Truyện ma của Nguyễn Thị Mộng Thu
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 7 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 99 bài trong đề mục
nguyenthu 10.08.2009 22:10:12 (permalink)
BÍ MẬT PHÍA SAU CÁNH CỬA
 
Cuối cùng rồi tôi cũng tìm được cơ hội để thoát khỏi cái thành phố này. Cái thành phố ở mà ở mỗi nơi, mỗi góc tôi đều nhìn thấy hình bóng của anh hiển hiện.
Tôi muốn thoát khỏi nó, muốn chạy trốn những ký ức, những kỷ niệm đẹp và không đẹp về anh.
Liên tục nhiều tuần lễ, tôi đăng ký tìm việc trên các báo cũng như theo dõi các thông tin tuyển nhân sự, nhưng vẫn không tìm thấy nơi nào có thể làm chốn trú thân vững chắc cho tôi.
Tôi đang công tác ở một công ty nước ngoài đang trên đà làm ăn phát triển. Lương tháng của tôi là niềm mơ ước của nhiều người, nhưng bây giờ thì tôi sẵn sàng vứt bỏ tất cả để đi đến một nơi nào đó thật xa, nơi nào đó không có chút gì khiến gợi nhớ lại những hạnh phúc bên anh, để tôi có thể hàn gắn lại vết thương đang làm tơi tả trái tim mình…
Đang lúc chán nản, tôi bất chợt có được thông tin mà mình luôn chờ đợi: Một nông trang cần tuyển một nữ quản lý!
Ngay lập tức tôi liên lạc với nơi đó và được biết mình có thể đáp ứng được tất cả những yêu cầu mà họ đặt ra.
Hôm sau tôi trực tiếp đến nông trang.
Đó là một nơi hẻo lánh cách xa thành phố hơn hai trăm cây số. Chủ nhân của nông trang là một bà lão bảy mươi tuổi, nhưng nếu không do bà tự nói ra, khó ai có thể đoán được tuổi thật của bà.
Bà lão có dáng người to lớn, khác với những phụ nữ nông thôn cùng trang lứa. Mặc dù tuổi đã cao, nhưng trên gương mặt và dáng vóc vẫn còn phảng phất vẻ đẹp của tuổi thanh xuân. Có lẽ ngày còn trẻ, bà là một tuyệt sắc giai nhân được nhiều người đeo đuổi.
Vừa trông thấy tôi, bà đã niềm nở:
- Cô thật đúng hẹn! Tôi rất thích những người như thế!
Tôi gật đầu chào bà và ngồi xuống một chiếc ghế nhỏ đối diện.
Bà tự giới thiệu:
- Tôi là chủ nhân của trang trại này. Cô cứ gọi tôi là bà Hai cho thân mật nhé, cô Hương?
Tôi khẽ mỉm cười, mừng thầm vì thấy bà chủ có vẻ gần gũi và dễ tính.
- Trước đây cô đã từng làm công việc quản lý này chưa?
Bà Hai hỏi tiếp.
Tôi nhỏ nhẹ trả lời:
- Dạ thưa bà, tôi đã làm công tác quản lý rất nhiều năm, nhưng thú thiệt, tôi chưa quản lý nông trang lần nào!
Bà Hai tươi cười:
- Không sao, không sao! Tất cả cũng tương tự nhau thôi mà, rồi cô sẽ nhanh chóng quen dần với công việc mà thôi. Nói chung, công việc ở đây cũng không nhiều, mỗi khâu đã có người lo liệu chu tất, cô chỉ có nhiệm vụ tổng hợp các báo cáo từ các khâu và để mắt bao quát chút thôi.
- Dạ, tôi nghĩ mình có thể làm được!
Tôi tự tin nói.
Bà Hai mỉm cười hài lòng:
- Vừa trông thấy cô, tôi cũng rất hy vọng cô sẽ gắn bó lâu dài với chỗ chúng tôi. Trước nay có rất nhiều người tới xin việc nhưng rồi không bao lâu họ lại bỏ đi…
- Bỏ đi? Chẳng lẽ điều kiện sống ở đây không được  tốt?
Tôi ngạc nhiên hỏi.
Bà Hai xua tay:
- Không đâu! Trái lại, đời sống ở nông trang này thoải mái hơn nhiều so với những nơi khác, chỉ trừ nó là nơi hẻo lánh nên không có được cái không khí nhộn phịp, ồn ào như ở thành phố.
Tiếp theo đó, bà Hai cho tôi biết mức lương thử việc trong ba tháng đầu của tôi. Mới vừa nghe qua tôi đã giật mình, không thể tin đó là sự thật! Ở nơi heo hút thế này mà mức lương không thua mấy mức lương tôi đang nhận ở thành phố!
- Các khoản ăn, ở và sinh hoạt nơi đây cô đều không phải mất tiền, tất cả tôi bao hết!
Bà Hai nói thêm.
- Cảm ơn bà. Tôi thật sự bất ngờ khi thấy bà trả lương hậu hĩnh đến như vậy!
Bà Hai nhìn tôi trìu mến:
- Cô đúng là một cô gái lương thiện!
Rồi bà hỏi tiếp:
- Khi nào cô bắt đầu nhận việc, ngay hôm nay nhé?
Tôi cười, lắc đầu:
- Thưa bà, bà cho tôi xin thêm hai ngày nữa để tôi có đủ thời gian giải quyết những việc công việc tư còn dang dở ở thành phố. Đúng hai ngày sau, tôi sẽ về ở hẳn nơi đây.
Bà Hai vui vẻ đồng ý.
- Được! Được! Tôi rất vui vì thấy cô nhanh nhẹn, dứt khoát thế này! Bây giờ tôi mời cô đi xem qua căn phòng tôi dành cho cô nhé?
- Dạ, cảm ơn bà!
Tôi gật đầu.
Bà Hai gọi chị giúp việc lên, tươi cười nói:
- Con đưa cô Hương đi xem phòng nhé?
Chị giúp việc gật đầu rồi đưa mắt nhìn tôi. Tôi đứng lên đi theo chị.
Đây là một ngôi nhà cổ rộng lớn, mái ngói rêu phong, màu sơn tường cũng đã cũ, chắc lâu lắm rồi bà chủ nhà không cho người sơn phết lại.
Đi theo chị giúp việc vượt qua một khoảng sân rộng, tôi thấy trước mắt mình là một dãy nhà đồ sộ được xây dựng theo kiểu kiến trúc hiện đại.
- Ồ, đẹp quá!
Không ngăn nổi sự thích thú, tôi bật ra tiếng trầm trồ khen ngợi. Chị giúp việc dường như không nghe những lời tôi nói, chị không hề có bất cứ phản ứng gì, cứ lầm lũi đi nhanh về phía trước.
Ngôi nhà cổ và cả ngôi nhà hiện đại này nữa vô cùng rộng lớn, nhưng người trong nhà tôi lại chẳng thấy được mấy người. Ngoài bà Hai chủ nhà, chị giúp việc, bây giờ tôi chỉ nhìn thấy hai người nữa đang lom khom ngoài vườn, chắc đang trồng trọt hay xén cây ngoài đó.
Tôi dấn bước lên sánh đôi với chị giúp việc, hỏi:
- Chị ơi, nhà lớn quá, chắc có đông người lắm hả chị?
Chị giúp việc hơi chậm chân lại một tí, ngoảnh nhìn tôi rồi cười nhẹ, lắc đầu:
- Không đâu cô, cũng không đông lắm!
Nói xong, chị lại rảo chân bước tiếp. Tôi còn rất nhiều câu hỏi, nhưng thấy thái độ không thiết tha của chị tôi ngại nên không dám hỏi thêm gì nữa, chỉ cắm cúi đi theo chị.
Đi qua rất nhiều hành làng, rất nhiều lối rẽ, cuối cùng chị dừng trước một căn phòng và nói:
- Đây là chỗ ở của cô, xin mời cô tự nhiên!
Vừa nói, chị vừa đưa tay đẩy cánh cửa. Gọi là căn phòng chứ thật sự nó rộng lớn và đầy đủ tiện nghi giống như một ngôi nhà! Tôi thật sự bàng hoàng, thích thú!
Thật không thể nào ngờ được, ở nơi đèo heo hút gió như vầy lại có một nông trang thuê người làm với mức lương cao ngất ngưỡng, đời sống vật chất, sinh hoạt hàng ngày lại rất tiện nghi, thoải mái đến mức này! Có nằm mơ tôi cũng không thể nào tưởng tượng ra được. Tôi thầm cảm ơn trời phật thương tình đã đưa đẩy tôi tìm tới nơi đây.
Phải chăng trời phật đã động lòng trước nỗi khổ đau của tôi khi bị anh phụ bạc? Phải chăng trời phật muốn xoa dịu nỗi đau trong tôi, bù đắp lại cho tôi phần nào những thiệt thòi, mất mát mà tôi đã phải gánh chịu trong quãng đời đã qua của mình?
Mà thôi, dù sao thì bây giờ tôi cũng đã cảm nhận được sự thoải mái mà mình sắp sửa được hưởng. Hy vọng với hoàn cảnh và những điều kiện thế này, tôi sẽ nhanh chóng quên được anh, đẩy lùi được hình bóng anh ra khỏi tim tôi, để ngày ngày tôi không phải nuốt nước mắt vào lòng mà cố gắng hoàn thành công việc, để đêm đêm tôi không phải thao thức với nỗi đau cào xé lồng ngực mình….
Tôi đứng ngây người ra giữa nhà, đầu óc nghĩ ngợi lung tung, không tập trung vào một vấn đề gì cụ thể.
- Cô có hài lòng không?
Tôi thoáng giật mình khi nghe tiếng chị giúp việc hỏi.
Quay lại nhìn chị, tôi mỉm cười:
- Dạ, em rất vui chị ạ! Em thật không ngờ…
- Bây giờ tôi sẽ đưa cô đi xem qua các phòng khác.
Chị giúp việc nói xong không cần tôi có đồng ý hay không, quay ngoắt người đi ra. Tôi vội vã đi theo chị.
Càng đi, tôi càng thấy ngỡ ngàng. Ở vùng nông thông quạnh vắng lại có một ngôi nhà với những căn phòng thế này thì thật là quá sức tưởng tượng!
Hơn một tiếng đồng hồ sau, chị giúp việc dẫn tôi trở về chỗ cũ. Bà chủ nhà đón tôi bằng cái nhìn thân thiện:
- Sao, cô có đồng ý không?
- Dạ, tôi rất vui được làm việc ở đây, thưa bà!
Tôi mỉm cười đáp.
Bà Hai mời tôi ở lại dùng cơm nhưng tôi từ chối. Tôi cần phải quay lại thành phố để thu xếp mọi chuyện.
Hai ngày sau tôi lên đường về nông trang với mớ hành lý ít ỏi. Tất cả những gì có dính dáng tới anh tôi đã bỏ lại hết, dù đó là những thứ tôi rất quý, rất cần. Tôi muốn, kể từ hôm nay, hình bóng anh sẽ dứt ra hẳn khỏi trái tim tôi, ra khỏi cuộc đời tôi…
Tôi đến với nông trang cùng mớ hành lý nhẹ hẫng và một tâm hồn nặng trĩu những buồn đau.
Công việc ở nông trang thật ra chẳng có gì. Đúng như lời bà Hai nói, tất cả các mảng, các khâu đều có người theo dõi sít sao, tôi không cần bận tâm tới, mỗi cuối tháng tôi chỉ cần tổng hợp các báo cáo là đủ. Sau một tháng làm việc, tôi vô cùng thắc mắc, tại sao lại nó người bỏ ra ngần ấy tiền mỗi tháng để thuê người về làm những chuyện giống như cưỡi ngựa xem hoa? Hay vì mới tháng đầu chưa, bà Hai chưa giao việc nhiều để tạo điều kiện cho tôi quen dần với cuộc sống ở đây?
Khi trao cho tôi tháng lương đầu tiên, bà Hai nhìn tôi thật lâu rồi nói:
- Cháu có thể giúp bà một việc nữa không? Bà sẽ tăng thêm lương cho cháu!
Từ ngày tôi chính thức về làm việc ở đây, bà Hai không còn gọi tôi bằng tiếng “cô” nữa mà chuyển sang gọi bằng “cháu” rất thân mật, và tôi cũng thế, tôi cảm động trwosc tình cảm đơn giản, chân thành của bà Hai và những người ở đây dành cho mình, cho nên tôi cũng xưng hô thân mật với bà và tất cả mọi người.
Nghe bà Hai hỏi, tôi sốt sắng trả lời:
- Dạ, có điều gì bà cứ sai biểu, cháu sẽ làm, không cần tăng thêm lương đâu bà ạ!
Bà Hai vuốt ve cánh tay tôi:
- Cháu ngoan lắm, bà cảm ơn cháu!
Tôi mỉm cười, thật sự không hiểu sao bà Hai lại tỏ ra đặc biệt yêu mến tôi như vậy? Vì năng lực của tôi ư? Không đâu, thật ra một tháng nay tôi có làm gì thể hiện năng lực của mình đâu? Vậy thì tại sao? Tôi không thể biết được.
Ở trong ngôi nhà này, cuộc sống thật thoải mái và đầy đủ tiện nghi, nhưng có rất nhiều điều kỳ quặc khiến tôi cứ thắc mắc không thôi. Việc đầu tiên tôi thắc mà, tại sao với điều kiện sống và mức lương thế này mà các cô quản lý khác lại bỏ đi sau một thời gian ngắn? Tại sao nông trang rộng mênh mông thế kia mà tôi không thấy được mấy người? Ở đây, ngoài bà Hai, chị giúp việc và hai người làm vườn ra, tôi chưa từng gặp một người nào khác. Những báo cáo tháng cũng do bà Hai đưa lại cho tôi.
- Bà cần cháu làm việc gì ạ?
Tôi hỏi lại.
Bà Hai không cwofi nữa, mà gương mặt trở nên khắc khổ hơn, đầy vẻ cam chịu. Bà nhìn tôi rồi nói:
- Bà không nói giấu gì cháu, bà có đứa cháu trai bị bệnh đã mấy năm, chạy thầy chạy thuốc biết mấy cũng không khỏi được…
- Anh ấy bị bệnh gì vậy bà?
Tôi tò mò hỏi.
Bà Hai thở dài thườn thượt:
- Trong một lần đi chơi cùng cha mẹ nó, chiếc xe không may rơi xuống vực sâu, cả ba mẹ nó đều bỏ mạng, chỉ riêng một mình nó còn sống sót. Từ đó nó trở thành kẻ mất hồn…
- Bà có đưa anh ấy đi chữa bệnh tâm lý không?
Tôi hỏi.
Bà Hai cười nghẹn ngào:
- Có, bà đưa nó đi khắp nơi, kể cả ở nước ngoài. Nhưng ở đâu người ta cũng lắc đầu trước bệnh tình lạ lùng của nó. Bà chỉ có một đứa con trai duy nhất, và nó là đứa cháu nội duy nhất của bà. Cả dòng họ nhà bà không còn ai nối dõi…
Tôi cảm thấy xúc động trước hoàn cảnh của bà Hai.
- Nếu cháu giúp gì được cho bà, cháu sẽ sẵn sàng bà ạ!
Bà Hai lau nước mắt nhìn tôi âu yếm:
- Bà nghĩ một cô gái hiền lương như cháu nhất định sẽ làm được!
- Vậy cháu phải làm gì?
Tôi thắc mắc.
- Cũng không có gì nặng nhọc cháu ạ! Mỗi ngày cháu vào phòng nó, ngồi đó chuyện trò với nó, đọc sách cho nó nghe. Chỉ vậy thôi, nhưng…
- Nhưng sao ạ?
Tôi nôn nóng hỏi
Bà Hai ngập ngừng một lúc mới nói:
- Nhưng cháu đừng bao giờ bước qua cánh cửa ngăn trong phòng nó, nó không đồng ý để bất kỳ ai bước vào chỗ nó nằm!
- Tại sao lại như vậy hả bà?
Tôi vô cùng thắc mắc.
- Tại vì… trong tai nạn đó, thân thể nó không còn được nguyên vẹn như xưa nên nó mặc cảm cháu à. Cháu cố gắng nhé, bà sẽ tăng lương cho cháu gấp đôi.
Tôi giật mình, xua tay lia lịa:
- Dạ không cần đâu bà ạ! Cháu thấy lương hiện nay bà trả cho cháu đã cao lắm rồi, mà cháu thì không làm được bao nhiêu việc, bây giờ chỉ thêm việc chuyện trò với anh ấy mà bà tăng gấp đôi lương thì cháu thật tình không dám nhận.
- Thôi cũng được, nếu cháu đã nói vậy thì để từ từ rồi bà sẽ tìm cách khác để trả công cho cháu. Cháu phải nhớ kỹ câu bà dặn nghen, đừng bao giờ bước chân qua khỏi cửa ngăn trong phòng nó!
Bà Hai căn dặn tôi thêm lần nữa.
Tự nhiên trí tò mò trong tôi thúc giục. Tôi hỏi:
- Khi nào cháu mới bắt đầu trò chuỵên với anh ấy được?
- Bất cứ lúc nào cháu muốn!
Bà Hai mừng rỡ nói với tôi.
Tôi gật đầu:
- Cháu muốn nói chuỵên với anh ấy ngay hôm nay.
- Vậy thì còn gì tốt hơn! Thảo ơi, Thảo!
Bà Hai mừng quýnh, cất tiếng gọi chị giúp việc.
Chị Thảo từ dưới bếp chạy lên. Bà Hai vừa lau nước mắt vừa nói:
- Con dẫn cô Hương tới phòng cậu Thắng đi con, nhớ giới thiệu cho cậu biết rõ nghe!
- Dạ!
Chị Thảo nhìn tôi thật lạ rồi nói:
- Cô đi theo tôi!
Tôi cúi đầu chào bà Hai rồi đi theo sau chị Thảo. Chị dẫn tôi đi lên tầng ba của ngôi nhà đồ sộ phía sau. Tầng lầu này chưa một lần tôi đặt chân tới.
Tôi không hiểu sao nhà rộng mênh mông như thế, trong nhà lại không có nhiều kẻ ăn người ở mà chỗ nào cũng sạch bong như được lau chùi, chăm sóc thường xuyên lắm.
Tất cả các căn phòng trên tầng ba đều đóng cửa im lìm, hình như không có người nào ở đây. Chị Thảo dẫn tôi đến căn phòng ở cuối hành lang rồi dừng lại, nói nhỏ:
- Đây là phòng của cậu chủ!
Nói xong, chị Thảo đưa tay gõ nhẹ mấy cái lên cửa.
- Ai đó?
Một giọng nói trầm trầm cất lên.
- Dạ, tôi đây, Thảo đây!
Chị Thảûo đáp nhỏ.
- Có chuyện gì không chị?
Giọng nói lại cất lên.
- Bà bảo tôi đưa cô Hương lên đây giới thiệu cùng cậu. Cô Hương là người quản lý mới của nhà mình.
Chị Thảo vừa nói vừa nhìn tôi.
Trong phòng im lặng một hồi lâu. Lát sau giọng trầm trầm ấy nói:
- Chị mời cô Hương vào giúp tôi đi!
- Dạ!
Chị Thảo đáp rồi đẩy nhẹ cánh cửa, nhường lối cho tôi vào trước.
Căn phòng này cũng rộng rãi, đầy đủ tiện nghi giống như các căn phòng tôi đã được xem qua, chỉ khác một điều, giữa phòng khách và bên trong được ngăn bằng một cánh cửa nhôm nhưng hình như không có khóa.
Đây đúng là cánh cửa mà bà Hai đã dặn đi dặn lại nhiều lần, rằng tôi không được phép bước qua.
- Chào anh Thắng!
Tôi mở lời trước.
- Chào cô Hương! Xin cô tha lỗi, tôi… tôi không thể ra đó tiếp chuyện với cô được. Mong cô thông cảm cho tôi.
Thắng đáp, lời lẽ rất ôn hòa, lịch sự.
Chị Thảo khẽ đưa mắt ra hiệu cho tôi ngồi xuống rồi chị khép cửa lại đi trở xuống dưới nhà.
Tôi đứng một mình, lắng nghe tiếng chân chị Thảo xa dần, lúng túng không biết nói chuyện gì với Thắng nữa.
- Tôi tên Thắng, ba mươi tám tuổi. Còn cô Hương?
Đột nhiên Thắng hỏi.
Tôi vội đáp:
- Dạ, em tên Hương, mới hai mươi sáu. Vậy là em nhỏ hơn anh Thắng mười hai tuổi.
Thắng cười nhẹ:
- Hương ngồi ghế đi!
Tôi giật mình, sao Thắng biết tôi còn đứng nhỉ? Chắc là anh ấy đoán mò thôi. Tôi kéo chiếc ghế bên cạnh, ngồi xuống và nói:
- Anh Thắng ăn cơm trưa chưa vậy? Nếu chưa thì em đi dọn cho.
Thắng cười:
- Cảm ơn Hương, lúc nãy chị Thảo đã cho anh ăn rồi. Hương đến đây làm đúng tháng rồi phải không?
Tôi giật mình:
- Ủa, sao anh biết?
- Thì… anh ở đây nhưng vẫn nắm được tình hình cả nhà mà!
Thắng nói, giọng có vẻ vui vui.
- Bà nội anh đối xử với Hương có tốt không? Hương đã quen với cuộc sống buồn tẻ ở nơi này chưa?
Giọng Thắng ân cần, cởi mở.
Tôi cười:
- Dạ, anh yên tâm đi, bà Hai đối với em rất tốt. Còn ở đây thì quả là tuyệt vời lắm rồi, em đâu có mong ước nào hơn nữa.
- Hương nói vậy chứ anh thấy mấy cô gái trẻ bây giờ ai cũng thích chốn phồn hoa đô hội, chỗ khỉ ho cò gái như vầy, có ai bám trụ được lâu đâu. Rồi nay mai Hương cũng sẽ đi thôi…
Giọng Thắng có vẻ buồn buồn.
Tự nhiên trong lòng tôi dậy lên một nỗi xót xa đối với người con trai tật nguyền đang nằm giấu mặt trong kia.
- Có lẽ anh không tin, nhưng rồi dần dần anh sẽ thấy. Em không hề có ý định rời khỏi nơi này đâu anh Thắng ạ! Thành phố là nơi đáng sợ đối với em…
- Có lẽ Hương đang trốn chạy một điều gì đó?
Thắng hỏi.
Tôi cười:
- Anh đoán tài thế? Đúng là Hương đang chạy trốn… trốn nợ anh à!
- Nợ tình, đúng không Hương?
Thắng lại đoán đúng, nhưng tôi không trả lời mà chỉ bật cười:
- Ôi, em không ngờ anh Thắng lại có tài bói toán nữa! Hôm nào anh xem giúp Hương một quẻ trọn đời nhé?
Thắng cười thật nhẹ:
- Không riêng gì anh, ai cũng được thôi mà!
Tôi và Thắng nói chuỵên có vẻ rất hợp nhau. Mới trao đổi lần đầu tiên mà đã có vẻ gần gũi, thân tình ghê lắm.
Từ hôm đó, mỗi ngày tôi đều ở phòng của Thắng gần hết khoảng thời gian làm việc của mình, nhưng tôi chưa bao giờ coi đó là một công việc. Trong đầu tôi chỉ nghĩ tới một chàng trai tuổi đời còn phơi phới mà phải nằm một chỗ, tinh thần bất an, hoang mang trước cuộc sống đang rất cần có người bầu bạn sẻ chia. Còn tôi, một người con gái cô đơn cũng đang rất cần có người tâm sự. Tôi sẽ đem niềm vui lại cho Thắng và ngược lại, Thắng cũng sẽ giúp tôi quên đi hình bóng anh luôn ám ảnh tôi suốt ngày đêm không chịu rời.
Tình cảm của tôi và Thắng ngày càng gắn bó. Bà Hai có vẻ rất vui vì điều đó.
Khi đưa cho tôi tháng lương thứ hai, bà rưng rưng nói:
- Hãy cố gắng giúp bà nghen cháu, cháu đừng rời bỏ bà, đừng rời xa thằng Thắng!
Tôi ngạc nhiên:
- Sao bà lại nói vậy? Cháu đâu có ý định đi đâu?
Bà Hai khẽ đưa tay lau nước mắt:
- Bởi vì trước cháu, các cô quản lý khác đều không ở lại để nhận tháng lương thứ ba!
Tôi há hốc miệng ngó bà Hai:
- Tất cả? Bà muốn nói là…
Bà Hai cười buồn:
- Trước cháu, bà đã tuyển cả thảy năm người. Cô nào lúc mới đến đây cũng tỏ ra thích thú, sung sướng lắm, nhưng chỉ sau hai tháng làm việc các cô ấy đều bỏ đi…
- Sao thế nhỉ? Cháu thấy công việc ở đây có là gì?
Bà Hai gật gù:
- Đúng rồi! Bà không yêu cầu các cháu làm việc cực nhọc. Bà chỉ yêu cầu các cháu một điều duy nhất: Đừng bao giờ bước qua cánh cửa ngăn trong phòng thằng Thắng.
Tôi giật mình thầm hỏi, cánh cửa đó quan trọng đến như vậy sao? Cái gì phía sau cánh cửa? Thì là anh Thắng chứ gì? Cho dù ảnh có tật nguyền, dị dạng đến đâu cũng đâu thể làm năm cô quản lý trước phải bỏ việc ở nơi tốt đẹp thế này?
Chẳng lẽ khi các cô ấy cãi lời và bước qua cánh cửa thì Thắng nổi giận và đuổi họ đi sao? Mà không, Thắng hiền dịu, tình cảm thế thì không đời Thắng đuổi việc người ta chỉ vì một cái lỗi hết sức nhỏ nhặt như vậy. Với lại chính bà Hai nói là các cô ấy đòi nghỉ, không chịu ở lại dù bà hết lời năn nỉ kia mà?
Càng ngay, tôi thấy bà Hai càng tỏ ra chìu chuộng tôi hơn nữa. Nhưng tôi không vì vậy mà đòi hỏi nọ kia. Tôi vẫn hoàn thành thật tốt những công việc bà giao, vẫn đều đặn đến chuyện trò cùng Thắng.
Thắng là người cởi mở, dễ gần chứ không phải là kẻ tâm thần khó chịu như lúc đầu tôi mới hình dung. Tôi nhận thấy Thắng không có bất cứ dấu hiệi nào của bệnh tâm thần cả. Nhưng có lẽ do quá mặc cảm nên Thắng không dám đối mặt với người khác mà thôi.
Tôi dự định, một thời gian nữa, khi tfinh bạn giữa tôi và Thắng khắn khít hơn nữa, tôi sẽ dần dần khuyên Thắng nên giở bỏ cánh cửa kia đi, để hòa nhập trở lại với cộng đồng.
Tôi và Thắng đã kể cho nhau nghe thật nhiều chuyện. Những kỷ niệm tuổi thơ của Thắng, và cả mối tình đầu vụng dại Thắng cũng kể cho tôi nghe. Về phần mình, tôi cũng không giấu Thắng bất cứ điều gì. Giờ đây, Thắng là người bạn thân duy nhất của tôi trên cõi đời này. Tôi kể Thắng nghe về mối tình thơ mộng của tôi, về những ước mơ hạnh phúc mà tôi đã từng ấp ủ, về nỗi bàng hoàng đau đớn khi tôi biết tin anh đi cưới vợ… Tôi kể Thắng nghe và không ngăn được dòng nước mắt.
- Nỗi đau này em cứ tưởng sống để bụng, chế mang theo, nhưng không biết sao bây giờ em lại kể cho anh nghe…
Tôi vừa khóc vừa nói.
Giọng Thắng thật ấm áp vang bên tai tôi:
- Hương ơi, anh rất thương em! Anh rất hiểu nỗi khổ tâm mà em đang mang nặng trong lòng. Nhưng em đừng buồn quá, em hãy vứt bỏ hình bóng người đàn ông không xứng đáng đó ra khỏi tâm trí em đi. Em còn trẻ, tương lai em còn dài trước mặt, chắc chắn rồi mai này em sẽ gặp một người yêu thương em chân thành, biết quý trọng những tình cảm của em… Em đừng buồn nữa nghe Hương?
Nghe những lời an ủi của Thắng, đáng lẽ tôi được xoa dịu, nhưng không hiểu sao trong tôi lại nổi dậy một thứ tình cảm nào đó rất khó xác định được. Tôi phản đối Thắng:
- Anh nói thì nghe dễ lắm Thắng à, nhưng đâu phải nói muốn quên là quên được, muốn vứt bỏ là vứt bỏ được đâu? Anh là đàn ông con trai mà anh còn không dám đối diện với sự thật, em chỉ là một đứa con gái nhỏ nhoi, làm sao em có đủ sức…
Thắng bất ngờ trước những lời tôi nói. Anh ấp úng:
- Hương… em nói vậy có nghĩa là…
Tôi thổn thức không nói gì thêm nữa.
Thắng im lặng thật lâu rồi mới nói tiếp:
- Hương ơi, anh hiểu những gì em muốn nói. Nhưng… có rất nhiều điều không thể giải thích cho em rõ hết đâu Hương…
Tự nhiên lúc đó tôi thấy cần phải nói ra hết những gì tôi nghĩ trong đầu:
- Anh Thắng à, em thấy anh còn yếu đuối hơn cả em…
Thắng đột ngột cắt ngang lời tôi:
- Em lầm rồi, anh không yếu đuối như em tưởng đâu!
- Thế tại sao anh không dám đối diện sự thật? Tại sao anh luôn giấu mình sau cánh cửa kia? Anh trốn ở đó đến suốt đời được sao, anh Thắng?
Tôi bướng bỉnh.
Thắng chừng như đang lặng đi vì xúc động. Lát sau anh nói, giọng nhỏ nhẹ, ôn tồn:
- Em có muốn biết tại vì sao anh phải làm như vậy không?
- Có, em rất muốn biết.
Tôi trả lời dứt khoát.
Tôi nghe tiếng Thắng thở dài:
- Thật tình anh không muốn mất em! Từ lâu nay đã có bao người khi rõ cái bí mật này đã phải rời xa nơi đây nhưng anh không buồn. Nhưng nếu em cũng vậy, em cũng rời xa anh chắc anh sẽ buồn nhiều lắm, Hương à!
Tôi xao lòng trước những lời chân thành của Thắng, nhưng sự tò mò càng thôi thúc tôi dữ dội hơn.
- Nếu anh và bà Hai không đuổi việc em, chắc chắn em sẽ không bỏ nơi này mà đi đâu!
Tôi mạnh bạo trả lời.
Thắng hỏi gặng lại:
- Em sẽ không đi, dù sự thật mà em biết có như thế nào đi nữa?
- Dạ, dù thế nào em cũng không đi!
Tôi xác định.
Thắng im lặng. Thời gian trôi qua thật chậm, tôi thấp thỏm muốn mở lời hỏi Thắng, nhưng tôi chưa kịp hỏi thì Thắng đã lên tiếng:
- Thôi được rồi, em đọc cho anh nghe hết đoạn cuối của cuốn tiểu thuyết “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” đi!
Tôi thất vọng:
- Anh Thắng… Thế còn…
- Em đừng nôn nóng. Cứ đọc cho anh nghe đi, anh không muốn nghe dang dở câu chuyện đó, mà anh cũng không muốn đoạn kết lại do người khác đọc cho anh nghe…
Thắng nói, giọng thật buồn.
Tôi định cãi lại, nhưng rồi tôi cố dằn lòng mình lại, ngồi xuống ghế cầm quyển sách lên đọc tiếp cho anh nghe đoạn cuối:
- “… Vười hoa đẹp và sống động vô cùng. Nhìn những chồi nụ và những mầm xanh nẩy nở rồi héo tàn; rồi những ước mơ mới lại đến, tiếp tục môt chu kỳ không thay đổi, mãi mãi không hề dừng lại ở nơi kết thúc.
Thế là Drogheda không còn nữa. Vâng, đã đến lúc, thật đúng lúc. Chu kỳ cứ tiếp tục với những người xa lạ. Hình phạt tôi xin chịu một mình, tôi không thể phiền trách ai. Và tôi chẳng luyến tiếc gì….”
Tôi gấp sách lại đã lâu mà không nghe Thắng bình phẩm gì như những lần trước, tôi tự hỏi có khi nào ở sau cánh cửa đó Thắng đã ngủ quên? Tôi muốn lên tiếng đánh thức Thắng nhưng rồi lại thôi.
Tôi vẩn vơ đến bên cửa sổ nhìn xuống sân vườn. Chỗ này tôi đã có đi quan nhưng không quan tâm lắm. Bây giờ đứng trên cao nhìn xuống tôi mới phát hiện ra năm gò nhỏ cao cao trông như năm ngôi mộ nằm liền kề nhau dưới tàn cây cây ngọc lan xum xuê tàn lá.
Đó là mộ của ai? Những người thân trong gia đình Thắng hay là những người làm công? Tôi còn đang thắc mắc thì nghe tiếng Thắng hỏi:
- Em đã nhìn thấy rồi phải không Hương?
Tôi giật mình:
- Anh Thắng muốn hỏi em thấy gì?
- Mộ của năm cô quản lý trước em!
Thắng nói rõ ràng từng tiếng.
Tôi có cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Gai ốc tôi dựng đứng lên và theo phản xạ tự nhiên tôi lùi ra cửa phòng.
- Em đừng sợ, không ai làm hại gì em đâu!
Giọng Thắng vẫn nhẹ nhàng, thân thiết.
Tôi lắp bắp:
- Tại sao… tại sao cả năm người quản lý đều chết ở đây?
- Tại vì… họ cũng giống như em, họ cũng muốn biết sự thật về anh!
Thắng vẫn nhỏ nhẹ.
Tự nhiên trong tôi lúc đó trào lên một sự phẫn uất đến cùng cực. Tôi hét lên:
- Dù có họ có thế nào đi nữa, anh cũng không có quyền giết họ! Anh thật là tàn nhẫn, tôi đã lầm anh rồi!
Vừa hét, tôi vừa mở cửa phòng định bụng sẽ về ôm hành lý rời xa chỗ kinh tởm này mãi mãi, nhưng không hiểu sau cánh cửa vẫn đóng chặt tôi không tài nào mở ra được.
- Em nghĩ oan cho anh rồi đó Hương ạ, anh không hề giết họ. Cái chết của họ khiến anh và gia đình rất đau đớn…
Tôi hơi sững người khi nghe Thắng nói câu đó.
- Anh không giết họ? Vậy tại sao họ chết? Cả năm người…
- Chính sự tò mò đã giết chết họ đó em!
Thắng buồn bã nói.
Tôi ngồi phịch xuống ghế, giơ hai tay lên ôm lấy đầu rên rỉ:
- Em điên lên mất thôi, anh làm ơn giải thích cho em rõ được không?
- Vì tò mò, họ đã tự động mở cửa để nhìn thấy anh… và họ chết vì quá sợ hãi…
Thắng buồn rầu nói.
Tôi lại ngẩn ngơ:
- Sao lại như thế được? Dù anh có tàn phế kinh khủng đến đâu cũng không thể làm người ta vỡ tim mà chết một cách dễ dàng như vậy được đâu, anh đừng có lừa gạt em…
Giọng Thắng thật buồn:
- Anh chưa bao giờ lừa gạt em và cũng không có ý định làm vậy. Em là cô gái mà anh quý nhất trong đời. Anh phải cám ơn em vì em đã đè nén được tính tò mò của mình… chứ nếu không, có lẽ em cũng cùng chung số phận với họ rồi…
Tôi bất giác rùng mình:
- Anh nói vậy có nghĩa là…
- Năm người trước không hề nói với anh về sự tò mò của họ, nên không được anh chuẩn bị sẵn tâm lý. Họ tự mở cửa đi vào và… kết quả như em thấy đó!
Tôi đứng phắt dậy:
- Vậy thì ngay bây giờ em sẽ bước vào trong đó xem anh là thứ quỷ quái gì mà có thể khiến người ta phải bỏ mạng như vậy!
- Khoan, em chờ anh một chút!
Thắng hốt hoảng nói.
Tôi khựng lại:
- Chờ anh? Để làm gì? Để anh mài sẵn gươm dao à?
Tôi phá lên cười giễu cợt.
Thắng không tỏ vẻ bất bình mà lại nói với tôi bằng cái giọng chân thành và tha thiết nhất:
- Trước khi em vào đây, anh muốn nói với em một điều: Anh rất yêu em, Hương ạ, dù rằng anh chỉ là… chỉ là… một hồn ma!
Tôi bủn rủn cả chân tay, không biết tôi bủn rủn vì nghe lời tỏ tình của Thắng hay vì nghe Thắng nói anh chỉ là một hồn ma?
Tôi không còn đứng vững nữa, hai tay tôi bấu vào cạnh bàn, run giọng hỏi:
- Anh… anh nói sao? Anh là gì?
- Anh là một hồn ma! Anh đã chết cách đây hơn một năm rồi Hương ạ!
Giọng Thắng thật thê thảm. Lúc này tôi biết chắc Thắng không đùa giỡn với tôi.
- Giờ thì em biết rồi, em có còn múôn vào đây nữa không?
Thắng hỏi.
Tôi gắng gượng lấy lại bình tĩnh:
- Vẫn muốn! Em sẽ vào ngay bây giờ!
Thắng không nói gì nữa, một sự im lặng nặng nề bao trùm lấy căn phòng. Tôi hít vào một hơi thật sâu rồi từ từ buông hai tay ra khỏi cạnh bạn, tập trung tinh thần và đi từ từ lại cánh cửa ngăn trước mặt.
Lúc bàn tay tôi đặt lên canh cửa, tôi nghe tiếng Thắng nghẹn ngào:
- Hương, anh yêu em…
Câu nói của Thắng như tiếp thêm sức mạnh cho tôi, tôi đẩy mạnh cánh cửa và bàng hoàng nhận ra trước mắt tôi là một chiếc quan tài màu đỏ, có nắp bằng kính. Tôi mạnh dạn tiến vào nhìn kỹ, người nằm trong quan tài có dáng dấp của một thanh niên cao to mạnh khỏe nhưng toàn bộ gương mặt đã nát bấy, tay chân có lẽ cũng đã gãy làm nhiều khúc.
Lúc ấy tôi hoàn toàn không sợ, tôi chỉ đau lòng, đau đến thắt ruột thắt gan khi chứng kiến nỗi đau mà Thắng phải hứng chịu. Nước mắt tôi trào ra, tôi đảo mắt ngó quanh, căn phòng này trống trơn, ngoài chiếc quan tài đặt ở giữa, chỉ có chiếc bàn thờ kê sát tường, trên bàn thờ là khung ảnh một thanh niên đẹp trai đang cười rạng rỡ.
Tôi đi dần lại bàn thờ, run run cầm tấm ảnh của Thắng xuống rồi bất giác tôi ghì chặt vào lòng. Bên tai tôi vẫn còn âm vang lời nói lúc nãy của Thắng:
- Hương, anh yêu em…
Tôi ôm tấm ảnh và đến bên quan tài quỳ xuống, khóc nấc lên.
Tôi có cảm giác như có một bàn tay ai đó vuốt nhẹ tóc mình, tôi quay lại thì không có ai bên cạnh.
- Thắng ơi, có phải là anh không? Anh đâu rồi? Em muốn nói chuyện với anh!
- Anh đây, anh vẫn luôn ở cạnh bên em…
Tiếng nói của Thắng thật gần, nhưng tôi không thể nào xác định được anh đang ở trước mặt hay sau lưng tôi, đang ở bên trái hay bên phải.
- Kể cho em nghe tất cả đi Thắng, tại sao lại có chuyện này hở anh?
Tôi lại có cảm giác như Thắng đang ngồi cạnh bên tôi, nhưng khi quờ tay chỉ là một khoảng không trống trãi.
Giọng Thắng cất lên buồn bã:
- Cách đây hơn một năm, cả nhà anh đi chơi và gặp tai nạn. Chiếc xe ba anh lái đã đâm sầm xuống vực sâu. Cả ba mẹ và anh đều chết tại chỗ, chỉ riêng bà nội còn sống sót và không hề bị một chút thương tích nào. Nhưng bà nội lại không thể nào thoát ra được. Bà sống hai ngày trong xe với ba xác chết của những người thân yêu nhất đời, tinh thần bà hoảng loan đến cực độ. Đến ngày thứ ba, người đi đường phát hiện và cứu bà. Bà nội về nhà nhưng không thể chấp nhận được sự mất mát quá lớn lao như vậy. Bà đem chôn ba mẹ anh, nhưng với anh thì bà không nỡ. Tâm trí bà bỗng lóe lên một ý nghĩ, bà muốn nuôi dưỡng linh hồn anh, sau đó tìm cho anh một người vợ để bà có cháu nối dòng.
- Nhưng… anh đã chết rồi kia mà? Làm sao cưới vợ sinh con được mà có cháu nối dòng?
Tôi không kìm nỗi đã cắt lời Thắng.
Anh cười nhẹ và nói tiếp:
- Nội anh có quen với một thầy bùa cao tay ấn, ông ấy có thể điều khiển được quỷ ma. Bà đã nhờ ông làm phép thuật để giữ xác anh, giữ hồn anh lại. Nếu có một người con gái nào đó thật lòng thương yêu anh thì anh có thể sống lại một khoảng thời gian ngắn, rất ngắn…
- Rồi sau đó?
Tôi hỏi nhỏ
Anh buồn buồn:
- Rồi sau đó anh sẽ tan biến vào cõi hư vô, người con gái đó sau khi sinh nở cũng không thể tiếp tục sống được. Chính vì vậy anh đã chống lại cái ý định ích kỷ của nội anh, nhưng bà đã dùng phép thuật để khống chế anh, anh không thể làm gì khác hơn được nữa em à…
Anh lặng đi một lát rồi nói tiếp:
- Nhưng anh cũng an ủi được một điều là, chẳng có bất kỳ cô gái nào có thể thật lòng yêu thương anh khi chứng kiến sự thật thế này, đúng không em?
Tôi không trả lời Thắng. Tôi đang hỏi kỹ lại lòng mình rằng tôi có thật lòng yêu Thắng hay không?
Tôi nhìn vào bức ảnh người thanh niên đang cười rạng rỡ rồi nhìn cái xác bầm dập đang nằm kia, tự nhiên trong lòng tôi trào lên một tình thương yêu vô bờ bến.
Tôi không nói gì, tôi lẳng lặng đứng lên đặt trả bức ảnh về chỗ cũ, rồi thật chậm, tôi tiến đến bên chiếc quan tài, nhẹ nhàng đẩy nắp nó ra.
- Hương! Đừng… em đừng làm thế!
Thắng hốt hoảng.
Tôi mỉm cười không nói gì, chỉ cúi xuống đặt một nụ hôn cháy bỏng lên đôi môi của xác chết, nước mắt tôi không ngừng rơi xuống mặt anh.
Gương mặt nham nhở vết thương bỗng chốc thay đổi hẳn. Tôi sững sờ đứng ngó trân trân những chuyển biến khó tin đang diễn ra trên thi thể nằm trước mắt tôi.
- Anh… Anh Thắng!
Tôi run run gọi.
Xác chết, mà không, giờ phút này đó không còn là một xác chết đáng sợ nữa mà đã là Thắng, Thắng của tôi, một chàng thanh niên khỏe mạnh, bình thường. Thắng mở mắt ra nhìn tôi, cái nhìn vừa tràn ngập hạnh phúc vừa đầy nỗi xót xa. Đôi môi Thắng giờ đây cũng đã hồng hào, từ đôi môi ấy phát ra giọng nói mà tôi đã quá chừng quen thuộc:
- Em… Hương…
Tôi quỳ xuống đỡ Thắng ngồi dậy, áp mặt mình vào má anh:
- Anh đừng nói gì nữa hết, đừng nói gì nữa hết nghe anh! Chúng ta hãy tận hưởng cái khoảnh khắc ngắn ngủi mà anh có được…
Thắng ôm tôi vào lòng siết chặt.
Tôi nhắm mắt lại, cảm thấy lòng bình yên, chưa bao giờ tôi có được cảm giác bình yên như thế này, ngay cả những lúc trong vòng tay anh – người yêu đã làm tôi đau khổ!
 
***
- Hương ơi, con có giận nội không con? Con có trách nội không con?
Bà Hai, không, bà nội nắm lấy bàn tay tôi khóc ròng.
Tôi cố gắng nở nụ cười:
- Không, con phải cảm ơn nội. Nội đã cho con những ngày tháng thật hạnh phúc. Giờ đây con sắp phải đi xa, con cũng rất yên tâm gởi đứa con tội nghịêp của con lại cho nội…
Bà nội không nói gì được nữa, chỉ khóc nghẹn ngào. Đứa bé nằm bên cạnh tôi không biết tại sao lại mỉm cười, gương mặt bừng sáng như một thiên thần.
Tôi cầm lấy bàn tay bé bỏng của con, thầm nói:
- Thắng ơi, anh trông thấy con của chúng mình chưa? Anh hãy nhìn con đi anh, nhìn thật kỹ nghen anh, rồi vợ chồng mình gởi con lại cho bà chăm sóc, chúng mình cùng nhau ra đi…
Dù cố gắng gượng, nhưng nước mắt tôi vẫn trào ra không ngớt.
Bất chợt tôi trông thấy Thắng từ ngoài cửa đi vào, anh vẫn cười rạng rỡ.
Anh đến bên tôi, hôn nhẹ lên trán tôi rồi cúi xuống ôm choàng lấy đứa bé. Nhìn cảnh cha con anh âu yếm bên nhau, trong tôi dâng lên niềm hạnh phúc lẫn nỗi đau vì sắp phải chia lìa.
Hôn con thật lâu, lát sau anh quay sang cầm tay tôi nói khẽ:
- Tới giờ rồi, mình đi thôi em!
Thắng dắt tay tôi đi ra cửa, tôi không nỡ rời xa con nên cố ngoái lại nhìn. Trên chiếc giường quen thuộc xác tôi nằm đó thảnh thơi như đang ngủ. Bà nội gục đầu bên cạnh khóc không thành tiếng.
Đứa bé nằm huơ huơ hai bàn tay như muốn vẫy chào…
 
Hết.
Nguyễn Thị Mộng Thu
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:33:21 bởi nguyenthu >
#76
    nguyenthu 10.08.2009 22:12:04 (permalink)
    XÁC CHẾT TRONG LÒNG GIẾNG
     
    - Con có thôi đi không? Để cho mẹ nghỉ ngơi một chút chứ! Và con nữa, con cũng cần ngủ một giấc cho tỉnh người đi, lúc nãy con chẳng mệt lắm sao, vậy mà bây giờ... Mẹ thiệt hết biết!
    Tôi nói với lên gác, giọng không ngăn được bực dọc.
    Từ lúc ba giờ sáng, tôi đã phải dậy để chuẩn bị sẵn mọi thứ và hai mẹ con tôi đã lên đường ngay sau đó. Suốt một ngày trời ngồi trên chiếc xe tải nhỏ, cả mẹ lẫn con đều mệt lử lả do bị say xe.
    Vậy mà khi tới nơi, nào tôi có được lăn đùng ra nghỉ mệt đâu. Bao nhiêu thứ cần phải lôi hết vào nhà, dù chưa thể sắp xếp ngăn nắp được nhưng không thể bỏ chúng ngoài sân qua đêm, tôi sợ mình không đủ tiền để mua sắm lại thứ mới.
    Khi mọi việc đã tạm ổn, tôi chưa kịp tắm rửa, ngã lăn ra giường muốn nhắm mắt một chút cho nhẹ người, vậy mà thằng nhỏ ở trên gác lại làm trò gì mà cứ dẫm đùng đùng trên ấy.
    Thú thật, khi mới nghe nó làm ồn, tôi đã muốn lên mắng cho nó một trận, nhưng vì mệt quá, không còn hơi sức nào để trèo lên cái gác ọp ẹp đó, cũng không muốn la mắng gì nữa.
    Nhưng tôi không sao chợp mắt được vì cái âm thanh khó chịu ấy, chẳng hiểu thằng bé làm quái gì trên đó nữa?
    Tiếng la mắng của tôi cuối cùng cũng đã có tác dụng, thằng bé không còn làm ồn nữa, nhưng hình như vẫn không chịu nghỉ ngơi, cứ đi đi lại lại trên đó, tôi nghe tiếng chân nó rón rén đến tội nghiệp.
    - Thôi kệ, muốn làm gì thì làm, khi nào mệt mình khỏi cần nhắc nó cũng ngủ thôi mà!
    Tôi tự nhủ với mình như thế và không quan tâm đến thằng bé nữa. Hai mắt tôi díp lại, trong người vẫn chưa hết hẳn cái cảm giác nhộn nhạo khó chịu của người bị say xe.
    Tôi chỉ định chợp mắt một chút rồi sẽ dậy, ít nhất là để nấu cho hai mẹ con một bữa ăn tối. Ấy vậy mà khi tôi giật mình thức dậy thì đã thấy ánh nắng chói chang xuyên qua khung cửa sổ mà tối hôm qua tôi chưa kịp đóng lại.
    Trong nhà vắng hoe, không có một tiếng động nào.
    - Bin ơi, thức dậy chưa con?
    Tôi lên tiếng gọi nhưng không có tiếng thằng bé trả lời.
    Sau một giấc ngủ dài, lúc này tôi đã thật sự khỏe khoắn. Bước một lúc hai ba bậc thang để lên đến căn phòng nhỏ trên gác, căn phòng mà lần đầu tiên đến đây xem nhà, Bin đã nhanh nhảu xí phần:
    - Mai mốt khi nào về đây sống, mẹ cho Bin ở trên gác nhé? Bin thích căn phòng này lắm…
    Đó là một căn phòng nhỏ mà có lẽ chủ nhà trước kia không dùng đến ngoài việc chứa mấy thứ linh tinh, cho nên trông rất lộn xộn. Vậy mà Bin thích mới lạ chứ!
    Tôi nghĩ, chắc có lẽ nó thích, vì khi đứng trên đó, nhìn qua khung cửa sổ sẽ thấy được cánh rừng ở phía xa kia. Nhưng dù với lý do nào đi nữa thì cũng không sao, miễn nó thích chỗ ở mới là tôi có thể yên tâm rồi.
    Đáng lẽ hai mẹ con tôi không phải trôi dạt về một nơi hẻo lánh như thế này để sinh sống. Tôi đang có một công việc tốt với thu nhập tương đối khá ở tại Sài Gòn. Nhưng cũng vì tôi quá nhẹ dạ cả tin nên mới thành ra khốn đốn.
    Hiện tại, tôi nợ người ta một số tiền lớn mà không có khả năng chi trả, cũng may người đó cũng biết tôi chỉ là nạn nhân nên không truy tố tôi ra trước pháp luật mà đồng ý cho tôi viết giấy cam kết trong vòng ba năm sau sẽ thanh toán dứt điểm. Ngoài ra, người bạn đó còn giúp tôi kiếm được công việc ở đây, tuy xa xôi, nhưng đồng lương hậu hĩnh, việc chi tiêu ở đây lại không đắt đỏ như ở Sài Gòn, nhờ vậy tôi sẽ có điều kiện tích lũy để mà trả nợ.
    Ngay cả ngôi nhà mà mẹ con tôi vừa mới dọn đến cũng không phải mất tiền mua hay thuê mỗi tháng, vì đây là nhà một người quen của bạn tôi, cả gia đình đã sang định cư ở nước ngoài, ngôi nhà này bỏ trống từ nhiều năm nay, họ cũng muốn cho người ở để khỏi bỏ hoang.
    Ngôi nhà được xây dựng toàn bằng gỗ, cả sàn nhà cũng lát bằng gỗ. Nhà không lớn lắm nhưng cũng khá rộng rãi, lại có thêm một cái gác lửng nên mặc tình mà bày biện.
    Xung quanh nhà được bao bọc bằng một khoảnh đất rộng có trồng mấy cây xoài, cây mít, nhưng có lẽ do không được ai chăm sóc nên chẳng thấy hoa trái gì, thân cây thì còi cọc. Chỉ có đám cỏ hoang là xanh tốt mà thôi.
    Sáng nay đứng trên gác nhìn ra xung quanh, tôi mới cảm nhận được hết sự trong lành của khí hậu miền quê, và tự nhiên tôi thấy thật vui thích sau nhiều ngày tháng nặng nề u ám.
    Trong phòng, thằng Bin vẫn còn đang say ngủ. Chắc tối qua mãi chơi, cu cậu ngủ quên nên không chịu lên giường mà cứ nằm dài ngủ ngay trên sàn gác.
    Tôi mỉm cười ngồi xuống cạnh con trai, vuốt ve mái tóc hoe vàng của nó.
    - Mẹ… sáng rồi hả mẹ?
    Nó mở choàng mắt, trông thấy tôi và hỏi.
    Tôi gật đầu:
    - Ừ, trời sáng từ lâu rồi con à! Con đã khỏe chưa?
    Nó vươn vai và ngáp thật to rồi cười nói:
    - Con khỏe rồi, nhưng… đói bụng quá!
    Tôi bật cười, vừa đỡ thằng bé ngồi dậy vừa nói:
    - Tại mẹ hư quá! Tối qua mẹ mệt nên ngủ quên luôn, làm cả hai mẹ con mình đều bỏ bữa cơm chiều! Mà sao tối qua con không gọi mẹ dậy?
    Thằng bé đứng lên, nói:
    - Con hả? Vừa lên tới đây là con ngủ luôn rồi, có thức đâu mà kêu mẹ? Còn mẹ, mẹ thức tới mấy giờ?
    Tôi ngạc nhiên:
    - Tối qua mẹ nghe tiếng con chơi đùa, dọn dẹp gì trên này lâu lắm mà? Lúc mẹ mắng con xong là mẹ ngủ luôn đó!
    - Ủa, mẹ mắng con khi nào?
    Thằng bé quay lại nhìn tôi, thắc mắc.
    Tôi cười xòa:
    - Thôi đi chú ơi, chú ngủ cho mê vào, chẳng nhớ gì cả!
    Thằng bé nhíu mày như không hiểu, nhưng rồi hai mẹ con tôi dắt nhau xuống đất vệ sinh và nấu nướng, không nhắc tới chuyện đó nữa.
    Bữa sáng tuy đơn giản, chỉ với mấy thứ thức ăn mang theo từ hôm qua nhưng cả hai mẹ con đều ăn rất ngon lành, vì ai cũng đã đói cồn cào gan ruột.
    Cơm nước xong, chúng tôi bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa. Tuy mới có chín tuổi, nhưng thằng Bin cũng khá khỏe để làm một cánh tay đắt lực trợ giúp tôi được rất nhiều việc.
    - Xong giai đoạn một!
    Tôi mỉm cười nói với con trai.
    Lúc này tầng dưới đã ngăn nắp lắm rồi, từ phòng khách tới phòng ngủ của tôi, nhà bếp và cả nhà vệ sinh đều được hai mẹ con tôi cọ rửa đến bóng loáng. Đồ đạc trong nhà không thiếu, vì hầu như chủ nhà để lại toàn bộ vật dụng, không đem theo gì cả.
    Thằng bé nằm lăn dưới sàn nhà vẻ thích thú:
    - Nghỉ một tí rồi mình dọn tới trên gác hả mẹ?
    Tôi cũng nằm xuống cạnh con trai:
    - Ừ, nhưng nếu con mệt thì cứ nằm chơi, để mẹ dọn, trên gác dọn nhanh thôi mà!
    Nó xoay người qua ôm lấy tôi:
    - Con thương mẹ quá, con không để mẹ vất vả một mình đâu!
    Mắt tôi cay xè như sắp khóc khi nghe mấy lời con trai nói. Tội nghiệp, từ nhỏ nó đã phải chứng kiến mẹ một mình vất vả ngược xuôi, nó đã biết đỡ đần cho tôi từ khi còn rất bé.
    Chồng tôi mất từ khi thằng Bin chỉ mới là cái bào thai vừa mới tượng hình trong bụng, anh mất mà chưa biết mình sắp sửa được làm cha, vì ngay cả tôi lúc đó cũng chưa biết mình mang thai.
    Chồng tôi là con trai duy nhất của một gia đình giàu có ở một tỉnh lỵ ven Sài Gòn. Ba mẹ anh có đến bốn người con, nhưng hết ba người là gái. Đáng lẽ khi ba mẹ anh chết đi, mẹ con tôi cũng sẽ được hưởng phần thừa kế không ít của cải, nhưng chắc tại cái số tôi không may, thành ra mang tiếng con dâu nhà giàu mà khi ra đi chỉ có hai bàn tay trắng.
    Hơn một tháng sau ngày chồng tôi ra đi đột ngột do tai nạn giao thông tôi mới biết mình mang thai. Nhưng lúc đó vì quá đau buồn, chán nản, tôi cũng không biết mình có sống nổi mà sinh con không nên không nói cho ai biết. Sau đó một thời gian, khi đã tạm ổn định thần và quyết sẽ sinh nở và nuôi dạy con anh thật đàng hoàng, tôi mới nói cho mọi người biết. Lúc nghe tôi thông báo thì các bà chị chồng tôi lại xa gần, cạnh khóe:
    - Ba mẹ cần phải kiểm tra cho kỹ lại đó nghen! Coi chừng người ta thấy gia đình mình giàu có, nên đem con của ai về nói là con của thằng Út nhà mình cũng không chừng… Đời bây giờ nhiều trò lường gạt lắm… Thằng Út chưa bao giờ nói gì tới chuyện vợ nó có thai, mà hồi nó mới mất cũng có nghe người ta nói gì đâu, tự nhiên bây giờ nhà này lại sắp có cháu nội! Thật là lạ!
    Ông cha chồng tôi cũng nghe theo nên căn dặn:
    - Ba không có ý nghi ngờ gì con, nhưng để tránh mọi điều dị nghị, khi nào con sinh cháu ra, xét nghiệm ADN đàng hoàng rồi thì ba mới tính tới chuyện chia tài sản được. Mong con hiểu cho ba, ba làm vậy cũng là vì thằng Út nhà này, mà cũng là vì con nữa đó…

