquinone, Menaquinone.

                            Vitamin L: Cho rằng cần thiết cho sự tạo ra sữa. Có thể liên hệ đến Anthranilic acid, Adenosine.

                            Vitamin M: Ngừa thiếu máu và thiếu bạch huyết cầu của khỉ. Gọi là Pteroylmonoglutamic acid.

                            Vitamin N: Đã bị bỏ, tin rằng có thể chữa ung thư.

                            Vitamin P: Không được gọi là Vitamin, giúp cho mạch máu khỏi bị bể.

                            Vitamin R: Giúp cho vi trùng tăng trưởng, liên hệ với Folic acid.

                            Vitamin S: Giúp cho gà mau lớn

                            Vitamin T: Giúp cho chuột mau lớn.

                            Vitamin U: Chữa được ghẻ lở.

                            Vitamin V: Giúp cho vi trùng tăng trưởng mau.


                            Đơn vị đo lường số lượng Vitamin mỗi loại cần thiết cho cơ thể được dùng là I.U. (The Intemational Unit) cho Vitamin A, D, E, các loại khác dùng Milligram là đơn vị đo lường. Riêng về Vitamin A, vì tính chất hấp thụ của các loại tiền chế Vitamin (Provitamine) trong cơ thể, năm 1967 các chuyên viên của FAO/WHO đã quyết định lấy Microgram của Retinol làm đơn vị thay cho I.U. trong thí nghiệm gọi là R.E. (Retinol Equivalent):

                            1 Retinol Equivalent = 6Èg Beta Carotene = 1Èg tiền chế Vitamin A Carotenoids = 3.33 I.U. Vitamin A rút từ Retinol = 10 I.U. Vitamin A rút từ B-carotene.

                            tiếp....
                            #29
                              HongYen 08.08.2005 08:27:03 (permalink)
                              Vai trò của Vitamin


                              Vitamin có trách nhiệm hỗ trợ cho dinh dưỡng trong diễn trình biến năng của cơ thể gồm có thay thế và kiến tạo các tế bào trong cơ thể gọi là sự biến sinh và phân hóa các thực phẩm ra thành năng lượng, tồn trữ và sử dụng cho các hoạt động của cơ thể được gọi là sự tạo năng. Rõ ràng hơn, Vitamin giúp cho các chất béo, chất đường biến đổi ra thành năng lượng, giúp cho sự tạo thành các tế bào trong cơ thể như tế bào xương, tế bào bắp thịt, thần kinh v.v...

                              Ngoài ra Vitamin còn là một chất khích điều tố có trách vụ tác động một chất điều tố khác hoạt động. Không có khích điều tố, nhiều phản ứng hóa học quan trọng trong cơ thể không thể thành hình được.

                              Trong các thực phẩm được đem vào cơ thể hàng ngày thường không đủ các Vitamin, do đó việc uống thêm các Vitamin cho đủ số Vitamin cần thiết cho cơ thể là điều quan trọng, đặc biệt với các trẻ em đang lớn, các bà có thai cho con bú, người đang bị bệnh nhất là các bệnh về thiếu dinh dưỡng. Uống nhiều Vitamin quá cũng không giúp ích được gì, như các loại Vitamin có thể tan trong nước thì khi uống quá nhiều sẽ bị bài tiết qua tiểu tiện. Quá nhiều Vitamin có thể tan trong chất béo đưa đến tích trữ thặng dư trong cơ thể và sinh ra bệnh. Do đó nhiều công trình nghiên cứu để ấn định tiêu chuẩn cần thiết cho các loại Vitamin được dùng tối đa, an toàn cho một ngày được gọi là “đề nghị tiêu chuẩn dưỡng sinh” cho từng loại Vitamin. Từ đó, các nhà bào chế đã căn cứ vào các chất cấu tạo theo phương trình điều chế hóa học của Vitamin để điều chế ra các loại Vitamin biến chế. Những loại Vitamin biến chế nầy được điều chế tại các phòng bào chế thuốc có tác dụng tương tự như các loại Vitamin thiên nhiên trong thảo mộc hoặc trong động vật.

                              Vitamin có đặc tính dễ bị triệt tiêu khi nấu ở nhiệt độ cao, hoặc lâu và dễ tan trong nước nấu đồ ăn. Tránh nấu ở nhiệt độ cao có không khí và Vitamin dễ mất đặc tính nếu đồ ăn quá nhiều chất kiềm. Các loại rau nên hấp giữ được Vitamin. Nếu đem cắt nhỏ, nghiền nát và không để trong tủ lạnh các đồ ăn, rau đậu là nguyên do chính mất các chất Vitamin.

                              tiếp....
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 6 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 78 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9