    Tôi chỉ mỉm cười cay đắng chẳng nói gì.
    Tôi được thuyên chuyển về tổng công ty ở Sài Gòn, nhân dịp đó tôi rời xa cái tỉnh lỵ đầy ắp kỷ niệm của chồng tôi, của những ngày tháng chúng yêu thương nhau, và cả của những tháng ngày chồng vợ, rời xa luôn gia đinh chồng, mà từ ngày anh mất đi, đối với tôi nó chỉ còn là cái địa ngục giữa trần gian khổ ải.
    Tôi đi, mấy bà chị chồng thở phào nhẹ nhõm như đã trút được gánh nặng, đã nhổ được cái gai trong mắt. Còn ba mẹ chồng tôi cũng không can ngăn, không khuyến khích, chỉ dặn dò một câu duy nhât:
    - Khi nào sanh cháu ra, cho nó xét nghiệm ADN rồi mang kết quả về, con nhé! Ba mẹ không thể nhận giọt máu bên ngoài, nhưng cũng sẽ bỏ bê giọt máu của mình, con cứ yên tâm đừng nghĩ ngợi gì…
    “Đừng nghĩ ngợi gì!...” Câu nói nghe sao mà nhẹ nhàng đến vậy! Tôi có thể yên tâm sao? Có thể không nghĩ ngợi gì sao? Thật là buồn cười…
    Tôi với gia đình nhà chồng cắt đứt mối dây liên lạc một cách rất chóng vánh và nhẹ nhàng như thế đó!
    Ngày tôi sinh thằng cu Bin, bên cạnh tôi chỉ có mấy người bạn đồng nghiệp chứ không có thân nhân nào cả. Ba mẹ tôi mất lâu rồi, gia đình không còn ai ngoài những người bà con xa lắc, mà bây giờ nếu tình cờ gặp lại chúng tôi chưa chắc gì đã nhận ra nhau. Gia đinh chồng thì đâu có ai quan tâm tới tôi, tôi cũng chẳng báo tin lúc mình sinh nở. tôi cũng không đưa Bin đi xét nghiệm theo yêu cầu của gia đình bên nội nó. Tôi không cần tài sản, tôi không cần phải xét nghiệm làm gì, vì tôi biết nó là con của ai mà.
    Hai mẹ con tôi bơ vơ từ đó.
    Chín năm dài, tôi đã phải chống chọi với thật nhiều thử thách, và lần thử thách vừa rồi quả là trận đòn đau đớn.
    Tôi đã bị lừa bởi chính người bạn gái thân thiết nhất, đã cùng tôi chia ngọt xẻ bùi biết bao năm… Thôi, cũng đành, coi như đó là tôi trả công ơn cho nó, những năm tháng cu Bin còn nhỏ, nó đã cùng tôi săn sóc, thương yêu thằng bé hết lòng…
    Nằm bên cạnh con trai ở một nơi hoàn toàn xa lạ này, tôi thầm nhủ:
    - Mình sẽ làm lại từ đầu… Sẽ bắt đầu làm lại từ hai bàn tay trắng… Ngày xưa mẹ mình đã từng dạy, còn người là còn của đó thôi. Mình phải kiên trì, phải cố gắng, vì đứa con thân yêu này, mình sẽ vươn lên không ngừng nghỉ…
    Và bỗng dưng tôi nổi hứng, ngâm nga lại mấy câu thơ, điều mà lâu lắm rồi, từ ngày  chồng tôi mất đi, chưa bao giờ tôi thực hiện:
    “Em sẽ học cách sống từ sợi cỏ
    Kiên nhẫn vươn lên và xanh đến kiệt cùng…”
    Thằng bé có vẻ rất ngạc nhiên, cứ len lén ngước nhìn tôi với vẻ thích thú lắm. Lát sau nó dụi đầu vào ngực tôi và nói:
    - Mỗi ngày mẹ ngâm thơ cho con ngủ, giống như hôm nay, nhe mẹ?
    Tôi ôm chặt con trai vào lòng, trêu ghẹo:
    - Lớn già đầu rồi mà còn muốn được mẹ ru ngủ nữa sao con? Được rồi, mẹ hứa, hôm nào không quá bận bịu, mẹ sẽ hát hoặc ngâm thơ cho con trai mẹ ngủ nhé?
    Thằng bé cười tươi:
    - Nhưng con thích nghe mẹ ngâm thơ hơn…
    Tôi cốc nhẹ vào đầu nó:
    - Dám chê mẹ hát dở hén?
    Hai mẹ con cười vang. Tôi vừa xoa nhẹ lên lưng con trai, vừa khe khẽ ngâm hết bài thơ này đến bài thơ khác. Tôi cũng không ngờ sau một khoảng thời gian dài như vậy, chưa khi nào nhẩm lại, thế mà tôi vẫn còn thuộc được rất nhiều bài…
    Gió thổi hiu hiu làm hai mẹ con tôi thiếp đi lúc nào không biết.
    - Mẹ ơi, dậy đi mẹ! Có cái gì trên gác kìa, mẹ với con lên xem đi!
    Thằng Bin lay lay người khe khẽ gọi tôi.
    Tôi nhướng mắt lên nhìn nó:
    - Gì vậy con?
    - Con nghe hình như có ai ở trên gác…
    Thằng bé tỏ vẻ sợ sệt.
    Tôi xoa đầu con mỉm cười:
    - Con trai gì mà nhút nhát dữ vậy trời? Mẹ với con nằm đây, nhà đóng cửa kín mít thì ai lên gác được chứ? Chắc là chuột thôi con à! Ở trên đó đồ đạc lung tung như vậy, không là thiên đường của lũ chuột mới là lạ đó! Thôi, giờ hai mẹ mình dậy ăn trưa rồi làm việc tiếp hén?
    Thằng bé hơi thẹn khi nghe tôi chê nó nhút nhát, nhưng rồi nó cũng chẳng nói gì, kéo tôi đứng lên, hai mẹ con vui vẻ dọn bữa trưa là món mì tôm nấu trứng.
    Trên gác, ngoài căn phòng rộng rãi dành cho cu Bin, cạnh đó còn một phòng nữa nhưng nhỏ hơn, không biết hồi làm nhà người ta thiết kế như vậy nhằm mục đích gì, còn tôi, tôi nghĩ ngay tới việc đặt cái bàn thờ chồng tôi ở đấy.
    Từ bao nhiêu năm nay, tôi vẫn biết mỗi năm đến ngày giỗ anh gia đình chồng tôi đều tổ chức linh đình, nhưng từ ngày rời khỏi nhà, tôi chưa một lần quay trở lại. Mặc kệ ai nghĩ sao thì nghĩ, tôi không quan tâm, tôi chỉ biết tôi vẫn một lòng với chồng với con là đủ.
    Đến ngày giỗ anh, tôi làm một mâm cơm nhỏ, dắt con trai đến trước bàn thờ, dạy cho nó những câu để nguyện cầu, khấn vái. Mấy năm sau này thằng bé lớn hơn, nó không còn lặp lại lời tôi dạy một cách máy móc nữa, mà đã biết tự nói với ba nó những điều muốn nói.
    Nhớ hồi năm vừa rồi, thằng bé bị tôi đánh một trận đòn nên thân vì cái tội bỏ sang nhà bạn chơi mà không xin phép, báo hại tôi một phen thất kinh hồn vía, nhờ người quen chạy tìm nó khắp nơi, mãi đến trưa nó mới lửng thửng về nhà.
    Hôm đó đúng vào ngày giỗ chồng tôi. Tôi tức giận, kéo thằng bé tới quỳ trước bàn thờ anh, vừa đánh nó mà tôi vừa khóc ròng.
    Thằng bé bị tôi đánh đau, mà cứ ôm lấy tôi:
    - Mẹ ơi, mẹ đừng khóc nữa… Mẹ cứ đánh Bin thiệt đau cho mẹ bớt giận. Bin biết Bin có lỗi với mẹ, nhưng mẹ đừng khóc nữa…
    Rồi nó lại hướng lên tấm ảnh của ba nó mà cầu nguyện:
    - Ba ơi, ba dỗ cho mẹ nín khóc giúp con đi! Con hứa, từ nay con sẽ không làm cho mẹ buồn, mẹ khóc nữa. Ba dỗ mẹ nghe ba…
    Ở trong góc phòng có một cái tủ nhỏ, tuy không còn mới nhưng vì được đóng bằng gỗ tốt nên sau khi được lau chùi sạch sẽ trông nó không tệ.
    Tôi nói với con trai:
    - Bây giờ mẹ đi xuống dưới nhà xách nước lên lau sàn. Con ở đây lôi hết các thứ trong tủ ra, rồi quét cho thiệt sạch. Mình sẽ dùng cái tủ này để làm bàn thờ cho ba con đó, được không con?
    Thằng bé hí hửng:
    - Dạ, mẹ để đó con làm cho, con sẽ lau thật sạch, bàn thờ ba phải thật sạch, đúng không mẹ?
    Tôi xoa đầu nó rồi xách cái xô đi xuống dưới nhà. Lúc tôi trở lên không thấy thằng bé đâu, mà đồ đạc trong tủ thì còn bỏ dang dở.
    Ngạc nhiên, tôi gọi lớn:
    - Bin ơi… con đâu rồi? Bin ơi…
    Không có tiếng trả lời, hơi lo nên tôi chạy sang phòng bên cạnh. Phòng này vẫn chưa dọn dẹp nên đồ đạc còn để lung tung. Nhìn quanh quất cũng không thấy thằng bé đâu, tôi hốt hoảng chạy trở xuống dưới nhà tìm khắp nơi từ trong bếp tới nhà vệ sinh vẫn không thấy.
    - Bin ơi… Con đâu rồi? Đừng có đùa với mẹ như vậy nghe không? Con có trốn ở đâu thì ra mau lên, mẹ mà tìm được mẹ sẽ đánh đòn con đó!...
    Xung quanh tôi vẫn lặng im. Tôi cuống cuồng, không biết phải làm gì lại chạy ào lên gác.
    Cánh cửa tủ nãy giờ vẫn mở toang, đồ đạc còn lung tung, chứng tỏ khi tôi đi lấy nước, thằng bé ở lại soạn đồ trong tủ ra, vậy mà mới thoáng một cái, nó lại biến mất là sao?
    Tôi đến gần bên chiếc tủ, bất ngờ trông thấy bàn chân nó ló ra. Tức giận điên cuồng, tôi định lôi nó ra đánh cho một trận, nhưng rồi tôi thật bất ngờ khi phát hiện nó đang say sưa ngủ.
    - Tại sao có chuyện lạ lùng vậy trời?
    Tôi đứng như trời trồng, lẩm bẩm một mình.
    Thằng bé và tôi vừa mới ngủ một giấc dưới nhà lúc nãy. Mà cho dù nó có buồn ngủ đi nữa thì cũng không thể ngủ bằng cái kiểu này, ai đời lại chui vô cái tủ tối tăm hôi hám này mà ngủ, với lại tôi xuống nhà lấy nước rồi trở lên thời gian chỉ hơn năm phút, sao nó lại có thể ngủ một cách lạ lùng đến vậy?
    Tôi nhẹ nhàng bế thằng bé về phòng, đặt nó lên giường và phát hiện trên tay nó có cầm một món đồ chơi lạ. Đó là một đứa bé trai được làm bằng sáp.
    Tôi lại tiếp tục công việc của mình. Trong tủ, chỉ toàn là đồ đạc của trẻ con, chắc trước kia cái tủ đó dành riêng cho đứa bé con của chủ nhà. Ngoài mấy bộ quần áo, mấy quyển truyện tranh còn lại toàn là các thứ đồ chơi dành các trẻ em trai.
    Tôi rất vui vì thấy các thứ đều còn mới, chắc thằng bé sẽ thích lắm đây. Vì thế tôi gom hết các thứ lại, lau sạch bụi bặm và để riêng vào một góc, còn những thứ không cần dùng đến tôi dự định sẽ dồn hết vào một góc nào đó hoặc đem đốt đi. Vì lúc giao nhà cho tôi, người bà con của chủ nhà có căn dặn:
    - Chị về dọn dẹp, thấy cái gì còn xài được thì xài, không thì đem bỏ bớt giùm chứ để đó lâu ngày thêm gián chuột.
    Khi tất cả đều gọn gàng, tôi đánh thức thằng bé dậy.
    - Này, con trai, dậy đi! Chiều rồi, dậy mẹ dẫn đi một vòng quanh đây cho biết…
    Tôi phải gọi đến lần thứ ba nó mới nhương mắt lên nhìn tôi một cách khó nhọc:
    - Mẹ… mẹ gọi con?
    - Ừ, dậy đi nào, con trai! Hôm nay con hư lắm nghen, đang làm giúp mẹ lại lăn ra ngủ, bỏ mẹ một mình, mẹ vừa làm vừa khóc hu hu vì buồn đó…
    Tôi cười.
    Nó dụi mắt rồi ngồi lên, vẻ mệt mỏi:
    - Ủa… con đâu có ngủ? Con đi chơi với bạn mà. Bạn rủ con đi chơi và hứa khi về sẽ giúp con dọn dẹp… con đi chơi vui lắm, đang chơi thì nghe mẹ gọi…
    Tôi tò mò nhìn gương mặt hí hửng của thằng bé:
    - Con nói gì lạ vậy? Con đi chơi với bạn nào? Kể cho mẹ nghe với…
    - Bạn ấy dẫn con đi chơi và bảo rằng sẽ giúp con làm quen với nơi ở mới. Bạn ấy dẫn con ra cái giếng tuốt ngoài sau vườn kia kìa, hai đứa con chơi vui lắm…
    Nó hớn hở.
    Tôi hơi lo:
    - Con nói bạn nào? Bạn mới quen hay bạn con ở Sài Gòn?
    - Không, bạn mới! Bạn nói nhà bạn cũng ở đây…
    Thằng bé trả lời.
    Tôi thầm nghĩ, có lẽ do tâm lý nên nó mới mơ màng như vậy nên thôi cũng không quan tâm lắm. Tôi đưa thằng bé xuống nhà tắm cho nó, rồi hai mẹ con dắt tay nhau ra đường.
    Tuy nơi chúng ở rất vắng vẻ, nhưng chỉ đi một đoạn đường ngắn là đã ra tới chợ. Cái chợ tuy không lớn lắm nhưng cũng buôn bán khá nhiều mặt hàng.
    Vì ở nhà không còn thức ăn, mà lúc này cũng đã chiều tối rồi, tôi quyết định dẫn con vào quán ăn phở trừ cơm.
    Ăn xong, hai mẹ con đi dạo một vòng cho quen đường xá, mãi đến khi tối mịt mới quay trở về nhà.
    Đứng từ ngoài đường nhìn vào, ngôi vẻ có vẻ hoang vắng, u ám quá! Tôi quyết định, nhân những ngày chưa nhận nhiệm sở sẽ cải tạo lại mảnh vườn. Trước hết, phải làm cho sạch đám cỏ xung quanh nhà, sau đó sẽ trồng rau cải và các loại bông hoa cho vui mắt.
    Tối hôm đó mẹ con tôi ngủ thật ngon vì cả ngày bận rộn. Hừng sáng, thằng bé từ trên gác chạy xuống cười nói:
    - Tối qua bạn tới chơi con, bạn ấy dẫn con đi chơi vui thiệt là vui…
    - Vẫn là người bạn hôm qua sao con?
    Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
    Thằng bé gật đầu:
    - Dạ, bạn nói bạn tặng hết đồ chơi cho con, vì bạn không thích chơi nữa. Bạn chỉ thích nhất mỗi một con búp bê này, nhưng bạn cũng cho con luôn rồi đó mẹ!
    Vừa nói thằng bé vừa đưa con búp bê sáp lên cho tôi thấy.
    Tôi bắt đầu lo lắng.
    - Con nói nhà bạn ấy ở đâu?
    - Bạn ấy bảo nhà bạn ở đây. Cái phòng mà con ngủ chính là phòng của bạn ấy. Nhưng lâu lắm rồi bạn không được về phòng ngủ nữa…
    Thằng bé trả lời.
    Tôi ngạc nhiên:
    - Sao lại không được về phòng ngủ? Thế bạn ngủ ở đâu?
    Cu Bin lắc đầu:
    - Cái đó… cái đó con không biết… Bạn không nói tới… Bạn dẫn con đi chơi, vui ơi là vui…
    Tôi lo sợ và nghiêm mặt:
    - Mẹ không thích nghe con nói tới những chuyện như vậy nữa, biết chưa? Con mơ ngủ hay con lại sinh thêm tật nói dối mẹ vậy? Mẹ ngủ dưới nhà, mẹ có mở cửa cho ai vào nhà đâu mà con bảo bạn con tới chơi?
    Thằng bé xịu mặt:
    - Con nói thiệt mà mẹ hổng chịu tin…
    - Thôi được rồi, nếu là thật, khi nào bạn ấy tới, con bảo bạn phải xuống chào hỏi mẹ đàng hoàng nhé?
    Tôi muốn chấm dứt câu chuyện hoang đwofng của thằng bé ở đó nên cắt ngang như thế. Sau đó hai mẹ con ăn sáng và ra vườn làm cỏ.
    Trước khi bắt tay vào, tôi đi dạo một vòng quanh chu vi ngôi nhà, vừa đi vừa lấy một cây sào thật dài khua khua đám cỏ xung quanh vì sợ gặp rắn.
    Thằng bé tung tăng đi trước, nó đưa tay chỉ về phía góc vườn và nói với tôi:
    - Ở đó có cái giếng nước đó mẹ!
    - Sao con biết?
    Tôi quên khuấy câu chuyện nó kể nên ngạc nhiên hỏi.
    Thằng bé nhìn tôi rồi nói nhỏ:
    - Bạn dẫn con tới chơi mà…
    Tôi sực nhớ và giật thót người, đi nhanh tới đó để xem lời nói của con trai có đúng sự thật hay không.
    Quả thật, nơi đó có một cái giếng thật to, xung quanh giếng còn được tráng xi măng sạch sẽ, nhưng vì lâu ngày không có người lai vãng tới nên nền xi măng đã bị bao phủ bởi một thảm cỏ dày đặc.
    Trống ngực tôi đập thình thịch. Tôi bắt đầu linh cảm thấy điều bất an đang xả đến với mẹ con tôi.
    - Đi vào nhà, nhanh lên con!
    Tôi kéo tay thằng bé đi như chạy.
    - Ủa, mình không làm cỏ sao mẹ?
    Nó ngạc nhiên hỏi lại làm tôi sực nhớ ra. Tôi đứng lại thở dốc một lúc rồi nói:
    - Ừ, thì làm, nhưng mình bắt đầu làm từ bên trong ra con à…
    Có lẽ thằng bé không thích công việc này, nó chỉ giúp tôi một cách chiếu lệ rồi cứ đứng lên đi bắt chuồn chuồn, châu chấu. Tôi cũng không ép con, nhưng cả ngày hôm ấy không lúc nào tôi dám rời mắt khỏi nó. Lòng tôi cứ nơm nớp sợ hãi, mà sợ hãi điều gì tôi cũng không biết rõ ràng.
    Chiều tối, tôi đang nấu cơm dưới bếp thì nghe tiếng thằng bé cười hắc hắc một mình trên gác. Tò mò, tôi nhẹ nhàng đi lên xem thử có chuyện gì mà nó thích thú đến thế.
    Nó đứng sát bên cửa sổ, một tay cầm con búp bê bằng sáp, một tay huơ huơ như đang đùa giỡn với người nào ở dưới sân. Tôi đi tới một bên mà nó cũng chẳng hay. Nhìn theo hướng nhìn của thằng bé, tôi hoàn toàn không thấy gì ngoài đám cỏ dưới bóng tối lờ mờ. Mắt tôi liếc nhìn về chỗ có cái giếng cũng không thấy gì lạ.
    - Con làm gì thế?
    Tôi lên tiếng.
    Thằng bé giật mình quay lại, gương mặt vẫn còn ánh lên niềm vui:
    - Con chơi với bạn…
    - Bạn con đâu?
    Tôi nghiêm giọng hỏi.
    Nó chỉ tay xuống sân:
    - Lúc nãy bạn đứng dưới đó, giờ thấy mẹ chắc bạn sợ nên về rồi…
    - Con bảo nhà bạn ở đây cơ mà, bạn về là về đâu?
    Tôi hỏi vặn lại.
    - Không… Bạn nói nhà bạn ở đây, nhưng lâu rồi bạn không được vào đây ngủ mà, mẹ quên rồi sao?
    Vậy là nó vẫn không quên những gì từng kể với tôi. Vậy điều đó là gì? Là do tâm thần con trai tôi có vấn đề hay ở đây có điều gì không bình thường vậy?
    Tôi run rẩy đóng kín cửa sổ lại và nói:
    - Từ nay con đừng mở cửa sổ này nữa nhé?
    - Sao vậy mẹ? Con thích đứng đây ngắm cảnh lắm mà…
    Thằng bé không vui.
    Tôi dỗ dành:
    - Lúc nào có mẹ, mẹ sẽ cùng con ngắm cảnh. Ở đây gió độc lắm, mẹ sợ con bị trúng gió, nên đóng cửa cho chắc ăn con à…
    Thằng bé không dám cãi lại tôi nhưng có vẻ như nó không đồng tình với lời giải thích ấy. Mặc kệ, tôi cũng không biết làm sao. Cứ tạm thời vậy đi, rồi từ từ sẽ tính tiếp.
    - Thôi, xuống dưới nhà chuẩn bị ăn cơm đi con!
    Thằng bé theo tôi xuống thang gác, nhưng trông nó không được vui lắm. Tôi lờ đi, nói đủ thứ chuyện khác cho nó quên vấn đề không bình thường đó.
    Ăn cơm xong, thằng bé không lên gác ngay mà vào phòng tôi nằm chơi. Tôi giữ lời hứa, vừa ôm con vào lòng để xoa lưng và ngâm thơ cho nó nghe. Mới đầu tôi cứ chọn mấy bài thơ vui, nhưng thơ vui thì tôi lại thuộc rất ít, nên đành ngâm cho nó nghe thơ buồn luôn vậy. Aáy thế mà thằng bé khen:
    - Bài này mẹ ngâm mới hay…
    Một lúc sau thằng bé ngủ khò trong vòng tay tôi. Rất nhẹ nhàng tôi bế con lên gác, buông mùng cẩn thận xong xuôi tối mới về phòng mình.
    Chỉ còn bốn ngày nữa là tôi vào công ty để nhận việc. Tuy chưa chính thức đi làm, nhưng trước khi về đây, tôi đã được giao cho một số hồ sơ tài liệu để nghiên cứu trước một vài khía cạnh. Tối nay tôi cảm thấy thư thái nên lôi đống giấy tờ ấy ra và bắt tay vào tìm hiểu.
    Say mê với công việc, đến lúc tôi sực nhớ ra thì đã hơn hai giờ sáng. Tôi che miệng ngáp dài rồi đứng lên dọn dẹp, tắt đèn đi ngủ.
    Vừa mới mơ mơ màng màng, tôi nghe có tiếng chân đi rón rén từ trên gác xuống, cứ tưởng là thằng bé dậy đi tiểu, tôi lên tiếng:
    - Sao không bật đèn để thấy đường mà đi, con?
    Không nghe tiếng nó trả lời, tôi hơi ngạc nhiên lồm cồm ngồi dậy, đi ra ngoài với tay bậc sáng ngọn đèn ở giữa nhà. Cửa nhà tắm vẫn mở toang nhưng không có thằng bé trong ấy, nhìn quanh cũng không thấy nó, tôi lấy làm lạ bèn đi lên gác.
    Trên giường, thằng bé vẫn đang ngủ ngon làng, thân người nghiêng qua một bên ôm chặt chiếc gối ôm mềm mại.
    - Sao thế nhỉ?
    Tôi vừa đi xuống nhà vừa lẩm bẩm.
    Nhưng rồi nghĩ chắc do mình mớ ngủ nên tôi cũng bỏ qua, vào giường nhắm mắt định ngủ lại.
    Vẫn giống y như lần trước, lúc tôi sắp chìm vào giấc ngủ thì tiếng bước chân kia lại nhè nhẹ vang lên. Tôi giật mình thức giấc nhưng vân nằm im không nhúc nhích, lắng tai nghe ngóng thử xem chính xác đó là tiếng gì.
    Tiếng bước chân – đúng là tiếng bước chân đi khẽ tới trước cửa phòng tôi rồi dừng lại. Tôi hồi hộp, nửa muốn lên tiếng để phá tan cái không khí vắng lặng rợn người này, nửa lại muốn giả vờ như say ngủ để xem chuyện gì sẽ xảy ra.
    Tôi kéo mền đắp ngang ngực, mắt mở to nhìn chăm chăm về hướng cửa phòng. Cánh cửa vẫn đóng kín im lìm.
    - Cô ơi… giúp cháu với…
    Tôi đang nằm trên giường mà cả thân người như muốn giật nảy lên vì nghe có tiếng nói trẻ con vang lên ngay bên cạnh. Ánh mắt tôi di chuyển theo hướng tiếng nói vừa mới phát ra, và trời ơi… phía dưới chân tôi có một đứa con đang đứng!
    Mặc dù ánh đèn ngủ lờ mờ, nhưng cũng đủ để tôi nhìn được rõ ràng đứa bé đó là một đứa bé trai, trạc tuổi với cu Bin con tôi, nhưng nó hơi cao hơn một chút.
    - Cô ơi… giúp cháu với…
    Nó lặp lại câu nói đó một lần nữa.
    Tôi run rẩy hỏi:
    - Con… cháu… cháu là ai?
    Nó không trả lời câu hỏi của tôi mà chỉ lấy tay giật giật một góc mùng và miệng thì không ngừng rên rỉ:
    - Cô ơi… giúp cháu với…
    Tôi quá hoảng sợ, hét to lên:
    - Cháu nói đi, cháu là ai?
    Trong tích tắc, thằng bé biến mất, nhưng chiếc mùng vẫn còn lay động bởi cái giật của nó vừa lúc nãy. Tim tôi đập thình thích, tôi ngồi hẳn dậy thở dốc và với tay bật sáng ngọn đèn bàn cạnh đó. Trong phòng tôi không có gì lạ, cả cánh cửa phòng từ đầu tới cuối cũng không hề nhúc  nhích!
    Tôi đưa tay dụi mắt rồi nhìn quanh một lần nữa, mọi thứ vẫn bình thường.
    - Trời ơi! Hôm nay đầu óc mình bị làm sao vậy nhỉ?
    Tôi ôm đầu ngồi một lúc nữa rồi tắt đèn nằm trở xuống. Khi lưng vừa chạm xuống giường, tôi lại một phen hú vía, vì có cái gì đó dưới lưng tôi. Thì ra đó là chú búp bê bằng sáp, có lẽ lúc đầu hôm thằng bé mang xúông đây rồi vì ngủ quên mà bỏ lại. Tôi cầm con búp bê lên, kéo cái hộc trên đầu giường boe vào đó, định bụng sáng mai sẽ trả về cho thằng bé.
    Tôi nằm xuống, hồi hộp không dám nhắm mắt, nhưng rồi không có gì xảy ra nữa, và tôi dần dần chìm vào giấc ngủ thật say.
    - Tối qua ngủ có ngon không, con trai?
    Tôi cất tiếng hỏi khi thấy thằng bé tung tăng từ trên gác xuống.
    - Dạ, con ngủ rất ngon! Thế còn mẹ?
    Thằng bé vui vẻ hỏi lại tôi.
    Tôi ngập ngừng:
    - Ừ… à…, mẹ thức làm việc, ngủ trễ, nhưng cũng ngủ rất ngon!
    Tôi nói dối vì không muốn làm thằng bé sợ hãi.
    Suốt ngày hôm đó hai mẹ con tôi lại tiếp tục dọn đám cỏ phía sau nhà. Đến lúc mặt trời sắp lặn thì khoảnh đất quanh nhà gần như đã được dọn sạch bong.
    Tôi cảm thấy thật vui trước thành quả của mấy ngày lao động. Tôi chỉ cho con trai biết chỗ nào sẽ được trồng loại cây nào, và thằng bé rất thích thú khi nghe nói tới chuyện trồng trọt.
    - Mẹ ơi, nhà mình không nuôi chó sao mẹ?
    Nó hỏi, tôi chợt nhớ ra:
    - Ừ, để thong thả rồi mẹ tìm cho con một con chó nhỏ nhé? Mẹ đã hứa với con rồi thì mẹ giữ lời mà, con đừng lo!
    Ngày chuẩn bị về đây, tôi có hứa với cu Bin sẽ mua cho nó một con chó để làm bạn, suýt nữa tôi lại quên mất.
    - Con trai ngủ ngoan, sáng mai dậy sớm, hai mẹ con mình đi chợ mua hạt giống về trồng, nghen con?
    Vừa hôn lên trán con, tôi vừa nói.
    Thằng bé nhổm lên hôn vào má tôi một cái rồi cười tít mắt:
    - Dạ, mẹ cũng ngủ ngon!
    Tôi mỉm cười tắt đèn rồi đi về phòng mình.
    Đêm nay tôi không làm việc nữa mà lên giường nằm đọc sách. Cuốn tiểu thuyết đang đọc dang dở mấy hôm nay chưa đụng tới, tối nay tôi quyết đọc cho xong!
    Nhưng mới đọc hơn mười trang thì hai mí mắt tôi nặng trĩu, không nhướng lên nổi nữa. Tôi thò tay ra tắt đèn rồi xoay mặt vào tường ôm gối ngủ. Cả hai mẹ con tôi đều có nết ngủ rất giống nhau như thế!
    - Cô ơi… cô ơi… giúp con với, cô ơi…
    Có tiếng gọi khe khẽ, tôi giật mình choàng tỉnh. Đưa mắt nhìn xuống chân giường, chỗ hôm qua tôi mơ thấy đứa bé xa lạ nào đó, nhưng không thấy ai, tôi còn đang hoang mang thì tiếng gọi của nó lại vang lên ngay bên tai tôi:
    - Cô ơi… cô ơi… giúp con với, cô ơi…
    Một khuôn mặt bé bỏng đang áp sát vào mùng, ngay sát mặt tôi.
    Tôi hốt hoảng:
    - Cháu là ai? Cháu cần gì?
    Lúc này tôi biết chắc chắn không phải mình mơ màng mà là điều có thật! Nỗi sợ hãi khiến tôi gần như nằm bất động, không nhúc nhích được chân tay.
    Đứa bé lại nói:
    - Con… ở dưới giếng… cô giúp con với… cô ơi…
    Tôi lắp bắp:
    - Tại sao… sao cháu lại ở… đó?
    Đứa bé không nói gì, chỉ nhìn tôi thật lâu, ánh mắt nó buồn thật buồn. Một lát sau nó nhẹ nhàng quay người đi ra. Tôi thấy rõ ràng nó đi về phía cửa, nhưng cánh cửa vẫn đóng im mà nó thì biến mất khi vừa tới đó.
    Tôi tung vội mền ra, vì lúc này mồ hôi tôi đã đổ ra ướt đẫm. Tôi thấy mình tỉnh táo hơn bao giờ hết.
    Tôi không dám ngồi dậy, chỉ nằm im một chỗ mà nhớ lại tất cả những sự việc từ hôm mới dọn về đây. Những câu chuyện kỳ quặc mà cu Bin kể với tôi là thật, “bạn” nó chắc chắn là đứa bé này đây. Và đứa bé này thì chắc chắn… không phải là người!
    Càng nghĩ, tôi càng thấy lạnh toát cả người. Trời ơi, vậy là mấy ngày vừa qua, con trai tôi đã chơi đùa với ma sao? Liệu nó có bề gì thì tôi biết làm sao đây?
    Hoảng hốt, tôi bật dậy và chạy ào lên gác, chui vô mùng ôm chặt lấy con trai. Đêm đó tôi ngủ luôn trên gác.
    - Mẹ? Đêm qua mẹ ngủ với con à?
    Cu Bin ngạc nhiên khi thức dậy thấy nằm cạnh bên tôi. Tôi vuốt tóc con mỉm cười:
    - Ừ, tự nhiên mẹ thích ngủ với con quá!
    Thằng bé thích thú ôm chặt lấy tôi và hôn lên trán tôi.
    Hai mẹ con vừa đi chợ về thì nhà có khách. Đó là chú Tam, bà con xa của chủ ngôi nhà này, cũng chính là người bàn giao chìa khóa nhà và dặn dò mọi thứ lúc tôi mới tới.
    Trông thấy chú, tôi reo lên:
    - Chào chú Tam, cháu đang định đi tìm chú đây!
    Chú Tam cười tươi, xoa đầu thằng Bin và hỏi:
    - Sao, có chuyện gì cần đến chú phải không?
    Tôi chưa vội trả lời mà mời chú vào nhà. Vừa bước vào trong, chú kêu lên ngạc nhiên:
    - Trời ơi, hai mẹ con dọn nhà khéo thế? Chú không còn nhận ra nữa rồi nghen! Đúng là có chủ có khác! Từ bao nhiêu năm nay, ngôi nhà này lúc nào hôi hám, ẩm thấp, đồ đạc thì lung tung. Cháu mới dọn về có mấy ngày thôi mà mọi thứ đâu vô đó hết rồi, cháu thiệt là đảm đang quá!
    Tôi cười:
    - Chú quá khen! Cháu chỉ quét dọn một loáng thôi mà!
    Chú Tam đi xem xét khắp nơi từ dưới nhà tới trên gác, chỗ nào chú cũng gật gù đồng ý. Nhưng khi vào tới căn phòng nhỏ trên gác, trông thấy bàn  thờ của chồng tôi, tự nhiên chú hơi khựng lại một chút.
    - Có chuyện gì thế chú?
    Tôi lo lắng hỏi khi thấy thái độ không bình thường ấy.
    Chú lúng túng:
    - À… ừ… không có gì… Chỉ là… nhìn thấy cái tủ này lại được dùng làm bàn thờ, chú bỗng chạnh lòng…
    Tôi hồi hội:
    - Bộ trước đây ở nhà này…
    Chú Tam thở dài, mắt khẽ liếc nhìn thằng Bin nãy giờ vẫn lẽo đẽo đi theo tôi và chú. Hiểu ý chú Tam không muốn nói chuyện trước mặt trẻ con, tôi quay lại đưa gói hạt rau muống dặn cu Bin:
    - Con ra vườn, chỗ mấy luống đất hôm qua mẹ nói sẽ trồng mau múông, con gieo mớ hạt này đi!
    Bin mừng rơn:
    - Mẹ cho Bin làm một mình?
    Nó hỏi lại.
    Tôi mỉm cười:
    - Ừ, con làm một mình, con lớn rồi mà!
    Thằng bé rất thích thú mỗi khi nghe tôi khen nó đã lớn. Cầm gói hạt giống trong tay, nó chạy vụt xuống đất.
    Tôi nhoài người ra cửa sổ, chỉ trỏ hướng dẫn nó vài câu nữa rồi quay vào tiếp tục nói chuỵên với chú Tam.
    Chú Tam lúc này đã ngồi bệt xuống sàn nhà, vẻ mặt buồn bã.
    - Hình như trước kia ở đây cũng có một đứa bé trạc tuổi con trai của cháu, phải không chú?
    Tôi rụt rè hỏi.
    Chú Tam ngạc nhiên:
    - Sao cháu biết?
    Tôi chưa kịp trả lời thì chú tiếp:
    - Thật buồn! Anh chị cả, chủ ngôi nhà này là người giàu có, cứ tưởng cuộc sống sẽ ấm êm hạnh phúc. Vậy mà… bất hạnh đã giáng xuống gia đình họ không thương tiếc.
    Chú Tam nói xong câu đó rồi ngồi im, lâu lâu lại cất một tiếng thở dài.
    Tôi tò mò:
    - Chú có thể kể về gia đình chủ nhà cho cháu biết, được không chú?
    Chú Tam nhìn tôi dò xét một lúc rồi nói:
    - Ừ, có lẽ chú cũng nên cho cháu biết, kẻo không mai mốt những người quanh đây nói ra nói vào tam sao thất bổn, cháu lại hoang hoang.
    Tôi đứng lên chạy sang phòng thằng Bin rót ly nước và mời chú Tam ngồi ghế. Chú cầm ly nước và bắt đầu kể với vẻ tư lự, buồn buồn:
    - Hai vợ chồng anh Cả cưới nhau đã nhiều năm mà chỉ sanh được một đứa con trai duy nhất. Sau lần sanh nở đó, chị Cả được bác sĩ cho biết sẽ không còn khả năng có con được nữa. Thằng bé khỏe mạnh, thông minh nên cả nhà đều yêu mến và quên đi nỗi bất hạnh kia của người mẹ. Ngay cả chú đây, tuy là bà con xa, nhưng cũng thương thằng bé như cháu ruột của mình. Trong nhà, ngoài hai vợ chồng anh Cả và thằng bé, còn có nuôi một người giúp việc. Đó là một phụ nữ xinh xắn và giỏi giang. Người phụ nữ đó khi về giúp việc ở nhà này có dắt theo một cậu con trai cũng suýt soát với bé con của anh Cả.
    Hai đứa bé nhanh chóng kết bạn và chơi thân với nhau, những người lớn cũng thương yêu cả hai đứa cùng một lúc. Họ sống những năm tháng thật hạnh phúc. Nhưng rồi tai họa lại ập tới vào năm thằng bé lên mười tuổi. Một ngày, tự dưng đứa bé con anh Cả mất tích. Cả nhà cuống cuồng đi tìm kiếm khắp nơi, mãi đến ngày hôm sau mới phát hiện ra một mảnh vải áo của nó bê bết máu trong cánh rừng đằng kia. Theo suy luận của mọi người, có lẽ đứa bé mải chơi nên đi vào rừng và bị thú dữ ăn thịt. Mặc dù việc này hiếm hoi lắm, vì rừng ở đây nhiều năm rồi không hề có dấu vết thú dữ. Nhưng dù sao thì đứa bé cũng không còn.
    Chị Cả quá đau buồn thương nhớ con nên phát bệnh cuồng điên, anh Cả chạy thầy chạy thuốc dữ lắm mà vẫn không khỏi. Cái bệnh cuồng của chị cũng lạ lắm. Chị không la hét mắng chửi ai, chỉ khóc khóc cười cười và đêm nào cũng ngồi đốt nến, đốt hết cây nến này tới cây nến khác. Vừa nhìn những dòng sáp chảy xuống chị vừa khóc hu hu. Ban đầu anh Cả sợ chị làm cháy nhà nên không cho chị đốt, chị khóc dữ lắm, bỏ ăn bỏ uống, anh Cả đành chịu thua. Nhưng chị không gây ra tai họa cho ai, chị chỉ đốt thật nhiều nến rồi gom sáp lại làm thành một con búp bê, một đứa bé trai bằng sáp. Trước đây chị là nhà điêu khắc, nên con búp bê chị làm trông rất tinh xảo, nó có gương mặt của con trai chị.
    Từ ngày có con búp bê đó, chị cả vui vẻ hẳn lên. Trong cơn điên của chị không còn tiếng khóc nữa. Lúc nào chị cũng ôm ấp nâng niu, hát ru cho nó ngủ, không ai có thể động vào được. Suốt ngày, chị hết cười đùa lại nói chuyện rì rầm với con búp bê ấy, như là đang nói chuyện với chính con trai mình vậy.
    Anh Cả cũng mừng vì thấy chị có phần ổn hơn. Tức là không còn rên rỉ khóc than và thức thâu đêm suốt sáng nữa.
    Chị Cả ăn uống, ngủ nghê rất đúng giờ,  nhưng có lẽ người điên thường có cảm giác nóng bức trong người, nên chị Cả ít khi nào chịu ngủ trong phòng, mà cứ len lén trốn ra ngủ bên cạnh cái giếng ở góc vườn.
    Người phụ nữ  giúp việc ngày càng bận rộn hơn vì phải chăm sóc một người điên trong nhà, nhưng chị ta vẫn đối xử rất tốt, rất dịu dàng với chủ, ai ai cũng khen ngợi.
    Nhưng không hiểu sao chị Cả cứ mòn mỏi dần dần rồi chết đi. Anh Cả đau buồn quá, mai táng vợ xong cũng bỏ nhà đi luôn, đi tuốt ra nước ngoài và ở luôn bên đó!
    - Còn mẹ con người giúp việc?
    Đột nhiên tôi hỏi câu đó mà không hề suy nghĩ.
    Chú Tam đáp:
    - Anh cả dẫn mẹ con họ theo luôn, vì anh bảo ở Việt Nam họ cũng không còn ai là thân thích, đưa sang bên đo để có người chăm sóc cho anh. Nhưng miệng đời thị phi, một dạo dư luận đồn ầm lên rằng, cô gái đó chính là nhân tình của anh Cả, và đứa bé kia là con của anh Cả với cô ta. Người ta còn độc mồm độc miệng đồn rằng, chính cô gái đó đã hãm hại mẹ con chị Cả để độc chiếm gia tài.
    Tôi khẽ liếc nhìn chú Tam và hỏi:
    - Theo chú nhận xét, khả năng đó có thể xảy ra không?
    Bất ngờ trước câu hỏi thẳng thừng của tôi, chú Tam lúng túng:
    - Ơ… ơ… theo chú thì… khó có thể xảy ra lắm, vì cô gái đó hiền lành lắm, cổ không làm mấy chuyện ác độc đó đâu…
    - Trước kia ở đây sử dụng nước giếng phải không chú?
    Tôi đột ngột hỏi một câu tưởng chừng như không ăn nhập gì tới câu chuyện đang nói nãy giờ.
    - Lâu lắm rồi cháu ạ, hồi anh chị Cả mới về đây. Sau này, từ lúc chị Cả sinh con, ở đây có nước máy là cái giếng bị bỏ hoang luôn, đâu ai dùng tới nữa.
    Chú Tam đáp.
    - Chú à… lúc đứa bé mất tích, gia đình có tìm dưới giếng không? Có khi nào nó té xuống giếng không?
    Tôi ấp úng hỏi.
    Chú Tam ngạc nhiên:
    - Sao tự nhiên cháu lại hỏi vậy? Lúc đó tuy không có người lặn xuống, nhưng anh Cả cũng đã cho người dùng cây khuấy tơi bời, mà có thấy xác chết nổi lên đâu. Cái giả thiết đó là không xảy ra cháu à, một thời gian sau khi đứa bé mất tích, cũng đâu có ai phát hiện xác chết nổi lên?
    Và chú Tam nhìn tôi với vẻ nghi hoặc:
    - Mà tại sao cháu lại quan tâm đến chuyện này vậy? Có gì không cháu?
    Tôi cắn môi, do dự một chút rồi quyết định kể lại cho chú Tam hết mọi việc. Bởi vì tôi mới tới đây lạ nước lạ cái, không quen biết ai ngoài chú,k mà đứa bé kia cứ theo cầu cứu tôi hoài, tôi đang cần có người giúp đỡ để làm rõ mọi chuyện.
    - Cháu… mấy hôm nay cháu gặp phải sự lạ… Nếu hôm nay chú không tới chơi chắc cháu cũng sẽ đi tìm chú.
    Tôi ngập ngừng.
    Chú Tam động viên:
    - Có gì cháu cứ nói ra cho chú biết, để xem chú có giúp gì được cho cháu không?
    Tôi gật đầu, kể:
    - Lúc mới dọn về, ngày nào thằng bé con của con cũng mơ thấy một người bạn mới nào đó. Bạn ấy đùa vui với nó, và nói với nó rằng đây là nhà của bạn ấy, mà đã lâu rồi bạn ấy không được ngủ trong nhà. Sau đó, tới lượt cháu. Đã mấy lần cháu gặp cậu bé hiện về, hiện về lúc cháu còn thức, chứ không phải là trong giấc mơ chú ạ! Cậu bé ấy cứ van nài cháu phải giúp cho cậu, mà thật tình cháu khong biết phải giúp chuyện gì? Cậu bé cứ chỉ tay ra giếng và bảo mình ở đó… Chính vì vậy…
    Tôi bỏ dở câu nói vì thấy gương mặt chú Tam đã tái xanh vì sợ hãi:
    - Cháu… thật tình cháu đã thấy vậy sao?
    Tiếng chú Tam run run.
    Tôi gật đầu xác nhận:
    - Dạ, rõ ràng cháu đã gặp cậu bé ấy. Mà cháu thấy, hình như nếu con búp bê bằng sáp đó ở cạnh ai, thì người đó sẽ trông thấy cậu ta…
    - Con búp bê nào?
    Chú Tam ngó sững tôi và hỏi.
    Tôi đáp:
    - Có lẽ là con búp bê do bà chủ nhà làm ra. Để cháu lấy cho bác xem nhé?
    Vừa nói, tôi vừa chạy vội xuống dưới nhà lấy con búp bê đem lên đưa cho chú Tam.
    Chú tam cầm lấy, trố mắt ngạc nhiên:
    - Đúng rồi! Đây đúng là con búp bê do tự tay chị Cả đã nhào nặn nó bằng máu và nước mắt của mình. Chị ấy luôn giữ chặt nó bên người. Ngay cả tới lúc chết, tay chị vẫn còn nắm chặt con búp bê này không chịu rời ra. Chú nhớ rất rõ khi tẩn liệm, mọi người đã cố mở mấy ngón tay chị để lấy nó ra mà không được, cuối cùng anh Cả bảo cứ chôn chị như thế đi, đó là món đồ chị quý nhất thì hãy để chị mang theo… Thế nhưng… tại sao… tại sao cháu lại có được nó?
    Tôi có cảm giác cái lạnh chạy dọc sống lưng. Giọng nói của tôi không giấu được sự run sợ:
    - Cháu… là thằng bé nhà cháu tìm thấy trong chiếc tủ này!
    Vừa nói, tôi vừa chỉ tay vào chiếc tủ thờ bên cạnh.
    - Ở trong đó, cháu còn tìm thấy nhiều thứ đồ chơi khác, và cả mấy bộ áo quần nữa… Cháu còn để tất cả mọi thứ trong kia.
    Tôi nói thêm.
    Chú Tam ôm đầu nghĩ ngợi:
    - Những cái kia không quan trọng! Quan trọng là vật này… Tại sao lại có chuyện lạ đời như vậy chứ? Chính mắt chú trông thấy chị cả được tẩn liệm cùng với con búp bê này trong tay mà?
    Cả chú Tam và tôi cùng ngồi ngẩn ra, không biết phải làm gì, không biết phải lý giải sao cho phù hợp.
    - Chú ơi… theo cháu nghĩ… có khả năng cái giếng kia…
    Tôi ấp úng.
    Chú Tam gật gù:
    - Nếu cháu đã tận mắt thấy tai nghe đứa bé bảo nó ở dưới giếng thì có lẽ đã có vấn đề gì ở đó rồi…
    - Bây giờ chú tính sao?
    Tôi hồi hộp hỏi.
    Liếc nhìn đồng hồ, có lẽ thấy còn sớm, chỉ mới tám giờ sáng nê chú Tam đứng lên và nói:
    - Ngay bây giờ chú về nhà gọi người tới giúp.
    Nói xong, chú Tam rảo bước xuống nhà và đi xăm xăm ra ngõ. Còn tôi, tôi chạy ào ra vườn, cùng với con trai gieo trồng hạt rau muống mà lòng thắc thỏm không yên.
    - Trời ơi… hai mẹ con khốn khổ mới phải trôi dạt ra đây, nếu ở đây không yên ổn không biết sẽ phải tính sao nữa?
    Tôi than thầm trong bụng.
    Không lâu sau, chú Tam trở lại có dắt theo mấy thanh niên lực lưỡng và chở tới một chiếc máy bơm.
    - Mẹ ơi, ông chú làm gì vậy mẹ?
    Thằng bé thắc mắc khi thấy nhiều người tới vây quanh miệng giếng.
    Tôi chưa kịp trả lời thì nó đã nói tiếp:
    - Bạn con ở đó…
    Tôi giật mình:
    - Mấy hôm nay con có gặp bạn không?
    Nó buồn bã lắc đầu:
    - Dạ không, chắc tại mẹ không cho con gặp nên bạn ấy sợ…
    Tôi đặt bàn tay dính đầy đất cát của mình lên bàn tay cũng lấm lem của con trai, dỗ dành:
    - Không đâu, có lẽ bạn về quê hay sao đó con à!
    Nhưng hình như nó không chú ý nghe tôi nói, mắt cứ dõi ra chỗ góc vườn. Cuối cùng không dằn được, nó xin phép:
    - Mẹ cho con ra đó chơi với ông bác chút nghen?
    Tôi lưỡng lự một chút rồi gật đầu và cũng đứng lên đi nhanh ra đó.
    Mãi đến xế trưa hôm đó cái giếng mới được bơm cạn. Và không ai tránh khỏi kinh ngạc khi thấy rõ ràng dưới đáy giếng là một bộ xương trẻ con còn nguyên vẹn, bị cột chặt vào mấy tảng đá!
    Chú Tam quỳ mọp bên thành giếng khóc nấc lên từng cơn.
    Hài cốt của đứa bé lập tức được đưa lên khỏi giếng, và sau khi làm một số thủ tục, chú Tam đưa nó đi hỏa táng.
    Ban đầu chú định đem hũ tro cốt của đứa cháu vô phước về nhà mình, nhưng tôi can:
    - Xin chú hãy để tro cốt của đứa bé lại đây. Đây mới đúng là nhà của nó. Cháu sẽ thờ cúng thật đàng hoàng…
    Suy nghĩ một lúc, chú Tam đồng ý:
    - Thôi, cháu tính vậy cũng phải. Chắc cũng do duyên nghiệp nên nó mới chọn cháu là người để kêu cứu…
    Tôi mỉm cười:
    - Dạ, cháu cũng nghĩ vậy! Nhưng cháu chỉ cầu xin cậu bé đừng làm đảo lộn cuộc sống của mẹ con cháu. Như chú cũng biết rồi đó, cháu khổ lắm mới phải trôi dạt ra đây, xin cho mẹ con cháu được bình yên…
    Chú Tam gục gặt cái đầu:
    - Chú tin là thằng bé sẽ hiểu. Nó vốn là một đứa bé thông minh và rất ngoan ngoãn. Nó sẽ hiểu… cháu yên tâm đi!
    Thế là từ đó, trên bàn thờ, bên cạnh di ảnh của chồng tôi còn có thêm hũ tro cốt của chú bé con chủ nhà, sát cạnh hũ tro cốt là con búp bê bằng sáp.
    Chú Tam đã do dự nói với tôi:
    - Chú không biết có nên báo tin này cho anh Cả biết không? Anh Cả năm nay đã lớn tuổi rồi, gần đất xa trời rồi, nghe nói cũng ốm đau luôn, nếu biết tin này chú sợ anh không chịu đựng nổi đâu cháu ạ…
    Tôi ngập ngừng nói:
    - Theo cháu, cứ để mọi việc ngủ yên… Đừng làm bác Cả nhớ lại những chuyện đau buồn, không giải quyết được gì mà còn làm bác ấy đau khổ nhiều hơn nữa…
    Chú Tam lại hỏi tôi:
    - Theo nhận xét của cháu, ai đã ra tay làm chuyện này?
    Tôi nhìn chú thật lâu và nói:
    - Hãy quên đi chú ạ! Đừng tìm hiểu nữa…
    Chú Tam buồn bã gật đầu.
    Đêm hôm đó, tôi mơ một giấc mơ lạ lùng: Đứa bé ấy nắm tay mẹ nó, một phụ nữ xanh xao ốm yếu đến bên cạnh tôi và nói:
    - Cháu cảm ơn cô… Giờ thì cháu đi đây! Bao nhiêu năm qua, mẹ cháu vì cháu mà phải ở lại… Bây giờ hai mẹ con cháu đi đây…
    Người phụ nữ nhìn tôi và mỉm cười. Hai mẹ con họ từ từ tan dần rồi mất hút.
    Sáng hôm sau chú Tam mang đến một chiếc bài vị, và tôi choáng váng la lên:
    - Thì ra… đứa bé này sinh cùng ngày tháng với thằng cu Bin!
    Chú Tam nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
    - Chắc có lẽ chính vì điều này nên nó mới tìm đúng mẹ con cháu để nhờ giúp đỡ đó thôi cháu ạ…
    Tôi gật đầu nói nhỏ:
    - Có lẽ… có lẽ đó chính là cơ duyên huyền bí mà mình không sao lý giải được… Phải không chú Tam?
    Hai chú cháu đang nói chuyện thì từ ngoài cổng có người đi vào. Tôi còn đang ngạc nhiên chưa biết người đó là ai thì đã nghe tiềng chào mời đon đả:
    - Dạ, bác ơi, chị ơi… làm ơn mua giúp cháu mấy tờ vé số!
    Chú Tam cười hề hề:
    - Chuyện lạ à nghen! Tự nhiên hôm nay lại có người đem vé số vô tận ngôi nhà vắng vẻ này để bán? Để coi… để coi… Thôi, tui lấy mười tờ.
    Quay sang tôi, chú Tam đưa cho tôi năm tờ và nói, nửa như giỡn chơi, nửa như thật tình ao ước:
    - Nè, chú cho mẹ con bây năm tờ! Nếu may mắn trời thương, bây trả sạch nợ!
    Tôi đưa tay nhận lấy mấy tờ vé số chú đưa cho, mặc dù trong lòng không có chút hy vọng nào, vì tôi vốn không quen với những trò đỏ đen, nhưng mắt tôi lại rưng rưng vì cảm động:
    - Dạ, con xin cảm ơn chú!
    Khi tiễn chú Tam về rồi, tôi đem năm tờ vé số cất kỹ vào túi hồ sơ đưng các loại giấy tờ quan trọng. Tôi không nghĩ tới chuyện trúng số, tôi chỉ muốn giữ gìn một kỷ niệm, một tấm lòng của ông chú xa lạ mới quen.
    Chiều đó, lúc hai mẹ con đang ngồi ăn cơm, chú Tam hộc tốc chạy tới. Không kịp dựng xe, chú quẳng luôn cho chiếc xe ngã chổng kềnh giữa sân, chạy ào vào nhà, hấp tấp như một chàng trai trẻ:
    - Đâu rồi? Vé số đâu rồi con? Tao nói… trời thương mẹ con bây mà… trúng độc đắc rồi con ơi!
    Tôi chưa kịp có phản ứng gì, chú Tam đã hạ thấp giọng thì thào:
    - Mà nè, đừng có la lớn nghen! Kẻ gian biết được thì nguy…
    Tôi đứng nhìn sững chú Tam không tin được những gì chú vừa mới nói.
    Tôi thật không ngờ, cuộc đời có biết bao điều không thể nào ngờ trước được! Số nợ khổng lồ tôi đã trả xong, nhưng tôi lại không muốn quay về thành phố.
    Ở đây, tôi có nhiều kỷ niệm, tôi có được tình người bao la, về làm gì nữa…
    Cuộc sống của mẹ con tôi trở lại nhịp điệu bình thường. Mỗi ngày tôi đưa con đi học rồi đến công ty làm việc. Gia đình tôi và gia đình chú Tam đã trở nên thân thiết lắm rồi. Chú thím nhận tôi là con nuôi. Và ở đây, thằng Bin con tôi lần đầu tiên được cất lên tiếng gọi “ngoại ơi” trìu mến…
    Người ta nói “phước bất trùng lai” là chưa thật chính xác. Vì ở vào trường hợp của tôi, có rất nhiều may mắn đến gần như cùng trong một khoảng thời gian ngắn.
    Gần một tháng sau ngày đem hài cốt đứa bé lên khỏi giếng, nhà tôi có khách lạ đến thăm. Đó là một thanh niên cao ráo, đẹp trai và nhìn có vẻ sang trọng lắm.
    Vừa bước vào nhà, cậu ta ngó quanh quất một lúc rồi hỏi:
    - Dạ xin lỗi chị, có phải… chú Tam đã giao nhà này cho chị trông coi?
    Tôi ngạc nhiên nhìn người thanh niên và hỏi lại:
    - Đúng rồi! Xin hỏi… anh là ai?
    Người thanh niên mỉm cười chưa kịp trả lời thì có bóng chú Tam từ ngoài cửa đi vào. Chú cười nói:
    - Ba xin giớùi thiệu với con, đây là là cậu Hải, đứa bé từng lớn lên trong nhà này mà có lần ba đã kể với con đó!
    Rồi quay sang người thanh niên, chú Tam – mà giờ đã là ba nuôi của tôi nói:
    - Còn đây là cô Mai, người mà lần trước bác có nói với anh Cả.
    Người thanh niên xin phép đi một vòng quanh nhà. Sau đó khi trở lại phòng khách, anh ta nói với vẻ quan trọng:
    - Hôm nay, tôi về đây là có việc muốn bàn cùng bác Tam và chị…
    Tôi bắt đầu thấy lo lắng, vì sợ người thanh niên này sẽ đuổi mình ra khỏi nhà.
    - Nhưng trước khi bàn đến chuyện chính, tôi xin được kể lại câu chuyện này. Đáng lý ra tôi chỉ kể với bác Tam thôi, nhưng hiện tại chị đã được bác nhận làm con nuôi và hiện chị đang sống trong nhà này. Bởi thế, tôi nghĩ chị cũng cần biết qua…
    Người thanh niên dừng lại đưa mắt ngó quanh nhà. Hai cha con tôi đều hồi hộp, không biết chuyện anh ta sắp nói là chuyện gì.
    - Tôi là con trai của ông Cả!
    Người thanh niên đột ngột nói.
    Ba tôi giật mình nhìn sững anh ta. Tôi tuy trước đó cũng mang máng nghĩ tới giả thuyết này, nhưng lúc này cũng không tránh khỏi bất ngờ.
    - Ba và mẹ tôi đã có mối tình vụng trộm với nhau. Sau khi tôi ra đời, ba vì muốn ở cạnh tôi nên năn nỉ mẹ cố gắng nhẫn nhục về làm người giúp việc trong nhà để hàng ngày cả ba người được sống gần nhau. Vì thương ba, vì thương tôi nên mẹ đồng ý. Cuộc sống của mẹ con tôi trong nhà này cũng êm đềm lắm, vì má lớn là người nhân hậu, đối đãi với mẹ tôi như chị em trong nhà chứ không xem là tôi tớ. Nhưng mẹ tôi, vì thương cho tôi, thương cho cái sự thiệt thòi của tôi, cũng đồng là con mà tôi thì không có gì, còn anh tôi lại có tất cả. Chính từ lòng thương đó mẹ tôi dần dần trở thành ích kỷ và tàn nhẫn. Mẹ thề với lòng sẽ đem lại cho tôi những thứ mà anh tôi có.
    Hôm đó, ba tôi vắng nhà. Má lớn bị đau đầu nên ngủ trong phòng, tôi và anh Mẫn – con của má lớn – chạy chơi ngoài vườn. Trong lúc hai anh em giành nhau đồ chơi, anh Mẫn đã xô tôi ngã làm tay tôi bị rớm máu.
    - Mẹ ơi… anh Mẫn ăn hiếp con…
    Tôi mếu máo chạy vào nhà mách mẹ. Mẹ cầm lấy tay tôi, thổi phù phù mấy hơi liên tiếp vào đó cho tôi bớt đi cảm giác nóng rát rồi dỗ dành:
    - Không sao rồi! Không sao rồi… Con ngoan về phòng ngủ đi nhé, đừng chơi nữa, trời nắng lắm…
    Tôi ấm ức vì không nghe mẹ bênh vực tôi và mắng mỏ anh Mẫn, nhưng tôi cũng nghe lời về phòng và ngủ ngay sau đó.
    Trong lúc ấy, mẹ ra sau vườn tìm anh Mẫn, ngọt ngào:
    - Trời nắng quá, chơi mệt chưa con? Dì đem nước mát cho con uống nè!
    Anh Mẫn thích thú đón lấy ly nước mát từ tay mẹ tôi và uống một hơi cạn sạch.
    - Aùo con dơ rồi kìa, để dì cởi ra thay áo khách cho con nghen?
    Mẹ tôi vừa kéo anh Mẫn lại gần để cởi áo, vừa thủ thỉ nói chuyện với anh. Chưa đầy năm phút sau, anh Mẫn đã lăn ra ngủ say trong lòng mẹ tôi. Và lúc đó, mẹ tôi thực hiên hành vi tội ác của mình.
    Trong lý nước mẹ tôi đưa cho anh Mẫn uống có pha một liều thuốc ngủ cực mạnh. Khi anh Mẫn đã ngủ, mẹ dùng tay siết thật cổ anh, đến lúc biết chắc anh không còn sống nữa thì mẹ đi tìm mấy tảng đó ở góc vườn, cột chặt anh vào đấy và mang thả xuống giếng.
    Mẹ tôi lấy chiếc áo của anh Mẫn xé toang ra rồi đem nhuộm với máu gà, sau đó lén đem bỏ vào rừng để đánh lạc hướng, khiến mọi người nghĩ anh Mẫn bị thú rừng hại chết.
    Vì quá đau đớn, má lớn tôi trở thành điên loạn. Nhưng một thời gian sau, tinh thần của má lớn hình như dần dần được hồi phục, đồng thời má lớn cứ suốt ngày rì rầm trò chuyện với một người vô hình nào đó, hỏi thì má bảo người đó là anh Mẫn. Má lớn lại thường xuyên ra ngồi bên cạnh bờ giếng, do đó mẹ tôi lo sợ mọi việc đổ bể. Đã phóng lao thì phải theo lao, mỗi ngày sắc thuốc Bắc cho má lớn uống, mẹ tôi bỏ vào đó một ít độc dược. Chất độc đó không giết người ngay lập tức, nhưng nó sẽ ngấm dần vào cơ thể, không lâu sau người bệnh sẽ kiệt sức mà ra đi. Má lớn tôi đã chết như vậy.
    Sau đó, ba đưa mẹ con tôi ra nước ngoài, vừa để trốn tránh những đau thương, vừa để chúng tôi có thể sống công khai bên nhau mà không phải sợ người đời dị nghị dèm pha.
    Mẹ tôi vui lắm, cứ tưởng sang bên đó sẽ được danh chánh ngôn thuận làm vợ của ba, nhưng ông trời có mắt, ông không cho phép mẹ tôi được hưởng hạnh phúc dù chỉ một đôi ngày.
    Vừa đặt chân xuống sân bay là mẹ tôi ngã ra ốm nặng. Ba tôi nghĩ chắc mẹ chưa quen với khí hậu ở đó, hy vọng một vài hôm sẽ khỏi.
    Rồi thì mẹ tôi cũng khỏi thật, nhưng không ngờ lại chuyển sang bị thần kinh! Mà bệnh thần kinh của mẹ tôi thật đáng sợ chứ không hiền lành như má lớn tôi dạo trước đâu! Gặp bất cứ ai, mẹ tôi cũng cào cấu, cắn xé hoặc mắng chửi vang trời. Không thể giữa mẹ lại trong nhà, ba tôi phải đưa mẹ vào nhà thương điên từ đó!
    Hải ngừng kể thở dài, ánh mắt buồn rầu xa xăm.
    Ba tôi kêu lên:
    - Trời ơi… Té ra cô ấy đặt chân ra nước ngoài để sống trong nhà thương điên sao? Tôi không thể nào ngờ được sự việc lại ra đến nông nỗi đó… Rồi bao lâu sao bệnh tình cô ấy mới thuyên giảm?
    Nghe câu hỏi của tôi, Hải cúi mặt kể tiếp:
    - Bệnh của mẹ không hề thuyên giảm, dù ba đã chữa chạy khắp nơi, mời đến những bác sĩ tiếng tăm nhất. Nhưng rồi đột ngột mấy tháng trước mẹ trở lại bình tỉnh khác thường. Mẹ nhớ lại tất cả những chuyện xảy ra hồi còn ở Việt Nam. Ba tôi mừng lắm, lúc này ông đã già lắm rồi, chuyện xưa lúc nhớ lúc quên, nhưng vẫn biết sung sướng khi nghe tôi báo tin mẹ đã bình phục. Tôi đón mẹ về nhà với cha con tôi.
    Mẹ rất vui khi được về nhà. Suốt buổi sáng mẹ cứ luôn tay dọn dẹp nhà cửa. Trưa hôm đó mẹ bảo tôi đừng đi đâu hết mà ở nhà, mẹ có chuyện cần nói. Mẹ đã tự thú với tôi tất cả những tội ác mà mẹ đã gây ra.
    - Dù mẹ làm rất khéo léo, bao nhiêu năm qua vẫn chưa ai phát hiện được, nhưng con ơi, lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt được… Mẹ đã phải nhận lấy hậu quả những việc mình làm… Bây giờ… mẹ có linh cảm mẹ không còn sống được bao lâu nữa, mẹ chỉ có một ước nguyện sau cùng, con có thể thay mẹ thực hiện, được không con?
    Mẹ tôi vừa khóc vừa nói. Nhìn những dòng nước mắt lăn dài trên gương mặt già nua khốn khổ của mẹ mà tôi đau lòng như ai cắt.
    - Mẹ ơi, mẹ đừng nói thế! Bây giờ mẹ đã khỏe rồi, mẹ sẽ sống với ba và con… Mẹ muốn con làm gì con cũng sẽ làm cho mẹ yên lòng!
    Tôi ôm chầm lấy mẹ.
    Bà đây tôi ra, nhìn tôi thật lâu rồi quỳ sụp xuống lạy khắp bốn phương, vừa lạy vừa khóc lóc:
    - Xin trời phật tha cho con trai tôi, nó là đứa vô tội. Tất cả mọi việc tôi làm nó không hề hay biết… Xin đừng làm gì tổn hại đến con trai tôi…
    Khóc một hồi, mẹ quay về phía tôi dặn dò:
    - Con hãy về lại quê hương, tìm vớt hài cốt anh con lên mà an táng cho đàng hoàng. Và hãy thay mặt mẹ, làm một bữa cơm cúng má lớn và anh Mẫn, xin hai người họ tha thứ lỗi lầm, mẹ nguyện sẽ đền tội, chỉ xin tha cho con thôi…
    Mẹ cứ vật vã khóc than, đến khi tôi hứa sẽ thực hiện điều đó ngay thì mẹ mới nở nụ cười mãn nguyện.
    - Thôi, con lên phòng nghỉ ngơi đi, mẹ tắm xong sẽ lên với ba con coi ổng có cần gì không?
    Vừa nói mẹ vừa đứng lên đi vào phòng tắm.
    Tôi về phòng mình, nằm nhớ lại những chuyện đau lòng mẹ vừa mới kể và thấy lo lắng cho quãng đời còn lại của mẹ biết bao.
    Tôi vẫn còn nhớ như in cái ngày tang thương khi biết tin anh Mẫn bị thú rừng ăn thịt… Vậy mà… Tôi là con, tôi không có quyền lên án mẹ, nhất là khi mẹ vừa mới tỉnh trí sau nhiều năm điên loạn.
    Hơn hai tiếng đồng hồ sau, tôi xuống nhà và tình cờ phát hiện mẹ tôi đã chết trong bồn tắm.
    Theo kết quả pháp y, mẹ tôi chết do bị đột quỵ trong lúc đang tắm. Nhưng theo tôi, cái chết của mẹ còn có liên quan đến những vấn đề tâm linh thần bí khác nữa.
    Bây giờ thì mẹ tôi đã được an táng, tôi trở về quê lần này là để thực hiện lời trối trăng của mẹ, đồng thời cũng muốn làm một vài việc riêng mình.
    Hải kết thúc câu chuyện, ba tôi ngồi lặng đi một lúc thật lâu rồi đứng lên, nói:
    - Cậu đi theo tôi!
    Hải tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi gì, chỉ đứng lên theo gót ba tôi và tôi lên gác.
    Khi vào đến căn phòng nhỏ trên gác, Hải sửng người khi thấy trên bàn thờ là di ảnh của bà chủ nhà và bài vị của cậu con trai.
    À, tôi quên không kể, thời gian gần đây, tôi đã đưa chồng tôi về thờ tại phòng con trai, để căn phòng đó thờ mẹ con bà chủ nhà.
    Ba tôi chậm rãi kể lại cho Hải nghe toàn bộ sự việc diễn ra trong thời gian gần đây và cả chuyện tôi nằm mơ thấy mẹ con bà chủ nhà dắt tay nhau bay lên bầu trời cao rộng…
    - Cháu có còn nhớ vật này không?
    Ba tôi cầm con búp bê bằng sáp lên, hỏi Hải.
    - Dạ… con nhớ chứ! Nhưng… tại sao?
    Ba tôi lắc đầu:
    - Bác cũng không biết tại sao! Nhưng thôi, mọi việc đến hôm nay coi như đã ổn thoả rồi, cháu Mẫn cũng đã siêu thoát rồi, mọi tội lỗi đã được phán xét, chúng ta không nên nhắc lại làm gì nữa… Từ hôm nay chúng ta hãy quên đi, nhé?
    - Thưa bác, cháu có việc này cần thưa với bác và chị Mai…
    Hải nói.
    Ba tôi ngạc nhiên hỏi lại:
    - Ủa, lại còn chuyện gì sao?
    Hải lúng túng:
    - Dạ… chuyện là thế này ạ! Mấy năm trước, khi nhận thấy sức khỏe mình đã sa sút, ba cháu đã trao toàn bộ tài sản lại cho cháu, trong đó có cả ngôi nhà này. Lúc chuẩn bị về nước, cháu đã nghĩ rất nhiều. Biết tội lỗi mẹ mình gây ra là rất lớn, dù có làm cách nào cũng không thể xóa được, nhưng cháu vẫn hy vọng và cố gắng làm tất cả để mong mẹ cháu được vơi bớt, linh hồn bà không phải bị đọa đày… Cháu dự định sẽ bán ngôi nhà này lấy tiền bảo trợ cho một trại trẻ mồ côi… Nhưng hôm nay, khi biết rõ mọi chuyện xảy ra ở đây, cháu muốn được tặng lại ngôi nhà này cho cô Mai… Ý của bác và cô thế nào ạ?
    Tôi quá bất ngờ, và không thể tin những gì vừa nghe là sự thật nên cứ đứng trơ ra đấy.
    Còn ba tôi, ông cười khà khà:
    - Được quá đi chớ! Hổng phải vì nó là con gái nuôi của tao mà tao nói vào, nhưng rõ ràng mẹ con nó với gia đình này chắc hẳn kiếp trước cũng có liên quan gì với nhau đây, nên mới có những sự trùng hợp vậy. Cả hai đứa nhỏ cũng có cùng ngày tháng sinh…
    Hải ngạc nhiên:
    - Thật vậy sao? Quả là hiếm có! Vậy là coi như việc này xong, chị Mai nhé? Mong chị đừng từ chối tấm lòng của tôi. Chị ở lại ngôi nhà này, tôi nghĩ má lớn và anh Mẫn tôi cũng sẽ hài lòng lắm.
    Hải ngừng lời một chút rồi mới nói tiếp:
    - Còn tôi, khi trở về bên ấy, tôi cũng sẽ chuyển nhượng bớt các cơ sở làm ăn để bảo trợ lâu dài cho trại trẻ mồ côi ở quê mình.
    Ba tôi gật gù:
    - Thằng Hải mầy tính vậy là tốt lắm đó con! Nhưng… theo bác nghĩ, anh Cả tuổi đã cao, mà cuộc sống ở nước ngoài đối với ảnh làm sao bằng ở quê nhà được? Hay là… con coi đưa ảnh về quê hương, hổng chừng ảnh khỏe ra cũng nên.
    Hải thở dài:
    - Dạ! Quả thật ba con sống bên đó buồn lắm, suốt ngày loanh quanh trong bốn bức tường, mà con thì cứ đi suốt, đến ngay cả người nói chuyện cùng ba cũng không có. Nhưng…  nếu con đưa ba về đây thì…
    Tôi lên tiếng:
    - Anh cứ đưa bác về đây đi! Đây là nhà của bác, khi về lại nơi này chắc bác sẽ hạnh phúc lắm. Tôi tình nguyện làm người chăm sóc bác, anh đừng lo!
    Hải nhìn tôi, do dự:
    - Như vậy… như vậy có được không?
    Tôi cười lớn:
    - Được quá đi chứ! Tôi là con cái trong nhà mà!
    Cả ba cùng cười vui vẻ.
    Từ sau hôm đó, tôi và con trai chuẩn bị đón thêm một người đến ở cùng mình.
    Tôi nói với con trai:
    - Ông nội sắp về rồi đó con à!
    Thằng bé hớn hở:
    - Ô, thích quá! Con vừa có ông bà ngoại, lại sắp có ông nội nữa, thích quá đi!
    Tôi lặng lẽ mỉm cười và cảm ơn cuộc đời đã mang đến cho mẹ con tôi những may mắn hiếm hoi như vậy!
    Hết
    Nguyễn Thị Mộng Thu
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:34:53 bởi nguyenthu >
    #77
      nguyenthu 10.08.2009 22:13:07 (permalink)
      NGƯỜI CANH NHÀ XÁC
       
      Tôi trở thành người coi nhà xác một cách hoàn toàn bất ngờ. Một thằng con trai hơn hai mươi tuổi, sức vóc hơn người, quanh năm quần quật với những công việc nặng nhọc, đùng một cái lại đi làm cái nghề mà ai nghe qua cũng sợ. Điều đó ngay chính bản thân mình, nhiều lúc tôi cũng không dám tin.
      Lâu nay tôi chơi thân với ông bạn già cùng xóm: Ông Tư! Ông ấy là người coi nhà xác của bệnh viện. Nghề này của ông là cha truyền con nối, nghe đâu từ thời ông cố của ông lận.
      Đến đời ông Tư, nghề nghiệp không còn đơn giản như lúc trước nữa, mà nó đã thay đổi theo sự tiến bộ của xã hội.
      Ngoài vịệc canh giữ những xác chết chờ thân nhân đến nhận về, hoặc chờ nhà nước có biện pháp nào đó với các xác chết vô thừa nhận, ông Tư còn kiêm thêm nghề trang điểm cho xác chết.
      Trong số ít những nghề phải tiếp xúc với xác người như pháp y, vớt xác, trang điểm xác… thì coi nhà xác là nghề “sát” với tử thần ở tần suất cao nhất. Vậy mà ông bạn vong niên của tôi vừa coi nhà xác, vừa trang điểm xác, mới biết sự tiếp xúc của ông với thần chết gần gũi đến mức nào.
      Chính vì chơi thân với ông mà lâu nay tôi đã ra vào nhà xác nhiều lần, mặc dù vẫn không sao quen được với cái phòng lạnh vắng vẻ rợn người, mùi tử khí quyện với mùi thuốc sát trùng bao trùm lên người đàn ông có gần hai mươi năm làm nghề giữ xác, nhưng tôi đã không còn quá sợ hãi như lần đầu đến đây với ông nữa.
      Vì ông Tư là người độc thân, không vợ không con, và tôi cũng vậy. Và có thể vì lý do đó nên tôi là kẻ nối nghiệp của ông một cách bất đắc dĩ.
      Lần đầu tiên tôi thật sự tiếp xúc với xác chết là cái lần tôi và ông đang nhậu lai rai ở căn phòng nhỏ xíu của ông ngay cạnh bên nhà xác. Lúc đó có mấy người chết do môït tai nạn giao thông thảm khốc mới được đưa vào, thân nhân chưa tới kịp nên ông Tư phải tiếp nhận đưa vào phòng bảo quản xác chết của mình.
      Một mình ông với bốn xác người quả là vất vả. Ông loay hoay một hồi rồi gọi lớn:
      - Ê, Thanh! Mau ra giúp tao một chút rồi vô nhậu tiếp mầy!
      Lúc đó trong người đã có chút hơi men, nên dũng khí trong tôi bất chợt bốc cao. Tôi không ngần ngại mà xắn tay áo lên cùng ông Tư đem họ vào phòng, lau rửa, rồi đặt từng người vào mỗi ngăn riêng biệt có đánh số hẳn hoi.
      Khi công việc xong xuôi, tôi và ông Tư vừa ngồi vào bàn nhậu chưa lâu thì thân nhân người xấu số tìm tới. Họ đau đớn, khóc than thảm thiết khi thấy người thân của mình chết mà không được toàn vẹn thi thể.
      Một người phụ nữ không ngừng rên rỉ:
      - Mẹ ơi là mẹ, khi còn sống, lúc nào mẹ cũng sợ mình già mình xấu, bây giờ mặt mày mẹ lại như vầy, con đau lòng quá đỗi, mẹ ơi!
      Rồi sau đó, khi được sự chỉ dẫn của mấy cô hộ lý, thân nhân của người quá cố lại tìm gặp ông Tư.
      - Chú làm ơn giúp giùm… gia đình chúng cháu rất mang ơn… Chúng cháu không nỡ để xác của người thân trong tình trạng này được chú ơi…
      Người ta năn nỉ ông Tư ra tay giúp đỡ. Thế là mâm rượu của tôi và ông đành phải gác lại thêm lần nữa.
      - Đi mầy, theo tao!
      Ông Tư đứng lên, ra lệnh ngắn gọn cho tôi như vậy.        
      Tôi lấy cái lồng bàn cũ mèm đậy lại mâm cơm rượu ăn uống dở dang, vừa lầm bầm vừa bước theo ông đi trở qua nhà xác.
      Đến bên xác của một người quá cố, ông Tư giở tấm giấy che mặt ra nhìn lại một lần cho thật kỹ: hai con mắt lồi ra ngoài, gương mặt co dúm, dị dạng, phần trán đã bẹp lép, rạn, từng mảng sọ còn đọng những vết máu khô...
      Ông Tư  ra lệnh cho tôi lấy rượu trắng lau lại người và gương mặt cho xác chết rồi bắt đầu lấy dụng cụ trang điểm.
      Ông Tư dùng tay day day nhẹ vào mắt của người chết để cho đôi mắt khép hờ lại và vuốt những phần co dúm của gương mặt rồi thoa nhẹ một lớp phấn lên trên.
      Tiếp đó, ông đánh một lớp phấn hồng khá đậm trên gương mặt tử thi và bắt đầu dùng son, bút vẽ tô lại những phần còn lại của môi, chân mày còn nguyên vẹn của người quá cố...
      Khoảng ba mươi phút, việc trang điểm hoàn tất. Ông Tư xịt nước hoa khắp thân thể tử thi.
      Lần lượt như thế với ba xác chết tiếp theo. Thời gian trang điểm lâu mau còn tùy thuộc vào xác chết đó có bình thường, nguyên vẹn hay không.
      Phải thừa nhận, qua bàn tay trang điểm của ông Tư, gương mặt những người vắn số lúc này trông đã đỡ... kinh hãi hơn lúc đầu.
      Ông Tư cho biết, trang điểm theo kiểu... cõi âm khác dương chút đỉnh nên mặt người chết được đánh phấn khá đậm và lông mày kẻ xếch lên như kiểu... hát bội.
      Kể từ cái hôm đó, thỉnh thoảng rảnh việc, tôi thường tới chơi và giúp ông Tư một số việc liên quan đến xác chết.
      Rồi một lần, người bà con xa của ông Tư ở tuốt dưới Cà Mau bệnh nặng có thể không qua khỏi, ông cần nghỉ mấy ngày để về đó viếng thăm.
      - Giám đốc nghỉ còn có người thay, còn tao, cả cái bệnh viện này có ai làm thay công việc của tao được đâu mậy! Mầy thấy tao oách chưa?
      Ông Tư cười khà khà nói với tôi như thế.
      Rồi ông dụ khị:
      - Mầy làm giúp tao mấy ngày nghe? Lâu nay tao cho mầy học nghề rồi mà… Công việc của tao chỉ có mầy là giúp được thôi đó con ạ!
      Tôi giật mình phản đối:
      - Thôi đi cha! Con không dám đâu, một mình con ở đây sợ ma bắt lắm!
      Ông Tư ngó tôi rồi phì cười:
      - Mầy nhìn lại mầy coi, có cái xác nào trong đây đủ sức oánh lộn với mầy không con?
      Tôi cãi:
      - Ông nói vậy chứ ma phải khác người, họ có sức mạnh phi thường!
      Ông Tư ngạc nhiên kêu lên:
      - Trời đất! Mầy mà cũng dị đoan dữ vậy sao?
      Tôi cười:
      - Chứ sao cha!
      Bất chợt ông Tư thôi không cười nữa, ông nhìn tôi bằng ánh mắt không vui cũng không buồn, chỉ có điều nó thật xa vắng, mông lung.
      Ông chậm rãi nói:
      - Thanh à, mầy phải biết người chết cũng giống như người sống vậy thôi. Mà hổng chừng họ còn hiền hơn cả người sống nữa đó mầy! Mình ở đây lo bảo vệ, giữ gìn thân xác họ để chờ thân nhân họ đến đưa về an táng, sao họ lại làm hại mình kia chứ? Mầy phải tin vào điều đó con à!
      Rồi ông nói thêm:
      - Lâu nay mỗi lần mầy giúp tao, tao vẫn luôn âm thầm quan sát cách làm việc  của mầy, tao nhận thấy mầy rất có cái tâm, vì vậy tao rất yên lòng nếu mầy chịu nhận lời thay tao ít ngày…
      Tôi vẫn lắc đầu quầy quậy:
      - Không được, cha biểu con làm gì con cũng làm, chỉ riêng chuỵên này cho con xin, con không dám nhận.
      Ông già buồn bã, không nài ép tôi nữa mà tỏ ra buồn bực, bứt rứt ghê lắm.
      Tôi tò mò hỏi:
      - Thì ông cứ xin nghỉ, chẳng lẽ bệnh viện họ không cho? Làm việc phải có nghỉ phép chứ cha?
      Ông Tư gật gù:
      - Đành là vậy, nhưng tao rất ái náy khi biết xin nghỉ phép là gây khó khăn cho bệnh viện…
      Cuối cùng, tôi không sao chịu được cái ánh nhìn mênh mông xa vắng của ông mỗi khi nhắc tới người bà con đang hấp hối ở quê nhà. Lúc thức, lúc ngủ tôi đều bị ánh nhìn của ông bạn già ám ảnh.
      Thế là sáng hôm sau tồi xồng xộc tới gặp ông:
      - Cha nội lo thu xếp về quê đi, tui thế cho!
      Ông Tư ngó sững tôi một lúc rồi bật cười ha hả:
      - Tao biết ngay mà! Tao biết ngay mà!
      Rồi ông Tư lên đường, lần đầu tiên tôi ở một mình nơi nhà xác quạnh hiu, lạnh lẽo.
      Cũng may, hai ngày đầu không có chuyện gì cho tôi làm, cứ suốt ngày ra vào cho có.
      Đến ngày thứ ba, ngày phép cuối cùng của ông Tư thì có việc. Một đứa bé qua đời do tai nạn giao thông, chưa có mặt thân nhân nên tôi phải nhận xác về bảo quản.
      Mặc dù lúc này tôi cũng đã hơi thạo việc, nhưng thật sự khi làm việc một mình tôi vẫn cảm thấy sợ hãi không ít.
      Tôi đón xác đứa bé về, rồi cũng làm đủ các thao tác như ghi chép vào sổ sách, lau rửa thi thể rồi để vào ngăn lạnh, rồi đeo bảng số lên ngăn… Nhưng lúc bế đứa bé đặt vào hộc ướp, cửa hộc khép lại, lòng tôi bỗng trào lên một nỗi thương tâm, nỗi thương tâm đó đã xua tan sự sợ hãi luôn đeo bám tôi từ lúc ôm xác đứa bé về.
      Trong tiếng máy chạy xè xè của tủ ướp, tôi lại mở cánh cửa thép. Khói lạnh phun ra... Ở trong hộc, thi thể đứa bé được quấn vải trắng toát, nằm gọn gàng. Đó là một đứa bé trai cỡ sáu, bảy tuổi. Không biết khi cha mẹ nó hay tin sẽ đau đớn tới mức nào?
      Tôi chạnh lòng khi nghĩ tới cảnh lát nữa đây cha mẹ đứa bé tới, những tiếng kêu khóc lại vang lên…
      Và trong lúc đó, tự nhiên tôi lại ôm xác đứa trở ra, đặt nằm ngay ngắn lên bàn rồi bắt chước ông Tư, tôi lôi hộp đồ nghề trang điểm của ông ra và bắt tay vào trang điểm cho đứa bé. Tôi muốn lát nữa đây, gia đình nó sẽ bớt được phần nào thương tâm khi nhận xác con mình.
      Khi mọi việc xong xuôi, tôi đặt đứa bé trở vào hộc ướp và cảm thấy lòng mình tràn ngập nỗi buồn.
      Một sinh linh bé bỏng đã về bên kia thế giới. Ở bên ngoài, trần gian vẫn rực rỡ nắng vàng với dòng người xe nhộn nhịp.
      Sau chuyến nghỉ phép của ông Tư, ông không ngừng rủ rê tôi để cuối cùng tôi chấp nhận nộp đơn xin vào đây làm việc cùng ông.
      Đơn xin việc của tôi nhanh chóng được phê duyệt. Vì đúng ra bệnh viện này cần thêm người coi nhà xác đã lâu nhưng không tìm được. Vả lại ở đây mọi người đều biết tôi, và biết luôn việc tôi đã làm thế ông tư trong những ngày ông nghỉ phép.
      Tôi trở thành người coi nhà xác từ đó.
      Rồi hai năm sau ông Tư qua đời vì một cơn cảm nhẹ. Trong căn phòng nhỏ quạnh hiu cạnh bên nhà xác còn lại một mình tôi, ngày đêm tôi ra vào thui thủi.
      Tôi đang ở tuổi thanh niên, nên không thể không có những cuộc vui cho bản thân mình.
      Tôi quen Lan trong đám cưới của một người bạn. Lan là một cô gái xinh đẹp và dịu dàng, mới gặp lần đầu tôi đã choáng ngợp trước Lan.
      Lan mở một tiệm may tại nhà và sinh sống bằng nghề đó.
      Khi Lan hỏi thăm nghề nghiệp của tôi, tôi thật sự lúng túng và không dám nói thật với Lan tôi là người canh giữ nhà xác của bệnh viện mà nói loanh quanh, đại để là làm một chân bảo vệ ở bệnh viện. Lan cũng không hỏi gì nhiều thêm.
      Quen nhau một thời gian không lâu, tôi tỏ tình và được Lan đồng ý. Khỏi phải nói cũng biết tôi vui sướng, hạnh phúc đến đâu rồi!
      Nhưng sự đời quả thật có những điều không thể biết trước được! Do một sự tình cờ, Lan biết rõ tôi làm nghề canh nhà xác, thế là ngay lập tức Lan nói lời chia tay.
      Tôi đau buồn vô hạn khi nghe Lan dịu dàng nói rằng:
      - Em không thể tiếp tục đến với anh được nữa anh Thanh à, mong anh hãy hiểu cho em…
      Tôi không thể chấp nhâïn, tôi hỏi Lan:
      - Tại sao lại như thế hả em? Đó cũng là một nghề lương thiện mà?
      Lan cười thật buồn:
      - Đúng vậy! Em cũng biết đó là một nghề lương thiện, em không trách gì anh. Nhưng… em không thể chịu đựng được khi nghĩ tới cảnh đôi bàn tay đang ôm ấp vuốt ve mình đã từng ôm bao nhiêu xác chết, người đàn ông đang ngồi cạnh bên mình ngày đêm cận kề bên những tử thi vô thừa nhận… Em… em không chịu đựng nỗi anh à! Những hạnh phúc, những niềm vui thật sự không thể tồn tại được trước những lo sợ ám ảnh trong em. Em mong anh hãy hiểu mà tha thứ cho em…
      Tôi buồn, buồn thật nhiều nhưng tôi không trách Lan, bởi vì em có quyền đi tìm cái hạnh phúc thật sự mà em cần, em có quyền đi tìm cho mình người đàn ông có thể đem lại cho em sự bình an, sự chở che chứ không như tôi, kẻ chỉ đem lại cho em nỗi sợ hãi, lo lắng và những ám ảnh nặng nề.
      Thôi cũng đành, biết làm sao hơn, cũng đành chấp nhận nỗi đắng cay mà mối tình đầu đời mang lại. Tôi buồn và từ đó hầu như không thiết tha gì tới chuyện giao tiếp với người khác, nhất là những người khác phái.
      Sau này, có lúc tôi tự hỏi, sao lúc đó mình không nói với Lan là sẽ bỏ nghề canh giữ xác chết để tìm lấy một nghề nào đó thật “sống” để được tiếp tục yêu em? Nhưng tôi đã tự trả lời cho mình rằng, canh giữ nhà xác lúc này hình như không còn là một cái nghề đơn giản để kiếm cơm nữa, mà nó đã trở thành cái nghiệp của tôi rồi, tôi không thể dứt nó ra khỏi cuộc đời mình!
       
      ***
      Căn phòng nhỏ xíu nằm sát cạnh nhà xác hầu như không ai lui tới nhưng với tôi nó lại là nơi ấm áp thân quen. Và những tử thi vô tri vô giác kia dường như có mối dây liên hệ nào đó rất gần gũi với tôi. Có rất nhiều lần tôi tự mình trang điểm nhan sắc cho người chết không theo yêu cầu của thân nhân, mà là do tự lòng tôi cảm thấy cần phải thế!
      Giờ đây tôi mới hiểu hết những gì trước đây ông Tư thường nói với tôi:
      - Đã là con người thì ai cũng có nhu cầu làm đẹp mầy à, kể cả khi họ chết đi, chắc chắn họ cũng không muốn hình ảnh mình để lại không được đẹp trước mắt mọi người. Tao làm công việc này không phải vì tiền, mà là vì cái tình của tao đối với người đã khuất. Thôi, nghĩa tử là nghĩa tận, mình vất vả một chút có là gì đâu!
      Hồi đó, khi nghe ông Tư nói vậy, tôi đã bật cười:
      - Hèn gì người ta kêu cha nội là ông Tư “hâm”! Nếu như cha làm việc đó là vì tiền thì con còn hiểu nỗi, đằng này… thiệt hết biết!
      Tôi nói câu đó, ông Tư không những không giận mà còn cười hề hề rót rượu vào đầy ly đưa cho tôi và nói:
      - Người ta làm sao hiểu được tao hả mậy? Họ làm sao biết được xác chết cũng có tình…
      Tôi nhìn ông Tư bằng ánh mắt giễu cợt, đưa ly rượu lên uống một hớp rồi cười:
      - Cha ơi, cha say lắm rồi!
      Ông Tư nhìn tôi thật trìu mến:
      - Mầy ở đây với tao lâu ngày rồi mầy cũng sẽ nhận biết điều đó thôi con ạ!
      Tôi cười vang:
      - Tức là cha nội muốn nói, con mà tới lui chỗ này thường xuyên, thế nào con cũng hâm giống cha nội chứ gì?
      Tôi và ông Tư, hai người bạn vong niên cùng bật cười vui vẻ.
      Bây giờ thì tôi đã thật sự hiểu và cảm nhận được những gì trước đây khi ông Tư nói ra tôi cười vì cho là điên dại.
      Khi đón một xác chết về, tôi cảm nhận rõ nỗi đau đớn mà người đó phải chịu đựng trước khi trút hơi thở cuối cùng, cảm nhận được nỗi dằn vặt của họ vì còn có những điều quan trọng chưa kịp giãi bày với người thân, cảm nhận được cả những buồn vui, sướng khổ của đời họ…
      Và sau khi được tôi lau rửa sạch sẽ, tôi lại thấy họ như vơi đi những đau buồn, phiền não, họ có thể thanh thản hơn đôi chút để chờ đợi người nhà…
      Cứ thế, cứ thế… cuộc sống của tôi trôi đi đều đặn và âm thầm như thế!
      Tuổi trẻ của tôi đã qua đi, bây giờ tôi đã ngoài tuổi bốn mươi, tóc trên đầu đã có nhiều sợi bạc nhưng bên cạnh tôi vẫn chỉ là những xác chết, không một con người nào chia sẻ cùng tôi những nỗi vui buồn.
      Đôi lúc tôi thèm lắm một không khí gia đình, thèm một bữa cơm đầm ấm bên cạnh một người phụ nữ hiền hòa và những đứa bé bụ bẫm xinh tươi…
      Nhưng rồi tôi lại thở dài:
      - Tất cả là do số phận!
       
      ***
       
      Buổi tối trời mưa nặng hạt. Tôi từ bên nhà xác trở về căn phòng nhỏ, nằm một mình nghe tiếng mưa rơi mà dầu óc cứ nghĩ tới cô gái xấu số mới chết chiều nay.
      Đó là một người con gái trạc tuổi hai mươi lăm, có nước da trắng mịn màng và gương mặt hao hao giống Lan, người yêu của tôi thời còn trai trẻ.
      Cô gái bị tai nạn, khi người ta đưa vào phòng cấp cứu thì cô đã chết lâu rồi. Trong người cô không hề có giấy tờ tùy thân, nên việc tìm thân nhân cho cô không phải là đơn giản.
      Cô gái chết mà mặt mày tươi tỉnh như đang say ngủ, không một vết trầy xước, không một giọt máu rơi ra, tôi thầm hỏi không biết cô có phải chịu đựng nỗi đau thể xác trước khi mất hay không? Tôi hỏi rồi chính mình lại trả lời, có lẽ là không, cái chết đến với cô nhanh quá, cô chưa kịp nhận ra thì nó đã xâm chiếm toàn bộ cơ thể cô rồi, thế nên gương mặt cô mới có thể tươi tắn như thế!
      Tôi thẩn thờ trước thi hài của người xấu số, hộp đồ trang điểm trên tay tôi lúc này gần như trở thành vô dụng.
      Nhưng cuối cùng tôi cũng quyết định tô thêm lên môi cô gái một lớp son, phủ nhẹ lên hai gò má cô một lớp phấn hồng, để vài gờ nữa đây khi người thân cô đến, cô vẫn đẹp, vẫn tươi trước mắt họ.
      Vừa trang điểm cho cô gái, tôi vừa chạnh lòng thương cho thân phận của cô, một thiếu nữ đang giữa thời xuân sắc mà phải ra đi một mình lặng lẽ thế này.
      Tự nhiên hai dòng lệ lăn dài bên khóe mắt, tôi chưa kịp đưa tay lên lau, nó đã rơi thánh thót xuống má của cô gái.
      Trong tích tắc đó, tôi có cảm giác như ánh mắt cô sinh động hẳn lên, tròng đen dường như đang nhúc nhích. Tôi chớp mắt mấy cái, định thần nhìn kỹ lại thì thấy mọi việc vẫn bình thường, đôi mắt cô gái vẫn khép một cách hờ hững, không có dấu hiệu nào cho thấy vừa có một chút sự sống thoáng qua cơ thể cô.
      Aáy vậy mà tôi cũng không tin hoàn toàn. Tôi cúi sát xuống để lắng nghe phía dưới vòm ngực đang nhô cao một cách thách thức kia có chút động tĩnh gì của quả tim hay không, tôi sờ tay vào mũi cô gái với hy vọng được cảm thấy một làn hơi nhè nhẹ phả ra.
      Nhưng không, tuyệt nhiên không có bất cứ dấu hiệu nào của sự sống!
      Tôi buồn bã đặt cô vào ngăn lạnh rồi làm các thủ tục tiếp theo sau.
      Bây giờ, khi đã đặt lưng xuống chiếc giường quen thuộc của mình rồi mà tôi vẫn còn vương vấn không nguôi hình ảnh người con gái đó.
      Tôi tự hỏi, cô gái đó tên là gì? Đang làm gì, nhà cửa ở đâu và hoàn cảnh thế nào? Cô vẫn còn độc thân hay đã có chồng con hoặc người yêu? Những người thân trong gia đình cô sẽ tiếp nhận hung tin này với thái độ nào đây? Bất ngờ sửng sốt hay thờ ơ lạnh nhạt, đau đớn cuống cuồng hay thầm lặng núôt nước mắt vào tim? Thật nhiều, thật nhiều những câu hỏi tôi tự đặt ra, nhưng không sao tự trả lời cho mình được.
      Tôi ngồi lên tắt bớt ngọn đèn neon sáng chói, chỉ để lại một ngọn đèn ngủ vàng vọt nơi góc phòng.
      Ngã lưng trở xuống giường, tôi cố xua đuổi hình ảnh người con gái xa lạ đó để tìm giấc ngủ cho mình.
      Ngoài trời mưa vẫn rơi nặng hạt. Tiếng sấm chớp đì đùng, tiếng gió gào rú thê lương. Nằm trong nhà, nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên mái, khi đều đặn, lúc nhặt lúc thưa, tôi có cảm giác như có rất nhiều người đang đuổi bắt nhau trên ấy.
      Đầu óc tôi đang lơ mơ bỗng tôi nghe dường như lẫn trong tiếng gió mưa rú rít có tiếng đập cửa khẽ khàng.
      Tôi tỉnh hẳn ngủ, ngồi lên bật đèn. Nhưng xui xẻo thiệt, bóng đèn chớp chớp mấy cái rồi vụt tắt.
      - Tổ cha mầy, hết lúc đứt bóng rồi hả con?
      Tôi vừa lầm bầm vừa lê bước ra cửa. Tiếng đập vào cửa vang lên nghe rõ mồn một.
      - Ai đó? Ai khuya khoắt mưa gió thế này mà còn gọi cửa làm chi?       
      Tôi cất tiếng hỏi.
      Một tiếng nổ lớn như xé toạc cả bầu trời. Lẫn trong tiếng sấm dữ dội đó, tôi nghe có tiếng run rẩy của một người con gái:
      - Anh… anh ơi… làm ơn mở cửa cho em với!
      Tôi giật mình, ai đến đây giờ này? Ma ư? Không, không thể nào. Tôi đã ở đây hơn mười năm rồi, có thấy ma cỏ gì đâu?
      Tôi mạnh dạn mở hé cánh cửa ra. Một làn gió lạnh buốt thổi thốc vào kèm theo sự ướt át của cơn mưa như trút hết nước xuống trần gian.
      Một cô gái nhỏ nhắn lách mình nhanh vào bên trong. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ, tôi cũng đủ nhận thấy cô đang rét run lập cập. Mái tóc cô gái ướt nước, gương mặt và đôi môi tái xanh, đôi tay lóng ngóng như thừa thãi.
      Tôi lùi vào, nhanh tay đóng chặt cánh cửa rồi nhắc ghế mời cô gái:
      - Cô ngồi nghỉ, tôi lấy khăn cho cô lau nước, ướt át thế này lạnh chịu sao nỗi?
      Vừa nói tôi vừa bước lại gần chiếc tủ nhỏ, lấy cái khăn bông to bản mới mua chiều hôm trước còn chưa kịp xài ra đưa cho cô gái:
      - Cô lau tóc cho khô đi!
      Cô gái riu ríu nhận lấy và làm theo lời tôi nói.
      Tôi quay lại giường lấy cái mền đưa tiếp cho cô:
      - Cô choàng vào cho ấm, nhà tôi không có quần áo nữ cho cô thay…
      Cô gái ấp úng:
      - Dạ… dạ không cần đâu! Em cám ơn… nhiều lắm!
      Tôi ngồi xuống mép giường nhìn cô và hỏi:
      - Cô đi đâu mà đêm hôm khuya khoắt thế này?
      Cô gái cúi đầu lặng im một lúc mới nói:
      - Dạ, em nghe tin chị em bị tai nạn, xác còn nằm ở đây, em định tới… để… nhận về!
      Tôi giật mình:
      - Vậy ra… cô gái kia là chị của cô à?
      Cô gái ngước nhìn tôi, mắt long lanh sáng:
      - Anh nói cô gái nào?
      Tôi đáp:
      - Chiều này tôi mới tiếp nhận một thi hài nữ chưa biết thân nhân, chết do tai nạn giao thông, trong người không giấy tờ tùy thân. Đó là chị của cô à? Sao cô biết vậy?
      Cô gái nhỏ nhẹ:
      - Thì… gia đình em căn cứ vào chiếc xe bị nạn mà đoán ra… nhưng em cũng cần nhìn thấy mặt chị mới xác nhận được.
      Tôi gật gù:
      - Ừ đúng rồi đó!
      Lúc này mắt tôi đã quen với ánh sáng lờ mờ, tôi chợt nhận ra nét mặt hao hao giữa xác chết bên kia và cô gái đang ngồi cạnh bên tôi.
      Tôi nói:
      - Cô rất giống cô gái đó!
      Người con gái tỏ ra lúng túng:
      - Dạ… tụi em là chị em song sinh với nhau!
      Tôi khẽ kêu lên:
      - Hèn gì càng nhìn càng thấy giống! Nhà cô ở đâu mà biết tin sớm vậy?
      Cô gái dường như không thiết tha tới chuyện trả lời câu hỏi của tôi:
      - Dạ, cũng gần.
      Tôi nhìn qua kính cửa sổ thấy mưa vẫn chưa tạnh nên nói với cô:
      - Cô ngồi chờ chút, khi nào trời tạnh mưa, tôi sẽ dẫn cô qua đó để nhìn mặt chị cô nghen?
      Cô gái đáp nhỏ:
      - Dạ!
      Tôi hơi lâùy làm lạ trước thái độ của cô gái nhưng cũng không nói gì.
      Đột nhiên tôi nhận thấy cô gái ngồi trước mặt mình đang run lên bần bật. Tôi hốt hoảng hỏi:
      - Cô… cô bị làm sao vậy? Tôi đưa cô sang bệnh viện nhé?
      Cô gái vội vã xua tay, mắt nhìn tôi như cầu khẩn:
      - Em không sao đâu, chỉ bị lạnh chút thôi mà, chút nữa sẽ khỏi, anh không cần đưa em qua bên đó làm gì, em sợ lắm…
      Tôi ngạc nhiên:
      - Sợ? Cô sợ gì?
      Cô gái ấp úng:
      - Em sợ… bệnh viện! Sợ cái mùi của bệnh viện…
      Tôi phá ra cười ngặt nghẽo:
      - Ha ha ha… một người sợ bệnh viện lại tìm tới nhà xác vào lúc đêm tối gió mưa… cô thật là khác người!
      Bỗng nhiên cô gái bật khóc nức nỏ làm tôi không tránh khỏi hoảng hốt:
      - Cô… sao vậy? Tôi nói gì không phải à? Thôi, cho tôi xin lỗi nếu đã lỡ lời nghen?
      Cô gái không nói gì chỉ ngồi đó không ngừng thút thít.
      Lúc này thì tôi bối rối thật sự. Khi khổng khi không, đang đêm có một người con gái tới phòng mình ngồi khóc rấm rứt, đèn trong phòng lại không cháy sáng, nếu lỡ ai vô tình bắt gặp cảnh này, dẫu tôi có kêu oan đến đâu cũng chẳng ai tin tôi là người trong sạch.
      Nghĩ vậy nên tôi tìm cớ đi ra ngoài:
      - Cô ngồi đây nghen, tôi đi… mua thuốc hút!
      Cô gái đột ngột đứng lên:
      - Dạ, em không làm phiền anh nữa, em về đây!
      Tôi ngạc nhiên:
      - Ơ kìa…! Cô… cô không ở lại xem mặt coi có phải chị mình không sao?
      Cô gái quay lại nhìn tôi với nụ cười héo hắt:
      - Dạ thôi đi, dù sao cũng tới sáng mới làm thủ tục được, chỉ tại lúc nãy em nôn nóng quá… em về đây, xin cảm ơn anh!
      Ngoài trời vẫn còn mưa, tôi không dám cầm chân cô gái ngồi nán lại, nhưng cũng không đành lòng để người con gái nhỏ bé yếu đuối thế này dầm mình trong mưa lạnh. Tôi đi vội vào trong lấy chiếc áo mưa đưa cho cô gái:
      - Cô mặc áo mưa vào mà đi về, không thôi cảm lạnh là nguy lắm đó!
      Cô gái thoáng một chút do dự nhưng cuối cùng cũng đưa tay nhận lấy chiếc áo tôi trao.
      Cô lí nhí nói:
      - Cảm ơn anh!
      Nói xong, cô gái trùm áo mưa lên người và bước vội ra ngoài.
      Tôi đứng bên thềm nhà nhìn theo cái dáng nhỏ liêu xiêu dần khuất dưới làn mưa mù mịt.
      Lát sau tôi đóng cửa quay vào giường ngủ, nhưng vừa đặt lưng nằm xuống thì lạ lùng thay, bóng đèn neon đột ngột sáng lên.
      Tôi không khỏi càu nhàu khi ngồi dậy tắt đèn, lúc đó tôi nghĩ chắc do nó bị lỏng con chuột nên lúc nãy không cháy được!
      Sáng hôm sau, tôi chuẩn bị sẵn giấy tờ để làm thủ tục giao thi hài của cô gái xấu số hôm qua, bởi tôi nghĩ thế nào cô gái lúc tối cũng sẽ quay lại sớm nhất.
      Nhưng tôi chờ từ sáng tới trưa, rồi từ trưa tới tối vẫn không thấy một ai đến liên hệ. Quá đỗi ngạc nhiên, nhưng tôi cũng không biết làm gì hơn là chờ đợi tiếp.
      Đêm hôm ấy trời quang mây tạnh, tôi không ngồi trong căn phòng chật chội của mình mà bắc ghế ngồi chơi ngoài sân.
      Một bóng người đi dần về phía tôi. Vừa trông thấy, tôi đã nhận ra đúng là cô gái tối qua đã đến nhà tôi.
      - Sao mãi tới giờ này cô mới đến? Tôi trông cô cả ngày nay.
      Cô gái tự nhiên ngồi xuống chiếc ghế trống cạnh bên tôi, nhỏ nhẹ nói:
      - Tôi… đêm qua về tôi bị cảm, không thể ngồi dậy nổi!
      Tôi cáu:
      - Thế mà chị em song sinh à? Cô bị cảm vậy còn những người thân khác của cô đâu? Sao không nhờ ai tới đem chị cô về?
      Cô gái đầu cúi thấp, cất giọng run run:
      - Tôi… chúng tôi không có ai là thân nhân…
      Tôi ngạc nhiên:
      - Cô nói sao? Không có ai là thân nhân à? Các cô mồ côi sao?
      Cô gái tay vân vê cái gói nhỏ cầm trên tay đáp khẽ:
      - Dạ, cũng gần như thế!
      Rồi đột ngột, cô gái ngước lên nhìn tôi, cặp mắt ướt rượt, long lanh như sắp khóc:
      - Anh… có thể giúp em được không?
      - Giúp cô? Cô muốn tôi giúp chuyện gì?
      Tôi hỏi lại.
      Cô gái cắn nhẹ vành môi như có vẻ đắn đo, một lúc sao mới nói với giọng nhát gừng:
      - Em… muốn nhờ anh chôn giùm xác chị em!
      Tôi giật thót người:
      - Cô nói sao? Chôn chị cô à? Trời ơi… cô ơi… tôi làm sao chôn được? Tôi không có tiền, cũng không có đất, tôi biết chôn chị cô ở đâu đây?
      Cô gái nói nhanh:
      - Anh yên tâm đi, em sẽ đưa cho anh một số tiền để lo hậu sự cho chị giúp em…
      - Nếu có tiền, sao cô không nhờ bên dịch vụ họ làm cho?
      Tôi ngạc nhiên.
      - Em… bởi vì em muốn chị em được đưa tiễn bằng một người có tâm, có tình như anh!
      Cô gái buồn buồn nói.
      Chuyện này quả thật khiến tôi lúng túng. Nhưng trước ánh mắt van lơn tội nghiệp của cô gái tôi không thể chối từ, tôi đành phải nhận lời và nói:
      - Thôi được, sáng sớm ngày mai cô đến làm thủ tục nhận xác, xong đâu đấy tôi sẽ giúp cô lo hậu sự cho chị cô.
      Cô gái lặng lẽ đặt cái gói nhỏ cầm trên tay vào tay tôi:
      - Em gởi trả anh chiếc áo mưa tối qua, cùng với một số tiền nhỏ, rất mong anh giúp đỡ… Nhưng… sáng mai em không thể tới được anh à!
      - Tại sao?
      Tôi quá đỗi ngạc nhiên trước hành tung kỳ quặc của cô gái.
      - Em… em không thể nói được, nhưng không thể… mong anh hãy cố gắng giúp em…
      Cô gái nhìn tôi cầu khẩn.
      Tôi bực bội:
      - Rồi tôi lấy danh phận gì để đứng ra lo hậu sự cho chị cô? Thiệt tình tôi không sao hiểu nổi chuyện này…
      Cô gái vụt khóc òa rồi chạy nhanh ra cổng khiến tôi bất ngờ đến ngơ ngẩn cả người, không kịp chạy đuổi theo hoặc gọi cô một tiếng.
      Tôi thở dài mở cái gói cô gái đưa khi nãy. Trong gói là chiếc áo mưa của tôi được gấp cẩn thận, cùng với một gói nhỏ khác nữa. Tôi mở cái gói nhỏ ra thì giật mình kinh hãi vì bên trong là một xấp tiền mệnh giá lớn nhất, độ chừng có đến mấy chục triệu bạc.

      Tôi là một người nghèo, cả đời chưa khi nào cầm trong tay số tiền lớn đến như vậy nên tôi đâm ra sợ hãi. Đầu óc tôi nghĩ tới những chuyện đen tối đâu đâu…
      Vì vậy, tôi không dám cất giữ số tiền đó trong người mà vội vã qua bệnh viện báo cáo toàn bộ sự việc.
      Mọi người đều ngạc nhiên không khác gì tôi. Người ta làm biên bản cất giữ số tiền đó, rồi chờ đợi thêm mấy ngày nữa vẫn không thấy ai tới nhận thi hài cô gái, lãnh đạo bệnh viện quyết định tìm nơi an táng cô gái. Và việc đó họ giao cho tôi lo liệu.
      Khi mọi việc đã xong xuôi, cô gái xấu số giờ đây đã được mồ yên mả đẹp tôi cũng thấy lòng nhẹ nhõm rất nhiều.
      Chuyện đó cứ tưởng sẽ chìm dần vào quên lãng, không ngờ một đêm cách đó quãng hai tuần, tôi đang mơ màng ngủ thì lại nghe có tiếng gõ cửa rụt rè.
      - Ai đó?
      Tôi vừa lồm cồm ngồi dậy vừa cất tiếng hỏi.
      - Dạ em…
      Giọng nói nhỏ nhẹ quen thuộc của cô gái làm tôi giật mình. Tôi vội vã mở cửa.
      - Cô vào nhà chơi!
      Vừa nói tôi vừa với tay bật công tắc đèn nhưng lại một lần nữa đèn không chịu cháy!
      Ánh trăng sáng vằng vặc chiếu rọi khắp nơi. Tôi đành phải nhắc hai chiếc ghế ra sân ngồi nói chuyện cùng cô gái.
      - Cô đi đâu mà tới hôm nay mới trở lại? Việc hậu sự của chị cô tôi đã lo xong…
      Cô gái cắt ngang lời tôi:
      - Em biết, chính vì vậy nên em mới tới để cám ơn anh. Thật sự em rất mang ơn anh…
      Tôi không nói gì chỉ chăm chú ngồi nhìn cô gái. Càng nhìn càng thấy rõ sự giống nhau giữa hai chị em cô. Gương mặt cô lúc này cũng rạng rỡ tươi vui giống như gương mặt chị cô lúc vừa chết vậy!
      - Tôi thật sự không hiểu… cô thương yêu, lo lắng cho chị mình như vậy sao cô không hề có mặt trong đám tang? Sao cô không nhìn chị mình lần sau cuối? Có nỗi khổ gì xin cô nói ra cho tôi biết…
      Nghe tôi hỏi, cô gái im lặng hồi lâu mới từ từ ngẩng lên hỏi lại tôi một câu không ăn nhập gì tới chuyện tôi và cô đang trao đổi:
      - Anh làm nghề này đã lâu, chắc anh không biết sợ ma?
      Tôi bật cười:
      - Cô đừng nói với tôi vì sợ nên cô tránh xa chị cô nghen? Bởi vì nếu cô sợ đến mức đó thì chắc chắn cô không bao giờ dám léo hánh tới khu vực này dù là giữa ban ngày chứ nói chi ban đêm như vầy!
      Cô gái dường như không nghe những lời tôi nói, cô nhìn tôi và lặp lại câu hỏi:
      - Anh có sợ ma không?
      Tôi không cười nữa mà ngó cô đầy thắc mắc:
      - Không! Tất nhiên là tôi không sợ rồi! Làm cái nghề này mà sợ ma thì sao làm được hả cô?
      Cô gái khẽ cười rồi nói tiếp:
      - Nếu như em nói… em là ma thì anh sợ không?
      Tôi lại bật cười lần nữa:
      - Ha ha ha… không ngờ cô vui tính thiệt! Cô định nhát tôi chắc?
      Cô gái không cười mà nét mặt trở nên nghiêm trang, ánh mắt buồn rười rượi:
      - Không… em nói thật, em là ma…
      Nụ cười vụt tắt trên môi tôi. Một cái gì nghẹn cứng trong lồng ngực khiến tôi không thể xác định được cảm giác của mình lúc đó ra sao nữa. Tôi lắp bắp:
      - Cô là… là ma?
      Cô gái khẽ gật đầu:
      - Dạ… em chính là người con gái xấu số mà anh vừa giúp an táng…
      Một thoáng lạnh dọc sống lưng, nhưng rồi tôi lập tức lấy lại bình tĩnh.
      - Cô chính là cô gái đó?
      - Dạ!
      Cô gái vẫn nhỏ nhẹ
      - Sao cô không về báo tin cho gia đình mà lại nhờ tôi giúp đỡ?
      Tôi hỏi.
      Cô gái rưng rưng:
      - Em đã nói với anh rồi, em không còn ai là người thân thích trên đời này…
      - Nhưng sao cô lại chọn tôi?
      Tôi vẫn chưa hết thắc mắc.
      Cô gái nhìn tôi một lúc rồi mới chậm rãi nói:
      - Em chọn anh vì hai lẽ: Thứ nhất, anh là người làm việc ở đây, mọi thủ tục sẽ dễ dàng hơn, anh cũng không sợ chuyện dính líu tới xác chết. Thứ hai, anh là người có tâm và có tình. Lúc anh trang điểm lại cho em, lúc giọt nước mắt thương tâm của anh rơi xuống mặt em, em đã biết anh đúng là người em cần…
      Cô gái im lặng một lúc nữa rồi nói như thủ thỉ:
      - Cả đời em sống trong bơ vơ buồn tủi, nhưng em vẫn ráng cố gắng vươn lên, cố gắng sống thật tốt, thật tươi vui để được cuộc đời đáp lại cho mình điều đó! Nhưng anh ạ, em đã không được cái may mắn ấy, em phải giã từ trần gian mà chưa có được một hạnh phúc dù nhỏ nhoi nhất trong đời… Bởi vậy, lúc nước mắt anh rơi xuống mặt em, em vô cùng xúc động, anh là người đàn ông đầu tiên và duy nhất khóc vì em. Anh có biết anh đã mang lại cho em niềm hạnh phúc to lớn đến mức nào không?
      Cô gái ngước nhìn tôi, nước mắt lăn dài trên má.
      Tôi không cầm lòng được, tôi đứng lên đi tới bên cô, ôm chặt cô gái vào lòng với tất cả tình thương yêu trìu mến nhất.
      Thân thể giá lạnh của cô gái run nhè nhẹ trong vòng tay ấm áp của tôi. Tôi dìu cô gái vào phòng. Cô ngoan ngoãn theo tôi không hề kháng cự.
      - Tên em là gì?
      Tôi hỏi trong tiếng thở gấp rút.
      - Em tên Liên. Nguyễn Thị Liên
      Tôi đặt Liên ngồi xuống giường, hai tay tôi vẫn ôm chặt lấy Liên như sợ cô tan biến mất.
      Liên chợt cười khe khẽ rồi ngước lên hỏi tôi:
      - Anh không sợ em sao?
      Tôi áp đôi bàn tay bé nhỏ lạnh giá của Liên vào má mình, nghe một niềm thương cảm dâng đầy khác lạ.
      - Anh không sợ… Bởi vì chúng ta giống nhau…
      Liên tỏ vẻ ngạc nhiên:
      - Giống nhau? Chẳng lẽ anh nói anh cũng là hồn ma như em sao?
      Tôi lắc đầu:
      - Không, anh không là hồn ma, nhưng anh đã chung sống cùng với những thây ma hơn mười năm nay, và anh cô độc giữa cuộc đời này, điều đó không giống em sao?
      Liên xúc động ôm ghì lấy tôi.
      - Tại sao trước khi chết, ông trời không cho em được gặp anh?
      Tôi cười thật buồn:
      - Nếu gặp anh lúc em còn sống, thì cũng giống như bao người khác thôi em ạ, dù cho em có cảm tình với anh đi nữa, nhưng khi biết rõ cái nghề anh đang làm, em có đủ can đảm để đến với anh không?
      Liên không trả lời tôi mà chỉ ôm chặt tôi hơn nữa.
      Đêm đó chúng tôi thật hạnh phúc bên nhau, hai linh hồn cô độc tình cờ gặp gỡ rồi quyến luyến không nỡ rời xa nhau…
      Khi tiếng chổi quét đường của những người công nhân vệ sinh xạc xào vọng đến, báo hiệu một buổi bình minh sắp tới, Liên ngồi bật dậy nhìn tôi và nói:
      - Em phải đi đây…
      Tôi hoảng hốt níu cánh tay Liên:
      - Rồi em có trở lại với anh không?
      Liên rưng rưng nước mắt:
      - Anh thật sự yêu thương một hồn ma như em sao?
      Tôi cười đau đớn:
      - Anh thấy mình cũng không khác gì một hồn ma, em ạ!
      Liên lại ôm ghì lấy tôi, cố mỉm cười:
      - Em sẽ tới, anh chờ em nghen?
      Tôi gật đầu, nhìn theo bóng Liên dần dần tan loãng trong màn đêm nhập nhoạng.
       
      ***
      Những người trong bệnh viện bàn tán xôn xao:
      - Ông Thanh dạo này tâm thần nặng rồi, tối ngày cứ cười cười, mà trông vẻ mặt mới vui sướng, hạnh phúc biết bao, cứ như ổng mới lấy vợ vậy đó!
      - Ờ, ổng sống chung với xác chết nhiều năm quá mà, không tâm thần sao được! Mà hổng chừng… ổng bị ma ám cũng nên!
      Một người khác chen vào:
      - Tôi còn nghe dạo này ổng thường ra vô nghĩa trang nữa, ổng đâu có ai là thân nhân trong đó?
      Những lời bàn tán đó tôi nghe hết, nhưng tôi không quan tâm để buồn rầu hay cải chính. Họ muốn nói sao mặc họ, tôi không hơi sức đâu để ý tới, bởi vì lúc này toàn bộ tâm trí tôi đã đặt hết vào Liên.
      Mối tình giữa tôi và Liên diễn ra vô cùng tốt đẹp. Mỗi tối Liên đều đến với tôi, chúng tôi ở bên nhau thật vui vẻ, hạnh phúc.
      Ban ngày, ngoài những lúc dành cho công việc, tôi luôn nghĩ tới Liên, hồi hộp, trông chờ cho màn đêm mau buông xuống, để trong căn phòng quạnh vắng của tôi lại có thêm tiếng cười, tiếng nói.
      Ngày tháng trôi qua, chúng tôi đã sống với nhau hơn ba tháng mặn nồng ân ái. Tôi những tưởng cuộc sống êm đẹp đó sẽ kéo dài mãi mãi. Nhưng không, một đêm Liên đến với tôi nhưng gương mặt trông cứ rầu rĩ, áo não vô cùng.
      - Có chuỵên gì vậy em?
      Tôi gặng hỏi.
      Liên nhìn tôi thật lâu rồi bật khóc:
      - Chúng mình sắp phải xa nhau… em không đành lòng rời xa anh…
      Tôi hốt hoảng:
      - Sao lại phải xa nhau hở Liên?
      Liên buồn bã giải thích:
      - Linh hồn em đã ở lại trần gian quá lâu rồi, đúng hạn một trăm ngày, nếu em không về thì mãi mãi em sẽ không siêu thoát được…
      Tôi ôm chặt Liên vào lòng, bướng bỉnh:
      - Em cần gì siêu thoát? Chúng ta cứ sống với nhau thế này, rồi một ngày nó anh từ giã cõi trần, mình lại là bóng ma kề cận bên nhau, như vậy không tốt hơn sao em?
      Liên cười buồn, lắc đầu:
      - Ở cõi âm cũng có những luật lệ gắt gao không khác gì trần gian anh ạ! Nếu sau một trăm ngày em không trở về, linh hồn em sẽ không còn giữ được những phần thánh thiện, mà cái ác trong mỗi con người sẽ được phát huy, khi đó, em sẽ trở thành một thứ quỷ dữ… Em sẽ không còn tình yêu, không còn gì hết…
      Nước mắt tôi và cả nước mắt Liên nữa lã chã rơi xuống. Chúng tôi cảm thấy mình là những người vô cùng khốn khổ, cần một tình yêu chân thành, dù chấp nhận tình cảnh âm dương mà cũng không thể được.
      Gió xào xạc thổi ngoài hiên, tiếng côn trùng kêu rên rỉ rả như tiếng thở than của những vong hồn trong đêm tối.
      Đêm đó Liên ân cần dặn dò tôi đủ mọi điều. Có một chuyện, Liên cứ dặn đi dặn lại vì sợ tôi quên:
      - Anh hãy nhớ, kiếp sau mình sẽ tìm lại nhau, dấu vết để nhận ra em là cái bớt đỏ phía sau vành tai này, anh nhớ không anh?
      Tôi miễn cưỡng gật đầu cho Liên vừa lòng, chứ thật ra tôi không quan tâm lắm đến điều đó, tôi chỉ nghĩ tới chuỵên lát nữa đây tôi và Liên phải xa nhau mãi mãi mà thôi…
      Khuya đó Liên đi, đi mãi không về.
      Biết bao đêm tôi ngồi tựa cửa chờ Liên nhưng trước mắt tôi chỉ là một khoảng trống mông mênh, một màn đêm u buồn tê tái.
      Lại một đêm mưa, tôi trằn trọc một mình trên chiếc giường đã từng có những ngày hạnh phúc của chúng tôi. Tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà khiến lòng tôi càng thêm buồn áo não.
      Và bỗng nhiên, tôi nghe có tiếng trẻ con khóc ngay trước cửa phòng mình. Tiếng khóc rõ mồn một làm tôi hốt hoảng bật dậy chạy ra.
      Vừa mở cánh cửa, tôi đã thấy ngay dưới thềm nhà là một bọc to, từ trong cái bọc đó đang phát ra tiếng khóc oe oe của trẻ sơ sinh.
      Tôi cúi xuống ôm đứa bé lên chạy vội vào phòng bật sáng ngọn đèn.
      Đây là một đứa bé gái, chắc mới được sinh ra chừng hơn một tháng. Khi nó nhìn thấy tôi nó không khóc nữa mà nhìn tôi như mỉm cười. Nó ngoan ngoãn nằm im trong tay tôi, nhìn tôi như dò hỏi.
      Tình huống này quả thật khiến tôi lúng túng, tôi không biết phải làm sao với một đứa bé như thế này.
      Tôi đặt đứa bé xuống giường, vội vã mặc quần áo vào định bụng sẽ ôm nó chạy qua bệnh viện báo cáo rồi giao nó cho mấy cô y tá, hộ lý bên đó chăm sóc, chứ tôi thì làm sao đây?
      Vừa cài xong chiếc nút áo cuối cùng, với tay cầm chiếc áo mưa thì đứa bé lại khóc ngằn ngặn như muốn chống đối lại những dự định của tôi. Tiếng khóc của nó tự nhiên làm lòng tôi run rẩy.
      Tôi cúi xuống ôm đứa bé lên đong đưa nhè nhẹ trên tay như dỗ dành:
      - Nín, nín! Ngoan nào… ngoan nào…
      Nhưng đứa bé không nín, cũng không ngoan, nó quẫy đạp lung tung, nghiêng bên này, nghiêng bên kia và miệng không ngớt khóc.
      Bất chợt, tim tôi nghẹn thắt như bị ai đó thò tay vào bóp chặt, tôi vừa chợt trông thấy cái bớt đỏ nằm phía sau vành tai của đứa bé, cái bớt giống y như cái bớt của Liên!
       
      ***
       
      Người trong bệnh viện lại đồn ầm lên:
      - Ông Thanh nhà xác dạo này hâm dữ tợn rồi, tự nhiên xin một đứa con còn đỏ hỏn về nuôi, tự nhiên làm thân gà trống nuôi con khốn khổ… Thiệt hết biết ông này!
      Không ai hiểu được tôi, chỉ đứa bé là hiểu được. Nó luôn mỉm cười mỗi khi tôi bế nó vào lòng…
      Thỉnh thoảng, vào lúc đêm khuya, trong căn phòng nhỏ xíu nằm cạnh nhà xác của bệnh viện lại vang lên tiếng tiếng hát của một người đàn ông:
      Thương nhau mấy núi cũng trèo
      Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua
      Thương nhau bất kể người – ma
      Đầu thai kiếp khác đôi ta trùng phùng…
       
      Hết

      Nguyễn Thị Mộng Thu
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:37:16 bởi nguyenthu >
      #78
        nguyenthu 10.08.2009 22:15:31 (permalink)
        MƯỢN XÁC HOÀN HỒN
         
        Chị Hậu lo lắng sờ tay lên trán thằng bé. Vẫn còn sốt cao lắm! Từ sáng tới giờ chị đã cho nó uống hai liều thuốc hạ nhiệt và không ngừng chườm mát vậy mà hình như nhiệt độ trong cơ thể nó càng lúc càng tăng lên cao thêm.
        Thỉnh thoảng nó nhướng cặp mắt lờ đờ lên nhìn chị, cố gắng nhếch môi nở một nụ cười gượng gạo để chị được yên tâm.
        Nó bắt đầu sốt từ tối hôm kia, nhưng chị chỉ nghĩ đó là cảm sốt thông thường thôi nên chạy ra hiệu thuốc gần nhà mua một ngày thuốc về cho con. Nhưng cơn sốt không hề thuyên giảm.
        Bây giờ thì chị thật sự lo lắng!
        Đã vậy, sáng này lúc đi mua thuốc hạ nhiệt, cô dược sĩ có nói với chị một câu làm chị càng hoang mang hơn nữa:
        - Chị ơi, nếu em bé ở nhà sốt cao không dứt, chị nên đưa em tới bệnh viện để bác sĩ khám xem sao. Mùa này đang có dịch sốt xuất huyết, nguy hiểm lắm đó chị!
        Chị thương con quá nhưng cứ ngần ngừ không đưa nó lên bệnh viện. Thứ nhất là vì chị hy vọng chỉ chút lát nữa thôi, cơn sốt kia sẽ giảm, thằng Ân của chị sẽ ngồi dậy húp vội chén cháo như những trận đau ốm khác của nó. Thứ hai là… hiện tại trong nhà chị chỉ còn được mấy chục ngàn đồng, hai hôm nay con bệnh, chị không đi làm được, chị biết xoay sở sao đây?
        Nhưng bây giờ thì lòng chị đã như lửa đốt. Đôi môi thằng bé đã bỏng rộp lên rồi, nó cứ nằm mê man không còn ăn uống gì nổi nữa!
        Chị Hậu quyết định dù thế nào cũng phải đưa con tới bệnh viện!
        Chị đứng lên, vội vã lấy mấy bộ quần áo của hai mẹ con nhét vào cái túi xách nhỏ, rồi hối hả chạy sang nhà bà Tám bên cạnh mượn tạm ít tiền.
        Bà Tám tuy không giàu có gì, nhưng bà rất sẵn lòng giúp đỡ những ai trong cơn hoạn nạn.
        Bà đã ngoài bảy mươi tuổi, nhưng trông còn khỏe mạnh lắm! Bà sống một mình vì con cháu đều có nhà cửa và công ăn việc làm ổn định ở xa. Tiền con cái gởi về cho hàng tháng, bà Tám không xài hết. Bà già rồi, ăn uống có bao nhiêu. Vì thế, nếu ai đó trong xóm gặp phải hữu sự giữa lúc nhà túng bấn thường tìm tới bà, bà như vị cứu tinh của những người nghèo ở đó.
        Trông thấy chị Hậu tất tả chạy sang, bà Tám hỏi:
        - Có chuyện gì mà trông hớt hãi vậy con?
        - Dạ… thằng Ân nhà con bị sốt mấy ngày nay, con cho nó uống thuốc hoài vẫn không thấy đỡ chút nào. Lúc nãy cô bán thuốc bảo con nên đưa nó vô bệnh viện, vì lúc này đang có dịch sốt xuất huyết… Mà con thì… thì..
        Bà Tám chắc lưỡi:
        - Tội nghịêp dữ hôn! Ba nó bao giờ mới về? Con có nhắn cho ba nó biết tin chưa?
        Chị Hậu buồn buồn:
        - Dạ, hôm đi ảnh nói hết tháng mới về, bây giờ mới được ba tuần… Mấy hôm nay con đinh ninh thằng Ân ở nhà cảm sốt thông thường nên cũng không nhắn ảnh về… Chút nữa lên bệnh viện, con ghé gọi điện nhắn ảnh về…
        - Thôi, thôi! Vô nhà lấy điện thoại nhắn ba sấp nhỏ về cho mau rồi tao đưa cho ít tiền lo cho thằng nhỏ! Lẹ, lẹ lên đi con!
        Bà Tám gạt ngang. Bà kéo tay chị Hậu vô nhà, tới bên chiếc điện thoại để trên đầu tủ ly, bà Tám sốt sắng:
        - Đó! Điện thoại đó, gọi cho nó đi con!
        Chị Hậu lúng túng:
        - Dạ, con… con đâu có biết …
        Nghe chị Hậu nói vậy, bà Tám cười xòa.  Bà quên rằng ở cả cái xóm này chỉ mới nhà bà có điện thoại.
        Bà cẩn thận bấm từng số theo lời chị Hậu. Tới chừng bên kia đã có người bắt máy, bà vội vàng trao ống nghe qua tay chị, khẽ bảo:
        - Nói đi con!
        Chị Hậu đỡ lấy chiếc điện thoại nói mấy câu với người quản lý công trình, nhờ nhắn lại với chồng chị là anh Kha, công nhân xây dựng về nhà gấp, con trai đang đau nặng.
        Chừng chị  đặt ống nghe xuống đã thấy bà Tám đứng kế bên, trên tay cầm sẵn mấy tờ giấy một trăm ngàn đồng.
        Bà dúi tiền vào tay chị, dặn dò:
        - Nè, cầm tạm năm trăm ngàn về lo cho thằng nhỏ đi! Nếu cần thêm thì bà đưa một ít nữa! Bà không dám đưa một lúc nhiều tiền, sợ trong lúc bận rộn, lỡ rơi mất thì khổ! Thôi, về đi con, về lo cho thằng nhỏ!
        Chị Hậu lí nhí cảm ơn bà Tám rồi vội vã chạy ra đầu đường kêu một chiếc xe ôm tới nhà chở con đi bệnh viện.
        Thằng bé vẫn nằm thiêm thiếp. Chị lấy thêm áo khoác lên người cho con trai rồi khóa cửa, ôm con ngồi lên xe.
        Vừa bước vô phòng cấp cứu, trình bày qua loa về tình trạng của con, chị đã bị một cô y tá mắng té tát:
        - Trời ơi, thằng nhỏ đã sốt thế này mà chị còn ủ nó vô cả đống áo quần! Ở nhà, chị có chườm mát cho nó không?
        - Dạ… tui mua nước đá về chườm…
        - Trời ơi là trời, chị muốn giết thằng nhỏ hả? Chị chườm đá, tuyến mồ hôi co lại thì làm sao nhiệt trong người thoát ra được? Chị phải pha nước ấm thấp bằng thân nhiệt bình thường mà lau liên tục cho nó chớ!
        Chị sợ sệt:
        - Tui… tui không biết!
        Đám đông thân nhân đi nuôi bệnh đứng bên cạnh nhìn chị bằng cặp mắt thương hại. Có người chép miệng:
        - Đâu phải ai cũng được ăn học, được hiểu biết như cô…
        Cô y tá nguýt dài một cái rồi cầm tập hồ sơ đi ra khỏi phòng.
        Bác sĩ trưởng khoa được mời đến. Sau khi xem xét thằng bé, bác sĩ quay sang chị, trách nhẹ:
        - Sao chị để cháu sốt đến độ này mới chịu đưa vô bệnh viện?
        Chị Hậu ú ớ còn chưa biết giải thích sao thì bác sĩ đã quay sang nói với cô y tá trực:
        - Lo hồ sơ nhập viện. Đưa thằng bé đi xét nghiệm máu để chuẩn bị tiếp máu cho nó!
        Chị Hậu rụng rời tay chân khi nghe nói tới hai từ “tiếp máu”. Chị lýnh quýnh làm theo mọi lời chỉ dẫn của y tá, bác sĩ mà không dám hỏi thêm điều gì.
        Chị cảm thấy hình như tình trạng trầm trọng của con trai là tại do chị gây nên. Lòng chị nóng như lửa đốt. Chị thầm van vái trời phật cứu hộ độ trì cho con trai tai qua nạn khỏi, cầu mong cho anh Kha mau mau về với mẹ con chị lúc này…
        Sau khi hoàn tất một loạt xét nghiệm, bác sĩ Hùng nói với chị:
        - Cũng may là máu cùng loại với máu con chị ở bệnh viện còn được một ít, chứ nếu không thì cũng gay đấy!
        Chị Hậu vừa mừng vừa lo, hết chạy đầu này đóng tiền, chạy đầu khác lấy giấy theo lời chỉ bảo của các cô y tá, hộ lý. Lúc chị về đến phòng bệnh của con thì thấy bác sĩ Hùng và hai cô y tá đang chuẩn bị các dụng cụ tiếp máu.
        Nhưng chưa kịp thực hiện thì bất ngờ một cô y tác khác từ ngoài chạy xồng xộc vào phòng, kéo tay bác sĩ Hùng, nói trong tiếng thở:
        - Bác sĩ… Bác sĩ ơi! Bé An… con bác sĩ nhập viện… nguy lắm!...
        Bác sĩ Hùng khoát tay ra hịêu cho các cô y tá ngưng cuộc truyền máu lại rồi vội vã chạy về phòng cấp cứu.
        Vừa nhìn thấy chồng, chị Phương – vợ bác sĩ Hùng – khóc nấc lên:
        - Anh ơi, anh phải cứu lấy con mình…
        Bác sĩ Hùng không kịp nói lời nào với vợ, anh chạy vội đến bên giường nơi con trai anh đang nằm mê man.
        - Sao em để con tới tình trạng này?
        Bác sĩ Hùng hỏi vợ.
        Chị Phương mếu máo:
        - Nó sốt mấy hôm nay, em tính về nhưng lại sợ đi đường gió máy, ráng đợi con bớt bớt một chút sẽ về, ai đâu ngờ, càng ngày nó càng sốt dữ hơn… Ông bà ngoại hoảng quá nên phải bao xe cho hai mẹ con em về gấp.
        Bác sĩ Hùng làu bàu mấy tiếng trong miệng rồi lập tức trịêu tập cuộc hội chẩn để xác định tình trạng của con mình.
        Chị Phương bàng hoàng khi nghe chồng thông báo: Bé An con trai chị bị sốt xuất huyết tuýp hai, đã sang thể tràn dịch màng phổi, tràn dịch ổ bụng và suy gan cấp.
        Như một cơn động đất, sụp đổ gì đó không thể kiểm soát… Con bé bỏng, ốm yếu thế kia mà chừng đó thứ nguy nan đang hịên hữu, đang tàn phá con…
        Chị níu tay chồng để xin nhắc lại vì không tin nổi vào tai mình nữa.
        - Suy gan cấp? Có phải con chúng mình chớm suy gan không anh?
        Bác sĩ Hùng lắc đầu không nói gì, vẻ mặt đau đớn.
        - Đang lẽ khi thấy con bệnh, em phải đưa con về ngay hoặc ít ra em cũng phải điện tọhai cho anh chứ…
        Cuối cùng, không ngăn nổi, bác sĩ Hùng quay sang trách vợ.
        Chị Phương chỉ biết ôm mặt khóc. Tất cả lỗi lầm là do chị.
        Cách đây bốn hôm, sau một cuộc tranh cãi nho nhỏ với chồng, chị Phương đùng đùng dẫn con về ngoại. Lúc thằng bé chớm bệnh, ông bà ngoại đã nhắc:
        - Thôi, đưa nó về cho cha nó xem thế nào! Con đừng có như vậy! Từ nhỏ con được ba má nuông chìu nên hư mất rồi! Chuỵên bất đồng ý kiến giữa vợ chồng là điều không thể tránh khỏi, con là vợ con phải biết nhún nhường đôi chút mới phải. Đằng này, lúc nào con cũng bắt chồng con phải nghe theo con… Ba má thấy như vậy là không được!
        Ba má đã hết lời khuyên bảo, nhưng với cái tính bướng bỉnh, quen được nuông chìu, chị Phương nhất định không chịu về.
        Vì chị biết, cuối tuần được nghỉ, chắc chắn chồng chị sẽ về đây để đón hai mẹ con. Bây giờ mà quay về  là sẽ trở nên “lép vế” trước mắt chồng! Chị phải chờ anh hết lời năn nỉ ỉ ôi mới chịu trở về.
        Mãi đến khi bé An sốt vọt lên tới ba mươi chín độ bảy, thì chị không còn đủ minh mẫn để quyết định bất cứ điều gì nữa. Ông bà ngoại phải hấp tấp đi thuê xe.
        Trong lúc chờ xe, chị cuống cuồng cởi hết quần áo cho con. Thằng bé mới mười hai tuổi, đang đau ốm vậy mà vẫn ngượng rúm người, lại thêm cảm giác lạnh vì sốt, nài nỉ chị phủ thêm cho nó cái khăn mỏng. Biết là rất không nên nhưng chị Phương vẫn phải chìu con.
        Chị muốn ôm con vào lòng quá mà lại sợ thành vô tình ủ con nóng thêm.
        Là vợ bác sĩ, ít nhiều gì chị Phương cũng có đôi chút kiến thức. Vậy mà… vậy mà chị đã để con mình lâm vào nguy kịch thế này!
        Trời ơi, nếu nó có mệnh hệ gì thì làm sao chị sống nổi? Nó là đứa con duy nhất của vợ chồng chị, bởi vì chị không còn khả năng sinh nở được nữa!
        Mười hai năm qua, vợ chồng chị đã thương yêu chăm bẵm bé An như vàng như ngọc.
        Thằng bé tuy được nuông chìu nhưng lại rất mực ngoan ngoãn, học hành chăm chỉ, chưa bao giờ làm cho cha mẹ bận lòng.
        Giờ đây trong lòng chị Phương rối bời những lo âu, hối hận…
        Bác sĩ Hùng ngước lên nhìn vợ bằng ánh mắt xót xa:
        - Con mình cần truyền máu gấp, nhưng loại máu đó hiện nay ở bệnh viện chỉ còn lại một lượng rất nhỏ. Vừa rồi anh đã chỉ định truyền cho một đứa bé khác…
        Bác sĩ Hùng chưa nói hết câu, cô y tá bên cạnh rụt rè xen vào:
        - Thưa bác sĩ… đứa bé đó vẫn chưa tiếp máu! Lượng máu… vẫn còn nguyên…
        Như bắt được vàng, chị Phương chồm lên nắm chặt vai chồng lắc lấy lắc để, vừa nói vừa khóc nức nở:
        - Anh ơi, anh phải tiếp máu cho con mình! Nó là đứa con duy nhất của chúng ta… Anh cứu con đi! Cứu con đi, tội lỗi em thì anh xử gì cũng được… Chỉ xin anh cứu lấy con mình…
        Bác sĩ Hùng gỡ tay vợ ra, khổ sở nói:
        - Nhưng anh đã nói người ta là đứa bé được tiếp máu! Với lại… con mình dù có tiếp máu thì… khả năng… cũng không cao…
        Chị Phương té ngồi xuống ghế, khóc rống lên:
        - Anh phải cứu lấùy con! Bằng mọi giá anh phải cứu con… Con có bề gì em cũng sẽ chết theo nó… Anh ơi…
        Cô y tá vỗ nhè nhẹ lên vai chị Phương, đồng thời nói với bác sĩ Hùng:
        - Bác sĩ, còn nước thì còn tát… Bác sĩ nên tập trung cứu chữa em An… Dù sao nó cũng là con của bác sĩ… Còn đứa bé kia… tình trạng của nó không nguy kịch lắm, có thể… có thể không tiếp máu cũng vượt qua được…
        Bác sĩ Hùng đưa hai tay ôm đầu, anh đau khổ tột cùng, lương tâm người thầy thuốc và trách nhiệm của người cha đang giằng xé anh…
        Cuối cùng, theo sự thống nhất của các bác sĩ và y tá trong bệnh viện, lượng máu hiếm hoi đó sẽ được truyền vào cơ thể bé An.
        Là bác sĩ, nên Hùng biết rất rõ ranh giới sống còn của con trai mỏng manh như sợi tóc.
        Bé An đã bị xuất tiểu cầu thì phải mất rất nhiều thời gian mới tách được thành phần đó ra mà tiếp. Nếu tiếp cho người bị thể xuất huyết thông thường sẽ dễ hơn nhiều, chỉ truyền trực tiếp máu là xong.
        Bác sĩ Hùng lặng lẽ đến bên, cầm chặt tay vợ:
        - Chúng mình phải chuẩn bị tinh thần em ạ! Con sốt xuất huyết tuýp hai, dạng hiếm, độ ba trên bốn, mấp mé bờ hôn mê sâu… Nếu sau bảy mươi hai tiếng nữa mà không bị tràn dịch não, tim và con không hôn mê sâu thì sẽ là phép thần kỳ có thật trên đời, con sẽ sống!...
        Chị Phương như lã đi trong tay chồng, miệng không ngừng lập đi lặp lại:
        - Con em sẽ sống… con em sẽ sống!...
         
        ***
        Chị Hậu vô cùng hoang mang khi thấy các cô y tá trở vào lấy đi các dụng cụ lúc nãy đem đến chuẩn bị tiếp máu cho bé Ân. Níu lấy một cô, chị sợ sệt hỏi:
        - Thưa cô… sao không tiếp máu cho con tôi? Tôi.. tôi đã đóng tiền rồi mà?
        Cô y tá nhỏ nhẹ giải thích:
        - À, tại vì sau khi hội ý, các bác sĩ thấy tình trạng của con chị không nguy kịch lắm, chưa cần phải tiếp máu. Lát nữa người ta sẽ trả lại khoản tiền đó cho chị, chị yên tâm đi!
        Chị Hậu không hiểu biết gì nhiều, nên khi nghe nói con mình không đến nỗi nguy kịch, không cần tiếp máu là chị mừng rơn trong dạ. Chị thở phào nhẹ nhõm rồi đến bên giường chăm sóc cho con.
        Mãi tới chiều tối anh Kha chồng chị mới về tới. Nhìn thấy chồng quần áo lôi thôi, tay chân chưa sạch các vết vôi vữa, chị Hậu thương chồng thắt ruột. Chị hiểu rằng anh đang làm việc ở công trường, nghe tin con đau ốm là vội vã về ngay nên mới xộc xệch thế.
        Anh Kha hấp tấp dặt tay lên trán con, nhưng rồi thấy bàn tay mình không được sạch sẽ, anh vội vàng rụt ngay lại.
        Chị Hậu trấn an chồng:
        - Lúc em đưa co vô, họ nói phải tiếp máu làm em sợ quá anh à! Nhưng rồi họ hội ý lại sao đó mà không tiếp máu, họ nói con mình không sao…
        Anh Kha thắc mắc:
        - Ủa, sao lại lúc bảo tiếp, lúc bảo không? Thôi, em ở đây đi, để anh tìm bác sĩ hỏi cho rõ!
        Chị Hậu ngăn chồng:
        - Thôi, thôi anh ơi! Người ta là bác sĩ, người ta có quyền quyết định. Với lại người ta biết phải làm sao mà, mình nói tới nói lui người ta ghét thì khổ cho con mình đó!
        Nghe vợ nói cũng hợp lý nên anh Kha đành ngồi xuống ngắm gương mặt thân yêu của con.
        Chị Hậu giục:
        - Anh về tắm rửa đi, rồi lên với con cho em về nấu cho con miếng cháo…
        Anh Kha tần ngần một lúc rồi đứng lên:
        - Ừ thôi anh về! Tắm xong anh trở lên liền! Em ở đây với con nghe!
        Rồi chợt nhớ, anh Kha lục trong chiếc ba lô bạch thếch lấy ra một gói nhỏ đưa cho chị Hậu:
        - Nghe tin thằng Ân bệnh nặng, anh vội vã về ngay. Gấp quá, không có ông thầu ở đó để ứng trước lương. Anh phải mượn tạm của mấy anh em cùng làm, mỗi người một ít, chỉ được một triệu rưỡi…
        Chị Hậu rưng rưng nước mắt an ủi chồng:
        - Chắc không sao đâu anh! Bấy nhiều chắc đủ rồi! Bác sĩ nói con mình không sao mà!
        Anh Kha khẽ gật đầu rồi đi nhanh ra cửa.
        Ngoài đường phố đông đúc người qua lại. Đi ngang qua một tiệm Internet, thấy đám trẻ con bằng tuổi thằng Aân đang ngồi chơi đầy bên trong, anh Kha lại càng thương con đứt ruột.
        Tháng trước, lúc hai cha con đang đùa giỡn với nhau, anh hỏi con:
        - Mai mốt ba đi làm về, con thích ba mua cho con cái gì nè?
        Thằng bé nhìn anh một chập rồi đắn đo:
        - Con thích gì ba cũng mua cho con?
        - Ừ, thích gì ba cũng mua! Con trai ba là nhất trên đời mà!
        Anh Kha cười lớn.
        Nghe cha nói vậy, thằng bé Ân hí hửng:
        - Vậy ba mua cho con cái máy vi tính nghen! Cái máy đó chơi “đã” lắm!
        Nụ cười trên môi anh Kha tắt hẳn.
        Anh ôm con trai vào lòng giải thích:
        - Con à! Cái máy đó mắc tiền lắm! Con thấy mấy đứa con nhà khá giả ở xóm mình đó, tụi nó còn chưa có được! Ba đi làm thợ hồ, biết chừng nào mới có đủ tiền mua máy đó cho con? Thôi, con nói món khác đi, món nào rẻ rẻ một chút…
        Bé Ân phụng phịu:
        - Vậy mà ba nói con thích gì là ba mua cho con cái đó…
        Chị Phương đang dọn cơm bên cạnh, nghe con trách chồng, chị cười xòa gỡ thế bí cho anh:
        - Tại vì ba con đâu có ngờ con trai mình “con nhà lính tính nhà quan”! Ba tưởng con thích mấy loại đồ chơi như xe hơi, kiếm nhựa thôi, ai ngờ con đòi thứ đồ chơi “quý tộc” đó! Mình có bán cái nhà này cũng không mua nổi đâu con ơi!
        Thằng bé Ân sửng sốt:
        - Mắc dữ vậy hả mẹ? Vậy thôi… con hổng thèm…
        Nhớ lại chuyện đó anh Kha thấy cay cay nơi sống mũi. Anh cắm cúi bước thật nhanh, miệng thầm thì như đang nói chuyện với con:
        - Mai mốt con hết bệnh, ba sẽ dắt con ra tiệm Internet, ba cho con chơi thỏa thích một buổi. Ráng mau hết bệnh nghe con trai!
        Trong lúc đó ở tiệm Internet xảy ra một hiện tượng lạ.
        Khi hai người khách ở máy số bốn và số năm gọi tính tiền rồi đứng lên, bà chủ tiệm đã cẩn thận tắt hai máy đó rồi mới quay về chỗ ngồi xem tiếp bộ phim Hàn Quốc đang tới hồi lâm ly bi đát. Lát sau nhìn lại, bà thấy máy số bốn và năm vẫn đang hoạt động mà trên ghế không thấy bóng một ai!
        Bà tới gần hỏi đứa trẻ đang ngồi ở máy số ba:
        - Con mở máy này phải không?
        Thằng bé không hề nghe thấy tiếng bà hỏi, vì trên tai nó đang đeo cặp headphone, miệng nó hú hét theo trò chơi và cả thân hình thì đang lắc lư theo điệu nhạc. Bà nhìn quanh quất khắp phòng, đứa trẻ nào cũng đang say sưa với những trò chơi đầy bạo lực. Bà lắc đầu, một lần nữa tắt phụt hai máy vắng người. Bà đinh ninh rằng, một đứa nào có định đổi máy nên mới mở lên như vậy!
        Nhưng thật kỳ lạ, bà mới bước đi vài bước, chừng quay lại, hai máy đó lại hoạt động bình thường! Mấy chiếc xe trên màn hình vẫn rượt đuổi nhau tới tấp, y như có người đang điều khiển.
        “Quái lạ!” Bà lẩm bẩm. Bà bấm nút shut down máy lần nữa rồi không đi đâu mà đứng ngó chăm chăm vào hai cái máy vừa được tắt. Không lâu sau, bỗng dưng màn hình lại cháy sáng, mấy chiếc xe lại vùn vụt lao đi trong nỗi kinh ngạc đến tột độ của bà.
        Bà chủ tiệm ú ớ định kêu lên, nhưng rồi bà kịp dừng lại. Thằng con trai bà, đứa chịu trách nhiệm kỹ thuật ở đây, giờ này đi ăn cưới đứa bạn, bà có kêu lên cũng không ai giúp mà không chừng òcn làm mất khách cũng nên. Thời buổi kinh tế thị trường, làm ăn gì cũng cạnh tranh kinh khủng. Chỉ một đoạn đường ngắn mà có đến ba tiệm Internet mọc lên, không khéo giữa khách sẽ phải ế dài dài.
        Bà không rành rẽ chuyện máy móc, thỉnh thoảng nghe con trai nói “lỗi kỹ thuật” gì đó, bà không hiểu gì nên giờ đây bà tự động viên mình, tự trấn an mình bằng cái từ nghe rất khoa học ấy:
        - Chắc có lẽ máy này bị lỗi kỹ thuật! Thôi, mình rút điện ra chờ nó về xem sao!
        Vừa lẩm bẩm, bà chủ tiệm vừa lom khom rút hết phích cắm từ hai máy số bốn và số năm ra khỏi nguồn điện rồi bà thong thả về xem phim tiếp. Nhưng thỉnh thoảng ba vẫn liếc chừng hai cái máy. Lần này thì nó thật sự tắt hẳn rồi.
        Bà chủ tiệm không ngờ, mà cũng chẳng có ai ngờ được là, sở dĩ hai máy ấy vẫn hoạt động sau khi tắt, không phải do lỗi kỹ thuật gì hết, mà là do… hai con quỷ ham vui đã ghé vô tiệm!
        Hai con quỷ đó, một đứa tên là Hắc Vô Thường, một đứa là Bạch Vô Thường, nhiệm vụ chính của chúng ở âm phủ là… đi bắt hồn người.
        Hắêc Vô Thường và Bạch Vô Thường là một cặp hoàn toàn đối lập. Một đứa thì từ đầu tới chân toàn một màu đen, chỉ trừ hàm răng là trắng; một đứa trắng toát từ trên xuống dưới, chỉ đen mỗi hàm răng!
        Aáy vậy mà bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào hai đứa cũng đều cặp kè bên nhau như hình với bóng! Đến nỗi, mọi người ít khi nào phân ra tách bạch tên gọi của riêng từng đứa, mà thường gộp chung lại, gọi là Hắc Bạch Vô Thường!
        Hôm nay, mới sáng sớm Diêm Vương đã cho gọi Hắc Bạch Vô Thường. Tối qua, vì mãi chơi khuya, nên hai đứa còn chưa tỉnh ngủ, gật gà gật gù tiến đến quỳ trước điện nghe chỉ thị của Diêm Vương.
        - Hôm nay, có một đứa bé mười hai tuổi sẽ mãn phần số! Hai ngươi phải tới ngay bệnh viện Khánh Thiện để đón nó.
        Diêm Vương đưa tay ra hiệu, một con quỷ đầu tóc bù xù tiến tới dâng lên một tờ giấy. Diêm Vương cầm lấy đưa cho Hắc Bạch Vô Thường:
        - Đây là sơ yếu lý lịch của thằng bé! Trong đó có cả giờ giấc phải bắt hồn nó lìa ra khỏi xác! Hai ngươi căn cứ vào đó mà thực hiện cho nghiêm túc! Nhớ kỹ, phải nghiêm túc đấy nhé!
        Hắc Bạch Vô Thường kính cẩn nhận tờ giấy từ tay Diêm Vương rồi cúi chào, khúm núm bước ra.
        Vừa ra khỏi cửa, hai đứa hí hửng nhảy cẫng lên:
        - Ô… Ô! Thích quá! Thích quá… hôm nay tụi mình lại được đi dạo trần gian rồi…
        Hắc Bạch Vô Thường nắm tay nhau tung tăng chạy nhảy tung tăng trên khắp các đường phố tấp nập người xe.
        Dù đã nhiều lần lên xuống trần gian để đón hồn về âm phủ, nhưng với hai kẻ ham vui như Hắc Bạch Vô Thường, trần gian vẫn là nơi mà chúng cần phải khám phá.
        Hai đứa giở đủ thứ trò tiêu khiển. Nào là nhảy lên một chiếc xe đang chạy; choàng tay qua vai một khách bộ hành; chui vào các hàng quán ngắm nghía các loại hàng hóa đủ kiểu đủ màu sắc được bày la liệt trên sạp, hoặc căng mũi ra hít lấy hít để mùi thơm bát ngát từ một hàng ăn nào đó.
        Mãi tới trưa, hai đứa mới tới trước cửa bệnh viện. Hắc Vô Thường cẩn thận mở tờ giấy ra lẩm nhẩm đọc lại lần nữa:
        - Nguyễn Thanh An, mười hai tuổi, mãn số vào giờ…
        Đọc xong hắn reo lên:
        - Còn sớm chán! Giờ mình đi đâu chơi chút nữa đi!
        Bạch Vô Thường gật đầu đồng ý.
        Thế là cả hai đi ngược trở ra cổng bệnh viện. Ngang qua tiệm Internet, Bạch Vô Thường thắc mắc:
        - Ủa, trong tiệm này bán cái gì mà bọn trẻ xúm vô đông quá vậy? Hay mình vô xem thử?
        Hắc Bạch Vô Thường lại dắt tay nhau hiên ngang đi vào tiệm.
        Trong tiệm các máy đã kín người ngồi. Hai đứa đứng sau lưng mấy đứa nhỏ theo dõi từng động tác, thích thú với trò chơi mà hai đứa nhỏ đang chơi mê mải.
        Hắc Vô Thường nói nhỏ:
        - Tớ khoái quá! Cậu thế nào?
        - Tớ cũng thế!
        Bạch Vô Thường cười nhe hàm răng đen như một cục than hầm.
        Hắn gãi gãi đầu, đề nghị:
        - Hay cậu với tớ ngồi đây chơi một lúc đi, chờ tới giờ rồi mình vô trỏng?
        Hắc Vô Thường mừng quýnh khi thấy thằng bạn chí cốt cũng có ý nghĩ giống như mình. Hắn gật đầu lia lịa rồi một tay giắt tờ giấy của Diêm Vương đưa cho lên cổ áo, một tay sờ nhẹ vào bụng thằng bé đang chơi. Thằng nhỏ đột ngột co rúm người lại, rên lên:
        - Ối, ối… đau bụng quá mẹ ơi…
        Bạch Vô Thường cười thích thú, bắt chước bạn, hắn đưa một tay xoa vào đầu đứa trẻ ngồi bên cạnh. Thằng bé nhăn mặt:
        - Trời ơi! Nhức đầu quá!
        Hai đứa bé cứ liên tục bị những cơn đau bụng, nhức đầu làm chúng không tài nào gượng nỗi, đành phải gọi chủ quán tính tiền rồi cùng nhau ra về, vừa đi vừa nhăn mặt đau đớn.
        Lúc hai đứa bé vừa đứng lên, Hắc Bạch Vô Thường nhanh nhẹn ngồi vào chỗ đó, và cả hai bắt đầu mê mải với trò chơi hấp dẫn, mới lạ mà chúng vừa được biết lần đầu tiên trong đời.
        Mãi đến lúc bà chủ tiệm Internet rút chuôi điện ra khỏi ổ cắm, Bạch Vô Thường mới chợt nhớ tới nhiệm vụ quan trọng mà chúng phải thi hành.
        Hắn đập mạnh vào lưng Hắc Vô Thường:
        - Đi thôi, sắp đến giờ rồi! Lẹ lẹ lên, kẻo trễ là khó sống với Diêm Vương đó!
        Hắc Vô Thường luyến tiếc đứng lên. Hai đứa chạy vội vào khu bệnh viện.
        Tới cửa phòng bệnh, Bạch Vô Thường quay sang hỏi bạn:
        - Lý lịch thằng nhỏ đâu? Đưa đây tớ xem kỹ lại chứ nếu để bắt nhầm hồn thì rắc rối to đấy!
        Hắc Vô Thường cười hềnh hệch. Hắn đưa tay lên cổ áo tìm hoài nhưng không thấy tờ giấy đâu. Gương mặt đen của hắn giờ càng đen hơn nữa. Hắn lắp bắp:
        - Tờ giấy… tờ giấy mất tiêu rồi!
        - Cậu để đâu mà mất?
        Bạch Vô Thường hoảng hốt hỏi lại.
        - Chắc… chắc lúc nãy tớ đánh rơi ngoài chỗ trò chơi gì đó… Thôi, để tớ ra tìm lại.
        Hai đứa co giò phóng thẳng ra tiệm Internet, cúi lom khom tìm khắp phòng vẫn không thấy tờ giấy nào. Chúng không ngờ lúc nãy bà chủ tiệm đã nhặt được tờ giấy viết vẽ nghuệch ngoạc gì đó không đọc được nên bà lấy nó để… hốt đống phân chó trước sân nhà!
        Tìm hồi lâu không thấy, nhìn ra ngoài trời thấy giờ bắt hồn đã đến, Hắc Vô Thường quýnh quáng cầu cứu bạn:
        - Bạch Vô Thường ơi! Mình phải làm sao bây giờ?
        Thấy bạn run rẩy, Bạch Vô Thường động lòng nên bày kế:
        - Lúc nãy cậu đọc tớ còn nhớ, tên đứa bé là Nguyễn Thanh An, mười hai tuổi. Giờ mình cứ vô bệnh viện tìm, gặp được đúng người có tên tuổi đó thì mình dẫn về, giấu nhẹm vụ mất tờ giấy. Tớ không nói, cậu không nói thì Diêm Vương làm sao biết được?
        Hắc Vô Thường thỏ phào nhẹ nhõm:
        - Tớ cám ơn cậu rất nhiều! Có dịp tớ sẽ đền ơn! Giờ thì tớ với cậu đi làm nhiệm vụ nào!
        Hắc Bạch Vô Thường đi dọc theo dãy phòng cấp cứu và chăm sóc đặc biệt. Chúng đã có kinh nghịêm, nên biết rằng những kẻ sắp mãn phần hết số thường tập trung ở khu vực này.
        Hôm nay, Hắc Bạch Vô Thường không thèm dòm ngó từng giường bệnh như những lần trước, hai đứa xăm xăm tiến thẳng tới khoa nhi, vì hồn đứa bé mà chúng dẫn đi hôm nay chỉ mới mười hai tuổi.
        Trong phòng chăm sóc đặc biệt của khoa nhi hôm nay chỉ có hai đứa bé.
        Một đứa có lẽ là con nhà nghèo, một đứa con nhà khá giả. Vì nhìn qua cách ăn mặc của bệnh nhân và người chăm sóc, cũng như nhìn những thứ lỉnh kỉnh để trên bàn của mỗi bệnh nhân thì sẽ dễ dàng nhận ra điều đó.
        Hắc Vô Thường mừng rỡ chỉ tay vào chiếc giường trong góc phòng. Trên giường, một đứa bé trai đang nằm thiêm thiếp, cạnh đó là một người đàn bà dáng vẻ rầu rĩ, ngồi chống cằm nhìn chăm chú đứa con.
        - Kìa, cậu thấy không, có phải nó không?
        Bạch Vô Thường lắc đầu:
        - Không phải, cậu xem kìa!
        Hắn chỉ vào cái bảng tên bệnh nhân được treo lủng lẳng phía dưới chân giường, trong bảng nổi bật dòng chữ: NGUYEN THANH AN.
        Hắc Vô Thường quay vội sang giường bên cạnh.
        Thằng bé bên này bệnh tình có vẻ trầm trọng hơn. Xung quanh người nó bao nhiêu là dây nhợ chằng chịt. Người ta đang truyền vào người nó một chất dịch màu đỏ, có lẽ là máu!
        “A, thằng này bệnh nặng đây!” Hắc Vô Thường reo lên nho nhỏ và mừng thầm trong bụng, nhưng ngay lập tức nụ cười lóe sáng hàm răng tắt ngúm trên môi hắn khi mắt hắn chạm vào tấm bảng treo dưới chân giường, cũng đang nổi bật dòng chữ: NGUYEN THANH AN!
        - Làm sao bây giờ? Mình đi một vòng quanh bệnh viện xem còn ai khác không?
        Hắc Vô Thường bứt đầu bứt tóc khổ sở.
        Bạch Vô Thường trầm ngâm một lúc rồi nói:
        - Bệnh viện này nhỏ xíu, đâu còn chỗ nào để mình tìm! Lần trước tớ có nghe lén các Phán quan nói chuyện với nhau, rằng bây giờ ở trần gian người đời họ văn minh lắm. Họ không xài chữ viết tay như hồi xưa nữa, mà xài chữ vi tính gì đó, tớ lại còn nghe Phán quan than thở rằng, dạo này xem xét hồ sơ mệt lắm vì con người hay dùng chữ quốc tế, không có bỏ dấu… Chắc hôm nay mình gặp đúng trường hợp đó rồi…
        Hắc Vô Thường run lẩy bẩy:
        - Vậy… bây giờ biết tính sao?
        Bạch Vô Thường đi tới đi lui mấy vòng, miệng lẩm bẩm:
        - Phải chi có tờ giấy đó, mình coi thêm thành phần gia đình, tên cha mẹ… như vậy dễ phân biệt, còn đằng này… Thiệt rắc rối quá!
        Nghĩ ngợi một lúc, Hắc Vô Thường rụt rè hỏi:
        - Hay… mình bắt đại một đứa?
        - Không được! Không thể tùy tiện được! Mình chỉ có thể bắt đứa nào thật sự tới số! Nếu bắt lầm, về dưới không khớp thì mình sẽ bị phạt! À, tớ nghĩ ra rồi!
        Bạch Vô Thường reo lên.
        - Này nhé, tớ với cậu cùng suy nghĩ xem. Hai đứa bé này cùng tuổi, cùng tên với nhau. Như vậy, đứa mà mình phải bắt là một trong hai đứa này! Thằng bé kia lúc nãy mình nghe loáng thoáng là con của ông bác sĩ trưởng khoa ở đây, nên người ta mới tích cực lo cho nó như vậy. Còn thằng bé này trông rất nghèo nàn, coi mòi ba má nó không đủ tiền cho nó uống thuốc. Nó nằm mê man vậy mà có y tá, bác sĩ nào tới lo cho nó đâu? Thằng này chết là cái chắc!
        Hắc Vô Thường mừng rỡ:
        - Ừ, cậu phân tích nghe có lý quá! Vậy mình dắt hồn thằng bé này đi nhé! Sắp hết giờ rồi…
        Khoái trá vì sự thông minh đột xuất của mình, Bạch Vô Thường cười toe toét. Hai đứa tiến sát tới giường bệnh nhân.
        Chị Hậu đang ngồi theo dõi từng cử động của con trai, bỗng giật mình vì nghe thấy một luồng hơi hạnh phả vào sau lưng. Chị ngoảnh nhìn lại, trong phòng không có ai, ngoài hai đứa bé trên giường bệnh và hai bà mẹ đang ngồi túc trực một bên!
        Vừa lúc đó, chị thấy bé Ân cử động mạnh. Trán nó cau lại, chân tay nó co duỗi, đạp lung tung như đang chống cự với một sức mạnh vô hình nào đó!
        Chị Hậu hoảng hốt la lên:
        - Bác sĩ ơi, y tá ơi… con tôi… con tôi bị làm sao nè…
        Nghe tiếng gọi hốt hoảng của chị Hậu, chị Phương vội vã chạy đến cùng lúc với mấy cô y tá và bác sĩ trực tình cờ đi ngang qua.
        Trên giường bệnh, thằng bé vẫn nhắm mắt nhưng tay chân nó đang vùng vẫy dữ dội, miệng nó lắp bắp điều gì đó mà không ai nghe được. Chị Hậu ôm chặt lấy con, khóc ngất.
        Bác sĩ vội vã đặt ống nghe, vạch mí mắt thằng bé để khám. Xét theo biểu hiện thì không có gì đáng ngại lắm, vì nhịêt độ của thằng bé đã giảm từ lúc nãy, triệu chứng hồi phục đang tốt dần lên, không ngờ lại xảy ra tình trạng lạ lùng này.
        Lập tức, thằng bé được đưa vào phòng cấp cứu.
        Nhưng mọi phương pháp đều vô hiệu. Nó cứ quẫy đạp, cứ vùng vẫy… Và cuối cùng tay chân nó buông xuôi, hắt ra một hơi thở cuối…
        Anh Kha vừa từ nhà lên tới bệnh viện, vào phòng con nằm nghe nói người ta đưa con lên phòng cấp cứu, anh hoảng hốt chạy vội đến, nhưng khi vừa tới cửa, anh đã thấy chị Hậu đang quỳ mọp trước cửa phòng, khóc gào như điên loạn, mặc cho các cô y tá kẻ đỡ, người nâng, chị vẫn không chịu đứng lên, mà cứ quỳ sờ soạng khắp nơi như đang tìm kiếm vật gì vô cùng quý giá.
        - Con ơi… Con của mẹ… Con không thể chết được con ơi…
        Anh Kha lau vội mấy giọt nước mắt, tiến tới ôm vợ vào lòng, muốn nói một câu an ủi nhưng giọng anh đã tắt nghẹn, không thể thốt được nên lời…
        Trong khi đó, cả anh Kha, chị Hậu cùng tất cả những người có mặt đều không thể chứng kiến cảnh giằng co kịch liệt giữa bé Thanh An và hai tên Hắc Bạch Vô Thường.
        Bạch Vô Thường nắm tay cậu bé kéo ra khỏi phòng, nhưng bé An một mực không nghe theo. Cậu bé sợ hãi trước hai người đàn ông có hình dạng quái đản. Cậu gào lên:
        - Mẹ! Mẹ ơi. Ba ơi… cứu con với…
        Nhưng cậu bé thấy ba mẹ mình hoàn toàn không nhận ra tiếng kêu cứu khản giọng của mình.
        Mẹ cậu vật vã khóc than, không ngớt gọi tên cậu. Còn ba, ba không la khóc như mẹ nhưng nhìn gương mặt ba thật đáng sợ, chưa bao giờ cậu bé Ân thấy cha mẹ mình đau khổ đến như vậy.
        Cậu bé vùng khỏi tay Bạch Vô Thường, chạy đến ôm chầm lấy mẹ:
        - Mẹ ơi, con đây nè! Mẹ đừng khóc nữa! Con đây nè mẹ ơi…
        Thấy mẹ vẫn gào, vẫn khóc, bé Ân quay sang cha nắm chặt tay ông:
        - Ba ơi! Ba nói mẹ đừng khóc nữa! Con đây nè…
        Ánh mắt người cha vẫn nhìn đờ đẫn làm cậu bé An hoảng hốt:
        - Trời ơi, mẹ ơi, ba ơi! Ba mẹ làm sao vậy? Sao ba mẹ làm như không hề nhìn thấy con, không hề nghe tiếng con vậy?
        Cậu bé nhào tới níu áo cô y tá:
        - Cô ơi, ba mẹ cháu bị làm sao vậy? Cô ơi…
        Nhưng cả cô y tá cũng không nghe thấy.
        Cậu bé Ân quay sang nhìn hai người đàn ông kỳ dị đang đứng ngay cửa ra vào:
        - Chú ơi, ba mẹ cháu làm sao vậy? Mọi người ở đây làm sao vậy? Sao không ai nghe cháu, không ai nhìn thấy cháu?
        Hắc Vô Thường nhe hàm răng trắng dã, cười cười:
        - Bây giờ ở đây chỉ có hai chú là nhìn thấy cháu và nghe cháu nói được thôi!
        Cậu bé Ân mếu máo khóc:
        - Họ… họ bị làm sao vậy chú?
        - Họ không bị làm sao hết cháu ạ! Chỉ là… chỉ vì cháu đã chết rồi, mà họ thì không thể nhìn hay nghe một hồn ma được!
        Bé Ân sửng sốt:
        - Cháu chết rồi?
        Hắc Vô Thường chỉ tay vào phòng cấp cứu:
        - Cháu hãy nhìn xem ai đang nằm kia? Có phải cháu không?
        Bé Ân bàng hoàng nhận ra thân xác nó đang nằm im lìm trên giường. Nó run giọng hỏi:
        - Cháu… cháu đã chết thật rồi sao?
        Hắc Bạch Vô Thường không ai trả lời nó. Cả hai đưa cánh tay dài ngoằng nắm lấy tay thằng bé:
        - Đi cháu! Mình tới giờ đi rồi!
        Bé An ngơ ngác:
        - Đi? Mà đi đâu?
        Bạch Vô Thường thở dài:
        - Thì đi về nơi mà cháu cần phải đến…
        Bé Ân hét toáng lên:
        - Không! Cháu không đi với hai chú đâu! Cháu muốn về nhà với ba mẹ cháu…
        Bạch Vô Thường dỗ dành:
        - Không được đâu cháu! Cháu thấy rồi đó, bây giờ ba mẹ cháu đâu còn nhận ra cháu nữa, dù cháu có về nhà chỉ thêm đau lòng mà thôi! Đời người rồi ai cũng vậy thôi cháu ơi…
        Hắc Vô Thường nóng nảy lôi thằng bé chạy băng băng ra ngoài, làm nó vừa khóc vừa gào đến khản cả tiếng.
        Bóng chiều đã nhập nhòa trên đường phố, dòng người xe trên đường trông có vẻ hối hả hơn.
        Bé Ân giật tay mình ra khỏi tay Hắc Vô Thường và đâm đầu vào một chiếc xe đò đang chạy tới. Nhưng lạ kìa, chiếc xe chạy vù qua rồi, cậu bé thấy mình vẫn đứng trơ giữa đường…
        “Vậy là… vậy là những gì hai chú này nói đều đúng cả sao?”. Bé Ân không tin lắm, cậu bé muốn thí nghiệm một lần nữa nên cậu đâm sầm vào một đám trẻ con đang đứng trước một xe kem, nhưng bọn chúng vẫn không có phản ứng gì…
        Hắc Bạch Vô Thường đến bên an ủi:
        - Cháu đừng cố thử làm gì! Không ai cảm nhận được cháu nữa đâu! Thôi, mau theo hai chú…
        Bé Ân đành phải lếch thếch đi theo, vừa đi vừa khóc thút thít.
        Đường đi cứ mỗi lúc một tối dần, đến khi không còn nhìn thấy gì nữa, bé Ân sợ hãi níu chặt tay Hắc Bạch Vô Thường, ba linh hồn nương vào nhau bước tới.
        Đi hết đoạn đường tối như mực lại đến một nơi tranh sáng tranh tối, không khí lạnh lẽo âm u.
        Hắc Bạch Vô Thường dẫn bé Ân vô một căn phòng nhỏ, rồi bỏ nó lại đó cả hai đi ra không quên dặn dò:
        - Cháu cứ ở yên trong này, đừng có đi lung tung đấy nhé! Để hai chú đi báo cáo với Diêm Vương, khi nào Diêm Vương cần, hai chú sẽ tới đưa cháu đến ra mắt.
        Còn lại một mình trong căn phòng trống trơ trống hoác, bé An lấy làm lạ là sao lúc này mình không cảm thấy sợ hãi, cũng không thấy lòng đau buồn dữ dội như lúc chiều?
        Nhưng rồi nhớ đến mẹ cha, cậu bé không cầm được nước mắt. Cậu biết ba mẹ cậu sẽ rất đau khổ khi cậu chết đi. Ân muốn nói cho mẹ biết là giờ đây mình vẫn bình yên để mẹ được yên tâm, nhưng làm sao cậu bé thực hiện được điều đó?
        Mãi suy nghĩ, bé Ân ngủ gục lúc nào không biết…
         
        ***
        Hắc Bạch Vô Thường hoàn thành nhiệm vụ, lòng vui phơi phới. Hai đứa tìm đến trình diện Diêm Vương. Diêm Vương tỏ ý hài lòng khi thấy bọn chúng làm việc nhanh nhẹn, bảo đảm giờ giấc. Ông ra lệnh cho hai đứa được về nghỉ ngơi và không quên ban cho một mâm rượu nhỏ.
        Đêm đó, Hắc Bạch Vô Thường được một bữa cơm rượu no say. Bọn hắn vừa ăn uống, vừa nhắc lại cái trò chơi vô cùng hấp dẫn mà hôm nay chúng đã được tham gia.
        Hắc Vô Thường tỏ vẻ luyến tiếc:
        - Phải chi mình được tự do lên trên đó thì vui biết mấy! Trần gian quả có lắm trò giải trí… Lần sau, mình phải tranh thủ đi thật sớm để chơi tiếp, tớ nhất định phải thắng…
        - Ừ, tớ cũng quyết phải thắng!
        Hắc Bạch Vô Thường nằm bên nhau, vẽ vời vô số điều sẽ làm nếu lần sau chúng trở lại trần gian.
        Đột nhiên, một tên ngạ quỷ hớt hơ hớt hãi chạy đến gọi to:
        - Hắc Bạch Vô Thường! Mau tới trình diện Diêm Vương! Hai người làm gì mà Diêm Vương nổi giận đùng đùng vậy?
        Hắc Bạch Vô Thường hốt hoảng ngồi bật dậy, cố van nài tên ngạ quỷ nói rõ nguyên nhân tức giận của Diêm Vương, nhưng tên ngạ quỷ một mực lắc đầu:
        - Tôi không biết! Hai anh cứ đến đó khắc biết thôi mà!
        Vừa trông thấy Hắc Bạch Vô Thường, Diêm Vương đập tay xuống bàn nghe cái rầm, quát lớn:
        - Hai ngươi đã dẫn hồn đứa bé về đây chưa?
        Hắc Bạch Vô Thường run lập cập:
        - Dạ… dạ rồi! Hồn đứa bé đang ở phòng nghỉ tạm ngoài cổng…
        - Thế tại sao quan trông coi đèn sinh mệnh lại vừa tâu lên, ngọn đèn của Nguyễn Thanh An cứ cháy leo lét mãi mà không tắt? Hai ngươi có bắt đúng hồn không?
        Diêm Vương gằn giọng.
        Hắc Vô Thường lau mồ hôi, trả lời lí nhí:
        - Dạ… bẩm… đúng ạ!
        - Mau dẫn đứa bé tới đây!
        Nghe Diêm Vương quát, Hắc Bạch Vô thường vội vã chạy ra phòng nghỉ tạm, xốc nách bé Ân đang say ngủ đem vào trước điện.
        Bé Ân ngơ ngác ngó xung quanh.
        Diêm Vương hạ thấp giọng hỏi cậu bé:
        - Cậu bé kia, tên con là gì?
        Bé Ân lễ phép:
        - Dạ thưa, con tên là Ân, Nguyễn Thanh Ân ạ!
        Diêm Vương gầm lên:
        - Hắc Bạch Vô Thường! Hai ngươi có nghe không? Ta sai các ngươi di dắt hồn của đứa bé tên gì? Ta đã dặn nó tên là Nguyễn Thanh An! Các ngươi mau đưa tờ giấy ban sáng ra đây! Đưa ra ngay!
        Nghe Diêm Vương hỏi đến tờ giấy, Hắc Bạch Vô Thường run rẩy quỳ xuống dập đầu cộp cộp xuống nền nhà.
        - Xin Diêm Vương tha mạng! Xin Diêm Vương tha mạng! Chúng con… chúng con lỡ đánh rơi mất tờ giấy đó rồi…
        Diêm Vương chỉ tay vào mặt Hắc Bạch Vô Thường:
        - À, thì ra do đánh mất tờ giấy mà hai ngươi lại tùy tiện bắt người? Hai ngươi có biết hậu quả của việc này sẽ ra sao không? Ta không ngờ hai ngươi lại vô dụng đến vậy! Bây giờ ta có một cuộc họp gấp, không thể vắng mặt được! Hai ngươi ở đây mà suy nghĩ cho ra cách giải quyết, khi họp xong ta trở lại, nếu vẫn chưa có cách gì cứu vãn chuyện này, ta quyết không tha cho hai ngươi!
        Nói dứt câu, Diêm Vương đùng đùng bỏ ra ngoài.
        Bé Ân đã lờ mờ hiểu ra câu chuyện. Nó đến bên Hắc Bạch Vô Thường hỏi nhỏ:
        - Hai chú… có phải hai chú bắt nhầm hồn cháu không?
        Bạch Vô thường khe khẽ gật đầu, Hắc Vô Thường không ngừng rên rỉ:
        - Trời ơi… mình phải làm sao đây? Làm sao để cứu vãn chuyện này đây? Cậu nói cho tớ biết đi, tớ phải làm sao đây?...
        Bạch Vô Thường cúi đầu ủ rũ.
        Bé Ân xen vào:
        - Có gì mà hai chú phải lo? Hai chú đã bắt nhầm cháu, thì bây giờ hai chú dẫn cháu về trả lại cho ba mẹ cháu, rồi đi bắt đúng cái ngwofi mà hai chú cần phải bắt, như vậy có phải vẹn toàn không?
        Hắc Bạch Vô Thường ngồi bật dậy, ôm lấy bé Ân tung lên cao, miệng cười lên ha hả:
        - Thằng bé này thật thông minh! Có vậy mà hai thằng già đầu như mình lại không nghĩ ra! Thôi, đi , đi mau lên!
        Nghĩ tới lúc được trở về với ba mẹ, bé Ân rất phấn khởi nên chạy nhanh không thua gì Hắc Bạch Vô Thường.
        Chẳng mấy chốc, cả ba đã đứng trước cổng bệnh viện. Bé Ân hồi hộp thúc giục:
        - Đi mau lên chú! Đi vô gặp ba mẹ cháu!
        Nhưng ba chú cháu đi khắp mọi nơi trong bệnh viện vẫn không thấy ba mẹ bé Ân đâu.
        Chợt nghĩ ra, Bạch Vô Thường reo lên:
        - Về nhà! Chắc chắn ba má nó đã mang xác nó về nhà rồi!
        Cả ba lại hộc tốc chạy ra, ngược về phía con đường đã đi qua lúc nãy.
        Khi đến trước cửa nhà mình, bé Ân vui mừng chạy ào vào nhà ôm chầm lấy người mẹ đang ngồi ủ rủ trên võng.
        - Mẹ ơi! Con về với mẹ rồi mẹ ơi!
        Thấy mẹ vẫn ngồi im, Ân mới chợt nhớ ra giờ đây mình chỉ là một hồn ma không hình không dạng. Cậu bé tiu nghỉu quay qua Hắc Bạch Vô Thường:
        - Hai chú làm ơn cho cháu trở về làm người, nhanh nhanh đi hai chú! Mẹ cháu nhớ cháu nên khóc sưng cả mắt rồi kia kìa…
        Bé Ân bất ngờ khi thấy hai gương mặt một đen một trắng lúc này còn ủ rũ hơn cả gương mặt của mẹ cậu.
        - Hai chú… Hai chú làm sao vậy?
        Hắc Vô Thường nghẹn giọng:
        - Họ… họ đã chôn xác cháu rồi…
        Bạch Vô Thường rầu rĩ nói thêm:
        - Hai chú quên rằng mỗi một tiếng đồng hồ ở dưới âm phủ là bằng cả một ngày trên dương thế! Bây giờ đã mấy ngày trôi qua rồi, xác cháu đã được người nhà chôn cất, và nó… nó đã sình thúi lên rồi… Làm sao… làm sao hai chú cho cháu nhập hồn vào được?
        Nghe dứt lời, bé Ân té ngồi xuống đất. Bao nhiêu niềm vui, bao nhiêu hy vọng trong lòng cậu bé giờ đã tiêu tan.
        Trong nhà, người mẹ thương yêu của cậu cứ ngồi im lìm như một bức tượng, bà Tám dỗ dành an ủi cách nào mẹ cậu vẫn không chịu ăn một muỗng cơm.
        Và kia, trên chiếc võng sau hè, ba cậu đang nằm gác tay lên trán, hai má hóp vô thấy rõ, râu ria thì đâm ra tua tủa.
        Mãi mãi ba mẹ sẽ không nhìn thấy mình được sao? Ân òa khóc nức nở. Hai tên Hắc Bạch Vô Thường cũng lặng lẽ ngồi xuống cạnh bên cậu bé, không ai nói một câu.
        Khóc một hồi, Ân quay sang hỏi:
        - Bây giờ hai chú tính sao?
        Bạch Vô Thường thểu não trả lời:
        - Bây giờ hai chú trở về dưới là chết chắc! Hai chú cũng không biết phải làm sao nữa…
        Hắc Vô Thường đứng bật dậy:
        - Tớ có cách rồi!
        - Cách gì?
        Bạch Vô Thường và bé Ân đồng thanh hỏi.
        Hắc Vô Thường thầm thì:
        - Này nhé! Thằng bé tên An kia đã tới số, bây giờ mình tới bệnh viện dắt hồn nó đi rồi để cho thằng bé này nhập hồn vô xác thằng bé kia, thế là xong! Thanh Ân vẫn sống, Thanh An thì ta dẫn về trình diện Diêm Vương! Cậu nghĩ như vậy có được không?
        Bạch Vô Thường đắn đo:
        - Tính vậy có được không? Như vậy… như vậy thằng bé này phải sống bằng thân xác của thằng bé kia à?
        Bé Ân giãy nãy:
        - Không, không! Cháu không chịu đâu! Cháu không muốn sống bằng xác của người khác đâu!
        Hắc Bạch Vô Thường xúm lại dỗ dành:
        - Không có sao đâu, cháu đừng sợ! Thằng đó con nhà giàu, được ba má nó thương yêu dữ lắm! Cháu mà làm được nó, cháu sẽ sung sướng cả đời luôn đó!
        Bé Ân vẫn không nín khóc:
        - Cháu không muốn! Cháu không thèm, cháu chỉ muốn ba mẹ hiện nay của cháu thôi…
        Hắc Vô Thường nghiêm giọng:
        - Cháu là đứa bé thông minh, sao chú nói hoài mà cháu không chịu hiểu? Hai chú đây cũng rất muốn đưa được cháu vào đúng xác của mình, nhưng ngặt nỗi xác cháu bây giờ không còn nữa, hai chú đành bó tay thôi! Bây giờ chú cho cháu chọn một trong hai đường nhé! Cháu suy nghĩ cho kỹ đi rồi hay trả lời. Cách thứ nhất: Cháu sẽ sống trở lại nhưng bằng thân xác của thằng bé kia; cách thứ hai, cháu mãi mãi là một vong hồn không có nơi để đi mà cũng không có chốn để về, phải vất vưởng hoài đến bao giờ phần số của cháu chính thức mãn thì cháu mới được về trình diện Diêm Vương. Đấy, cháu cứ chọn! Hai chú có lỗi, hai chú rất muốn giúp cháu sống lại để gỡ bớt lỗi lầm của mình, nhưng nếu cháu không đồng ý thì chú cũng không ép!
        Nghe Hắc Vô Thường nói một thôi một hồi, bé Ân thật sự hoang mang. Cậu bé rất sợ phải sống cảnh vất vơ vất vưởng, đi ngoài đường không ai nhìn thấy, muốn nói gì cũng chẳng ai nghe… Thà là mình được sống lại, dù với hình hài nào cũng đỡ hơn!
        Cậu bé ngần ngại hỏi:
        - Nhưng… nếu cháu sống lại bằng thân xác của thằng kia, liệu ba mẹ cháu có nhận ra cháu không?
        Hắc Bạch Vô Thường nhìn nhau lắc đầu:
        - Có thể ban đầu ba mẹ cháu không nhận được, nhưng dần dần cháu sẽ nhắc nhở thì ba mẹ cháu nhận ra ngay…
        Bé Ân nghi ngờ:
        - Hai chú nói thật không?
        Bạch Vô Thường thở dài, giảng giải:
        - Đáng lẽ khi một vong hồn đi đầu thai, sẽ được uống một thứ nước để xóa hết trí nhớ, để khi đầu thai kiếp khác sẽ không còn nhớ gì đến kiếp trước của mình. Nhưng trường hợp của cháu là ngoại lệ, vì thật ra cháu chưa tới số, nên không thể gọi là đầu thai kiếp khác được. Cháu vẫn phải sống tiếp kiếp này của mình, chỉ khác là sống bằng thân xác người khác vậy thôi. Vì thế, cháu vẫn nhớ những gì cháu đã trải qua…
        Hắc Vô Thường nói chen vào:
        - Nhưng cháu ạ, dẫu sao thì cháu cũng phải sống bằng thân xác của người khác. Thân xác đó cũng có cha có mẹ đàng hoàng. Nếu cháu một mực từ chối, nói mình không phải là con của họ thì tội nghiệp cho họ lắm! Bởi vậy, dù sao cháu cũng phải chấp nhận gọi họ là ba mẹ, và phải thương yêu họ như chính ba mẹ ruột của mình, nghe không? Họ là ba mẹ của thân xác cháu, còn ba mẹ ở đây là ba mẹ của linh hồn cháu. Cháu không thể tách rời linh hồn và thân xác được, vì hai cái đó phải hòa nhập vào nhau thì cháu mới có thể tồn tại trong đời sống ở trần gian được! Chú nói vậy chắc cháu hiểu?
        Bé Ân ấp úng:
        - Dạ… cháu hiểu!... Vậy thì… vậy thì cháu đồng ý!
        Hắc Bạch Vô Thường mừng rỡ đứng lên kéo tay bé Ân ra cửa. Bé Ân không quên nhìn lại ngôi nhà thân quen và ba mẹ kính yêu của mình, cậu thầm nhủ ngày mai mình sẽ quay về kể cho ba mẹ nghe tất cả!
         
        ***
        Chị Phương gục đầu bên cạnh con trai, mệt mỏi rã rời nhưng chị vẫn không dám chợp mắt đi một chút. Chị lo sợ, chị hồi hộp theo từng hơi thở yếu ớt của đứa con yêu quý.
        Chị không còn hốt hoảng, không còn tê dại, chỉ còn lại là con người hành động. Chị không ăn gì suốt bảy mươi tiếng đồng hồ đó. Không thể… Không thể trả lời bất kỳ một câu hỏi nào dù đơn giản nhất từ bất kỳ ai, trừ bác sĩ, y tá trong bệnh viện.
        Bác sĩ Hùng mạnh mẽ hơn, anh đi lại như con thoi, vừa lo cho vợ con, vừa lo cho các bệnh nhân khác, lại còn phải tiếp người thân và bạn bè đến thăm viếng.
        Chị Phương cầm lấy bàn tay với những ngón thon dài của con đưa lên môi hôn khẽ. Chị thì thầm: “Con trai, con mau chóng khỏe lại để về nhà với ba mẹ nghe con! Bàn tay này của con sẽ lại dạo lên phím đàn mỗi tối để cả nhà mình tràn ngập tiếng nhạc vui… Con trai, con nhất định phải sống, con không được bỏ mẹ… Hôm nay là ngày thử thách cuối cùng của con, phải vượt qua nhé con, mẹ con mình phải vượt qua! Con hứa với mẹ đi An ơi…”
        Hắc Vô Thường kéo bé Ân đến bên cạnh giường bệnh, rồi đưa cánh tay dài khẳng khiu như que củi lên vẫy, linh hồn bé An từ từ bay lên khỏi thân xác, mong manh như một làn khói. Cùng lúc đó, Bạch Vô Thường nhanh tay xô bé Ân ngã nhào lên xác bé An. Cả hai đồng thanh:
        - Hai chú chào cháu nhé!
        Ân nghe tiếng cười của họ xa dần rồi cậu ngủ thiếp đi, không biết gì nữa cả.
        Bác Sĩ Hùng khẽ khàng bước vào, nhìn thấy vợ xanh xao vàng vọt ngồi lặng bên con anh thở dài, kéo ghế ngồi cạnh một bên.
        Chị Phương trông thấy chồng, hấp tấp giục:
        - Anh! Anh khám lại cho con lần nữa đi anh! Con mình sẽ tỉnh lại phải không anh?
        Dù không còn chút hy vọng nào, nhưng trước ánh mắt van nài của vợ, bác sĩ Hùng không thể từ chối được. Anh uể oải đứng lên lấy dụng cụ khám lại cho con trai lần nữa cho vợ vui lòng.
        Thật lạ lùng, bác sĩ Hùng không thể ngờ được! Đúng là phép màu đã xảy ra! Bé An đã có dấu hiệu hồi dịch tràn, bụng xẹp dần, thở cũng dễ hơn.
        Trước những dấu hiệu phấn khởi đó, bác sĩ Hùng lập tức cho làm thêm vài xét nghiệm, và kết quả thật không ngờ!
        Tiểu cầu của bé An đã hồi, men gan cũng giảm. Dù chưa hết nguy kịch, nhưng nếu vượt qua được sẽ không có di chứng nào để lại.
        Chị Phương mừng như điên khi nghe chồng cho biết tình trạng hiện tại của con trai. Suốt đêm hôm ấy, chị cứ ngồi bên con mà lầm rầm khấn vái bốn phương trời phật.
        Gần sáng, bác sĩ Hùng reo lên:
        - Em ơi! Con mình sống rồi! Con mình vượt qua thử thách rồi em ơi!
        Chị Phương như mọc cánh bay lên trước tin vui đó! Nhưng khi vừa đứng dậy, chị lảo đảo ngã ngồi xuống ghế. Bác sĩ Hùng âu yếm ôm chầm lấy vợ:
        - Anh đi mua thức ăn cho em! Em phải ăn để có sức mà chăm sóc cho con chứ! Con mình sống rồi… Con mình sống rồi…
        Hai người ôm lấy nhau vừa cười vừa khóc làm mấy cô y tá cũng không cầm được nước mắt.
        - Cuối cùng trời phật đã thương vợ chồng mình!
        Chị Phương nghẹn ngào, tay chị run run đón lây ly sữa mà cô y ta đưa cho nhưng vẫn chưa vội uống, nỗi vui mừng khiến chị cũng không còn cảm giác đói, cũng như mấy ngày qua, sự lo âu cũng làm chị không thấy đói. Cô y tá giục:
        - Giờ cháu đã qua thời kỳ nguy hiểm rồi! Chị càng phải lo cho bản thân để có sức khỏe mà chăm sóc cháu những ngày tiếp theo. Chị phải ăn uống đi chứ!
        Chị Phương vui ve nói lời cảm ơn với mấy cô y tá rồi bưng ly sữa lên uống. Từng dòng sữa ngọt lịm, ấm áp đi vào cơ thể chị tiếp thêm cho chị nguồn sinh lực.
        Đến trưa, bé An mở mắt. Nó gọi yếu ớt:
        - Mẹ ơi!
        Nghe tiếng gọi của con, nước mắt lại chảy tràn ra trên má chị Phương. Chị sà lại bên con:
        - Mẹ đây con ơi! Con đã tỉnh rồi… Mẹ mừng quá con ơi…
        Trong lúc chị gọi với ra cửa để nhờ y tá đi báo cho bác sĩ Hùng biết con trai anh đã tỉnh, thì cũng là lúc bé An ngơ ngác nhìn xung quanh.
        “Người đàn bà đang ôm chặt mình trong vòng tay đâu phải mẹ của mình! Tại sao… tại sao bà ấy lại gọi mình là con?”. Cậu bé không nhớ ra điều gì cả, lúc này cậu cảm thấy rất mệt mỏi, còn cái đầu thì ngầy ngật, bao nhiêu thứ lùng nhùng trong đó, cậu bé không tài nào suy nghĩ được, cậu chỉ biết chắc một điều, ngwofi phụ nữ xinh đẹp này không phải là mẹ mình! Mẹ mình đâu? Ba mình đâu? Sao mọi người xung quanh toàn xa lạ với mình?
        - Mẹ… mẹ con đâu?
        Không dằn được, cậu bé hỏi với giọng yếu ớt.
        Chị Phương đặt một nụ hôn âu yếm lên trán con trai, nhỏ nhẹ:
        - Mẹ đây, mẹ đây nè con! Mấy ngày qua, mẹ luôn luôn ngồi sát bên con để chờ con trai yêu quý của mẹ tỉnh dậy đó!
        Bé An thấy lạ lẫm quá, cậu muốn kêu to lên “Không, bà không phải là mẹ của con”, nhưng vì quá mệt mỏi, cậu bé lại chìm vào giấc ngủ.
        Khi bác sĩ Hùng đến, chị Phương lo âu nói với chồng:
        - Anh ơi, con tỉnh lại rồi! Em mừng quá! Nhưng sao… hình như nó không nhận ra em anh à!
        Bác sĩ Hùng cười, trấn an vợ:
        - Con mình mê man đã máy ngày mấy đêm rồi, vừa tỉnh lại đầu óc nó làm sao linh hoạt được? Em yên tâm đi, không sao đâu!
        Nghe chồng nói vậy, chị Phương nhoẻn cười vì sự lo âu thái quá của mình.
        Bé Ân ngủ một mạch suốt mấy giờ liền, tới chiều, khi thức dậy nó co cảm giác khỏe khoắn hơn rất nhiều và trong đầu cậu bé lúc này cũng đã lờ mờ nhớ ra một số chuyện. Dù không rõ ràng lắm, nhưng cậu nhớ là mình đã chết, đã xuống trình diện Diêm Vương, nhớ cả việc hai chú Hắc Bạch Vô Thường bị Diêm Vương quát nạt vì tội bắt nhầm hồn; Rồi hai chú đưa mình lên lại trần gian mà nhập vô thân xác của đứa bé xa lạ này.
        Cậu bé nhổm dậy nhìn lại thân thể mình một lượt.
        Cái thân xác này có cao hơn mình lúc trước một chút, nhưng trông có vẻ yếu ớt quá! Da mình thì rám nắng, còn làn da mình đang mang lại trắng trẻo, bàn tay mềm mại như tay con gái…
        Mải nhìn ngắm thân thể mình, bé Ân giật bắn người khi một bàn tay chạm nhẹ vào lưng cậu.
        - Con trai ngồi dậy được rồi! Ba mừng quá!
        Bé Ân ngẩng lên nhìn vào mắt người đàn ông mặc áo bác sĩ đang đứng kề bên, cậu muốn bảo rằng mình không phải con ông ta, nhưng suy đi nghĩ lại dù sao mình cũng đang mang xác thân của của con ông ấy, mình có nói gì chưa chắc mọi người chịu tin. Thôi, tạm thời mình cứ chấp nhận sống như thế này, mọi việc để từ từ sẽ giải quyết. Lời dặn dò của Hắc Bạch Vô Thường vẫn còn âm vang trong đầu cậu bé. Mình phải chấp nhận thôi, từ hôm nay mình sẽ là người có hai ba, hai mẹ…
        Nghĩ vậy nên bé Ân mỉm cười với người đàn ông rồi nằm trở xuống giường. Cậu bé thầm nhủ, mình phải nhớ, mình phải gọi những người này là ba, là mẹ. Bất chợt nhớ tới ba mẹ mình, cậu bé muốn bật lên tiếng khóc, nhưng cậu dã kịp dằn lại. Những biến cố mà cậu đã phải trải qua giúp cậu bé trưởng thành hơn cái tuổi mười hai của cậu rất nhiều…
        Vợ chồng bác sĩ Hùng đón con trai ra viện trở về nhà với niềm hân hoan khôn tả.
        Ngoài niềm vui khi con trai thoát khỏi lưỡi hái tử thần, bác sĩ Hùng còn có một niềm vui khác, đó là sự thay đổi của Phương, vợ bác sĩ. Cô ấy đã trở nên một người khác hẳn, không còn bướng bỉnh, ngang tàng như lúc trước.
        Bác sĩ Hùng mỉm cười khi nghĩ tới những ngày hạnh phúc trước mắt của gia đình mình.
        Ngày đầu tiên về sống trong một ngôi nhà sang trọng, bé Ân vô cùng lúng túng. Thái độ lạ lẫm đó khiến niềm vui của vợ chồng bác sĩ Hùng bỗng nhiên chùng xuống.
        Đầu tiên là việc đi tiêu tiểu.
        Chị Phương lui cui dọn dẹp, ngoảnh lại thì không thấy An đâu. Chị gọi to:
        - An ơi! An! Con đâu rồi!
        - Dạ, con đây!
        Tiếng thằng bé đáp lại từ vườn sau. Chị Phương vội chạy ra nhìn xem con làm gì ngoài ấy. Chị vừa ra tới cửa sau thì trông thấy An lững thững đi vào.
        - Con ra vườn làm gì vậy con?
        Chị Phương âu yếm hỏi.
        An đáp, có vẻ thẹn:
        - Dạ… con… con đi ị!
        Chị Phương mở to mắt ngạc nhiên:
        - Con nói sao? Con đi… con đi tiêu ngoài đó? Toilet trong nhà sao con không sử dụng?
        An há hốc miệng, định hỏi xem toilet là cái gì, nhưng rồi cậu bé dằn lại sự tò mò, chỉ mỉm cười không nói.
        Chị Phương thầm nhủ, có lẽ mấy ngày liền nằm trong bệnh viện, không gian tù túng chật hẹp, bây giờ con chị cần nơi thoáng mát nên cũng thôi không còn thắc mắc nữa.
        Nhưng từ đó tới chiều, trước bao nhiêu sự ngớ ngẩn của con trai, chị Phương không còn yên tâm nữa.
        Lúc chị bảo:
        - Mở ti vi lên xem đi con, giờ này đang chiếu tiếp bộ phim thiếu nhi mà con rất thích đó!
        Thằng bé lúng túng đứng trước màn hình, rờ rẫm lung tung mà không sao mở được. Chị Phương phải lấy remoete hướng dẫn con cách tắt mở, cách dò đài, chuyển kênh ra sao.
        Rồi đến chiếc máy vi tính. Thằng bé có vẻ thích thú lắm, cứ sà vào bên cạnh mà ngắm nghía, vuốt ve rồi hỏi chị:
        - Mẹ ơi, cái máy này mắc tiền lắm phải không mẹ?
        Chị Phương bật cười, xoa đầu con:
        - Ừ, mắc lắm! Nhưng có mắc mấy ba mẹ cũng mua cho con! Nào, bây giờ con mở máy lên checkmail đi! Mấy hôm con nằm viện, thế nào các anh chị họ của con ở bên Canada cũng gửi mail về thăm hỏi và động viên con đó! Nhưng ba mẹ bận lo cho con ở trong ấy, cũng chẳng có thời gian đọc nữa!
        Thằng bé cứ nhìn chị như đang nghe một thứ ngôn ngữ nào đó hoàn toàn xa lạ đối với nó. Gương mặt nó nghệch ra trông đến tội. Trông thấy con như vậy, chị Phương không khỏi ngỡ ngàng.
        Chị thảng thốt kêu lên:
        - An! Con sao vậy? Con đừng nói với mẹ là con không còn nhớ gì cả đấy nhé?
        Bé An cúi mặt xấu hổ, nói giọng ngập ngừng:
        - Con… thật sự… con không… con không còn nhớ gì hết mẹ à!
        Chị Phương bật khóc.
        Chị cuống cuồng gọi điện cho chồng, bảo anh về nhà ngay vì con trai có biểu hiện kỳ lạ lắm.
        Nghe điện thoại vợ, anh Hùng hốt hoảng vội vã bàn giao ca trực rồi phóng ào lên xe chạy vội về nhà. Trong đầu anh bao nhiêu thắc mắc. Chẳng lẽ nào bệnh của con anh lại trở nặng? Không, không đâu, sáng nay nó đã hoàn toàn khỏe mạnh rồi mà? Vậy thì chuyện gì? Chuyện gì khiến vợ anh hốt hoảng đến mức đó?
        Tim anh nghẹt lại với những lo sợ vu vơ.
        Nhưng khi về tới nhà, bác sĩ Hùng thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy hai mẹ con bé An đang ngồi với nhau trên chiếc xích đu bên hiên nhà.
        Anh trách vợ:
        - Con làm sao mà em lại hối thúc anh như vậy? Làm anh sợ hết cả hồn…
        Chị Phương nhìn con một lúc rồi nhẹ nhàng đứng lên, kéo tay chồng đi vào phòng khách.
        Khi cả hai đã ngồi xuống ghế, chị Phương thầm thì với chồng:
        - Con lạ lắm anh ơi! Em có cảm giác con mình như một người khác lạ hoàn toàn vậy! Có nhiều lúc em nghĩ nó không phải là con mình nữa…
        Bác sĩ Hùng bật cười ha hả:
        - Trời ơi! Trên đường về anh cứ tưởng là con trở bệnh, nhưng hóa ra lại là em! Em làm sao vậy? Tại sao em lại có thể nghĩ nó không phải là con mình được chứ?
        Chị Phương rưng rưng nước mắt:
        - Em nói thật đó! Tại anh bận việc lu bu, không tiếp xúc con nên anh không biết đó thôi! Mới về nhà chưa được một ngày mà con đã làm cho em đi từ ngạc nhiên này tới hoang mang khác. Nó không biết mở tivi, không biết sử dụng máy vi tính. Thậm chí… thậm chí nó không biết sử dụng toilet nữa đđó anh!
        Nghe vợ kể lể, bác sĩ Hùng cứ ngẩn người ra, anh không tin lại xảy ra việc kỳ lạ như vậy.
        Bệnh sốt xuất huyết của con, nếu có di chứng để lại đi nữa thì cũng là di chứng ở gan, chứ làm sao lại ảnh hưởng đến hệ thần kinh của nó được?
        Suy nghĩ một lúc, bác sĩ Hùng vỗ vai vợ an ủi:
        - Thôi được rồi, em đừng lo! Ngay bay giờ anh sẽ gọi điện tới bệnh viện xin nghỉ phép ít hôm để có thời gian ở nhà chơi đùa với con và tìm hiểu bệnh tình của nó. Nếu thật sự có vấn đề, mình sẽ đưa con đi khám thần kinh em ạ!
        Chị Phương khóc thút thít:
        - Thấy con hết bệnh, em mừng quá đỗi! Không ngờ… con lại như vậy! Em cầu trời đừng có chuyện gì không hay xảy ra với con mình nữa…
        - Thôi, em đừng khóc! Phải vui lên cho con mình vui chứ! Em mà khóc, tinh thần thằng bé sẽ xấu hơn đấy!
        Nghe lời chồng, chị Phương lau nước mắt:
        - Giờ anh ra chơi với con đi! Em lo chuẩn bị cơm nước. Anh nhớ theo dõi xem có phải thật sự con mình mất trí nhớ không nhe?
        - Ừ, anh biết rồi! Em yên tâm đi!
        Chị Phương xuống bếp nấu cơm. Bác sĩ Hùng cũng đứng lên vào phòng thay quần áo rồi ra trước hiên nhà ngồi với con trai.
        Thằng bé trông thấy anh, nó không mừng rỡ liếng thoắng như thường ngày mà còn có vẻ rụt rè xa lạ.
        Dù đã được vợ cho biết trước những biểu hiện bất thường của con trai, nhưng bác sĩ Hùng vẫn cảm thấy bị sốc, huống hồ gì vợ anh.
        Làm như không để ý tới sự khác thường đó, bác sĩ Hùng ôm con vào lòng:
        - Con thật khỏe chưa? Trong người con có chỗ nào không ổn không con?
        - Dạ, con khỏe rồi!
        Thằng bé đáp.
        - Nào, khỏe rồi thì vô nhà dạo một khúc nhạc cho ba nghe đi con trai! Mấy hôm nay nhà mình vắng tanh và buồn hết biết, bởi vì thiếu tiếng đàn của con đấy!
        Vừa nói, bác sĩ Hùng vừa đỡ con đứng dậy.
        Thằng bé lúng túng:
        - Con… con… đánh đàn à?
        - Ừ, chứ sao! Con quên con là một tài năng dương cầm ở trường sao?
        Bác sĩ Hùng tự hào nói với con trai.
        Mắt thằng bé cụp xuống, nó ngắt ngứ:
        - Con… con… bây giờ con không biết đánh đàn…
        Bác sĩ Hùng ngồi chồm hổm xuống đất để nhìn thẳng vào mắt con. Anh lo lắng hỏi:
        - Con nói thật cho ba biết đi, thật sự con không biết đánh đàn sao?
        Thằng bé ngó chỗ khác để tránh tia nhìn của người cha. Nó đáp nhỏ trong miệng:
        - Con… thật sự con không biết gì hết! Con… con không phải…
        - Con không phải là sao? Nói cho ba biết đi con?
        Bất chợt thằng bé òa khóc làm chị Phương từ dưới bếp hấp tấp chạy lên lo lắng hỏi chồng:
        - Anh, sao anh làm con khóc vậy?
        Rồi không đợi bác sĩ Hùng trả lời, chị quay sang con, âu yếm:
        - Ba lại chọc ghẹo gì con nữa à? Thôi, con nín đi mẹ thương! Để rồi mẹ con mình hợp sức nhau chọc ghẹo lại ba cho huề nhé con!
        Thằng bé được mẹ ôm vào lòng dỗ dành lại càng khóc lớn hơn khiến chị Phương càng thêm lo lắng. Vừa dỗ con, chị vừa đưa mắt dò hỏi chồng, nhưng bác sĩ Hùng không nói gì, anh chỉ khẽ lắc đầu rồi buồn bã đứng lên đi vào phòng.
        Từ chiều hôm dó, vợ chồng bác sĩ Hùng thay nhau chỉ dẫn cho con tỉ mỉ từng việc nhỏ trong nhà. Dù trước đó thằng bé hoàn toàn xa lạ với mọi đồ đạc, công cụ sử sụng  quen thuộc hàng ngày trong gia đình, nhưng chỉ sau một lần hướng dẫn là nó lại thành thục ngay.
        Bác sĩ Hùng không chuyên khoa về thần kinh, nhưng ít nhiều gì cũng biết qua đôi chút. Trước những biểu hiện lạ lùng của con trai, bác sĩ hoàn toàn không biết nó mắc phải chứng bệnh gì.
        Thằng bé vẫn ăn nói lễ phép, khôn ngoan bình thường, xét về góc độ thần kinh, nó không có gì là bất thường cả! Chỉ không bình ở chỗ, hình như ngôi nhà này hoàn toàn xa lạ với nó, nó như từ một nơi khác đến đây vậy!
        - Sẵn dịp anh được nghỉ phép, ngày mai mình đưa con đi Vũng Tàu chơi, hy vọng thay đổi không khí giúp cho con được hồi phục nghe em?
        Bác sĩ Hùng bàn với vợ.
        Nghe chồng nói vậy, chị Phương mừng rỡ vội đứng lên thu xếp đồ đạc bỏ vào va li để sáng mai cả nhà đi du lịch.
        Bất cứ điều gì có khả năng giúp con trai bình phục chị Phương đều nhiệt tình thực hiện.
        ***
        Thằng bé tỏ ra rất thích thú khi được ba mẹ dẫn đi tắm biển.
        Sáng này lúc trên đường đi, sự hồ hởi của nó cũng khiến vợ chồng bác sĩ Hùng vui lây.
        Nó chồm lên nhìn ra quang cảnh hai bên đường, luôn miệng hỏi chuyện này chuyện khác. Bác sĩ Hùng và chị Phương tận tình giải thích cặn kẽ cho con, không ai tỏ ra bực mình trước những câu hỏi vô cùng ngớ ngẩn của nó.
        Tới Vũng Tàu, cả ba đến khách sạn thuê phòng xong xuôi, vợ chồng bác sĩ Hùng định nghỉ ngơi cơm nước, đến chiều mới dắt nhau ra biển, nhưng thấy vẻ háo hức của con trai, hai vợ chồng đành chìu theo nó, cả ba ra biển lúc trời đang nắng gắt.
        Vừa ra tới bãi biển, bé An chạy nhanh ra lao xuống nước, làm bác sĩ Hùng một phen hoảng vía. Anh nhảy bổ theo, kéo con trở lại:
        - Không được đâu con! Con chưa biết bơi mà! Để từ từ ba dạy cho con…
        Thằng bé cười vang:
        - Ba yên tâm đi, con bơi được mà!
        Bác sĩ Hùng ngẩn ra một lúc. Anh không quên lần đi biển vừa rồi mới cách đây ba tháng, anh đa  cố nài nỉ con trai xuống biển tập bơi nhưng nó đã một mực từ chối. Nó bảo nó sợ sóng.
        Bây giờ nghe bé An nói vậy, bác sĩ Hùng thật sự không tin, nhưng cũng để thử xem sao. Anh buông tay con ra và bản thân mình thì ở trong tư thế sẵn sàng tiếp ứng cho con.
        Vừa rời khỏi bác sĩ Hùng, bé An đã xoãi tay bơi một cách vô cùng thành thục. Nó cười vang mỗi khi con sóng ập vào. Vợ chồng bác sĩ Hùng đứng chôn chân trên bãi cát nhìn theo kinh ngạc…
        Bơi lội tung tăng suốt máy tiếng đồng hồ bé An mới chịu lên bờ theo cha mẹ về khách sạn ăn cơm trưa.
        Lúc này thằng bé trông hoạt bát hẳn lên, mất đi cái vẻ rụt rè nhút nhát lúc từ bệnh viện về nhà.
        Làn da bé An đỏ ửng lên vì rám nắng, chị Phương xuýt xoa mãi vì quên không thoa kem chống nắng cho con, nhưng thằng bé hoàn toàn không để tâm đến chuyện đó.
        Ăn cơm xong bé An lên giường nằm cạnh mẹ, cố nhắm mắt ngủ với lời hẹn ước:
        - Con ngủ dậy, ba mẹ lại cho con ra biển!
        Chị Phương do dự:
        - Nhưng con vừa mới khỏi bệnh, dầm mình trong nước hoài liệu có ảnh hưởng gì không?
        Bác sĩ Hùng lắc đầu. Anh thấy hiện tại, con trai anh đã hoàn toàn bình phục, bình phục một cách khác thường, cũng giống như sự thay đổi khác thường của nó vậy!
        Khi hai mẹ con chị Phương đã ngủ say, bác sĩ Hùng vẫn không sao chợp mắt được. Trước mặt vợ con, anh luôn tỏ ra người rắn rỏi, luôn tỏ ra rằng tất cả chỉ là chuyện nhỏ không đáng quan tâm. Nhưng thật sự anh vô cùng lo lắng.
        Mấy hôm nay anh đã tìm đọc rất nhiều sách về thần kinh, nhưng triệu chứng kỳ lạ của con trai anh vẫn chưa thấy sách nào đề cập tới.
        Bác sĩ Hùng nhẹ nhàng kéo ghế đến ngồi cạnh bên giường ngắm vợ con. Thằng bé đang say ngủ, từng nhịp thở đều đều khỏe khoắn và gương mặt trẻ thơ sáng bừng làm lòng anh rung động.
        Hình hài này đã quá đỗi thân quen với anh. Nhìn nó nằm ngủ thế này, anh thấy cuộc đời thật bình an, thật tươi đẹp. Nhưng sao khi thức dậy, nó lại khác lạ hoàn toàn so với những ngày chưa mắc bệnh? Nếu anh là một người già luôn tin vào những điều dị đoan mê tín, ắt hẳn anh sẽ cho rằng con trai mình đã thay hồn đổi vía cũng nên!
        Nhưng anh là một bác sĩ, anh nhìn mọi việc với góc nhìn của một nhà khoa học. Chính vì vậy anh luôn dằn vặt vì không sao giải thích được những hiện tượng lạ mà vợ chồng anh phải đối mặt mấy ngày qua.
        Không dằn lòng được, bác sĩ Hùng ra khỏi phòng, đi xuống sân khách sạn, tìm tới một ghế dá vắng vẻ ngồi gọi điện cho Lâm, người bạn thân hiện là bác sĩ chuyên khoa tâm thần ở thành phố.
        Sau mấy câu chào hỏi thông thường, bác sĩ Hùng đi thẳng vào vấn đề. Anh nói vắn tắt về trận sốt xuất huyết vừa qua của con trai, rồi kể tỉ mỉ với bạn về những biểu hiện lạ lùng của con từ sau khi xuất viện. Bác sĩ Hùng hy vọng sẽ nhận được những lời tư vấn thiết thực của bạn mình.
        Lắng nghe toàn bộ câu chuyện, bác sĩ Lâm suy nghĩ một lúc rồi nói:
        - Cậu yên tâm đi! Tạm thời vợ chồng cậu cố gắng giúp bé hồi phục sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sau khi ở Vũng Tàu về, vợ chồng cậu hãy đưa bé đến gặp tớ, khi ấy tớ mới có thể xác định được tình trạng. Chứ nghe cậu kể nãy giờ, thú thật… tớ cũng lấy làm lạ lắm! Trường hợp như vậy tớ chưa từng gặp qua, cũng chưa thấy y văn nào ghi chép lại.
        - Ừ, vợ chồng mình sẽ đưa con đến gặp cậu ngay sau khi từ Vũng Tàu về!
        Bỏ điện thoại vào túi, bác sĩ Hùng ôm đầu suy nghĩ.
        Cứ nghĩ sau khi gọi điện cho bạn sẽ được yên tâm hơn, ai ngờ lại càng thêm lo lắng!
        Rồi để tự trấn an mình, bác sĩ Hùng nhủ thầm, nó còn sống đã là may mắn, đã là một kỳ tích rồi, thì cho dẫu bây giờ nó có quên hết những chuyện đã qua cũng không sao, vợ chồng mình sẽ dạy nó lại từ đầu! Không sao hết! Không có gì phải lo sợ hết!
        Nghĩ vậy, bác sĩ Hùng mỉm cười nhưng trên mí mắt hai dòng lệ lại trào ra. Anh lặng lẽ kéo tay áo lau vội…
        Ba ngày ở thành phố biển Vũng Tàu có lẽ sẽ là ba ngày hạnh phúc vô biên của gia đình bác sĩ Hùng nếu đừng ai nhớ gì đến những ngày trước kia của bé An.
        Thằng bé vô tư chạy nhảy trên bãi biển, đùa giỡn với từng con sóng vỗ bờ. Buổi sáng, nó thích ngồi chồm hổm trên bãi cát sì sụp húp từng muỗng tàu hũ thơm lựng mùi gừng. Chiều tối nó kéo tay mẹ sà xuống hàng bắp nướng… Chìu theo con, vợ chồng bác sĩ Hùng cũng la cà theo các hàng quà vặt, các gánh hàng rong trên bãi biển, những chỗ mà trước đây không bao giờ gia đình bác sĩ chịu ghé lại vì lý do vệ sinh ở những nơi đó không có gì bảo đảm.
        Những lúc dẫn con vào ăn ở những nhà hàng, tiệm ăn sang trọng, thái độ của thằng bé lại trở nên rụt rè, lúng túng đến tội nghiệp. Nó không phản đối nhưng có vẻ không thích lui tới những chỗ như vậy.
        Nó giống y như một đứa trẻ được sinh ra và lớn lên trong một gia đình khó khăn, nghèo khổ…
        Có lúc, chị Phương bất chợt giật mình, không hiểu con mình còn nhớ mặt chữ và những gì đã học ở trường lớp hay không. Chị vội vã kiểm tra thì thở phào nhẹ nhõm vì thằng bé rất rành rẽ kiến thức trong các chương trình phổ thông đã học!
        Cũng còn may! Nó mà quên hết mặt chữ, mười hai tuổi đầu lại phải học từng chữ cái i tờ, lại phải tập ráp vần thì còn gì tương lai của con chị nữa!
        Mỗi khi thuận tiện, vợ chồng bác sĩ Hùng lại nhắc nhở và làm như vô tình hỏi con về những việc đã xảy ra trước kia, nhưng thằng bé khi thì tránh né không trả lời, khi lại ngơ ngác thú nhận không còn nhớ. Nghe nhắc đến ông bà nội ngoại, nó vẫn dửng dưng như không hề biết họ là ai!
        Vừa từ Vũng Tàu về nhà, bé An rụt rè xin phép mẹ:
        - Mẹ ơi! Mẹ cho con đi một chút…
        Chị Phương ngạc nhiên:
        - Con muốn đi đâu? Ba mẹ sẽ chở con đi?
        - Dạ… không, không! Con chỉ muốn đi bộ loanh quanh đây một chút thôi!
        Chị Phương còn chưa biết trả lời sao với ocn thì bác sĩ Hùng khẽ bảo:
        - Ừ, con đi đi! Nhưng con còn nhớ đường về không đấy?
        Bé An mừng rơn:
        - Dạ nhớ chứ ba! Con đi một chút sẽ về thôi!
        Nhìn nó vui vẻ nhảy chân sáo ra cửa, chị Phương âu lo bảo chồng:
        - Hay anh đi theo con…
        Bác sĩ Hùng gạt đầu rồi lặng lẽ đi theo thằng bé, cố tình không nó nhận ra mình đang bị cha theo dõi.
        Nó chạy một mạch ra ngoại ô thị xã, rồi rẽ vào một xóm nhỏ nhà cửa lô xô chen chúc.
        Gặp một đám con nít đang chơi bắn bi ngoài đầu hẻm, bé An sà vô mừng rỡ như đã từng quen thuộc với chúng. Nhưng ngay lập tức, bọn trẻ nhìn nó ngạc nhiên làm nó chợt nhớ ra thân phận hiện tại của mình. Nó ngõ ngàng buông rơi viên bi, lùi ra xa đứng nhìn một lúc rồi cúi mặt đi tiếp.
        Phía sau, bác sĩ Hùng vẫn lặng lẽ bám theo con.
        Tới trước một căn nhà nhỏ ở cuối hẻm, thái độ thằng bé trở nên nôn nóng, hồi hộp và cả lo âu nữa.
        Nó đứng thập thò nhìn qua hàng rào một lúc rồi len lén đẩy cánh cổng tre bước vào trong sân.
        Bác sĩ Hùng muốn ngăn con lại, nhưng anh dằn lòng, đứng nép người vào thân cây me xem thử con mình làm gì trong ấy.
        Hình như trong nhà không có ai. Thằng bé nhìn quanh quất một chút rồi xăm xăm tiến tới chậu hoa bên hè, lấy lên một cái chìa khóa.
        Thằng bé muốn mở cửa vào nhà, nhưng không hiểu sao nó đứng tần ngần trước cánh cửa một lúc rồi đem chìa khóa để lại chỗ cũ, buồn bã quay trở ra.
        Sợ bị con trai phát hiện, bác sĩ Hùng chạy vội qua bên kia đường núp vào bên hông một chiếc xe gác, chờ bé An đi một quãng xa anh mới dám bwosc dám bước ra.
        Chiều hôm ấy bé An có vẻ tư lự, buồn bã lắm.
        Bác sĩ Hùng kể sơ cho vợ nghe hành vi của con trai lúc nãy rồi nói:
        - Sáng mai vợ chồng mình đưa con lên Sài Gòn. Mình phải để bác sĩ chuyên khoa thần kinh khám cho nó em ạ!
        Chị Phương gục đầu vào ngực chồng, cắn răng dằn tiếng khóc…
        ***
        Vợ chồng bác sĩ Lâm đón gia đình bác sĩ Hùng thật nồng hậu. Đã mấy năm nay hai người chưa gặp lại, chỉ thỉnh thoảng liên lạc với nhau qua mail hoặc điện thoại, cho nên ngày hội ngộ cả hai đều có thật nhiều điều để trao đổi cùng nhau.
        Hàn huyên suốt mấy giờ, bác sĩ Lâm không hề hỏi han gì đến tình trạng sức khỏe của bé An, khiến chị Phương cảm thấy hơi phật lòng, nhưng khi thấy ánh mắt của bác sĩ Hùng, chị Phương lại vững lòng dắt con ra vườn chơi cùng vợ con bác sĩ Lâm.
        Khi mọi người dã ra hết bên ngoài, bác sĩ Lâm đột ngột hỏi:
        - Thằng bé thế nào? Cậu nói cặn kẽ lại cho tớ nghe lần nữa?
        Bác sĩ Hùng kể cho bạn nghe thật chi tiết về nguyên nhân con mắc bệnh, tình trạng bệnh diễn biến ra sao, bình phục thế nào và những biểu hiện lạ kỳ của thằng bé. Bác sĩ Hùng kể hết, không  giấu bất kỳ chi tiết nào. Cuối cùng kết luận:
        - Nói chung, nó hoàn toàn là một đứa trẻ bình thường. Nhưng nó với đứa con trước kia của tớ như là hai người hoàn toàn khác nhau vậy! Cả đến tình cảm đối với vợ chồng tớ vẫn như có cái gì đó gượng ép lắm, không được tự nhiên.
        Trầm ngâm một lúc, bác sĩ Lâm nói:
        - Tớ cần gặp riêng bé An một lúc, vợ chồng cậu có thể đi chơi đâu đó  để lánh mặt khoảng vài tiếng đồng hồ nhé! À, mà thôi! Vợ chồng cậu cho tớ mượn bé An, tớ sẽ chở nó đi một vòng thành phố có lẽ sẽ tốt hơn… Quyết định thế nhé?
        Bác sĩ Hùng vui vẻ gật đầu.
        Hai người đứng lên ra vườn.
        Trông thấy bé An đứng đùa với chú chim đang nhảy nhót trong lồng, bác sĩ Lâm làm như vô tình nói:
        - Tớ có việc đi ra ngoài một tí, vợ chồng cậu ở nhà chơi nhé! À, bé An này, lên xe bác chở đi một vòng dạo quanh thành phố nhé!
        An có vẻ mừng, cậu bé nhìn cha mẹ dò hỏi.
        Bác sĩ Hùng gật đầu khuyến khích:
        - Ừ, con đi với bác cho vui đi con!
        Bác sĩ Lâm chở An tới thẳng bệnh viện mình đang làm việc để lấy một tập hồ sơ. Xong việc, anh chở bé An đi khắp nơi, vừa đi vừa chỉ trỏ, giới thiệu cho cậu bé một số cảnh quan bên đường. An rất thích thú.
        - Bây giờ bác đưa cháu đi ăn kem nhé?
        Nghe bác sĩ Lâm đề nghị, bé An nhanh nhẹn gật đầu đồng ý.
        Dừng xe ở bến Bạch Đằng, bác sĩ Lâm dắt bé An đến ngồi ở một chiếc bàn khuất trong góc vắng. Anh gọi hai ly kem và kín đáo quan sát thằng bé.
        Từ lúc thằng bé đặt chân tới nhà, bác sĩ Lâm luôn kín đáo quan sát nó. Tất cả mọi biểu hiện đều bình thường. Trước mắt mọi người, An là một đứa ngoan, rất thông minh và lễ phép. Nếu không có lời kể của Hùng, chắc chắn bác sĩ Lâm cũng không bận tâm gì tới vấn đề sức khỏe tâm thần của đứa bé.
        - Sao, cháu thấy đi chơi có vui không?
        Bác sĩ Lâm đột ngột hỏi.
        - Dạ, vui lắm ạ! Cháu thích lắm!
        Bé An vừa ăn vừa nói.
        - Ba mẹ vừa đưa cháu đi chơi ở Vũng Tàu về phải không?
        - Dạ! Cháu thích Vũng Tàu lắm! Ở đó được tắm biển rất vui…
        - Lần này ra Vũng Tàu, cháu thấy có gì khác với lần trước không?
        Mất hẳn vẻ liếng thoắng từ nãy đến giờ, trước câu hỏi như vô tình của bác sĩ Lâm, bé An trở nên lúng túng:
        - Dạ… cháu… cháu không biết…
        Bác sĩ Lâm mỉm cười:
        - Sao lại không biết? Thì cháu cứ nói cho bác nghe xem nào. Lần trước ra Vũng Tàu, gia đình cháu ở khách sạn nào? So với khách sạn đó, khách sạn cháu vừa ở có tốt hơn không? Cảnh quan ở Vũng Tàu có gì khác không?
        Đặt ly kem xuống bàn, bé An trở nên tư lự:
        - Cháu… cháu không nhớ…
        - Cháu thấy ba mẹ thương cháu nhiều không? Lo lắng cho cháu nhiều không?
        Bác sĩ Lâm đột ngột chuyển đề tài.
        Bé An gật đầu:
        - Dạ, ba mẹ rất thương cháu, rất lo cho cháu…
        - Thế sao cháu không nói thật hết với ba mẹ?
        Bác sĩ Lâm đánh đòn tâm lý. Anh nghĩ với câu hỏi có thể bé An sẽ ngơ ngác hỏi lại: “Nói thật chuyện gì với ba mẹ ạ?”
        Nhưng anh thật không ngờ, bé An hoàn toàn không có phản ứng mạnh trước câu hỏi đó. Nó cúi gầm mặt xuống bàn một lúc rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào anh, vẻ nghiêm trọng.
        - Bác, cháu nói điều này… bác có tin cháu không?
        Bác sĩ Lâm cười xòa, vỗ vai cậu bé:
        - Sao cháu lại hỏi vậy? Tất nhiên là bác tin cháu chứ! Nào, có gì thì nói cho bác nghe đi! Bác cháu mình nói chuyện với nhau như hai người đàn ông thực sự đấy nhé!
        Bé An cầm lấy muỗng, dầm mấy cái vô ly kem rồi đột ngột nói:
        - Cháu… thật sự cháu không phải là con của ba mẹ cháu hiện giờ!
        Bác sĩ Lâm giật mình:
        - Sao? Cháu nói sao?
        - Đó, vậy mà bác nói bác tin cháu…
        Thấy bé An có vẻ hờn giận, bác sĩ Lâm ngồi thẳng người lên:
        - Tin! Tất nhiên là bác tin cháu! Nhưng bác muốn biết rõ vì sao cháu lại có ý nghĩ như vậy? Ba mẹ đánh mắng cháu, không thương cháu? Hay đã làm điều gì, đã nói câu gì khiến cháu nghĩ cháu không phải là con ruột?
        Bé An buồn rầu:
        - Không, không đâu bác ơi! Ba mẹ rất thương yêu cháu, hết lòng lo lắng chăm sóc cho cháu. Chính vì vậy… vì vậy mà cháu mới khó nói ra sự thật, cháu sợ ba mẹ cháu không chịu đựng nỗi. Nhất là mẹ cháu… cháu không muốn mẹ phải khóc…
        - Bây giờ cháu nói hết với bác đi, rồi bác sẽ giúp cháu.
        Bác sĩ Lâm ân cần động viên cậu bé.
        Bé An nhìn bác sĩ Lâm tin cậy:
        - Bác nhớ phải giúp cháu nhé?
        - Ừ, bác hứa với cháu! Nào, có gì cháu trình bày thật rõ ràng cho bác nghe xem!
        - Cháu… tên thật của cháu là Nguyễn Thanh Ân chứ không phải là An như mọi người gọi đâu! Nhà cháu nghèo lắm. Ba cháu đi làm thợ hồ, mẹ cháu đi bán ngoài chợ. Cuộc sống của cháu rất vui, rất hạnh phúc. Mặc dù… mặc dù hồi đó cháu chưa bao giờ được đi chơi xa, được ở nhà đẹp hay được ăn ngon mặc đẹp như bây giờ nhưng… cháu rất thích những ngày đó! Rồi cháu bị bệnh, vô bệnh viện một lượt với con của ba má cháu hiện giờ. Cháu chỉ bị bệnh thôi chứ chưa tới số, chỉ có con trai của ba mẹ cháu, tức là cái thằng An ấy mới thật là tới số. Nhưng lúc Hắc Bạch Vô Thường đi bắt hồn lại nhầm lẫn bắt phải cháu. Họ dẫn cháu về gặp Diêm Vương, Diêm Vương la mắng họ quá trời luôn! Để sửa sai, họ dẫn cháu trở lên trên này để cho cháu sống dậy. Nhưng không ngờ khi về tới nhà cháu thì ba má cháu, ấy là cháu muốn nói tới ba má thật sự của cháu kia, đã chôn xác cháu rồi. Chính vì vậy, hai chú Hắc Bạch Vô Thường mới biểu cháu nhập hồn vô xác của con trai ba mẹ cháu hiện giờ, tức là cái xác này nè, để tiếp tục sống, còn hồn của con trai ba mẹ hiện nay, tức là cái đứa tên An ấy, đã bị hai chú Hắc Bạch Vô Thường dẫn đi rồi!
        Nghe thằng bé kể câu chuyện đầy đủ đầu đuôi, vô cùng mạch lạc, bác sĩ Lâm không ngờ trí tưởng tượng của nó lại phong phú đến mức đó. Tưởng tượng ra một câu chuyện vô cùng lý thú, tuy phản khoa học nhưng lại rất lô gích, mọi tình tiết đều chặt chẽ.
        Giả làm mặt nghiêm, bác sĩ Lâm hỏi tiếp:
        - Thế… từ hôm đó tới nay, cháu đã gặp lại ba mẹ thật của cháu lần nào chưa?
        Thằng bé rân rấn nước mắt:
        - Dạ chưa! Có một lần cháu về lại nhà cũ, nhưng lúc đó cả ba mẹ cháu đều không có nhà. Cháu đi tới chỗ giấu chìa khóa, cái chỗ mà mẹ cháu để chìa khóa để ai về nhà trước thì mở cửa ấy, cháu lấy chìa khoá định mở cửa vô thăm lại nhà mình. Nhưng rồi cháu sợ… cháu sợ ba mẹ không nhận ra cháu, sợ bảo cháu là ăn trộm rồi mọi việc sẽ trở nên phức tạp, rối rắm thêm lên. Vì vậy, cháu đành phải nén lòng chờ đợi… Cháu tính sẽ nói thật cho ba mẹ hiện nay của cháu biết cháu không phải là con thật của họ, rồi sau đó cháu sẽ về nhà cháu kể hết mọi chuyện với ba mẹ thật của cháu…
        - Bác hỏi thật nhé, cháu có thương ba mẹ hiện nay của cháu không?
        - Dạ, cháu cũng thương ba mẹ hiện nay lắm! Vì… vì ba mẹ rất thương cháu, rất lo cho cháu…
        - Thế thì tốt rồi! Bây giờ cháu đừng nghĩ ngợi gì nhiều. Cháu cứ xem ba mẹ hiện nay là ba mẹ thật của cháu đi…
        Bé An cắt ngang lời bác sĩ Lâm khi nghe câu đó:
        - Nhưng… cháu không phải là con thật của ba mẹ mà?
        Bác sĩ Lâm xoa đầu cậu bé, ôn tồn giải thích:
        - Bác nói cháu nghe điều này nhé! Có phải thân xác này đúng là con của ba mẹ cháu hiện nay không?
        Bé An gật đầu, bác sĩ Lâm nói tiếp:
        - Đấy nhé! Thân xác này là con của ba mẹ hiện nay, mà theo như cháu nói thì hiện giờ cháu tồn tại được, cháu sống được là nhờ thân xác này, đúng không?
        Bé An lại gật đầu lần nữa.
        - Thì đấy! Trước sau gì ba mẹ hiện nay vẫn là ba mẹ thật của cháu, ý bác muốn nói là ba mẹ thật của thân xác cháu. Do đó cháu phải luôn ngoan ngoãn, luôn nghe lời, không được làm điều gì để ba mẹ cháu phải buồn rầu lo lắng.
        - Thế còn ba mẹ kia của cháu? Bao giờ cháu mới được về với họ?
        Bé An nôn nóng hỏi.
        Bác sĩ Lâm ấp úng:
        - Ờ thì… cháu cứ yên tâm đi! Bác sẽ từ từ khuyên ba mẹ hiện nay hiện nay của cháu, khi nào họ chấp nhận được sự thật, dĩ nhiên họ sẽ dẫn cháu về với ba mẹ kia. Mà người lớn nói chuyện với người lớn sẽ dễ dàng hơn cháu ạ! Chứ bây giờ, bất thình lình cháu chạy về nhà cũ, tự xưng là con ba mẹ ở đó, ai người ta tin cháu?
        Nghe bác sĩ Lâm phân tích, bé An ngồi thừ người ra một lúc rồi buồn bã xác nhận:
        - Bác nói không sai, lần trước cháu về lại nhà cũ, gặp mấy đứa bạn, cháu mừng ghê lắm nhưng… nhưng chẳng có đứa nào nhận ra cháu, chúng nó cứ nhìn cháu chằm chằm…
        Bác sĩ Lâm ra vẻ thông cảm:
        - Ừ, ừ… Bác hiểu, bác hiểu lòng cháu rồi! Bác sẽ cố gắng giúp cháu, nhưng đồng thời cháu cũng phải hứa với bác là không được nghĩ ngợi lung tung đấy nhé! Phải luôn luôn nghĩ mình là con thật sự của ba mẹ hiện nay…
        - Dạ, cháu nhớ…
        Hai bác  cháu ngồi tâm sự với nhau thật nhiều chuyện, sau đó bác sĩ Lâm chở bé An đi một vòng để cho bé biết quang cảnh Sài Gòn về đêm tấp nập ra sao. Mãi đến gần tám giờ tối hai bác cháu mới về tới nhà.
        Tối đó, khi mọi người đã ngủ, bác sĩ Lâm ra hiệu cho bác sĩ Hùng theo mình ra vườn nói chuyện.
        Lúc tối thấy hai bác cháu đi với nhau về, cả hai đều vui vẻ, bác sĩ đã rất nôn nóng không biết bạn mình đã tìm được nguyên nhân nào khiến con trai trở nên lạ lẫm như vậy hay không. Mấy lần anh muốn hỏi nhưng thấy bác sĩ Lâm cứ huyên thuyên hết chuyện này đến chuyện khác anh lại thôi. Bây giờ, đi sau lưng bạn mà Hùng cảm thấy rất lo lắng.
        Thế nhưng bác sĩ Lâm không nói ngay vào vấn đề mà bất ngờ hỏi:
        - Có phải cậu nói trước kia, bé An có khuynh hướng âm nhạc?
        - Ừ, nó rất có khiếu âm nhạc, cô giáo dạy dương cầm luôn khen ngợi nó. Không những âm nhạc, mà cả văn thơ và hội họa nó đều ham thích.
        Bác sĩ Hùng xác nhận.
        Bác sĩ Lâm hỏi tiếp:
        - Trước khi bé An bệnh, vợ chồng cậu có cự cãi nhau?
        - Ừ, nhưng… nhưng chuyện đó thì liên quan gì?
        Bác sĩ Hùng ngạc nhiên.
        - Thì cậu cứ trả lời tớ đi đã!
        - Đúng là trước hôm bé An bệnh, tớ và Phương cãi nhau. Cô ấy giận dỗi nên dắt thằng bé về bên ngoại. Cũng chính vì giận mình mà cô ấy nông nỗi để bệnh tình thằng bé nguy kịch mới chịu đưa lên bệnh viện…
        Bác sĩ Lâm khoát tay:
        - Không, cậu đừng đổ lỗi cho cô ấy! Ở đây tớ chỉ muốn tìm hiểu nguyên nhân nào khiến bé An trở nên bất ổn tâm lý mà thôi. Theo những gì cậu nói, tớ có thể tạm thời rút ra được kết luận thế này.
        Bác sĩ Lâm im lặng một chút, Hùng nóng nảy giục:
        - Thế nào, cậu nói mau lên đi, tớ nóng rụôt lắm rồi đây!
        Bác sĩ Lâm trầm ngâm:
        - Tớ nghĩ con trai cậu là người có một tâm hồn yếu đuối và vô cùng nhạy cảm. Có lẽ sự cãi cọ giữa vợ chồng cậu đã làm cho nó mất tinh thần, thêm nữa trận đau ốm thập tử nhất sinh đó khiến cơ thể nó bị suy nhược. Bởi vì tinh thần lẫn cơ thể đều không khỏe mạnh vững vàng nên những ý nghĩ tiêu cực trong đầu nó bộc phát.
        - Cậu có thể nói rõ hơn chút nữa không? tớ chẳng hiểu gì cả!
        - Này nhé! Có thể lúc hai vợ chồng cậu cự cãi nhau đã làm thằng bé thất vọng và buồn khổ. Trong thâm tâm nó muốn phản kháng chuyện đó. Nó không muốn chứng kiến cảnh ba mẹ cãi nhau, nó không muốn sống trong một gia đình khá giả mà cha mẹ lại không hòa thuận. Rồi chính cái tinh thần yếu đuối, lãng mạn của nó đã đưa nó đến với một ước mơ, ước mơ được sống trong một gia đình nghèo khó nhưng tràn ngập tiếng cười và niềm vui. Cái mơ ước đó đã lập đi lập lại nhiều lần trong tâm trí nó suốt những ngày dài mê man trên giường bệnh, nên khi nó tỉnh lại điều đó đã in sâu như một sự thật rồi…
        - Trời ơi, tớ vẫn không hiểu cậu muốn nói gì?
        Bác sĩ Lâm nhìn bạn thông cảm:
        - Cậu có biết chiều này con trai cậu đã nói gì với tớ không? Nó bảo thật ra nó không phải là con của vợ chồng cậu!
        Bác sĩ Hùng kinh ngạc nhìn sững bạn. Choàng tay qua vai Hùng, bác sĩ Lâm chậm rãi kể hết những gì chiều nay bé An đã nói với anh.
        - Có thể bé An đang mắc phải chứng hoang tưởng, một dạng bệnh tâm thần phân liệt đấy cậu ạ!
        - Tớ phải làm sao bây giờ?
        Bác sĩ Hùng run giọng hỏi.
        Lâm trấn an:
        - Không sao đâu, cậu đừng hoang mang như vậy! Tớ nhận thấy ngoài cái ước muốn được làm con một nhà ngheo khó nhưng hạnh phúc ra, bé An hoàn toàn phát triển bình thường ở các mặt khác. Tớ tin rằng không lâu sau, An sẽ trở lại bình thường thôi cậu ạ!
        Bác sĩ Hùng rầu rĩ:
        - Cậu kê đơn thuốc giúp tớ nhé!
        - Không cần!
        Bác sĩ Lâm khoát tay.
        - Phương pháp điều trị hữu hiệu nhất chính là ở vợ chồng cậu đấy, Hùng ạ! Vợ chồng cậu phải tạo ra được một mái gia đình thật sự ấm êm hạnh phúc để bé An yên tâm, và vợ chồng cậu phải hết lòng quan tâm đến nó, hết lòng chăm sóc lo lắng để chứng tỏ với nó rằng đấy chính là ngôi nhà thật sự của nó, và vợ chồng cậu chính là ba mẹ thật sự của nó. Một khi nó đã cảm thấy yên tâm, tất nhiên những ý nghĩ chối bỏ, trốn chạy gia đình sẽ không còn tồn tại trong đầu nó nữa. Tớ nói vậy chắc cậu đã rõ rồi chứ?
        Bác sĩ Hùng gượng cười, khẽ gật đầu:
        - Ừ, tớ rõ rồi! Cảm ơn cậu, cảm ơn cậu rất nhiều!
        Siết chặt tay bạn, bác sĩ Lâm động viên:
        - Cố gắng nhé! Tớ tin gia đình cậu sẽ nhanh chóng vượt qua thử thách này! Có gì cần thì liên lạc ngay với tớ nhé!
        Bác sĩ Hùng nhìn bạn, khẽ gật đầu.
        Rồi chợt nhớ ra, bác sĩ Hùng nắm tay Lâm dặn dò:
        - Chuyện lúc nãy cậu vừa kể với tớ, xin cậu đừng để vợ tớ biết, kẻo cô ấy lại hoang mang lo lắng…
        - Tớ biết! Tớ biết mà. cậu yên tâm đi!
        ***
        Chị Hậu cầm lấy củ khoai mì, bẻ một miếng nhỏ vừa đưa vào miệng chợt có cảm giác như có ai đang nhìn mình chăm chú.
        Quay phắt lại chị bắt gặp vẫn cậu bé đó! Nó đứng xéo ngoài cửa quán ngó lom lom vào trong, nơi chị Hậu đang ngồi mua mấy củ khoai mì.
        Chẳng hiểu thằng bé con cái nhà ai mà dạo này cứ hay xớ rớ gần khu nhà chị ở. Trông dáng người và cách ăn mặc của nó ra vẻ con nhà khá giả chứ không phải đám trẻ con lang thang đầu đường xó chợ chực chờ để ăn cắp vặt.
        Ấy vậy mà không hiểu sao dạo gần đây chị cứ thấy nó lảng vảng ở khu vực này hoài.
        - Chị Tư, chị có biết thằng nhỏ đó con cái nhà ai không?
        Chị Hậu hỏi người chủ quán.
        - Tao cũng hổng biết nữa! Mấy hổm rày thấy nó tới lui khu này, tao cứ tưởng nó con cháu nhà ai ở đây chứ!
        Chị Tư trả lời, mắt nhìn ra hướng thằng bé đứng.
        - Thằng nhỏ coi bộ lịch sự dữ hén, chắc con nhà giàu à!
        Chị Tư nói thêm.
        - Này con, ăn khoai mì không, dì cho con nè?
        Chị Hậu vẫy tay gọi thằng bé.
        Vừa nghe tiếng chị, nó hớn hở chạy tới nhận lấy của khoai mì từ tay chị nhưng ánh mắt lại nhìn chị một cách trìu mến lạ lùng.
        Trông thấy ánh mắt cậu bé, chị Hậu lại xót xa nhớ tới con trai…
        Con trai chị cũng trạc tuổi như thằng bé này. Từ ngày nó qua đời, chị không còn thiết tha gì với cuộc sống nữa. Có lúc chị muốn tự tử chết theo con, nhưng rồi lại thương anh Kha bơ vơ một mình nên chị không nỡ. Bà con lối xóm mỗi người khuyên giải một câu khiến chị cảm thấy được an ủi và gượng dậy nổi.
        Nhưng mỗi khi nhớ tới con, chị lại thấy có gì đó không ổn trong cái chết của nó. Nguyên nhân nào nó chết? Thật sự chị không biết được! Anh Kha và một số người đòi đi thưa kiện bệnh viện vì họ đã không tiếp máu cho con chị như chỉ định ban đầu, anh bảo đó chính là nguyên nhân gây ra cái chết của con trai anh.
        Nhưng chị Hậu một mực ngăn cản. Bây giờ dù có làm gì đi nữa thì xác thân con chị cũng đã vùi sâu dưới lòng đất lạnh rồi, đâu ai có thể đem nó về mà đền lại cho chị được? Vả lại, chắc bác sĩ người ta cũng có lí do gì đó mới không truyền máu cho con chị, mà có lẽ do thiếu hiểu biết nên anh Kha và gia đình mới trách họ, đổ lỗi cho họ. Chị tin tưởng bác sĩ luôn muốn cứu người, không ai muốn con chị chết.
        Có những đêm chị ngồi một mình trong bóng tối, ôm tấm hình con trong tay mà nước mắt chảy dài.
        Chị ước một lần được gặp lại con, dù là hồn ma bóng quế chị cũng không sợ! Chị muốn gặp lại để biết con chị hiện giờ ra sao, no đói thế nào, ấm lạnh thế nào… nhưng mãi vẫn không có một dấu hiệu nhỏ nào khả dĩ tin rằng hồn con trở về với chị. Cả trong giấc mơ, cũng chưa một lần chị gặp lại nó, dù rằng chị thường nghe người ta bảo nếu ban ngày mình nghĩ về chuyện gì đó thì đêm ngủ hay mơ thấy. Suốt ngày chị không lúc nào không nghĩ về con trai, thế nhưng chưa khi nào chị gặp lại nó, dù chỉ gặp trong giấc ngủ mơ màng đong đầy nước mắt.
        Mỗi khi trông thấy thằng bé này là chị lại liên tưởng tới con trai.
        - Ăn khoai đi con!
        Chị nhắc khi thấy thằng bé cứ mân mê củ khoai trong tay, mắt nó vẫn không rời khỏi chị.
        - Dạ.
        Thằng bé đưa củ khoai lên miệng ăn một cách ngon lành. Tự nhiên chị Hậu cảm thấy ở thằng bé này có một điều gì đó rất giống thằng Ân con chị, dù rằng nhìn mặt mũi tay chân nó hoàn toàn không giống con chị chút nào.
        Chị Hậu kéo thằng bé lại gần, khẽ vuốt tóc nó:
        - Tên con là gì?
        - Dạ, con tên là… An ạ!
        Thằng bé trả lời với giọng ngập ngừng.
        - Nhà con ở đâu mà trước nay dì không gặp con?
        - Dạ… nhà con… nhà con ở trong thị xã!
        Thằng bé vẫn trả lời chị với giọng không được tự nhiên.
        - Con có bạn bè hay người thân ở xóm này à?
        - Dạ… có, dạ… mà không có ạ!
        Chị Hậu bật cười, vỗ vào mông nó:
        - Cái thằng! Làm gì mà cứ ấp a ấp úng thế không biết!
        Chị Hậu đứng lên, với tay cầm cái nón lá trên đầu tủ:
        - Thôi, dì về đây! Con ăn bánh kẹo gì nữa không dì mua cho?
        Thằng bé lắc đầu nhìn chị có vẻ buồn bã.
        Như có điều gì thúc giục, chị Hậu gợi ý:
        - Hay con tới nhà dì chơi nghen? Nhà dì ở một bên đây thôi…
        - Dạ, dạ… dì… dì cho con về nhà chơi…
        Thằng bé hấp tấp trả lời như sợ chị Hậu sẽ đổi ý.
        Chị mỉm cười:
        - Đi con!
        Rất tự nhiên, thằng bé nắm lấy tay chị làm chị Hậu khẽ rùng mình. Chị bỗng có cảm giác chính bàn tay con trai đang nắm chặt tay chị. Có một điều gì đó không thể giải thích được, không thể nói rõ được nhưng chị Hậu cảm nhận một sự ấm áp lạ lùng lan tỏa trong tâm hồn lúc bàn tay thằng bé chạm vào tay chị.
        Chị Hậu khe khẽ nhìn xuống bàn tay thằng bé. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay thon dài mềm mại khác hẳn với thằng Ân con chị trước kia.
        Nhưng sao… sao cái cảm giác này, cái cách nắm tay đi bên cạnh, vừa đi vừa nhảy nhót của thằng bé này lại giống con trai chị như in?
        Vô tới nhà, thằng bé tỏ thái độ rất vui, và nó cũng chẳng có vẻ gì là xa lạ hay rụt rè cả. Chị Hậu nhắm mắt lại nghĩ thầm, nếu mình không trông thấy hình dáng nó, chắc chắn mình sẽ bảo đây chính là thằng bé Ân, con trai của mình vừa quay trở lại với mình…

        Chị Hậu vừa khuấy ly nước chanh vừa tò mò dõi theo thằng bé. Nó đi từ nhà trước xuống nhà sau, vòng ra hè đứng nhìn ngó khắp nơi. Nhìn ánh mắt lấp lánh vui của nó chị Hậu tưởng như con trai mình đang mừng vui vì được trở lại mái nhà quen thuộc thân yêu.
        Loanh quanh một lúc thằng bé tới ngồi lên chiếc võng trong góc nhà. Chị Hậu đưa cho nó ly nước chanh, một tay nó cầm ly nước, một tay nó đẩy vào cạnh giường để đung đưa chiếc võng.
        Trời ơi! Cái cử chỉ này sao giống thằng Ân đến thế? Lúc nào ngồi võng thằng bé Ân con chị cũng dùng tay đẩy vào cạnh giường cho chiếc võng đung đưa chứ không chịu dùng chân đạp xuống đất như người khác. Có lần cũng vì đẩy vào cạnh giường, nó trượt tay thế nào mà đẩy luôn thúng gạo chị để trên giường rơi xuống đất, gạo đổ tung tóe. Hôm ấy chị đã đánh cho nó mấy roi.
        Chị Hậu kéo khăn chậm nước mắt rồi nói với thằng bé:
        - Con… không hiểu sao dì thấy con giống con trai dì quá!
        Thằng bé đứng lên bước tới cầm lấy tay chị Hậu:
        - Con… con chính là…
        Cứ ngỡ  nó thấy mình khóc nên đến an ủi, chị Hậu mỉm cười vuốt tóc thằng bé:
        - Dì không sao đâu con! Tại … tại dì thấy con rồi nhớ tới con trai dì quá đó thôi! Con trai dì cũng bằng tuổi với con, nó mới chết tháng trước!
        Không cầm được nước mắt, chị Hậu đến bên bàn thờ, lấy khung ảnh con trai đem xuống lau chùi một cách vô cùng tỉ mỉ.
        Bé An đứng bên cạnh mẹ, nó chỉ muốn ôm chầm lấy mẹ mà khóc mà nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con chính là con trai của mẹ đây, là thằng Ân của mẹ đây! Chính con đây… mẹ đừng đau buồn nữa, đừng khóc nữa mẹ ơi!...”, nhưng nó không biết khi nghe nó nói vậy liệu mẹ nó có tin không? Làm sao tin được khi hình hài nó bây giờ hoàn toàn xa lạ? Rồi mẹ nó sẽ tưởng nó là một thằng điên, sẽ không cho nó tới nhà nữa…
        Lòng bé Ân vô cùng đau đớn, nhưng nó chỉ biết vuốt ve bàn tay xương xẩu của chị Hậu mà thôi.
        - Em ơi, nấu cơm chưa?
        Nghe tiếng chồng, chị Hậu lau nước mắt rồi nhẹ nhàng đặt khung ảnh trở lên bàn thờ. Vừa lúc đó anh Kha bước từ ngoài vào. Bé Ân mừng rỡ chạy vội đến bên anh, buột miệng:
        - Ba… bác mới về!
        Anh Kha khựng lại giữa thềm khi bất ngờ có một đứa bé từ trong nhà chạy ra cầm lấy tay mình. Còn chị Hậu, chị cũng khựng lại khi nghe rõ ràng tiếng “Ba…” phát ra từ miệng thằng bé, dù sau đó nó đã nhanh chóng chuyển thành tiếng tiếng “bác”, nhưng rõ ràng chị đã nghe nó gọi chồng chị bằng “ba”!
        - Cháu… cháu đây là…
        Sau phút ngỡ ngàng, anh Kha hỏi.
        - Thằng bé này nhà ở trong thị xã, nó tới đây chơi, gặp em ngoài quán chị Tư. Thấy nó dễ thương, em rủ về nhà mình chơi đó anh!
        Chị Hậu giải thích.
        Anh Kha vui vẻ:
        - Anh bắt được mấy con cá lóc nè, sẵn có cháu đây tới chơi, em coi nấu nồi cháu cá đi, rồi mời cháu ở lại ăn với vợ chồng mình cho vui!
        Chị Hậu đón lấy giỏ cá trên tay chồng, quay sang cười với thằng bé:
        - Con ở đây chơi, dì đi ra sau nhà làm cá nấu cháo đãi con nhe? Hồi thằng Ân nhà dì còn sống, nó cũng thích ăn cháo cá lắm…
        Bé An cười toe toét:
        - Con cũng thích cháo cá lóc…
        Chị Hậu vừa làm cá nấu cháo, vừa nghe tiếng cười đùa của thằng bé từ nhà trên vọng xuống khiến lòng chị nôn nao khó tả.
        Từ lúc thằng Ân chết đi, ngôi nhà nhỏ của chị vắng hẳn tiếng cười, cả chị và anh Kha, người nào cũng cố nén những tiếng thở dài để tránh làm người kia phải đau lòng.
        Vậy mà hôm nay tiếng cười thơ trẻ lại vang lên trong nhà chị. Có phải ông trời thương xót cảnh đìu hiu của chị nên đã xui khiến đứa bé này tìm tới đây để mang lại cho gia đình một luồng sinh khí?
        Chị Hậu nhắm mắt lại, chị hình dung tiếng cười giòn giã đó là tiếng cười của thằng Ân con chị, và đứa bé đang đùa giỡn với chồng chị trên kia cũng chính là đứa con máu mủ của vợ chồng chị chứ không phải là một đứa bé xa lạ mà chị vừa biết mặt…
        Cháo chín, anh Kha và cả thằng bé đều xuống bếp giúp chị Hậu dọn chén bát. Và một lần nữa thằng bé làm tim chị Hậu như thắt lại khi một lần nữa chị nhận ra cử chỉ quen thuộc của con trai từ đứa bé lạ lùng này.
        Khi chị vừa bê nồi cháo đặt lên bàn, thằng bé tranh phần mở nắp vung. Nó mở một cách chậm rãi, từ từ, hai mắt nó nhắm tít lại, mũi thì chun lại hít lấy hít để mùi cháo, mùi cá, mùi tiêu hành quyện với nhau bốc lên bát ngát…
        Cái cử chỉ quen thuộc đó của con trai, chị Hậu không nhầm vào đâu được!
        Thằng bé ăn uống rất tự nhiên thoải mái. Nó dẻ một miếng cá lớn gắp bỏ vào chén anh Kha, một miếng lớn nữa để vào chén chị Hậu, khiến hai vợ chồng len lén nhìn nhau, cả hai đều rưng rưng nước mắt.
        Lâu lắm rồi nhà chị Hậu mới có được bữa ăn vui vẻ, đầm ấm như thế, và cũng lâu lắm rồi, vợ chồng chị mới cảm thấy ngon miệng khi ăn.
        Gần năm giờ chiều thằng bé xin phép ra về.
        Vợ chồng chị Hậu tiễn nó ra cửa với vẻ luyến tiếc.
        Thằng bé cũng tỏ ra vô cùng bin rịn lúc chia tay.
        Nó hứa chắc sẽ quay trở lại thăm vợ chồng chị Hậu.
        Nhìn theo bóng thằng bé khuất dần nơi đầu hẻm, chị Hậu nói với chồng:
        - Anh có nhận thấy đứa bé này có gì đó rất giống thằng Ân con mình không?
        Anh Kha tư lự:
        - Anh cũng thấy có gì đó… Nhưng… nhưng chắc tại vì mình thương nhớ con quá nên mới có cảm giác thôi em à!
        Theo chân chồng vào nhà, chị Hậu lại cảm thấy không khí vắng lạnh bao quanh. Ôi, chị ước sao tiếng cười giòn giã kia, là của con chị cũng được, của đứa bé kia cũng được, hãy mãi mãi vang lên trong ngôi nhà của chị, để xua đi những nỗi buồn bã ảm đạm này…
        ***
        Vừa trông thấy con trai bước vào nhà, chị Phương mừng rỡ:
        - Con đi đâu từ trưa tới giờ làm mẹ lo quá!
        - Con xin phép mẹ đi chơi rồi mà?
        - Ừ, thì con có xin phép, nhưng mẹ vẫn cứ thấy lo vì thấy con đi lâu quá. Con tới chơi nhà ai vậy?
        Chị Phương tò mò hỏi.
        Bé An cười:
        - Con nói mẹ cũng hổng biết đâu, nhà bạn con.
        Chị Phương cốc nhẹ lên trán con trai, mắng yêu:
        - Bày đặt bí mật với mẹ nữa hả? Bạn bè con, có đứa nào mà mẹ không biết đâu? À, hay con đến tập đàn với bạn Huy?
        - Dạ không phải đâu mẹ! À, ba về chưa vậy mẹ?
        Bé An né tránh.
        - Ba cũng sắp về tới rồi đó con! Con đi tắm rửa cho sạch sẽ, chờ ba về mẹ dọn cơm cả nhà cùng ăn nhe?
        - Dạ!
        Bé An đáp lời mẹ rồi đi nhanh xuống nhà sau.
        Chị Phương nhìn theo thắc mắc. Chị không biết thời gian gần đây con trai chị thường lui tới nhà ai, chơi với đứa bạn nào mà có hỏi mấy nó cũng không chịu nói.
        Nó thường xin phép đi đâu đó một lúc, rồi lần nào khi trở về vẻ mặt nó cũng trầm tư buồn bã như người lớn.
        Chỉ có hôm nay là khác hơn mọi ngày. Hôm nay nó đi từ xế trưa, mãi đến hơn năm giờ chiều mới về, mà coi bộ tinh thần nó hôm nay phấn khởi lắm. “Không được, mình phải nói với anh Hùng việc này, phải tìm hiểu xem nó đi đâu, giao du với hạng người nào mà không thể nói cho cha mẹ biết được? Ngoài xã hội bây giờ rất nhiều cạm bẫy, lỡ nó sa vào đó thì nguy hiểm biết bao! Mình phải nói với anh Hùng mới được!” chị Phương suy nghĩ và thấy lòng lại lo sợ vu vơ.
        Cơm chiều dọn lên, bé An chỉ ăn qua loa vài miếng rau làm chị Phương lo lắng:
        - Sao con ăn ít thế? Con có bị gì không?
        Bé An cười thật tươi:
        - Con đâu có bị gì đâu mẹ! Tại con… con no rồi!
        - Con ăn gì mà no rồi?
        Chị Phương thắc mắc.
        - Con… con ăn cháo cá lóc ở nhà bạn con!
        Bác sĩ Hùng và chị Phương nhìn nhau ngạc nhiên.
        Trước đây, bé An vốn không thích ăn cá! Nó bảo cá tanh lắm, khó ăn! Bác sĩ Hùng đã tốn không ít thời gian giảng giải cho con về lợi ích của cá, nhưng cuối cùng nó vẫn ăn cá một cách gượng ép, mà chỉ ăn cá chiên, cá nướng, chứ cháo cá thì tuyệt nhiên không bao giờ đụng tới.
        Vậy mà chiều nay nó lại bảo ăn cháo cá no rồi!
        Tối đó, bác sĩ Hùng được vợ cho biết dạo này con trai thường xin phép ra ngoài, nhưng không bao giờ nói rõ ràng sẽ đi đâu, chơi với ai. Anh thật sự lo lắng nên căn dặn vợ:
        - Từ mai em phải quản lý con chặt hơn! Nếu nó xin phép đi, em phải hỏi rõ ràng nó đi đâu, chơi với ai… em nhớ nhé!
        Hôm sau, chị Phương nhắc nhở con trai chuẩn bị xem lại bài vở vì mùa hè sắp hết. Nó ngoan ngoãn nghe lời chị. Nhưng tới xế chiều nó lại xin phép đi chơi.
        Lần này chị Phương không dễ dãi nữa mà gặng hỏi:
        - Con phải nói cho mẹ biết con đi đâu thì mẹ mới cho con đi được, chứ nếu ba con gọi điện về hỏi, mẹ làm sao mà trả lời đây? Chừng đó ba con lại mắng mẹ…
        Ngần ngừ một chút bé An nói:
        - Con… con đi vô xóm Me!
        - Xóm Me? Con quen ai ở đó?
        Chị Phương ngạc nhiên.
        - Con quen… một dì trong đó, dì hay nấu cháo, làm bánh cho ăn mỗi khi con tới chơi…
        Chị Phương nhìn con, trách:
        - Con muốn ăn gì thì nói mẹ sẽ nấu, sẽ làm món đó cho con ăn ngay mà, mẹ đâu có tiếc gì với con mà con phải tới nhà người ta ăn chực ăn chờ như thế?
        Bé An cúi mặt khổ sở:
        - Không phải vậy đâu mẹ ơi! Con tới đó vì… ở đó hai vợ chồng dì ấy rất thương con!
        Chị Phương rưng rưng nước mắt:
        - Con nói cho mẹ nghe đi! Ở nhà này chẳng lẽ ba mẹ không thương con sao?
        Bé An ôm vai mẹ, nói như người lớn:
        - Mẹ ơi, con có nói ra mẹ cũng không hiểu được đâu, rồi từ từ bác Lâm sẽ nói cho mẹ hiểu. Lúc đó, mẹ sẽ thương con và không còn trách hay giận con nữa…
        Chị Phương ngạc nhiên:
        - Con nói sao? Bác Lâm sẽ nói cho mẹ hiểu? Sao lại có bác Lâm ở đây nữa?
        - Mẹ đừng hỏi gì con nữa, bác Lâm đã hứa với con, rồi bác sẽ từ từ giải thích mọi chuyện với ba mẹ… Bây giờ mẹ cho phép con đi nha mẹ? Con hứa với mẹ con sẽ về sớm, con sẽ không làm điều gì để ba mẹ phải buồn lòng đâu! Con chỉ đến đó để thăm dì ấy thôi…
        Nghe con trai van nài, chị Phương không cầm lòng được. Vả lại anh Hùng chồng chị thường căn dặn, đừng để con buồn sẽ có hại cho tinh thần của nó.
        Chị Phương căn dặn:
        - Con đi đi, nhưng nhớ về sớm đó!
        Bé An mừng rỡ chào mẹ rồi chạy vụt ra ngoài.
        Chị Phương nhìn theo lòng đầy ắp nỗi niềm âu lo, thắc thỏm.
        Dù hôm trước anh Lâm đã nói rõ có thể do bị sốc nên con trai chị tạm thời mắc phải chứng bệnh hoang tưởng, chị cố chấp nhận lý giải đó nhưng tận trong thâm tâm chị vẫn thấy có điều gì đó không ổn.
        Với bản năng người mẹ, chị cảm thấy dường như có lúc bé An không phải là con chị!
        Nó có thể hoang tưởng gì thì hoang tưởng, chứ sao lại có những cử chỉ, những thái độ khác xa với chính nó trước kia.
        Bé An của chị trước kia là một đứa bé đầy tình cảm. Tối tối, nó thường rúc vào lòng chị, thầm thì kể cho chị nghe những chuyện xảy ra trong lớp học, kể cả những ước mơ bay bổng thầm kín của nó.
        Vậy mà từ lúc khỏi bệnh tới giờ, có lần nào bé An chịu rúc vào lòng chị?
        Đêm ngủ, chị có ôm nó vào lòng thì khi thức giấc nó cũng khe khẽ gỡ tay chị ra.
        Dường như nó khó ngủ khi có chị nằm bên cạnh.
        Từ hôm đó, đêm đêm chị chỉ dám ngồi bên cạnh ngắm con một lúc rồi lại trở về phòng mình.
        Mỗi chiều anh Hùng đi làm về, nó cũng không nhảy tới bá cổ, đòi ba công kênh một chút như thường bữa, nó chỉ đón ba về bằng nụ cười trên môi mà thôi!
        Tất cả mỗi một hành vi cử chỉ của nó đều không có chút gì là của thằng An trước đó!
        Nó không đụng tới chiếc đàn dương cầm, vật mà trước kia nó quý trọng nhất nhà. Mỗi khi nghe nhắc tới âm nhạc, văn thơ hay hội họa, thằng bé cứ dửng dưng không hề quan tâm đến!
        Rồi tại sao nó bất ngờ biết bơi lội một cách tài tình như vậy? Quên thì có thể quên, nhưng muốn thành thục một điều gì đó cần phải có thời gian tập luyện chứ? Vậy thì con trai chị tập bơi lúc nào? Ở đâu?
        Chị Phương nhận thấy hình như có một con người khác, một đứa trẻ khác đang tồn tại bên trong thân xác của con trai chị.
        Cái ý nghĩ đó cứ đeo đẳng chị Phương từ lúc chị phát giác ra những điều bất thường ở con trai chị.
        Nhiều lần chị tâm sự với chồng về mối nghi ngờ đó, nhưng lần nào anh Hùng cũng gạt đi, rằng tại con đau ốm mới vậy, tại em quá nhạy cảm đấy thôi!
        Gần đây chị không nói điều đó với chồng nữa, nhưng từng ngày, từng ngày, ý nghĩ đó cứ lớn dần trong chị.
        Chị muốn về quê kể cho cha mẹ nghe hết mọi chuyện, nhưng chồng chị đã căn dặn, ông bà nội ngoại đã già yếu rồi, chuyện riêng của gia đình phải tự giải quyết, đừng để ông bà lo lắng mà sinh bệnh, lúc đó lại phải bận bịu thêm hơn…
        Nhưng nếu giữ mãi trong lòng thì quả thật chị Phương không tài nào chịu đựng nỗi. Chị Phương viết thư kể hết với người chị lớn đang định cư ở Canada. Theo lời khuyên của chị, dạo này ngày nào chị Phương cũng tranh thủ đi chùa lạy phật.
        Thời gian chưa bao lâu mà tất cả đền chùa, am miếu lớn nhỏ ở khắp thành phố này chị Phương đã đi gần hết.
        Tới nơi nào chị cũng thành tâm khấn vái, cầu trời khẩn phật thương xót cho vợ chồng chị, giúp cho con trai chị trở lại bình thường.
        Mỗi lần van vái chị lại khóc ròng. Ở nhà, trước mặt chồng con, chị phải luôn làm ra vẻ tươi vui, hạnh phúc, chỉ những khi trải lòng mình ra, giãi bày cùng các đấng linh thiêng chị Phương mới được khóc, khóc thật nhiều, khóc cho vơi bớt những khổ đau mà một người làm mẹ như chị đang phải gánh chịu…
        Bao nhiêu lời van vái của chị như trôi vào vô vọng…
        Hôm nay nó lại nói cái gì mà bác Lâm sẽ giải thích cho ba mẹ hiểu. Giữa nó với anh Lâm có điều gì bí mật? Anh Lâm đã cho chồng mình biết điều gì chưa? Sao mình không nghe anh Hùng nói gì ngoài việc anh Lâm đoán con trai mình bị sốc tâm lý do thấy cha mẹ cãi nhau nên rơi vào tình trạng hoang tưởng; việc vợ chồng mình phải làm sao để giúp con tin tưởng vào gia đình mà vượt qua… Ngoài những điều đó, anh Hùng đâu có nói gì với mình! Vậy thì… vậy thì lúc nãy nó nói bác Lâm sẽ giải thích điều gì mới được chứ? Trời ơi! Mình phát điên lên mất với đứa con trai này…
        Chị Phương ngã gục xuống bàn, rã rời, buồn chán…
        Bé An giữ đúng lời hứa với mẹ. Nó về nhà thật sớm. Tắm rửa sạch sẽ rồi lên ngồi cạnh mẹ xem ti vi, chờ ba về.
        Bữa cơm chiều hôm đó, bé An ăn thật ngon miệng. Dạo này nó vui vẻ hoạt bát hẳn lên.
        Chờ con trai ngủ yên, chị Phương ra dấu bảo chồng ra phòng khách.
        Anh Hùng lo lắng:
        - Ở nhà có chuyện gì sao em? Con lại làm gì à?
        Chị Phương nhìn chồng, thở dài:
        - Con mình thật lạ lùng, em không còn hiểu được nó!
        - Nó lại làm gì nữa?
        Anh Hùng hồi hộp:
        - Không, nó không làm gì hết! Chỉ là… chỉ là chiều nay nó đã cho em biết nó đi đâu…
        - Đi đâu?
        Anh Hùng chồm lên hỏi.
        Chị Phương ủ rũ:
        - Nó tới tận xóm Me! Nó bảo ở đó có hai vợ chồng nào đó rất thương yêu nó, thường làm bánh cho nó ăn… Nghe con nói vậy em thật buồn quá, nó làm như mình không thương yêu nó, mình để nó sống thiếu thốn, thèm khát không bằng…
        - Xóm Me? Xóm Me à?
        Bác sĩ Hùng lẩm bẩm
        - Đúng rồi! Xóm Me! Đúng là cái xóm nhỏ mà có lần anh theo dõi đã thấy con đến đó…
        Chị Phương hồi hộp:
        - Vậy anh có biết nhà đó của ai không?
        - Không! Anh không biết! Nhưng ngay ngày mai anh sẽ tìm hiểu…
        Chợt nhớ ra, chị Phương hỏi chồng:
        - Hôm rồi anh Lâm có nói gì với anh không?
        Bác sĩ Hùng ngơ ngác:
        - Nói gì là nói gì chứ? Anh không hiểu…
        Chị Phương lại thở dài:
        - Em cũng không biết chuyện gì nữa! Lúc trưa, khi thấy em gặng hỏi đủ điều, bé An đã xin em đừng hỏi thêm gì ở nó nữa, nó bảo rồi bác Lâm sẽ giải thích cho ba mẹ hiểu. Em thắc mắc lắm… Hay… hay anh gọi điện hỏi anh Lâm thử xem?
        Bác sĩ Hùng giả vờ đồng ý:
        - Ừ, để rồi anh sẽ hỏi!
        Nhiều lần bác sĩ Hùng muốn kể cho vợ nghe về câu chuyện hoang tưởng hết sức hoang đường của con trai, nhưng anh lại dằn lòng nín lặng. Anh sợ vô tình gieo rắc vào đầu óc vợ thêm những suy nghĩ tiêu cực khác. Không ít lần chị Phương đã nói với anh rằng chị cảm nhận hình như bên trong thân xác của bé An là một linh hồn khác, một con người hoàn toàn khác. Nếu biết thêm việc này nữa, không chừng chị Phương cũng bị tâm thần mất!
        Bây giờ nghe vợ kể về đôi vợ chồng nào đó ở xóm Me đã đối xử tốt với con mình, bác sĩ Hùng thật sự thấy lo lắng. Anh quyết tâm ngày mai sẽ phải tìm hiểu thật rõ việc này.
        Sáng sớm, bác sĩ Hùng tới bệnh viện nhờ người trực giúp một buổi vì đột xuất có việc quan trọng ở nhà.
        Bạn bè trong bệnh viện ít nhiều cũng biết qua tình trạng của con trai bác sĩ nên ai nấy đều thông cảm, sẵn sàng gíup đỡ bác sĩ Hùng trong điều kiện cho phép.
        Bác sĩ Hùng cho xe chạy chầm chậm vào con hẻm nhỏ. Anh dừng lại một quán nhỏ bên đường hỏi thăm về đứa bé trai hay đến khu vực này trong thời gian gần đây, và anh được cô chủ quán cho biết mấy ngày nay, ngày nào đứa bé ấy cũng đến chơi với vợ chồng chị Hậu, nhà cũng kề bên quán.
        Trao đổi thêm một vài câu nữa, anh Hùng cảm thấy hơi yên tâm vì gia đình mà con mình lui tới là một gia đình đàng hoàng tử tế.
        Anh cảm ơn cô chủ quán rồi lên xe chạy rề rề, đến trước ngôi nhà cô chủ quán chỉ, bác sĩ Hùng nhận ra đó đúng là ngôi nhà lần trước bé An tìm tới, anh dừng xe, gạt chân chống rồi chậm rãi đi vào.
        Ngôi nhà lá nhỏ bé nhưng thật ngăn nắp, chứng tỏ chủ nhân không phải người bừa bãi. Đồ đạc trong nhà toàn bộ đều sơ sài, rẻ tiền nhưng cái nào cũng sạch sẽ tinh tươm.
        Giở nón cầm tay, vừa bước qua thềm cửa, chưa kịp cất tiếng gọi chủ nhà, tim bác sĩ bỗng đập thình thịch khi nhìn thấy tấm ảnh một đứa bé trai trạc tuổi con anh trên chiếc bàn thờ kê giữa nhà.
        Đặt tay lên ngực đè nén sự sợ hãi bất thình lình ập đến, bác sĩ Hùng gọi to:
        - Chủ nhà ơi! Có chủ nhà ở nhà không?
        - Dạ, ai gọi đó?
        Tiếng phụ nữ đáp lại từ sau nhà.
        Lát sau một phụ nữ tất tả đi lên. Trông thấy người lạ, chị ngạc nhiên:
        - Dạ… dạ ông tìm ai ạ?
        Bác sĩ Hùng cúi chào và tự giới thiệu:
        - Dạ, chào chị! Tôi tên Hùng, nhà tôi ở ngoài thị xã. Hôm nay tôi đến đây có chút chuyện nhờ anh chị giúp đỡ. Xin hỏi, anh nhà có ở nhà không ạ?
        Chị Hậu kéo ghế, rót trà mời khách rồi bảo:
        - Ông ngồi chơi, để tôi ra sau nhà gọi anh ấy!
        Bác sĩ Hùng cười:
        - Dạ, nhưng… nhưng chị đừng gọi tôi bằng ông như vậy, tôi… tôi cũng chưa già lắm đâu!
        Chị Hậu đáp lại bằng một nụ cười héo hắt rồi trở ra sau vườn gọi chồng.
        Lát sau vợ chồng chị Hậu cùng nhau đi lên. Anh Kha vừa chào khách, vừa lau vội đôi tay còn ướt nước vào vạt áo. Chị Hậu ngồi nép vào một góc theo dõi câu chuyện giữa chồng và người khách lạ.
        - Anh … anh đây là…
        Anh Kha ấp úng.
        Bác sĩ Hùng nói thẳng:
        - Dạ, không giấu gì anh chị, tôi chính là ba của bé An, thằng bé hay tới đây chơi cùng anh chị đó!
        Nghe nhắc tới bé An, mắt hai vợ chồng chị Hậu sáng lên những tia vui tươi lấp lánh.
        - Dạ, mấy lúc gần đây cháu hay tới đây chơi! Chẳng hay… có phải điều đó làm anh…
        Không chờ anh Kha nói hết câu, bác sĩ Hùng vội trấn an:
        - Không, không… anh chị đừng lo! Tôi nghe bé An thường nhắc tới anh chị, nó nói anh chị rất thương yêu nó, thường làm bánh cho nó ăn mỗi khi nó tới đây chơi. Bởi vậy, tôi tới đây, trước là muốn cảm ơn anh chị vì đã thương yêu con tôi, sau nữa… Tôi nói thật, mong anh chị đừng buồn. Lúc chưa đến đây thật sự tôi lo lắm. Tôi không biết con trai mình giao du với ai… Chắc anh chị đã từng làm cha mẹ, anh chị cũng hiểu được nỗi lo lắng của người cha như tôi… Nhưng khi vào đây, rồi được gặp anh chị, tôi thật sự an tâm và vui mừng vì con tôi đã tìm tới một gia đình tử tế như anh chị!
        Anh Kha rót thêm cho khách một ly trà rồi nói:
        - Vợ chồng tôi mới là người phải cảm ơn anh chị và cháu An…
        - Ủa, sao anh lại nói vậy?
        Bác sĩ Hùng ngạc nhiên.
        Anh Kha cười buồn.
        - Chẳng giấu gì anh, vợ chồng tôi cũng có một đứa con trai bằng tuổi với cháu An, nhưng nó không may vắn số đã qua đời hồi tháng trước. Vợ chồng tôi buồn rầu không ai thiết sống. Suốt ngày không ai nói tới ai, nhà cửa lạnh lẽo âm u. Từ ngày vợ tôi tình cờ gặp bé An ngoài đường, có lẽ vì thấy cỡ với con trai mình nên cô ấy tỏ ra quyến luyến, rủ cháu về nhà chơi. Từ đó tới nay gia đình tôi như có thêm sức sống…
        Bác sĩ Hùng đảo mắt nhìn lên bàn thờ rồi nhìn chị Hậu đang ngồi chậm nước mắt trong góc nhà, anh bỗng nhiên rùng mình, lắp bắp hỏi:
        - Dạ… xin anh cho biết, cháu bé ở nhà vì sao mà chết?
        Anh Kha thở dài áo não:
        - Tôi làm thợ hồ, theo công trình trên Sài Gòn. Lúc ấy ở nhà thằng nhỏ bị sốt xuất huyết, vợ tôi không biết, cứ nghĩ nó bị cảm sốt thông thường, hai ba ngày cứ ra tiệm thuốc Tây mua thuốc về cho con uống. Đến lúc thấy thằng nhỏ coi bộ trở nặng vợ tôi mới đưa nó vô bệnh viện. Ban đầu, bác sĩ cũng nói nó bị nặng, đã đóng tiền và chuẩn bị truyền máu, rồi không biết sao người ta ngưng, không truyền máu, trả tiền lại và bảo với vợ tôi rằng bệnh tình thằng nhỏ chưa đến nỗi phải tiếp máu. Tối đó thì thằng nhỏ chết! Tôi ức lắm, muốn tìm bác sĩ hỏi cho ra lẽ, nhưng vợ tôi can, cô ấy nói là chắc tại con mình vắn số, đừng trách ai làm gì, bác sĩ người ta phải biết hơn mình…
        Bác sĩ Hùng choáng váng khi nghe những lời anh Kha kể. Anh run giọng hỏi:
        - Cháu bé… cháu bé tên gì vậy anh?
        - Cháu tên Ân anh à, Nguyễn Thanh Ân!
        Đất trời như chao đảo trước mắt bác sĩ Hùng, đang ngồi trên ghế mà anh như sắp ngã nhào, mồ hôi túa ra ràn rụa trên gương mặt.
        Anh Kha hốt hoảng:
        - Anh… anh bị sao vậy? Em, em ơi, em xem anh đây bị trúng gió hay sao nè?
        Chị Hậu lật đật chạy vô buồng tìm chai dầu, nhưng bác sĩ Hùng gượng dậy từ chối:
        - Dạ… không sao… tôi… tôi bị xây xẩm chút thôi! Xin lỗi vì đã làm phiền anh chị! Bây giờ tôi xin phép về, hôm khác tôi sẽ đến chơi với anh chị lâu hơn…
        Nhìn người khách lạ lảo đảo đứng lên, anh Kha ái ngại:
        - Anh như vậy làm sao về được? Thôi, vô nhà nằm nghỉ một chút, chừng thật khỏe rồi hãy về…
        Bác sĩ Hùng cố gắng hết sức để lấy lại bình tỉnh. Anh gượng nở một nụ cười:
        - Dạ, không sao… không sao… Tôi vẫn thường bị như vầy, chỉ một loáng là hết thôi, anh chị đừng lo… Xin phép anh chị!
        Cúi chào vợ chồng chủ nhà một lần nữa, bác sĩ Hùng cố gắng bước những bước chân vững chắc ra ngoài…
        Vừa cho xe chạy ra tới đầu hẻm, bác sĩ Hùng tấp vội vào lề đường đứng thở dốc. Trên mặt anh, mồ hôi vẫn chảy thành từng dòng nhưng anh cũng chẳng buồn lau.
        Trời ơi! Chẳng lẽ đây là sự thật? Chẳng lẽ tất cả những gì bé An kể với anh Lâm đều là sự thật sao? Chẳng lẽ con trai anh, bé An của vợ chồng anh giờ đây chỉ còn lại thân xác đó? Chẳng lẽ linh hồn kia thật sự là bé Ân, con trai của vợ chồng nhà này sao? Nếu không phải sao lại có sự trùng hợp lạ kỳ đến như vậy? Sự hoang tưởng của bé An không thể ăn khớp với những việc có thật đã xảy ra…
        Và tại sao lại là đứa bé đó chứ? Đứa bé mà chính anh đã quyết định cho tiếp máu, rồi cũng chính anh là người cho ngưng lại, không thực hiện?
        Trời ơi! Giá mà tất cả những gì mình vừa nghe, vừa thấy được trong ngôi nhà đó chỉ là một giấc mơ, là một sự hoang tưởng thì tốt biết bao…
        Bác sĩ Hùng rên rĩ… Nhưng dù đang trong cơn bấn loạn anh vẫn biết đó là những điều có thật, rất thật, đã và đang xảy ra với gia đình anh, xảy ra ngay trên thân thể đứa con trai duy nhất của anh…
        Lát nữa đây, anh biết phải nói sao với vợ? Vợ anh làm sao có thể chịu đựng nỗi cú sốc kinh hoàng này?
        Anh phải đối diện với con trai thế nào đây? Trời ơi, sao ông trời lại đem tới cho anh cảnh trái ngang khó xử này…
        Bác sĩ Hùng gục mặt xuống tay lái, khóc ngất lên làm mấy người đi đường tò mò xúm lại:
        - Chú ơi, chú bị sao vậy?
        - Chắc chú trúng gió hả?
        - Chú có cần giúp gì không?
        Bác sĩ Hùng giật mình khi nhận ra đám đông đang xúm xít quanh mình. Anh ngượng ngùng, bối rối:
        - Dạ, dạ… tôi không sao… xin cám ơn, xin cám ơn… tôi không sao…
        Vừa trả lời, bác sĩ Hùng vừa vội vã rồ ga cho xe chạy đi, bỏ lại phía sau rất nhiều cặp mắt nhìn theo ngơ ngác.
        Bác sĩ Hùng cho xe chạy không định hướng. Lúc này anh không thể về bệnh viện, anh không còn tâm trí nào mà làm việc được! Và… anh cũng không thể về nhà… Anh không thể về nhà khi chưa tìm được câu trả lời cho chính bản thân mình…
        Bác sĩ Hùng thấy trước mắt mình cần phải tìm một nơi nào đó thật yên tĩnh để suy nghĩ mọi việc cho thật cặn kẽ.
        Nghĩ vậy, anh cho xe rẽ vào một ngôi chùa.
        Không khí yên tĩnh bên trong chùa khiến bác sĩ Hùng có cảm giác lòng mình nhẹ nhàng hơn đôi chút.
        Thuở nhỏ, đôi khi anh có theo mẹ lên chùa vào những ngày rằm lớn. Nhưng từ khi trưởng thành, anh chưa lần nào đặt chân vào chùa nữa.
        Hôm nay, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm lăn lộn trong đời, bác sĩ Hùng mới nhận thấy mình đang rất cần một chỗ dựa tâm linh.
        Quỳ trước bàn thờ Phật, bác sĩ Hùng không thốt được lời van vái nào, anh chỉ chỉ nghẹn ngào khóc. Ban đầu còn dằn được, lát sau anh để mặc cho nước mắt tuôn trào và những tiếng nức nở vang lên không ngớt.
        Anh úp mặt vào chân tượng Phật khóc ròng…
        ***
        Phật Bà Quan Âm cho gọi một tiên nữ lên trước ngai, nhỏ nhẹ hỏi:
        - Các ngươi có biết người đàn ông đang khóc dưới kia là ai không? Có chuyện gì khiến anh ta đau lòng đến vậy?
        Tiên nữ liếc nhìn xuống bác sĩ Hùng rồi bẩm:
        - Dạ, người đó hiện làm bác sĩ ở một bệnh viện, nghe nói gia đình ông ta đang gặp phải một chuyện rất đau lòng…
        - Chuyện gì?
        Phật Bà hỏi tiếp.
        Cô tiên ấp úng;
        - Dạ… con không rõ lắm! Hôm trước vợ ông ta có đến đây mấy lần… hình như… hình như nhà ông ta hiện có đứa con trai mà… xácvới hồn không phải là một…
        - Sao lại có chuyện đó?
        - Dạ… chuyện này… chuyện này chắc phải hỏi lại Diêm Vương mới rõ được ạ!
        Phật Bà đưa nhành dương liễu lên ra hiệu:
        - Ngươi mau truyền lệnh cho Diêm Vương làm một bản báo cáo chi tiết về vụ này, nội nhật hôm nay phải hỏa tốc gởi về cho ta xem xét!
        - Dạ! Con đi ngay ạ!
        Tiên nữ cúi lạy rồi nhẹ nhàng bay ra cửa, tà áo tung bay trong gió, để lại một làn hương thơm ngát không gian…
        ***
        Thấy chồng về nhà sớm hơn thường lệ, sắc mặt lại có vẻ khác thường, chị Phương lo lắng:
        - Anh không được khỏe à?
        - Ừ, em cho anh xin ly nước…
        Bác sĩ Hùng mệt mỏi ngã người trên sa lông.
        Chị Phương vội vã làm cho chồng một ly chanh ấm.
        Bác sĩ Hùng hớp một ngụm rồi dặn vợ:
        - Anh mệt lắm! Anh muốn ngủ một chút! Mẹ con em cứ ăn cơm trước đi, đừng chờ anh, chút nữa ngủ dậy anh ăn sau…
        Có rất nhiều điều chị Phương muốn hỏi chồng, nhưng nhìn thấy chồng mệt mỏi như vậy, chị không dám nói gì thêm, chỉ lặng lẽ tháo giày, cởi bớt áo cho chồng rồi xuống bếp cho con ăn cơm.
        Bé An thấy cha không khỏe, nó cũng chẳng dám tới gần, chỉ đứng nhìn từ xa…
        Bác sĩ Hùng nằm nhắm mắt nhưng anh hoàn toàn không ngủ. Lúc nãy anh đã quyết định nói hết sự thật với vợ rồi cả hai sẽ cùng nhau suy tính để tìm ra cách giải quyết chuyện này thế nào cho hợp tình hợp lý.
        Đã quyết định vậy rồi, nhưng thật sự không thể mở lời, anh không biết phải nói câu gì nữa…
        Không, mình không nên nói lúc này! Mình phải chờ khi nào mình thật tỉnh táo, mình thật bình tâm, lúc đó mình mới có thể làm chỗ dựa cho vợ được. Mình đang bất an thế này, nếu nói ra thì làm sao mình trấn an cô ấy được?
        Bác sĩ Hùng gượng dậy. Anh xuống ăn cơm với vợ con. Không khí trong nhà bỗng trầm hẳn xuống.
        Khẽ liếc nhìn thằng bé, lòng bác sĩ Hùng lại đau quặn thắt ruột gan…
        Ăn xong bữa cơm, anh hỏi con qua loa vài câu rồi vào phòng ngủ sớm.
        Cả ngày mệt mỏi, căng thẳng nên không mấy chốc bác sĩ Hùng chìm sâu vào giấc ngủ nặng nề…
        - Anh! Anh ơi! Dậy mau anh ơi! Khủng khiếp quá… em sợ quá!
        Bác sĩ Hùng bừng tỉnh bởi tiếng lay gọi kinh hãi của vợ. Anh nhổm dậy bật sáng ngọn đèn.
        Trên giường, chị Phương đang ngồi run rẩy, mặt mũi tái xanh.
        Anh Hùng ngồi sát vào vợ, lo lắng hỏi:
        - Chuyện gì vậy? Em mơ gặp ác mộng à?
        Hai hàm răng chị Phương vẫn còn va nhau nhau lộp cộp. Chị run lên từng chập, không thể trả lời câu hỏi của chồng.
        Bác sĩ Hùng ôm vợ vào lòng vỗ về:
        - Thôi, không có gì phải sợ! Nằm xuống ngủ đi em! Không có gì phải sợ! Chỉ là mơ thôi mà…
        Chị Phương gục mặt vào vai chồng khóc nấc lên:
        - Anh ơi… em mơ… em mơ thấy chuyện kỳ lạ lắm!
        - Chuyện kỳ lạ thế nào, em nói anh nghe đi?
        - Em thấy… em thấy Phật Bà báo mộng, nói là… nói là… bé An không phải con mình…. Không, không phải vậy! Thân xác là của con mình, nhưng linh hồn lại là của người khác…
        Lần này đến lượt bác sĩ Hùng run rẩy.
        Anh với tay ra ngoài mùng, lập cập rót ly nước đưa cho vợ:
        - Em uống một chút cho bình tĩnh lại rồi kể tỉ mỉ cho anh nghe…
        Chị Phương uống một hơi cạn sạch ly nước. Rồi vừa níu chặt lấy tay chồng, chị vừa thổn thức kể:
        - Em vừa mới chợp mắt. Thật sự… thật sự em còn chưa kịp ngủ nữa kìa… Bỗng đâu trước mắt em hiện ra một vầng hào quang sáng lóa. Định thần nhìn kỹ, em nhận ra người đứng giữa vòng hào quang đó chính là Phật Bà, giống y như những bức tượng thường thấy trên chùa vậy. Hai bên Phật Bà là hai cô tiên đứng hầu. Em ngạc nhiên quá hỏi Phật Bà đến có việc gì. Bà cười rồi nói với em, em vẫn còn nhớ rất rõ ràng… Bà nói… bé An con trai mình thật ra đã chết rồi…
        Chị Phương lại nức nở một hồi mới nghẹn ngào kể tiếp:
        - Bà nói bé An con mình kiếp trước tạo được nhiều phước đức, đáng lẽ được làm thần tiên trên trời, nhưng vì còn vướng mắc một chút nợ duyên với vợ chồng mình nên phải đầu thai sống kiếp người thêm mười hai năm nữa. Ngày bé An mãn số, do sự nhầm lẫn sao đó mà quỷ sứ bắt nhầm hồn của một đứa bé khác. Chừng Diêm Vương phát hiện ra sự nhầm lẫn thì xác đứa bé kia đã bị đem đi chôn rồi. Chính vì vậy, họ phải cho đứa bé nhập hồn vào xác con mình, còn con mình thật sự thì… thì giờ đây đã thành thần tiên trên thượng giới… Phật Bà còn nói, vợ chồng mình với đứa bé kia cũng có căn duyên không nhỏ, nếu không có sự nhầm lẫn này thì tương lai vợ chồng mình cũng nuôi nấng nó…
        Từng lời, từng lời kể thấm đẫm nước mắt của vợ như cứa vào tim bác sĩ Hùng.
        Vậy thì đúng là sự thật rồi, không còn nghi ngờ gì nữa…
        Anh lau những giọt nước mắt đang rơi lả chả trên má vợ, trong khi trên mặt anh nước mắt cũng đang dầm dề tuôn chảy.
        Anh ôm vợ vào lòng:
        - Tất cả là sự thật rồi em ơi! Là sự thật rồi…
        Chị Phương đẩy chồng ra, nhìn sâu vào mắt anh:
        - Anh cũng tin đó là sự thật?
        Bác sĩ Hùng gật đầu.
        Anh lết đến ngồi tựa vào tường, kéo vợ ngả đầu trên vai mình rồi từ từ kể hết cho vợ nghe những chuyện trước đây bác sĩ Lâm kể lại theo lời tự thú của bé An, và cả chuyện vợ chồng nhà anh Kha mà sáng nay anh vừa chứng kiến.
        Tất cả là một.
        Tất cả đều trùng khớp.
        Không thể có một lập luận khoa học nào có thể lý giải tường tận những điều kỳ lạ đó!
        Tất cả là sự thật!
        - Bây giờ mình phải làm sao hả anh?
        Chị Phương hỏi chồng trong nước mắt.
        Bác sĩ Hùng đắn đo một chút rồi nói:
        - Suốt từ sáng anh đã suy nghĩ mãi về chuyện này. Tuy linh hồn đứa bé kia không phải là con mình, nhưng thân xác nó đang mang lại là thân xác thân yêu của con trai chúng ta… Mình không thể tách rời linh hồn và xác thân được! Em nghĩ kỹ đi, liệu em có sống nổi không nếu vĩnh viễn em không nhìn thấy được hình dáng của con? Dù bây giờ linh hồn đó là ai đi nữa thì hàng ngày chúng ta vẫn được trông thấy con, được thấy nó cười, được nghe nó nói, được chăm sóc thương yêu nó, được trông thấy nó lớn lên từng ngày… Và công bằng mà nói, mình vẫn nhận được tình yêu thương mà nó đáp lại. Linh hồn đó cxung là một đứa bé đáng thương… nó chết đi cũng có phần lỗi ở vợ chồng mình…
        Chị Phương ngạc nhiên:
        - Sao lại do lỗi vợ chồng mình?
        Bác sĩ Hùng buồn bã:
        - Em còn nhớ hôm con mình mới vào phòng cấp cứu không? Anh đã nói với em không còn máu để tiếp cho con, vì lượng máu ít ỏi còn lại ở bệnh viện, anh đã ký quyết định tiếp cho người khác… nhưng rồi cuối cùng… lượng máu đó vẫn được tiếp cho con mình, người kia… người không được tiếp máu chính là… đứa bé đó!
        Chị Phương sau phút kinh ngạc lại òa lên khóc ngất.
        - Anh nghĩ mình vẫn xem bé An hiện tại là con mình, thật sự là con mình. Mình vẫn thương yêu nó như chưa hề xảy ra chuyện gì…
        - Nhưng bé An… Anh thấy đó, bé An luôn nhớ thương cha mẹ ruột của nó, liệu nó có chịu sống mãi với vợ chồng mình không? Còn hai vợ chồng người kia nữa… chẳng lẽ mình giấu kín không cho họ biết sự thật này sao anh?
        - Anh đã tính kỹ rồi em ạ! Mình không thể giấu họ chuyện này được! Vợ chồng mình phải tới đó, nói rõ hết mọi chuyện với người ta… Rồi mời vợ chồng họ về sống cùng mình để cùng chăm sóc đứa con chung. Có như vậy bé An mới chịu sống với mình, và lương tâm mình cũng đỡ bị cắn rứt… Anh tính vậy, em nghĩ có được không?
        Chị Phương không biết nói sao, chỉ lặng lẽ vùi mặt vào ngực chồng mặc cho nước mắt tuôn rơi…
        ***
        Mới sáng sớm mà bỗng dưng chị Hậu thấy trong người bứt rứt lạ! Mắt chị cứ nháy liên hồi từ chiều hôm qua tới giờ, không biết báo điềm lành hay điềm dữ nữa.
        Tối qua, cả hai vợ chồng chị đều không ngủ được, cứ nằm trằn trọc nhắc nhở thằng Ân rồi nhắc tới thằng nhỏ An nữa.
        Không hiểu giữa hai đứa nó có mối dây liên hệ gì mà vợ chồng chị và nó cứ quấn quýt lấy nhau như người ruột thịt?
        Sáng nay ba thằng nhỏ đã tìm tới nhà mình rồi, không biết từ đây ổng có còn cho phép nó đến đây thăm vợ chồng mình không nữa? Nếu nó không đến, chắc sẽ buồn lắm…
        Sáng ra, thấy chồng chuẩn bị đi làm chị Hậu ngăn lại:
        - Thôi, anh ở nhà một hôm đi! Tối qua thức trắng, giờ sao mà làm nổi! Với lại bây giờ chỉ còn có hai vợ chồng mình, cần gì phải cày cục như vậy hả anh? Chiều qua tới giờ mắt em cứ giật liên tục, em lo không biết có xảy ra chuyện gì hay không, anh mà đi làm là em ở nhà lo lắm, không yên tâm đâu! Anh nghe lời em, nghỉ một bữa đi!
        Nghe vợ thuyết phục, anh Kha đành phải chìu theo. Anh vừa quay vào thay áo thì nghe có tiếng xe gắn máy ngừng trước sân nhà, tiếp đó là tiếng chị Hậu gọi;
        - Anh ơi, có ba… ba mẹ của bé An tới chơi…
        Anh Kha thắc mắc. Có chuyện gì mà hôm qua ba bé An tới, rồi hôm nay mới sáng sớm hai vợ chồng cùng tới?
        Anh cài vội nút áo rồi bước ra ngoài. Vừa trông thấy bác sĩ Hùng, anh Kha xởi lởi:
        - Anh chị tới chơi! Dạ… mời anh chị ngồi ghế!
        - Anh đã thật khỏe chưa? Suốt ngày hôm qua chúng tôi lo quá, sợ trên đường đi…
        Bác sĩ Hùng cười:
        - Dạ, không sao! Tôi khỏe rồi!
        Chị Hậu rót nước mời khách.
        Anh Kha ngập ngừng hỏi:
        - Chẳng hay anh chị đến thăm vợ chồng tôi hay có chuyện gì không ạ? Tôi thấy hình như…
        Vợ chồng bác sĩ Hùng nhìn nhau. Bắc sĩ Hùng đứng lên nói:
        - Dạ thưa anh chị, vợ chồng tôi đến đây có một số việc muốn cùng bàn bạc với anh chị… nhưng tôi xin anh chị hãy bình tĩnh, hãy thật bình tĩnh…
        Chị Hậu nhìn khách khó hiểu.
        Anh Kha cười:
        - Có chuyện gì thì anh chị cứ nói! Tôi đâu có gì mà không bình tĩnh…
        - Trước khi nói ra câu chuyện lạ kỳ này, tôi xin anh chị cho dẹp cái bàn thờ của cháu đây…
        Chị Hậu xanh mặt nhìn chồng, anh Kha run giọng hỏi:
        - Tại sao anh lại nói vậy? Tại sao tôi không được quyền thờ cúng con trai tôi?
        - Tại vì… thật sự con trai anh chị còn sống!
        Bác sĩ Hùng nói rõ từng tiếng một.
        Anh Kha bật cười trong nước mắt:
        - Anh nói chuyện gì lạ vậy? Chính tay tôi đã chôn con mình thì làm sao mà lầm lẫn được? Anh nói chuyện gì thật tình tôi không hiểu nổi! Vợ chồng tôi đã quá đau khổ, xin anh chị nếu không chia sẻ được thì thôi, đừng đem nỗi đau của vợ chồng tôi ra mà bỡn cợt như vậy!
        Thấy chủ nhà bắt đầu nổi nóng, chị Phương nhỏ nhẹ chen vào:
        - Xin anh chị bình tĩnh mà lắng nghe câu chuyện chúng tôi sắp kể ra đây! Hiện tại chúng tôi và anh chị đều có chung một cảnh ngộ, làm sao chúng tôi có thể bỡn cợt được chứ…
        Chị Hậu nuốt nước mắt khuyên chồng:
        - Anh cứ bình tĩnh mà nghe anh chị đây nói rõ sự việc! Đâu còn có đó, anh đừng nổi nóng như vậy!
        - Tôi… tôi xin lỗi…
        Anh Kha hối hận.
        Bác sĩ Hùng ngồi xuống ghế, tuần tự kể hết câu chuyện một cách rõ ràng khúc chiết, nhưng vợ chồng chị Hậu cứ tưởng mình đang trôi bềnh bồng trong một giấc mơ kỳ ảo…
        - Có lẽ nào… Có lẽ nào… Hèn gì ngay lần đầu tiên gặp thằng nhỏ tôi đã cảm nhận được một sự gắn bó mật thiết giữa nó và tôi… hèn gì…
        Chị Hậu lảm nhảm như người nói mê, rồi bất chợt chị nhào tới ôm chầm lấy anh Kha đang ngồi chết sững như một tượng. Chị khóc òa lên:
        - Con mình còn sống! Anh ơi, con chúng ta còn sống! Anh mau mau dẹp bỏ bàn thờ đi anh, mau mau đi anh!
        Rồi chị quýnh quáng chạy vội tới bàn thờ lấy khung hình thằng bé xuống, ôm chặt vào lòng. Chị dẹp bát hương, đổ bỏ bình hoa… chị làm lăng xăng, hoảng loạn…
        Cả bốn người, trên mặt ai cũng chan hòa nước mắt….
        Nhưng anh Kha là người đàn ông mạnh mẽ, anh chưa từng tin vào những câu chuyện hoang đường vớ vẩn. Trước vấn đề đề khó tin này tuy lòng anh có chút dao động vì nó gắn liền với con trai anh, gắn liền với nỗi khao khát được gặp lại đứa con yêu quý. Khi phút xúc động qua đi, anh đứa cặp mắt ngầu đỏ nhìn bác sĩ Hùng rồi nhìn tới chị Phương, anh nói chậm rãi:
        - Tôi cảm ơn anh chị đã nói với vợ chồng tôi chuyện đó, nhưng… thật tình tôi thấy trong chuyện này vẫn còn một cái gì đó mơ hồ, khó mà chấp nhận được…
        Chị Phương sụt sịt khóc:
        -  Tôi cũng mong sao tất cả chỉ là một giấc mơ hoang đường, để bé An trọn vẹn là của chúng tôi. Nhưng… thật đau lòng, đó lại là sự thật… Tôi cũng đau lòng không thua kém gì anh chị đâu…
        Chị Hậu sợ chồng lại phản đối nên vội xen vào:
        - Mấy lần thằng nhỏ tới đây, tôi nhận ra ở nó có rất nhiều điều giống thằng Ân của chúng tôi trước đây… Nhưng thật ra… thật ra chuyện này cũng không phải là đơn giản. Vậy anh chị có thể vui lòng cho chúng tôi được tiếp xúc bé An, hỏi han cháu một số chuyện. Nếu đúng linh hồn con trai chúng tôi đang nương nhờ thân xác con anh chị, thì chắc chắn nó sẽ biết những chuyện trước kia…
        Anh Kha gật gù khi nghe ý kiến của vợ.
        Bác sĩ Hùng siết chặt tay anh Kha:
        - Tất nhiên! Tất nhiên chúng tôi phải để anh chị kiểm chứng lại cho mọi việc rõ ràng chứ! Sở dĩ hôm nay vợ chồng chúng tôi tìm tới anh chị là vì chúng tôi đã dám chắc đó là sự thật, chúng tôi muốn cho anh chị biết để rồi mình cùng nhau bàn bạc, tính xem sau khi đã được xác định rồi, chúng ta phải làm sao cho cuộc sống của thằng bé không bị xáo trộn?
        Anh Kha nhìn bác sĩ Hùng dò xét:
        - Giả sử tất cả những gì anh chị nói đúng là sự thật thì sao? Bé Ân nhà tôi, bé An nhà anh chị… Chúng ta… chúng ta làm sao tách chúng về với gia đình mình được đây?
        Bác sĩ Hùng cười như mếu:
        - Vợ chồng tôi cũng đã tính nát óc rồi… Thú thật, chúng tôi không thể xa bé An được, không thể trả nó về sống với anh chị được…
        Nhìn thấy chị Hậu run rẩy trước câu nói của mình, bác sĩ Hùng nhìn chị nói tiếp:
        - Xin chị đừng quá xúc động, hãy nghe tôi nói tiếp! Chúng tôi không thể xa rời cháu được. Tuy nhiên tôi cũng biết, một khi anh chị đây biết được một nửa bé An nhà tôi là của anh chị thì anh chị cũng khó mà xa cách nó…
        Ngừng lại nhấp một hớp trà, bác sĩ Hùng nói tiếp:
        - Chính vì vậy, tôi nghĩ ra một cách thế này, anh chị xem có được không nhé?
        Liếc nhìn qua vợ chồng anh Kha, chị Hậu, bác sĩ Hùng thấy hai người đang căng thẳng nhìn mình:
        - Anh tính sao?
        Anh Kha hỏi.
        - Tôi… Nói ra có hơi đường đột, tôi xin anh chị nếu có gì không hài lòng thì bỏ qua cho, đây chỉ là suy nghĩ của tôi, trình bày để anh chị xem xét… Tôi… vợ chồng tôi tính thế này: Dù sao thì hiện nay bé An cũng trở thành một đứa con chung của hai gia đình chúng ta. Vợ chồng tôi và anh chị chắc chắn ai cũng thương yêu nó, muốn được chăm lo nuôi dạy cho nó thành người, ai cũng muốn được kề cận nó… Ngay cả bản thân bé An cũng vậy! Một tháng qua sống cùng vợ chồng tôi nhưng lòng nó luôn hướng về với anh chị… Chính vì vậy… chúng tôi muốn mời anh chị dọn về chung sống với vợ chồng tôi. Hai gia đình chúng ta chắc hồi kiếp trước cũng có liên quan mật thiết gì đây nên kiếp này mới được đặt vô hoàn cảnh thế ấy…
        Nước mắt chảy dài trên mặt chị Hậu, chị chưa kịp nói gì thì nghe anh Kha bảo:
        - Tôi cám ơn anh chị đã nghĩ cho chúng tôi đến việc đó! Nhưng… hiện tại chúng tôi chưa thể quyết định được điều gì khi chưa xác định rõ sự việc. Nhưng dù sao, vợ chồng tôi cũng rất cám ơn anh chị…
        Bác sĩ Hùng đứng lên gật đầu:
        - Anh nói vậy cũng phải. Thôi, anh chị cứ suy nghĩ đề nghị đó của vợ chồng tôi. Bây giờ xin phép anh chị chúng tôi về, chút nữa tôi sẽ cho phép bé An về chơi với anh chị trọn ngày hôm nay.
        Chị Hậu mừng rỡ:
        - Tôi… chúng tôi cám ơn anh chị nhiều lắm!
        Bác sĩ Hùng ngập ngừng một chút rồi nói:
        - Không, chính chúng tôi mới là người có tội với gia đình anh chị, chúng tôi cần được anh chị thứ tội…
        Vợ chồng anh Kha ngơ ngác:
        - Anh nói gì tôi không hiểu?
        Bác sĩ Hùng dừng chân, cầm chặt hai bàn tay anh Kha, ánh mắt đau đớn:
        - Tôi chính là bác sĩ điều trị cho bé Ân nhà anh chị…
        Anh Kha ngó sững bác sĩ Hùng một lúc rồi thở hắt ra, rụt tay lại vỗ mạnh lên vai bác sĩ Hùng:
        - Thôi anh ạ, mọi việc đã qua rồi…
        ***
        Hai mươi năm sau.
        Bác sĩ Hùng hiện làm Giám đốc bệnh viện lớn nhất thị xã, chị Phương vợ ông vẫn theo đuổi việc kinh doanh mặc hàng quần áo may sẵn. Đứa con trai độc nhất của vợ chồng bác sĩ Hùng nay đã là một tiến sĩ có tên tuổi trong ngành Hóa học.
        Hai mươi năm trước đây, sát bên nhà bác sĩ Hùng mọc lên một ngôi nhà khang trang khác, đó là nhà của vợ chồng chị Hậu, anh Kha.
        Sau khi xác minh bé An đích thực là con trai mình. Vợ chồng chị Hậu rất đỗi bàng hoàng, vui sướng.
        Ban đầu, anh Kha cương quyết không chịu về sống chung với vợ chồng bác sĩ Hùng, anh không muốn nương nhờ, không muốn lệ thuộc vào người khác.
        Ngày nào chị Hậu cũng than vắn thở dài vì nhớ thương con. Bé An thương mẹ, về với mẹ Hậu thường xuyên thì ở trên thị xã mẹ Phương lại chẳng yên lòng. Thằng bé cứ phải chạy tới chạy lui giữa hai nhà khiến việc học tập của nó có phần sa sút.
        Vợ chồng bác sĩ Hùng nhiều lần tới lui thuyết phục, cộng với tình thương nên anh Kha mới đồng ý dọn đi.
        Nhờ sự giúp đỡ ban đầu của bác sĩ Hùng, và tính tình siêng năng, cần mẫn của mình, bây giờ cuộc sống của vợ chồng anh Kha, chị Hậu đã trở nên sung túc. Anh Kha theo nghề xây dựng, nhưng không còn làm công nhân nữa, nhiều năm nay anh đứng ra làm thầu, nhận được rất nhiều mối làm ăn, công việc của anh luôn gặp được nhiều may mắn.
        Chị Hậu thì có một sạp hàng ở chợ thị xã
        Anh Kha là người khẳng khái, nên số tiền ban đầu bác sĩ Hùng giúp đỡ, được anh quy ra vàng và đã trả sòng phẳng khi việc làm ăn của hai vợ chồng bắt đầu phát triển.
        Cuộc sống của hai gia đình thật đầm ấm, yên vui.
        Chiều chiều, sau một ngày làm việc, năm người lại quây quần bên nhau trong mảnh vườn nhỏ trước nhà cùng nghe bé An cười đùa, cùng dạy nó điều hay lẽ thiệt.
        Bé An được lớn lên trong bầu không khí đầy ắp tình thương yêu của hai mẹ, hai ba…
        Nhiều lần bạn bè tới nhà chơi, ai cũng thắc mắc không biết người nào mới thật sự là ba mẹ của An. Hỏi thì An chỉ cười rất tươi:
        - Cả bốn người đều là ba mẹ ruột của An đấy!
        An không biết giải thích sao để bạn bè hiểu.
        Mà cần gì phải giải thích, bởi trong lòng An, mẹ Hậu, mẹ Phương, ba Kha, ba Hùng đều là những người ruột thịt…

        Hết
        Nguyễn Thị Mộng Thu
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:39:47 bởi nguyenthu >
        #79
          nguyenthu 10.08.2009 22:17:23 (permalink)
          CÂU CHUYỆN LIÊU TRAI
           
          Vừa thi xong môn cuối cùng, tôi vội vàng ba chân bốn cẳng chạy về phòng trọ thu xếp vài ba bộ quần áo rồi nhờ thằng bạn thân đưa ra xa cảng Miền Đông.
          May quá, thằng bạn vừa quăng tôi xuống là gặp ngay một chiếc xe đò sắp sửa chuyển bánh, khỏi phải mất thời gian chờ đợi.
          Làm thân học trò nghèo đi học xa nhà, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, gặp mặt được gia đình đâu có được bao nhiêu, nên hễ có dịp về quê là nhấp nhổm y như ngồi trên đống lửa tam muội, mong mau mau chóng chóng đem được tấm thân gầy còm về cho cha mẹ là hạnh phúc lắm rồi.
          Mặc kệ cái không khí ồn ào, ngột ngạt của bến xe, mặc kệ luôn cái nóng hầm hập của buổi chiều mùa hạ, tôi khoan khoái ngồi vào chỗ của mình, không thèm có phản ứng gì với đám người bán hàng rong đang thay nhau mời chào đon đả.
          Xe chạy chầm chậm ra khỏi bến, ra tới xa lộ là bắt đầu tăng tốc. Từng cơn gió chiều thổi lùa vào trong xe mát rượi. Vì ngồi sát cạnh cửa sổ nên tôi mặc sức đón gió và ngắm quang cảnh hai bên đường.
          Nghĩ đến chặng đường dài thăm thẳm trước mắt tôi cũng hơi oải, nhưng thôi, về tới nhà là sẽ được đền bù xứng đáng!
          Tôi là đứa con trai độc nhứt trong một gia đình toàn phụ nữ. Mẹ và bốn chị gái hợp thành đủ bộ “Ngũ long công chúa”, tôi trở thành “gươm lạc giữa rừng hoa” nên rất được cưng yêu, chìu chuộng.
          Gia cảnh nhà tôi không khá giả gì mấy nhưng “ngũ nương” nhất quyết lo cho tôi được học hành tới nơi tới chốn. Trái lại, tôi cũng không để mọi người thất vọng.
          Suốt mười hai năm học phổ thông tôi đều đạt được thứ hạng cao trong lớp. Rồi sau đó lại thi đỗ vào một trường Đại học “ngon lành”, biết bao nhiêu người mơ ước ở Sài Gòn.
          Cũng giống như bao đứa sinh viên nghèo khác, cuộc sống của tôi ở cái thành phố ồn ào đông đúc ấy vô cùng… túng thiếu. Mì gói là món ăn gần như có mặt thường xuyên trong căn phòng trọ chật chội của chúng tôi.
          Vì vậy, những dịp về thăm nhà, ngoài niềm vui được gặp mặt người thân yêu, tôi còn có niềm vui được thưởng thức những bữa cơm nóng sốt, đầm ấm với gia đình.
          Ba mất từ lúc tôi còn nằm trong bụng, nên mẹ và các chị muốn bù đắp cho sự thiệt thòi của đứa con trai độc nhất trong nhà, ai cũng dành cho tôi sự quan tâm quá mức.
          Năm chị em cách nhau năm một nên ngoài tình em, chúng tôi còn xem nhau là bạn, bất cứ có chuyện gì tôi đều tâm sự hết với các chị, Bởi lẽ đó nên tôi lại càng được các chị cưng thêm.
          Có lần mẹ tôi phải la lên:
          - Các con chìu em thì cũng chìu vừa vừa thôi nhá, hắn mà hư thân là lỗi ở các chị đấy!
          Các chị tôi chỉ cười. Tôi vẫn được duy trì ngôi vị “số một” trong nhà!
          Nghĩ tới cảnh mình được cả nhà đón mừng tíu tít tôi bất chợt mỉm cười.
          Lần này về tôi phải giục bà chị cả, chị hai đi lấy chồng đi thôi, kẻo không qua thời xuân sắc… Tội nghịêp, cũng vì lo cho tôi mà các chị không ai nỡ đi lấy chồng, sợ một mình mẹ tôi lo không xuể, tôi lại phải bỏ học dở dang…
          Xe vô tới thành phố Biên Hòa thì trời cũng bắt đầu tối. Hành khách trên xe không còn ồn ào chuyện vãn nữa mà hình như ai cũng muốn nhắm mắt lại một chút để thu ngắn quãng đường. Tiếng động cơ rì rì, chẳng mấy chốc đám hành khách đi vào giấc ngủ mơ màng, trong đó có cả tôi.
          Khoảng ba bốn tiếng đồng hồ gì đó thì có tiếng bánh xe xiết gấp, dừng lại để đón thêm khách. Hai người mới bước lên xe một già một trẻ, có lẽ là hai cha con.
          Thấy băng ghế của tôi còn chỗ trống, cô gái nhã nhặn xin phép ngồi vào hai chiếc ghế trống bên cạnh tôi.
          Cơn buồn ngủ vụt biến mất ngay khi tôi bắt gặp nụ cười của cô gái.  Tôi đã từng đọc nhiều thơ văn, người ta hay ví nụ cười mỹ nhân giống như hoa hàm tiếu, thì có lẽ hôm nay tôi đã được biết “nụ cười hàm tiếu” là thế nào, và thế nào là “hoa cười ngọc thốt đoan trang”!
          - Xin phép… Nếu anh không phiền, anh làm ơn cho em ngồi cạnh cửa sổ, em hay bị say xe…
          Cô gái lúng túng đến tội nghịêp.
          Làm sao tôi có thể từ chối, nhất là từ chối lời đề nghị của một người con gái dễ thương đến như vậy chứ? Thế là tôi vội vàng đứng lên nhường chỗ cho hai người. Cô gái nhẹ nhàng lách qua tôi để vào ngồi sát bên trong. Một mùi hương thơm dịu từ người cô gái phả vào mặt tôi thật dễ chịu.
          Thấy ông già còn đứng lựng khựng, tôi lễ phép:
          - Dạ, mời bác vô trong ngồi ạ!
          Ông cười:
          - Thôi, cháu ngồi vào đó đi, để bác ngồi ngoài đây được rồi, chỉ tại con bé không quen đi xe, lần nào không được ngồi gần cửa sổ là nó nôn đến khổ sở.
          Thật là ông trời thương người hiền! Tôi mừng quýnh, nhưng cũng giả bộ từ tốn ngồi xuống bên cạnh người đẹp.
          Khi cả ba đã yên vị, tôi cất tiếng làm quen:
          - Dạ thưa bác, bác với… chị đi về tới đâu ạ?
          - Cha con bác về tới Quảng Ngãi. Còn cháu?
          Tôi mừng rơn:
          - Dạ, cháu cũng về Quảng Ngãi.
          - Quê cháu ngoài ấy?
          Ông già hỏi.
          - Dạ. Cháu đi học trong Sài Gòn, nay về thăm nhà.
          Tôi trả lời vui vẻ.
          Ông già liếc nhìn con gái rồi nói khẽ:
          - Con Thi nhà bác cũng học ở Sài Gòn, lần này bác vô đón nó về quê chơi ít bữa.
          Quay sang cô gái tên Thi, tôi làm quen:
          - Chị… chị học trường nào?
          Cô gái cười chúm chím:
          - Bộ… anh thấy em già lắm hay sao mà gọi bằng chị?
          Tôi trở nên lúng túng:
          - Tôi… tôi…
          Thi bật cười:
          - Anh gọi em bằng tên đi! Em tên Thi. Em học năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm. Còn anh?
          Thấy cô gái có vẻ tự nhiên nên tôi trở nên mạnh dạn:
          - Vậy là… Thi nhỏ hơn… anh rồi! Anh học năm thứ tư Đại học Kiến Trúc.
          Thi ngước nhìn tôi bằng ánh mắt lấp lánh:
          - Tên anh là…
          - Ồ, nãy giờ anh quên! Anh tên Hải.
          Rồi chợt nhớ ra, tôi ngạc nhiên hỏi:
          - Ủa, Thi học ở Sài Gòn về, sao lúc nãy lại đón xe ở khúc đường vắng vẻ tuốt ngoài này thế?
          Thi ngó mông ra khoảng không ngoài cửa sổ một lúc mới trả lời tôi, giọng đượm buồn:
          - Em với ba về từ chiều, nhưng vì say xe quá không chịu nổi nên em phải xuống đó nghỉ mấy tiếng đồng hồ, chừng khỏe lại mới đón xe đi tiếp!
          Nhìn cô gái nhỏ nhắn ngồi bên cạnh, lòng tôi chợt dâng lên một niềm xúc cảm kỳ lạ.
          Cứ nghĩ tới cảnh tượng hai cho con một già một trẻ mệt lả bơ vơ ngồi bên vệ đường, tôi không khỏi chạnh lòng thương cảm.
          - Anh nghe nói có thuốc uống hoặc dán để trị say sóng, sao em không dùng thử?
          Tự nhiên tôi chuyển qua gọi Thi bằng em một cách vô thức. Đến chừng câu nói thoát ra khỏi miệng mới giật mình, không khéo Thi lại đánh giá tôi là thằng bộp chộp, chưa chi đã… Nhưng có lẽ Thi không nghĩ thế, cô khẽ lắc đầu:
          - Em dùng thử nhiều thứ rồi nhưng vẫn không có công hiệu. Hễ đi xe máy lạnh, đóng cửa bít bùng là em lại bị… Chắc tại cái số em nó nghèo…
          Tôi bật cười trước câu nói của Thi.
          Bên trái tôi, ông già che miệng ngáp một cách mệt mỏi rồi bỏ mặc hai đứa trẻ, ông tựa đầu vào thành ghế ru giấc Nam Kha.
          Xe chạy bon bon trên đường, hành khách trên xe ai nấy gật gà gật gù theo từng nhịp xóc. Chủ xe chỉ để một bóng đèn vàng vọt nên tôi không nhìn rõ được Thi lúc này, nhưng tự nhiên tôi lại có cảm giác mình “nhìn” Thi rất rõ. Tôi vẫn xác định được rằng cô gái có khuôn mặt khá xinh nhưng có điều nước da cô ta trắng quá, trắng đến gần như... phát sáng trong đêm.
          Thi nghiêng nghiêng chiếc đầu xinh xắn, mắt dõi nhìn ra những lùm cây ven đường, tôi “thấy” Thi có vẻ gì đó rất buồn ngay cả lúc cô cười nói với tôi.
          Thường thì những đứa học trò khi ngồi xe về quê, bao giờ cũng có tâm trạng nôn nóng, háo hức và vui vẻ lắm chứ không giống như Thi bây giờ. Trông cô không giống đang đi về nhà, mà như đang đi đến một nơi ngoài ý muốn.
          “Chắc có lẽ Thi còn mệt sau cơn say xe lúc nãy”, nghĩ vậy nên tôi cũng không thắc mắc nhiều nữa.
          - Em về quê hôm nào trở lại trường?
          Tôi cất tiếng hỏi, xua tan sự im lặng nãy giờ.
          Thi buồn buồn:
          - Không chắc em có trở lại trường hay không nữa…
          - Sao thế?
          Tôi ngạc nhiên kêu lên.
          - Em đau bệnh hoài, ba mẹ không muốn em đi xa…
          Thì ra là vậy! Có lẽ ba Thi vô Sài Gòn lần này để “bắt ép” con gái về quê, hèn gì trông cô có dáng vẻ như thế.
          - Bệnh thì chữa! Ở Sài Gòn càng có điều kiện để chữa trị mà?
          Tôi nói
          - Em cũng nghĩ vậy, nhưng…
          Bỏ dở câu nói giữa chừng, cô gái thay đổi hẳn thái độ, quay sang hỏi thăm tôi đủ mọi thứ, từ việc học hành, ăn ở đến việc quan hệ bạn bè…
          Chúng tôi thầm thì kể cho nhau nghe đủ mọi chuyện. Thỉnh thoảng Thi lại bật cười khúc khích trước những câu nói đùa của tôi.
          Quả thật, nếu suốt quãng đường đi từ Sài Gòn về Quảng Ngãi, được ngồi cạnh bên người con gái dễ thương và cởi mở như thế này thì dù xe có chở tôi chạy tuốt ra tận Hà Nội tôi cũng không thấy phiền lòng.
          Đúng là cầu được ước thấy! Khi ý nghĩ ấy vừa xuất hiện trong đầu tôi, tôi có cảm giác như chiếc xe không chạy bình thường nữa. Nó phun ra những cơn ho khùng khục như một ông già bị lao kinh niên, báo hiệu điều chẳng lành, cuối cùng thì chiếc xe chấm dứt công cuộc phục vụ của mình bằng cách nằm ì lại giữa đường, ven một cánh đồng trống khi kim đồng hồ chỉ đúng... mười một giờ đêm.
          Đám hành khách trong xe nhốn nháo hẳn lên:
          - Chuyện gì vậy?
          - Đây là đâu?
          - Chuyện gì xảy ra vậy bác tài?
          - Trời! Xui xẻo quá, xe hư kiểu này biết bao giờ mới tới nơi…
          Tài xế và hai người lơ xe chẳng thèm đoái hoài gì tới những câu hỏi xôn xao phía dưới, ba người mang túi đồ nghề bước xuống bắt tay vào sửa chữa.
          Sau một hồi hì hục, anh lơ xe nhảy lên thông báo:
          - Bà con thông cảm, ai buồn ngủ cứ ngủ, ai có nhu cầu gì cứ tự nhiên đi giải quyết, chắc phải mấy tiếng nữa xe mới có thể sửa xong! Khi nào xong, chúng tôi sẽ bấm còi báo hiệu gọi bà con trở lại. Bây giờ thì xin mời bà con cứ nhiên…
          Đám hành khách muốn phát khóc khi nghe lời thông báo đó. Họ than trời than đất, mặt mày ai nấy méo xẹo khi thấy mình đang đứng giữa một khoảng trống không, không có lấy bóng cây chứ đừng nói mái nhà.
          Trên trời mấy vì sao đang nhấp nháy không biết thông cảm hay giễu cợt, dưới đất thì đám côn trùng đang chơi cùng nhau một giàn nhạc giao hưởng không có nhạc trưởng. Nhưng với tôi, bản hòa tấu ấy nghe mới vui tai và thích thú làm sao!
          Xe dừng lại, không khí trong xe trở nên vô cùng oi bức, trong xe lại nêm đầy chặt người nằm ngồi ngả ngớn nên nhiều người không thể nào chợp mắt, họ giết thời gian bằng cách... đi dạo.
          - Mình xuống đất một lúc cho giò cẳng thư giãn…
          Tôi lên tiếng đề nghị và được sự hưởng ứng của Thi.
          Nãy giờ ông già chỉ hơi hé mắt ra nhìn rồi lại tiếp tục ngáy pho pho.
          - Sụyt!
          Thi đưa một một ngón tay lên miệng ra hiệu rồi cùng tôi khe khẽ lách mình bước qua chân ông già.
          Chúng tôi mon men tiến ra cánh đồng, gió tha hồ thổi ù ù làm tung cả mái tóc chấm lưng của cô gái.
          - Thi lạnh không?
          Tôi  rùng mình, hỏi Thi với ý định trở lại xe lấy áo khoác.
          - Dạ không, gió mát mà… Em không lạnh đâu!
          Một tay đưa lên giữ lấy mái tóc, một tay Thi trỏ về phía trước reo lên:
          - Anh xem kìa!
          Nhìn theo tay Thi, tôi thấy một căn nhà!
          - Thật lạ, khi nãy trên xe anh không hề nhìn thấy nó mặc dù chỉ cách chỗ đậu xe vài trăm mét. Sao bây giờ nó lại xuất hiện đột ngột vậy?
          Tôi kinh ngạc nói.
          Thi bụm miệng cười:
          - Anh Hải sợ ma hay sao thế?
          - Không! Anh chỉ ngạc nhiên!
          Tôi cãi.
          Thi không cười nữa:
          - Có lẽ khi nãy anh sơ ý không nhìn kỹ thôi…
          - Ờ, có lẽ vậy…
          Tôi đồng ý với Thi nhưng trong lòng vẫn thấy có gì đó kỳ kỳ.
          - Mình tới đó xem thử đi!
          Tôi rủ rê Thi.
          Máu tò mò thúc tôi tiến đến gần để xem đó là cái gì bởi vì so với căn nhà thì nó quá nhỏ.
          Hai đứa lò dò theo con đường đất nhỏ xíu đi dần về phía ánh đèn.
          Khi tới nơi, tôi thoáng giật mình, nhưng hình như Thi không cảm thấy bất ngờ hay sợ hãi gì hết.
          Đó là một căn nhà mồ!
          Vốn là thằng gan lì, sau phút bất ngờ, tôi nhanh chóng lấy lại sự bình tỉnh vốn có, ghé mắt ngó vào. Nền gạch bông sạch bóng mời gọi một cách hấp dẫn không cưỡng lại được, tôi liền quyết định nghỉ ngơi tại đây hơn là chen lấn trong cái hộp sắt đầy ngẹt người và mùi ét xăng ngoài kia.
          Nghĩ thế tôi liền quay lại hỏi Thi:
          - Thi có sợ không?
          - Có anh Hải đây rồi, em không thấy sợ gì hết!
          Cô gái mạnh dạn đáp.
          - Vậy mình ngồi ở đây trò chuyện cho thoải mái nhé? Khi nào nghe tiếng còi xe thì hãy ra
          Thi vui vẻ gật đầu rồi đột ngột hỏi tôi:
          - Anh Hải có sợ ma không?
          - Sao Thi hỏi vậy? Thi là con gái mà còn không sợ, chẳng lẽ anh là trai mà lại kém Thi sao?
          Tôi cười cười hỏi lại.
          - Nhưng… nếu gặp ma, anh Hải có sợ không?
          Thi vẫn hỏi tiếp.
          Tôi bật cười:
          - Gặp ma à? Anh cũng chưa biết nữa, vì hồi nào tới giờ anh có gặp ma lần nào đâu mà biết. Nhưng theo suy nghĩ của anh thì ma chắc cũng như người thôi, nếu mình không làm gì hại họ, chắc họ cũng sẽ chẳng hại mình. Vì vậy, chắc nếu có gặp ma anh cũng không sợ!
          - Chắc nhé?
          Thi gặng lại.
          Tôi chỉ biết mỉm cười.
          Dễ gì có cơ hội được đóng vai trò người bảo vệ cho mỹ nhân, nên tôi càng phải tỏ rõ cái “bản lĩnh đàn ông” của mình trước mặt Thi.
          Tôi cùng Thi bước thẳng vào. Phần mộ được xây âm xuống đất, cho nên toàn bộ phần nền phía trên trống trải y như tấm phản hảo hạng. Phía trước phần mộ là một cây đèn dầu hỏa có bóng tròn chụp lại, có lẽ của người thân đến đây thắp nhang và để lại.
          Ánh sáng leo lét chao qua chao lại nhưng cũng đủ để tôi nhìn được xung quanh. Trên bức tường lớn nhất có khắc tên họ, năm sinh của người quá cố, tôi liền soi đèn vào. Thì ra người mất là một cô gái còn rất trẻ, chỉ mới mười chín tuổi.
          - Thật tội, cô gái còn quá trẻ mà đã lìa trần rồi!
          Tôi chép miệng than.
          Một thoáng bùi ngùi trong lòng tôi: một số phận quá ngắn ngủi, cái gì đã khiến cô gái quá trẻ thế này từ giã cuộc đời vội vã vậy? Chắc là thảm khốc lắm!
          Thi không nói gì, chỉ nhẹ nhàng ngồi xuống nền gạch, dáng vẻ trở nên u buồn tư lự.
          Bỗng tự nhiên cơn buồn ngủ ập đến, tôi ngồi tựa lưng vào thành mộ, che miệng ngáp dài.
          - Anh chợp mắt một chút cho khỏe đi! Em thức canh cho, khi nào xe sửa xong em sẽ gọi.
          Chừng như thấy tôi cứ ngáp vắn ngáp dài, Thi khuyên tôi như vậy.
          - Anh vừa thi xong môn cuối chiều nay, tối qua thức đến gần sáng để học bài, vì thế…
          Thi mỉm cười:
          - Vậy anh ngủ đi!
          - Em cũng nên… cũng nên nghỉ một chút!
          Tôi ngượng với cô gái vì sự buồn ngủ vô duyên của mình.
          - Không sao đâu anh! Em ngồi đây cho mát mẻ là được rồi, em chưa buồn ngủ, anh cứ tự nhiên đi…
          Mặc dù hơi do dự nhưng rồi tôi cũng tự trấn an mình vì chỗ này không xa mấy nơi xe đậu, và cũng không phải ngồi đây một mình.
          Tôi nhìn Thi, hơi ái ngại nhưng rồi không cưỡng lại được, hai mí mắt tôi bắt đầu kéo sấp xuống.
          Cây đèn dầu chập chờn hắt từng cái bóng run rẩy lên tường, ngoài kia đêm và những cơn gió ù ù vẫn tiếp tục cuộc hành trình của nó.
          Không biết tôi ngủ ngồi như thế bao lâu rồi, khi tôi giật mình thức giấc thì bắt gặp ngay một đôi mắt đang nhìn tôi chằm chặp. Giật bắn mình vì tưởng mình đang đối diện với hồn ma bóng quế nhưng rồi tôi lại thở khì ra ngay khi nhận ra Thi và nhớ lại mình đang ở đâu.
          Bị bắt gặp nhìn trộm, cô gái cười bẽn lẽn cúi gầm mặt xuống.
          - Nãy giờ em không ngủ chút nào sao?
          Muốn chữa thẹn cho cô gái nên tôi lên tiếng hỏi.
          Thi vẫn ngồi tựa lưng vào tường, hai tay bó gối, khẽ mỉm cười:
          - Dạ không, em không buồn ngủ.
          Bất chợt Thi hỏi:
          - Mai mốt, nếu em được cha mẹ cho phép tiếp tục vào Sài Gòn học, em tìm anh ở đâu?
          Tôi mừng rơn:
          - Anh học lớp K… Mà thôi, đây là số điện thoại của anh, khi nào vô Sài Gòn em liên lạc với anh nhé?
          Tôi thò tay vô túi áo định lấy giấy viết ghi số điện thoại cho Thi, nhưng chợt nhớ ra không mang theo. Thấy tôi có vẻ lúng túng, Thi cười, mở túi xách lấy ra chiếc điện thoại:
          - Anh đọc số, em save vào máy!
          - 090…
          Dưới ánh đèn dầu tù mù, trông Thi càng trắng một cách… rùng rợn! Những ngón tay thon dài, trắng trẻo của cô bấm lên bàn phím một lúc rồi ngước lên cười:
          - Em nhá máy anh để anh lưu lại số của em nhe?
          Tôi gật đầu, thò tay móc chiếc điện thoại trong túi ra.
          Một điệu nhạc nước ngoài vui tươi cất lên xua đi cái hoang lạnh ở nơi đồng không hiu hắt.
          Trông thấy dãy số hiện trên màn hình, tôi bật khen:
          - Số điện thoại của em đẹp quá!
          - Khi vào Sài Gòn, nhất định em phải gọi cho anh đấy!
          Vừa bấm phím lưu lại số điện thoại của Thi, tôi vừa nhắc.
          Thi nhìn tôi ranh mãnh:
          - Vậy là… mai về tới Quảng Ngãi thì  em không được phép gọi cho anh?
          Tôi ngớ ra một giây rồi phá lên cười:
          - Ôi, anh quên mất! Em có thể gọi cho anh bất cứ lúc nào!
          Thi ngoảnh nhìn nghiêng, giấu đi cặp mắt long lanh rực sáng:
          - Thế mà… em cứ tưởng anh có vợ ở quê… nên không dám nghe điện thoại  ở nhà chứ!
          Tôi làm bộ nhăn nhó:
          - Trời ơi, em nghĩ vậy là chết anh rồi! Anh còn… mồ côi vợ em ơi! Sinh viên tay trắng như anh, có ma nào thèm…
          - À, em cho anh xin địa chỉ ở quê của em đi!
          Chợt nhớ ra, tôi đề nghị.
          Thi ngập ngừng một chút rồi xòe tay ra trước mắt tôi:
          - Anh cho em mượn điện thoại, em chép địa chỉ của em vô phần tin nhắn cho anh.
          Vui vẻ đưa cho Thi chiếc điện thoại, vô tình bàn tay tôi chạm khẽ vào bàn tay đang giơ ra phía trước của Thi. Một cảm giác lành lạnh rờn rợn chạy khắp châu thân làm tôi rùng mình mấy cái.
          Nhận thấy thái độ bất thường của tôi, cô gái liền nhoẻn miệng cười làm tôi thấy mình sao mà ngớ ngẩn, có lẽ đó chỉ là cơn gió ẩm thấp ngoài kia thổi tạt vào đây thôi.
          Tôi cảm thấy hơi quê. Ở một nơi như thế này giữa đêm, đáng ra người lo sợ phải là Thi mới đúng. Nhưng tuyệt nhiên, từ lúc bước vào đây tới giờ, chưa khi nào tôi nhìn thấy một nét lo âu, sợ sệt hay hoài nghi hiện trên mặt Thi, dù chỉ là thoáng qua thôi.
          Với Thi, tôi là một kẻ hoàn toàn xa lạ, chỉ mới biết nhau cách đây mấy giờ đồng hồ, vậy mà Thi không chút ngần ngại đi theo tôi tới nơi hoang vắng này, nếu lỡ tôi là kẻ… không đàng hoàng, tôi giở trò đồi bại gì đó ra thì cô sẽ xoay sở sao đây?
          Đã vậy, nơi đây lại là một cái nhà mồ! Thường thì đa số phái nữ đều nhút nhát, dù những người được xem là gan dạ đi nữa thì cũng ít ai dám ngồi tâm sự cùng một kẻ lạ ở một nhà mồ.
          Thế mà Thi lại khác! Trông cô nhỏ bé, yếu đuối đến thế nhưng không hề tỏ ra e dè chút nào trong cái bối cảnh lạ đời này!
          Có lẽ do cô quá ngây thơ, cô chưa bao giờ nghĩ tới những điều xấu có thể xảy ra, và có lẽ vì quá ngây thơ nên cô cũng tin tưởng vào sức mạnh của một gã trai như tôi mà không biết sợ hãi là gì!
          Thi đã không sợ, sao tôi lại có cảm giác rùng mình? Hồi nhỏ, tôi từng ngủ ở nghĩa địa để canh lúa, tôi nổi tiếng gan lì, thì hoàn cảnh đêm nay đâu có gì đáng nói.
          Được chứng minh sức mạnh trước người đẹp thì còn gì bằng, không thể để Thi cười vào mặt được! Tôi nhanh chóng xua đi cái cảm giác rờn rợn đó và cười thật tươi khi nhận lại điện thoại từ tay Thi.
          Nhìn lướt qua dòng địa chỉ trên màn hình điện thoại, tôi bảo:
          - Nếu rảnh, anh tới nhà thăm em được không? Từ nhà anh tới đây cũng không xa mấy, chừng vài chục cây số.
          Thi ấp úng:
          - Mẹ em… mẹ em hơi cổ hủ. Bà không thích con gái giao tiếp với bạn trai. Vả lại… vả lại cũng không chắc em về luôn Quảng Ngãi!
          - Ủa, bộ em còn tính ghé đâu nữa sao?
          - Em có người chú ở Cam Ranh, hồi chiều ba em bảo sẽ ghé đó thăm chú, ở chơi một vào hôm.
          Thi trả lời tôi, mắt nhìn xuống đất.
          Tôi thất vọng:
          - Vậy mà nãy giờ anh mừng, anh tưởng có người chuyện trò về tới quê mình luôn đó chớ!
          Thi cười như người có lỗi:
          - Em cũng không muốn ghé, nhưng ba…
          Cô gái vừa nói tới đó thì bên ngoài ông già xăm xăm bước vô. Lại một lần nữa tôi giật bắn người khi nhận thấy nước da ông già cũng trắng một cách lạ lùng như nước da cô gái, nhưng ở ông còn có thêm một vẻ gì đó… không thật, không phải là người!
          - Chờ xe lâu quá, mình đón xe khác đi đi con!
          Ông già bảo con gái.
          Thi tỏ vẻ dùng dằng:
          - Ba… hay ba cho con về quê…
          Ông già nhìn Thi nghiêm nghị:
          - Không được, ba đã nói rồi…
          Thi uể oải đứng lên. Tôi cũng đứng lên theo. Cả ba chúng tôi lặng lẽ đi trở ra đường lộ, không ai nói với ai lời nào.
          Tự nhiên trong lòng tôi trỗi dậy một nỗi buồn lênh láng… Tuy mới gặp gỡ và quen biết Thi không lâu, nhưng tôi cảm thấy thân thiết với cô như đã quen biết từ rất lâu rồi.
          Rồi quãng đường dài dằng dặc còn lại phía trước, tôi sẽ phải một mình buồn bã hay phải ngồi cạnh một bà phì nộn hoặc một ông sồn sồn, lên xe là ngủ gà ngủ gật rồi kéo ò e suốt sáng…
          “Gặp nhau đây, rồi chia tay… Ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây…”, bất chợt một câu hát hiện ra trong đầu tôi. Thật ra, âm điệu bài hát đđó không buồn một chút nào, nhưng lúc này nó lại làm cho tôi bùi ngùi xao xuyến lạ…
          Ra tới đường lộ, ông già vỗ vai tôi nói lớn:
          - Cháu về quê mạnh giỏi!
          Tôi gật đầu cảm ơn ông mà mắt vẫn nhìn Thi không chớp.
          Thi lí nhí nói câu tạm biệt, hứa hẹn sẽ gặp lại tôi vào một ngày không xa nữa ở tại Sài Gòn.
          Tôi cũng không nhớ lúc đó mình đã nói gì với Thi nữa, chỉ nhớ là tôi đứng bên đường nhìn theo dáng hai cha con Thi bước lên một chiếc khác mà lòng tiếc nhớ ngẩn ngơ…
          Bỗng tôi chợt nhớ, lúc tối khi thấy cha con Thi lên xe thì có mang theo hành lý, sao bây giờ ngoài chiếc túi xách trên tay Thi họ không mang theo gì cả?
          Tôi vội vã nhảy phốc lên xe, đến hàng ghế lúc nãy tôi và cha con Thi ngồi, cúi nhìn quanh quất nhưng không thấy gì.
          Lạ thật! Tôi lẩm bẩm. Rõ ràng lúc nãy, ông già trước khi ngồi xuống còn cẩn thận đẩy cái giỏ xách sát vô gầm ghế ngồi mà?
          Nhìn sang người khách ngồi dãy bên cạnh, ngang hàng với ghế của tôi, tôi cất tiếng lễ phép:
          - Cô ơi, lúc nãy cô thấy ông già ngồi đây xuống xe có đem theo túi hành lý không cô?
          Người phụ nữ ngồi bên trố mắt nhìn tôi, hỏi lại:
          - Ông già nào?
          - Thì… ông già với cô gái ngồi cạnh cháu từ tối đó!
          Tôi cũng giương mắt lên nhìn.
          Người phụ nữ ngạc nhiên:
          - Ủa, từ tối tới giờ tôi thấy cậu chỉ ngồi một mình thôi mà, làm gì có ông già hay cô gái nào ở đây?
          Tôi phản đối:
          - Rõ ràng có ông già và cô gái ngồi cạnh cháu mà! Lúc nãy cháu và cô gái còn xuống xe cùng lúc với nhau…
          Người phụ nữ bật cười:
          - Thôi đi ông tướng! Chắc nãy giờ ngủ mê hay sao thế?
          - Không, rõ ràng là có…
          Tôi quả quyết.
          Người phụ nữ lắc đầu, không thèm tranh cãi gì với tôi nữa. Một vài người khách ngồi gần đó bắt đầu ngoái lại nhìn tôi với vẻ ái ngại. Một bà trung niên ngồi ở hàng ghế sau nhoài người lên bảo:
          - Cậu nói sao chứ? Từ lúc xe khởi hành ở Sài Gòn đến giờ chỉ có cậu ngồi ở hàng ghế này thôi, làm gì có ai bên cạnh!
          Thoáng rùng mình, cái cảm giác lành lạnh lúc nãy lại ập đến với tôi.
          Vừa lúc đó xe cũng đã được sửa xong, hành khách lại chen nhau trở về đúng chỗ của mình, tiếng cười nói, nhăn nhó ồn ào lên một lúc rồi lại lắng xuống khi xe bắt đầu chuyển bánh.
          Tôi vẫn cố nhoài đầu ra ngoài hướng về phía căn nhà mồ. Không thấy gì cả, kể cả ánh đèn leo lét hay một cái bóng mờ ảo của ngôi nhà!
          Tôi run bắn cả người lên, vội thụt vào trong, hấp tấp lôi chiếc điện thoại ra, tay tôi run run kiểm tra lại danh bạ. Rõ ràng có tên Thi ở đây, dãy số rất đẹp của cô tôi vẫn còn nhớ thì làm sao nhầm lẫn được! Một lần nữa tôi kiểm tra lại tin nhắn, số nhà, địa chỉ của Thi rành rành ra đấy!
          Tôi thở phào nhẹ nhõm. Chắc hẳn mấy người ngồi quanh tôi đã ngủ say sưa từ lúc trời mới vừa nhập nhoạng tối nên không biết, không nhìn thấy cha con Thi lúc họ lên xe.
          Để cho chắc ăn, tôi bấm số máy của Thi và gọi. Ở đầu dây bên kia vang lên một điệu nhạc chờ nhẹ nhàng.
          - A lô! Anh Hải phải không?
          Nghe đúng tiếng Thi, tôi mừng rỡ:
          - Ừ, anh đây! Lúc nãy thấy cha con em lên xe mà không đem theo hành lý, anh tưởng ba em để quên, tìm khắp vẫn không thấy đâu nên… nên anh gọi hỏi thử em xem thế nào?
          Có tiếng Thi cười nhẹ:
          - Dạ, em cám ơn anh, ba em đã mang theo rồi!
          - Ủa, sao lúc đó anh không…
          Thi cắt ngang lời tôi:
          - Chắc tại anh không nhìn rõ đó thôi, hành lý của hai cha con chỉ có một giỏ đồ đó, sao lại bỏ quên được hả anh? À, xe sửa xong chưa vậy anh Hải?
          - Xong rồi, hiện giờ xe đang chạy! Phải chi… phải chi có thể, thì mai mốt về nhà anh tới thăm em!
          Tôi tha thiết.
          Thi nói thật nhỏ:
          - Mẹ em khó lắm, chỉ sợ anh tới sẽ buồn lòng… Thôi, chắc chắn em sẽ vô Sài Gòn và đến tìm anh.
          - Sao lúc nãy em bảo ba mẹ không cho em tiếp học nữa?
          Tôi hỏi lại.
          Thi cười:
          - Thì đó là ý kiến của ba mẹ, nhưng em… em sẽ khóc nhè để phản đối! Em tin thế nào ba mẹ cũng sẽ chìu em thôi.
          Tôi bật cười khi nghe giọng nũng nịu của Thi.
          - Vậy hẹn gặp lại em ở Sài Gòn nhé! Tạm biệt em!
          - Tạm biệt anh!
          Tôi tắt điện thoại, lòng thật thư thái.
          Vậy mà vừa nãy, nghe mấy người ngồi xung quanh bảo rằng từ lúc ở Sài Gòn tới bây giờ tôi chỉ ngồi đó một mình, tôi đã thoáng nghĩ tới việc cha con cô gái kia là ma mới buồn cười chứ!
          Hồi xưa tới giờ, tôi nghe người ta kể chuyện ma cũng nhiều, nào là ma da, ma xó, ma thần vòng, ma vú dài, ma đem người đi giấu vô trong lùm trong bụi, ma thắt cổ đong đưa trên cành cây để nhát người ta, ma rút giò người đang bơi lội… nói chung là rất nhiều “chủng loại ma” với rất nhiều hành động tượng trưng của bọn nó, nhưng chưa khi nào nghe tới chuyện ma xài điện thoại di động cả!
          Tôi bật cười một mình, mấy ngón tay bấm lung tung trên bàn phím. Vô tình, tôi bấm nhầm nút kiểm tra tài khoản.
          - Ồ, lạ nhỉ? Mình vừa gọi điện nói chuyện với Thi cũng khá lâu, sao tài khoản vẫn không bị trừ?
          Tôi kêu thầm trong bụng. Tôi nhớ rõ ràng hồi chiều tài khoản của tôi còn lại đúng hai mươi hai ngàn sau khi gọi về nhà báo tin tôi đã thi xong và chuẩn bị ra xe về quê. Vậy mà hiện giờ tài khoản vẫn còn nguyên vẹn số tiền đó.
          Ừ, có thể nó chưa kịp trừ đấy thôi! Cũng giống như dạo trước, có đôi lúc gởi đi bao nhiêu là tin nhắn, thấy tài khoản không bị trừ, tôi cứ mừng rơn lên, tưởng tổng đài sơ suất gì đó nên mình được “lọt sổ”, nên hí hửng nhắn tá lả cho bạn bè, người quen, nhắn luôn mấy số quảng cáo này nọ trên tivi.
          Ai ngờ đâu mấy hôm sau nó trừ “nguội”, tôi bị một phen méo mặt!
          Liên tưởng tới việc đó nên tôi không thèm thắc mắc nữa, ngã đầu vô ghế nhắm mắt lại cố dỗ giấc ngủ.
          Một mùi hương thoang thoảng quanh tôi, càng làm tôi nhớ Thi hơn nữa. Tôi mơ màng tưởng như mình đang tựa người vào cô và mùi hương êm dịu đó toát lên từ mái tóc đen óng ả xoã dài của cô gái…
           
          ***
          Mấy ngày đầu mới về nhà, tôi quả thật không có thời gian để nhớ tới Thi. Hết mẹ rồi các chị, mọi người lần lượt hỏi han tôi đủ mọi thứ, bắt tôi phải kể chi li, tỉ mỉ việc ăn học trong đó thế nào, phố xá Sài Gòn ra sao? Con gái con trai Sài Gòn ăn diện, nói năng có giống trên phim không?
          Hết thăm hỏi lại tới màn vỗ béo! Thôi thì đủ các món ăn mà tôi thích, kể cả những món hồi nhỏ tôi rất thích nhưng bây giờ… đã ớn rồi, mà chị tôi vẫn cố ép:
          - Ăn đi em! Món này là em thích nhất phải không!
          Trời ạ! Tôi cứ phải toét miệng ra cười và há miệng ra để tống thức ăn vào liên tục.
          Tôi biết mẹ và các chị vì thương tôi nên mới làm vậy. Có những món, không đời nào ở nhà các chị dám bỏ tiền ra mua về ăn, chỉ trừ những lúc có tôi về.
          Bởi vậy, cho dù có thích hay không thích tôi đều gật đầu khen ngon và ăn một cách nhiệt tình để khỏi phụ lòng thương yêu của mẹ và các chị.
          Đến ngày thứ năm tôi ở nhà thì cái sự vồ vập ấy có phần lắng xuống một chút, một chút thôi nhưng cũng khiến tôi nhớ Thi vô hạn.
          Mặc dù cái địa chỉ và cả số điện thoại của Thi tôi đã thuộc nằm lòng, vậy mà mỗi khi buồn tôi lại mở tin nhắn ra xem lại.
          Mấy ngày nay, mỗi khi tôi gọi tới đều gặp lúc Thi tắt điện thoại. Có lẽ do mẹ Thi quá khó khăn, không cho phép con gái giao thiệp với nhiều người như lời Thi nói nên khi ở nhà Thi không dám mở điện thoại? Có lẽ thế thật!
          Đôi lúc tôi muốn nhảy xe đò đi thăm Thi, nhưng muốn là muốn vậy thôi, chứ làm sao tôi dám đường đột trong khi Thi đã có lời cảnh báo trước! Đành thôi, đành chờ gặp lại Thi ở Sài Gòn như lời hứa hẹn…
          Một tuần trôi qua thật nhanh, tôi trở lại Sài Gòn với lỉnh kỉnh quà quê. Một ba lô hành lý trên lưng, hai tay hai giỏ xách trĩu nặng.
          Lúc đi qua khúc đường xe bị hư hôm trước, tôi cố dõi mắt nhìn để tìm lại ngôi nhà mồ, nơi “hẹn hò” đầu tiên của tôi với một người con gái, nhưng tôi không thể nhận ra nó nằm ở đâu dù đang giữa ban ngày!
          Tôi lại tự an ủi mình là tại xe chạy nhanh quá, chỉ cần một phút lơ đễnh là lọt qua ngay!
          Tối hôm đó, lúc tôi vừa mới tắm xong, định trèo lên giường nằm nghe lại mấy đoạn băng ngoại ngữ thì có tiếng chuông điện thoại ngân nga.
          Nhác thấy chữ Thi trên màn hình, tôi mừng quá, vội vã hỏi:
          - Thi phải không? Em vô Sài Gòn chưa?
          - Dạ, em đây! Em vô tới hôm qua!
          Giọng Thi vẫn nhỏ nhẹ.
          - Anh mới vô trưa nay. Nếu anh đi sớm một chút, có thể mình lại ngồi chung xe cũng nên.
          Thi cười:
          - Dạ, nhưng… cũng khó lắm anh, đâu dễ gì trùng hợp vậy?
          - Hiện giờ em có rảnh không? Anh muốn mời em đi uống nước?
          Tôi hỏi liền, sợ chút nữa Thi cúp máy sẽ không nói kịp.
          Thi lặng im một lúc rồi đồng ý:
          - Dạ. Vậy anh đến ngay trước cổng công viên X đi, mình gặp nhau ở đó nhé?
          Tôi ô kê ngay mà quên hỏi Thi sao chọn nơi tréo ngoe như thế. Công viên X  không gần chỗ tôi mà cũng chẳng thuận đường tới chỗ Thi ở. Đến lúc Thi tắt máy rồi tôi mới chợt nhận ra điều đó, và… cũng giống như bao lần khác, tôi lại tự giải thích với mình, rằng do Thi ngại gặp bạn bè, sợ họ đồn thổi tùm lum lên trong khi giữa tôi và Thi chưa “có gì” với nhau nên mới mới hẹn gặp nhau ở một nơi vừa xa vừa vắng vẻ đến thế.
          Nhưng có xa mấy tôi cũng đâu có ngại! Và càng vắng vẻ tôi càng khoái chứ sao!
          Vội vã thay bộ đồ “vía” rồi leo lên “con ngựa sắt” tôi co giò đạp một mạch mà trong lòng rộn rã reo vui.
          Bốn năm học Đại học, bốn năm “lăn lộn” giữa Sài Gòn, cộng thêm mấy năm cấp ba nữa cũng thành ra một con số “bộn bộn”, vậy mà thằng tôi đây vẫn chưa có được một “mảnh tình rách vắt vai”, mặc dầu hình thức tôi tuy không được như… siêu mẫu Bình Minh nhưng cũng không đến nỗi “mặt thỏ mỏ dơi” hay đại loại xâu xấu như thế!
          Thật ra thì cũng có một vài tình cảm bâng khuâng nhưng chả cái nào ra cái nào, tôi cũng chưa đặc biệt quan tâm đến một cô gái nào như đối với Thi hiện nay.
          Có lẽ do cái hoàn cảnh gặp gỡ giữa tôi và Thi quá đặc biệt nên khắc sâu vào trí óc tôi? Chẳng biết nữa, chỉ biết rằng giờ đây tôi đang vui, rất vui khi được “hò hẹn” với Thi ngay tại Sài Gòn này chứ không phải giữa cánh đồng mông mênh quạnh vắng, trong một ngôi nhà mồ hoang vắng tịch liêu.
          Mất hơn hai mươi phút đạp xe tôi mới đến được chỗ hẹn.
          Đây là một công viên nhỏ, vắng người và hầu như không thấy cặp tình nhân nào lại đưa nhau vào đó để tâm sự, vì người ta sợ gặp phải bọn xì ke, chích choát.
          Tôi dừng xe, một chân chống xuống đất, chân kia vẫn để hờ trên bàn đạp, mắt ngó quanh quất vẫn không thấy bóng dáng Thi đâu. Vừa định nhấn bàn đạp chạy loanh quanh một vòng công viên, tôi bỗng nghe tiếng Thi gọi khẽ từ phía sau:
          - Anh Hải!
          Quay lại, Thi đứng đó nhìn tôi cười rất tươi từ lúc nào không biết.
          - Lên xe, anh chở đi… uống nước!
          Tôi cười đáp lại và mời, nhưng Thi lại tỏ ra ngập ngừng, không tán thành ý định của tôi. Thi nói nhỏ:
          - Hay… mình vô kia ngồi nói chuyện chơi đi anh! Em… em rất ngại tới những chỗ đông người…
          Vừa nói, Thi vừa trỏ tay vào một chiếc ghế đá gần bên cổng công viên.
          Tuy trong lòng tôi không thích mâùy, nhưng vì không muốn làm phật ý người đẹp nên tôi đồng ý, dắt xe lên lề rồi cả hai thả bộ đi vô.
          Tôi và Thi ngồi trên ghế đá công viên, trong một đêm ít sao. Cả hai không làm gì cả, cũng không nói gì với  nhau, ngoài việc ngước lên và ngắm nhìn những ngôi sao lẻ loi trên bầu trời.
          - Ba mẹ en đã đồng ý cho em tiếp tục học?
          Cuối cùng tôi cất tiếng phá vỡ cái không khí ngại ngùng giữa hai đứa.
          Thi nhìn tôi, khẽ gật đầu.
          - Dạ! Em khóc quá, ba mẹ không chịu nổi…
          Tôi thở phào:
          - Được vậy là tốt rồi! Mấy hôm rồi không liên lạc được với em, anh lo quá, không biết cuộc đấu tranh giữa “quyền lực” và nước mắt ngã ngũ ra sao, cứ sợ không còn dịp nào gặp lại em nữa!
          Thi nhìn tôi đăm đắm:
          - Anh mong gặp lại em đến thế sao?
          Thoáng chút bối rối, nhưng tôi nghĩ có gì mà phải ngại, lòng mình thế nào thì cứ mạnh dạn giãi bày cho người ta hiểu, như thế sẽ tốt hơn. Tôi cũng nhìn lại Thi bằng ánh mắt thật trìu mến (là tôi nghĩ vậy).
          - Anh rất nhớ em, rất mong được gặp lại em! Mấy ngày vừa qua lắm khi anh muốn đến nhà tìm thăm em, nhưng rồi anh lại sợ làm ba mẹ em không đồng ý thì việc cho em đi học lại càng thêm phần khó khăn. Vì thế anh đành phải dằn lòng. Thú thật, từ nhỏ đến giờ, chưa khi nào anh thấy lòng mình… mong nhớ một người con gái nào như đã nhớ mong suốt trong mấy ngày qua. Nhưng em… em cũng thật tệ đấy nhé, suốt một tuần em không thèm gọi hay nhắn tin cho anh, mà anh gọi thì lúc nào điện thoại em cũng tắt máy.
          Hình như Thi xúc động lắm trước những lời thật tình của tôi, cả lời trách yêu của tôi dành cho Thi nữa. Cô ngước nhìn tôi, mắt long lanh như sắp khóc:
          - Em… em rất vui khi nghe anh nói vậy! Có ai đó mong chờ mình là một điều hạnh phúc lớn lao lắm, phải không anh? Từ nhỏ em đã luôn mơ ước… một ngày nào đó em gặp được một người… một người hiểu và thông cảm em, lúc nào cũng dành cho em tình cảm chân thành…

          Tôi khẽ chạm vào bàn tay Thi đặt hờ hững trên thành ghế, vẫn cái cảm giác lạnh lẽo kỳ lạ hôm nào, nhưng có lẽ đã biết trước nên lần này tôi không bị giật bắn người lên nữa.
          - Từ hôm nay, em có cho phép anh được là người chia sẻ cùng em những buồn vui trong cuộc sống?
          Thi e thẹn cúi mặt và khe khẽ gật đầu.
          Vậy là từ đây tôi không còn là kẻ… “mồ côi… ghệ” như lời trêu chọc của mấy thằng bạn quỷ quái nữa rồi!
          Trước đây tôi từng phải khốn khổ vì bọn chúng không ít. Có đứa còn ác mồm, bảo tôi nên đi giám định lại giới tính xem có bị trục trặc gì không nữa mới đáng ghét chứ!
          Hơ hơ… rồi tụi mầy sẽ phải lác mắt khi một ngày gần đây tao dẫn nàng về “ra mắt” nhé! Đừng có mà ganh tị với tao đấy nhé! Tao không phải là đứa vung vãi tình cảm một cách vô tội vạ như chúng mầy, tao dành trọn cho người thật xứng đáng. Và hôm nay, tao thật sự tìm được người xứng đáng rồi, tìm được “chiếc xương sườn” lưu lạc của tao rồi đấy chúng mầy ạ!
          - Anh cười gì thế?
          Thi nhìn tôi ngạc nhiên.
          Tôi giật mình:
          - Không… chỉ tại… anh… anh vui quá!
          Thi cười khe khẽ, bàn tay trắng xanh của cô vân vê chiếc lá nhỏ vừa vô tình rơi xuống.
          Tối đó tôi và Thi trao đổi cùng nhau thật nhiều tâm sự, tình cảm của hai đứa chúng tôi đã mau chóng trở nên khắn khít.
          Mãi tới khi đường phố đã thưa người qua lại chúng tôi mới đứng lên từ giã nhau trong sự uyến luyến không muốn xa rời.
          Tôi muốn đưa Thi về tận nơi cô sống nhưng Thi nhất định từ chối, cô nói  không muốn bạn bè dị nghị và ép tôi phải về trước.
          Tôi đành phải chìu theo, đạp xe đi một đoạn, quay nhìn lại tôi đã không thấy Thi đâu nữa.
          Những buổi hò hẹn của tôi và Thi cứ diễn ra đều đặn vài ba lần trong tuần, vẫn là nơi đó không thay đổi, dù tôi cố nài ép cách nào Thi cũng không chịu đi cùng tôi vào quán nước, quán kem như những cặp tình nhân khác.
          Do vậy, tuy có người yêu nhưng tài khoản của tôi không bị hao hụt vì những khoản chi cho “tình phí” thông thường!
          Ba tháng trôi qua một cách chóng vánh. Tình cảm tôi dành cho Thi cũng phát triển một cách không ngờ. Bây giờ thì trong đầu tôi không lúc nào vắng bóng hình Thi. Cả khi học, khi ăn và khi ngủ.
          Những ngày không gặp Thi là lòng tôi lại thấp thỏm nhớ mong, lại nôn nao chờ đợi, không còn tâm trí đâu dành cho việc học hành.
          Thi cũng vậy, cô cũng mong nhớ tôi không kém! Vậy mà, chưa khi nào Thi cho phép tôi đến nhà trọ thăm cô, mà Thi cũng không chịu đến thăm tôi, cũng chưa một lần chúng tôi được tay trong tay đi dưới ánh mặt trời!
          Vì không chịu được nỗi nhớ nhung, tần suất hẹn hò của chúng tôi tăng lên. Trước đây mỗi tuần gặp nhau vài ba lần, bây giờ thì không ngày nào không gặp.
          Mấy đứa bạn trọ cùng phòng đứa nào cũng thắc mắc và lo lắng trước sự thay đổi bất ngờ của tôi. Mấy năm qua, tôi luôn luôn là một sinh viên gương mẫu, sau giờ học trên giảng đường là rúc về phòng nghiên cứu sách vở, tài liệu, tôi không có thói quen lê la quán xá hay đam mê bất cứ thứ gì ngoài việc học.
          Vậy mà chỉ mới mấy tháng ngắn ngủi tôi như biến thành một người hoàn toàn khác.
          Tối nào tôi cũng xách xe đi đến khuya lơ khuya lắc mới chịu vác xác về, bạn bè có hỏi tôi chỉ cười bí mật:
          - Mai mốt tụi bây sẽ biết!
          Trong giờ học thì tôi hoặc là ngủ gà ngủ gật, hoặc là mơ mộng đâu đâu…
          Lác đác trong đám bạn tôi đã có những lời đồn là tôi mắc bệnh “tâm thần” do học hành quá độ!
          Mặc kệ, tôi bỏ ngoài tai hết mọi lời đàm tiếu, tôi bị cuốn vào dòng xoáy tình cảm với Thi một cách vô cùng mãnh liệt, không làm sao có thể gỡ ra, mà nào tôi có ý định gỡ ra đâu?
          Thấy tôi quá vất vả vì tối nào cũng phải đạp xe đi về mấy chục cây số để đến nơi gặp gỡ với Thi, một hôm Thi đề nghị:
          - Hay là anh Hải chuyển tới ở trọ gần chỗ của em nhe? Như vậy chúng mình sẽ có nhiều thời gian được ở bên nhau!
          Được ở bên Thi là điều mong muốn lớn nhất của tôi lúc ấy, nhưng tôi ngại một điều là chuyện tiền nong, biết chỗ trọ mới giá cả thế nào, có phù hợp với túi tiền lép kẹp triền miên của tôi hay không? Cả khu vực mà Thi chỉ, tôi thấy toàn nhà cửa đẹp đẽ, riêng biệt, chắc chắn giá thuê không phải thấp.
          Hình như đọc được nỗi lo của tôi, Thi mỉm cười:
          - Anh Hải yên tâm đi, em có nhà một người bà con, cả gia đình hiện đã định cư ở nước ngoài, ngôi nhà ở đây đóng cửa để đó, nhờ một người bạn thỉnh thoảng tới lui dòm ngó giúp. Nếu anh Hải đồng ý, em sẽ giới thiệu anh tới ở đó. Nhà cửa rộng rãi, thoải mái hơn các phòng trọ thông thường, lại không phải mất tiền thuê nhà mỗi tháng.
          Nghe Thi nói vậy tôi mừng hơn xí được vàng! Mừng vì khỏi tốn tiền lại được ở một mình trong một ngôi nhà đàng hoàng thì ít, mà mừng vì có điều kiện gần gũi Thi mới là điều quan trọng.
          Ngay tối hôm sau Thi dẫn tôi đến đó.
          Đứng trước ngôi nhà có vẻ xưa cũ giữa lòng thành phố tôi không khỏi hồi hộp. Tuy kiến trúc xưa, nhưng ngôi nhà lại rộng lớn và toát lên một vẻ huyền bí, sang trọng khác thường. Có lẽ chủ nhân ngôi nhà này trước đây cũng là người giàu có.
          Ra mở cửa cho tôi và Thi là một người đàn ông trạc chừng sáu mươi tuổi, dáng người khắc khổ, gầy gò.
          Sau mấy câu chào hỏi xã giao ban đầu, lúc Thi và người đàn ông kia trao đổi với nhau thì tôi lại lan man đưa mắt nhìn khắp nơi.
          Ngôi nhà rộng lắm nhưng lại âm u vì quá thiếu ánh sáng. Người đàn ông cho biết vì nhà không có người ở nên chủ nhân đã cắt điện từ lâu, hệ thống nước máy cũng không có, nhưng bù lại phía sau nhà có một cái giếng nước ngọt quanh năm, không phải lo chuyện tắm giặt.
          Khi biết tôi có ý định đến sống nhờ ở đây, người đàn ông tỏ ra rất vui mừng, ông lắc lắc cánh tay tôi:
          - Ồ, như vậy thì tốt quá! Từ nay chú khỏi phải mất công chạy tới chạy lui thăm nom nhà cửa! Chú có thể yên tâm đi chơi đây đó, thăm con thăm cháu rồi! Lâu nay cứ quẩn quanh ở đây, không đi đâu, mà cũng không lagm gì được! Nay có cháu, chú thật mừng…
          Một cảm giác lạnh buốt truyền từ tay người đàn ông sang tôi, giống y như lúc tôi cầm tay Thi, nhưng nay tôi đã quen rồi, cũng không lấy làm thắc mắc nữa.
          - Nhưng mà nè, chú nói trước, cháu ở đây không được dẫn bạn bè tới nghe không? Nếu có buồn thì kêu cháu Thi lui tới bầu bạn với cháu cho vui, chủ nhà này không thích sự có mặt của người lạ, cháu là do Thi giới thiệu nên chú mới đồng ý!
          Người đàn ông nghiêm nghị nói thêm.
          - Dạ, chú cứ yên tâm! Cháu hứa sẽ làm đúng những gì chú dặn.
          Tôi nhanh chóng đồng ý ngay điều kiện đó. Vì thật ra, trong đầu tôi đã sớm có ý định muốn dành nơi này làm tổ uyên ương cho riêng hai đứa tôi mà thôi, không muốn có bất kỳ một sự quấy rối nào của bè bạn.
          Tính tình Thi lại quá kín đáo, cô không muốn mối quan hệ giữa hai đứa bị người ngoài dòm ngó, bàn ra tán vào nên điều kiện người đàn ông vừa mới đứa ra lại hoàn toàn hợp lý đối với tôi và cả Thi nữa.
          Khi câu chuyện chấm dứt, tôi và Thi đứng lên cáo từ ra về, người đàn ông cũng đứng lên theo, trao cho tôi chùm chìa khóa rồi thổi tắt ngọn đèn dầu leo lét duy nhất trong nhà, ông khép cửa lại cùng chúng tôi ra đường.
          Khi tôi chở Thi về, ông vẫn còn đứng trước cổng nhìn theo mỉm cười với vẻ hài lòng.
           
          ***
          Thấy tôi thu dọn đồ đạc, tụi bạn thắc mắc, tôi chỉ đáp qua loa:
          - Tao có người quen, kêu dọn tới ở cho tiện việc học hành.
          - Ủa, người quen của mầy ở đâu xuất hiện bất ngờ vậy? Suốt mấy năm nay mầy luôn bảo mầy không quen biết ai ở đây mà?
          Thằng Tú ngạc nhiên.
          Tôi cười giả lả:
          - Ừ… thì người quen mà tao mới biết được! Bà con xa, xa lắm nên trước đây tao không biết…
          Hình như chẳng đứa nào tin vào lời nói của tôi, nhưng tụi nó cũng không tiện truy vấn tiếp.
          Thằng Tú, thằng Bảo muốn giúp tôi chuyển đồ đạc tôi cũng thoái thác:
          - Thôi khỏi, đâu có gì nhiều, làm phiền tụi mầy mất công, cứ để đó tao dọn từ từ cũng được!
          Bọn nó nhìn tôi lạ lẫm, nhưng rồi chẳng ai nói gì nữa, mà tôi cũng không giải thích thêm lời nào.
          Từ lúc tôi dọn về ở nơi mới, Thi cũng chưa khi nào chịu đến thăm tôi vào ban ngày. Cô hết viện lý do bận học hành lại viện lý do sợ người ta đàm tiếu.
          Dù tôi có năn nỉ ỉ ôi cách nào cũng không làm lay chuyển được Thi. Nhưng bù lại, thời gian Thi ở bên tôi mỗi đêm lại dài ra thêm. Có khi mãi đến hơn nửa đêm Thi mới ra về, mà cũng không bao giờ Thi cho tôi được cái hân hạnh đưa đón cô.
          Có lần tôi nói hết với Thi những thắc mắc của tôi về cô. Thi mỉm cười nhìn tôi, nhưng đằng sau ánh lấp lánh của nụ cười dường như lại trĩu nặng một nỗi buồn nào đó không tiện nói ra.
          - Em yêu anh chân thành và anh cũng yêu em thành thật, đối với em như vậy là quá đủ rồi. Chẳng lẽ với anh, anh còn thấy là chưa đủ?
          - Không phải! Ý anh không phải vậy. Anh chỉ muốn quan tâm tới em, muốn có trách nhiệm với em. Anh muốn biết em sinh sống ra sao, học hành thế nào và muốn được đưa đón em, được khoác tay em dạo phố như bao nhiêu cặp tình nhân khác. Chẳng lẽ những điều mong muốn đó của anh là không phải sao em?
          Thi tựa hẳn người vào tôi, âu yếm nói:
          - Tất cả những mong muốn đó của anh đều rất đúng, nhưng em lại muốn anh không phải bận lòng về những điều đó. Chúng ta hãy tận hưởng cho thật trọn vẹn những giây phút được sống bên nhau, em không muốn chia sẻ những giây phút đó cho ai hết, thế nên em chỉ muốn chỉ có hai đứa mình với nhau… Từ nay anh đừng có thắc mắc nữa nhé! Ngoan đi rồi em thương nhiều, nhé anh?
          Vẻ nũng nịu trẻ con của Thi làm tôi như nhũn ra, Thi nói gì mà tôi có thể  không gật được chứ?
          Ông bà ta có câu “lửa gần rơm” quả không sai chút nào! Hai đứa chúng tôi trai đơn gái chiếc, lại ở bên nhau trong những hoàn cảnh và bối cảnh rất ư thuận lợi thế kia thì làm sao ngăn được ngọn lửa dục tình đang rừng rực cháy trong hai cơ thể? Dù có cố gắng giữ gìn cho nhau đến mấy nhưng cuối cùng cũng không thoát khỏi cái bản năng tự nhiên của con người mà ông trời đã đặt để.
          Một đêm, Thi vừa đến với tôi thì ngoài trời giông gió nổi lên rồi mây đen vần vũ, sấm chớp bắt đầu ì ầm và cuối cùng là một trận mưa xối xả. Trận mưa dai dẳng như muốn trút hết nước trên trời xuống cho nhân gian. Gió đập ầm ào, cây vú sữa bên hè ngả nghiêng chống chọi với những trận cuồng phong bão táp…
          Mặc gió mặc mưa, tôi không quan tâm tới. Thậm chí ngay lúc này có xảy ra đại hồng thủy đi nữa cũng là “chuyện nhỏ” đối với tôi. Trong vòng tay tôi lúc này là Thi, người con gái bé nhỏ mong manh mà tôi yêu như điên như dại, thì bên ngoài mưa bão tơi bời càng làm cho chúng tôi có cảm giác ấm áp hơn lên.
          Mấy lúc gần đây cơ thể Thi không còn giá lạnh như khi trước, không biết là do tôi đã quá quen thuộc nên cảm thấy như vậy hay do lửa tình đã sưởi ấm cho cô ấy?
          Đôi tay Thi vòng qua cổ tôi, cô nũng nịu:
          - Trời mưa như vầy làm sao em về được hả anh?
          Tôi đặt lên bờ môi cong cong thơ trẻ của Thi một nụ hôn nồng nàn, siết chặt cô vào lòng:
          - Đêm nay em ở lại đây với anh, anh không cho em về đâu…
          - Không… không được!
          Thi có vẻ hốt hoảng
          Lúc đó tôi không còn làm chủ được mình nữa rồi, mặc cho sự phản kháng yếu ớt của Thi, tôi tới tấp hôn lên thân thể cô, khám phá tận cùng bí mật tuyệt diệu của ái tình, của hai cơ thể…
          Đêm đó, bên ngọn đèn dầu leo lét chúng tôi đã thật sự là của nhau!
          Sau phát giây hoan lạc tột cùng, Thi bỗng khóc nức nở làm tôi cũng bối rối không ít.
          Tôi ôm lấy Thi:
          - Anh xin lỗi, đáng ra anh không nên… không nên hành động như vậy. Nhưng vì… anh thương em quá… Rồi đây anh sẽ cưới em, chúng mình trước sau gì cũng thành vợ chồng. Anh xin em tha lỗi cho anh…
          Gương mặt xinh đẹp của Thi giàn giụa nước mắt. Cô lắc đầu:
          - Không, không phải lỗi do anh! Em không ân hận, tiếc nuối gì khi hiến dâng đời con gái của mình cho người em hết dạ yêu thương. Chỉ là… em không muốn… em không muốn anh vì em mà phải hủy đi tương lai và hạnh phúc của bản thân mình…
          Tôi ngạc nhiên:
          - Sao em lại nói vậy? Anh yêu em và được em yêu lại, đó là niềm hạnh phúc lớn lao của đời anh. Sao em lại nói vì em anh sẽ hủy đi tương lai, hạnh phúc?
          Thi khóc òa lên, ôm chặt lấy tôi:
          - Anh không hiểu đâu… Anh không hiểu hết được đâu… Em thương anh lắm, yêu anh nhiều lắm… Nhưng đáng lẽ em không nên làm như vậy, đáng lẽ em không nên yêu anh…
          Cứ ngỡ Thi vì quá xúc động nên mới thốt ra những lời vô nghĩa như vậy, tôi không nói gì nữa mà chỉ ngồi lên, dang tay ôm chặt Thi vào lòng, ru cho cô ngủ.
          Thi khóc một lúc rồi ngủ thiếp đi trên tay tôi. Tôi nhẹ nhàng đặt Thi xuống giường, còn mình thì cứ ngồi đó ngắm nhìn cô ngủ.
          Hơi thở của Thi rất nhẹ. Thân hình mong manh của cô huyền hoặc như có như không, khiến tôi lắm lúc tự hỏi mình, thật sự có Thi, có mối tình cuồng nhiệt của chúng tôi thật không, hay tất cả chỉ là một giấc mộng, là một ước mơ siêu thực của một thằng con trai mới lớn muốn đặt chân vào vườn cấm của nhân gian? Mấy sợi tóc mai lòa xòa trên trán càng làm cho Thi tăng thêm vẻ đẹp liêu trai.
          Bỗng dưng trong giờ phút ấy, máu nghệ sĩ trong tôi bùng dậy. Tôi nhẹ nhàng đi tới bàn học lấy ra một tập giấy và cây bút chì và bắt đầu phát thảo bức ký họa chân dung người đẹp.
          Từ bé tôi đã có năng khiếu hội họa, lúc còn học phổ thông cũng đã giành được nhiều giải trong các cuộc thi vẽ các cấp. Nhưng lâu nay, ngoài vẽ những ảnh kỹ thuật trong chương trình học tập, tôi quên mất hẳn thói quen vẽ người và cảnh vật xung quanh.
          Không chuẩn bị trước dụng cụ, nên bức vẽ đầu tiên tôi vẽ Thi lên giấy học trò bằng nguyên liệu bút chì.
          Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, bức họa của tôi hoàn thành. Thi trong tranh cũng mang một điều gì đó thật bí ẩn như nguyên mẫu ngoài đời thật!
          Tôi hí hửng đem bức họa dán lên tường. Đến lúc thức dậy, Thi rất ngỡ ngàng và tỏ ra thích thú khi ngắm mình trong tranh. Trông thấy Thi vui như vậy, tôi vô cùng hạnh phúc.
          Vậy là hôm sau tôi chạy ngay ra chợ mua giấy, mua sơn, mua cọ… lỉnh kỉnh đủ thứ dụng cụ. Tôi quyết định nơi tôi sống phải tràn ngập hình bóng của Thi!
          Từ đó, mỗi đêm Thi đến, sau lúc tỉ tê tâm sự và hoan lạc cùng nhau, tôi vẽ Thi ở nhiều kiểu dáng. Ban ngày không có Thi, tôi lại vẽ Thi bằng trí nhớ.
          Không bao lâu, trên khắp các bức tường trong nhà đã được tôi treo kín hình vẽ của Thi.
          Nhưng Thi lại giận hờn tôi vì chuyện đó.
          - Anh Hải lo học hành với chứ! Nếu anh không lo học, em sẽ giận và sẽ không đến với anh nữa đâu! Em không muốn vì em mà anh phải dở dang việc học…
          Thi hờn dỗi.
          Tôi kéo Thi vào lòng, bàn tay tôi xoa nhẹ vào chỗ ba nốt ruồi son xếp thành một hình tam giác phía sau gáy của Thi.
          Có lần Thi nửa đùa nửa thật bảo tôi:
          - Ba nốt ruồi này sẽ là dấu tích để anh nhận ra em ở kiếp sau đó, anh phải ghi nhớ cho kỹ nhé!
          Tôi cười xòa:
          - Khắp thế gian này, chắc khó tìm ra người thứ hai có nốt ruồi đặc biệt như em! Yên tâm đi, nếu kiếp sau gặp lại người có ba nốt ruồi thế này, anh sẽ tóm ngay lấy, dứt khoát không buông tha.
          Thi bật cười, đấm vào lưng tôi thùm thụp.
          Lúc này, tôi vừa xoa tay lên nốt ruồi, vừa nói để Thi an lòng:
          - Anh hứa anh sẽ không bỏ bê việc học, em chịu chưa? Nếu chịu rồi thì cười một cái thật tươi xem nào?
          Thi phụng phịu:
          - Anh chỉ mới hứa, anh chưa thực hiện, em chưa chịu đâu…
          - Trời ơi, không ngờ bà xã tôi lại khó khăn như vậy, khổ thân tôi quá bà xã ơi…
          Tôi giả vờ than vãn. Hai má Thi hơi hồng lên mỗi khi nghe tôi gọi mình bằng hai tiếng “bà xã”.
          Suốt mấy tháng liền chúng tôi sống với nhau như vợ chồng. Mỗi ngày Thi đến với tôi từ lúc chập tối và ra về khi trời còn chưa sáng tỏ.
          Gắn bó với nhau đến mức độ đó rồi mà tôi vẫn chưa hiểu nhiều về Thi. Từ ngày chúng tôi có quan hệ xác thịt với nhau, tôi thấy Thi thường buồn bã, âu lo hơn trước, nhiều lần tôi cố gặng hỏi nhưng Thi chỉ rơm rớm nước mắt mà không chịu trả lời. Hình như Thi còn một điều gì đó bí mật lắm, chưa thể cho tôi biết được.
          Tôi yêu Thi đến mức gần như là mụ mị, tất cả những thái độ lạ lùng, những cử chỉ bí ẩn của cô đôi lúc tôi cũng có thắc mắc nhưng tôi lại không để tâm tìm hiểu đến tận cùng nguyên do, nó chỉ như một đám mây mờ thoáng qua trong đầu tôi rồi nhanh chóng tan biến đi theo làn gió. Tôi chỉ biết ngụp lặn trong tình yêu, trong thứ hạnh phúc ngất ngây tuyệt vời mà Thi đã dành riêng ban tặng cho tôi.
          Tôi quên đi gia đình, quên đi trường lớp.
          Việc học hành đối với tôi không còn quan trọng nữa, tôi đã xao lãng từ lâu! Nhưng tôi không bỏ học hẳn, tôi vẫn đến trường đều đặn, chỉ là tôi không còn chuyên tâm nữa. Mặc dù Thi luôn nhắc nhở, nhưng thật sự tôi không còn tâm trí nào để học hành.
          Tôi đã làm cho không ít thầy cô và bạn bè phải thất vọng.
           
          ***
          Nhìn thấy thân thể tôi ngày một gầy rộc đi, khí sắc hư hao và tinh thần thì ngơ ngẩn, đám bạn thân hết lời khuyên bảo tôi nên đi khám bác sĩ xem có mắc bệnh gì không để còn kịp thời chữa trị.
          Có đứa tâm lý hơn thì tế nhị hỏi tôi có gặp khó khăn vướng mắc gì trong chuyện tình cảm riêng tư hay gia đình, nếu có thì mạnh dạn giãi bày để bạn bè cùng chia sẻ, đừng giữ kín trong lòng, dễ gây ra các bệnh thuộc dạng rối loạn thần kinh…
          Ôi thôi, đủ mọi lời khuyên! Thật tình tôi cũng cảm kích và biết ơn bạn bè lắm, tôi rất muốn nói ra sự thật cho bạn bè yên tâm, nhưng tôi không thể hét to lên rằng: “Tao đang hạnh phúc!”. Bởi vì… Thi khăng khăng buộc tôi phải giữ thật kín mối quan hệ giữa hai người.
          Tôi cũng không biết tại sao cơ thể tôi cứ gầy rộc đi như thế? Hàng ngày tôi vẫn ăn ngủ bình thường chứ có gì khác đâu. Trước đây, có khi tôi thức học bài râùt khuya, ăn uống thì kham khổ, nhưng sức khỏe vẫn dồi dào. Bây giờ chỉ khác một điều là tôi có Thi bên cạnh, nhưng chúng tôi cũng chỉ quan hệ với nhau một cách vừa phải, nên không thể đổ lỗi cho việc đó được!
          Dạo này, mỗi bận gọi điện về nhà tôi cũng chỉ nói năm ba câu cho mẹ và chị yên lòng chứ không còn cái điệp khúc than thở nhớ nhung như trước nữa.
          Cuộc sống hạnh phúc của tôi và Thi cứ trôi qua êm đềm như thế được hơn nửa năm.
          Tôi bắt đầu nhận thấy thái độ bồn chồn, khổ sở của Thi mỗi đêm cô đến với tôi. Lần này thì tôi không thể cho qua được, tôi bắt buộc cô phải nói cho tôi biết sự việc quan trọng gì đang xảy ra khiến Thi trở nên bất ổn như vậy.
          Ban đầu Thi cũng chỉ khóc không thôi, nhưng cuối cùng cô nói thật rằng ba mẹ cô đã nhất định bắt buột cô phải nghỉ học, lần này dù cô có làm gì cũng không thay đổi được quyết định của họ, chỉ vài ngày nữa thôi ba Thi sẽ vô Sài Gòn để đón cô về.
          Đất trời có đổ sụp cũng không làm tôi bàng hoàng đến vậy! Trời ơi, chúng tôi đang sống những ngày nồng nàng hạnh phúc bên nhau, cớ sao ông trời lại khiến xui mỗi người một ngã? Làm sao hai đứa chúng tôi có thể sống xa nhau được?
          Đêm ấy tôi và Thi cùng khóc.
          Tôi đã vạch ra thật nhiều kế hoạch để được ở bên nhau, kể cả việc tôi chấp nhận bỏ học, về quê để cưới Thi ngay.
          Nhưng tất cả những gì tôi nói ra Thi đều lắc đầu. Thi bảo cô đã có lỗi nhiều với tôi, đáng ra cô không nên xuất hiện trong cuộc đời tôi, để cho tôi bình yên ăn học mà sau này báo hiếu cho gia đình, cô không thể đem tới hạnh phúc trọn vẹn cho tôi được, cô cũng không muốn nhìn thấy tương lai tôi bị hủy hoại…
          Đêm cuối cùng, tôi và Thi đã thức trắng bên nhau. Khi biết việc chia xa là điều không thay đổi được nữa, tôi đành phải chấp nhận, nhưng tôi hứa chắc chắn với Thi, tôi sẽ về thăm Thi thường xuyên, và sau khi ăn học thành tài, người tôi cưới làm vợ không ai khác ngoài Thi. Tôi chỉ cầu mong Thi hãy ráng chờ đợi tôi thêm vài năm nữa…
          Dù tôi có nói gì, có hứa hẹn ra sao Thi cũng không phản kháng, cô lặng lẽ lắng nghe rồi nói với tôi:
           
          - Nếu chúng mình thật sự có duyên nợ với nhau, chắc chắc sẽ còn gặp lại. Anh còn nhớ những gì em dặn anh không?
          Thấy tôi có vẻ ngơ ngác, Thi nhẹ nhàng cầm lấy tay tôi đặt vào chỗ có ba nốt ruồi sau gáy:
          - Anh nhớ nhé, đó là dấu tích để nhận ra em!
          Tôi nhìn Thi, cười như mếu:
          - Bây giờ là giờ phút nào rồi mà em còn lòng dạ đùa với anh như vậy? Em làm như khi về quê là mặt mày em biến đổi hoàn toàn khác hay sao mà bắt anh phải nhớ đến dấu tích đó?
          Nhưng Thi lại không giống như đang đùa giỡn, cô cười thật buồn, ôm ghì lấy tôi và thút thít khóc:
          - Chuyện gì cũng có thể xảy ra anh ạ! Anh cứ nhớ kỹ những lời em dặn nhé…
          Tôi gật đầu lia lịa:
          - Thôi được rồi, anh nhớ! Anh nhớ mà… em đừng khóc nữa… nhìn thấy khóc là lòng anh đau đớn lắm em có biết không?
          Thi dụi đầu vào ngực tôi nức nở.
          Tôi len lén lau vội giọt nước mắt đang rơi trên má mình, lòng quặn thắt từng cơn…
          Phút chia tay, Thi chỉ xin tôi cho cô giữ bức họa đầu tiên tôi vẽ cô trên trang giấy học trò.
          Tôi muốn đưa Thi ra xe, nhưng Thi bảo đã có ba tới đón. Cô không muốn cả hai phải thêm đau lòng trước cảnh kẻ ở người đi, vì thế, ngay cả việc đưa tiễn người yêu tôi cũng không có cơ hội để thực hiện.
          Ở con người mảnh khảnh của Thi luôn toát ra một sức mạnh mơ hồ nào đó mà tôi luôn là người bị khuất phục.
          Hôm đó tôi nằm nhà, nhìn ảnh Thi trên tường mà nước mắt không ngừng tuôn chảy…
          Thi vừa đi thì tối ấy người đàn ông trông nhà tới gặp tôi, đề nghị tôi chuyển đi nơi khác vì chủ nhà ở nước ngoài sắp về Việt Nam, ông phải thu xếp, dọn dẹp để đón họ.
          Tôi năn nỉ ông cho tôi ở lại thêm hai ngày nữa rồi sẽ chuyển đi. Ông cũng không khó dễ gì, đồng ý ngay và dặn tôi khi nào chuyển đi cứ để chìa khóa dưới chậu bông sứ ngoài hiên, khỏi phải chờ ông tới.
          Sở dĩ tôi muốn ở lại thêm hai ngày nữa là vì tôi hy vọng có thể Thi sẽ quay lại tìm tôi, chứ đâu phải vì đồ đạc nhiều quá mà tôi không chuyển đi kịp trong chốc lát.
          Nhưng hai ngày đã trôi qua mà Thi vẫn bặt vô âm tín. Điện thoại thì Thi tắt máy, Thi cũng chẳng điện cho tôi dù chỉ lấy một lần…
          Tôi buồn bã gỡ tất cả hình vẽ Thi trên tường xuống xếp cẩn thận vào rương hành lý. Thểu não quay trở về nhà trọ trong ánh mắt ngỡ ngàng của đám bạn thân.
          Tôi nghỉ học hai ngày, một mình lang thang trên phố muốn tìm lại kỷ niệm thân thương của hai đứa. Nhưng kỷ niệm của tôi và Thi ở giữa thành phố này chỉ diễn ra trong một phạm vi rất hẹp. Ban đầu là ghế đá công viên vắng vẻ, về sau là ngôi nhà cũ kỹ âm u.

          Chúng tôi chưa một lần đi ăn uống cùng nhau hoặc cùng nhau dạo phố. Tôi cũng chưa bao giờ được nhìn thấy Thi vào lúc ban ngày.
          Tại sao Thi lại bí ẩn đến như vậy?
          Tôi không biết, và tôi cũng không thể lý giải được!
          Ngày thứ hai tôi về sống ở phòng trọ thì có mấy đứa bạn tới thăm chơi. Tình cờ nhìn thấy tấm hình Thi dán ở đầu giường tôi, thằng Hiển reo lên:
          - Ơ, mầy cũng quen biết cô gái này sao? Thật tội nghiệp…
          Tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, hỏi lại:
          - Mầy nói ai?
          Thằng Hiển trỏ tay vào bức hình:
          - Có phải cô gái này tên Thi, học trường Sư phạm không?
          - Đúng, đúng rồi! Mầy biết Thi à?
          Tôi mừng quýnh.
          Hiển thở dài đánh thượt:
          - Thi là bạn học với em gái tao, có về nhà tao chơi mấy lầ nên tao quen. Đúng là hồng nhan bạc phận, người đẹp như vậy mà lại vắn số mới đáng thương chứ!
          Tôi té ngồi xuống giường, miệng lắp bắp:
          - Mầy… mầy nói sao? Thi… chết rồi à? Chết hôm nào?
          Nhận thấy vẻ thảng thốt nơi tôi, thằng Hiển trấn an:
          - Chuyện xảy ra cũng lâu rồi, mầy đừng sợ, đừng nghe nói Thi chết rồi lại sợ tấm hình này. Mà ai vẽ cũng tài thật, y như là hình chụp!
          - Mầy… làm ơn kể cho tao nghe về cái chết của Thi…
          Hiển có vẻ ngạc nhiên trước thái độ khẩn trương của tôi, nhưng nó cũng ngồi xuống cạnh tôi và bắt đầu kể:
          - Cách đây độ khoảng một năm, Thi cùng học năm nhất với em gái tao ở trường Sư phạm. Nghe đâu quê Thi ở Quảng Ngãi. Thi học giỏi, chăm ngoan nhưng thể chất lại yếu đuối, thường xuyên đau ốm.
          Nghỉ hè năm đó Thi về nhà giữa lúc bệnh còn chưa hết. Bạn bè khuyên ở nán lại thêm vài hôm nữa cho thật khỏe hãy về nhưng Thi không chịu, phần vì nhớ nhà, phần thấy bạn bè tíu tít về quê nên cô cũng nôn nao.
          Vậy là Thi quyết định về. Cơ thể còn đang yếu, cơn sốt cũng chưa dứt hẳn, lên xe Thi lại bị say xe, nôn mửa tới mật xanh nhưng cô vẫn nhất định ngồi cạnh cửa sổ và không chịu đóng cửa, vì Thi nói nếu đóng kín cửa cô sẽ nôn không chịu được.
          Đêm ấy, khi xe ra tới đoạn Phan Thiết hay Phan Rang gì đó tao không nhớ rõ thì Thi bị trúng gió độc, chết ngay trên xe. Lúc người ta phát hiện thì thân xác cô đã cứng đờ rồi.
          Chủ xe hoảng quá, dừng lại báo với chính quyền địa phương và gửi xác cô lại. Người ta lục tung hành lý của Thi để tìm tông tích, nhưng không may cho Thi, có lẽ chiếc ví đựng tiền và toàn bộ giấy tờ tùy thân của cô đã bị kẻ gian đánh cắp lúc nào rồi, bên hông giỏ xách của cô còn nguyên một đường rạch sắc ngọt được tạo ra bởi dao lam.
          Không tìm được thân nhân của cô gái, cũng không thể để mãi cái xác như thế nên bà con trong vùng và chính quyền địa phương mua cho cô một cỗ áo quan và an táng cô trên mảnh đất của một người dân tốt bụng đem tặng.
          Ở quê, gia đình Thi chờ mãi không thấy con gái về, điện thoại hỏi bạn bè Thi thì được biết cô đã về từ tuần trước.
          Tá hoả, cả gia đình, bạn bè đổ xô đi tìm kiếm. Hơn một tuần sau nữa gia đình Thi mới lần được ra nơi đó. Sau khi xem xét lại một số di vật của Thi mà chính quyền còn lưu giữ, xác định cô gái xấu số kia đúng là con của mình, người mẹ mấy phen chết đi sống lại, người cha như quỵ hẳn khi nghe kể về cái chết của con.
          Bình tĩnh lại, họ bàn với nhau không thể quật mồ đem xác con về quê được vì xác mới chôn chưa được bao lâu, thôi thì đành gởi con gái lại cho bà con quanh đây.
          Hai vợ chồng nghẹn ngào cảm ơn và đền đáp những tấm lòng nhân hậu ở đấy.
          Họ xây lại mồ mả, làm cho con gái một ngôi nhà mồ rồi gửi lại một số tiền, nhờ người sớm tối chăm lo đèn nhang nơi phần mộ. Một thời gian sau họ sẽ chuyển con gái về quê.
          Nhưng nghe đâu người cha của cô gái vì quá đau buồn nên cũng chết sau đó không lâu.
          Đó, toàn bộ câu chuyện là như vậy đó!
          Thằng Hiển vừa kết thúc câu chuyện, nhìn thấy tôi nó hoảng hốt la lên:
          - Trời ơi, Hải! Mầy bị làm sao vậy?
          Tôi vẫn ngồi im như trời trồng, hai hàm răng nghiến chặt vào môi, một dòng máu đỏ tươi chảy dài từ miệng xuống càm.
          Đám bạn xúm lại, đứa nào cũng ngạc nhiên lo sợ…
          Tôi ngồi ngây ra như vậy chừng mấy phút rồi bắt đầu gào lên thảm thiết.
          Tôi khóc, khóc mà không sợ ai cười chê thắc mắc, tôi chỉ biết khóc cho vơi bớt nỗi đau đang quằn quại trong lòng.
          Trời ơi, tại sao tôi lại lâm vào hoàn cảnh trớ trêu khó tin được như thế này? Tại sao người tôi hết dạ yêu thương lại chỉ là một hồn ma bóng quế?
          Đang khóc vật vã, tôi vùng dậy lấy điện thoại bấm số gọi cho Thi.
          - Số máy quý khách vừa gọi không có thực, xin quý khách vui lòng gọi lại sau!
          Đó là câu mà tôi nghe được từ đầu dây bên kia.
          Bàn tay run rẩy của tôi bấm tìm lại tin nhắn có ghi địa chỉ của Thi, nhưng thật bất ngờ, lúc này đây nó chỉ là một tin trắng, không có chữ nào!
          Tôi xoay qua lục tung chiếc rương, ôm ra toàn bộ số tranh tôi vẽ Thi, nhưng trước mắt tôi lúc này tất cả chỉ là những tờ giấy trắng, kể cả bức dán trên đầu giường mà lúc nãy rõ ràng Hiển đã trông thấy, giờ cũng chỉ là một tờ giấy trắng mà thôi!
          - Hải, mầy nói đi, chuyện này là thế nào?
          Tú lên tiếng trong khi mọi người vẫn còn há hốc miệng đứng trơ ra.
          Tôi giơ tay ôm chặt lấy đầu mình, rên rỉ:
          - Trời ơi… tao không ngờ… tao không sao ngờ được…
          Lúc bấy giờ Hiển đã bình tĩnh lại và có lẽ đã lờ mờ hiểu ra chuyện gì đã xảy đến với tôi.
          Nó nắm chặt vai tôi an ủi:
          - Mầy đừng quá xúc động như vậy! Dù là chuyện gì đi nữa thì giờ đây cũng đã qua hết rồi. Nhưng mầy phải kể cho tụi tao nghe, không phải tụi tao tò mò chuyện riêng của mầy đâu, mà là muốn giúp được mầy thì tụi tao phải biết điều gì đã xảy đến với mầy chứ? Và còn một điều quan trọng nữa, mầy phải giải tỏa hết những u uất trong lòng thì mầy mới có cơ hội làm lại cuộc đời được, Hải ạ! Chúng mình là bạn thân bao năm nay, mầy phải tin tụi tao…
          Tôi miết mạnh tay vào hai bên thái dương hồi lâu đầu óc mới thôi chao đảo.
          Vết răng cắn trên môi tôi sâu hoắm, máu vẫn còn ri rỉ chảy ra nhưng tôi không còn cảm giác đau xót gì nơi đó, bởi vì lúc ấy trong cơ thể tôi, có một chỗ đang đau đớn gấp vạn lần, đó là trái tim tôi, trái tim tội nghiệp của tôi đang vỡ ra thành từng mảnh vụn…
          Nước mắt vẫn lăn dài, tôi vẫn khóc như một thằng đàn ông yếu đuối.
          Tôn trọng nỗi đau của tôi, mấy đứa bạn cũng không hỏi gì thêm nữa, chúng chỉ lặng lẽ ngồi xuống cạnh bên tôi.
          Khóc một hồi nỗi đau dường như đã có phần lắng dịu. Tôi đứng lên đi rửa mặt, hỏi xin thằng Tú một điếu thuốc, dù trước đây tôi chưa từng hút bao giờ.
          Thằng Tú ngạc nhiên, nhưng nhìn thấy ánh mắt ra hiệu của Hiển, nó bật quẹt mồi điếu thuốc và đưa cho tôi.
          Rít mạnh một hơi, tôi ho sặc sụa, nước mắt, nước mũi, nước miếng trào ra làm tụi bạn lại thêm một phen lo lắng.
          Nhưng rồi tôi đã bình tĩnh. Tôi lau mặt mũi, dụi tắt điếu thuốc nhưng vẫn cầm nó nơi tay, tôi bắt đầu kể cho đám bạn nghe về cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa tôi với Thi, về những cuộc hẹn hò và những tháng ngày chúng tôi chung sống bên nhau.
          Một vài đứa bạn rùng mình, nhưng có đứa cũng bán tín bán nghi:
          - Chuyện mầy vừa kể là thật hay là sản phẩm của trí tưởng tượng? Thời gian gần đây tao thấy mầy giống như người bị tâm thần, có khi nào mầy… ảo tưởng?
          Tôi nhếch mép, cố rặn một nụ cười khổ sở:
          - Tao ước gì tất cả chỉ là do tao tưởng tượng… Nhưng tụi mầy giải thích sao đây với đống tranh này? Cho là những bức vẽ tao để trong rương tụi bây không đứa nào biết thật giả thế nào đi, nhưng đây này, bức vẽ này tao dán lên từ hôm qua, có đứa nào chưa nhìn thấy không? Cả thằng Hiển mới tới phòng chơi mà cũng đã nhìn thấy và nhận ra người trong tranh là Thi. Bây giờ thì người trong tranh đi đâu, hình vẽ biến mất bằng cách nào? Mầy làm ơn lý giải giùm tao đi…
          Sự thật đã quá sức rõ ràng, nên mặc dù câu chuyện tình yêu của tôi và Thi có sặc mùi tiểu thuyết liêu trai của Bồ Tùng Linh đi nữa, cuối cùng đám bạn cũng tin những gì tôi nói là thực.
          Thằng Tú là đứa nhát gan và tin dị đoan nhất trong đám bạn. Nghe xong câu chuyện nó thì thầm:
          - Hèn gì mấy lúc sau này mầy trở nên gầy mòn hốc hác như vậy! Mầy chung sống với ma, dương khí của mầy bị nó hút dần, cũng may là mầy vẫn còn sống vì con yêu tinh đó sớm rời bỏ mầy, chứ nếu không… chắc chỉ vài tháng nữa là mầy chỉ còn lại bộ xương. Con đó ghê thiệt! Mầy…
          Mấy đứa bạn không ngừng ra hiệu nhưng thằng Tú không nhận thấy, nó cứ vô tư phát biểu.
          Từng lời nói của nó giống như từng mũi dao đang chỉa mạnh và xoáy vào trái tim đang tơi tả của tôi.
          - Mầy câm miệng đi!
          Không chịu đựng nỗi, tôi hét lên.
          Thằng Tú nín khe, dáo dác nhìn quanh mong tìm sự đồng tình của mấy đứa còn lại, nhưng đứa nào cũng nhìn nó với vẻ trách móc khiến nó trở nên bối rối, cụp mắt xuống, không dám nhìn vào tôi nữa.
          Tôi run run nắm chặt hai bàn tay mình lại:
          - Tao vẫn yêu Thi! Cho dù Thi có là ai đi nữa, có là yêu tinh quỷ quái gì đi nữa thì tình yêu tao dành cho Thi vẫn không gì thay thế được! Tao không ân hận, hoàn toàn không ân hận gì về những ngày tháng đã qua. Nếu được chọn lựa, tao vẫn sẽ chọn được chung sống trọn đời bên một hồn ma bóng quế như Thi…
          Biết tôi đang xúc động mạnh, Hiển vỗ nhẹ vào lưng tôi:
          - Mầy đừng quá kích động như vậy, không tốt đâu. Mầy nên bình tĩnh lại để suy nghĩ cho rốt ráo mọi việc. Tụi tao là người ngoài nên có thể có cái nhìn sáng suốt, khách quan hơn người trong cuộc. Bây giờ mầy bình tĩnh nghe tao phân tích nhé?
          Thấy tôi không có phản ứng gì, thằng Hiển tiếp:
          - Này nhé, theo lời mầy kể thì Thi cũng rất yêu mầy, đúng không?
           Tôi khẽ gật.
          Hiển nói tiếp:
          - Thi yêu mầy, thế thì tại sao cô ấy lại quyết định rời xa mầy? Điều cốt yếu là ở chỗ đó! Mầy kể trong thời gian sống với nhau, Thi luôn tỏ ra dằn vặt khi thấy sức khỏe và việc học hành của mầy sa sút, Thi nhiều lần khóc lóc nói rằng có lỗi với mầy, đúng không?
          Hiển nhìn thẳng vào tôi.
          Tôi lại gật đầu.
          - Đấy! Theo tao, chính vì quá thương yêu mầy nên cô ấy mới có quyết định lìa xa. Bởi vì… như thằng Tú nói lúc nãy, người và ma thuộc về hai thế giới khác nhau, khó có thể nào hòa hợp được.
          Kẻ âm người dương thì làm sao xây dựng được một hạnh phúc lâu bền, một gia đình yên ấm? Nếu đã có ma, tất nhiên phải có cõi âm và những luật lệ riêng ở đấy.
          Trước đây, khi nghe kể chuyện ma, chúng ta chỉ xem đó là những câu chuyện giải khuây, hù doạ, nhưng bây giờ, đứng trước hoàn cảnh của mầy, tao lại nhớ rõ mồn một những chuyện kể thời thơ ấu.
          Ở trong những câu chuyện ấy, bao giờ cũng vậy, nếu người và ma sống chung thì con người dần dần sẽ suy kiệt vì dương khí mất đi, âm khí nặng nề.
          Chính bản thân mầy ngay lúc này đây là một bằng chứng cụ thể. Mầy đã soi gương chưa? Mầy có nhìn thấy trên mặt mầy đã mất dần sinh khí rồi không?
          Có lẽ Thi đã biết hết những điều đó. Thi biết, nếu tiếp tục chung sống với mầy, vui vẻ với mầy thêm một thời gian ngắn nữa thì mầy cũng sẽ trở thành một bóng ma vật vờ trên dương thế, thế cho nên cô ấy mới chọn con đường đó.
          Nếu thật sự mầy yêu thương cô ấy, muốn cho linh hồn cô ấy được nhẹ nhõm thì theo tao, mầy phải cố gắng vượt qua cú sốc này, biết rằng sẽ khó khăn lắm đây, nhưng mầy phải vượt qua, và tụi tao sẵn sàng giúp mầy mọi lúc mọi nơi. Mầy phải vượt qua vì chính bản thân mầy, vì gia đình mầy và vì Thi nữa. Mầy phải lấy lại sức khỏe, học hành đàng hoàng trở lại… có như vậy Thi mới có thể an lòng…
          Những lời thằng Hiển nói không sai, nhưng có vượt qua được thử thách hay không còn là điều không sao biết trước được.
          Vì lúc này trong tôi hoàn toàn rã rời, hoàn toàn mất hết ý chí. Tôi chỉ muốn được khép mắt lại, ngủ một giấc ngủ thiên thu không bao giờ thức dậy nữa…
          Nhưng tôi biết, tôi không có quyền hành động như vậy! Tôi là niềm vui, là hy vọng của cả gia đình, các chị tôi hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình để lo cho tôi ăn học, thì dẫu tôi có yêu Thi tha thiết tới đâu, tôi cũng không có quyền hủy hoại thân xác mình!
          Tôi phải sống, dẫu trọn kiếp này không bao giờ tôi còn gặp lại Thi…
          Nhìn qua từng gương mặt đang lo lắng vây quanh, tôi thấy mình thật có lỗi với chúng nó.
          Gượng nở một nụ cười, tôi nắm chặt tay thằng Hiển, thằng Tú:
          - Cám ơn tụi bây! Tao rất cảm ơn tụi bây đã không bỏ rơi tao, không xa lánh tao trong những lúc tao hụt hẫng như thế này… Tao sẽ cố gắng, tụi bây yên tâm đi, tao sẽ cố gắng…
          Thằng Tú nhìn tôi, mắt nó cũng đang ngân ngấn nước:
          - Ừ, mầy nói vậy mới phải chứ! Không được ngã quỵ đâu đấy! Mà dù cho mầy có ngã quỵ thì đã có tụi tao xốc mầy đứng lên, dìu mầy đi tiếp, không có gì phải sợ!
          Sau câu nói chí tình của thằng Tú, mấy đứa chúng tôi cùng khoác tay nhau, mỉm cười trong màn nước mắt.
           
          ***
          Thấy tôi xin phép nghỉ học mấy ngày, tụi bạn nhìn tôi lo lắng.
          Tôi mỉm cười:
          - Tụi bây yên tâm đi, tao không sao đâu! Tao hiểu ra rồi! Tụi bây hãy tin ở tao…
          Tụi nó không đứa nào nói gì, nhưng đứa nào cũng nắm tay tôi rất chặt như muốn nói với tôi rằng, bất cứ lúc nào nếu tôi cần là tụi nó sẽ có mặt bên cạnh tôi. Tôi mỉm cười gật đầu mà khóe mắt cay cay…
          Tôi đi chuyến xe sớm nên khi ra tới quãng đường dạo trước xe bị hư chỉ vào khoảng tám, chín giờ sáng.
          Tôi xuống xe, đi bộ một đoạn, mắt luôn nhìn về phía cánh đồng để tìm ra ngôi nhà mồ đêm hôm ấy.
          Cánh đồng vừa mới gặt xong, chỉ còn trơ lại gốc rạ.
          Và kia, ngôi nhà mồ vẫn đứng trơ vơ trên con đường hai bên mọc toàn cỏ, cao đến gối người.
          Lòng tôi lại quặn lên, nhưng tôi cắn chặt răng đè nén tình cảm đang dâng trào trong lồng ngực.
          Tôi phải cứng rắn, tôi không được gục ngã. Tôi phải làm cho Thi được an lòng nơi chín suối…
          Đẩy nhẹ cánh cổng nhà mồ chỉ khép hờ tôi bước vào trong. Tất cả vẫn y nguyên giống như cảnh vật mấy tháng trước.
          Nhìn lên tường, đập vào mắt tôi là dòng chữ: TRƯƠNG THỊ MAI THI. Vậy mà không hiểu sao đêm hôm ấy tôi chỉ thấy đúng ba chữ TRƯƠNG THỊ MAI? Có lẽ tất cả những điều đó là do Thi, Thi không muốn tôi phải hoang mang liên tưởng.
          Ngồi xuống bên ngôi mộ, nhìn thấy nhang đèn để sẵn nơi đó, tôi vội thắp chi Thi ba nén nhang và lâm râm khấn vái:
          - Thi ơi, kiếp này mình không được sống bên nhau như mong ước, anh nguyện kiếp sau sẽ tìm lại em, chúng ta sẽ nối tiếp sợi tơ duyên dang dở… Em yên lòng… em yên lòng đi, anh sẽ không sao đâu, anh sẽ vượt qua được, em đừng lo lắng gì cho anh thêm nữa em nhé! Anh cảm ơn em đã cho anh những ngày hạnh phúc đã qua, dù hạnh phúc đó thật ngắn ngủi, nhưng cả đời này cũng sẽ không quên… Thi ơi…
          Tôi không muốn khóc, tôi sợ Thi đau lòng, nhưng mà… nước mắt tôi vẫn cứ lăn dài trên mặt.
          Tôi quỳ xuống, dang tay ôm lấy ngôi mộ mà tưởng như mình có thể ôm lấy thân hình bé bỏng của Thi.
          Một người đàn ông đi ngang qua, bất ngờ trông thấy tôi có những cử chỉ lạ lùng bên trong nhà mồ, ông ghé vào hỏi:
          - Chú em đây là…
          Tôi vội vã đứng lên, nhanh tay lau mắt:
          - Dạ… cháu là bạn của Thi. Hôm nay cháu đến thăm Thi.
          Nét mặt người đàn ông giãn ra. Ông nhìn tôi nói:
          - Thì ra cậu là bạn với cháu gái nằm đây! Thật tội nghiệp. Từ hồi chôn cất tới nay, ngoài cha mẹ cổ, chỉ có cháu là người bạn đầu tiên đến thăm thôi đấy! Mà cũng không trách được, xa xôi quá…
          - Mà nè, nếu chú đoán không nhầm, cháu gái nằm đây là một người bạn rất quan trọng của cháu, phải không?
          Tôi buồn bã gật đầu, buồn bã:
          - Dạ, nếu Thi còn sống, cô ấy sẽ là vợ cháu… mà không, cháu dã xem cô ấy là vợ cháu từ lâu…
          Người đàn ông ngạc nhiên:
          - Ủa, nói vậy… Mà sao mãi đến hôm nay cậu mới tìm tới đây thăm cô ấy! Tội nghịêp cô ấy biết bao…
          Tôi lúng túng, không biết phải giải thích sao với người đàn ông, cuối cùng đành phải nói trớ:
          - Dạ… tại cháu ở xa, gia đình giấu không cho cháu biết. Mãi đến mấy vừa rồi cháu mới hay tin…
          Người đàn ông gật gù:
          - Ừ, ra vậy! Thôi, cháu thắp nhang rồi vô nhà chú uống ly nước. Nhà chú cũng ở gần đây. Gia đình cháu gái này nhờ chú chăm sóc mộ phần đấy cháu ạ! Tội nghịêp, hoàn cảnh của các cháu thật tội…
          Tôi gật đầu với người đàn ông:
          - Dạ, cháu cảm ơn chú! Cảm ơn vì chú đã giúp cháu và gia đình chăm sóc mộ phần của em Thi. Công ơn đó, cháu nguyền sẽ ghi khắc trong dạ. Nhưng hôm nay cháu còn phải về quê, xin hẹn chú dịp khác cháu sẽ đến nhà thăm chú cùng gia đình. Cháu xin phép…
          Tôi cúi chào người đàn ông, một lần nữa nhìn lại mộ phần của Thi rồi cất bước trở ra đường.
          Người đàn ông đứng nhìn theo, chắc cũng buồn lây trước cảnh tình của hai đứa trẻ.
          Ra tới đường lộ, tôi hướng về mộ Thi khẽ nói:
          - Tạm biệt em, Thi nhé!
          Vẫy tay đón một chiếc xe đò, tôi leo lên ngồi và bắt đầu gà gật ngủ. Tâm trí tôi trôi miên man vào những giấc mơ lộn xộn, mà giấc mơ nào tôi cũng gặp được Thi.
          Vừa thấy tôi bước chân vô sân nhà, mẹ và các chị tôi cứ tròn mắt ra nhìn giống như bắt gặp một người từ hành tinh xa lạ nào mới tới vậy.
          Cuối cùng, mẹ tôi là người òa lên khóc trước:
          - Trời ơi… con trai của mẹ! Sao mà con lại ra nông nỗi này… Ốm đau bệnh hoạn gì sao không nhắn về nhà một tiếng hả con? Thật tội cho thằng con trai vàng ngọc của mẹ… hu... hu…
          Tiếng khóc của mẹ tôi như hiệu lệnh của người nhạc trưởng mà các chị tôi là những nhạc công. Cả năm người vừa sụt sịt, vừa thút thít, vừa xoắn lấy tôi làm cho tôi thấy mình vô cùng tội lỗi.
          Tôi phải nói dối là do bài vở nhiều quá, tôi thức nhiều nên người có ốm đi đôi chút, nhưng sức khỏe vẫn dồi dào, không có gì đáng để mọi người phải “khóc kể” như vậy.
          Và để chứng minh cho cái “sức khỏe dồi dào” ấy, chiều đó tôi đã gánh liền một mạch mấy đôi nước khiến cho chị cả tôi xót cả ruột, phải giằng lấy chiếc đòn gánh trên vai tôi, doạ sẽ không thèm quan tâm tới tôi nữa nếu tôi cứ mãi cứng đầu, đến lúc ấy tôi mới chịu thôi.
          Hôm sau tôi xin phép gia đình đi công việc, nhưng thật ra tôi tìm tới nhà Thi. Mặc dù dòng địa chỉ trong tin nhắn không còn nữa nhưng mãi mãi nó vẫn còn ghi khắc trong trí óc của tôi.
          Nhà Thi cách nhà tôi hơn bốn mươi cây số, cũng nằm dọc theo quốc lộ nên cũng rất tiện đường. Chỉ hơn một tiếng đồng hồ là tôi tới nơi.
          Thấy tôi lấp ló trước cổng, từ trong nhà một người phụ nữ đi ra.
          Có lẽ đây là mẹ của Thi vì trông hai người có nhiều nét giống nhau. Ngỡ ngàng khi nhận thấy người lạ, người đàn bà chưa kịp cất tiếng tôi vội chào:
          - Dạ thưa bác, bác cho cháu hỏi thăm, đây có phải là nhà Thi không ạ?
          - Cháu là bạn của Thi?
          Người đàn bà tò mò hỏi.
          Tôi đáp:
          - Dạ. Cháu là bạn của Thi. Cháu đến đây xin phép được thắp cho Thi nén nhang…
          Người đàn bà rưng rưng nước mắt mở cổng mời tôi vào nhà.
          Ngôi nhà tuy không lớn lắm nhưng trông rất khang trang, ngăn nắp.
          Ở giữa nhà là hai chiếc bàn thờ kề bên nhau. Một chiếc để ảnh người đàn ông, đúng là người mà tôi đã “gặp” trên chuyến xe đêm ấy, và một chiếc bàn thờ dành cho Thi.
          Trên bàn thờ Thi, ngoài bức ảnh chụp bán thân Thi đang cười thật tươi, cạnh bên còn có một bức vẽ bằng bút chì trên tờ giấy học trò, bức họa do chính tay tôi vẽ Thi trong một đêm mưa to gió lớn…
          - Thưa bác, bức vẽ này…
          Sau khi thắp nhang cho Thi, tôi giả vờ hỏi đến bức vẽ.
          Mẹ Thi buồn bã cất tiếng:
          - Bác cũng không rõ ai vẽ nó nữa cháu ạ! Mới mấy hôm trước, tình cờ bác bắt gặp bức vẽ đó trên chồng tập vở của Thi còn để lại, nên bác lấy để lên bàn thờ cho em nó vui. Mà cũng lạ, hồi Thi mới mất, bác đã soạn rất kỹ đồ đạc của Thi mà không thấy bức vẽ này, bỗng nhiên nó lại xuất hiện một cách thật khó hiểu.
          Tôi muốn nói cho bác ấy biết tôi chính là tác giả và hoàn cảnh ra đời của bức vẽ đó. Nhưng thôi, nói ra càng thêm đau lòng người làm mẹ như bà…
          Cũng vẫn với danh nghĩa là một người bạn của Thi nhưng ở xa nên không hay chuyện tai nạn của Thi, tôi được mẹ Thi kể lại chuyện không may của con gái, cũng không khác mấy so với câu chuyện tôi đã được nghe Hiển kể hôm rồi.
          Bà vừa kể, vừa khóc. Chưa tròn một năm mà người đàn bà này phải chịu đến hai cái tang, một của con gái và một của chồng, bà không ngã quỵ cũng đã là may mắn lắm!
          Ngồi nói chuyện với mẹ Thi nhưng mắt tôi luôn nhìn về phía bàn thờ, nơi có tấm ảnh Thi cười tươi rói. Tôi chỉ muốn ôm lấy tấm ảnh đó, dặt vào đôi môi tươi thắm kia những chiếc hôn nóng bỏng của những ngày nhớ nhung khốn khổ.
          Nhưng không… tôi không thể làm chuyện đó trước mặt mẹ Thi. Tình yêu tôi dành cho Thi giờ đây tôi chỉ có thể chôn chặt trong lòng. Mãi mãi, tôi không còn cơ hội để ôm hôn Thi, để tâm tình với Thi được nữa… Mãi mãi, phải không em?...
          Khi chân tôi bước ra khỏi cổng nhà Thi, tôi đã xác định câu chuyện tình yêu âm dương của tôi và Thi là hoàn toàn có thật, không còn chút nghi ngờ nào cả!
          Và cả việc không bao giờ tôi còn có thể gặp lại Thi cũng là có thật, không còn gì để mà hy vọng hão huyền nữa…
          Mấy ngày ở nhà, được sự chăm sóc tận tình của… “năm vú em” tận tụy, sức khỏe tôi đã hồi phục, da dẻ tôi đã đỏ đắn hồng hào chứ không còn nhợt nhạt như hôm mới về nữa.
          Tôi lại trở vào Sài Gòn. Lần này ngoài ba giỏ thức ăn dành cho tôi bồi bổ, hành lý tôi mang vác theo còn là hàng trăm lời dặn dò của “ngũ nương”…
          Tôi trở về trường, làm lại một đứa học trò chăm ngoan dạo trước. Tuy nhiên học kỳ đó tôi cũng bị thi lại hai môn.
          Không sao! Tôi sẽ làm lại từ đầu.
          Thời gian đầu đám bạn thân luôn quan tâm lo lắng cho tôi, nhưng về sau bọn nó thấy tôi có vẻ khá vững vàng nên cũng yên tâm không còn lo lắng cho tôi nữa.
          Trước mắt mọi người, tôi đã trở lại là thằng Hải của những năm học trước!
          Nhưng tận sâu trong đáy lòng tôi, nỗi nhớ về Thi vẫn không ngừng âm ỉ. Đêm ngủ, thỉnh thoảng tôi vẫn mơ gặp Thi, Thi cười với tôi, cười rất tươi, giống hệt như tấm ảnh thờ ở nhà Thi vậy!
          Em đã yên tâm về anh rồi, phải không Thi? Tôi vẫn thầm hỏi cô câu đó, nhưng mãi mãi, làm sao tôi còn nghe được tiếng trả lời…
           
          ***
          Khi tôi tốt nghiệp ra trường, về nhận công tác tại tỉnh nhà, mẹ giục tôi cưới vợ.
          - Con trai lớn rồi, lo mà cưới vợ đi để có người lo cho mẹ. Có như thế các chị con mới yên tâm đi xây dựng gia đình riêng của chúng nó. Con mà cứ lừng khừng hoài, các chị con đến thành bà cô già mất!
          Ban đầu tôi còn khất dần, nhưng càng về sau cả mẹ và các chị đều thúc bách nên tôi đồng ý:
          - Mẹ cứ xem cô nào mẹ vừa ý thì hỏi cưới cho con.
          Nghe tôi nói vậy “ngũ long công chúa” tròn xoe mắt:
          - Thế ra suốt những năm đi học, con chưa quen ai à?
          Tôi cười, lắc đầu.
          Mẹ tôi mừng rỡ:
          - Thế thì may quá! Từ lâu mẹ đã chấm con gái bà bạn ở làng bên, nhưng chỉ sợ con đã có bạn gái nên đâu dám nói gì. Vậy ngay ngày mai, mẹ sẽ nhờ người đánh tiếng cho người ta, con nhé?
          - Tùy mẹ, con thì sao cũng được!
          Mẹ không hài lòng lắm với câu trả lời có vẻ hờ hững của tôi. Nhưng dù sao vẫn đỡ hơn là tôi cứ khăng khăng không chịu lấy vợ.
          Sau đó không lâu đám cưới của tôi được tổ chức.
          Vợ tôi là Hiếu, cô giáo dạy cấp một trường làng.
          Hiếu tuy không đẹp lắm nhưng rất có duyên, tính tình lại nhu mì, chịu thương chịu khó. Về sống cùng với một lúc bốn “bà cô” nhà chồng nhưng Hiếu chưa bao giờ làm mất lòng ai, chưa xích mích với ai.
          Mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu, chị chồng em dâu luôn êm thấm. Điều đó làm cho tôi ngày càng thương Hiếu.
          Tôi cưới vợ đầu năm, đến cuối năm Hiếu sinh cho tôi một thằng con trai bụ bẫm, giống tôi như hai giọt nước. Hạnh phúc gia đình tôi như được nhân lên từ khi thằng bé chào đời.
          Rồi các chị tôi lần lượt đi lấy chồng và mẹ tôi qua đời chỉ sau một trận cảm sốt thông thường khiến cả nhà tôi chới với.
          Những lúc đó Hiếu chính là chỗ dựa cho tôi.
          Ngay ngày đầu tiên về làm vợ tôi, Hiếu biết tôi không yêu cô, nhưng Hiếu vẫn dành cho tôi trọn vẹn tình yêu của người vợ đối với chồng, Hiếu luôn tôn trọng tôi và tôi cũng luôn tôn trọng Hiếu.
          Hiếu là một cô gái tốt. Tôi vẫn luôn muốn dành cho Hiếu tình yêu nồng thắm nhưng… dù có cố gắng đến đâu, thì tình cảm tôi dành cho Hiếu vẫn chỉ là tình thương và lòng mến phục.
          Có lần Hiếu hỏi tôi:
          - Trước khi cưới em, anh Hải từng có một tình yêu sâu sắc với người nào đó phải không?
          - Đúng… anh đã yêu… nhưng cô ấy… cô ấy qua đời rồi…
          Tôi chỉ trả lời như vậy, nhưng từ đó Hiếu không hỏi gì tôi về những mối quan hệ trước hôn nhân, cũng không đề cập đến chuyện tình yêu chồng vợ nữa.
          Hiếu cam tâm sống bên cạnh một người chồng không hề yêu cô.
          Nhưng bù lại, tôi rất có trách nhiệm với gia đình, tôi không làm gì có lỗi với Hiếu. Có lẽ đó chính là điều an ủi duy nhất của Hiếu suốt những tháng ngày sống đời vợ chồng với tôi.
          Vì công việc làm ăn, gia đình tôi phải từ giã quê hương, chuyển vào sinh sống tại Sài Gòn.
          Công việc của tôi ngày càng phát triển tốt đẹp. Con trai của chúng tôi khỏe mạnh, chăm ngoan và học giỏi. Hiếu luôn làm tròn bổn phận của một người vợ, người mẹ đảm đang.
          Cuộc sống gia đình tôi đáng để bao người mơ ước.
          Nhưng dù đã bao nhiêu năm trôi qua, trong lòng tôi vẫn sống mãi tình yêu đầu đời, tôi vẫn luôn nhớ tới Thi!
          Có những đêm, ôm Hiếu trong tay, bày tay tôi lại vô thức sờ vào gáy cô ấy, ước ao sẽ chạm được vào ba nốt ruồi xếp thành hình tam giác ngày xưa…
          Rồi con trai tôi lớn lên, sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông, vợ chồng tôi cho nó ra nước ngoài du học.
          Nhà vắng con, Hiếu có vẻ buồn nhiều. Tôi thương cô ấy nên tranh thủ những ngày nghỉ đưa Hiếu đi tham quan du lịch khắp nơi.
          Sinh ra và lớn lên trong một làng quê nghèo miền Trung, cuộc sống của Hiếu lâu nay chỉ gắn với mảnh đất khô cằn nghèo khó, chỉ quanh quẩn với gia đình nhỏ của mình. Thế giới bên ngoài là điều hoàn toàn xa lạ đối với cô.
          Bởi thế, khi được tôi đưa đi đây đi đó, Hiếu rất vui và tôi cũng cảm thấy lòng mình phần nào vơi đi nỗi niềm ray rứt.
          Còn Hiếu, tội nghiệp cô ấy! Chắc có lẽ Hiếu nghĩ sau nhiều năm chồng vợ, đến lúc này tôi đã có được tình yêu với cô. Những ngày tháng đó Hiếu hạnh phúc lắm, nhìn cô như trẻ hẳn ra.
          Tôi cũng muốn muốn Hiếu vui, nên càng tỏ ra quan tâm cô hơn nữa. Tôi cố quên Thi để yêu thương Hiếu, nhưng tình yêu lại là một thứ không tuân theo ý muốn của mình. Hình bóng Thi vẫn mãi chập chờn trong tâm trí tôi, thì làm sao trái tim tôi còn chỗ nào cho Hiếu.
          - Sau cùng rồi em cũng có được tình yêu của anh, em thật hạnh phúc! Em không tiếc gì những năm tháng đã qua… Được anh yêu, dù chỉ một ngày là em cũng đã cảm thấy mãn nguyện lắm rồi…
          Hiếu thầm thì với tôi như vậy. Tôi lặng im ôm cô ấy vào lòng.
          Sự thật thế nào thì cứ để một mình tôi biết, đừng làm cô ấy mất vui. Hãy để Hiếu hạnh phúc trọn vẹn nửa đời còn lại…
          Hiếu và tôi đều cảm thấy bằng lòng với hạnh phúc mà mình đang có.
          Nhưng có lẽ kiếp trước tôi gây ra nhiều điều lầm lỗi, nên kiếp này con đường tình cảm, hạnh phúc riêng tư của tôi không được xuôi chèo mát mái, không được bằng phẳng êm đềm như người khác.
          Cuộc sống vợ chồng giữa tôi và Hiếu tuy chỉ có tình yêu từ một phía, nhưng nó cũng đã đi qua một chặng đường dài hơn hai mươi năm, khoảng thời gian không phải là ngắn ngủi của một đời người. Tôi thầm mong nó cứ bình lặng mãi như thế.
          Nhưng hai năm sau đó thì Hiếu mất. Cũng giống như mẹ tôi năm xưa, Hiếu mất chỉ sau một trận cảm xoàng.
          Tôi vô cùng đau đớn và ân hận.
          Con trai tôi từ nước ngoài về chịu tang mẹ xong lại ra đi.
          Trước khi đi, nó nói với tôi:
          - Con đi xa thật không yên lòng chút nào, vì bỏ ba ở lại một mình nơi đây. Số phần mẹ con ngắn ngủi, ba đừng quá đau buồn. Rồi đây ba hãy tìm lấy một người để cùng ba bầu bạn, được như vậy con mới yên tâm, và có lẽ mẹ cũng yên tâm nhắm mắt.
          Nghe những lời của con trai, tôi càng nhớ Hiếu nhiều hơn. Cảm ơn em, vì em đã sinh ra, nuôi nấng và dạy dỗ con trai chúng ta nên người như thế!
          Tôi lại bắt đầu sống kiếp độc thân khi ở vào lứa tuổi sắp chạm nấc năm mươi.
          Bốn mươi tám tuổi, mái tóc trên đầu đã chớm vài sợi bạc nhưng tình yêu đầu đời trong tôi vẫn giữ mãi nét thanh xuân.
          Có những chiều buồn, tôi cho xe chạy thật chậm qua lối cũ mà tưởng nhớ về những ngày tháng xa xăm.
          Công viên nhỏ năm nào giờ đã được sửa sang và nới rộng. Ngôi nhà âm u, nơi một thời từng là thiên đường hạnh phúc của tôi giờ đây biến mất, thay vào đó là một ngôi nhà cao tầng sang trọng.
          Cảnh cũ không còn và người xưa từ lâu mất dạng.
          Ngoài những phút giây tưởng niệm đó, tôi dồn hết tâm trí của mình vào công việc làm ăn ở công ty.
          Tôi không có thói quen rựơu chè, cờ bạc, cũng không có một thứ đam mê thời thượng nào.
          Thấy tôi góa vợ, không ít người muốn rủ rê tôi tìm vui ở những quán bar, những vũ trường, hoặc những địa chỉ tươi mát có em út sẵn sàng phục vụ từ A tới Z. Nhưng tôi đều từ chối.
          Tôi giải trí bằng các chương trình trên ti vi và những bài hát Trịnh Công Sơn mà tôi yêu thích, thi thoảng bày ra bàn cờ tướng, làm vài ván với bạn bè cũng đủ giải khuây…
          Tôi chẳng còn mơ ước gì nữa, chỉ mong đi hết quãng đường còn lại của đời  mình một cách lặng lẽ, bình yên như thế.
          ***
          Vừa băng qua ngã tư, tôi đâm sầm vào một chiếc xe đạp đi ngược chiều làm chiếc xe và cả cô gái ngồi trên ngã nhào xuống đất.
          Tôi vội vã dừng xe chạy đến. Cô gái cồm cồm ngồi dậy, gương mặt nhăn nhó vì đau đớn.
          - Cháu… cháu có bị làm sao không?
          Tôi lo âu hỏi.
          - Dạ… chắc không sao… Chỉ bị trầy xước đầu gối.
          Cô gái gượng gạo trả lời.
          Ở chỗ đầu gối, vải bị rách một mảng, lộ ra khoảng da thịt rướm máu do bị cọ xát xuống mặt đường.
          Tôi bước tới đỡ cô gái lên, dìu cô vào lề, lấy khăn giấy đưa cô lau tạm chỗ vết thương rồi lo tới chiếc xe đạp đang nằm chình ình ở giữa đường làm cản trở giao thông.
          - Cháu hết đau chưa? Có cần chú đưa vô bệnh viện không?
          Cô gái xua tay rối rít:
          - Dạ khỏi, khỏi cần… Chú để mặc cháu, ngồi chút nữa là hết đau thôi! Chú cứ đi đi ạ, lỗi là ở cháu… Tại cháu vượt đèn đỏ…
          Tôi dắt xe đạp lên lề đường, nghiêm nghị:
          - Sau này cháu phải cẩn thận. May là hôm nay vắng xe, chứ nếu không… chú không biết sẽ xảy ra chuyện gì nữa…
          - Dạ, cháu nhớ rồi! Chú đi đi…
          Cô gái cứ xua tôi đi, nhưng làm sao tôi bỏ đi cho được trong khi cô vẫn chưa đứng lên nổi.
          Trông thấy mặt cô tái đi, có lẽ vì quá đau, tôi hoảng hốt:
          - Cháu… cháu bị làm sao vậy? Chú tưởng…
          Mặc dù cố gượng nhưng nước mắt cô gái vẫn trào ra.
          - Cháu đau ở đâu?
          Tôi gắt.
          Cô bé sợ hãi:
          - Dạ… cháu đau ở tay…
          Cầm lấy cánh tay phải của cô, xem xét qua một lượt, thấy có dấu hiệu không bình thường, tôi bảo:
          - Cháu lên xe, chú chở vô bệnh viện ngay!
          - Dạ… thôi khỏi… cháu còn xe đạp… chắc chút xíu nữa là hết thôi…
          - Không được! Có thể tay cháu bị gãy rồi đó, phải vô bệnh viện ngay! Để chú lo cho.
          Nói xong, tôi vội vã dẫn chiếc xe đạp của cô gái đến gửi ở một trạm xăng gần đó rồi quay lại đỡ cô lên xe:
          - Cháu ngồi cho vững nghe! Tay trái đỡ lấy tay phải… Ừ, đúng rồi, cứ như thế, ngồi cho vững chú chở đi!
          Giọng cô như gần khóc:
          - Chú ơi… tay cháu… tay cháu gãy thật không?
          - Thật hay không thật chút nữa vô bệnh viện chụp hình mới biết, chú làm sao biết được! Cháu thấy hậu quả của việc không tuân thủ luật lệ giao thông chưa?
          Cô gái biết lỗi nên nín khe, suốt quãng đường đi không dám nói hay hỏi thêm câu gì nữa.
          Tới bệnh viện, tôi gởi xe rồi dìu cô vào phòng cấp cứu. Nét mặt cô đầy vẻ hoang mang, sợ sệt.
          - Đi đóng tiền để chụp phim!
          Bác sĩ bảo với cô gái sau khi xem qua cánh tay.
          Cô ấp úng:
          - Cháu… cháu…
          Thấy vẻ mặt bối rối khổ sở của cô, tôi đã đoán được phần nào nên cất tiếng:
          - Cháu đi theo chú!
          Cô gái ngoan ngoãn nghe theo mọi mệnh lệnh của tôi, mặt mày rầu rĩ.
          Ngồi trước cửa phòng X quang chờ lấy kết quả tôi mới có dịp ngắm cô bé một cách kỹ càng.
          Đôi mắt to tròn ẩn dưới hàng mi dày cong vút là nét nổi bật nhất trên gương mặt của cô. Đôi chân mày rậm, mọc lòa xòa như chưa hề được tỉa xén. Hai cánh mũi hơi hếch lên làm cô càng có vẻ trẻ con.
          - Tên cháu là gì?
          Tôi hỏi.
          - Dạ, cháu tên Nhi.
          Cô bé đáp.
          - Năm nay cháu hai mươi chưa?
          - Dạ, cháu hai mươi mốt rồi ạ!
          - Cháu còn đi học?
          Một thoáng buồn trong mắt Nhi, cô khẽ đáp:
          - Cháu... ban ngày cháu bán hàng ở siêu thị, ban đêm cháu học Đại học… Rồi với cái tay như thế này, làm sao cháu đi làm, đi học được đây?
          Hai cánh mũi Nhi phập phồng, miệng cô gần như mếu.
          Tôi không dằn được, giả vờ đưa khăn tay lên lau mặt để giấu nụ cười.
          Đúng là trẻ con! Từng cử chỉ của cô đều rất trẻ con nên gây cho tôi cái cảm giác gần gũi và muốn chở che.
          - Cháu yên tâm đi, rồi chuyện gì cũng giải quyết được hết thôi mà!
          Nhi không nói gì nữa, cứ cúi nhìn chằm chằm vào chỗ đau trên cánh tay, như muốn nhìn xuyên qua da thịt để kiểm định lại hệ thống xương bên trong vậy!
          Đến lúc có kết quả X quang, đúng là xương gần bả vai của Nhi bị gãy, tôi lại dìu cô lên tầng trên để tới phòng bó bột.
          Khi ngồi, Nhi mãi lo tập trung vào chỗ đau nhiều trên cánh tay, nhưng khi bước đi thì với vết thương ở gối, cô di chuyển cũng rất khó khăn.
          - Làm ơn cột giùm tóc cô này lên!
          Người y sĩ làm nhiệm vụ bó bột có gương mặt cau có như mới vừa… cãi nhau với chồng ra lệnh cho tôi.
          Tôi vội vã đi vòng ra phía sau lưng Nhi, tóm gọn mái tóc cô lại, luống cuống không biết lấy đâu ra cặp tóc hoặc dây thun, tôi cũng không biết làm cách nào để bới mái tóc đó lên cho gọn ghẽ, vì thế tôi cứ đứng giữ hoài.
          Bất chợt, tôi không thể tin được vào mắt mình được! Nổi bật trên làn da trắng trẻo sau gáy Nhi là ba nốt ruồi son xếp thành hình tam giác!
          - Anh làm cái gì vậy? Túm tóc lên!
          Tôi bàng hoàng buông tóc Nhi ra, đến lúc nghe tiếng quát của cô y tá mới lật đật thực thi tiếp nhiệm vụ của mình.
          Nhưng từ lúc đó, tôi không còn để tâm nhìn cách băng bó nữa, mắt tôi cứ nhìn chằm chằm vào gáy Thi, đôi tay tôi run rẩy, lòng tôi đang ngập tràn một thứ cảm xúc rất khó gọi tên.
          Giờ phút này, hình ảnh Thi của hơn hai mươi năm trước lại hiện về rõ rệt trong đầu tôi. Tôi không quên lời căn dặn của Thi:
          - Ba nốt ruồi này là vết tích để anh nhận ra em…
          Trời ơi… có lẽ nào? Có lẽ nào cô gái này chính là hiện thân của Thi? Có lẽ nào Thi đã kịp quay về bên tôi khi kiếp người của tôi chưa mãn? Không.. không đâu… không thể… điều này thật khó tin… Nhưng mà… làm sao lại có sự trùng hợp lạ lùng như vậy?
          Tới lúc băng bó xong, thấy tôi vẫn đứng thừ người ra, hai tay vẫn còn túm chặt mái tóc của cô giơ lên cao, Nhi khẽ nhắc:
          - Chú ơi, xong rồi chú ơi!
          Sự tỉnh, tôi buông tay ra và không biết nói gì với Nhi lúc này.
          - Chú ơi, mình về được chưa chú?
          Cô bé ngước nhìn tôi.
          Tôi bối rối:
          - Ừ, mình về! Mà không, để… chú đưa… cháu đi rửa vết thương ở đầu gối nữa chứ, để vậy lỡ bị nhiễm trùng thì thêm khổ…
          Nhi níu lấy tay tôi:
          - Chú ơi, khỏi đi chú ơi! Về nhà cháu tự làm được, ở đây… cháu sợ lắm…
          Trông thấy vẻ mặt tội nghiệp của cô bé, tôi cũng không nỡ nài ép nữa. Dìu cô xuống sân bệnh viện, tôi ghé quầy thuốc mua thuốc, bông băng và một vài thứ cần dùng trong việc lau rửa vết thương. Xong đâu đấy tôi chở cô bé về.
          Nhi có vẻ ân hận:
          - Tại cháu… tại cháu làm chú phải vất vả cả buổi trời… cháu thật có lỗi, cháu xin chú đừng trách cháu…
          Tôi cười:
          - Không có gì đâu, cháu đừng bận tâm, nhưng nhớ từ nay đi đường phải thật cẩn thận. Hôm nay bị như vậy cũng là còn may cho cháu đấy!
          - Dạ, cháu xin ghi nhớ!
          Nhi vừa đỡ cánh tay bó bột trắng xóa, vừa nhăn nhó trông thật đáng thương. Tôi quay lại nhìn Nhi, muốn nói thật nhiều, muốn hỏi cô thật nhiều điều, nhưng rốt cuộc tôi không biết phải mở lời như thế nào cho thật đúng?
          - Chú, cho xe xạy đi chú!
          Nhi nhắc.
          - Cháu ngồi vững chưa?
          Tôi hỏi lại trước khi cho xe chuyển bánh.
          - Chú ơi, chi phí hôm nay chú cho cháu mượn tạm, cuối tháng cháu lãnh lương sẽ gửi lại cho chú sau nhé?
          Nghe giọng nói rụt rè của cô bé ngồi sau lưng, tôi phì cười:
          - Cháu không cần nghĩ tới chuyện đó! Lo mà nghỉ ngơi dưỡng sức đi! Trong việc này chú cũng có lỗi, vì chính chú là người làm cho cháu bị té ngã mà!
          - Không đâu, lỗi là do cháu…
          Nhi cãi lại.
          - Ừ, thì lỗi do ai cũng được, tay cháu cũng đã gãy rồi, đừng nghĩ gì nữa…
          Không thấy Nhi nói gì, tôi nghĩ cô bé đã yên tâm về chuyện tiền bạc, không ngờ chỉ ít phút sau, tôi lại nghe có tiếng sụt sịt sau lưng.
          - Sao thế? Cháu khóc à? Đau lắm sao?
          Tôi dừng xe lại, lo lắng hỏi.
          Nhi lắc đầu:
          - Không… không phải đâu chú ơi! Cháu… cháu không đau nhiều nữa, nhưng cháu đang lo… tay cháu như vầy làm sao…
          Tôi nhẹ nhàng an ủi:
          - Thôi thôi, đừng khóc nhè nữa cô bé, để chú đưa cháu về tới nhà rồi tính tiếp, đừng có khóc dọc đường dọc xá như vầy, người ta lại tưởng là chú hiếp đáp cháu, công an bắt chú thì oan uổng lắm! Cháu nín đi cho chú nhờ với nhé!
          Nhi cười mếu máo trước câu nói đùa của tôi. Cô đưa cánh tay làng lặn lên chùi nước mắt. Tôi lại cho xe đi tiếp.
          Theo sự hướng dẫn của Nhi, tôi cho xe đi vào một con hẻm nhỏ, ngoằn ngoèo và sâu hun hút. Cuối cùng, dừng lại trước một căn nhà nhỏ, ngoài cổng có giàn bông giấy đang mùa trổ hoa đỏ rực.
          Nhi bước xuống, mở cổng mời tôi vào.
          Dắt xe vào sân, tôi lại phải giúp Nhi lục tìm chìa khóa trong giỏ xách bởi vì Nhi vẫn còn lúng túng khi phải làm việc chỉ với một cánh tay trái.
          - Chú ngồi chơi ạ!
          Nhi lễ phép.
          - Được rồi, cháu để chú tự nhiên.
          Tôi kéo ghế ngồi và trong lúc Nhi xuống nhà sau tôi đưa mắt nhìn bao quát xung quanh.
          Căn nhà nhỏ, đồ đạc bên trong cũng rất giản dị, đơn sơ nhưng được bày trí một cách gọn gàng và khéo léo.
          Nhi từ nhà trong đi ra, trên tay cầm ly nước.
          Tôi vội vàng đứng lên đỡ ly nước trên tay Nhi và trách:
          - Trời ơi, tay chân cháu như vậy mà còn… chú ngồi đây chơi một chút rồi về, nước nôi làm gì cho thêm bận bịu.
          Nhi cười:
          - Dạ, nhà không có gì ngoài nước lọc, chú dùng tạm nhé!
          Tôi bưng ly nước, hớp một hớp cho Nhi vui.
          - Cháu sống ở đây với ai?
          Tôi tò mò.
          Nhi ngồi xuống, để cho cánh tay bó bột tựa trên mặt bàn, khẽ nói:
          - Trước kia cháu sống với bà ngoại, nhưng hai năm trước ngoại mất, cháu gọi một đứa bạn gái cùng quê về sống chung cho đỡ quạnh hiu. Nó lên đây đi làm công nhân.
          - Quê cháu ở đâu? Ba má cháu còn đủ hết không?
          Tôi hỏi tiếp.
          Nhi buồn buồn:
          - Dạ, quê cháu ở tuốt dưới Rạch Giá, Kiên Giang. Ba má cháu đều đã qua đời hồi cháu còn rất nhỏ. Cháu sống với ngoại từ hồi ấy…
          - Hoàn cảnh của cháu thật đáng thương mà cũng đáng phục nữa. Cháu một mình vừa đi làm vừa đi học như vậy là có nghị lực và ý chí lắm đó. Chú rất cảm phục cháu.
          Nhi mỉm cười:
          - Dạ có gì đâu chú, cháu còn thua xa nhiều bạn khác có cùng hoàn cảnh, cháu còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa.
          Tôi gật gù:
          - Chú cũng có một thằng con trai chắc trạc tuổi cháu. À, cháu sinh ngày tháng năm nào thế?
          Tôi làm như vô tình hỏi Nhi câu ấy.
          - Cháu sinh vào ngày mười lăm tháng thám năm một chín…
          Nhi ngây thơ trả lời, còn tôi lại phải thêm một lần bất ngờ choáng váng nữa: Ngày sinh của Nhi đúng vào ngày Thi rời bỏ tôi hơn hai mươi năm trước…
          - Chú! Chú sao vậy chú?
          Có lẽ nhìn thấy vẻ thất thần trên mặt tôi, Nhi vội hỏi.
          Tôi giật mình, bối rối:
          - À… không có gì đâu cháu, chỉ là … bất chợt chú nhớ tới thằng con của chú mà thôi!
          - Con chú ở đâu mà chú nhớ? Chú không sống với con chú sao?
          Nhi ngạc nhiên.
          Tôi cười:
          - Con chú hiện đang du học ở nước ngoài, hai năm rồi nó chưa về thăm chú lần nào…
          - Anh đó sướng thiệt…
          Thi cũng cười rất tươi.
          Chợt nhớ lại hoàn cảnh của Nhi, tôi không khỏi lo lắng:
          - Cháu sống một mình, tay chân lại bị thương tật thế này, rồi những sinh hoạt hàng ngày ai giúp cháu đây?
          Nhi chớp mắt mấy cái liên tục để dằn cảm xúc:
          - Điều đó thì cháu không lo lắm, vì cháu có thể tự xoay sở được. Chỉ có điều… cháu không biết làm sao đi làm và đi học được đây? Cháu… cháu lại sắp phải thi nữa…
          Suy nghĩ một lát, tôi đưa ra đề nghị:
          - Hay là từ mai, mỗi tối chú sẽ tới đưa đón cháu đến trường cho tới khi nào tay cháu làng lại, cháu đồng ý không?
          Nhi lắc đầu buồn bã:
          - Không được đâu chú ơi! Để chú bận rộn với cháu cả nửa ngày hôm nay là cháu thấy… ray rứt lắm rồi, ai lại để chú phải đưa đón cháu hàng tháng trời như vậy? Cháu không báo hại chú thế đâu…
          Tôi phì cười, quyết định:
          - Vậy nhé! Cháu đừng từ chối, chú cũng không bận bịu gì lắm đâu, mỗi tối chú sẽ đến đây chở cháu đi học. Đừng nghĩ ngợi gì hết, cháu phải biết nghe lời chú đó!
          Nói xong, không đợi Nhi phản ứng, tôi đứng lên cáo từ:
          - Giờ chú xin phép về cho cháu còn nghỉ ngơi. À, còn chiếc xa đạp, cháu cứ để đấy, mai chú lấy về cho.
          Nói dứt câu, tôi ra sân ngồi lên xe, mỉm cười chào Nhi lần nữa. Cô bé vẫn còn ấp úng điều gì đó trong miệng chưa kịp nói ra.
          - Chú ơi… chú… không phải lỗi của chú mà…
          - Đừng lo, đừng nghĩ gì tới chuyện lỗi phải nữa!
          Tôi cười, cho xe vọt đi, cô bé vẫn đứng lặng dưới giàn bông giấy đỏ, ngơ ngác trông theo.
           
          ***
          Về tới nhà, suốt buổi trưa hôm ấy tôi không tài nào dỗ được giấc ngủ. Lòng tôi nôn nao, hồi hộp và rối bời biết bao nhiêu chuyện.
          Thi và Nhi, hai người con gái đó có liên hệ gì với nhau? Tại sao lại có điều trùng hợp như vậy?
          Ngày trước, việc tôi gặp gỡ Thi, yêu thương rồi chung sống với Thi như vợ chồng đã là một điều hiếm thấy trên đời, chẳng lẽ hôm nay tôi lại gặp được một điều khó tin, hiếm khi xảy ra nữa?
          Nghĩ ngợi lung tung làm cho đầu óc tôi càng thêm căng thẳng.
          Tôi vùng dậy, gọi điện phá giấc ngủ trưa của Tú và Hiển, hẹn gặp hai người ở quán cà phê quen thuộc vì “có chuyện rất quan trọng”!
          Tôi đợi không bao lâu thì Tú và Hiển hớt hãi chạy tới.
          Trông thấy tôi, hai ông bạn đồng thanh hỏi:
          - Việc gì mà khẩn trương thế?
          Tôi không vội trả lời, gọi người phục vụ đem cà phê, thuốc lá ra mời đàng hoàng, xong đâu đấy tôi mới từ tốn cất lời:
          - Hai ông còn nhớ chuyện tình cảm của tôi và người con gái tên Thi hồi mấy chục năm về trước không?
          Hiển và Tú cùng giật nảy người lên:
          - Sao? Ông đừng bảo với tụi này là ông vừa gặp lại cô ấy nhé!
          - Không đúng!... mà cũng không sai!
          Tôi mơ màng nhìn theo làn khói thuốc mong manh uốn éo trước mặt.
          - Thế nghĩa là sao? Ông nói rõ ra coi, đừng ỡm ờ hoài như vậy chứ!
          Hiển gắt.
          Tôi mỉm cười:
          - Ông để từ từ tôi mới nói được chứ! Hai ông còn nhớ ngày xưa tôi có nhắc đến ba nốt ruồi hình tam giác sau gáy Thi không? Sáng nay, tôi vừa gặp một cô gái có dấu tích giống hệt như thế!
          Cả Tú và Hiển đều ngớ người ra kinh ngạc, chưa ai kịp nói lời nào thì tôi đã tiếp tục:
          - Lại thêm một điều làm tôi choáng váng nữa, đó là… ngày tháng năm sinh của cô gái này lại trùng khớp với ngày Thi xa rời tôi hồi mấy mươi năm trước. Hai ông thử nghĩ xem, trên đời sao lại có chuyện trùng hợp lạ lùng đến như vậy chứ?
          Tú trợn mắt:
          - Những gì nãy giờ ông kể là hoàn toàn có thật, hay do ông sống cô độc một mình buồn quá, lại thêm ngày đêm tưởng nhớ tới Thi nên mơ màng ra câu chuyện đó?
          Tôi cười buồn:
          - Ông nghĩ tôi bị tâm thần hả?
          - Tôi thấy chuyện gì cũng có khả năng xảy ra.
          Hiển xen vào.
          Tú quay sang Hiển:
          - Vậy ông tin cô gái đó chính là do Thi đầu thai lên?
          Hiển gật gù:
          - Có thể lắm chứ! Mình vốn không tin có ma, nhưng rõ ràng Hải đã từng sống với ma một thời gian dài, rồi tận mắt bọn mình chứng kiến tấm hình vẽ Thi chỉ trong phút chốc hóa thành giấy trắng. Tất cả những chuyện đó nếu đem kể cho bất cứ người khác nào nghe, chắc chắn họ cũng sẽ bảo đó là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, hoặc là do ảo tưởng của những hệ thần kinh không bình thường. Chắc chắn sẽ không ai tin đó là sự thật. Nhưng tụi mình lại biết nó đúng là sự thật, một sự thật rất rõ ràng, không muốn tin cũng không được. Chuyện khó tin như vậy đã xảy ra rồi, thì hôm nay sự việc này cũng có thể lại là một chuyện khó tin nhưng có thật nữa… Điều đó cũng không có gì là lạ!
          Tú khuấy tròn chiếc muỗng trong ly cà phê:
          - Ừ, ông phân tích nghe cũng phải! Có điều… có điều… bây giờ phải làm cách nào để xác minh?
          Hiển cười ngất:
          - Xác minh? Xác minh gì? Xác minh xem cô gái ấy có phải là Thi của hai mươi năm trước không à? Ông nên nhớ, ngoài ba nốt ruồi đặc biệt đó ra, cô gái hiện nay hoàn toàn khác, hoàn toàn không nhớ gì đến tiền kiếp của mình, thì cho dù có đúng là Thi đi chăng nữa, cô gái ấy cũng không thể chứng minh gì được.
          Tú ngớ người ra.
          Tôi nhìn Hiển khẩn cầu:
          - Ông nghĩ bây giờ tôi phải làm sao đây?
          Trong đám bạn của tôi thời đi học, Hiển luôn là đứa giữ được bình tĩnh và đưa ra những lời khuyên sáng suốt trong những hoàn cảnh đặc biệt khi ai nấy đều mất khả năng tư duy.
          Hiển rít một hơi thuốc, ngó thẳng vào mặt tôi:
          - Ông vẫn còn thương nhớ Thi lắm phải không?
          Tôi gật đầu xác nhận:
          - Đúng thế! Suốt mấy chục năm qua, mặc dù đã lấy vợ, sinh con nhưng trong trái tim tôi chỉ luôn duy nhất có một tình yêu, đó là tình yêu tôi dành tặng cho Thi ngày trước.
          Hiển lại gật gù:
          - Có lẽ mối tình chung thủy của ông và Thi đã làm động lòng Trời nên mới xui khiến cho ông có cuộc gặp gỡ ngày hôm nay với cô bé đó. Theo tôi, việc ông sẽ đưa đón cô bé đi học mỗi ngày cũng rất hợp tình hợp lý, vừa giúp đỡ người trong lúc hoạn nạn khó khăn, vừa là cơ hội để ông tiếp xúc, gần gũi và tìm hiểu kỹ hơn cô gái ấy. Sau một thời gian, nếu quả thật có duyên với nhau thì mạnh dạn tiến tới, dù cô ấy có đúng là Thi hay không cũng là điều tốt. Còn nếu không có duyên, tự nhiên mình sẽ khẳng được ba nốt ruồi kia chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Vì sao ư? Vì nếu cô ấy mang theo dấu vết cũ từ tiền kiếp về đây, là nhằm mục đích để cho ông nhận ra cô ấy, tất nhiên sợi dây liên hệ từ tiền kiếp sẽ thắt chặt hai người lại khi hai người gặp được nhau…
          Tôi thở phào nhẹ nhõm:
          - Ừ, ông nói có lý! Tôi sẽ không vội…
          Hiển bật cười ha ha:
          - Ông nói vội gì kia? Bộ ông tính chạy ngay đến chỗ cô gái ấy mà hét to lên rằng: Em chính là người yêu của anh trước đây, nay đã đầu thai trở lại, bằng chứng là ba nốt ruồi đặc biệt kia… Ông định làm như thế thật sao? Ông mà hấp tấp thế là hỏng… hỏng bét thôi ông ơi!
          Nhìn thấy tôi và Tú đang nghệch mặt ra, Hiển nói rõ ràng hơn:
          - Ông mà làm như vậy, cô gái kia sẽ sợ ông đến chết khiếp. Có hai trường hợp sẽ xảy ra. Thứ nhất, cô ấy có thể cho rằng ông là kẻ tâm thần; thứ hai tệ hại hơn, cô ấy sẽ nghĩ ông là loại người không đàng hoàng, vừa thấy con gái người ta thì muốn chiếm lấy làm sở hữu… Ông sẽ không còn cơ hội nào mà tiếp cận cô ta được nữa…
          Tôi đồng tình:
          - Ông nói không sai!
          Trầm ngâm một chút, tôi nói tiếp:
          - Điều tôi e ngại nhất lúc này là…
          - Là điều gì?
          Tú nôn nóng hỏi.
          - Là giữa tôi và cô gái ấy chênh lệch quá nhiều về tuổi tác…
          Không chờ tôi nói hết câu, Hiển cắt ngang:
          - Chuyện chênh lệch tuổi tác không phải là vấn đề lớn. Điều đáng lo ngại là cô gái kia sẽ dành cho ông tình cảm như thế nào thôi… Chuyện ấy tùy thuộc hết vào cách cư xử của ông đấy, Hải ạ!
          - À, mà nè! Hai người xưng hô với nhau là chú cháu à? Hê hê… mai sau cũng kẹt đây!...
          Tú cười làm cả tôi và Hiển cũng cười theo.
          Được sự chia sẻ và góp ý tận tình của hai người bạn thân thiết, giờ đây tôi đã cảm thấy an tâm và biết mình phải làm gì.
           
          ***
          Ngay chiều tối hôm sau tôi bắt đầu thực hiện bổn phận tài xế của mình một cách vô cùng tận tụy.
          Đầu tiên, tôi thuê một chiếc xích lô tới trạm xăng để chuyển “con ngựa sắt” của Nhi về nhà.
          Vừa trông thấy tôi, Nhi mừng rỡ:
          - Chú… cháu cứ tưởng…
          - Tưởng chú trốn luôn rồi phải không?
          Tôi cười, hỏi đùa.
          Nhi hờn dỗi:
          - Sao cháu lại dám nghĩ về chú như thế chứ? Chỉ là cháu không ngờ chú tới sớm vầ đâu…
          Tôi giả bộ xoay lưng:
          - Vậy thôi, chú về nhé, chút nữc chú quay lại đón cháu!
          Nhi lật đật níu chặt tay tôi:
          - Chú ơi… Cháu lỡ lời… Chú đừng giận… chú bỏ qua cho cháu đi! Cháu thấy chú tới, mừng quá nên nói năng lung tung vậy thôi…
          Tôi cười xòa:
          - Đùa với cháu chút cho cháu vui thôi, chú không giận hờn gì đâu! Sao rồi, từ hôm qua tới nay cánh tay còn đau nhiều không? Vết thương ở đầu gối sao rồi?
          Nhi nhoẻn cười:
          - Dạ, tay đỡ đau nhiều lắm rồi chú ạ! Còn chỗ này thì…
          Nhi nhăn mặt, mũi lại hếch lên một cách nũng nịu.
          - Sao, chỗ đó ra sao?
          Tôi hỏi.
          - Ngủ một đêm, sáng ra nó lành mặt, bước xuống đi… đau thấu trời xanh luôn chú ơi…
          Nhi có vẻ muốn nhõng nhẽo.
          Tôi cười lớn:
          - Phải đau như vậy để cháu nhớ, mai này không còn dám phóng nhanh vượt ẩu nữa!
          - Cháu biết lỗi rồi, chú cứ rầy cháu hoài…
          Nhi phụng phịu.
          Tôi phá ra cười rồi cùng cô vào nhà.
          Tôi bắt Nhi phải lấy thuốc và bông băng ra để tôi tự tay lau rửa vết thương cho cô. Ban đầu Nhi không đồng ý có lẽ do ngại ngần trước một người đàn ông chưa quen biết lắm, nhưng sau đó, thấy tôi có vẻ tự nhiên, và cũng là người đàng hoàng nên cô không giữ ý nữa.
          Rửa xong vết thương, tôi và Nhi ngồi nói chuyện với nhau rất lâu, mãi đến khi trời nhập nhoạng tối, Nhi đứng lên xin phép vào trong chuẩn bị đồ để đến lớp.
          Lúc cho xuống ở cổng trường, cô nhìn tôi áy ngại:
          - Trong khi cháu học, ở ngoài này chú làm gì?
          - Chú có nhà người quen gần đây, chú sẽ tới cho chơi một ván cờ, chờ cháu tan học chú sẽ quay lại đón.
          Tôi nói dối.
          Nhi tươi cười:
          - Vậy là cháu tạm yên tâm rồi! Chào chú, cháu đi đây!
          Tôi gật đầu, nhìn theo dáng cô đi khuất dần trong sân trường rồi mới dẫn xe tới một quán cà phê gần đó ngồi chờ.
          Mới đó mà đã một tháng trôi qua! Một tháng, đủ để tình cảm giữa tôi và Nhi trở nên khắn khít.
          Đối với tôi, Nhi rất vô tư, cô thương yêu và quý trọng tôi như cha chú, như một “ân nhân” theo lời cô nói.
          Trái lại, tôi đã không còn giữ được sự tự nhiên thoải mái lúc ban đầu.
          Hồi mới gặp Nhi, dù có nghi ngờ cô chính là hiện thân của Thi trở về tìm lại tôi, nhưng ngoài sự xúc động nhất thời, tôi hoàn toàn không có bất kỳ một ý nghĩ đen tối nào trong đầu cả.
          Nhưng thời gian gần gũi vừa qua đã làm tình cảm nảy sinh trong lòng tôi. Có nhiều lúc nhìn thấy Nhi cười cười nói nói, tôi lại khao khát được đặt lên đôi môi tươi thắm đó một nụ hôn, tôi thèm được ôm cô vào lòng, thèm áp mặt mình vào cái “dấu tích” năm xưa của Thi để lại.
          Bao nhiêu tình cảm và dục vọng sôi sục trong tôi, khiến tôi luôn lo sợ một lúc nào đó mình không kiềm chế được. Lúc ấy… chắc chắn Nhi sẽ xem thường tôi, xa lánh tôi ngay lập tức.
          Do vậy, tôi nghĩ mình phải mau chóng tỏ bày tình cảm với Nhi.
          Nhưng như vậy liệu có vội quá không?
          Tôi không biết phải làm sao cho đúng nữa…
          Nhi là một cô gái rất ngoan hiền. Sống giữa nơi phồn hoa đô hội, dập dìu nam thanh nữ tú, nhưng Thi vẫn giữ được bản chất của một cô gái quê dịu dàng thùy mị.
          Nhi không đua đòi ăn diện, không phóng túng như một vài cô gái vừa ở quê ra, choáng ngợp trước sự hào hoa của phố phường, lăn xả vào đời một cách bất cần cả tương lai.
          Nhưng, điều làm tôi vui mừng nhất, ấm lòng nhất chính là khi biết được cho tới lúc này, Nhi chưa từng yêu một ai!
          Tôi đến thăm Nhi rất thường xuyên. Mặc dù lúc này cánh tay cô đã tháo bỏ bột và hoàn toàn hồi phục, nhưng tôi vẫn là tài xế cho cô mỗi tối đến trường.
          Dạo này tôi cũng ít ăn cơm chiều ở nhà. Một mình lúi húi nấu nướng, rồi lại một mình ngồi bên mâm cơm, buồn bã lắm, khi ăn không còn cảm giác ngon miệng nữa. Vì thế tôi thwofng đến ăn cơm ở nhà Nhi.
          Gặp lúc có cô bạn của Nhi ở nhà, cả ba người ăn uống, cười đùa rất vui vẻ. Bữa ăn tuy đạm bạc nhưng lại mang đến một hương vị ấm áp tuyệt vời mà lâu lắm rồi tôi chưa có được.
          Những hôm cô bạn bận tăng ca. Tôi ghé siêu thị đón Nhi, mua một vài món rồi khi về nhà hai chú cháu cùng xuống bếp.
          Nhi thường bày ra các cuộc thi xem “ai nhanh hơn” và cười giòn giã mỗi khi tôi thua cuộc.
          Tôi như thấy mình đang trẻ lại từng ngày. Chiếc kim đồng hồ của đời tôi đang chạy những vòng quay ngược.
          Có lúc, tôi quên bẵng mình đang ở lứa tuổi xấp xỉ năm mươi, quên rằng tóc trên đầu tôi đã có nhiều sợi bạc, quên đứa con trai đang ở rất xa của tôi tuổi cũng gần với tuổi Nhi…
          Tôi quên hết, tôi tưởng như mình đang là chàng sinh viên nghèo thưở trước, ăn tô mì gói không rau không thịt mà vẫn có cảm giác ngon tận ruột gan.
          Những lúc Nhi bá cổ tôi reo mừng một điều gì đó, tôi phải cố gắng dằn lòng, không cho phép mình ghì chặt lấy thân thể trẻ trung đầy sức sống của cô.
          Nhưng tôi không thể che giấu mãi tình cảm của mình, nhất là đối với người ngoài cuộc.
          Cô bạn gái của Nhi đã sớm nhận ra điều đó.
          - Chú… cháu hỏi thật, có phải chú đã dành cho Nhi một tình cảm không chỉ đơn thuần là tình chú cháu… Đúng không chú?
          Lần tôi đến chơi gặp lúc Nhi đi vắng, Ánh – cô bạn gái cùng nhà – thay mặt Nhi tiếp tôi và bất ngờ đã đưa ra câu hỏi ấy.
          Thọat nghe Ánh hỏi, tôi rất lúng túng và muốn chối phăng đi. Nhưng nghĩ lại, thấy trước sau gì thì chuyện này rồi tôi cũng sẽ nói ra, vì vậy nên tôi gật đầu xác nhận.
          - Đúng, cháu quả thật tinh ý! Đúng là chú đã không xem Nhi như con cháu được nữa rồi…
          Ánh nghiêm nghị nhìn tôi:
          - Do gần gũi lâu ngày làm phát sinh tình cảm, hay… tại vì chú thấy Nhi đối với chú hồn nhiên thân thiết mà chú… xem thường nó, có ý nghĩ không tốt về nó?
          Tôi lắc đầu:
          - Cháu nghĩ chú thuộc loại người đó sao? Cháu cũng thấy rồi đó, mặc dù chú dành tình cảm đặc biệt cho Nhi, nhưng có bao giờ chú có thái độ hoặc cử chỉ gì sàm sỡ hay không tôn trọng cô ấy đâu? Đối với chú, tình cảm đó thiêng liêng lắm, chú có nói ra cháu cũng không hiểu hết được đâu, cháu ạ!
          Ánh ngước nhìn tôi:
          - Dạ, cháu cũng tin chú là người tốt. Cháu cũng hy vọng bạn cháu có được một người chồng hết lòng hết dạ thương yêu, lo lắng cho nó. Chú là người có thể mang tới hạnh phúc cho bạn cháu. Nhưng… cháu chỉ e ngại, tuổi tác giữa chú Nhi quá chênh lệch nhau, chắc chắn sẽ gặp nhiều cản trở về phía gia đình chú, nhất là con trai chú. Anh ấy có chấp nhận để cha mình cưới một người vợ mà tuổi chỉ mới xấp xỉ với mình không? Liệu chú có dám vượt qua tất cả mọi rào cản để đến với Nhi không? Hay là… sau này cháu phải là người lau nước mắt cho nó? Cháu mong chú suy nghĩ cho kỹ, cân nhắc cho thật kỹ trước khi thổ lộ tình cảm đó với Nhi…
          - Cháu yên tâm đi, chú đã từng nầy tuổi đầu rồi, đâu còn bồng bột như đám thanh niên mà không suy nghĩ cặn kẽ trước khi làm. Chú thấy giữa chú và Nhi có rất nhiều cơ duyên mà sau này chú kể cho cháu rõ. Về phần gia đình chú, con trai chú thì cháu đừng lo lắng gì hết, nó sống ở nước ngoài, nó không có những định kiến hẹp hòi xưa cũ trong đầu đâu. Đã nhiều lần nó thúc giục chú cưới vợ để có người bầu bạn, vì sau khi tốt nghịêp nó cũng không về lại quê nhà mà nhận lời làm việc cho một công ty bên đó luôn.
          - Anh ấy không phản đối chú cưới vợ, nhưng có chấp nhận để chú cưới một người vợ trẻ như vậy không? Anh ấy có chấp nhận gọi một người cùng lứa tuổi với mình bằng mẹ kế không?
          Ánh lo lắng.
          Tôi cười:
          - Cháu đừng lo, hôm trước chú đã có dọ ý với nó rồi. Nó bảo chú cứ chọn lựa, đó là hạnh phúc của chú, nó không bao giờ cản trở. Còn về việc xưng hô, đâu nhất thiết phải gọi vợ của ba bằng mẹ kế đâu? Có thể  gọi bằng dì, bằng cô cũng được mà, phải không cháu?
          Ánh thở hắt ra:
          - Nghe chú nói vậy cháu cũng thấy nhẹ lòng. Thú thật với chú nhé, mấy lúc gần đây cháu cứ nơm nớm lo sợ, cháu sợ Nhi sẽ phải đau buồn lần nữa. Hồi ngoại nó mất, cháu đã chứng kiến nỗi đau tột cùng của nó rồi, cháu rất sợ, cháu không muốn nó bị như vậy lần thứ hai…
          Tôi siết chặt tay Ánh:
          - Cháu là một cô gái tốt. Nhi thật may mắn khi có được người bạn như cháu. Cháu yên tâm đi, chú không đem lại đau khổ cho Nhi đâu. Chú chỉ lo ngại một điều…
          - Chú lo điều gì?
          Thấy tôi ngập ngừng, Ánh hỏi.
          - Chú lo… Nhi có chấp nhận chú không? Nhi còn quá trẻ trung, trong khi đó chú… chú già mất rồi cháu ạ.
          Lần này Ánh lại là người động viên tôi:
          - Chú đừng lo! Cháu nhận thấy Nhi cũng rất có tình cảm với chú. Gia đình Nhi cũng không còn ai, có nghĩa là cũng không sợ phải gặp sự cản trở nào một khi Nhi đồng ý.
          Tôi thở dài:
          - Đành rằng Nhi có tình cảm với chú, nhưng đó chỉ là tình chú cháu, nhưng nếu chú bày tỏ lòng mình và đề nghị Nhi chuyển sang mối quan hệ khác, chú e rằng… Nhi cũng khó mà chấp thuận.
          Ánh bật cười:
          - Chú phải thử mới biết! Chứ nếu mãi lo như vậy, chẳng lẽ chú cứ ôm ấp tình cảm đó rồi ngồi chờ Nhi đi lấy chồng sao? Chú cứ mạnh dạn nói hết lòng mình với Thi đi. Một khi cháu biết chú thật tình với Nhi thì cháu ủng hộ chú hai tay hai chân luôn. Cháu đứng về phe chú.
          - Ủa, nhà mình hôm nay chơi trò gì mà chia phe nữa vậy ta?
          Ánh vừa dứt lời thì nghe tiếng Nhi ngoài cửa.
          Ánh nhìn tôi lè lưỡi.
          Tôi mỉm cười ra hiệu cho Ánh đừng vội nói gì với Nhi.
          - Chú… chú với Ánh về phe với nhau để bắt nạt cháu phải không?
          Nhi làm bộ dỗi.
          - Ai dám bắt nạt cô nương?
          Ánh cười.
          - Vậy hai người chia phe để làm gì?
          Nhi thắc mắc.
          - Hãy đợi đấy! Rồi sẽ biết!
          Ánh đứng lên tát nhẹ vào má bạn rồi đi xuống nhà sau.
          Tôi không khỏi bật cười trước hai cô gái nhỏ…
          Hôm đó về nhà tôi cứ suy nghĩ mãi những lời Ánh nói.
          Đúng rồi, tôi phải có can đảm bày tỏ tình cảm của mình với Nhi một cách rõ ràng, chứ không lẽ cứ phải đè nén mãi trong lòng, tuổi của tôi cũng đâu còn trẻ trung gì nữa?
          Tôi hỏi ý kiến “quân sư” Hiển, nó cũng nhận thấy tôi không nên kéo dài hơn nữa.
          Tối hôm sau Nhi không có giờ học ở trường, tôi đề nghị:
          - Nhi đi ăn kem với chú nhé?
          Nhi ngạc nhiên nhìn tôi:
          - Ủa, chú cũng thích ăn kem nữa sao?
          Tôi bật cười:
          - Sao cháu lại hỏi vậy?
          - Cháu tưởng chỉ có mấy đứa nhỏ tụi cháu mới thích vô quán kem thôi, cỡ chú thường người ta hay tới quán cà phê hoặc quán… nhậu.
          Tôi nghe một nỗi buồn ập vào tim mình, nhưng vẫn cố gượng cười:
          - Vậy là… cháu muốn nói chú già rồi, chú không thích hợp đi với cháu tới quán kem phải không?
          Biết mình lỡ lời, Nhi ôm lấy cánh tay tôi lắc lắc:
          - Chú… cháu xin lỗi… cháu không có ý đó! Chỉ là cháu thật tình nghĩ vậy thôi mà… Chú đừng giận cháu nha, chú mà giận, chút nữa cháu ăn một lúc bốn, năm ly cho chú trả tiền mệt nghỉ luôn đó!
          Tôi bật cười:
          - Ăn không hết là chết với chú đấy nhé!
          Nhi nhoẻn cười, chạy vào nhà trong thay quần áo.
          Vì đã có chủ đích trước nên tôi đưa Nhi tìm đến một quán kem thật vắng và chọn một góc ngồi cũng vắng.
          Nhìn Nhi hồn nhiên xúc từng muỗng kem đưa vào miệng ngon lành, tôi không dằn lòng được nữa, nhưng việc mở lời đối với tôi lúc này cũng rất khó khăn.
          - Cháu tin trên đời này có ma không, Nhi?
          Bất ngờ nghe tôi hỏi, Nhi tròn mắt:
          - Úi, chú đừng nhát cháu à nghen, cháu sợ ma lắm đó!
          - Cháu sợ ma? Tức là cháu tin có ma?
          Tôi hỏi lại.
          Nhi tư lự:
          - Cháu cũng hổng biết nữa… Nhiều lúc cháu tin, nhiều lúc cũng không tin, nhưng… sợ thì lúc nào cháu cũng sợ!
          - Trời!
          Tôi kêu lên.
          - Mà sao tự nhiên chú lại hỏi cháu như vậy?
          Nhi tò mò.
          - Là vì… là vì chú muốn kể cho cháu nghe một câu chuyện.
          Tôi không biết phải vào đề bằng cách nào, nên phải đi một vòng thật xa như thế.
          - Chú kể chuyện ma cho cháu nghe à? Hấp dẫn đây!
          Nhìn vẻ háo hức trẻ con của Nhi, tôi thật không đoán được phản ứng của cô sẽ như thế nào khi nghe tôi nói hết?
          Thôi kệ, chuyện đó tính sau đi, lúc này đây tôi phải làm sao để cho Nhi hiểu được lòng mình.
          Tôi bắt đầu kể cho Nhi nghe về cuộc gặp gỡ tình cờ của đôi trai gái trên một chuyến xe đêm, về những ngày tháng họ sống bên nhau ngập tràn hạnh phúc. Và rồi, để trả lại cuộc sống và tương lai cho người mình yêu, cô gái đã quyết định dứt áo ra đi… chàng trai đau khổ thế nào khi biết người mình yêu thương thời gian qua thật ra chỉ là một vong hồn của cô gái đã chết cách đó một năm trước.
          Nhi quên cả muỗng kem cầm trên tay đang tan chảy, cô kéo ghế ngồi sát vào tôi, hai cánh mũi phập phồng hồi hộp.
          - Tội nghịêp cho họ biết bao phải không chú? Rồi sau đó chàng thanh niên kia thế nào hả chú?
          Nhi hỏi khi tôi vừa kết thúc câu chuyện.
          Tôi nhìn Nhi:
          - Rồi thì anh ta cũng lấy vợ, sinh con nhưng trong lòng vẫn không sao quên được mối tình ngang trái đó. Rồi vợ anh ta qua đời, con trai đi học xa, anh ta lại sống những ngày cô đơn buồn bã…
          Nhi giật mình ngó sững tôi:
          - Chú… vậy ra… vậy ra nãy giờ chú kể cho cháu nghe chuyện của chính chú phải không?
          Tôi khe khẽ gật đầu.
          - Tất cả những gì chú kể đều là sự thật? Hay là… thấy cháu sợ ma nên chú nhát cháu thế?
          Tôi buồn bã:
          - Tất cả đều là sự thật!
          Trong lúc Nhi còn đang sững sờ, tôi nhìn thẳng vào mắt cô, nói tiếp:
          - Cháu có biết ngày chia tay, cô gái ấy đã nói gì với chú không?
          - Nói gì hả chú?
          Nhi ngơ ngác hỏi.
          - Cô ấy bảo nếu còn duyên thì ắt sẽ có ngày gặp mặt. Và điều mà cô ấy luôn nhắc đi nhắc lại với chú là dấu tích để nhận ra nhau khi cô ấy đầu thai kiếp khác.
          Tôi vẫn nhìn thẳng vào Nhi.
          - Dấu tích? Dấu tích gì vậy chú?
          - Dấu tích đó là… ba nốt ruồi son xếp thành hình tam giác ngay sau gáy của cô ấy!
          Tôi nói nhanh.
          Nhi kêu lên thảng thốt:
          - Chú… chú…!
          Nhi buông rơi chiếc muỗng, sờ tay vào gáy mình, vẻ mặt hoang mang, lo sợ…
          - Chú… chú đừng đùa như vậy, chú đừng nhát cháu như vậy, cháu… cháu sợ lắm…
          Tôi nắm chặt bàn tay Nhi, nhìn sâu vào mắt cô:
          - Không, chú không đùa, cũng không phải chú nhát cháu! Những gì chú kể hoàn toàn là sự thật, một sự thật hi hữu mà khó ai có thể tin được, nhưng nó đã xảy ra cho chú. Ngay lần đầu tiên nhìn thấy ba nốt ruồi đặc biệt ấy sau cổ cháu chú đã không khỏi bàng hoàng, chú không dám tin vào mắt mình, nhưng dù không muốn tin cũng không được…
          Ngừng một lúc để quan sát Nhi, tôi nói tiếp:
          - Cháu biết giữa cháu và cô ấy còn có điểm nào liên quan với nhau nữa không?
          - Ý chú muốn nói là… cô ấy tên Thi, còn cháu tên Nhi?
          Nhi lắp bắp.
          Tôi lắc đầu:
          - Không, chú không quan trọng vấn đề đó, tên người thì rất nhiều trùng hợp, không có gì lạ. Điều lạ kỳ là… ngày tháng năm sinh của cháu, chính là ngày cô ấy bỏ chú mà đi…
          Nhi ngồi lặng đi rất lâu, mãi đến khi cơn xúc động qua đi, Nhi nhẹ rút bàn tay cô ra khỏi tay tôi rồi nhìn tôi với ánh mắt thật buồn:
          - Vì thế nên bấy lâu nay chú luôn đối xử tốt với cháu?
          Tôi chụp lấy tay Thi, giữ chặt nó trong tay mình:
          - Không đâu, Nhi ơi… chú thương cháu… Ý chú muốn nói là… chú rất… yêu thương cháu… Cháu có hiểu điều đó không Nhi?
          Nhi cười buồn bã:
          - Chú thương cháu? Chú yêu cháu? Là vì qua cháu chú tìm lại được hình bóng người xưa?
          Tôi lắc đầu:
          - Không! Ngay giây phút đầu tiên nhận ra dấu vết người xưa trên người cháu, chú không khỏi bàng hoàng xúc động, nhưng khi những cảm xúc đó qua đi, trong lòng chú hoàn toàn không có bất kỳ một ý nghĩ đen tối nào với cháu. Bởi vì… ngoài dấu tích đó, giữa cháu và cô ấy hoàn toàn khác xa nhau, không có một điểm nhỏ nào giống nhau, về hình thức cũng như tính tình. Nên nếu bảo chú thương cháu vì qua cháu tìm lại bóng hình  người xưa là không đúng. Mãi đến khi có điều kiện tiếp xúc và gần gũi cháu, chú mới dần dần nảy sinh tình cảm…
          - Chú nói thật?
          Nhi rưng rưng nước mắt nhìn tôi.
          - Có khi nào chú nói điều gì không thật với cháu đâu?
          Tôi hỏi lại Nhi.
          - Nhưng… nếu cháu… cháu không phải là hiện thân của cô ấy, kiếp trước của  cháu là một người hoàn toàn khác, thì liệu chú có… có dành cho cháu những tình cảm đẹp đẽ đó không?
          Tôi khẳng định:
          - Chú đã nói rồi, việc cháu có là cô ấy hay không không quan trọng nữa, vì đó chỉ là sự xúc động nhất thời ban đầu, tình cảm hôm nay chú dành cho cháu là vì cháu, hoàn toàn vì con người cháu chứ không chỉ vì ba nốt ruồi đặc biệt đó đâu. Lâu nay đã nhiều lần chú muốn giãy bày hết tâm sự của mình cho cháu hiểu, nhưng chú còn e ngại… chú sợ cháu không chấp nhận một người đáng tuổi cha chú như chú bây giờ… Chú biết… Chú không trách cháu đâu… Chú biết cháu khó lòng mà chấp nhận được một người như chú. Thôi thì… những gì cần nói với cháu hôm nay chú đã nói được hết rồi, dù sao thì chú cũng cảm ơn cháu đã chịu lắng nghe, cảm ơn cháu đã cho chú những ngày tháng thật sự vui tươi, thật sự đầm ấm trong ngôi nhà của cháu…
          Tôi nói luôn một hơi rồi vội vã đứng lên dợm bước ra về.
          Nhi níu tay tôi lại:
          - Chú không muốn biết cảm nghĩ của cháu sao?
          Tôi vỗ nhẹ lên vai Nhi, gượng cười:
          - Chú biết… chú không trách gì cháu đâu… Cháu cũng đừng ngại, không cần an ủi chú đâu cháu ạ…
          Bất chợt Nhi nhào tới ôm chầm lấy tôi, tay cô đấm thình thịch vào lưng tôi, nói trong nước mắt:
          - Chú thật đáng ghét! Chú rất là đáng ghét… chú có biết không?
          Quá bất ngờ, tôi cứ đứng sững như thế trong mấy giây, tới lúc chợt hiểu ta, tôi sung sướng ôm choàng lấy Nhi, nhấc bỗng cô lên xoay tít mấy vòng…
           
          ***
          Sau khi chính thức công bố mối quan hệ mới giữa tôi và Nhi cho tất cả mọi người quen biết, điều đầu tiên tôi làm là đưa Nhi về Quảng Ngãi để thắp nhang cho ông bà cha mẹ và ra mắt các chị gái của tôi.
          Trên đường đi, tôi không quên bảo tài xế dừng lại để đưa Nhi vào thăm lại nhà mồ của Thi. Nhưng… tuy nhà mồ vẫn còn đó mà ngôi mộ lại là mộ của người khác mất rồi.
          Khi chúng tôi vào làng hỏi thăm thì được biết gia đình Thi đã bốc mộ cô từ lâu, nghe nói đưa về quê gửi ở một ngôi chùa nào ngoài đấy.
          Về đến quê nhà, tôi đưa Nhi đi thăm viếng mộ phần cha mẹ và tất cả những người trong họ tộc, đưa Nhi ra mắt các chị tôi và bà con làng xóm.
          Khi các cuộc viếng thăm đã gần như hoàn tất, tôi bảo Nhi:
          - Ngày mai, anh đưa em tới một nơi…
          - Nơi nào vậy anh?
          Nhi tò mò.
          Tôi mỉm cười:
          - Bí mật, rồi mai em sẽ biết!
          Sau bữa ăn sáng, tôi bảo tài xế lấy xe đưa hai chúng tôi chạy ngược theo quốc lộ, tìm tới ngôi nhà năm xưa Thi từng sinh sống.
          Bà mẹ Thi năm nay đã ngoài tám mươi, mái tóc bạc bạc trắng, phất phơ lòa xòa trước trán.
          Vừa nghe tôi và Nhi cất tiếng chào, bà hấp háy đôi mắt hom hem, run giọng hỏi:
          - Thi phải không? Con mới về đó hở Thi? Hai à, Hai… em Thi con về rồi nè, nó về thăm mẹ rồi nè…
          Thấy Nhi có vẻ lo sợ, tôi siết chặt cô ra dấu cứ yên tâm.
          Bà lão kéo Nhi vào lòng sờ nắn, vuốt ve từ gương mặt đến cánh tay, đến từng ngón tay cô:
          - Thi ơi, sao con con bỏ mẹ, con đi lâu quá mãi tới nay con mới chịu quay về… Con biết mẹ chờ đợi con mỏi mòn lắm không? Con có biết mẹ thương nhớ con lắm không? Thi ơi… Thi…
          Anh Hai Thi có lẽ ngại với người khách lạ nên kéo tay mẹ:
          - Mẹ! Mẹ lẩm cẩm rồi hay sao vậy? Đây là khách của nhà mình, đâu có phải là em Thi, mẹ làm vậy kỳ lắm đó!
          Bà lão khóc ngất lên:
          - Con đừng thấy mẹ già cả, mắt mờ tay run rồi bày trò dối gạt mẹ! LaØm sao mẹ lại không nhận ra đứa con gái tội nghiệp của mẹ được chứ? Con nhìn kỹ đi, nốt ruồi sau cổ của em con nè, có lầm với ai được mà con bảo mẹ lẩm cẩm…
          Vừa nói, bà lão vừa tém mái tóc Nhi qua một bên, bàn tay nhăn nheo của bà cứ vuốt mãi mấy nốt ruồi đỏ rực.
          Người anh Hai đứng ngây người ra nhìn, không hiểu nổi.
          Mãi lúc sau, chừng như anh lấy lại bình tĩnh, mời tôi ngồi uống trà rồi chậm rãi cất tiếng:
          - Mẹ tôi già rồi, cũng có hơi lẩm cẩm, mong anh chị vui lòng bỏ qua cho, đừng chấp nhất… Mà nghĩ cũng lạ, tuy bà đôi lúc có hay quên nhưng chưa bao giờ bà nhận lầm người như vậy, chưa bao giờ bà gọi ai là Thi, đứa em gái đã mất cách nay hơn hai chục năm của tôi. Lâu nay bà vẫn biết Thi đã chết. Vậy mà… không hiểu sao hôm nay vừa nghe thấy cô ấy, bà lại gọi ngay cô ấy là Thi… mà cũng lạ, cô ấy lại có mấy nốt ruồi giống hệt em gái tôi ngày trước…
          Tôi mỉm cười, định kể tất cả mọi việc cho anh Hai của Thi được tường tận, nhưng nghĩ lại, thôi thì dù sao mọi việc cũng đã trôi qua rất lâu rồi, tất cả lùi vào quá khứ, khơi dậy làm gì cho người còn sống phải bận tâm thêm. Hãy để tất cả ngủ yên trong nấm mồ dĩ vãng…
          Nghĩ thế nên tôi nói:
          - Anh yên tâm, chúng tôi không nghĩ gì đâu. Trước kia tôi là bạn của Thi, nay có dịp về ngang qua đây nên ghé thăm gia đình. Còn việc mấy nốt ruồi đó chắc là do sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi anh ạ! Anh cũng đừng nghĩ ngợi làm gì!
          Trong lúc tôi và anh trai của Thi ngồi với nhau, thăm hỏi đủ điều thì nơi bộ ván giữa nhà, bà lão vẫn không thôi ôm Nhi vào lòng mà thủ thỉ nỗi nhớ niềm thương của người mẹ sau bao nhiêu năm dài mới được gặp lại đứa con yêu quý của mình.
          Nước mắt bà lão lăn dài trên gương mặt nhăn nheo khốn khổ.
          Nhi cũng không cầm được nước mắt.
          Cô mồ côi từ bé, cô không được tận hưởng sự ấm áp của tình mẫu tử thiêng liêng. Suốt quãng đời tuổi thơ, Nhi được bà dưỡng nuôi dạy dỗ. Hai bà cháu một già một trẻ đã quấn quýt không rời, đã nương tựa vào nhau để chống chọi lại bao nhiêu thử thách của cuộc đời nhiều gian nan vất vả.
          Bây giờ, nằm trong vòng tay già nua của bà lão, nghe những lời thống thiết bà nói ra Nhi tưởng như mình được nằm trong tay mẹ, tay bà như những ngày bà còn sống, nứơc mắt cô cũng tuôn chảy không ngừng…
          Ban đầu tôi định đưa Nhi đến đó thăm hỏi một chút rồi lại quay về, nhưng thật không ngờ thái độ bà lão mẹ Thi lại như vậy, thành ra mãi đến trưa chúng tôi vẫn không có cách nào bứt bà ra khỏi Nhi để mà về được. ĐÀnh phải ở lại ăn bữa cơm trưa với gia đình.
          Tất cả mọi người đều vui, nhất là bà lão.
          Bà luôn nói:
          - Mẹ gặp lại được con gái của mẹ rồi, có nhắm mắt mới được yên lòng, mẹ không còn hối tiếc điều gì nữa…
          Tất cả những người trong nhà, ai nghe bà nói câu ấy đều cảm thấy mắt mình cay cay, đau xốn…
          - Chúng tôi thật cảm ơn hai anh chị đã mang tới cho gia đình tôi niềm hạnh phúc lớn lao này… Nhờ có anh chị, mẹ tôi mới vui được như vậy!
          Anh trai của Thi xúc động nói.
          Tôi vỗ vào anh:
          - Không có gì… chúng tôi cũng rất vui!
          Mãi đến xế trưa, anh trai của Thi phải dỗ dành mãi bà lão mới chịu để cho chúng tôi ra về.
          - Con qua bên Mỹ, nhớ lâu lâu về thăm mẹ nghe con?
          Bà nắm tay Nhi dặn đi dặn lại mãi câu đó.
          Bởi vì lúc nãy anh trai của Thi phải nói gạt bà:
          - Mẹ để em nó đi đi, máy bay sắp cất cánh qua Mỹ rồi đó! Trễ chuyến bay em phải đi xe đò. Mẹ không nhớ em thường bị say xe sao? Mẹ không thương em sao?
          Bà lão quýnh quáng:
          - Ờ.. ờ… thôi con đi đi, kẻo trễ máy bay… Đi đi con… con không quen đi xe đò mà… Thôi, con đi máy bay đi…
          Theo tôi ra về mà Nhi còn bịn rịn bà lão lắm.
          Chúng tôi trao đổi số điện thoại và địa chỉ của anh trai Thi, hứa hẹn nếu có dịp sẽ tới thăm nhau.
          Nhi căn dặn, khi nào bà lão trăm tuổi nhớ báo cho cô biết để cô về chịu tang thay thế cho Thi.
          Người anh trai gật đầu, cười trong màn nước mắt.
          Lên xe, Nhi ngã đầu vào vai tôi thút thít:
          - Bà lão thật tội nghiệp. Phải chi ở gần, em sẽ nhận bà là mẹ, sẽ thay thế chị Thi mà yêu thương chăm sóc bà, để bà được yên vui, không còn buồn lo thương nhớ chị Thi lúc tuổi về chiều.
          Tôi vuốt nhẹ lên mái tóc óng mượt của Nhi mà nghe lòng dâng tràn hạnh phúc. Tôi cảm thấy ông trời đã bù đắp lại tất cả những mất mát, đau thương mà tôi đã chịu trước kia bằng cách cho tôi có được người con gái hiền lành, nhân hậu này.
          Và tôi nghĩ, ở dưới suối vàng, chắc Hiếu – vợ tôi – cũng hài lòng khi thấy tôi được một người như Nhi chăm sóc thương yêu và cùng tôi đi hết quãng đường còn lại của cuộc đời.
          Tôi bảo tài xế tắt máy lạnh, mở toang hết cửa kính để đón những cơn gió mát rười rượi thổi từ cánh đồng lúa nằm dọc hai bên đường, những làn gió mang theo mùi mạ non thơm phưng phức…
          Cuộc đời của mỗi con người có ai đoán được điều gì sẽ xảy ra?
          Sau bao nhiêu mất mát đau thương, giờ phút này đây tôi thật sự hạnh phúc.
          Tôi choàng tay qua vai Nhi, kéo cô sát vào tôi thêm nữa. Kề vào tai cô, tôi nói thầm:
          - Nhi ơi… anh rất yêu em!
          Gương mặt Nhi đỏ hồng lên.
          Cô nhìn tôi, mỉm cười hạnh phúc nhưng trên khóe mắt cô lại long lanh chảy dài hai hàng nước mắt.
          Ừ, đôi khi hạnh phúc tột cùng, người ta cũng khóc!
          Tối đó về nhà, tôi gửi email cho con trai, nhắc nhở nó thu xếp công việc để về đúng ngày hôn lễ của chúng tôi.
          Email vừa được gửi đi, thằng nhỏ đã gọi điện về chúc mừng, hứa chắc chắn với tôi:
          - Ba yên tâm, con sẽ sớm một ngày! Dù công việc bận rộn đến đâu con cũng bỏ hết qua một bên. Ngày cưới của ba là quan trọng nhất đối với con mà! Con rất vui, ba ạ! Lâu nay ở bên này mà lòng dạ con không hề yên ổn. Tuổi ba ngày một cao, sống thui thủi một mình như vậy con thật không đành lòng.
          Nó lại bảo tôi chuyển điện thoại cho Nhi:
          - Con cảm ơn dì đã đến với ba con! Con thay mặt mẹ con, cảm ơn dì nhiều lắm…
          Sau khi thăm hỏi Nhi đủ điều, nó kết luận bằng một câu như vậy, làm Nhi không cầm được nước mắt.
          Tôi thấy mình thật hạnh phúc biết bao!
           
          ***
          Về lại Sài Gòn, tôi và Nhi bắt tay ngay vào việc tổ chức hôn lễ.
          Nhi chỉ muốn một đám cưới giản đơn đãi ở một nhà hàng bình dân nào đó.
          Nhi cũng không muốn chọn những chiếc đầm, những chiếc xoa-rê lộng lẫy mà nếu mặc vào trông cô sẽ không khác gì những nàng công chúa trong truyện cổ tích hoặc những cô tiên xinh đẹp bay lượn trên trời…
          Nhưng dù tôi cố nài ép mấy Nhi cũng không chịu, cô chỉ muốn một chiếc áo dài bình dị mà thôi.
          Đám cưới của chúng tôi diễn ra thật ấm cúng, Khách mời toàn là các bạn bè thân thuộc. Ai cũng mừng cho hạnh phúc của tôi.
          Tú, Hiển và mấy người bạn từng biết qua “thiên tình sử” của tôi với Thi năm xưa, khi nâng ly chúc mừng tôi, chúng nó không quên ghé sát tai tôi hỏi nhỏ:
          - Lần này ông đã xác minh chưa? Có đúng là người thật không đó? Hay lại là một hồn ma?
          Cả đám bật tiếng cười vang.
          Nhi đứng khép nép bên cạnh tôi. Tuy với chiếc áo dài bình thường, nhưng hôm nay, trong mắt tôi Nhi lộng lẫy không khác một nàng công chúa…
          Hết
          Nguyễn Thị Mộng Thu
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:42:01 bởi nguyenthu >
          #80
            nguyenthu 10.08.2009 22:19:02 (permalink)
            ĐÁY AO OAN HỒN
             
            Tiếng khóc ngằn ngặt của thằng bé từ gian nhà bên kia vọng sang làm bà Cả không tài nào ngủ được. Bà vừa cảm thấy bực mình, khó chịu lại vừa thấy xót cho thằng cháu đích tôn.
            Liên tiếp mấy ngày nay, ngày nào nó cũng khóc, khóc đến khàn cả tiếng.
            Bà đã giao cho đứa con dâu thứ hai của bà là cô Mỹ giúp trông nom thằng bé, chứ một mình ba nó thì chẳng làm được trò trống gì.
            Càng nghĩ bà Cả càng thấy buồn tủi trong lòng.
            Gia tài bà chỉ có ba mụn con. Phát là trưởng nam, anh trai kế là Đạt, và cô út Loan. Mấy năm nay cô út Loan đi học xa, nhà còn lại hai đứa con trai, đáng lẽ ra cũng vẹn bề êm ấm. Nhưng tất cả cũng chỉ tại Phát, đứa con trai khờ khạo của bà gây ra mọi chuyện.
            Cả làng cả tổng này có thiếu chi con nhà quyền quý, danh gia vọng tộc, nó lại không thương, lại đem lòng thương yêu một đứa con gái nghèo xác nghèo xơ, một đứa mà bà ghét cay ghét đắng.
            Mà theo bà, con nhỏ đó nào có yêu thương gì con trai bà, nó chỉ muốn dùng con trai bà càm cây cầu để một bước lên mây, để được bước chân vô cái nhà này và chờ ngày hưởng của.
            Tất cả âm mưu quỷ quyệt của nó bà đều biết rất rõ qua đứa con dâu thứ hai là cô Mỹ.
            Nhưng khi bà nói, Phát lại một mực bênh vực cho vợ nó mới tức chứ!
            Cũng may, cũng may là ông trời còn có mắt, lòng dạ hiểm độc của nó đã sớm bị trời trừng phạt. Sanh cho bà thằng cháu đích tôn chưa được ba tháng, chẳng hiểu sao nó lại lộn cổ xuống ao mà chết đuối.
            Kể ra cũng may! Cái gai trong mắt bà đã được nhổ đi rồi, bà lại lời thêm một thằng cháu nội. 
            Từ hôm mẹ mất, thằng bé không chịu bú mớm gì cả! Bà đưa cho Mỹ bao nhiêu là tiền, dặn nó phải mua loại sữa nào tốt nhất, đắt tiền nhất để nuôi thằng cháu của bà, thế nhưng, sữa pha rồi đút vào mồm thằng bé lại nhè ra, nhất quyết không chịu bú. Thật là phí của.
            Tiếc thì tiếc, nhưng vẫn phải tiếp tục mua, chẳng lẽ bà bỏ cho cháu nội yêu quý của mình chết đói?
            Lâu lâu thì Phát cũng dỗ cho nó bú được chút ít, còn lại thì chỉ uống nước.
            Mà lạ thật, sữa không uống mấy, lại mới vài ba tháng tuổi, sức lực ở đâu ra mà nó khóc khỏe đến thế không biết!
            - Mỹ à, Mỹ! Con qua coi anh Hai con thức hay ngủ mà để thằng nhỏ khóc dữ vậy? Giúp nó dỗ một chút đi con!
            Bà Cả lọ mọ ngồi lên, gọi với sang phòng vợ chồng thằng con trai thứ.
            Nghe mẹ chồng gọi, Mỹ gỡ cánh tay chồng đang choàng qua người mình đặt xuống giường và thì thầm:
            - Anh ngủ đi, em sang bên đó dỗ thằng nhỏ!
            Đạt càu nhàu:
            - Bóp cổ cho nó chết phức cho rồi, đồ tội báo oan gia, đêm ngày gì cũng không được yên với nó!
            Mỹ đặt một ngón tay lên miệng chồng nói khẽ:
            - Suỵt! Anh đừng ăn nói bừa bãi như vậy! Coi chừng “nhà có mạch vách có lỗ tai” đó! Mình đã vạch ra kế hoạch đâu đó rõ ràng rồi, lại cũng thực hiện được hơn phân nửa rồi, anh nôn nóng làm gì? Ráng nhẫn nhịn một chút đi anh, càng nhẫn nhịn má càng thương mình, mình càng có lợi chứ sao đâu! Thôi, ngủ trước đi cưng, để em đi làm nhiệm vụ đây!
            Mỹ cúi xuống, hôn đánh chụt lên trán chồng một cái rồi õng ẹo đi ra.
            Phòng của Phát vẫn sáng đèn, tiếng thằng bé khóc oe oe không ngớt vang ra nhưng lại không nghe tiếng Phát dỗ dành gì cả. Mỹ tức giận nhưng cố nén, cô dịu giọng gọi:
            - Anh Hai! Anh Hai còn thức hay ngủ vậy? Sao thằng bé khóc mãi thế? Anh mở của cho em vào dỗ nó nín chút đi?
            Không nghe tiếng Phát trả lời nhưng có tiếng dẹp lê trên nền nhà tiến ra cửa.
            Phát một tay ôm đứa bé, một tay mở toang cánh cửa phòng.
            Mỹ chìa tay ra:
            - Anh Hai đưa cháu bé cho em!
            Phát lặng lẽ trao đứa nhỏ cho Mỹ.
            - Làm giống gì mà khóc dữ vậy con? Không để cho bà nội ngủ, bà nội đánh đòn con đó nghe chưa? Ngủ đi, ngủ ngoan đi rồi thím ba thương, thím ba mua sữa tốt về pha cho con uống, để con mau lớn nghe hôn?
            Mỹ vừa đong đưa thằng bé trên tay vừa nói nựng.
            - Anh Hai cho nó uống hết chỗ sữa em pha lúc nãy chưa vậy?
            Mỹ quay sang hỏi Phát.
            - Uống rồi, nhưng không hết! Sữa còn lại tôi để kia…
            Phát trả lời.
            Mỹ nói nhanh:
            - Trời ơi, em đã dặn anh Hai biết bao nhiêu lần rồi mà anh hổng chịu nhớ giùm em. Thằng bé còn nhỏ, đồ ăn thức uống của nó phải thật vệ sinh, sữa nó uống không hết phải đem đổ đi ngay, rồi ngâm chai cho sạch, nhất là đừng bao giờ dùng miệng mình nút thử xem sữa có vừa hay chưa, làm như vậy dễ gây bệnh cho thằng nhỏ lắm, anh Hai phải nhớ! Nhà mình giàu có như vầy, má lại mới có đứa cháu nội đầu tiên, dù có tốn kém chút đỉnh em nghĩ má cũng không rầy la gì đâu!
            Phát chừng như biết lỗi, ngồi ôm đầu:
            - Tôi xin lỗi thím, tôi quên…
            - Anh em trong nhà mà lỗi phải gì đâu, em chỉ muốn tốt cho con trai của anh mới nhắc nhở vậy thôi! Từ nay xin anh nhớ lấy!
            Mỹ nhỏ nhẹ nói.
            - Ừ, tôi sẽ ghi nhớ, tôi cám ơn thím nhiều lắm!
            - Ơn nghĩa gì anh Hai, thằng nhỏ này là con của anh, là cháu đích tôn của má, nhưng nó cũng là cháu của em, vợ chồng em là chú thím, em cũng phải có trách nhiệm với nó chứ anh Hai. Còn anh nữa, chị Hai vắn số qua đời rồi, dù anh có thương nhớ đến đâu cũng không làm sao kéo chị ấy sống dậy được, anh phải biết chấp nhận sự thật mà đừng có tối ngày âu sầu ủ rũ như vậy nữa, anh biết má buồn biết mấy không? Má già rồi, mình làm con đừng để má buồn phiền nữa nghe anh Hai?
            Mỹ vừa bế đứa nhỏ đi tới đi lui trong phòng, vừa nói chuyện với Phát.
            Từng lời từng chữ của Mỹ bà Cả đều nghe rõ hết. Bà mát lòng mát dạ. Thật không uổng công bà đã hết lòng thương yêu vợ chồng nó.
            Mỹ là đứa con dâu do một tay bà chọn lựa cho Đạt. Lúc ban đầu Đạt đâu có chịu cưới Mỹ, vì nhan sắc Mỹ chỉ ở mức trung bình, không được nổi bật như các cô gái khác trong làng mà Đạt từng quen biết.
            Đạt sống phóng túng từ nhỏ, tiêu xài hoang phí, bồ bịch lăng nhăng. Chỉ tính nội trong cái làng này không thôi, Đạt đã từng tán tỉnh, yêu đương rồi bỏ rơi không dưới năm cô gái.
            Bà Cả còn nghe đâu có một dạo, thằng Đạt nhà bà chết mê chết mệt cô Dịu, vợ của Phát sau này.
            Đạt đeo theo Dịu sát nhíp, từng huênh hoang tuyên bố với bạn bè rằng trước sau gì Dịu cũng sẽ gục ngã dưới tay Đạt. Đạt vung tay không tiếc gì tiền của, chỉ muốn lấy tiền để mua chuộc, để lung lay tình cảm của Dịu. Nhưng dù hắn có làm cách nào thì Dịu vẫn một mực không ưng.
            Cho dẫu nhà Đạt là một gia đình sang cả, tiền muôn bạc vạn, Dịu không hề quan tâm đến. Cô thẳng thắng nói với Đạt:
            - Tôi không thương anh, dù anh có làm gì đi nữa tôi cũng không sao thương được anh. Xin anh từ nay đừng làm tôi khó xử nữa!
            Bà Cả ghét cay ghét đắng Dịu từ dạo đó.
            Việc Dịu thẳng thằng từ chối con trai bà giống như một cái tát mà Dịu đã gián tiếp tát vào mặt bà vậy!
            Nó là ai? Nó là cái thá gì mà có quyền chê bai con bà? Dù nó có lạy lục van xin bà cũng không thể cưới một đứa nghèo rớt mồng tơi như vậy về làm dâu, nhưng nó không có quyền từ chối!
            Nó chê con bà tức là nó chê cả gia đình bà. Mà nó chê gì chứ? Nó chê con bà ăn chơi, con bà không đàng hoàng, không đạo đức. Chẳng khác nào nó bảo bà không biết dạy con?
            Bà Cả cay cú lắm.
            Nhưng Dịu có nói những lời đó đâu? Tất cả những gì bà Cả nghe được là từ Mỹ.
            Khi đó Mỹ chưa về làm dâu nhà bà. Má của Mỹ và bà Cả là chỗ bạn bè thân quen, hai người cũng có tính tới chuyện làm sui gia, bà Cả cũng đã nhiều lần đề cập với Đạt chuyện đó. Nhưng lần nào Đạt cũng bảo:
            - Con nhỏ đó chỉ được cái dẻo miệng! Con không ưa! Vợ của con phải là đứa xinh đẹp chứ không thể là loại làng nhàng như vậy được!
            Mỹ thì lại mê cái vẻ hào hoa của Đạt.
            Cô tận dụng mối giao hảo giữa hai nhà để thường xuyên lui tới, to nhỏ chuyện này chuyện khác với bà Cả, chứ quanh năm suốt tháng bà có mấy khi ra khỏi ngõ đâu mà rành rẽ việc xảy ra bên ngoài.
            - Con nghe nó nói mà con thấy tức giùm cho bác! Nó là đứa nghèo mạt hạng mà giả bộ làm cao. Chắc nó chỉ giả vờ giả vịt vậy thôi, để anh Đạt nhà bác phải không ngừng chu cấp của tiền cho nó. Nó ỷ vô chút nhan sắc trời ban đó mà lẳng lơ với hết thảy đám đàn ông con trai trong làng. Tại bác không biết đó thôi, làng này nó không chừa ai đâu, kể cả những người đã có vợ. Con cũng vì thương bác nên mới nói ra chuyện này, con sợ anh Đạt bị nó cho uống bùa mê thuốc lú rồi về khuân cả gia tài đem dâng cho nó cũng nên.
            Những lời tỉ tê mỗi ngày của Mỹ đã nhen lên trong lòng bà Cả một ngọn lửa căm hờn.
            Giữa lúc đang thất tình Dịu, lại bị bà Cả không ngừng thúc ép, Đạt đã bằng lòng cưới Mỹ.
            Mỹ không đẹp, nhưng riêng cái khoản “chìu chồng” của cô thì lại không chê vào đâu được. Bởi vậy, ngay cả một đứa từng ăn chơi như Đạt mà sau khi cưới Mỹ về cũng phải chết mê chết mệt cô.
            Đạt cưới Mỹ năm trước thì ngay năm sau, đùng một cái Phát báo tin Dịu đã có thai với anh và đòi bà Cả phải đi hỏi cưới Dịu cho anh.
            Bà Cả tuy không ưa gì Dịu, nhưng nghe nói nó đã có thai, nghĩ tới cháu nội và nghĩ tới sự khờ khạo của con trai mình, bà cũng muốn chìu theo ý Phát.
            Nhưng rồi bà lại kiên quyết từ chối, cũng chính do Mỹ bàn ra tán vô:
            - Má ơi, tâm địa của con nhỏ đó sâu độc lắm, má ăn ở hiền lành quen rồi nên không hiểu hết nó đâu! Trước kia, nó giả làm cao, muốn cho anh Đạt phải quỳ lụy dâng gia tài cho nó. Nhưng anh Đạt là người thông minh, ảnh có bị lú lẫn gì đi nữa cũng là nhất thời nên đã sớm nhận ra bộ mặt thật của nó. Mất anh Đạt là coi như nó bị sẩy con cá lớn. Ngay lập tức nó quay qua mồi chài anh Hai. Mà má cũng biết rồi đó, anh Hai thì khờ khạo, hiền lành, làm sao thoát khỏi tay nó được. Nay nó nói nó đã có thai với anh Hai là muốn má rước vô nhà. Vô được đây rồi, con không biết nó sẽ tiếp tục giở thêm những trò gì ra nữa đây? Hổng chừng cả má, cả anh Hai lẫn vợ chồng con đều không sống nổi dưới bàn tay của nó. Cái nó nhắm vào chính là gia tài của má đó. Chứ má nghĩ xem, nó có nhan sắc như vậy, biết bao nhiêu người dòm ngó, không dại gì nó lại đi ưng một người… một người như anh Hai. Đứa nhỏ trong bụng nó cũng chưa chắc là con của anh Hai…
            Bà Cả thấy những lời Mỹ nói hoàn toàn đúng!
            Thằng Phát con trai bà là đứa khờ khạo, tuy đã lớn đầu như vậy mà trí óc của nó còn non kém lắm, không phát triển bình thường như người ta. Nó lại quá hiền, không giống như Đạt.
            Vậy thì cái khả năng nó bị Dịu lợi dụng, nó là con cờ trong tay Dịu, khả năng đó rất lớn. Thằng con bà khờ, nhưng cũng còn bà, còn vợ chồng em nó, “cha nó lú thì cũng còn chú nó khôn”, Dịu đừng hòng mà xỏ mũi cả gia đình bà được.
            Việc không chấp nhận Dịu về làm dâu, không nhìn nhận giọt máu trong bụng Dịu là cháu của bà là điều rất dễ giải quyết, vì lâu nay Phát luôn luôn nghe lời bà, chưa bao giờ Phát dám chống đối lại bà bất kỳ chuyện lớn chuyện nhỏ nào.
            Nhưng, bà Cả không thể để xác suất giọt máu nhà bà lưu lạc bên ngoài xảy ra được.
            Bà cho phép Phát đón Dịu về ở nhà sau, nơi mà các nhà sang trọng thường dành làm chỗ ở cho đám con hầu. Bà hứa hẹn, khi nào Dịu sinh con ra, nếu xác định đúng là con của Phát thì bà sẽ cho Phát cưới làm vợ, còn không thì phải lập tức tống cổ ra khỏi nhà.
            Nhưng đến khi Dịu sinh, vừa trông thấy thằng bé, bao nhiêu hoài nghi, ngờ vực trong lòng bà Cả bỗng tiêu tan mất hết. Thằng bé giống Phát như in, nó chính là hình ảnh của Phát hai mươi năm trước!
            Lòng bà Cả như mở hội. Bao nhiêu năm nay bà luôn mong mỏi được có một mụn cháu để bế bồng cưng nựng, để có người hương hỏa về sau. Vợ chồng thằng Đạt con bà cưới nhau hơn một năm rồi mà có nghe rục rịch gì đâu? Trong khi dáng người mông to ngực nở như Mỹ là dáng của đứa mắn con. Bà đã nhiều lần hối thúc, món ăn gì ngon bổ, dù đắt tới đâu bà cũng bắt mua về bồi dưỡng cho chúng nó, vậy mà hai đứa cứ trơ ra.
            Giờ thì bà đã có được thằng cháu vàng cháu ngọc này rồi, mặc xác chúng nó, bao giờ có hẵng hay, bà không thèm quan tâm nữa!
            Nhưng với mẹ nó, bà giải quyết cách nào đây?
            Đứa bé vừa chào đời, nghe theo lời Mỹ, bà Cả không cho phép Dịu cho con bú với lý do người Dịu gầy ốm, sữa sẽ nóng, không tốt cho sự phát triển của em bé.
            - Tao sẽ cho cháu nội tao bú loại sữa nào tốt nhất. Mầy yên tâm đi!
            Bà Cả nói với Dịu như thế.
            Dịu đau lòng lắm, nhưng cô biết phải làm sao?
            Cô út Loan về mừng cháu, nói với mẹ:
            - Dù chị ấy là người thế nào đi nữa, nhưng đã sinh cho anh Hai một đứa bé kháu khỉnh dễ thương như thế này rồi thì mẹ cũng nên cho chị ấy một danh phận chứ!
            - Đành là vậy, nhưng vì con ở xa con không hiểu, con đó tâm địa sâu hiểm lắm, nó chỉ muốn chiếm lấy gia tài này thôi con ơi!
            Bà Cả than thở.
            - Sao má lại nghĩ xấu người ta như vậy?
            Út Loan trách mẹ:
            - Không phải má nghĩ xấu cho nó, mà bản chất nó là như vậy, nó giăng bẫy anh Ba con không xong mới quay sang bắt xác anh Hai con đó! Có có nhan sắc như vậy, nếu không vì của cải của gia đình mình, mắc mớ gì nó lại đi thương một đứa ngớ ngẩn như anh Hai con chứ?
            Út Loan lắc đầu:
            - Thiệt là rắc rối, nhưng con nghĩ cũng có thể chị ấy thương hại anh con, rồi từ thương hại chuyển thành thương thật cũng đâu mấy hồi, má đừng đối xử hà khắc quá tội nghiệp chị ấy. Với lại sau này thằng bé lớn lên, má phải nói với nó sau đây? Má đối xử không tốt với má của nó, liệu nó có đối xử tốt, có thương yêu má hết lòng không? Hay lúc ấy nó lại oán trách má?
            Bà Cả giống như người đứng giữa hai dòng nước. Một bên là Mỹ bàn ra, một bên là Út Loan tán vô, mà bên nào cũng có cái lý của nó, bên nào nói nghe cũng phải. Vậy mới khó xử cho bà.
            Ngày còn trẻ bà là người quyết đoán lắm, một khi bà đã quyết rồi thì khó ai có thể làm cho bà thay đổi được. Nhưng ngày nay bà đã già yếu lắm rồi, bà không còn tự tin vào bản thân mình nữa. Đứng trước vấn đề nào bà cũng phân vân lưỡng lự, do dự đắn đo. Huống hồ chi đây lại là một vấn đề lớn lao, trọng đại của gia đình.
            Bà Cả hứa với Út Loan trước khi con gái trở lên trường để tiếp tục học:
            - Má hứa, một thời ngắn nữa, để má dò xét thêm tính tình nó một chút, nếu quả thật nó thương yêu anh Hai con thì má cũng đâu có hẹp hòi gì mà không cho hai đứa nó chính thức thành chồng thành vợ. Con yên tâm đi, má là người biết suy xét.
            Nghe mẹ nói vậy cô út cũng yên lòng. Thật ra, những việc xảy ra trong nhà cô út hoàn toàn không biết gì, cô lại còn nhỏ tuổi, không quan tâm lắm tới chuyện của người lớn. Những ngày nghỉ ngắn ngủi được về với gia đình là cô chỉ biết chuyện trò với mẹ, đòi hỏi các món ăn, mua sắm thêm nhiều vật dụng… Nên những thông tin cô nắm được rất ít ỏi, lại đến chủ yếu từ phía chị dâu thứ hai, thành ra cô phầ nào cũng có chút ác cảm với Dịu. Nhưng không hiểu sao cô cứ thấy thương thương và tội tội cho chị ấy, không rõ tại sao nữa.
            Nhưng cô út và bà Cả, hai người hoàn toàn không biết tất cả sự thật lại không giống chút nào với những gì Mỹ kể.
             
            ***
            Sinh ra trong một gia đình nghèo, đông anh chị em, Dịu chỉ được đi học đến khi biết ráp vần là phải ở nhà phụ giúp ba má giữ gà, giữ vịt và trông coi em bé. Lớn lên một chút cô ra đồng chăn trâu, mót lúa. Đến tuổi thiếu nữ, Dịu suốt ngày cấy gặt ngoài đồng.
            Cuộc sống tuy vô cùng lam lũ, vất vả nhưng nét đẹp trời ban cho cô cứ ngày một rỡ ràng thêm.
            Con gái trong làng đứa nào cũng thầm ghen với nhan sắc của Dịu. Còn với đám đàn ông con trai thì khỏi nói. Những anh hiền lành ít nói thì âm thầm nuôi mộng tương tư, những gã ba hoa mồm mép thì không ngần ngại tán dương khen ngợi, xun xoe đưa đón… Cả những ông sồn sồn đã có vợ con cũng không ít kẻ tòm tem dòm ngó.
            Nhưng Dịu là một cô gái biết tự trọng.
            Cô không vì những lời ve vãn ngọt ngào, những món quà đắt tiền mà cả trong mơ cô cũng không dám thấy, không vì cái vẻ hào nhoáng bề ngoài của đám công tử con nhà giàu mà dễ dàng rung động.
            Dịu quen sống với cuộc đời đạm bạc, cô không có tham vọng gì, chỉ mơ ước có được một người chồng biết chí thú làm ăn, biết thương yêu cô chân thật.
            Mặc cho ong bướm dập dìu, Dịu vẫn bình thản sống những ngày êm đẹp của đời con gái.
            Nhưng rồi tình yêu đã đến gõ cửa trái tim cô. Và cuộc đời cô bắt đầu nổi lên sóng gió từ khi ấy.
            Việc hai anh em con bà Cả đều có tình ý với Dịu thì cả làng này có ai không biết. Dịu cũng biết điều đó, nhưng lòng cô vẫn bình lặng trước cả hai người.
            Nhưng cách đeo đuổi của anh em nhà ấy lại hoàn toàn trái ngược nhau.
            Ban đầu thì Đạt không ngừng chọc ghẹo, bỡn cợt Dịu, sau đó Đạt lại vung tiền ra mua đủ thứ quà cáp, đưa tận tay Dịu không nhận, Đạt lại nhờ người đem tới tận nhà, thậm chí Đạt để quà ngay ở cửa ra vào nhà Dịu, nhưng cô nhất định không nhận bất kỳ món nào dù nhỏ hay lớn.
            Không ít lần Đạt chặn Dịu lại giữa đường toan giở trò sàm sỡ.
            Còn Phát, anh chỉ lặng lẽ dõi nhìn Dịu từ xa. Anh yêu Dịu ai cũng biết, nhưng chưa bao giờ anh trực tiếp tỏ tình hay bóng gió xa xôi. Có lẽ tại anh là kẻ khù khờ, không biết nói những lời hoa mỹ, không biết nịnh đầm, bợ đỡ như những thanh niên khác.
            Có những buổi trưa, Dịu và những người nông dân khác cùng nhau về nhà ăn cơm, lúc quay lại, khi thì bờ cỏ Dịu đang làm dang dở, luống mạ Dịu chưa kịp nhổ xong, đám mía Dịu đang đánh lá… đã có người làm giúp.
            Không nói ra nhưng Dịu biết người đó là ai.
            Phát yêu Dịu một cách âm thầm, lặng lẽ, anh giống như một vị thần hộ mệnh của Dịu, luôn luôn xuất hiện vào những lúc Dịu gặp điều nguy hiểm nhất.
            Lần đầu tiên cách nay đã lâu, trong một đêm trăng Dịu đi gánh nước ở ao làng. Đến chuyến thứ ba, vừa khỏa thùng xuống ao, chưa kịp múc đầy nước Dịu đã chới với suýt ngã nhào vì có ai đó từ phía sau bịt chặt miệng cô. Giữa lúc Dịu lảo đảo sắp té, một cánh tay khác vòng qua ôm ngang bụng cô, nhấc bổng cô lên các bậc thang cầu ao, kéo cô vào vườn chuối cạnh đó.
            Dịu quẫy đạp, cào cấu, nhưng làm sao đủ sức chống chọi với một gã thanh thiên đang lên cơn dục vọng. Gã bật lên một tràng cười thỏa mãn:
            - Rượu mời không uống, mầy muốn uống rượu phạt phải không con? Mầy đừng trách tao, tất cả đều do mầy tạo ra thôi… Ngoan, ngoan đi… Nếu sau lần này mà mầy thấy thèm mùi của tao thì tao cũng nghĩ tình hỏi cưới mầy đàng hoàng đó…
            Dịu hoảng hốt nhận ra gã thanh niên đó chính là Đạt, người vừa bị cô thẳng thắng cự tuyệt lúc chiều.
            Khi những chiếc khuy áo của Dịu vừa bung hết ra, phơi bày một vùng ngực trắng trẻo dưới ánh trăng thì bỗng đâu một bóng người từ ngoài nhảy bổ vào đánh tới tấp vào đầu, vào lưng Đạt.
            Quá bất ngờ, Đạt không đủ sức chống chọi đành buông Dịu ra, ôm đầu bỏ chạy một hơi mất dạng.
            - Em có sao không?
            Người đàn ông cất tiếng hỏi.
            - Anh là… anh Phát?
            Trong ánh sáng nhập nhòa của bóng trăng soi qua những tàu lá chuối dày đặc, Dịu đã nhận ra người cứu mình chính là Phát, anh ruột của Đạt.
            Dịu ngồi lên, run rẩy cài lại mấy chiếc nút áo đã bị bung ra.
            - Em… em cám ơn anh Phát. Sao anh biết mà ra đây cứu em?
            Nghe Dịu hỏi, Phát lúng túng:
            - Tôi… tôi đi theo Dịu… rồi tôi nhìn thấy…
            Dịu cài áo xong, gục mặt lên đầu gối khóc thút thít.
            Phát cũng ngồi xuống đối diện với Dịu nhưng anh không nói một lời nào, hai bàn tay ngắt vụn đám lá chuối khô dưới chân, vẻ mặt anh vô cùng khổ sở.
            Ngồi một lúc, Phát chợt nhớ ra đứng lên nói:
            - Để tôi đi lấy thùng cho Dịu.
            Dịu ngước gương mặt đẫm nước mắt lên, chưa kịp nói lời nào Phát đã quăng cái áo lên bờ rồi nhảy ùm xuống ao mò lấy hai chiếc thùng và tìm cây đòn gánh trôi trên mặt nước.
            Xong đâu đấy, Phát đứng chờ mặt nước ao hoàn toàn phẳng lặng, anh cúi xuống vục đầy hai thùng nước gánh lên bờ đặt trước mặt Dịu:
            - Em về đi Dịu, khuya rồi… đừng ở đây…
            Dịu líu ríu đứng lên.
            - Hay… để anh gánh giúp Dịu về nhà?
            Phát ngập ngừng.
            Dịu hoảng hốt lắc đầu:
            - Không… không… anh Phát cứ để em gánh!
            Phát không nói thêm câu nào, chỉ lặng lẽ trao cho Dịu chiếc đòn gánh.
            Dịu lau nước mắt, khom người đặt gánh lên vai:
            - Em cảm ơn anh Phát nhiều lắm! Em về…
            Dịu chào Phát rồi tất tả gánh nước về. Qua khỏi ngã ba một đoạn, cô khé quay lại nhìn thì thấy Phát không rẽ về hướng nhà bà Cả mà vẫn âm thầm đi theo sau cô, nhưng giữ một khoảng cách thật xa, đủ để cô không bị những lời dị nghị.
            Đó là lần đầu tiên Dịu cảm thấy lòng mình rung động trước tình cảm của một người đàn ông. Nhưng đó chỉ mới là những rung cảm mơ hồ, thoảng qua rất nhẹ.
            Sau đêm ấy không lâu thì Dịu nghe tin Đạt đi cưới vợ. Từ đó hắn cũng thôi không chận đường chận lối chọc ghẹo gì cô nữa. Dịu mừng thầm trong bụng. Cô cũng bớt dần cảnh giác mỗi lúc đi đâu vào ban đêm hay lúc một mình giữa cánh đồng vắng vẻ.
            Một đêm mưa tầm tã, Dịu một mình trong căn chòi nhỏ dựng tạm ven nghĩa địa để trông coi bầy vịt thả đồng.
            Ở thôn quê, sau mỗi mùa gặt, khi cả cánh đồng bát ngát chỉ còn trơ lại gốc rạ và những hạt lúa vương vãi sau khi thu hoạch, người ta thường lùa đàn vịt có hàng trăm con đến thả rong ở đó.
            Ban ngày cho chúng thỏa sức chạy tìm những hạt lúa rơi rớt, đêm xuống thì quây mành nhốt lại để sáng hôm sau lại tiếp tục thả chúng ra, mãi đến khi nào nhặt sạch mới thôi, mới lùa chúng tới một cánh đồng khác cũng vừa mới gặt xong.
            Để tránh những trường hợp mích lòng có thể xảy ra khi vịt của người này nhập vào đàn vịt của người khác, hoặc trứng của đàn vịt này lại bị chủ của đàn vịt khác nhặt đi, người nông dân thường tự dàn xếp chia ranh giới với nhau. Đàn vịt của anh ở khu vực này, đàn vịt của tôi ở khu vực bên kia, cách nhau một khoảng đủ xa để không gây ra sự nhập nhằng khó xử.
            Thường khi Dịu ở trông vịt cùng với đứa em trai kế, nhưng đêm ấy nó bị cảm sốt, Dịu bắt em phải về nhà ngủ vì sợ để nó ngủ ở giữa đồng nhiễm thêm sương gió.
            Đêm ấy trời mưa lớn lắm. Nước tuôn xối  xả, gió giật muốn bật tung cả mái của căn chòi. Cây đèn bóng hột vịt để trong góc nhà bị gió làm cho tắt phụt đi mà Dịu cũng không muốn ngồi lên thắp lại.
            Cô nằm co người, kéo chiếc mền mỏng tang lên đến tận cằm.
            Dịu nghe đói bụng. Cô ước gì giữa đêm mưa gió ầm ào như vầy mà được ló đầu ra khỏi mền để ăn một trái bắp hoặc một củ khoai lang nướng thì sung sướng biết bao nhiêu!
            Cái thói ăn vặt này là do thằng em trai của Dịu bày đầu. Ngủ trong rẫy thì nó nướng bắp, nướng khoai, ngủ chăn vịt giữa đồng thế này thì nó nướng… trứng vịt.
            Nó lấy đất dẻo bao một lớp xung quanh trứng vịt, gom rơm rạ thành một đống nhỏ, đốt cho cháy bùng lên rồi lùi quả trứng đã bọc đất vào. Tới chừng lớp đất bên ngoài khô ran, bắt đầu xuất hiện những lằn rạn nứt thì khều ra, lấy tay gỡ bỏ lớp đất bên ngoài, vừa hít hà vì nóng, lại vừa hít hà không ngớt vì mùi thơm lựng của lớp trứng vịt bên trong.
            Dịu mỉm cười khi nhớ lại niềm hạnh phúc đơn sơ đó.
            Bỗng Dịu nghe tiếng bầy vịt rộ lên bên ngoài, chắc là có chó hoặc người lạ tới.
            Cô lui cui ngồi dậy, còn đang đánh diêm châm lửa thì cánh liếp cửa bị ai đó nhấc xịch qua một bên, một  bóng người trùm áo mưa kín mít vừa lách người vào.
            Ban đầu Dịu nghĩ đó là em trai, nhưng cô biết ngay là không phải khi que diêm lóe lên soi rõ một góc nhà.
            Dịu rụng rời làm rớt que diêm xuống đất, cô bật dậy định tông cửa chạy ra ngoài vì gương mặt mà cô vừa trông thấy chính là Đạt, kẻ đã hơn một lần muốn giở trò đồi bại với cô.
            Nhưng Đạt đã đứng sừng sững chận ngay lối ra vào duy nhất của căn chòi nhỏ.
            Dịu hét to:
            - Anh muốn làm gì? Anh đi ra khỏi đây mau lên, tôi… tôi la lên bây giờ…
            Đạt lúc này đã cởi được áo mưa, hắn hất hất cái đầu để rũ hết những giọt nước còn bám trên mớ tóc lòa xoà trước trán.
            Hắn nhìn Dịu, cười một cách đểu giả:
            - La đi, mầy có giỏi thì cứ la làng lên đi! Lần trước là mầy gặp may, nhưng lần này mầy đừng hy vọng gì nữa! Giữa một đêm mưa gió như thế này, ở giữa cánh đồng vắng vẻ này chẳng khi nào lại xuất hiện một thằng cô hồn nào có thể ra tay nghĩa hiệp để cứu mầy đâu. Tao đã cảnh cáo mầy nhiều lần mà mầy vẫn ngoan cố không chịu nghe! Bất cứ cái gì mà cậu Ba này đã muốn thì phải lấy cho bằng được, mầy có hiểu không?
            Vừa nói, Đạt vừa tự cởi phăng chiếc áo đang mặc trên người, vứt vào một góc, hắn cởi luôn chiếc quần cụt phía dưới.
            Trước mặt Dịu lúc này hắn hoàn toàn trần truồng, ánh đèn trong góc nhà thỉnh thoảng lại hắt qua một bên, soi rõ thân hình hắn.
            Dịu kĩnh hãi lùi dần mãi vào trong. Cô run rẩy:
            - Tôi… tôi van anh… Anh đừng làm càn, anh không sợ tôi nói lại với vợ anh sao?
            Đạt bật cười lớn:
            - Mầy định hù doạ tao hả? Cô em ơi, đừng có quá ngây thơ như vậy! Ai tin? Cô nói ra liệu có ai tin? Ai là người làm chứng?... Thôi, cứ ngoan ngoãn mà chìu chuộng anh, biết đâu anh không nỡ vùi hoa dập liễu, anh sẽ đối xử đàng hoàng, nếu muốn, thì anh có thể cưới về làm mợ ba nhỏ để cả đời sung sướng…
            Vừa nói hắn vừa tiến dần về phía Dịu. Lúc này Dịu đã lùi vào sát vách, không còn chỗ nào để cô tiếp tục bước lùi nữa.
            Dịu ngồi thụp xuống, vòng tay qua ôm cứng phía trước mình.
            Đạt nhảy bổ tới giống như con cọp vồ mồi, hắn nhấc bổng Dịu quẳng mạnh lên chiếc chõng tre bên cạnh.
            Đau đớn, sợ hãi, Dịu bật lên những tiếng kêu cứu, nhưng tiếng gọi thảm thiết của cô gái yếu đuối đã nhanh chóng bị tiếng mưa tiếng gió ngoài kia nhấn chìm rồi tan mất hẳn.
            Đạt chồm lên người Dịu, kéo tuột chiếc quần và xé nát chiếc áo bà ba cô đang mặc trên người. Bàn tay thô rám và nóng sực của hắn chạm vào khuôn ngực đầy đặn của Dịu khiến cô co rúm cả người.
            Một cơn gió mạnh thốc vào, ánh sáng le lói nơi góc nhà vụt tắt.
            Cả một khối thịt đổ sấp lên người Dịu. Nỗi hoảng loạn làm Dịu như điên lên được! Cô không không ngừng cào cấu, vùng vẫy nhưng thật tội nghiệp cô, cô chỉ là một cô gái mảnh mai yếu đuối…
            Dịu đã mệt lả nhưng vẫn không ngừng kêu cứu. Đạt thì giống như loài mèo đang vờn con mồi nằm trong tầm tay mình. Đạt không có gì phải hấp tấp, phải vội vã. Cơ hội ngàn năm có một. Bữa tiệc linh đình đã bày ra sẵn sàng trước mắt hắn rồi, hắn phải tận hưởng một cách thật trọn vẹn.
            Bất chợt cánh cửa liếp bị ai đó đạp tung ra, một bóng người từ ngoài ùa vào cùng với gió mưa lướt thướt.
            - Buông cô ấy ra! Mầy buông cô ấy ra ngay!
            Một giọng gầm lên.
            Đạt giật mình ngồi bật dậy:
            - Anh… anh Hai? Anh đi đâu giờ này?
            Dịu quơ vội chiếc mền bên cạnh quấn chặt vào người, rúc vào ngồi im trong góc.
            - Mầy đứng lên rồi đi về ngay!
            Phát lại gầm lên. Bóng người vừa ào vào nhà chính là Phát.
            Chiều nay, Phát thấy Đạt dạo qua dạo lại khu vực này mấy lần nên anh cũng hơi nghi ngờ Đạt đang rình rập Dịu, vì anh biết khu này là nơi gia đình Dịu đang cho vịt chạy đồng. Anh cũng biết đêm nào hai chị em Dịu cũng ngủ ngoài này.
            Nghĩ vậy thôi chứ Phát không lo sợ lắm, vì Dịu có em trai bên cạnh. Đạt tuy là đứa ngổ ngáo nhưng nó cũng không dám hành động gì khi có mặt của người thứ ba.
            Trời mưa to gió lớn, Phát đã vô giường ngủ, bất ngờ nghe tiếng Mỹ nói với mẹ chồng:
            - Trời mưa như vầy mà anh Đạt đi đâu mãi tới giờ cũng chưa thấy về, chút nữa ảnh về má rầy ảnh giùm con nghe má, lúc này anh lại bắt đầu đi rong đi rêu khắp làng nữa rồi…
            Phát bật dậy, len lén ra khỏi nhà rồi cắm đầu chạy một mạch về phía cánh đồng, không kịp lấy theo chiếc áo che mưa.
            Nhờ ánh sáng của những tia chớp nhì nhoằng xẹt qua xẹt lại trên bầu trời, Phát nhanh chóng xác định được vị trí căn chòi của Dịu. Khi chạy gần đến, anh nghe lẫn trong tiếng mưa rơi, tiếng gió rít là tiếng người kêu cứu, tiết người vật nhau ì ạch.
            Biết chắc đã có điều không may xảy ra cho Dịu, Phát không kịp suy nghĩ gì thêm, vớ ngay khúc cây bên ngoài đạp mạnh cửa tiến vào.
            Điều anh nghi ngờ quả không sai chút nào.
            - Mày cút ra khỏi đây ngay!
            Phát lăm lăm khúc cây trên tay tiến dần vào trong, ánh chớp lóe lên, anh nhìn thấy rõ ràng thằng em trai mất dạy của mình đang trần truồng như nhộng.
            Một nỗi uất ức dâng lên bóp nghẹt trái tim Phát. Nước mắt anh trào ra, anh quất tới tấp vào thằng em đang đứng ngẩn ngơ trước mặt.
            - Anh Hai… em xin anh… Đừng đánh nữa… Em về đây… Đừng đánh nữa… Em chết mất anh Hai ơi…
            Đạt quỵ xuống, ôm lấy chân Phát van xin.
            Phát dừng tay, đứng thở dốc một chút rồi bảo:
            - Mầy mặc quần áo vô, cút ngay!
            Đạt quờ quạng dưới sàn nhà, vơ vội bộ áo quần rồi chạy bay ra cửa.
            Từ nhỏ Đạt vốn đã rất sợ những trận đòn của Phát. Người anh đó tuy trí óc không bằng ai nhưng lại có một sức mạnh hơn người.
            Khép cửa lại, Phát khẽ nói với Dịu:
            - Tôi không đốt đèn lên lúc này đâu, em mặc quần áo vào đi!
            Dịu sực tỉnh, cô òa lên khóc ngất.
            Phát bối rối nhưng vẫn đứng yên một chỗ.
            Dịu tìm được áo quần và mặc vào người, nhưng áo của cô đã bị Đạt xé rách toạt một mảng lớn trước ngực, thành ra Dịu vẫn phải quấn mền quanh người.
            Mặc xong áo quần, Dịu mò vô góc nhà thắp lại ngọn đèn rồi tới giường ngồi nép vào một góc khóc mãi không thôi.
            Phát lúng túng đi lại gần bên Dịu:
            - Dịu nín đi… Dịu đừng khóc nữa! Dịu khóc hoài như vậy tôi chịu không nổi đâu…
            Nước mắt hòa cùng với những giọt nước mưa đang chảy tràn từ tóc xuống mặt Phát.
            Bỗng dưng Phát cảm thấy lạnh. Hai hàm răng va vào nhau lập cập, áo quần anh sũng nước.
            Đang khóc nhưng Dịu vẫn nhận ra vẻ khác lạ nơi Phát. Cô hoảng hốt chạy vội tới cầm cây đèn soi vào mặt Phát. Đôi môi anh tái ngắt đang run lên bần bật, Phát đứng gần như không vững nữa, anh phải bấu tay vào vách.
            Dịu lật đật đỡ Phát ngồi lên giường, lấy chiếc khăn nhỏ xíu gần đó lau mặt, lau tóc cho anh. Nhưng cả người Phát đang ướt sũng. Dịu lúng túng không biết phải tính làm sao.
            Giữa lúc đó, Phát lại không thể nào gượng nỗi nữa, anh ngã vật xuống giường bất tỉnh.
            Hoảng hốt, Dịu định lay gọi Phát dậy nhưng phát hiện người anh đang sốt cao nóng bỏng.
            Phát đã bị cảm sốt hai ngày rồi, mới đây lại đàm mưa trong đêm tối, gió mưa ngấm vào người, hợp nhau quật anh xuống.
            Dịu không ngại ngùng gì nữa, cô vội vã cởi bỏ áo quần của Phát, lấy khăn lau khô người anh rồi kéo mền đắp kín Phát lại.
            Cô vắt thật khô bộ đồ rồi đem phơi lên vách.
            Người Phát vẫn nóng sực nhưng anh lại rên hừ hừ và hàm răng vẫn không ngừng va đập.
            Sợ hãi, lo lắng, Dịu không biết phải làm sao giữa đêm tối như thế này? Cuối cùng, cô nghĩ được một cách nhưng còn ngần ngại…
            - Anh ấy đã hai lần cứu mình thoát khỏi tay tên khốn nạn đó, hôm nay cũng vì cứu mình mà anh ấy mới ra nông nổi như vậy. Mình còn tiếc gì với anh ấy nữa! Nếu không có anh, đời con gái của mình đã bị tên đốn mạt đó hủy đi rồi…
            Dịu nói thầm với mình và mạnh dạn lên giường, nằm đè lên người Phát. Cô muốn truyền hơi ấm từ cơ thể mình sang Phát.
            Đến lúc Phát tỉnh lại thì Dịu đã ngủ quên trên người anh.
            Dẫu cho đầu óc kém phát triển, nhưng Phát cũng đủ tỉnh táo để biết Dịu đang làm gì. Anh xúc động đến nghẹn ngào.
            Phát nhẹ nhàng nghiêng người để đặt Dịu nằm xuống giường.
            Dịu choàng tỉnh, cô e ngại rồi bỗng dưng lại bật thành tiếng khóc không kiềm chế nỗi.
            Phát âu yếm ôm chặt cô trong vòng tay, đặt lên môi lên má cô những nụ hôn nóng bỏng.
            Việc gì đến đã đến, trong cái đêm mưa gió mịt mùng trong căn chòi nhỏ giữa cánh đồng hiu quạnh ấy, Dịu đã hiến dâng đời con gái của mình cho Phát, người mà cô cảm thấy rất xứng đáng với mình.
            Đến lúc biết mình có thai, Dịu vô cùng lo lắng. Nhưng Phát lại rất vui.
            - Em đừng lo, anh sẽ về nói má anh qua nhà hỏi cưới em về làm vợ anh, sắp có cháu nội rồi, má anh không từ chối em đâu.
            Rồi thì bà Cả cũng cho người bước tới gia đình cô, nhưng không phải là hỏi cưới. Họ chỉ đến để thông báo với cô rằng bà Cả vì thương con trai nên đồng ý cho cô tạm thời tới ở nhà bà để chờ ngày sinh nở. Nếu khi sinh ra, đứa con đó đích thực là con của cậu Hai thì mọi việc sẽ tốt đẹp, còn nếu như không phải, nếu như cô đã cho ai ăn ốc mà để vỏ bắt cậu Hai đem đổ thì cô sẽ khó sống mà quay về.
            Dịu biết mình sẽ không dễ gì sống yên thân trong ngôi nhà của bà Cả, nhất là trong ngôi nhà đó có sự hiện diện của Đạt, một kẻ luôn rình rập để hủy hoại cô. Dịu cũng biết, mặc dù hết lòng yêu thương Dịu nhưng Phát cũng không đủ khôn ngoan để bảo bọc, chở che cô trước những con người ranh ma quỷ quyệt trong ngôi nhà đó.
            Nhưng nếu không về đó Dịu còn biết đi đâu?
            Làm thân con gái chưa chồng mà bụng mang dạ chửa, ai dám cưu mang cô? Rồi còn gia đình, còn cha mẹ, còn dòng họ của cô nữa, mọi người sẽ xấu hổ mà chết mất thôi. Rồi sau này khi đứa con sinh ra, nó sẽ sống làm sao đây?
            Thà rằng về đó, dẫu không được rỡ ràng cưới hỏi, nhưng dù sao cũng là đi làm dâu, làm vợ người ta, cha mẹ ông bà đỡ phải bị miệng đời thị phi đàm tiếu, con mình sinh ra cũng được có cha.
            Và một điều quan trọng hơn hết là Dịu đã rất yêu thương Phát! Cô không muốn anh buồn khổ. Thà một mình cô chấp nhận để những người thân của cô, những người mà cô hết dạ thương yêu được sống một cuộc sống yên lành, vui vẻ.
            Vậy là Dịu chấp nhận bước vô nhà bà Cả một cách âm thầm lặng lẽ.
            Người ta dành cho cô một chái nhà phía sau, họ nói rõ ràng, nếu Phát có thương cô thì tìm xuống đó, chứ tuyệt đối cô không được ngủ ở phòng của Phát.
            Không những thế, bà Cả còn bắt Dịu phải làm việc quần quật cả ngày còn hơn người ở.
            Phát xót ruột khi thấy Dịu vất vả, nói với bà Cả thì bà cười như chẳng có việc gì quan trọng:
            - Ối, nó bầu bì, phải vận động luôn tay luôn chân như thế thì sau này sanh đẻ mới dễ dàng chứ!
            Phát không biết chống chế ra sao, đành phải lặng im nhìn người mình thương chịu nhiều khổ sở.
            Thấy Phát buồn, Dịu phải làm ra vẻ vui tươi an ủi anh:
            - Anh đừng lo, hồi ở nhà em làm lụng quen rồi, bây giờ làm công việc nhà cũng đâu có gì nặng nhọc. Bây giờ má không thương em vì không tin đứa con trong bụng em là con của anh, nhưng mai mốt khi con chào đời, em tin là má sẽ đối đãi với em tốt hơn. Vợ chồng mình ráng chịu đựng đi nghe anh! Có anh thương em, em không sợ gì hết, dù có cực khổ hơn nữa em cũng cam tâm.
            Phát ôm vợ vào lòng, hy vọng một ngày không xa, khi đứa bé cháu đời vợ anh sẽ không phải chịu những thiệt thòi như vầy nữa.
            Nhưng hai vợ chồng Phát không thể ngờ rằng người không muốn Dịu sống ở đây, người căm ghét Dịu nhất không phải là bà Cả, cũng không phải là Đạt, mà người đó không ai khác Mỹ – vợ Đạt.
            Bà Cả không ưa Dịu chẳng qua do những lời xúc xiểm của Mỹ mà ra. Bản chất của bà Cả cũng không phải là người ác độc, tuy bà có phần hợm hĩnh, khinh người.
            Đạt thì ghen tức vì Dịu đã từ chối mình để ưng lấy cái thằng anh ngu ngốc, đó là một sự sỉ nhục lớn đối với hắn. Nhưng mỗi ngày được nhìn thấy Dịu, được mơ màng nhớ tới cái cảm giác hai tấm thân trần trụi hôm nào, thật tình thì hắn cũng thấy khoái.
            Với Đạt, Dịu có về sống ở đây hay không, điều đó cũng không có già quan trọng lắm.
            Chỉ riêng Mỹ, cô không sao chấp nhận được sự xuất hiện của Dịu trong ngôi nhà này.
            Từ lâu Mỹ đã ghét cay ghét đắng Dịu. Hàng ngày, Mỹ chưng diện quần là áo lụa, xức nước hoa thơm nức mũi, la cà làng trên xóm dưới để bẹo hình bẹo dạng trước mặt đám đàn ông con trai trong làng. Ấy vậy mà chẳng ai thèm đoái hoài gì tới. Chúng vây lấy Dịu, trong khi cô ấy quần phèn áo vá, cả người hăng hắc mùi sình.
            Sự căm ghét ấy càng trở nên tột độ khi Mỹ biết Đạt cũng nằm trong số người đeo đuổi Dịu.
            Má Mỹ và bà Cả má Đạt đã hứa hẹn cùng nhau kết thông gia. Mỹ lại mê đắm cái vẻ hào hoa phóng đãng của Đạt, cô cũng mê luôn cái gia tài của bà Cả mà theo cô suy đoán không lâu sau nó sẽ thuộc về Đạt.
            Phát là kẻ ngu đần, bà Cả không dại gì giao gia tài lại cho một đứa con như vậy! Út Loan lại là con gái, nay mai nó đi lấy chồng rồi, nên không cần nghĩ tới.
            Mỹ nhất định cái vị trí mợ Ba đó phải là của cô, phải thuộc về cô, không ai có quyền ngồi vào chỗ đó.
            Mỹ đã dùng lời ngon tiếng ngọt, nói ra nói vào để tác động bà Cả. Cuối cùng rồi Mỹ cũng đạt được nguyện vọng của mình. Cô hài lòng lắm. Tất cả tài sản của nhà này không lâu nữa sẽ nằm gọn trong tay cô.
            Cưới nhau đã gần một năm, dù đã rất cố gắng, đã chạy chữa thuốc thang nhiều nơi mà Mỹ vẫn chưa mang bầu được. Điều đó làm cô lo lắng. Cô sợ nếu mình không có khả năng sinh con, Đạt sẽ viện lý do đó để chơi bời bên ngoài, lỡ hắn ta có con với ai đó thì địa vị của mình trong nhà này lập tức tiêu tan.
            Lo nghĩ như thế nên một mặt Mỹ lo thuốc thang cho mình, một mặt Mỹ ra sức chìu chuộng, giở hết các ngón nghề học lóm được của đám bạn ăn không ngồi rồi để quyến rũ Đạt, để cột hắn vào chân giường.
            Mà quả thật, từ ngày cưới Mỹ, Đạt đã bỏ hẳn thói bay bướm bên ngoài. Chính điều đó càng củng cố lòng tin của bà Cả dành cho Mỹ. Bà cảm thấy biết ơn Mỹ, nhờ có Mỹ mà thằng con trai lêu lỏng của bà đã biết quay về đường ngay lối thẳng.
            Đùng một cái xảy ra chuyện của Dịu. Dịu về đây một mình cũng đủ làm Mỹ ứa gan, đằng này Dịu còn mang theo người giọt máu của Phát. Vậy chẳng phải đứa bé đó, nếu là con trai, nó sẽ là cháu đích tôn, nó sẽ nắm toàn quyền, thì dẫu cho mai này Mỹ có mang thai rồi sinh ra một bầy con trai đi nữa thì cũng đâu còn ý nghĩa gì.
            Không, nhất định Mỹ không để điều đó xảy ra. Bằng mọi cách, cô sẽ làm cho Dịu và đứa con trong bụng cô phải rời bỏ căn nhà này, vĩnh viễn không bao giờ có thể quay trở lại. Nếu cái ông anh ngu ngốc đó chạy theo nó luôn càng tốt chứ sao!
            Mỹ đã tính trăm phương ngàn kế để hãm hại Dịu. Nhưng hầu như lúc nào Phát cũng quanh quẩn bên cạnh vợ, Mỹ không thể ra tay được. Cô ước mong sao Dịu ốm đau một lần để cô có thể tráo thuốc vào đó mà hủy bỏ cái thai đi. Nhưng Dịu vẫn mạnh sân sẩn dù phải vất vả suốt ngày.
            Mỹ không ngừng tác động mẹ chồng, em chồng và cả Đạt nữa để ai cũng có ác cảm với Dịu, mong muốn mọi người đuổi Dịu đi.
            Bà Cả không làm thế. Bà không thích Dịu, Dịu là cây gai trong mắt bà, bà cũng muốn sớm nhổ được nó ra, nếu đứa con ra đời không phải là con của Phát thì cây gai ấy lập tức sẽ được nhổ bỏ. Nhưng trong thâm tâm bà Cả luôn cầu nguyện cho đứa bé kia đúng là con của Phát để bà sớm có người nối dõi tông đường.
            Bà già rồi, sống nay chết mai chưa biết chừng. Nếu lỡ đến lúc bà xuôi tay nhắm mắt rồi mà hai thằng con trai của bà vẫn chưa có con, thì bà biết ăn nói làm sao với ông bà tổ tiên nơi chín suối?
            Bởi vậy, ngày đứa bé chào đời, người vui nhất có lẽ không phải là vợ chồng Dịu mà chính là bà Cả.
            Người đau khổ, tức giận nhất là Mỹ.
            Nhìn cảnh bà Cả ôm ấp tưng tiu đứa nhỏ, Mỹ chỉ muốn nhào tới siết lấy nó thật chặt, đến khi nào tắt thở mới thôi. Nhưng Mỹ cố dằn lòng. Cô tự nhủ trong hoàn cảnh này mình phải cố nhịn nhục, tạm thời mình lùi xuống một bước để lấy đà nhảy vọt về phía trước, mình không dễ gì đầu hàng đâu!
            Phải giết chết thằng bé! Đó là ý nghĩ luôn sôi sục trong đầu Mỹ. Nhưng giết cách nào đây? Phải thật khéo léo để bà Cả hoàn toàn không có chút mảy may ngờ vực.
            Nhưng mình phải mau chóng có con, để khi thằng bé đó chết đi, con mình sẽ được đặt ngay vào vị trí đó.
            LaØm sao có con được đây?
            - Đôi khi vợ chồng sống với nhau rất nhiều năm mà vẫn không sinh được con. Người này đổ lỗi người kia rồi đi đến chia tay nhau. Mỗi người lại đi lấy chồng, lấy vợ khác. Kết cuộc, chưa đầy một năm sau cả người chồng, lẫn người vợ trước kia đều sinh được cho mình những đứa con xinh xắn. Đấy, chẳng qua là do con trống và con mái không “hợp rơ” với nhau nên không sinh nở được. Chẳng cần thuốc thang điều trị gì, chỉ cần đổi trống đổi mái là xong!
            Một lần đứa bạn đã nói với Mỹ như vậy.
            Hay mình thử đổi xem sao?
            Nghĩ là làm.
            Dạo đó nhà bà cả có thuê một anh nông dân từ xứ khác đến về ở đó làm vườn.
            Bà cất một căn chòi nhỏ tận phía cuối vườn làm nơi cất dụng cụ và cũng là nơi trú ngụ của người làm vườn.
            Người nông dân tuy đen đúa nhưng mặt mày cũng sáng sủa, và nhất là sức vóc rất đáng nể phục. Mỗi khi anh cởi trần, những bắp thịt ở hai cánh tay cứ cuộn lên một cách đầy khiêu khích.
            Người mà Mỹ chấm chính là anh.
            Lấy đủ thứ lý do, ngày nào Mỹ cũng tìm cách gần gũi người làm vườn, rồi giả như vô tình, cô tạo ra những tình huống đụng chạm đầy gợi ý.
            Một buổi xế trưa, trời bất thần đổ mưa, hai anh em Đạt lại vắng nhà, Mỹ thấy đúng là thời điểm thích hợp để thực hiện ý đồ.
            Mấy ngày nay cô đã quan sát tỉ mỉ, anh ta đã cắn câu rồi! Có lúc, anh ta đã nhìn lén Mỹ rồi nuốt ực sự thèm thuồng xuống cổ họng. Mỹ cũng vậy, cũng có lúc cô khát khao đượctựa vào cái vồng ngực rắn chắc kia biết mấy!
            Bà Cả đã ngủ, Dịu thì đang bận rộn với đứa nhỏ. Mỹ yên tâm rón rén chạy ra vườn.
            Cô chạy ào tới căn chòi nhỏ, gõ cửa gấp rút:
            - LaØm ơn cho tôi vào trú mưa chút, đang tính đi hái rau mà trời đổ mưa, ướt hết cả quần áo!
            Gã làm vườn hé cửa cho cô vào rồi khép vội lại để ngăn những tia nước bắn từ ngoài vào.
            Bộ quần áo mỏng dính của Mỹ dán sát vào người, lộ rõ màu hồng của da thịt.
            Nhìn thấy trái cổ của gã làm vườn đã bắt đầu trồi lên thụp xuống không ngừng, Mỹ rất thích thú. Cô giả vờ co ro vì lạnh. Cô ngồi sát vào gã rồi bất thần ôm choàng lấy gã.
            Hai người quấn lấy nhau quên cả trời đất. Mỹ cũng không còn nhớ mục đích lớn nhất của cô trong việc này là tìm một đứa con. Cô đã bị cuốn vào niềm đam mê xác thịt thì còn nhớ gì đến mục đích trước khi tới đây. Ngoài trời, mưa đã tạnh từ lúc nào họ cũng không hay biết.
            Khi đã hoàn toàn thỏa mãn và nỗi đam mê kia đã dần dần dịu xuống, Mỹ giật mình hoảng hốt. Cô luống cuống mặc lại áo quần rồi vội vã đi ra. Khi Mỹ từ trong căn chòi nhỏ ấy bước ra, tóc tai còn rối bời, áo quần còn xốc xếch thì bắt gặp ánh mắt ngỡ ngàng của Dịu!
            - Chị làm gì ở đây? Chị theo dõi tôi à?
            Mỹ hoảng hốt hỏi dồn.
            Dịu bình thản trả lời:
            - Tôi giặt tã cho con. Tôi không rảnh để làm những trò vô bổ đó.
            Mỹ chạy vội đến cầu ao, đứng cạnh Dịu:
            - Chị đã thấy những gì?
            Dịu mỉm cười:
            - Tôi không thấy gì cả. Nhưng nếu cô không làm gì sai trái sao lại sợ người ta nhìn thấy?
            - Chị… chị… tôi cấm chị?
            - Cô không có quyền gì để cấm tôi cả. Nhưng tôi cũng xin nói để cô yên tâm, tôi không thích xen vào chuyện người khác đâu!
            Mỹ tức tối nhưng nghẹn họng không biết nói sao.
            Nhất định Dịu đã biết việc gì xảy ra rồi, cô ta nói thế trước mặt mình nhưng chắc chắc chắn cô ta sẽ mau chóng loan tin này ra để đánh gục mình ngay thôi. Không, không thể để chuyện này vỡ lỡ được! Mình phải ra tay trước, mình phải chặn họng cô ta lại… Chỉ có một cách… Chỉ có một cách… Chị đừng trách tôi nhé, tôi chưa nghĩ tới việc loại bỏ chị đâu, nhưng tại chị, tất cả là tại chị, chị nên trách mình đi, cái không nên biết mà chị đã biết, đừng trách tôi…
            Những ý nghĩ đó vừa đến trong đầu, Mỹ vừa nhích gần tới Dịu hơn nữa. Dịu vẫn vô tư cúi người lo giặt giũ mớ áo quần dơ của đứa bé. Bất thình lình Mỹ đẩy Dịu ngã chúi xuống nước. Dịu không biết bơi, điều đó Mỹ biết rõ, ao nước này lại rất sâu, Dịu sẽ không thể nào thoát khỏi.
            Dịu chới với, tay quờ quạng giơ lên, chân Dịu đạp lung tung, cô trồi lên hụp xuống mấy bận, hoảng loạn, cô muốn la lên nhưng càng muốn la nước càng xộc vào mũi miệng nhanh hơn nữa. Dịu đuối sức rồi chìm dần xuống dưới.
            Mỹ vụt chạy về phòng, vội vã thay áo quần rồi lên giường nằm giả như đang ngủ.
            Trong căn chòi nhỏ ở cuối vườn. Gã làm vườn đã chứng kiến từ đầu tới cuối. Gã run rẩy, không dám nói lời nào, cũng không dám nhào ra cứu người đàn bà khốn khổ đang từ từ chìm sâu xuống nước.
            Nghe tiếng thằng bé khóc ré lên mà không ai dỗ, bà Cả lật đật chạy xuống xem sao. Thằng nhỏ nằm một mình, chiếc tã đầy phân mà Dịu đâu không thấy. Bà lên tiếng gọi mấy lượt vẫn không thấy ai thưa.
            Bực mình bà gọi Mỹ:
            - Vợ thằng Ba! Con ra coi ẵm thằng nhỏ cho má chút, cái con Dịu này không biết lại chạy đi đâu mất rồi.
            Mỹ trong phòng đi ra, giả bộ sật sừ như mới vừa tỉnh ngủ:
            - Má gọi con hả má? Lúc nãy đau đầu quá, con nằm rồi ngủ quên luôn!
            - Con muốn bệnh hay sao mà nhức đầu vậy? Nè, thay giùm cái tã rồi ẵm nó một chút.
            - Chị Dịu đâu rồi má?
            Mỹ hỏi.
            Bà Cả ngó quanh:
            - Tao cũng không biết cái con này đi đâu nữa!
            Vừa lúc đó trông thấy hai anh em Phát, Đạt về tới, bà cả gắt gỏng:
            - Hai à, mầy coi ai như con vợ mầy không, giữa trưa như vậy đi đâu không thèm nói với ai tiếng nào, bỏ thằng nhỏ nằm một mình ở đây, rủi nó chòi đạp rồi lọt xuống đất có phải khổ không? Đồ thứ đàn bà hư…
            Nghe mẹ nói, Phát lấy làm lạ. Lâu nay có bao giờ Dịu bỏ đi đâu mà không nói?
            Ngó quanh quất khắp nhà và cất tiếng gọi nhưng không nghe tiếng trả lời, Phát cảm thấy lo sợ. Anh chạy vội ra vườn, dưới cầu ao là thau áo quần đang giặt dở, ở giữa ao trôi lềnh bềnh một chiếc áo trẻ sơ sinh.
            - Trời ơi! Cứu lấy vợ tôi, cứu vợ tôi với!...
            Phát kinh hãi hét to lên.
            Vợ chồng Đạt trong nhà chạy ra cùng lúc gã làm vườn nghe tiếng la vội chạy ra và nhảy ào xuống ao lặn hụp.
            Phát, Đạt cũng nhảy xuống mò tìm.
            Chỉ một lát sau mọi người đem được Dịu lên, nhưng cô đã không còn sống nữa!
            Phát ôm vợ vào lòng khóc không ra tiếng. Đứa bé trên tay Mỹ cũng bắt đầu ngặt ngặt khóc không thôi...
            Vợ chết, Phát càng trở nên ngớ ngẩn. Ai hỏi gì thì trả lời, ai biểu gì làm nấy, còn thì anh cứ ngồi thẩn thờ ra đó, thậm chí đứa nhỏ khóc có lúc anh cũng dỗ, vì hình như tâm trí anh đã tận xa xôi, anh không còn nghe được tiếng khóc của con mình nữa.
            Mỹ phải giúp Phát chăm sóc đứa nhỏ.
            Nhiều lúc nửa đêm đang ngủ ngon lành, phải bò dậy ôm nó ru dỗ, mà nào nó có chịu yên ngủ đâu. Mỹ giận sôi gan, đã mấy lần cô muốn bóp chết nó. Nhưng cô biết làm vậy là không được, mẹ chồng cô sẽ nghi ngờ.
            Đạt ghét đứa nhỏ lắm. Ghét từ lúc nó chào đời. Vì Mỹ thường thầm thì bên tai anh:
            - Không ngờ anh Hai ngu đần vậy mà có phước hơn anh. Có được thằng con trai như vậy, sau này nó sẽ nắm hết quyền hành trong nhà này. Tới lúc má chết rồi, chưa chắc vợ chồng mình được ở yên ở đây nữa!
            Đạt đã quen được cưng chìu, Từ nhỏ Đạt luôn lấn lướt anh mình, ngoài những lúc hai anh em cãi nhau dẫn đến đánh đập, Đạt sợ Phát vì Phát vốn có sức khỏe hơn Đạt, còn lại Đạt luôn coi anh mình giống như một cái bóng trong nhà. Tất cả mọi việc, Phát đều không biết đến, sau này cũng vậy, tất cả phải thuộc về Đạt, do Đạt quản lý chứ không thể giao nó vào tay một kẻ như Phát được. Điều này cũng đã có lần chính miệng bà Cả đã nói với Đạt.
            Nhưng nay tất cả đã khác rồi. Phát tuy khờ khạo nhưng vợ anh ta lại khôn ngoan, rồi nay lại có thêm con trai anh ta nữa. Địa vị của anh ta đang dần dần được củng cố trong cái nhà này. Đạt không thể nào chấp nhận được điều đó!
            Đạt và Mỹ cùng bàn tính với nhau tìm cách phá bỏ đứa bé lúc còn trong bào thai, nhưng chưa có cách nào thực hiện được.
            Rồi khi Dịu chết, đứa bé trở thành nỗi ám ảnh của cả nhà vì tiếng khóc của nó. Không đêm nào Đạt ngủ yên giấc, hắn điên lên với đứa bé!Đã mấy lần hắn định ra tay với nó, nhưng lần nào cũng bị Mỹ ngăn cản.
            Mỹ là người thâm độc, cô không muốn những việc làm của mình để lại bất cứ dấu vết nào.
            Cô bàn với chồng, trước mắt phải làm cho bà Cả hoàn toàn tin cậy vào hia vợ chồng, ráng chịu cực khổ một thời gina ngắn. Đứa bé đó muốn giết lúc nào mà chẳng được, cần gì phải gấp rút ra tay.
            Nó cứ khóc mãi, cứ không chịu uống sữa mãi như thế hóa ra lại hay. Rồi nó sẽ tự chết dần chết mòn, mình khỏi phải nhúng tay vô tội ác!
            Tiền mẹ chồng đưa để mua sữa cho thằng nhỏ, Mỹ bỏ túi tiêu xài. Cô chỉ mua một ít sữa rẻ tiền rồi hòa với nước cơm sôi cho thằng nhỏ bú. Sợ bị phát hiện, nên Mỹ làm như vì quan tâm đến vấn đề vệ sinh của đứa nhỏ, cô không cho ai nút để thử sữa, sữa uống không hết phải lập tức đổ đi ngay.
            Âm mưu thâm độc của cô lại hóa thành ân nghĩa bao la, vì bà Cả tưởng đâu con dâu của mình là người tốt bụng, biết thương yêu đứa cháu mồ côi, vừa phải chịu cực chịu khổ đêm hôm vì nó, vừa lo cho nó từng chai sữa mỗi ngày, lo luôn cả chuyện phòng ngừa đau bệnh cho thằng nhỏ. Mẹ ruột của nó chưa chắc lo được như vậy! Bà Cả nghĩ thầm.
            Mang tiếng làm dâu con nhà giàu nhưng thật sự Mỹ không có tiền riêng. Tất cả mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do một tay bà Cả quản lý. Tiền chợ mỗi ngày cũng do bà phát, thỉnh thoảng bà cho dâu con một ít tiền tiêu vặt vậy thôi.
            Từ lúc tiền sữa của thằng nhỏ chảy vô túi mình, vợ chồng Mỹ cũng thấy thích thú lắm.
            Nhưng lạ một điều, thằng nhỏ không ăn mà sao vẫn có sức khóc khỏe đến thế?
            Đến ngày thứ ba sau khi mẹ mất, thằng nhỏ vẫn không chịu uống bất kỳ thứ gì do Mỹ đút cho nó, nhưng đồng thời, mọi người nhận thấy ở nó có nhiều hiện tượng lạ.
            Bà Cả tò mò hỏi Phát:
            - Có phải buổi tối con cho nó uống được nhiều sữa không?
            Phát lắc đầu, ánh nhìn xa xăm:
            - Không, con cho nó không uống, mẹ nó cho thì nó mới uống. Mẹ nó cho nó uống gần hết một chai luôn đó má!
            Bà Cả ngạc nhiên:
            - Con nói sao? Con nói mẹ nó cho nó bú? Con nhớ lại hồi mẹ nó còn sống phải không con?
            - Không, tối nào Dịu cũng về cho con bú…
            Phát mơ màng nói.
            Bà Cả giật mình. Bà không hỏi thêm gì nữa mà đứng lên đi tìm Mỹ kể lại cho con dâu nghe:
            - Anh Hai mầy bây giờ không chỉ ngớ ngẩn mà trở nên mất trí rồi!
            - Sao má lại nói vậy?
            Mỹ ngạc nhiên hỏi lại.
            Bà Cả chép miệng khổ sở:
            - Nó quá thương con Dịu, nó bảo tối nào vợ nó cũng về cho thằng nhỏ bú sữa, thiệt khổ… Đầu óc thằng Phát bây giờ mơ màng quá đỗi rồi…
            Nghe mẹ chồng nói, Mỹ thoáng giật mình:
            - Anh Hai nói vậy thiệt hả má? Chuyện đó làm gì có…
            - Ừ, thì làm sao mà xảy ra được, chỉ tại nó tưởng tượng nhiều quá! Má thiệt hết sức lo lắng. Tuổi của má đã cao rồi, má sống không được bao lâu nữa, anh Hai con lại ngày một u mê như vậy, chắc tới lúc chết đi má cũng hổng yên lòng nhắm mắt…
            Bà Cả thở dài não ruột.
            Mỹ an ủi mẹ chồng:
            - Má đừng buồn, cũng đừng bận tâm! Vợ chồng con sẽ chăm lo cho anh Hai đàng hoàng, má đừng nghĩ ngợi nhiều mà sinh bệnh.
            Bà Cả rưng rưng nước mắt nắm chặt tay Mỹ:
            - Má cám ơn con, con đúng là đứa con dâu hiếu thảo hiếm có trên đời. Má thật yên tâm khi để lại việc nhà cho con quản lý…
            Long Mỹ vui khấp khởi nhưng cô vẫn làm bộ vô tư:
            - Má còn khỏe mà, má đừng tính tới chuyện giao việc quản lý cho con! Con còn nhiều non kém lắm!
            Bà Cả âu yếm nhìn con dâu:
            - Không, má tính kỹ rồi! Nay mai má sẽ cho mời người tới làm di chúc, tài sản nhà này má sẽ chia cho các con, tất nhiên là phần lớn sẽ thuộc về đứa cháu đích tôn của má, nhưng tất cả đều do vợ chồng con quản lý đến khi nào nó đủ lớn khôn. Má luôn tin tưởng ở con đó, Mỹ à! Những ngày qua, má càng tin con là người có đủ lòng nhân hậu để thay má lo cho thằng nhỏ, dù gì nó cũng là đứa cháu đầu tiên của má…
            Mỹ choáng váng khi nghe bà Cả nói, nỗi căm tức dâng nghẹn trong lòng khiến cô không thể mở lời nói thêm một câu nào nữa, chỉ cố gắng gượng tạo ra một nụ cười cho bà Cả yên lòng.
            - Phải nhanh chóng làm cho thằng nhỏ biến mất khỏi cuộc đời, không thể để má chồng mình chia của cải, gia tài cho nó, khi đó thì mọi việc càng trở nên rắc rối, phải nhanh chóng thực hiện thôi…
            Mỹ nghĩ thầm trong bụng.
            Vừa thấy Phát đi ra nhà sau, Mỹ nhanh chóng chạy vào phòng, dự tính sẽ đổ sữa vào mồm thằng bé rồi làm như nó qua đời vị bị sặc, thiếu gì con nít chết bởi lý do đó, chắc không ai nghi ngờ gì đâu.
            Nhưng Mỹ thật không ngờ, không tin được cảnh tượng đang diễn ra ngay trước mắt mình.
            Thằng bé đang nằm trên giường, chiếc miệng xinh xắn của nó đang chu ra nút lấy nút để, ánh mắt nó lấp lánh vui như đang đùa giỡn với một người nào đó.
            Cử chỉ của thằng bé thật lạ lùng! Nó đang bú sữa? Bú tưởng tượng hay đang có một người vô hình nào cho nó bú? Chẳng lẽ những gì anh Hai nói là sự thật sao? Chẳng lẽ… đúng là Dịu hiện về chăm sóc cho con?
            Mỹ lùi dần, lùi dần ra cửa rồi ù té chạy về phòng mình.
            Thấy vẻ hoảng hốt của vợ, Đạt ngạc nhiên:
            - Có chuyện gì vậy em? Làm gì mà em hốt hoảng dữ vậy?
            Mỹ run rẩy chỉ tay ra ngoài:
            - Anh… anh mau sang bên phòng anh Hai mà xem… Thằng nhỏ… có ai đó đang cho thằng nhỏ bú…
            Đạt thắc mắc:
            - Em nói gì anh thật không sao hiểu nổi? Ai cho nó bú thì mặc nó, miễn sao nó đừng khóc nữa là anh tạ ơn trời đất rồi, có gì mà em run rẩy đến thế?
            Mỹ ngồi sát vào chồng:
            - Tại anh không biết đó thôi, một người… một người vô hình… một bóng ma đang cho thằng nhỏ bú!
            Đạt đặt tay lên trán vợ, mỉm cười:
            - Em bị sốt hay sao vậy? Giữa ban ngày ban mặt mà nói chuyện ma cỏ, đầu óc em có vấn đề rồi đó!
            Mỹ tức tối kéo tay Đạt:
            - Đi, anh đứng lên đi qua đó xem coi sự việc ra sao rồi hãy nói!
            Thấy vẻ mặt vợ, Đạt thôi không cười nữa, hắn đứng lên bước về phòng của Phát.
            Trên giường, thằng bé chừng như đã được bú no, đang vo tròn chiếc miệng, ư e và chốc chốc lại cười toe giống như đang đùa giỡn.
            Đạt sấn tới bế xốc thằng bé lên, nó ngỡ ngàng nhìn Đạt rồi ré lên khóc ngất, Phát chạy vội lên, trông thấy Đạt đang bế con mình, Phát hỏi:
            - Nó bị sao vậy?
            - Không, đâu có bị gì đâu! Em tính qua bế nó ra trước nhà cho nó sưởi nắng một chút thôi mà…
            Phát chìa tay về phía Đạt:
            - Thôi, trưa rồi, để cho nó ngủ!
            Đạt lúng túng trả đứa bé lại cho Phát. Vừa nằm yên trong tay cha, thằng nhỏ lại cười thật rộng miệng, y như chưa từng mới khóc.
            - Sao anh? Anh có thấy gì không?
            Vừa trông thấy Đạt bước trở vô phòng, Mỹ hấp tấp hỏi.
            Đạt ậm ờ:
            - Ừ thì… anh thấy nó đang nằm cười giỡn một mình. Con nít đứa nào hổng vậy em, người ta nói mụ bà dạy nó đó…
            Nghe chồng nói, Mỹ thấy cũng có lý, chắc tại lúc nãy do bị ám ảnh vì cái chuyện mỗi đêm Dịu về cho con bú mà mẹ chồng kể nên Mỹ mới hoảng sợ nhiều như vậy.
            Ừ, con nít thì mụ bà dạy là chuyện bình thường thôi mà, mình đúng là lo sợ cái điều vớ vẩn.
            Mỹ thở phào, đặt tay lên ngực mình nũng nịu:
            - Vậy mà… em muốn rụng tin luôn! Ở đây chắc có ngày em chết sớm!
            Đạt chồm lên kéo Mỹ ngã sấp xuống giường:
            - Nói bậy không hà, em chết rồi bỏ anh lại cho ai đây? Bỏ tiền của của má anh lại cho ai đây? Hay anh ra ngoài kiếm cô khác về phòng hờ nhé, để khi em vừa chết là có người thế chỗ liền?
            Mỹ véo vào mũi chồng, trừng mắt:
            - Anh dám?
            Đạt la lên oai oái:
            - Ui da… đau! Đau! Thôi, anh xin chừa… anh không dám…
            Tiếng cười đùa giỡn hớt của hai người vọng sang phòng Phát khiến anh càng thêm buồn khổ.
            Mấy ngày qua, Phát vẫn không sao chấp nhận được cái chết của Dịu. Trong tâm trí, anh vẫn mong là Dịu bận việc gì đó, Dịu đi đâu đó, chỉ chốc lát nữa thôi cô sẽ quay về với cha con anh. Đôi bàn tay dịu dàng của cô sẽ lại bế con, hát ru cho nó ngủ. Hai vợ chồng anh sẽ lại kề sát hai mái đầu nhìn đứa bé đang ngủ yên trong lòng mẹ nó.
            Nhưng Dịu vẫn không về…
            Ngày đầu tiên Dịu mới mất, đứa bé gần như lả đi vì đói và vì khóc quá nhiều, tất cả những gì Mỹ đút vô miệng nó đều bị nó nhè ra hết. Hai mắt nó sưng mọng lên, đôi môi nó khô rộp như người đang sốt cao. Ai dỗ cách nào nó cũng không nín khóc.
            Phát đã ôm nó tới quỳ trước chiếc quan tài bằng thứ gỗ tạp rẻ tiền mà bà Cả mua về cho Dịu. Anh khóc nấc lên từng cơn, nhưng kỳ lạ thay, đôi mắt vẫn ráo hoảnh, không rơi ra một giọt nước mắt nào.
            - Dịu ơi, sao em nỡ bỏ cha con anh mà ra đi như vậy? Con chúng ta đang sắp lả đi rồi nè em có trông thấy không? Con chúng ta còn quá bé bỏng, em đừng bỏ nó, đừng bỏ anh, Dịu ơi…
            Tiếng khóc nghẹn ngào và những lời nguyện cầu tha thiết của Phát không biết có làm lay động được trời đất hay không, nhưng thằng bé đã im, không khóc nữa và bắt đầu lim dim ngủ.
            Nhưng chiều hôm đó, khi quan tài được ra chôn ở bãi đất hoang sau nhà, đứa bé lại tiếp tục khóc, khóc mãi không thôi.
            Đến gần sáng, mọi người trong nhà đều đã ngủ yên, thằng nhỏ cũng nín khóc. Phát ngồi sững bên cạnh con trai, đôi mắt anh vô hồn nhìn con chằm chặp.
            Bỗng dưng Phát cảm thấy như có ai chạm khẽ vào người mình, anh xoay người lại thì nhận ra Dịu.
            Mừng rỡ, Phát nhào tới ôm chầm lấy vợ nhưng trong vòn tay anh chỉ là một khoảng không vô nghĩa.
            Dịu cười rất buồn rồi lặng lẽ đến ôm con, lấy chai sữa đút cho nó bú.
            Thằng bé đang đói, há miệng ra nút một cách tham lam, hồ hộc.
            Dịu ngước lên nhìn chồng, hai hàng nước mắt chảy dài trên má cô.
            Phát bàng hoàng không tin ở mắt mình. Anh run run hỏi:
            - Dịu ơi… em đã về với cha con anh rồi phải không? Có thật là em đã về rồi không?
            Dịu cúi xuống vuốt ve đứa bé và khe khẽ lắc đầu.
            Phát tiến tới gần, quỳ sụp xuống cạnh vợ.
            Dịu đặt thằng nhỏ đã bú no và bắt đầu lim dim ngủ xuống giường, chạm khẽ tay vào má chồng rồi lặng lẽ bay lướt ra ngoài. Phát hoảng hốt gọi theo rối rít:
            - Dịu, Dịu ơi, em đừng đi, em đừng bỏ cha con anh Dịu ơi…
            Phát tung cửa chạy theo vợ. Nhưng bên ngoài vắng ngắt không một bóng người, vầng trăng lưỡi liềm trên cao đang bị một áng mây che khuất. Tất cả hoàn toàn vắng lặng.
            Phát thất thểu quay trở lại phòng mình và nằm vật xuống cạnh con.
            Anh đã hiểu ra rồi, không phải Dịu trở về bằng xương bằng thịt, mà chỉ là hồn ma của cô không nỡ rời xa nên đã cố quay về.
            Sáng ra, Phát muốn kể chuyện đó với cả nhà, nhưng rồi anh lại không nói. Anh biết, trong nhà này, ngoài anh ra đâu có ai thương yêu Dịu, đâu có ai mong đợi cô về, nếu họ biết hồn ma Dịu vẫn quanh quẩn quanh đây, có thể họ còn nhờ thầy bùa thầy pháp ngăn cản không cho Dịu về cũng nên.
            Thế là Phát không nói, ngày nào anh cũng mong ngóng Dịu quay về. Mà Dịu quay về thật.
            Đêm nào cô cũng về cho con bú, dỗ con ngủ. Dịu mỉm cười với chồng, nhưng cô hoàn toàn không nói một lời nào.
            Phát cũng đã quen với việc đó, anh rất đau đớn, nhưng anh chấp nhận việc mỗi đêm đều được nhìn thấy vợ, dù không chạm được vào cô, cũng không tâm sự được gì, nhưng vẫn còn hơn mãi mãi không nhìn thấy cô được nữa…
             
            ***
            - Anh phải nhanh chóng nghĩ cách nào để đối phó với thằng nhỏ đó đi, em thì chịu thua rồi! Tính để cho nó khóc, nó đói cho nó chết dần mòn, mình khỏi phải mang tiếng, nhưng không ngờ thằng này như là ma quái vậy. Lâu lâu mới uống được một tí xíu nước cơm, vậy mà anh nhìn xem nó vẫn cứ tròn vo, không teo tóp chút xíu nào mới lạ kỳ chứ! Lúc này nó lại hết khóc mà chuyển qua cười suốt ngày, cười như đang giỡn với ma vậy… Thật không sao hiểu nổi! Anh tính sao thì tính nhanh nhanh lên, má nói vài bữa nữa chờ cô út về má gọi người tới lập di chúc đó. Nếu mà di chúc được lập rồi, vợ chồng mình là người giám hộ cho thằng nhỏ, quản lý giùm tài sản của nó, khi ấy mình mới ra tay thì chắc chắn người ta sẽ nghi ngờ mình ngay thôi, phải làm trước đi anh à!
            Mỹ than thở, thúc giục chồng.
            Đạt nằm gác tay lên trán suy nghĩ hồi lâu rồi nhổm đầu lên nói với vợ:
            - Thằng nhỏ đó hơi sức không bao nhiêu, chỉ cần bịt chặt mũi miệng nó chừng vài phút là xong! Nhưng… quan trọng là mình phải làm sao để tạo ra một cái chết thật tự nhiên cho nó, một cái chết mà ai cũng chấp nhận được, không để lại nghi ngờ gì… Em nghĩ giúp anh xem…
            Nỹ ngồi bật dậy reo lên:
            - Em có cách rồi!
            - Cách gì?
            Đạt cũng lồm cồm ngồi dậy.
            Mỹ kề sát vào tai chồng thầm thì:
            - Anh lợi dụng lúc anh Hai đi tắm, lẻn vô phòng bóp chết thằng bé rồi hất nó xuống đất, giả như nó tự mình chòi đạp rồi té xuống, đầu đập vô một vật cứng nào đó, như cái ghế chẳng hạn. Nó chết như vậy thì lỗi thuộc về anh Hai trông chừng con không cẩn thận, đâu có liên quan gì tới vợ chồng mình. Mà anh Hai thì khờ khạo như vậy, làm sao có đủ lý lẽ để biện minh? Anh thấy em tính vậy có được không?
            Đạt vỗ tay đánh đét vào đùi một cái:
            - Ba phát! Em đúng là vợ thông minh của anh!
            Vì đã có sự toan tính trước, nên ngay buổi chiều hôm đó, khi thấy Phát ôm áo quần ra ao giặt, Đạt nhanh chân chạy vội vào phòng. Thằng bé đang ngủ yên, miệng vẫn còn mút ngón tay chùn chụt. Xung quanh thằng bé, Phát đã cẩn thận tấn một hàng gối ôm che nó lại.
            Đạt tiến tới gần, giơ hai bàn tay to tướng vào chiếc cổ bé nhỏ của đứa bé. Lúc tay Đạt vừa chạm vào làn da mát rượi của nó thì bỗng dưng Đạt đau buốt ở đỉnh đầu như có ai đang đóng một cây đinh thật dài vào sâu trong đó.
            Đạt hai tay ôm lấy đầu, mắt nổ đom đóm, loạng choạng chạy ra khỏi phòng của Phát.
            - Anh bị làm sao vậy?
            Mỹ giật mình khi thấy Đạt ngã nhào xuống giường, hai tay ôm lấy đầu lăn lộn, miệng không ngừng rên rỉ:
            - Ôi, cha mẹ ơi… đau quá! Ối… ối, đau quá cha mẹ ơi…
            Mỹ hoảng hốt la to lên, Phát từ ngoài vườn chạy ào vô, bà Cả ở nhà trên lụm cụm đi xuống, nhưng cả ba người cũng chỉ biết giương mắt đứng mình Đạt vật mình vật mẩy, không ai biết phải làm gì.
            Một lúc sau, Đạt buông tay ra nằm thở dốc, cả người đầm đìa mồ hôi.
            Mỹ lo sợ hỏi chồng:
            - Anh ơi… anh bị sao vậy?
            Đạt hổn hển nói trong tiếng thở gấp rút:
            - Anh cũng không biết nữa! Tự nhiên… tự nhiên đau buốt ở đỉnh đầu, giống như có người lấy đinh đóng vô đó vậy…
            Bà Cả tới sát bên con trai, sờ nhẹ vào đầu Đạt:
            - Giờ sao rồi con?
            - Giờ thì không còn đau chút nào cả, con chỉ mệt thôi!
            Đạt trả lời.
            Mỹ miết mấy ngón tay lên đỉnh đầu, nơi Đạt bảo có người đóng đinh vào đó. Ở đó hoàn toàn không có một vết trầy xước nào, dù là rất nhỏ.
            Bà Cả trấn an:
            - Chắc là bị trúng phong trúng gió gì rồi! Mỹ à, chút nữa cơm nước xong con nhớ tới nhà thầy lang Hộ để khai bệnh rồi bốc cho chồng bây vài thang thuốc. Còn nếu thằng Đạt khoẻ thì cùng đi cho người ta bắt mạch sẽ dễ điều trị hơn.
            - Dạ
            Mỹ ngoan ngoãn vâng lời.
            - Thôi, nằm đó nghỉ ngơi chút đi con!
            Bà Cả nói xong đi trở lên nhà trên, Phát cũng bỏ về phòng mình. Còn lại hai vợ chồng, Đạt cầm táy vợ lo lắng:
            - Thật là lạ em à! Lúc anh… lúc anh vừa toan bóp cổ thằng nhỏ thì lập tức bị như vậy. Có khi nào… có khi nào đúng là mẹ nó về để che chở cho nó không?
            Bất giác Mỹ rùng mình, nhưng cô biết trong giờ phút này không thể để Đạt hoang mang, không thể để kế họach của cô bị phá sản.
            Mỹ gượng cười xoa đầu chồng:
            - Anh đau quá nên hồ đồ mất rồi! Tội nghịêp cho chồng em biết bao nhiêu! Nhưng anh đừng có sợ, chắc là đúng như má nói, anh bị trúng gió trúng phong gì đó thôi, tất cả chỉ là sự trùng hợp…
            - Ừ, có lẽ đúng thế thật! Trùng hợp… có lẽ…
            Đạt lẩm bẩm.
            Sau sự việc đó, mặc dù Mỹ và Đạt không ai chịu thừa nhận thằng bé được sự chở che của một thế lực vô hình nào đó, nhưng cả hai đều cảm thấy chùn tay nên chưa dám tiếp tục thực hiện ngay ý đồ đen tối.
            Giữa lúc đó trong làng lại bắt đầu xôn xao lên vì những việc lạ liên tiếp xả ra.
            Đầu tiên là nhà chị Nở. Chị cũng mới sinh con, nhưng sữa mẹ không đủ cho đứa nhỏ bú, chị phải cho nó bú dặm sữa ngoài.
            Tối đó, chị nở pha sữa cho con xong, thấy còn nóng, chị để đó đi xuống bếp dọn dẹp. Lát sau trở lên thì… sữa trong bình đã cạn sạch, chỉ còn trơ lại cái chai.
            Chị Nở vô cùng thắc mắc, vì lúc đó trong nhà không có ai ngoài chị và đứa bé.
            Chiều, vừa thấy chồng về, chị Nở vội vàng kể lại cho chồng nghe việc lạ lùng ấy, nhưng nghe xong chồng chị chỉ cười hềnh hệch:
            - Bà sắp già rồi nên bắt đầu lẩm cẩm, chưa pha sữa mà cứ nhớ pha rồi, chứ làm gì có chuyện đó! Hổng lẽ ăn trộm vô nhà uống trộm bình sữa của con bà? Nói chuyện vớ vẩn vậy mà cũng nói được!
            Chị Nở tiu nghỉu không biết nói sao.
            Nhưng liên tiếp những ngày sau, thỉnh thoảng chị lại bị mất sữa, giống y như lần trước, ngay cả lúc có chồng ở nhà, có anh làm chứng cho rằng rõ ràng sữa chị đã pha rồi chứ không phải là chuyện nhớ quên lẩm cẩm nữa. Cả anh chồng cũng không biết giải giải thích sao, chỉ biết từ đó, mỗi lúc pha sữa cho con xong, chị hoặc anh cứ phải ngồi đó nhìn chằm chặp, không dám rời xa bình sữa.
            Sau nhà chị Nở thì những sự việc tương tự như vậy lại xảy đến với các nhà khác có con nhỏ trong làng.
            Sữa, tã lót, khăn lau, phấn rôm sảy… những vật dụng thường dùng cho trẻ sơ sinh cứ thỉnh thoảng lại bị mất đi một cách kỳ bí trong mỗi gia đình.
            Vụ việc ở những nhà có trẻ con vẫn còn đang tiếp tục diễn ra thì lại đến phiên các bà bán hàng tạp hóa kêu la oai oái.
            Chuyện kể của các bà chủ tiệm đều tương tự như nhau:
            Thỉnh thoảng vài ngày, vào lúc chập choạng tối, có một phụ nữ lạ mặt đến hỏi mua sữa và một vài thứ đồ dùng cho em bé. Khi cuộc mua bán đã xong và người phụ nữa kia đã đi khỏi thì người bán hàng mới phát giác ra những tờ giấy bạc mà người kia đưa cho thật chất chỉ là những chiếc lá cây đã khô quắt.
            Tiếng đồn nhanh chóng lan ra xa, khiến cho các tiệm hàng hóa khác cứ vừa tắt mặt trời là vội vội vàng vàng đóng kín cửa. Chỉ khi nào nghe tiếng người quen gọi mới dám mở cửa đưa hàng ra.
            Họ không bán hàng nhưng hàng của họ bị mất. Mỗi khi mất thứ gì đều có vài ba chiếc lá cây để vào chỗ đó…
            Số lượng mất mát không lớn, người ta không báo cáo lên chính quyền địa phương nhưng nó lại trở thành đầu đề cho mọi chuyện ngồi lê đôi mách, mọi chuyện bàn tán trong làng.
            Những chuyện đó cũng đã đến tai Mỹ và Đạt. Chỉ riêng bà Cả vẫn không biết gì. Vì bà vốn ít khi ra khỏi nhà, tất cả mọi việc đều do bà chỉ huy và người thực hiện là vợ chồng Đạt – Mỹ. Những gì xảy ra bên ngoài mà bà biết được là do vợ chồng Đạt – Mỹ nói lại, còn một khi họ đã giấu thì bà cũng khó lòng hay biết.
            Chuyện này họ cũng không muốn bà biết.
            Mỹ càng lo sợ trước những tin đồn, càng muốn nhanh chóng thủ tiêu thằng bé. Rất nhiều lần hai vợ chồng suýt ra tay, nhưng khi thì Phát hoặc bà Cả bất ngờ xuất hiện.
            Những lúc tắm cho thằng bé, đáng lẽ phải pha nước ấm, phải tìm nơi kín gió, nhưng Mỹ lại cố tình mang nó tới sát cửa sổ, và toàn dùng nước lạnh. Mỹ mong muốn nó đổ bệnh. Nhưng từ ngày mẹ nó mất tới giờ, chưa khi nào nó bị ấm đầu sổ mũi.
            Bà Cả cảm thấy yên lòng lắm. Thằng cháu nội mỗi ngày một tròn trĩnh, nó lại không mấy khi quấy khóc, nên bà càng đưa thêm nhiều tiền cho Mỹ để cô mua các thứ về bồi bổ cho nó.
            - Má không cần đưa tiền mua sữa cho nó đâu, sữa thím ba mua về không bao giờ thằng chịu bú.
            Phát nói khi trông thấy mẹ  mình đưa tiền cho Mỹ.
            Bà Cả ngạc nhiên:
            - Con nói sao? Nó không uống sữa do thím ba nó mua về? Vật nó uống sữa của ai?
            - Con nói với má rồi đó! Mẹ nó lo cho nó!
            Phát hờ hững nói.
            Mỹ xen vào:
            - Anh Hai nói gì kỳ vậy? Ngày nào em cũng mấy lượt pha sữa cho thằng nhỏ rồi chính tay em đút cho nó bú, anh nỡ lòng nào nói vậy?
            Mỹ có vẻ ấm ức, sụt sịt khóc.
            Bà Cả vỗ về con dâu:
            - Thôi, con đừng chấp nhứt anh Hai con làm gì, từ ngày vợ nó chết, nó còn tỉnh táo gì nữa đâu. Nó muốn nói sao thì nói, ai mà nghe nó. Thuở đời nay, con nó mỗi ngày một lớn như vậy mà nó bảo không uống sữa là sao chứ?
            Phát nghe mẹ nói vậy, chỉ cúi đầu rồi lặng lẽ bỏ đi.
            Chợt nhớ ra, bà Cả bảo Mỹ:
            - Tuần sau con út về nghỉ hè. Con nói chồng con ngày mai nó có quỡn thì lên xã nhờ người ta trước một tiếng để tuần sau mời người ta xuống đây giúp má lập di chúc cho xong. Chừng đâu đó xong xuôi rồi, má giao hết mọi việc lại cho con coi sóc, lúc này má cảm thấy mệt mỏi nhiều lắm rồi con ạ, cũng không biết còn sống tới lúc nào nữa?
            Mỹ gượng cười:
            - Má… sao má nói vậy… má còn khỏe lắm mà…
            Tối hôm ấy Mỹ nói với chồng:
            - Anh tính sao thì tính. Tuần sau cô út về, tuần sau má làm di chúc rồi đó! Nếu không giải quyết sớm là coi như mình khó có cơ hội nữa. Cô út về, nhà có thêm một người. Cô út lại khôn ngoan lanh lẹ, sợ mọi hành vi của mình khó qua khỏi mắt của cô út lắm đó! Mà em thấy cô út nhà này cũng có đôi chút cảm tình với bà Dịu…
            Đạt chắp tay sau đít đi tới đi lui trong phòng nét mặt cau lại vì mải suy tính mưu ma chước quỷ.
            Một lúc sau Đạt dừng lại mỉm cười:
            - Tối mai, anh sẽ làm bộ nhờ ông Phát đi mua giùm vài thứ lặt vặt, trong thời gian đó ở nhà mình ra tay. Kệ, làm gấp gáp lên, không chờ đợi thời cơ nào nữa hết. Chắc cũng không ai nghi ngờ gì đâu, vì mình cũng đã nuôi nó mấy tuần rồi, có thể người ta nghĩ nó chết là do xui rủi mà thôi…
            Mỹ thở dài:
            - Anh tính sao cũng được, em mệt mỏi lắm rồi!
            - Ừ, vậy thì cứ thế mà làm!
            Nói xong câu đó Đạt lên giường ngủ. Mỹ đi ra nhà ngoài xem xét lại các cửa nẻo đã đóng chặt hết chưa. Cô vốn cẩn thận, luôn sợ có người rình mò trộm cắp nhà mình, nên ngày nào cũng đích thân đi xem qua một lượt.
            Khi đã yên tâm vì tất cả các cánh cửa đều đã được đóng kín, Mỹ dợm quay vào buồng với chồng, bất chợt cô trông thấy một bóng người thoáng qua ở lối dẫn xuống nhà bếp.
            Ai thế nhỉ? Bóng người đó chắc chắn không phải là Phát hay Đạt. Bà Cả ư? Không đâu, bà đâu còn cái nhanh nhẹn nhẹ nhàng như vậy. Vậy thì trong nhà này ngoài cô ra còn có ai nữa đâu?
            Bỗng dưng Mỹ nghe lạnh dọc theo sống lưng, gai ốc trên người dựng đứng cả lên. Cô vừa há miệng toan la lớn lên nhưng vội ngậm chặt lại. Đạt đã hứa chắc ngày mai sẽ ra tay với thằng bé, nếu để Đạt biết nỗi lo sợ của mình e rằng Đạt cũng sợ lây mà không dám thực hiện.
            Lòng ích kỉ tham lam đã che mờ tâm trí và lương tâm của Mỹ. Cô đã quyết định, dù thế nào cũng phải loại trừ cho bằng được thằng nhỏ đó.
            Và nhất là trong lúc này!
            Mỹ đã trễ kinh hơn một tuần. Cô nghĩ mình đang mang thai nhưng vẫn chưa dám công bố sớm, để chờ thêm vài ngày nữa cho thật chắc ăn.
            Nhất định đứa con này của cô mới là người thừa kế gia tài một cách hợp pháp, thằng nhỏ kia đừng hòng phá bĩnh kế hoạch của cô.
            Mặc dù rất lo sợ nhưng Mỹ không dám nói cho Đạt biết, cô vội vàng lên giường, chui rúc vào lòng Đạt. Đạt không biết gì, hắn chỉ nghĩ vợ đang làm nũng nên quàng tay ôm cô chặt cứng vào lòng.
            Đạt đã ngủ say rồi, tiếng thở đều đều của Đạt phả vào tai Mỹ nhồn nhột, cô vẫn không sao ngủ được. Hễ mắt nhắm lại là Mỹ lại tưởng tượng ra những hình ảnh gớm ghiếc đang nhảy múa đằng sau nhà bếp.
            Đêm thật vắng lặng. Giờ phút này, Mỹ cầu mong cho thằng bé bên kia khóc ré lên để phá vỡ sự thinh lặng khủng khiếp này. Thế nhưng bên căn phòng đó vẫn lặng im không hề có tiếng động.
            Mỹ nằm im lắng nghe mấy tiếng chó sủa vu vơ ở đâu đó rất xa vọng lại. Tiếng côn trùng nỉ non than thở ngoài vườn.
            Mỹ chợt nhớ lại hình ảnh Dịu hụp lặn mấy lần dưới nước, thấy bàn tay Dịu huơ huơ trên mặt nước rồi cứ vươn dài… vươn dài ra mãi. Cánh tay của Dịu như một con rắn khổng lồ đang uốn éo bò vào sát cửa phòng ngủ của Mỹ rồi. Mỹ nhắm tịt mắt lại, vẫn không sao xua đuổi được hình ảnh ghê rợn đó ra khỏi đầu mình.
            Rồi Mỹ lại hé mắt nhìn ra, cô tưởng như đang nhìn thấy Dịu đứng sát cạnh giường, đầu cổ tóc tai, áo quần đều ướt sũng nước.
            Mỹ sợ quá, kéo mền trùm kín đầu mặc dù đang đêm mùa hè khí trời vô cùng oi bức.
            Mỹ ôm chặt lấy Đạt. Đạt làu bàu gỡ tay Mỹ ra, trở mình nằm xoay mặt ra ngoài. Mỹ vẫn lết vào nép sát lưng chồng. Mồ hôi tuôn dầm dề trên mặt Mỹ. Cô nhắm mắt rồi lại mở mắt. Những hình ảnh này nối tiếp những hình ảnh khác cứ lần lượt diễu qua mắt cô khiến cô hoang mang tột độ.
            Thân người ướt sũng, tóc tai dã dượi của Dịu cứ tiến sát, tiến sát mãi vào chỗ Mỹ nằm, rồi bất thần nó hà cái gương mặt bầy nhầy máu thịt vô mặt Mỹ làm cô muốn ngất lịm đi. Mỹ không đủ sức la lên, cô chỉ cấu mạnh vào người Đạt.
            Đạt giật mình hỏi:
            - Cái gì vậy?
            Mỹ ôm cứng lấy Đạt:
            - Anh ơi… em sợ…
            - Sợ cái gì? Tự nhiên mà sợ cái gì? Thôi, ngủ đi, đừng lộn xộn nữa, anh buồn ngủ lắm, đừng quấy rầy anh…
            Nó dứt câu, Đạt xoay người chỗ khác ngủ tiếp.
            Mỹ thở dài. Cô biết từ nãy giờ chỉ là do mình tưởng tượng ra thôi chứ hoàn toàn không có bóng ma bóng quỷ nào xuất hiện trong căn phòng này cả. Nhưng sao Mỹ vẫn cảm thấy lòng mình thật bất an.
            Ráng đi, ngày mai… chỉ ngày mai thôi đứa nhỏ đó sẽ không còn. Nếu hồn ma Dịu vì vấn vương đứa con mà lâu nay còn lẩn khuất quanh đây, mất đứa nhỏ, nó cũng sẽ không về đây nữa.
            Dịu ơi, cô đừng trách tôi. Tôi biết cô thương nhớ con cô lắm, thì ngày mai vợ chồng tôi sẽ toại nguyện cho cô. Rồi mẹ con cô sẽ sớm gặp nhau, cô tha hồ mà chăm sóc nuôi nấng nó.
            Suy nghĩ lung tung, mãi đến gần sáng Mỹ mới chìm vào giấc ngủ.
            Suốt ngày hôm sau, đầu óc Mỹ vô cùng căng thẳng, cô hồi hộp, nôn nao mong trời chóng tối để giải quyết cho xong mọi việc, cứ lằng nhằng mãi thế này cô không chịu nổi.
            Chiều tối, khi mặt trời đã khuất hẳn dưới cánh đồng, màn đêm bắt đầu bao trùm lấy vạn vật. Đạt nhờ Phát sang làng bên cạnh làm giúp hắn một vài việc cần thiết.
            Trước khi đi, Phát dỗ cho con trai ngủ. Xong đâu đấy anh căn dặn vợ chồng Đạt – Mỹ:
            - Thằng nhỏ ngủ rồi, nếu nghe nó khóc, chú thím chạy vô xem chừng giúp tôi nhé!
            Đạt cười cười:
            - Anh yên tâm đi, để cháu ở nhà vợ em lo cho.
            Phát vừa đi một lúc, Đạt chờ cho mẹ vào phòng đóng cửa xong xuôi mới cùng vợ vô thăm đứa bé.
            Nó không ngủ. Nó nằm đó mắt mở to, miệng không ngớt ư e, chốc chốc lại cười lên hắc hắc.
            - Anh… sao giống như nó đang giỡn với ai vậy?
            Mỹ kéo áo Đạt, tay chỉ vào đứa bé, sợ sệt.
            Đạt hất tay Mỹ ra, nạt lớn:
            - Em thiệt là… con nít đứa nào hổng vậy! Đã nói bao nhiêu lần rồi mà cứ làm cho người ta bị phân tâm.
            Đạt ngó quanh phòng một lượt rồi ra lệnh cho Mỹ:
            - Em kéo cái ghế đẩu đó đem lại đây… ừ, được rồi… không, để cho cái ghế nằm xuống, chút nữa mình sẽ xô thằng nhỏ xuống, giống như nó bị rớt xuống đất, không may đập đầu vô cái ghế này vậy…
            Mỹ làm theo lời chồng sai bảo, cô cảm thấy tay mình run run.
            Đạt cúi người xuống giường, tay lăm lăm chiếc gối định đè lên mặt đứa bé. Đứa bé vẫn mở to mắt nhìn Đạt, toe miệng ra cười…
            Khi chiếc gối chưa kịp chạm vào mặt thằng bé thì như có một mãnh lực vô hình nào đó xô bật Đạt ra ngoài khiến hắn ngã chổng kềnh ra đất. Mỹ hoảng sợ, nhưng lúc đó cái ác trong lòng cô cũng đang trỗi dậy. Mỹ không thèm đoái hoài gì tới chồng nữa, cô nhào tới dùng hai bàn tay bóp chặt lấy cổ thằng bé.
            “Bốp! Bốp!”
            Hai cái tát nẩy lửa vụt thẳng vào hai bên má Mỹ. Cô giật mình lùi lại, đưa tay lên bưng lấy mặt, mắt ngó dáo dác khắp nơi. Trong căn phòng lúc đó, ngoài vợ chồng cô và đứa bé vẫn không có một ai!
            Đạt lồm cồm ngồi dậy hỏi Mỹ:
            - Em sao dậy?
            - Ai đó vừa mới tát em…
            - Ai?
            Đạt gầm lên.
            Nhưng vẫn không một tiếng trả lời.
            Trên giường, thằng bé chợt cười lên hăng hắc như chọc tức Đạt. Hắn tức tối nhào tới nhấc thằng bé lên định quật ngay nó xuống đất.
            Giống như vợ lúc nãy, Đạt lãnh trọn hai cái tát như trời giáng vào mặt. Và đứa bé, lạ lùng chưa… đứa bé như một thiên thần đang bay lơ lửng trên không trung tiến dần ra cửa, bỏ lại những tiếng cười nho nhỏ tươi vui, bỏ lại hai vợ chồng Đạt – Mỹ trong cơn kinh hoàng tột độ.
            - Con trai tôi đâu? Con trai tôi đâu?
            Phát gào lên thê thiết.
            Tiếng gào của Phát làm bà Cả thức giấc. Bà lo lắng hỏi vọng xuống:
            - Mỹ à, Mỹ! Chuyện gì ở dưới đó vậy con?
            Nghe tiếng mẹ chồng, Mỹ quýnh quáng chạy lên. Vừa trông thấy bà Cả bước từ trong phòng ra, Mỹ mếu máo:
            - Má… thằng nhỏ… thằng nhỏ biến mất rồi!
            Bà Cả đứng sững lại, lắp bắp:
            - Biến mất? Cháu nội đích tôn của tao biến mất à? Là sao? Tao không hiểu gì hết? Biến mất là sao?
            Mỹ run rẩy:
            - Anh Hai đi công chuyện. Lúc ảnh đi là thằng nhỏ vừa mới ngủ. Ảnh có dặ vợ chồng con hễ có nghe nó khóc thì chạy qua xem giúp. Tụi con về phòng nằm nói chuyện, không nghe động tĩnh gì bên phòng anh Hai nên cũng không có qua làm gì… Tới chừng… tới chừng anh Hai về thì phát hiện thằng nhỏ không có trong phòng!
            Bà Hai run bây bẩy níu chặt cánh tay Mỹ:
            - Đi… dìu má đi xuống phòng anh Hai con.
            Mỹ dìu mẹ chồng xuống nhà dưới, mặt mũi cô xanh mét, cắt không còn hột máu.
            Phát và Đạt lúc đó cũng không hơn.
            ĐaÏt đứng sát vào tường, mặt căng ra lo sợ. Phát thì cuống cuồng lồng lộn lên:
            - Con tôi đâu? Nó ở nhà với chú thím rồi chú thím đã làm gì nó? Trả nó lại cho tôi… Trả con tôi lại cho tôi…
            Phát nhào tới, túm chặt lấy ngực áo Đạt. Đạt không dám chống trả, chỉ biết nhìn mẹ cầu cứu.
            Bà Cả can:
            - Phát à, chuyện đâu còn có đó! Con đừng làm vậy, bình tĩnh lại, kể rõ đầu đuôi ngọn ngành cho má biết coi…
            Phát buông Đạt ra, buông người ngồi xuống giường mắt vẫn long lên sòng sọc:
            - Thằng Đạt kêu con đi công chuyện cho nó. Trước khi đi, con đã gửi thằng bé lại cho vợ chồng nó. Vậy mà lúc về lại không thấy thằng bé đâu, má nghĩ có phải nó đã giết chết thằng nhỏ rồi không?
            Bà Cả run lẩy bẩy, hối thúc Mỹ thắp sáng tất cả đèn có trong nhà và bắt đầu soi tìm thằng bé khắp các ngõ ngách trong nhà, rồi tìm dần ra cả khu vườn quanh nhà.
            Đang đêm, trông thấy đèn đuốc sáng rực trong nhà chủ túa ra sân, gã làm vườn tò mò chạy tới hỏi:
            - Cậu Ba, có chuyện gì vậy?
            - Thằng nhỏ con anh Hai tôi đâu mất rồi!
            Gã làm vườn giật mình, đưa mắt liếc sang Mỹ, Mỹ vội cụp mắt xuống, lúp xúp chạy theo chồng.
            Gã làm vườn chạy vội về căn chòi của mình lôi ra một bó đuốc rồi đốt lên cùng với mọi người tản ra đi tìm kiếm.
            Trong lòng gã làm vườn giờ đây đang trào lên một nỗi sợ hãi. Gã sợ hãi sự độc ác tột độ của Mỹ.
            Từ sau lần vụng trộm đầu tiên giữa hai người bị Dịu phát hiện, Mỹ đã “ăn quen bén mùi” nên cứ một, hai ngày là lại mò ra với gã.
            Gã – một thằng đàn ông sức lực tràn trề, đang sống xa gia đình, thiếu thốn mùi vị đàn bà, thì làm sao gã có thể chối từ miếng mồi ngon lành, béo bở đó?
            Mới cách đây mấy ngày, Mỹ đã tiết lộ cho gã biết rằng có thể cô đã mang thai, mà đứa con này chắc chắn là con của gã.
            Trong lúc phấn khích, Mỹ miên man kể cho gã nghe về kế hoạch chiếm đoạt gia tài của mình.
            Cuối cùng Mỹ khẳng định:
            - Chỉ có đứa con em đang mang trong bụng mới có đủ tư cách để thừa hưởng gia sản này. Anh cố gắng chìu chuộng em đi, sau này con của chúng ta lớn lên, em sẽ dạy nó đối xử thật tốt với anh…
            Hôm đó gã đã hết lời khuyên lơn Mỹ, van xin Mỹ hãy vì đứa con trong bụng mà đừng nhúng tay vào tội ác.
            Thấy gã phản đối quá, Mỹ đã ậm ừ cho qua chuyện. Gã cũng hy vọng Mỹ chỉ nói thế thôi chứ không thể ra tay tàn độc đối với một đứa trẻ thơ hoàn toàn vô tội.
            Vậy mà hôm nay sự việc lại ra thế này! Khi vừa nghe cậu Ba Đạt nói cho biết đứa nhỏ mất tích, gã đa biết ngay thủ phạm chính là Mỹ. Gã vừa đau đớn vừa lo sợ.
            Ban đầu ga  làm vườn cũng cảm cấy thích thú mỗi khi được gần gũi Mỹ. Nhưng càng về sau, khi phát hiện Mỹ là một người đàn bà lòng dạ ác độc thâm sâu, gã bắt đầu lo sợ.
            Gã sợ, đến một lúc nào đó nếu không may chuyện quan hệ mờ ám giữa gã và Mỹ đổ bể ra, rất có thể Mỹ sẽ ra tay giết luôn cả gã để bịt đầu mối. Liên quan tới Mỹ thì bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra!
            Đã mấy lần gã định bỏ đi, nhưng rồi gã cứ nấn ná mãi cũng không rõ vì đâu nữa. Có lẽ, bên cạnh nỗi sợ hãi ấy, gã cũng còn chút đam mê xác thịt với Mỹ nên còn luyến tiếc khi phải rời xa.
            Nhưng ngay lúc này đây, gã đã quyết định rồi. Sáng mai gã sẽ xin nghỉ việc ở nhà này, gã sẽ lại lang thang trôi dạt đến một nơi nào đó.
            Lòng gã không khỏi bùi ngùi khi nghĩ tới đứa con – mà có thể đó chính là giọt máu của gã – sẽ được sinh ra ở đây, được lớn lên ở đây, được nuôi dạy bởi một người mẹ tàn ác như Mỹ, thì tương lai của nó sau này rồi sẽ ra sao?
            Gã làm vườn cũng giống như Phát, Đạt và Mỹ soi đèn rọi vào từng lùm cây bụi cỏ để mong tìm được đứa bé, nhưng lùng nát cả khu vườn rồi mà tung tích của thằng bé vẫn không sao bíet được.
            Gã làm vườn đinh ninh Mỹ giết chết nó rồi, có thể xác thân bó bỏng của nó đã bị cô vứt bỏ dưới sông hoặc chôn vùi đâu đó, gã không có hy vọng gì tìm thấy nó.
            Tiếng khóc của bà Cả rền rĩ vọng ra làm cho mọi người càng thêm rối ruột.
            Vợ chồng Đạt – Mỹ là người lo sợ nhất.
            Chính mắt hai người đã thấy thằng bé bay lên, nhưng ai sẽ tin lời họ? Rồi ngày mai đây sự việc này lan ra ngoài, chắc chắn ai cũng nghĩ vợ chồng cô là người thủ tiêu đứa nhỏ.
            Chứ sao nữa, Phát đi vắng gởi con lại cho vợ chồng cô, mấy tiếng đồng hồ trở về thì con mất. Thằng nhỏ lại chưa biết đi, chưa biết chạy, thậm chí đến bò nó cũng chưa biết thì làm sao có thể ra khỏi nhà cho được?
            Chắc chắn mọi người sẽ nghĩ như vậy, kể luôn bà Cả, luôn cô út Loan sẽ về nay mai…
            Vị trí của vợ chồng cô trong nhà này sẽ ra sao?
            Chẳng lẽ bao nhiêu công sức của vợ chồng cô đã đổ ra giờ hóa thành tro bụi cả hay sao?
            Nước mắt nhạt nhòa trên mặt Mỹ. Cô không phải khóc vì lo lắng cho đứa nhỏ, mà chính là lo lắng cho chính bản thân cô, lo lắng cho cái địa vị của vợ chồng cô trong nhà bà Cả.
            Phát vứt cây đèn, ngồi phịch xuống sân ôm mặt khóc rống lên thảm thiết. Đạt cùng gã làm vườn chỉ biết đứng đó trơ mắt nhìn, không ai dám tới gần, cũng không ai dám nói lời nào an ủi.
            Trong nhà, bà Cả không ngớt kêu trời kêu đất.
            Phát khóc một hồi rồi vùng đứng lên chạy ra hướng bãi đất hoang, nơi có nấm mồ cô đơn của Dịu.
            Gã làm vườn định chạy theo, nhưng Đạt cản lại:
            - Thôi, cứ để anh ấy một mình! Đừng quấy rầy ảnh nữa.
            Đạt thất thểu quay vào, Mỹ lủi thủi cầm đèn đi theo sau lưng chồng. Gã làm vườn nhìn theo họ một lúc rồi ngao ngán thở dài:
            - Người giàu khổ hơn người nghèo nhiều quá!
            Gã lững thững quay về căn chòi nhỏ, gom góp áo quần tính sáng hôm sau bỏ đi thật sớm, không cần lấy tiền công của tháng vừa rồi.
            - Chết cha! Mình đi như vậy, họ sẽ vu oan cho mình bắt cóc đứa nhỏ thì chết là cái chắc! Thôi, thôi… không được rồi, dù muốn dù không cũng phải nán lại thêm ít bữa nữa, chờ việc này sáng tỏ rồi mình mới có thể muốn đi đâu thì đi!
            Gã làm vườn ngao ngán cho tình đời, ngao ngán cho lòng dạ đàn bà hiểm sâu cay độc!
            Phát cắm đầu chạy một mạch ra tới mộ vợ. Anh quỳ xuống úp mặt vào nền đất lạnh lẽo mà khóc nghẹn ngào:
            - Dịu ơi… Anh là kẻ vô dụng quá phải không em? Anh thương em, anh yêu em nhưng anh không bảo vệ được em, không giữ gìn được em… Rồi bây giờ ngay đến đứa con trai bé bỏng của vợ chồng mình anh cũng không giữ được… Dịu ơi, em trừng phạt anh đi… em giết chết anh đi, anh muốn được gặp em, được gặp lại con của chúng ta… Dịu ơi…
            Trời đêm lặng gió nhưng tàn cây trâm bầu gần đó lại không ngừng rung lên khe khẽ, tiếng lá cây xào xạc mà Phát nghe như tiếng vợ hát ru con. Anh ngẩng mặt lên, trên vòm lá hoàn toàn không có một bóng hình nào ẩn hiện!
            Nhưng giữa lúc đó, Phát nghe rõ ràng có tiếng cười khúc khích của con trai. Anh bật dậy nghiêng tai nghe ngóng. Tiếng ư e của nó, tiếng cười của nó đó, rõ ràng là tiếng của con trai anh, không thể lẫn vào đâu được hết!
            Tiếng cười khi gần khi xa khiến Phát càng thêm hoang mang lo lắng.
            - Con ơi… con ở đâu? Dịu ơi… có phải em đang bế con không? Em trả lời anh đi Dịu ơi…
            Một làn gió nhẹ thoảng qua, một bóng trắng lướt qua rồi dừng lại bên cạnh Phát.
            - Dịu ơi… đúng là em rồi… Anh mừng quá Dịu ơi… Con mình đâu? Con mình đâu rồi em?
            Phát quýnh quáng vừa cười vừa khóc.
            Hồn ma của Dịu nhìn Phát rưng rưng nước mắt:
            - Anh hãy ráng bảo vệ con mình… Người ta đang rắp tâm hại nó… Anh hứa với em đi, anh phải bảo vệ con nghe anh?
            Dịu đứng cạnh bên anh nhưng Phát lại nghe tiếng vợ như từ ở nơi xa xôi vọng đến.
            Từ ngày Dịu chết đến nay, tuy đã nhiều lần gặp lại mỗi lúc Dịu về chăm sóc cho thằng bé, nhưng đây là lần đầu tiên Phát nghe được tiếng nói của cô. Phát sung sướng đến trào nước mắt.
            Anh đưa hai tay ra:
            - Dịu ơi, em cho anh được cầm lấy tay em đi, một chút thôi, một chút thôi cũng được nghe em! Anh… anh nhớ em nhiều lắm!
            Dịu lắc đầu buồn bã nhìn chồng:
            - Vợ chồng mình bây giờ đã âm dương cách biệt, không thể nào anh có thể cầm được tay em như ngày trước… em thương anh nhiều lắm, nhưng em không thể… Thời gian em được phép quanh quẩn bên cạnh để bảo vệ anh và con cũng không còn nhiều nữa. Em sắp phải đi xa rồi. Anh hãy thay em mà chăm sóc cho con trai của chúng ta. Nhưng… anh hiền lành quá, anh nhân hậu quá, anh không đủ sức chống chọi với cái ác đâu… Trong nhà hiện giờ chỉ có cô út là có thể giúp được anh thôi. Anh nhớ lời em nói… Nhớ bảo vệ con mình…
            Phát còn đang ngẩn người ra nghe những lời Dịu nói thì hình bóng cô trước mặt Phát mờ dần rồi biến mất trong làn gió nhẹ.
            - Dịu ơi… em ơi…
            Phát gọi to, nhưng xung quanh hiện tại vô cùng vắng lặng.
            Chợt có tiếng con nít khóc gần đó, Phát vội vã dò tiếng khóc vòng qua phía chân ngôi mộ, anh trông thấy thằng bé đang nằm bình yên, dưới lưng nó được lót bằng mấy tàu lá chuối.
            Mừng rỡ, Phát ôm chặt đứa nhỏ vào lòng, nước mắt anh trào ra rơi lộp độp xuống mặt thằng bé, nó huơ huơ bàn tay bé xíu như muốn lau khô dòng lệ cho cha.
            Bên tai Phát lại nghe văng vẳng lời dặn dò của Dịu:
            - Người ta đang rắp tâm hại nó… Anh phải bảo vệ con mình!
            Một tay Phát ôm đứa bé, một tay anh choàng qua ngôi mộ, thầm thì như đang nói chuyện với người vợ thân yêu:
            - Em yên tâm đi… Anh sẽ bảo vệ được con… Từ nay anh sẽ không để bất cứ người nào hãm hại được con trai của chúng ta…
            Gió đêm bắt đầu thổi mạnh, đứa bé trong tay Phát chỉ phong phanh trong chiếc áo mỏng. Anh vội vàng cởi áo mình ra quấn chặt lấy con rồi bế nó về nhà.
            Ở trong nhà, bà Cả vẫn còn đang khóc lóc kể lể:
            - Trời ơi… tôi làm già mà ông trời nỡ đối xử với tôi như thế? Tôi già từng tuổi này rồi mới có được một chút cháu nội, vậy mà ai nỡ bắt nó đem đi… Làm sao tôi sống được nữa đây hở ông trời ơi… Nếu tôi gây ra tội lỗi gì thì ông cứ nhắm vào cái mạng già của tôi mà trừng phạt, cháu tôi nó còn bé bỏng quá, nó đâu làm gì nên tội… Ớ ông trời ơi là ông trời ơi…
            Bà Cả than trời trách đất rồi quay sang chửi mắng vợ chồng Mỹ:
            - Hai đứa chúng mầy đã làm gì thằng nhỏ? Tại sao thằng nhỏ lại mất tích? Tụi bây nói cho rõ đi, mau đem nó về trả lại cho tao đi…
            Mỹ khóc lóc, giải thích cách nào bà Cả cũng không chịu nghe. Bà xô Mỹ ra, không cho cô lại gần khiến Mỹ càng thêm lo sợ. Cô sợ mẹ chồng sẽ không thương mình nữa, sợ cái di chúc sẽ được lập nay mai vợ chồng mình chỉ được hưởng một phần nhỏ bé mà thôi…
            Đạt không nói gì, chỉ ngồi gục đầu trên ghế.
            Trong giờ phút này Đạt hoàn toàn không nghĩ gì tới gia tài của cải, hắn cũng không nghĩ thương mẹ già cháu dại, thương người anh ruột thịt đang đau cắt lòng cắt dạ. Hắn chỉ đang lo sợ cho bản thân.
            Rõ ràng hắn thấy thằng bé cứ nằm ngửa như vậy mà bay lên. Nếu nghe ai kể lại, chắc chắn hắn sẽ bảo là người đó trông gà hóa cuốc hoặc đang kể chuyện hoang đường. Nhưng đằng này chính mắt hắn trông thấy thì làm sao hắn còn nghi ngờ gì nữa?
            Tất cả những lời đồn đại bên ngoài về một người mẹ ma đêm đêm đi mua sữa, đi ăn cắp sữa về cho con phải chăng là sự thật? Lời nói của anh Hai, những lời mà trước đây cả nhà không ai tin phải chăng cũng là sự thật? Đêm đêm Dịu hiện về cho con bú, dỗ cho con tròn giấc ngủ?
            Đúng rồi! Đúng như vậy rồi! Thằng bé vốn bú rất ít những vẫn khỏe mạnh phổng phao, nếu không phải do mẹ nó chăm sóc thì là cách gì được như thế?
            Rồi cả những lần vợ chồng Đạt toan ra tay giết đứa bé, lúc nào cũng có một cái gì đó ngăn cản kịp thời!
            Trời ơi! Ma! Đúng là ma rồi! Biết từ nay con ma đó nó có chịu tha thứ cho mình không? Hay nó cứ bám riết lấy vợ chồng mình mà đòi nợ?
            “Dịu ơi, cô chết là do tự nơi phần số của cô vắn, cô đừng về đây ám vợ chồng tôi… Trước kia tôi có lỗi lầm gì với cô, cũng xin cô từ bi hỉ xả cho tôi… Cô có cần gì thì cô cứ báo mộng cho tôi biết, tôi sẽ đáp ứng cho cô thật đầy đủ rồi cô bỏ qua hết mọi lỗi lầm của chúng tôi, cô Dịu ơi…” Đạt van vái thầm trong bụng.
            Giữa lúc bà Cả còn đang lăn lộn khóc than thì Phát từ bên ngoài xồng xộc đi vào, trên tay ôm đứa bé lúc này đã ngủ yên.
            Bà Cả mừng rỡ chồm lên:
            - Trời ơi, cháu của tôi! Đứa cháu vàng cháu ngọc của bà! Cháu làm sao mà để bà khóc hết nước mắt như vầy hả cháu?
            Bà ôm lấy thằng bé khóc hù hụ làm nó thức giấc, liếc mắt nhìn bà một cái, chóp chép chiếc miệng nhỏ xíu rồi lại nhắm mắt ngủ tiếp mặc cho đám người lớn đang ì xèo bàn tán xung quanh việc biến mất đột ngột của nó vừa rồi.
            - Anh tìm thấy thằng nhỏ ở đâu vậy?
            Đạt hấp tấp nhổm lên hỏi Phát.
            Phát nhìn trừng trừng vào Đạt, vào Mỹ rồi lạnh lùng nói:
            - Nó ở chỗ của mẹ nó!
            Đạt té ngồi xuống ghế. Bà Cả và Mỹ sững sờ đứng trơ ra không kịp có phản ứng nào trước câu trả lời của Phát.
            - Có kẻ muốn hãm hại nó, mẹ nó phải đưa nó đi để bảo vệ!
            Phát nhìn vào Mỹ nói tiếp.
            Mỹ cụp mắt ngó xuống mấy ngón chân đang di di trên nền nhà.
            - Con nói… con nói có người muốn hại thằng nhỏ? Người đó là ai? Ai mà cả gan dám làm chuyện đó? Còn chuyện mẹ nó là sao? Chẳng phải mẹ nó đã chết cả tháng nay rồi sao?
            Bà Cả thắc mắc hỏi dồn.
            Phát lắc đầu:
            - Con có nói thì má và mọi người cũng không ai hiểu, không ai tin con đâu! Vậy xin đừng ai hỏi gì con thêm nữa. Con chỉ muốn nói một điều là, kể từ hôm nay, bất kỳ ai muốn làm hại thằng bé này đều phải bước qua xác chết của con. Con không cho bất cứ kẻ nào tổn hại tới con trai con, dù kẻ đó là ai…
            Bà Cả, Đạt và Mỹ vô cùng bất ngờ kinh ngạc trước những lời nói mạnh mẽ và không ngoan của Phát.
            Mấy chục năm qua, chưa bao giờ Phát ăn nói lưu loát và dứt khoát đến như thế.
            Bỏ mặc mọi người đang đứng ngẩn ngơ, Phát ẵm con vào buồng, đóng sầm cửa lại.
            Bà Cả vẫn còn muốn hỏi thêm Phát nhiều điều nữa, nhưng thấy tâm trạng con trai đang như vậy bà cũng không dám làm phiền.
            Dù sao thì đứa cháu vàng ngọc của bà cũng được bình yên trở về nhà rồi, đêm cũng đã khuya, để cho mọi người ngủ đi, việc gì hãy đợi đến ngày mai rồi hẵng giải quyết tiếp.
            Bà Cả đứng lên chậm chạp đi về phòng, xua tay từ chối khi thấy Mỹ có ý dìu bà đi:
            - Hai đứa về phòng ngủ đi, tao đi một mình được rồi!
            Mỹ hẫng hụt đứng lặng nhìn theo dáng đi lụm cụm của bà mẹ chồng. Một nỗi cay đắng dâng lên trong lòng cô. Hơn một năm qua, Mỹ đã cố công mua chuộc, lấy lòng bà Cả, cô đã tính toán trăm điều, thậm chí đã nhúng tay vào tội ác giết người để cuối cùng đạt được kết quả như thế này hay sao?
            Bà Cả đã tỏ vẻ lạnh nhạt với cô rồi thì bức di chúc kia cô còn gì mà hy vọng nữa?
            - Má! Vợ chồng con sắp có em bé rồi!
            Bất ngờ Mỹ gọi với theo, nói với mẹ chồng. Bà Cả đứng khựng lại, trong khi Đạt giương mắt lên nhìn Mỹ với vẻ ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
            - Mầy có mang từ lúc nào?
            Bà Cả quay đầu lại hỏi.
            - Dạ, khoảng một tháng nay nhưng con chưa chắc nên chưa dám báo tin cho má biết. Mãi đến chiều này con mới khẳng định được. Tính nói cho má biết, nhưng mắc cái vụ lằng xằng của thằng nhỏ nên con chưa kịp thông báo…
            Mỹ nói luôn một hơi.
            Bà Cả nhìn Mỹ dò xét:
            - Vì vậy, vì mầy đã có thai nên mầy muốn vứt bỏ đứa bé kia? Mầy muốn con của mầy độc chiếm hết tài sản của tao?
            Mỹ bật khóc:
            - Má… sao má lại nói vậy? Con… con không hề có ý đó…
            - Có ý đó hay không thì từ từ sẽ biết. Khuya rồi, tất cả về phòng ngủ đi, việc gì thì để đến ngày mai nói tiếp.
            Bà Cả vừa bước đi vừa nói.
            Đạt chụp lên vai vợ:
            - Em… có thật là em đã mang bầu rồi không?
            Mỹ gật đầu, vẫn còn tức tưởi khóc:
            - Nhưng bây giờ đâu còn ý nghĩa gì nữa đâu?...
            Đạt đưa tay bịt mịêng vợ lại không cho Mỹ tiếp tục nói. Hắn dìu Mỹ về phòng.
            - Anh nghĩ xem, má đang thương vợ chồng mình như vậy, đùng một cái lại quay mặt làm lơ, thiệt uổng công em lâu nay chìu lòn bả…
            - Cũng tại em ngu, hết lúc báo tin hay sao mà nhằm vào lúc đó? Trong khi việc thằng nhỏ mất tích ai cũng quy tội cho vợ chồng mình rồi, em lại đột ngột báo mình mang thai, thì làm sao má lại không nghĩ tới chuyện em muốn loại bỏ đứa nhỏ kia để con mình lên ngôi vị độc tôn trong cái nhà này? Em thiệt là ngu ngốc. Có gì sao không nói trước với anh? Sao không bàn bạc với nhau trước?
            Mỹ chống chế:
            - Chỉ tại… chỉ tại lúc đó em hoang mang quá, rồi tự nhiên buột miệng nói ra chuyện ấy…
            - Em có mang sao không cho anh biết?
            Đạt nhìn Mỹ thắc mắc.
            Mỹ lúng túng:
            - Em định… định giành cho anh sự bất ngờ…
            Đạt ngã người ra giường:
            - Như vậy là tốt rồi! Mình sắp có con là tốt lắm rồi! Anh không muốn tranh giành gì nữa đâu, anh mệt mỏi lắm, anh cũng sợ hãi lắm rồi, anh không dám liều mạng lần nữa đâu…
            Mỹ nín khóc nhìn chồng đầy vẻ trách cứ:
            - Vậy chẳng lẽ anh muốn con mình sau này sống trong nghèo khổ? Anh muốn nó phải thua sút thằng kia nhiều mặt sao?
            Đạt nhổm lên gay gắt:
            - Chứ bây giờ em biểu anh phải làm sao? Anh đã cố gắng hết sức rồi, em còn muốn gì nữa? Mình là người, mình có đủ sức đấu lại với ma không? Nếu em muốn gì thì em cứ tự nhiên mà thực hiện một mình đi! Anh đã chào thua, anh xin rút chân ra ngoài, không tham gia vào bất cứ trò nào của em nữa…
            Mỹ tức giận nói gằn từng tiếng:
            - Em không chấp nhận sống như vầy! Mặc dù hiện tại em chưa biết phải làm gì, nhưng em dám nói chắc một điều là em không dễ gì bỏ cuộc nhanh chóng như thế này đâu!
            - Thế thì tùy em vậy!
            Đạt nói xong câu đó, nằm xoay mặt vô tường nhắm mắt lại ngủ.
            Mỹ ấm ức nằm đâu lưng lại với chồng, nước mắt cô lăn dài trên má.
            Hơn một tuần nay, Mỹ luôn hình dung ra cái cảnh tượng khi cô báo tin mình mang thai, mẹ chồng sẽ vui đến mức độ nào, cưng yêu chìu chuộng mình thế nào; chồng mình sẽ mừng rỡ ra sao… Vậy mà giờ đây, người ta đón nhận cái tin quan trọng đó với một thái độ lạnh nhạt, dửng dưng, thử hỏi làm sao Mỹ không cảm thấy đau lòng và cay cú được?
            Tất cả cũng chỉ vì thằng nhỏ đó mà ra! Mỹ càng cảm thấy căm tức thằng bé hơn bao giờ hết.
            Nhưng lúc này đây Mỹ cũng không khác gì Đạt. Cô sợ, rất sợ! Qua sự việc vừa mới xảy ra, đã khẳng định được một điều: Đúng là thằng bé được sự che chở bởi hồn ma của mẹ nó!
            Vậy thì làm sao? Làm cách nào mới có thể loại bỏ nó khỏi gia tộc nhà này? Mỹ không từ bỏ dã tâm, mặc dù cô biết rằng kể từ hôm nay việc đối phó với thằng bé đã trở nên cực kỳ khó khăn, không những nó đã được bảo vệ bằng một thế lực siêu nhiên, mà chính trong ngôi nhà này, một khi xảy ra điều gì không hay cho nó, vợ chồng cô sẽ là người bị nghi ngờ nhiều nhất.
            Nhưng gì thì gì, Mỹ cũng quyết tâm không từ bỏ!
            Mỹ tự đặt ra các giả thuyết và tự mình lý giải: Một khi thằng bé kia chết đi, dù có nghi ngờ Mỹ và Đạt là kẻ ra tay, bà Cả cũng không có bằng chứng nào để kết tội, bởi vì cô cũng đâu có ngu dại gì mà để lại bằng chứng? Đồng thời, bà Cả làm sao có thể dám đi tố cáo với chính quyền về chuyện đó? Danh giá gia đình là điều mà bà Cả luôn coi trọng. Bà cũng đâu thể nào dám đẩy Đạt vô tù? Gia tài bà chỉ có hai thằng con trai, Phát thì bà không hy vọng gì rồi, chỉ còn lại Đạt – chồng Mỹ – mới là người có thể kế tục sự nghiệp, người gánh vác gia đình sau này, thì dù cho ghét hay thương, bà cũng phải cắn răng mà chịu. Vả lại, còn đứa con trong bụng của Mỹ nữa đây!
            Tất cả những điều đó sẽ bảo vệ vợ chồng Mỹ. Nên đối với sự ngờ vực có thể xảy ra trong gia đình, Mỹ không còn sợ nữa!
            Điều mà Mỹ cần tập trung đối phó lúc này chính là Dịu, là hồn ma của Dịu!
            Thuở nhỏ, Mỹ đã từng nghe người ta kể nhiều chuyện ma. Cô nghe xong rồi thôi, không khi nào nghĩ ngợi gì tới nó nữa. Nhưng bây giờ, Mỹ lại chú tâm nhớ lại tất cả những gì đã từng nghe qua để từ đó tìm ra biện pháp chống lại cái hồn ma đáng ghét đó.
            Lúc còn sống Dịu là cái gai trong mắt Mỹ, khi Dịu đã chết đi rồi, Mỹ tưởng cô sẽ được nhẹ lòng, nào ngờ đâu vẫn chẳng được yên? Đúng là nghiệt báo oan gia, chẳng hiểu kiếp trước cô và Dịu có nợ nần gì với nhau nữa không biết.
            Mỹ suy nghĩ trong nỗi ấm ức, cay cú mà cô vừa phải chịu đựng.
             
            ****
            Út Loan về nhà sớm hơn dự tính hai ngày. Vì ban đầu cô dự định sau khi thi xong, cô sẽ ở lại thêm một vài hôm để cùng bạn bè tụ họp đi chơi cho thỏa thích. Nhưng rồi lúc thi xong, cả đám bạn cô đứa nào cũng nôn nóng về thăm lại quê nhà nên đành chia tay nhau, hẹn khi hết hạn nghỉ hè sẽ cùng nhau trở lên trường sớm một chút để thực hiện cái kế hoạch đi vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, Thủ Đức…
            Trong gia đình, út Loan tuy là con gái nhưng lại là người duy nhất được cho ăn học tới nơi tới chốn. Hai anh của cô thì chỉ học hết các lớp ở trường làng là nghỉ ở nhà, mang tiếng giúp đỡ bà Cả nhưng lông bông là chủ yếu.
            Sau khi học xong lớp Năm, bà Cả cũng muốn cho Loan nghỉ học, nhưng cô không chịu, ngày nào cũng khóc lóc. Bà Cả vốn chìu chuộng Loan từ bé, bà thương con gái sớm thiệt thòi vì mồ côi cha từ lúc vừa mới tượng hình trong bụng mẹ. Vả lại mấy ông bà thầy bói mà bà Cả từng xem qua, ai cũng phán út Loan sau này đường công danh sẽ vô cùng rạng rỡ, ai cũng khuyên bà để cho cô đi tiếp trên con đường học vấn. Vì vậy bà Cả mới nén lòng cho con lên tỉnh học, chứ theo ý bà, chỉ có một đứa con gái, bà chẳng muốn rời xa nó, dù là chỉ một ngày.
            Học hết mấy năm trường Tỉnh, út Loan lại tiếp tục theo học ở Sài Gòn. Lúc này bà Cả chỉ biết ngồi nhà đếm thời gian trôi qua, mong mấy năm học của út Loan sớm kết thúc để nó còn về nhà mà lấy chồng sinh con như bao nhiêu đứa con gái khác trong làng. Bằng tuổi với út Loan, nhiều đứa đã con bồng con bế.
            Những lúc vui nhất của bà Cả là những ngày út Loan được về nhà nghỉ, cả gia đình đoàn tụ quanh bà. Những ngày ấy trong nhà bà Cả, ai nấy mặt mũi đều hớn hở, hân hoan…
            Lần nào cũng vậy, trước ngày út Loan về là bà Cả lại chuẩn bị thật nhiều thứ cho con gái. Nào là dọn dẹp lại phòng cho nó, nào là ra chợ tìm mua những món ăn con gái bà ưa thích… Nhà bà Cả tuy giàu có nhưng bà không thuê mướn người ở, thành ra mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do một tay bà quán xuyến.
            Ngày xưa, bà Cả là con gái một nhà phú hộ, nhưng ông Cả chồng bà chỉ là một kẻ trắng tay.
            Tất cả sự nghiệp của chồng, tất cả gia sản bà có hôm nay đều do một tay bà gầy dựng.
            Tuy là con nhà giàu, nhưng bà thuộc loại phụ nữ chịu thương chịu khó, biết tính toán làm ăn, bà tiện tặn, dành dụm từng đồng mới có được cơ ngơi ngày hôm nay.
            Về tới nhà, sau những câu chào hỏi vồ vập ban đầu, út Loan nhận thấy trong nhà mình có một điều gì đó khác lạ, không được bình thường.
            Cái chết của chị dâu thì út Loan cũng đã được báo tin, nhưng cô thừa biết, điều đó chỉ có mỗi một mình anh Hai cô buồn khổ mà thôi, còn mẹ cô và vợ chồng anh Ba hổng chừng còn cảm thấy nhẹ lòng nữa là khác.
            Vậy thì tại sao không khí trong nhà lại trầm lắng một cách khó chịu đến vậy? Út Loan vô cùng thắc thắc, nhưng cô nhủ thầm, để rồi từ từ sẽ hỏi chuyện nhà sau.
            - Anh Hai cho em ẵm cháu chút đi!
            Út Loan chìa hai tay ra, nói với Phát.
            Phát vui vẻ trao con trai cho Loan.
            Từ ngày chào đời, đây là lần đầu tiên thằng bé được gặp măït cô út, nhưng nó không có vẻ gì là xa lạ, trái lại nó tỏ ra quyến luyến với cô như thân thuộc từ bao giờ.
            Ôm đứa cháu trong tay, nhìn vẻ mặt của anh Hai mình, tự nhiên trong lòng út Loan trào dâng một nỗi niềm thương cảm.
            Hôn hít, đùa giỡn với cháu bé một lúc, Loan trả cháu lại cho anh Hai rồi về phòng sửa soạn đi tắm và dọn dẹp hành lý. Lần này cô về nghỉ hè, nên thời gian ở lại nhà còn lâu, tha hồ mà hỏi han tâm sự.
            Đến trưa, sau khi ăn cơm xong, Loan theo mẹ vào phòng.
            - Má, nhà mình vừa xảy ra chuyện gì hả má?
            Bà Cả vừa đặt lưng xuống võng, út Loan sà xuống cạnh mẹ, vuốt ve nhè nhẹ lên cánh tay bà vừa hỏi.
            Bà Cả thở dài:
            - Có rất nhiều chuyện mà má không sao hiểu được, hổm nay má cũng trông con về đặng giúp mẹ một tay.
            - Chuyện gì má nói cho con nghe đi?
            Út Loan tò mò.
            Bà Cả ngồi đong đưa trên võng, ánh mắt buồn buồn:
            - Từ ngày con Dịu chết đi, nhà mình liên tiếp xảy ra rất nhiều chuyện kỳ lạ. Đầu tiên là thằng nhỏ không chịu bú mà vẫn khỏe mạnh như thường. Anh Hai con thì bảo tối nào vợ nó cũng về cho đứa bé bú. Mới tối hôm qua, anh Hai con đi công việc, để thằng bé ngủ trong phòng, có nhờ anh chị ba con trông chừng giúp. Vậy mà lát sau khi anh Hai con về thằng nhỏ biến mất tiêu! Cả nhà tá hỏa đi tìm kiếm khắp trong nhà lẫn ngoài vườn vẫn không thấy. Má tưởng đâu vĩnh viễn má không còn gặp được cháu nội nữa… Ai ngờ, cuối cùng anh Hai con lại tìm thấy nó ở chỗ mộ con Dịu. Đã vậy anh Hai con còn nói có người muốn hãm hại nó nên mẹ nó về bảo vệ. Má thiệt không hiểu nổi… Rồi tự nhiên giữa lúc lộn xộn đó mà chị Ba con lại thông báo nó đã mang thai. Suốt đêm qua má không sao ngủ được, má không biết có phải anh chị ba con đã đem bỏ đứa nhỏ ngoài mả hay không nữa…
            Loan nghe mẹ nói, hết sức kinh ngạc:
            - Con không ngờ ở nhà lại xảy ra những chuyện như vậy. Nhưng sao má không hỏi anh Hai cho tỉ mỉ xem sự việc thế nào? Ai là người muốn hãm hại đứa bé? Hại nó để làm gì chứ?
            Bà Cả có vẻ mệt mỏi:
            - Thì con cũng biết tính anh Hai con rồi đó! Nó muốn nói lúc nào thì nói, chừng nó không muốn, dù có cạy miệng nó cũng chẳng hở lời nào. Cũng chính vì vậy, má mới trông ngóng con về. Trong nhà, anh Hai con chịu nghe lời con nhất, má muốn con nói chuyện với nó để tìm hiểu giúp má, chứ một mình má, má không biết tính sao nữa…
            Út Loan gật đầu:
            - Dạ, má yên tâm đi, con sẽ nói chuyện với anh Hai. Con hy vọng ảnh sẽ tâm sự hết với con. Anh Hai con tuy đôi lúc thường ăn nói không đầu không đuôi, nhưng những gì ảnh nói con tin là có thật. Vì từ hồi nào tới giờ, anh Hai chưa từng biết nói dối, cũng chưa từng nói giỡn chơi bất cứ chuyện gì. Nên khi má kể việc ảnh bảo tối nào chị Hai cũng về con thấy lo lắm… Chỉ mong điều đó là do ảnh quá thương nhớ chị Hai mà tưởng tượng ra…
            Bà Cả trầm ngâm:
            - Ừ, má cũng mong là như vậy! Nhưng lạ lắm con à, tối hôm qua anh Hai con không giống như bình thường. Nó nói năng lưu loát, khôn ngoan lại vô cùng cứng rắn. Má nuôi nó mấy chục năm nay rồi nhưng lần đầu tiên má mới thấy nó tức giận và khôn ngoan như vậy!

            Út Loan ôm vai mẹ:
            - Thôi má đừng nghĩ ngợi nhiều mà ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe. Giờ má ngủ trưa đi, để con tới phòng anh Hai chơi với cháu bé, sẵn tiện con nói chuyện với ảnh luôn nghen má?
            - Ừ, con đi đi! Hỏi khéo khéo nghe con, nó khôn dại bất thường không biết đâu mà lần đó.
            Út Loan cười, đứng lên:
            - Dạ, con biết rồi, má yên tâm đi!
            Nói xong út Loan đi ra ngoài, bà Cả cũng ngã lưng xuống võng lim dim mắt.
            Ra khỏi phòng bà Cả út Loan đi thẳng tới chỗ anh mình. Thấy cửa phòng chỉ khép hờ, cô gõ nhẹ rồi hỏi:
            - Cháu bé ngủ chưa vậy anh Hai? Cho em vô chơi với cháu chút nghen?
            Nghe tiếng em gái, Phát lật đật đứng lên mở rộng cánh cửa.
            - Em vô đi, nó còn thức nè!
            Thằng bé đang nằm chòi đạp trên giường, trông thấy út Loan nó mở miệng cười toe toét.
            Loan bế nó lên, nói với anh Hai:
            - Ở trong này nóng nực quá, em ẵm nó ra hàng ba ngồi chơi nghen, anh Hai ra đo chơi với cô cháu em luôn nghen?
            Phát gật đầu:
            - Ừ, anh đi với em.
            Út Loan sực nhớ:
            - Bé bú sữa chưa anh?
            - Chút nữa thím Ba ngủ dậy sẽ pha sữa cho nó.
            Phát trả lời.
            Út Loan nhanh nhảu:
            - Thôi khỏi, anh bế thằng bé ra ngoài trước đi, để em pha sữa đem ra cho, khỏi chờ chị Ba.
            Trao đứa nhỏ lại cho Phát, út Loan cầm lấy chai sữa đi xuống bếp.
            Út Loan lục lọi một hồi thì tìm thấy hộp sữa. Nhìn thấy nhãn hiệu hộp sữa cầm trên tay, út Loan thầm khen chị dâu mình tuy ở quê mà cũng biết chọn lựa mua loại sữa này cho cháu, hèn gì thằng bé cứ tròn vo, nhìn thấy là muốn cắn ngay cho một phát.
            Nhưng khi mở nắp hộp, út Loan vô cùng ngạc nhiên. Bên trong là một thứ sữa hoàn toàn khác! Những hạt sữa không mịn màng khô ráo mà nó đã ngã sang màu vàng và vón thành từng cục, hăng hăng mùi ẩm mốc. Loại sữa này giống y như loại sữa quá đát, sữa tồn kho mà trước đây khi nhà còn nuôi một bầy heo nái, bà Cả thường mua về cho heo uống!
            Trời ơi! Chị Ba cho cháu bé uống loại sữa này sao? Trong đầu út Loan chợt lóe lên một ý nghĩ. Cô vội vàng cất hộp sữa vào đúng vị trí cũ rồi đem chai sữa không để trở vào phòng anh Hai. Xong đâu đấy, cô ra hiên nhà ôm đứa bé vào lòng ngồi lên võng, Phát ngồi lên chiếc xích đu bên cạnh em gái.
            Loan cười cười nói nựng với đứa bé:
            - Cô thính đi pha sữa cho cháu, nhưng tìm không thấy sữa để đâu? Thôi, cháu ráng nhịn chút nữa nghen, thím Ba ngủ dậy sẽ cho cháu bú, chịu hôn nè?
            - Thím Ba ngày nào cũng pha sữa nhưng nó có uống đâu…
            Phát nói hờ hững.
            Út Loan ngó anh:
            - Anh nói sao chứ… nó không uống sữa thì làm sao sống nổi. Hay là anh tự mình mua sữa cho nó uống riêng?
            Phát lắc đầu:
            - Không, anh thì biết gì… Nó sống được là nhờ mẹ nó! Đêm nào mẹ nó cũng về…
            Loan nhìn Phát chăm chú:
            - Anh Hai, em biết khi chị Hai mất đi anh buồn khổ lắm, nhưng anh đừng nên như vậy! Chị đã chết rồi, không sống lại được đâu, anh Hai đừng suốt ngày tưởng nhớ rồi tưởng tượng ra những chuyện như vậy, không tốt đâu anh Hai.
            Phát cúi mặt nhìn xuống đất, nói nhỏ:
            - Cả em cũng không tin anh!
            Út Loan nhận thấy vẻ mặt anh mình không có chút gì là mơ màng hay đang hoang tưởng, cô bèn hỏi:
            - Anh Hai, nếu anh bảo những gì anh nói là sự thật thì anh kể cho em biết đi, tất cả sự việc là thế nào? Chị Hai là người thế nào? Có phải trước kia chị Hai từng cặp bồ với anh Ba, đến lúc anh Ba cưới vợ thì chị ấy lại quay sang đeo lấy anh, đúng như vậy không anh Hai?
            Phát nhìn em gái bằng ánh mắt vô cùng đau khổ:
            - Ai nói với em những điều đó? Hoàn toàn sai sự thật… Anh Ba em… cái thằng khốn nạn đó đã mấy lần định cưỡng hiếp Dịu nhưng may là anh kịp thời có mặt để cứu cô ấy. Cô ấy chưa bao giờ cặp bồ với ai… Dịu thương anh, chỉ một mình anh thôi, em có biết không? Về sống ở nhà mình cô ấy phải chịu trăm cay ngàn đắng, nhưng vì thương anh, thương con nên cô ấy chấp nhận… Anh không biết tại sao Dịu lại chết như vậy? Không phải tai nạn đâu, anh biết chắc như vậy, chắc chắn là có người hại Dịu, nhưng anh có hỏi thế nào cô ấy cũng chỉ khóc không thôi, không chịu nói ra.  Hôm qua, cô ấy bảo trong lúc anh đi vắng có người muốn hãm hại thằng nhỏ, cô ấy phải đem nó mộ để bảo vệ cho nó. Cô ấy còn nói… chỉ có em mới có thể giúp được cho cha con anh…
            - Em? Em giúp được cho cha con anh?
            Loan ngạc nhiên hỏi lại.
            Phát gật đầu:
            - Đúng rồi, Dịu nói với anh như vậy?
            - Nhưng em làm gì để giúp anh và cháu bé được đây?
            - Anh cũng không biết…
            Loan quan sát anh một lúc rồi nói:
            - Được rồi, em hứa với anh, nếu em giúp gì được cho anh là em sẽ rất sẵn lòng. Nhưng anh phải nói thật cho em biết, chuyện chị Dịu mỗi đêm đều về là có thật hay không?
            Phát rớt nước mắt:
            - Là thật! Cô ấy phải đi mua sữa, thậm chí đi lấy trộm sữa ở nhà người ta đem về cho thằng bé! Em không tin thì có thể ra cái quán ở đầu làng mình mà tìm hiểu. Lâu nay người làng này đồn ầm lên rằng có một người mẹ ma, đêm nào cũng hái lá cây làm tiền đi mua sữa cho con, rồi có nhà lại liên tiếp mất sữa… Những chuyện đó cả làng này ai cũng biết, anh chị Ba em cũng biết, chỉ có má là không biết…
            Loan kinh ngạc:
            - Thật vậy sao? Sao anh không nói cho má biết?
            - Anh nói liệu má có tin anh không?
            Phát buồn bã thở dài.
            Út Loan gật gù:
            - Những việc anh kể quả thật rất khó tin, nhưng em tin anh, em sẽ cố hết sức để giúp anh.
            Hai anh em đang nói đến đó thì trông thấy Mỹ từ trong nhà bước ra, vừa đi vừa lắc lắc chai sữa:
            - Nào… cô út cho chị mượn em bé chút đi, chị cho em bé bú nào…
            Út Loan đưa tay ra trước mặt chị dâu:
            - Chị đưa chai sữa đây, em cho cháu bú!
            Thoáng chút ngần ngừ nhưng Mỹ cũng trao cho út Loan chai sữa.
            Loan đưa chai sữa vô miệng thằng bé, nó tém lấy cái núm vú rồi nút lấy nút để, nhưng chỉ nút được mấy cái nó vội nhè cái núm vũ ra rồi khóc mếu, tè ra ướt hết cả tã.
            Út Loan la lên:
            - Úi, thằng bé hư, làm ướt hết người cô rồi nè thấy chưa? Chị Ba, chị vô lấy giúp em áo quần của nó
            Mỹ vừa quay lưng đi, Loan vội vã mở nắp bình sữa hớp thử một ngụm, vừa hớp vào miệng Loan nhăn mặt phun vèo ra đất.
            Phát nhìn em gái chưa kịp cất tiếng hỏi thì Loan đã ra dấu cho Phát đừng nói gì.
            Trong bữa cơm chiều hôm ấy, khi nhắc tới thằng bé, Loan làm như vô tình hỏi mẹ:
            - Má cho thằng nhỏ uống sữa gì vậy má?
            Bà Cả cười:
            - Ối, tao già rồi có biết gì, tao giao hết cho chị Ba mầy, dặn nó mua lọai sữa nào tốt nhứt, có tốn kém một chút cũng không sao, miến là cháu nội tao được khỏe mạnh.
            Mỹ tươi cười xen vào:
            - Phải đó cô út, bởi vậy tôi mua sữa mắc nhứt cho nó bú…
            Út Loan cười cười không nói gì, trong đầu cô đã có kế hoạch. Hôm nay là ngày đầu tiên cô về nhà, để cho mọi việc qua đi, ngày mai cô sẽ làm rõ tất cả!
            Đêm đó út Loan thức nói chuyện với mẹ thật khuya, đến lúc hai mí mắt díp cả lại mới đứng lên đi về phòng mình.
            Đang lơ mơ, Loan cảm thấy có ai đó đang đẩy cửa phòng mình, cô cố nhướng mi mắt nặng trĩu lên nhìn thì thấy một bóng người mặc toàn đồ trắng, tóc xoã dài đến nửa lưng.
            Cơn buồn ngủ lập tức biến mất, Loan liên tưởng ngay đến chuyện anh Hai kể lúc trưa, cô thấy hơi run nhưng cô tự động viên mình, nếu là chị Hai, chị ấy sẽ không làm gì hại mình đâu.
            Loan ngồi dậy, vén mùng chui ra, bóng trắng vẫn đứng tần ngần ngay cửa, không chịu tiến vào.
            - Chị… chị Hai phải không?
            Loan mạnh dạn lên tiếng
            Bóng trắng lướt tới bên giường, một luồng gió phất qua, thổi tắt ngọn đèn dầu để trên bàn.
            - Chị Hai… có phải là chị không?
            Út Loan run giọng hỏi lại lần nữa.
            - Cô út ơi… xin cô hãy giúp anh Hai cô, hãy giúp cháu bé…
            Một giọng nói thê thiết cất lên làm út Loan dựng cả tóc gáy.
            Mặc dù theo Tây học, nhưng út Loan vẫn tin tưởng vào trời phật, thánh thần, cô cũng tin luôn chuyện ma quỷ, nhưng chỉ tin ở một mức độ vừa phải chứ không phải là người cuồng tín. Cô luôn tin rằng dù là ma quỷ hay thần thánh cũng không làm hại những người vô tội.
            - Chị… nếu có điều gì uất ức, xin chị cho em biết, làm gì giúp được cho anh chị và cháu bé là em sẽ làm ngay không ngần ngại gì đâu, chị cứ mạnh dạn nói hết với em đi…
            Bóng ma của Dịu ôm mặt khóc:
            - Tôi… tôi bị người ta hãm hại
            - Ai hãm hại chị? Xin chị nói mau cho em biết.
            Loan nôn nóng.
            - Là… thím Ba đã hại tôi, thím Ba đã xô tôi xuống ao nước…
            Hồn ma nức nở.
            Út Loan kinh hãi hỏi lại:
            - Chị nói sao? Chính chị Ba đã… giết chị? Tại sao chị Ba phải làm thế?
            Bóng ma lắc đầu:
            - Chuyện dài lắm, tôi không nói hết được, cô út hãy tự tìm hiểu đi! Thím Ba làm hại tôi, việc đó tôi có thể bỏ qua, nhưng… vợ chồng thím Ba lại âm mưu hại chết con trai tôi… Tôi không thể chấp nhận được. Tôi chỉ là một oan hồn vất vưởng, tôi không có quyền can dự vào những chuyện của nhân gian, nhưng vì con tôi, tôi đã làm nhiều điều không phải… giờ đây tôi sắp bị phán xét rồi. Thời gian còn lại của tôi rất ít, tôi không thể chăm lo và bảo vệ con trai tôi được nữa… Tôi van xin cô, xin cô hãy thương xót đứa bé bất hạnh đó mà cứu lấy nó, đừng để cho người ta hại nó…
            Nói xong, bóng ma quỳ sụp xuống chân giường chắp tay lạy út Loan mấy lạy.
            Út Loan luống cuống muốn đưa tay ra đỡ chị dâu nhưng cô không dám. Cô chỉ kêu lên rối rít:
            - Không.. không… xin chị đừng làm như vậy! Nếu có những chuyện như vậy xảy ra trong nhà này, dù chị không nhờ vả em cũng nhất định làm cho rõ trắng đen. Chị yên tâm đi, thằng bé là cháu của em, em cũng có bổn phận đối với nó. Nhưng em xin chị hãy nói cho em biết rõ, tại sao chị Ba lại muốn hại chị và đứa bé?
            Hồn ma từ từ đứng lên:
            - Tôi không nói hết được… cô út hãy tự tìm hiểu lấy, mọi việc… cũng dễ thấy thôi mà… Tôi xin cám ơn cô út…
            - Chị…
            Út Loan chưa kịp nói ra câu gì thì bóng ma của Dịu đã nhanh chóng bay lướt ra ngoài, bỏ lại trong phòng một luồng gió lạnh buốt.
            Loan rùng mình, vội vã chui trở vô mùng kéo mền phủ kín đầu, nhưng từ đó tới sáng cô không tài nào ngủ được.
            Mới sáng sớm bà Cả đã nhắc nhở Đạt:
            - Chút nữa ăn cơm xong, con nhớ ra ngoài làng mời họ cho người vô đây giúp má lập di chúc nghe không?
            - Gì mà gấp gáp quá vậy má? Hôm nay con bận lắm, còn nhiều việc trên chợ huyện chưa giải quyết xong, bây giờ con phải đi rồi, chắc tới chiều tối mới về được. Má để mai đi, ngày mai con ở nhà cả ngày, con sẽ đi mời họ về cho má.
            Đạt vừa nói xong là dẫn xe ra cửa, Mỹ tiếp lời ngay:
            - Dạ, đúng rồi đó má, chuyện đó đâu có gì gấp rút, cô út còn ở nhà chơi lâu mà, với lại má còn khỏe mạnh như vầy lo sớm là gì…
            Bà Cả chép miệng:
            - Tuổi tác ngày một cao rồi, biết sống chết lúc nào mà nói… Vậy thôi, để ngày mai cũng được, nhưng vợ chồng bây đừng có quên đó!
            Nãy giờ út Loan lắng nghe câu chuyện, cô xen vào:
            - Bộ má tính làm di chúc để chia gia tài cho tụi con hả?
            - Ừ, hôm trước má có nói với chị Ba con, má già rồi, sống nay chết mai, má muốn việc nhà đâu ra đó đàng hoàng để lỡ má có theo ông theo bà thì anh em các con không xảy ra xào xáo.
            Ngừng lại uống một hớp nước bà Cả nói tiếp:
            - Má tính chia phần lớn nhất cho thằng nhỏ con anh Hai con. Vì nó là cháu nội đích tôn của má, anh Hai con lại không được lanh lợi như người ta, má phải bù đắp nhiều cho nó. Vả lại sau này, nó còn phải nuôi anh Hai con nữa.
            Nghe bà Cả nói tới đó, Loan vụt hiểu ra nguyên nhân nào mà chị Hai và cháu bé của mình bị người khác hãm hại.
            Bất chợt cô liếc nhìn Mỹ rồi hỏi một câu không ăn nhập gì tới nội dung câu chuyện mà cả nhà đang bàn tán:
            - Chị Ba, chị mua sữa hiệu gì cho thằng bé uống vậy?
            Mỹ bất ngờ, ngớ người ra một lúc mới trả lời:
            - Thì… thì má biểu tôi mua sữa loại tốt nhất…
            - Rồi chị có làm theo lời má dặn không?
            Mỹ giả vờ ngây thơ:
            - Thì má biểu sao tôi làm vậy. Có gì không cô út?
            Loan cười cười:
            - Vậy mà em tưởng chị sợ má tốn tiền nên mua toàn sữa hư, sữa quá đát về cho cháu bé…
            Mỹ giật mình lúng túng:
            - Cô út… cô út nói sao chớ…
            Út Loan không nói gì, cô đứng lên đi nhanh xuống nhà bếp cầm hộp sữa đem lên mở nắp ra đưa lại trước mặt bà Cả:
            - Má coi nè, chị ba mua sữa này về cho thằng nhỏ bú, hèn chi nó không chịu bú là phải rồi…
            Bà Cả thò mấy ngón tay vào hộp, bốc một nhúm sữa lên nhìn ngó rồi đưa lưỡi nếm thử. Bà nhăn mặt phun ra đất rồi la lên:
            - Trời ơi! Mầy… mầy nỡ lòng nào để cho một đứa nhỏ mới mấy tháng tuổi uống loại sữa mắc dịch này? Tại sao mầy ác độc như vậy chứ?
            Mỹ hoảng hốt vội chống chế:
            - Má… má với cô út hiểu lầm rồi! Đó là sữa của con, con mua về uống nhưng ngán nên bỏ đó lâu nay.
            - Vậy sữa nào là của thằng bé? Mầy đem ngay lên cho tao xem!
            Bà cả tức giận.
            Mỹ bối rối:
            - Dạ… sữa của thằng bé hết rồi, con tính… chút nữa mới đi mua…
            Bà Cả cười nhạt trong khi mắt bà đang ứa lệ:
            - Mầy nói hay lắm… Mới ngày hôm kia mầy nói với tao là mua sữa cho nó. Hôm nay mầy lại bảo hết rồi! Mầy lấy sữa tắm cho nó hay sao mà nhanh hết đến vậy hử?
            Mỹ sợ hãi quỳ sụp xuống chân bà Cả:
            - Má… má tha lỗi cho con… Sự thật là…
            - Sự thật là sao?
            Bà Cả gắt lên:
            - Dạ… sự thật là anh Đạt đánh bài thua người ta một số tiền, ảnh biểu con đưa cho mượn đỡ số tiền đó
            Mỹ vừa khóc vừa nói.
            Bà Cả đập tay xuống bàn:
            - Vợ chồng mầy là một lũ đốn mạt! Dám đi ăn cả phần của một đứa nhỏ vừa mới chào đời, chúng mầy có còn lương tâm không vậy?
            Tức giận làm bà Cả run lên bần bật. Út Loan nhỏ nhẹ:
            - Má… má đừng kích động quá như vậy! Má vô nằm nghỉ chút đi, để chị Ba tự suy nghĩ lại việc làm của mình…
            Loan đỡ mẹ vào phòng.
            - Ma không ngờ… lâu nay má luôn thương yêu nó, má luôn tin tưởng vợ chồng nó, vậy mà… vậy mà nó lại đối xử với má như vậy. Nó biết má thương yêu, quý trọng đứa cháu đó như thế nào, vậy mà chúng nó…
            Bà Cả vừa nói vừa khóc.
            Út Loan nhìn mẹ buồn rầu:
            - Má phải bình tĩnh, phải thật bình tĩnh mới được, bởi vì… còn nhiều chuyện động trời hơn chuyện đó nữa má à!
            Bà Cả ngạc nhiên:
            - Con nói sao? Còn nhiều chuyện động trời…?
            Út Loan khe khẽ gật đầu:
            - Hôm qua anh Hai đã nói hết với con, và tối hôm qua… tối hôm qua chị Hai cũng đã hiện hồn về…
            Bà Cả giật bắn cả người:
            - Sao? Con nói gì? Con nói chị Hai con… con Dịu… con Dịu hiện về?
            Út Loan rưng rưng nước mắt:
            - Dạ, đúng như vậy đó má! Từ lâu nay vì nghe theo lời chị Ba mà má con mình hiểu lầm rồi ghét bỏ chị Hai, chứ thật sự chị Hai rất đáng thương. Chị Hai bị người ta xô xuống ao đó má!
            Bà Cả kinh hãi:
            - Ai? Ai xô nó?
            Loan lắc đầu:
            - Con cũng không biết! Chị Hai bảo con phải tự tìm hiểu. Nhưng con tin những gì chị Hai nói là thật, chị đã là hồn ma rồi, chị không nói dối mình đâu…
            Bà Cả ngã vật ra giường ôm đầu khóc không thành tiếng.
            Loan lên nằm cạnh mẹ, không ngớt lời an ủi vỗ về bà.
            Một lúc sau bà Cả mệt mỏi thiếp đi nhưng Loan vẫn không sao ngủ được.
            Còn một số điều cô muốn được làm rõ. Cô cần phải hỏi chị Ba thêm mấy chuyện.
            Nhè nhẹ ngồi lên, Loan đi tới phòng Mỹ.
            - Chị Ba, chị ngủ chưa? Cho em vào nói chuyện một chút!
            Loan gõ cửa và gọi khẽ nhưng trong phòng lặng im không có tiếng trả lời.
            Đẩy thử cánh cửa thì cửa không đóng, Loan thò đầu vào nhìn vẫn không thấy Mỹ đâu.
            Nghĩ chắc Mỹ bận làm việc gì đó trong nhà nên Loan thơ thẩn ra vườn đi dạo.
            Trời nắng chang chang, chẳng ai lại đi dạo lúc này, nhưng tâm trạng Loan đang rất bất ổn, cô không để ý gì tới chuyện trời mưa hay trời nắng.
            Lang thang một hồi Loan đi tới căn chòi của người làm vườn. Bên hè có cây khế ngọt mùa này trái đang rộ chín.
            Tự nhiên Loan nhớ lại ngày nhỏ, mấy anh em thường túm tụm ở đây, cô đứng dưới gốc ngóng lên, hai anh ở trên thả từng trái khế vàng ươm rơi xuống ngay vạt áo mà cô chìa ra để hứng.
            Anh Ba tham ăn, lúc nào cũng lựa những trái ngon nhất ăn ngay trên đó, còn anh Hai thương cô lắm, trái nào to nhất, ngon nhất anh Hai đều dành phần cho cô.
            Rưng rưng nhớ lại kỷ niệm xưa, Loan lặng lẽ tới bên cây khế, trèo lên ngồi vắt vẻo dưới tàn cây rợp lá. Quang cảnh xung quanh nhà cô vẫn bình yên như thuở nào, cây lá trong vườn vẫn hiền hòa lắt lay trong nắng gió nhưng sao những ngày yên bình, thân ái của anh em cô lại đang dần dần mất đi chỉ vì những tham vọng hèn mọn?
            Và chiếc ao nhỏ bên cạnh nữa, đó là nơi hai anh đã dạy cho cô bơi lội, nơi đó đã từng vang lên những tiếng cười tràn trề hạnh phúc. Vậy mà… hôm nay đây nơi đó lại là nơi để người ta thực hiện những âm mưu tàn độc, nơi đó người chị dâu tội nghịêp của cô đã buột phải lìa bỏ cõi đời, bỏ lại đứa con đứa chỉ mới vừa mấy tháng tuổi, bỏ lại người chồng hiền lành, khờ dại…
            Loan không biết mình phải làm cách nào để tìm ra được tất cả sự thật? LaØm cách nào để đảm bảo chắc chắn mạng sống của đứa cháu thơ ngây kia không còn bị đe dọa nữa?
            Loan thở dài ngao ngán.
            Cô vừa định trèo trở xuống để vào nhà tìm chị dâu, bất chợt cô nghe trong chòi có tiếng cười rúc rích, rồi tiếng rì rầm trò chuyện, rõ ràng là tiếng của một người nam và một người nữ.
            Loan vội chuyền sang ngồi lên một cành khế gie sát mái căn chòi và lắng tai nghe ngóng.
            - Em không cho anh đi đâu… Anh phải ở lại đây chứ, phải ở lại để chờ ngày em sinh nở. Anh không muốn nhìn thấy mặt con mình sao?
            Út Loan rụng rời cả tay chân khi nhận ra tiếng nói đó chính là giọng của Mỹ, chị dâu cô! Bám chặt tay vào cành cây, Loan cố lấy lại bình tĩnh, tập trung lắng nghe những lời trao đổi của họ ở bên trong.
            - Tôi không muốn ở đây nữa, ngày mai tôi sẽ ra đi!
            Người đàn ông vừa dứt lời, Loan nghe có tiếng thút thít của Mỹ:
            - Anh nỡ lòng nào bỏ em đi giữa lúc này sao? Hai hôm nay chồng em, má chồng em đều tỏ ra lạnh nhạt với em. ĐaÕ vậy còn thêm nhỏ em chồng phát hiện việc em cho thằng nhỏ bú sữa quá đát, bây giờ vị trí của em trong nhà này đang bị lung lay dữ lắm rồi, xin anh đừng đi, anh ở lại đây với em đi! Mà tại sao anh lại phải đi? Anh ở đây không phải là tốt lắm sao?
            Người đàn ông thở dài:
            - Đúng, cô nói không sai! Tôi sống ở đây rất tốt. Bà Cả mẹ chồng cô luôn đối xử tử tế với tôi, cả cậu Hai và cậu Ba nữa, họ cũng rất tốt. Nhất là cậu Hai… Nhưng mà… họ càng tốt với tôi bao nhiêu thì tôi càng cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, tôi không dám nhìn vào mặt họ. Tôi có tội với bà Cả, có tội với cậu Ba, nhưng… tội lớn nhất là với cậu Hai…
            - Anh nói gì kỳ vậy? Nếu vì anh quan hệ với em mà thấy có tội, thì chỉ có tội với mỗi một mình chồng em thôi, bất quá thêm má chồng vô đi, chứ sao lại có tội lớn với anh Hai?
            Tiếng Mỹ gắt.
            Người đàn ông cười nhẹ:
            - Ngày mai tôi đi rồi, tôi đã quyết định, bởi thế cho nên hôm nay tôi cũng muốn nói hết với cô để tôi được nhẹ lòng. Thứ nhất, tôi muốn cô đừng giữ lại cái thai đó. Dù tôi biết nó là con tôi, tôi cũng đau lòng lắm, nhưng tôi không muốn nó trở thành công cụ để cô tiếp tục làm hại đến người khác. Vả lại rồi đây, từ từ người ta cũng sẽ biết, lúc đó cả cô và đứa nhỏ đều khổ. Thà rằng bây giờ cô hủy bỏ nó đi, tuy có hơi ác một chút nhưng… tôi biết cô làm được.
            Mỹ giẫy nẫy:
            - Sao anh lại nói vậy? Bộ em ác độc lắm sao?
            Người đàn ông lại thở dài:
            - Điều thứ hai tôi muốn nói với cô là, cô nên dừng lại đi, đừng dấn sâu vào tội ác nữa, sẽ gặp quả báo ngay thôi cô ạ!
            - Tại sao anh có thể nói về em như vậy? Anh… anh không thương em sao? Anh không thương em chút nào sao?
            Mỹ khóc nấc lên.
            Người đàn ông húng hắng ho mấy tiếng rồi mới chậm rãi nói tiếp:
            - Cô đừng tưởng những việc làm của cô không ai hay biết! Cô hỏi tôi không thương cô ư? Đúng! Ngay lúc đầu gặp cô quả thật tôi rất rung động, lần đầu tiên cô với tôi gần gũi tôi cũng cảm thấy hạnh phúc lắm, tôi còn mơ ước một ngày nào đó cô sẽ từ bỏ tất cả để đi theo tôi, và tôi rất sung sướng với niềm mơ ước đó. Nhưng… nhưng khi tôi trông thấy cô dìm cô Hai xuống ao ngoài kia, tôi rất run sợ… Tất cả những tình cảm vừa nhen lên trong lòng tôi đã bị cô dập tắt một cách mau chóng. Tôi kinh sợ cô… và tôi… tôi sợ cả chính bản thân mình nữa. Tôi đã quá hèn yếu, đã quá nhu nhược, lúc đó tôi không dám xông ra để cứu lấy cô Hai, tôi cũng không dám tố cáo việc làm ác độc của cô… Tôi quả thật là một thằng đàn ông không ra gì…
            Tiếng người đàn ông khóc nấc lên, cùng lúc đó có tiếng xô ngã bàn ghế, tiếng ly tách vỡ loảng xoảng và tiếng Mỹ rít lên nho nhỏ:
            - Anh là một thằng đàn ông chó chết! Anh muốn đi đâu thì đi đi! Mặc xác anh, tôi không cần ngăn cản nữa, tôi cũng không cần loại đàn ông hèn nhát như anh nữa! Con của tôi tôi nuôi nó, anh không có quyền gì mà bảo tôi phải thế này thế khác! Anh cút đi cho tôi nhờ, cút đi!
            Mỹ hét xong loạng choạng chạy ra khỏi nhà.
            Út Loan ngồi trên cành khế cả thân người run lên bần bật.
            Bây giờ thì cô đã rõ, sự thật đã bày ra trước mắt cô một cách quá rõ ràng rồi. Nước mắt cô trào ra lai láng.
            Cô thương cho chị Hai chưa được một ngày sung sướng kể từ lúc về sống với anh Hai, chị chưa được chính thức làm dâu trong nhà, chưa được ngủ trong căn phòng của anh Hai cô nữa!
            Tất cả cũng chỉ vì sự tham lam ích kỷ của chị Ba. Vậy mà từ bao lâu nay mẹ con cô luôn thương yêu người đàn bà đó như người ruột thịt. Cũng vì nghe lời ngon tiếng ngọt của con người độc ác kia mà má cô và cả cô nữa đã đối xử không phải với chị Hai. Giờ thì chị Hai chết rồi, cả cơ hội sửa sai cô cũng không còn nữa…
            Chị Hai ơi, em có lỗi với chị, với anh Hai và cả với cháu bé nữa! Em quyết sẽ làm sáng tỏ việc này để đem lại công bằng cho chị, mong chị tha lỗi cho em…
            Lau khô nước mắt, Loan nhẹ nhàng trèo xuống rồi len lén vòng ngã khác đi vô nhà, không để ai trông thấy.
            Suốt buổi chiều hôm đó Loan cứ ẵm cháu đi ra đi vô nóng lòng trông đợi Đạt về.
            Mãi đến chiều tối Đạt mới ngả nghiêng dẫn xe vô cổng, cả người nồng nặc mùi rượu.
            Mỹ chạy vội ra giúp Đạt đem xe vô nhà, cô cằn nhằn:
            - Anh lại rượu chè nữa, khổ quá, vợ đang bầu bì mà anh không thèm quan tâm gì tới… Sao mà cái số tôi khổ đến thế này…
            Đạt cười hơ hớ:
            - Nhậu với anh em chút đỉnh cho đời tươi hơn, có gì đâu mà em phải cằn nhằn cửi nhửi. Khổ gì mà khổ em ơi, em muốn gia tài của anh thì em sắp được rồi, còn than thở giống gì…
            Mỹ muốn đưa tay lên bịt miệng chồng, nhưng trước mặt mẹ và em chồng cô không dám có cử chỉ đó, cô chỉ giả lả:
            - Uống cho nhiều vào rồi ăn nói bậy bạ…
            Đạt loạng choạng, vừa đi vừa gọi váng lên:
            - Út đâu, út Loan đâu đâu, dọn cơm cho anh ăn đi, anh đói bụng lắm rồi đây này!
            - Dạ, cơm em dọn từ nãy giờ rồi, cả nhà đang chờ về để cùng ăn đó!
            Út Loan giở lồng bàn rồi nhắc ghế mời mẹ:
            - Mời má dùng cơm! Mời anh Hai, anh Ba, chị Ba dùng cơm…
            Từng người lặng lẽ ngồi vào vị trí của mình trong bàn ăn.
            Vừa cầm chén cơm, và mấy miếng vào miếng vào miệng, Đạt đặt chén xuống bàn lúng búng hỏi:
            - Má, ngày mai má làm di chúc phải hôn? Má tính chia phần cho tụi con ra sao vậy má?
            Bà Cả gác đũa lên miệng chén:
            - Má tính kỹ rồi! Gia tài này ba má phải vất vả lắm mới gầy dựng lên được. Má muốn tất cả các con đều phải biết quý trọng nó. Tài sản này má sẽ chia ra làm năm phần, út Loan tuy là gái nhưng nó cũng là con của má, má không biệt trai gái nên nó được một phần, hai anh em thằng Phát thằng Đạt, mỗi đứa một phần, hai phần còn lại để cho đứa bé con thằng Hai…
            Không chờ nghe bà Cả nói dứt lời, Đạt đã đấm tay xuống mặt bàn nghe cái rầm:
            - Má không có quyền đó! Còn đứa con trong bụng của vợ tôi, nó không phải là cháu nội của má sao?
            Bà Cả bất ngờ trước hành động của Đạt, ngớ người ra một lúc.
            Út Loan cất tiếng:
            - Anh Ba, xin anh đừng như vậy! Má làm vậy là cũng có cái lý của má. Thằng bé sớm mồ côi mẹ, anh Hai lại không được thông minh lanh lợi như anh, gánh nặng của thằng bé sau này sẽ rất lớn. Nó lại là cháu đích tôn, sau này việc cúng giỗ thờ tự đều giao hết cho nó…
            - Còn đứa nhỏ con của tôi thì sao?
            Đạt vẫn ngoan cố.
            Loan chợt hỏi:
            - Chị Ba, chị có thai mấy tháng rồi?
            - Tôi… tôi… khoảng chừng một tháng!
            Mỹ trả lời, lo lắng không biết ý Loan hỏi vậy để làm gì.
            Út Loan thở phào:
            - Mới chừng một tháng… em nghĩ lúc  này chị còn kịp để phá bỏ nó…
            Mọi người đều sửng sốt ngó Loan, chỉ trừ Phát, từ đầu bữa cơm tới giờ anh vẫn cắm cúi ăn, không tham gia bàn cãi cũng không chú ý lắng nghe mọi người nói gì, làm như xung quanh không có ai, làm như không có gì dính líu đến anh.
            - Loan! Con ăn nói gì kỳ lạ vậy? Dù sao đó cũng là cháu của con, đừng nó điên như vậy.
            Ngoài trời bất ngờ đổ xuống cơn mưa tầm tã, sấm chớp nổi lên đì đùng, gió thổi thốc vào nhà làm ngọn đèn chao qua chao lại.
            Út Loan chạy vội tới đóng hết các cánh cửa rồi quay lại bàn, cô không ngồi xuống mà cứ đứng nhìn chị dâu không chớp mắt.
            Mỹ lo lắng, cụp mắt xuống, đôi đũa trên tay cô cứ không ngừng xỉa mãi vào chén cơm.
            - Chuyện con vừa nói ra, có thể cả nhà đều cho là không phải, nhưng con tin chị Ba biết tại sao con nói vậy, phải không chị Ba?
            Mỹ ấp úng:
            - Tôi… tôi đâu biết gì đâu? Cô nói gì tôi không hiểu?
            Đạt nhìn em gườm gườm:
            - Em đừng tưởng cả nhà cưng chìu em rồi em muốn nói gì cũng được nghe!
            Út Loan nhìn anh đầy vẻ thông cảm:
            - Từ trưa tới giờ em mong ngóng anh về để giải quyết việc nhà một lần cho sáng tỏ, nhưng lúc về thấy anh say rượu, đáng lẽ em chưa nói đâu, nhưng anh đã khơi chuyện ra trước, với lại ngày mai di chúc được lập, gia đình mình phải giải quyết xong trong hôm nay. Đứa con mà chị Ba đang mang trong bụng không phải là con của anh đâu, anh Ba ạ!
            Mỹ xanh mặt, ngó chồng cầu cứu, Đạt giơ tay lên cao như muốn giáng một cái tát vào mặt em gái.
            Út Loan nhẹ nhàng cầm lấy tay anh:
            - Anh bình tĩnh nghe em nói nè, rồi sau đó có muốn đánh đập gì em cũng được! Chị Ba đã ngoại tình với gã làm vườn nhà mình, và đứa con đó chính là con của chị Ba với gã…
            Đạt hạ tay xuống, quắt mắt nhìn Mỹ, Mỹ run rẩy:
            - Không… không anh ơi… không phải…
            Bà Cả thì không thể nào mở được ra lời, bà cứ ngồi đó miệng há hốc nhìn chằm chằm vào mấy đứa con.
            - Chưa hết đâu, cũng vì chị Hai tình cờ phát hiện ra việc làm không chính đáng của chị Ba nên đã bị chị Ba dìm xuống nước cho đến chết. Chị Ba còn âm mưu giết chết thằng nhỏ để con của mình hưởng trọn gia tài. Những gì em nói có đúng không, chị Ba?
            - Cô vu oan cho tôi, cô vu oan cho tôi! Tôi không có, tôi … Anh… anh phải bênh vực cho em chứ, anh không thể để em gái anh hỗn hào đặt điều nói xấu chị dâu như vậy…
            Mỹ vừa khóc vừa la, vừa níu lấy tay Đạt.
            Đạt lừ mắt nhìn Loan:
            - Mầy… mầy có bằng chứng gì không?
            - Anh cần bằng chứng? Thôi được, xin chờ em một chút.
            Loan hỏi lại anh rồi bước tới mở cánh cửa nhà bếp, một người đàn ông cả người sũng nước đi vào, quỳ mọp xuống cạnh bàn ăn.
            Vừa trông thấy người đàn ông, Mỹ hoảng hốt, rụng rời cả tay chân.
            Đạt nhào tới túm lấy áo gã làm vườn:
            - Anh… mầy… có phải mầy với vợ tao…?
            Gã làm vườn nhìn Đạt với ánh mắt cầu khẩn:
            - Tôi xin lỗi cậu. Tôi đã làm điều không phải… Lâu nay tôi luôn ray rứt về điều đó, đáng lẽ ra sáng ngày mai tôi sẽ âm thầm rời bỏ nơi này để trốn chạy khỏi mọi tội lỗi của mình, nhưng… như cô út đã nói, nếu làm như vậy thì cả đời này tôi cũng sẽ sống không yên. Cô út nói khong sai, tôi phải nhìn nhận tội lỗi của mình, phải trả giá cho nó, có như vậy tôi mới có thể sống tiếp trên đời.
            Gã nhìn khắp mọi người một lượt rồi cúi đầu:
            - Bây giờ tôi quỳ ở đây, xin bà Cả và hai cậu trừng phạt cách nào tôi cũng cam tâm nhận lấy…
            - Mầy… mầy là thằng khốn nạn!
            Đạt vung tay đấm liên tiếp vào mặt gã làm vườn, gã loạng choạng suýt ngã, máu từ mũi gã chảy ra nhưng gã vẫn không hề chống đỡ.
            Út Loan hoảng sợ, sợ anh Ba trong cơn nóng giận sẽ đánh chết người ta, cô lắc lắc tay Phát:
            - Anh Hai, anh Hai can họ ra đi!
            Lúc này Phát mới như sực tỉnh. Anh không nói gì, chậm chạp đứng lên, lừ lừ bước tới giữ chặt hai cánh tay Đạt.
            Đạt vùng vẫy:
            - Anh buông tôi ra! Buông ra… tôi sẽ đánh cho nó chết mẹ…
            Trên mặt gã làm vườn lúc này nhòe nhoẹt những máu, nước mắt và nước mũi.
            Thấy Đạt đã bị Phát giữ chặt tay, không thể nào tiếp tục tấn công gã làm vườn, Mỹ căm tức tột độ. Không còn dằn được nữa, Mỹ nhào tới cào cấu, cắn xé gã:
            - Mầy là tên khốn nạn…
            Vẻ mặt gã làm vườn đanh lại. Gã vung tay gạt phắt ra làm Mỹ ngã chúi nhủi.
            - Trong nhà này, bất kỳ người nào cũng có quyền mắng chửi và đánh đập tôi, ngoại trừ cô!
            Gã làm vườn gằn từng tiếng.
            Mỹ lồng lộn chửi rủa gã không tiếc lời.
            Đạt vùng khỏi tay anh, giang tay tát thẳng cánh vô mặt Mỹ liên tiếp mấy tát nẩy lửa, hắn gào lên:
            - Tất cả cũng chỉ vì mầy! Cũng chỉ vì con đàn bà độc ác, khốn nạn như mầy mà gia đình tao mới ra nỗng nỗi này! Vì nghe lời mầy, suýt chút nữa chính tay tao đã bóp chết con anh Hai rồi… Mầy là loài rắn độc, mầy không phải là con người…
            Bị tát mấy cái như trời giáng, Mỹ kinh ngạc ngó sững Đạt, không ngờ chồng mình lại đối xử với mình như vậy.
            Tất cả đã hết rồi! Bao nhiêu toan tính, bao nhiêu âm mưu giờ đây đã sụp đổ tan tành…
            Đôi mắt Đạt long lên sùng sục, đôi mắt gã làm vườn khinh bỉ nhìn cô, đôi mắt Phát tuy mơ hồ vắng nhưng lại làm Mỹ lạnh dọc sống lưng…
            Không! Cô không thể nào tiếp tục sống trong ngôi nhà này được nữa!
            Mỹ lùi dần, lùi dần ra cửa, Đạt vẫn không buông tha cô, hắn bước từng từng bước chậm rãi tiến về phía cô, hai bàn tay hắn nắm lại thật chặt rồi bất thần duỗi ra, vồ lấy Mỹ, cô hoảng hốt tung cửa chạy ra ngoài.
            Bên ngoài trời mưa như thác đổ, sấm sét như muốn xé toang cả bầu trời.
            Mỹ lao vào bóng đêm.
            Một tia chớp lóe lên, tiếp theo là tiếng sấm gầm hung bạo.
            Trong ánh sáng đó, tất cả những người đang đứng trên thềm nhà bà Cả đều nhìn thấy rất rõ ràng Mỹ đang ngã xuống…
            Sáng hôm sau, cả làng xôn xao lên với cái tin nóng hổi: con dâu thứ nhà bà Cả bị trời đánh chết tối hôm qua, cậu Ba Đạt không biết vì quá thương vợ hay sao mà bỗng trở thành người ngớ ngẩn.
            Riêng cậu Hai Phát, hơn hai mươi năm qua làm người khờ khạo, chỉ sau một đêm bỗng hóa ra lanh lợi, khôn ngoan…
            Hết
            Nguyễn Thị Mộng Thu 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:44:28 bởi nguyenthu >
            #81
              nguyenthu 10.08.2009 22:20:20 (permalink)
              HỒN MA TRẢ NGHĨA

              Cả cái thị trấn nhỏ này có lẽ không ai không biết tiếng ông Hai Phát, một đại gia trong ngành xây dựng lẫn ngành kinh doanh địa ốc.
              Hơn chục năm trước, gia đình ông Hai Phát cũng không có gì nổi bật. Ông chỉ là một ông thầu xây dựng các công trình nhỏ lẻ, đơn giản. Nhưng rồi không biết do may mắn hay do đâu mà bỗng dưng có tin đồn, ông Hai Phát đứng ra xây cất nhà nào thì nhà đó sẽ làm ăn phát đạt, tấn tới.
              Người ta kiểm chứng lại thì quả có thế thật!
              Ông Hai Phát phất lên từ dạo ấy.
              Khi đã có trong tay một số vốn lớn, ông lấn sân sang lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Ban đầu thì cũng làm ăn kiểu cò con, sang tay được miếng đất này mới mua tiếp miếng đất khác khác. Nhưng lần hồi, nhờ nhạy bén với thời cuộc, cộng với tài ngoại giao giỏi, ông Hai Phát một khi đã nhắm vào đâu thì một đồng vốn của ông sẽ sinh sôi nảy nở thành ra mấy chục đồng lời.
              Tài sản của ông cứ tăng dần theo cấp số nhân.
              Trong giới làm ăn, bên cạnh những lời tán dương, khen ngợi cũng không ít tiếng xì xầm đàm tiếu về ông. Người ta bảo ông Hai Phát không từ bất cứ thủ đoạn nào để hạ gục đối thủ. Có người đã từng bị ông Hai làm cho khuynh gia bại sản.
              Chẳng biết những lời đồn đại ấy có chính xác hay không, chỉ biết sự nghiệp của ông mười mấy năm nay cứ phăng phăng thẳng tiến.
              Vợ chồng ông được hào của nhưng lại không đặng hào con.
              Bà Hai Phát đã bốn lần thai nghén, nhưng hết lần này tới lần khác đều không giữ được.
              Vợ chồng bà mua sắm nhang đèn lễ vật đi khắp các đền chùa, am miếu để thành tâm khấn vái. Chừng như trời phật cũng động lòng, đến lần mang thai thứ năm, bà sinh được một cậu con trai, mặt mày rất khôi ngô tuấn tú, nhưng lại èo uột, khó nuôi.
              Hai vợ chồng đặt tên con trai là Quý và cũng yêu quý con hơn ngọc hơn vàng!
              Từ lúc gia đình trở nên khấm khá, bà Hai luôn tìm cách giúp đỡ những người nghèo khó xung quanh với hy vọng tạo phước đức cho con trai mình được hưởng sau này.
              Mười lăm tuổi, Quý vẫn nay ốm mai đau dù hàng ngày luôn được cả nhà quan tâm, bồi bổ.
              Thấy con trai không được khỏe mạnh, ông bà Hai càng tỏ ra cưng yêu, chìu chuộng, Quý muốn gì cũng được đáp ứng ngay. Tuy vậy, bà Hai không quên dạy con những điều phải trái trong đời, không quên tập cho con tánh tình lương thiện, biết thương yêu và quan tâm đến những người có hoàn cảnh không may.
              Chính vì vậy, dù được cưng chìu hết mực nhưng Quý không trở nên hư đốn như một vài cậu “con cầu con khẩn” khác.
              Việc nuôi dạy và giáo dục Quý ông Hai yên tâm giao trọn cho vợ, ông dành hết tâm trí và thời gian của mình cho công việc làm ăn.

              ***
              Một bữa khi trời vừa chạng vạng tối, bà Hai đang ngồi xem ti vi trong nhà thì nghe tiếng gọi khe khẽ trước sân, bà hỏi lớn:
              - Ai đó? Cứ vào đây…
              Vừa nói, bà Hai vừa đứng lên. Ra tới cửa, bà thấy một người phụ nữ lạ mặt rụt rè đứng giữa sân, trên tay ôm một chú chó con.
              - Cô… cô tìm tôi?
              Bà Hai ngạc nhiên hỏi.
              Thiếu phụ ngước lên nhìn bà bằng ánh mắt sầu thảm:
              - Dạ… Con nghe người ta chỉ dẫn nên mới dám tìm tới đây… để… để…
              Thấy người lạ ấp úng, bà Hai động viên:
              - Cô có gì cần cứ nói, nếu giúp được tôi sẽ không từ chối cô đâu! Mà cô ở đâu sao tôi không nhớ?...
              Một tia hy vọng lóe lên trong mắt người thiếu phụ. Chị mạnh dạn:
              - Thưa… thưa bác. Con không phải người vùng này. Quê con ở tận dưới Cà Mau. Vì hoàn cảnh riêng, con phải trôi dạt về đây làm thuê làm mướn kiếm miếng ăn hàng ngày. Không may… không may con bé nhà con mấy hôm nay lại mắc bệnh, mà con thì… con thì không còn tiền để lo thuốc men cho nó. Con đang ở trọ nhà dì Tư bên kia, thấy hoàn cảnh mẹ con con như vậy, dì Tư mới chỉ con tới đây… Bác… bác làm ơn… mua giúp con con chó nhỏ này, bác cho con ít tiền con mua thuốc cho cháu…
              Nhìn vẻ cầu khẩn của thiếu phụ, bà Hai động lòng:
              - Mua bán gì con chó đó! Thôi, cô vào nhà ngồi chơi một chút, tôi đưa cho ít tiền cầm về mà lo thuốc thang cho con, khi nào làm ăn có thì trả lại cho tôi cũng được!
              Nghe bà Hai nói vậy, người thiếu phụ vừa mừng rỡ, vừa ngại ngùng bước theo sau. Con chó nhỏ trên tay chị kêu lên ăng ẳng khiến Quý đang mải xem hoạt hình giật mình quay lại.
              Trông thấy con chó, cậu bé mừng rỡ sà ngay xuống bên con chó vuốt ve.
              Bà Hai rầy:
              - Đừng ghẹo nó con, coi chừng nó cắn trúng tay đó!
              Người thiếu phụ mỉm cười:
              - Dạ, xin bác đừng lo, con chó này hiền lắm, con bé nhà con rất thương yêu nó, suốt ngày cứ ôm ấp nó trong lòng, nó không cắn ai đâu!
              Vừa nói, chị vừa thả con chó xuống nhà. Nó chạy lăng xăng khắp phòng, cái đuôi bé xíu không ngừng ve vẩy. Quý thích quá, chạy tới chạy lui chơi rượt đuổi với nó.
              Sực nhớ, cậu bé đi tới tủ lạnh, lấy ra một cây xúc xích, cẩn thận lột vỏ đưa tận miệng chú chó, nói nựng:
              - Cưng, ăn xúc xích đi cưng! Ăn đi rồi anh thương…
              Chú chó vừa ăn vừa kêu ăng ẳng như lời cảm ơn người bạn nhỏ tốt bụng vừa mới quen.
              Thấy cảnh đó bà Hai và người thiếu phụ cùng bật cười.
              Bà Hai mở tủ, lấy đưa cho thiếu phụ ba trăm ngàn. Bà dặn:
              - Cầm ít tiền này về lo cho con, nếu có gì cần cô tới đây, đừng ngại! Bà con xóm giềng, tối lửa tắt đèn có nhau cô à!
              Người thiếu phụ nước mắt rưng rưng, đưa hai tay nhận lấy tiền bà Hai đưa cho.
              - Con… thật con vô cùng đội ơn bác! Con với bác là người xa lạ, vậy mà bác không nghi ngờ gì, bác thương hoàn cảnh tứ cố vô thân của mẹ con con, con xin đội ơn bác! Kiếp sau, mẹ con con nguyện làm tất cả để đền đáp lại tấm lòng của bác…
              Bà Hai bật cười:
              - Thôi, thôi! Lo về mua thuốc cho con nhỏ uống đi! À, con bé mấy tuổi rồi?
              - Dạ, cháu lên chín tuổi bác ạ!
              - Ừ, vậy là nhỏ hơn thằng Quý nhà tôi! Thằng Quý tôi mười lăm rồi!
              Người thiếu phụ nhìn Quý, nói khẽ với bà Hai:
              - Con thấy cậu bé có vẻ thích con chó này lắm, hay là bác cho phép con để nó lại đây chơi với cậu?
              Bà Hai khoát tay:
              - Thôi, cô cứ ôm nó về! Tiền đó tôi đưa cô mượn tạm chứ phải đâu mua bán…
              Người phụ nữ lúng túng:
              - Dạ không, ý con không phải vậy…
              - Được rồi, được rồi! Về lo cho con đi!
              Bà Hai vừa nói, vừa bắt chú chó đưa lại cho người phụ nữ.
              Quý nhìn theo mếu máo:
              - Mẹ… cho con đi mẹ! Con thích con chó đó…
              Bà Hai ra dấu bảo người phụ nữ đi ra rồi quay lại dỗ dành con trai:
              - Con trai của mẹ ngoan nào! Đừng có khóc! Để rồi mai mẹ kiếm cho con một con chó khác đẹp hơn nữa, chịu không?
              Quý ngồi bẹp xuống sàn nhà, hai chân giãy đành đạch:
              - Không! Con không chịu… Con thích con chó đó…
              Bà Hai nghiêm mặt:
              - Lúc nãy con nghe cô đó nói gì không? Con gái của cổ đang bị bệnh, mà nó lại rất thương con chó này! Nếu bây giờ để con chó lại đây chơi với con, đứa bé đó sẽ nhớ con chó lắm, làm sao mà hết bệnh được, phải không?
              Nghe mẹ giảng giải, Quý thôi không khóc nữa, nhưng vì chắc còn luyến tiếc lắm, nên ngồi xem phim mà lâu lâu cậu ta lại nấc lên một tiếng. Bà Hai nhìn thấy hết nhưng cố tình giả lơ, quay chỗ khác giấu một nụ cười.
              Bẵng đi hơn tuần lễ, mẹ con Quý không ai còn nhớ và nhắc nhở gì đến người phụ nữ và con chó nữa thì chị Tư chủ nhà trọ khu phố bên kia tìm tới.
              Trông thấy chị Tư, bà Hai chợt nhớ tới người phụ nữ hôm trước nên vội hỏi:
              - À, mấy hôm trước đây có một cô ở trọ đằng nhà em, cổ nói con cổ bị bệnh sao đó, giờ hết chưa vậy Tư?
              Chị Tư ngồi xuống chiếc ghế đá ngoài hành lang, cười buồn:
              - Em tới chị cũng vì chuyện cô đó nè!
              - Sao? Có chuyện gì?
              Bà Hai ngạc nhiên.
              Chị tư chắc lưỡi:
              - Tội nghiệp! Thằng chồng nó vợ bé vợ mọn rồi về kiếm chuyện đánh đập liên miên, không chịu đựng xiết nên nó ôm con đi tuốt từ Cà Mau lên đây sống tạm. Ai ngờ cái số nó khổ. Công ăn việc làm vừa mới tạm ổn định, tưởng đâu hai mẹ con có thể đắp đổi qua ngày. Ai nào ngờ con gái nó lại phát bệnh. Mới đầu cũng tưởng sơ sài, tiền chị cho mượn nó cầm về mua thuốc, cháo lao cho con nhỏ. Hai hôm sau thì bệnh con bé bỗng nhiên trở nặng, nửa đêm em phải giúp đưa mẹ con nó vô bệnh viện, tới sáng thì con nhỏ chết! Mau vậy mới lạ chứ! Nó như điên như dại, em phải lục lọi đồ đạc của nó, tìm mãi mới được số điện thoại của người thân. Em gọi điện xuống Cà Mau thì gặp ngay ông anh nó. Nghe tin em gái như vậy, anh chị nó cấp tốc lên đây liền để đón nó về quê. Chị biết hôn, con nhỏ thiệt tốt tính, mặt mũi lại dễ coi như vậy mà gặp phải thằng chồng mắc dịch, nghĩ mà tiếc cho nó! Tâm trí đang hoảng loạn vậy đó mà nó vẫn không quên món nợ ân tình của chị. Nó kêu anh chị nó ghé đây để trả tiền và chào từ biệt chị, nhưng hôm qua chị đi đâu cửa đóng cả ngày, nên nó nhờ em tới đây gởi lại tiền cho chị, và nhắn với chị là dù có chết nó cũng không quên ơn! À, nó còn nói, hôm trước thấy thằng Quý nhà chị có vẻ mến con chó, nên nó để lại, nhờ em mang đến cho cháu nè!
              Nói xong, chị Tư nhìn ra cổng cất tiếng gọi:
              - Mi Lu! Mi Lu! Vô đây con…
              Chú chó nhỏ nghe gọi rối rít chạy vào, quấn lấy chân chị Tư, miệng kêu ư ử như trẻ con đang nũng nịu.
              Quý đang chơi trong nhà nghe tiếng con chó, cậu ta mừng quá chạy vội ra bế thốc con chó lên, hỏi chị Tư:
              - Dì Tư ơi, tên con chó này là Mi Lu hả dì?
              Chị Tư mỉm cười:
              - Ừ, Mi Lu là tên nó! Cô chủ của nó tên Mi Lan nên đặt cho nó cái tên Mi Lu này đó! Con có thích nó không? Từ nay con nuôi nó nhé?
              Quý do dự:
              - Con thích lắm… Nhưng… mẹ con bảo không được để nó ở đây, vì như vậy con nhỏ kia sẽ buồn vì nhớ nó mà không hết bệnh được!
              Chị Tư vuốt tóc Quý:
              - Con yên tâm đi, cô bé kia hết bệnh rồi! Cô bé đã đi xa rồi nên gởi con chó này lại nhờ con nuôi giùm đó!
              - Cô bé đi đâu? Sao không đem chó theo vậy dì?
              Quý ngạc nhiên hỏi.
              Chị Tư bối rồi:
              - Ừ… à, thì cô bé về quê… Quê cô bé ở rất xa, nếu dắt theo con chó, cô bé sợ nó mệt đó mà! Với lại biết cháu thích, nên cô bé muốn tặng!
              Quý tin lời chị Tư, cười thật tươi rồi quay sang nhìn mẹ:
              - Mẹ ơi! Vậy là mẹ cho phép con nuôi con chó này được rồi phải không mẹ?
              Vẫn còn xúc động bởi câu chuyện chị Tư vừa kể, bà Hai cúi xuống nhìn con chó một lúc rồi khẽ gật đầu:
              - Ừ, mẹ cho phép con nuôi đó!
              - Hoan hô mẹ! Cám ơn mẹ!
              Quý nhảy tới ôm chầm lấy mẹ, đặt lên má bà Hai mấy cái hôn liên tiếp. Đẩy con trai ra, bà Hai mắng yêu:
              - Thôi, đừng có mà nịnh tui, ông tướng!
              Quý cười ngỏn ngoẻn rồi ôm con chó vào lòng chạy biến ra vườn.
              Đó là một con chó lông trắng, nhỏ bé, chỉ chừng hơn hai tháng tuổi. Ở lứa đó, đáng ra khi xa nhà, xa chủ nó sẽ cắn khóc inh ỏi suốt đêm. Nhưng Mi Lu lại không như vậy, nó bám lấy Quý như hình với bóng, như một đứa trẻ con bám lấy ba mẹ mình vậy.
              Cả ngày hôm đó, trong mảnh vườn sau nhà, nó tung tăng đào bới đất cát. Hai bàn chân trước như hai cái guồng vận hết tốc lực. Đào tối tăm mặt mũi, chẳng biết để làm gì?
              Có lẽ đó là cái bản năng ngàn đời của loài chó, như thể đang tìm kiếm cái kho tàng xương quý giá tổ tiên chôn tự kiếp nào.
              Đào mãi mệt phờ râu, nó rúc mình trong một cái lỗ nhỏ, thò đầu ra lúc lắc với Quý, Quý cười lên khanh khách. Lát sau, nó lại trườn ra rúc vào cạnh chân Quý như muốn tìm hơi ấm. Quý bế chú chó vào lòng, đút cho nó từng miếng chả, ân cần như người mẹ đang chăm chút cho đứa con bé bỏng của mình vậy!
              Tuy chỉ là một giống chó thông thường nhưng Mi Lu lại rất khôn ngoan. Có lúc nó liếng thoắng, luôn tiên phong trong mọi trò khám phá với cậu chủ của mình, có lúc nó lại giống như một mẫu mực của sự ngoan ngoãn.
              Cái cầu thang lên lầu quá dốc, mấy đứa trẻ con leo lên còn cảm thấy khó nhọc huống hồ Mi Lu chỉ mới mấy tháng tuổi. Buổi tối, thấy Quý lên lầu, nó cứ ngồi chồm hổm bên dưới mà trông theo như mơ tưởng chắc trên đó là chốn thần tiên, và chắc cũng muốn bám theo để chơi đùa cùng Quý.
              Lên đến nửa thang lầu, Quý quay lại thấy chú chó nhìn mình như cầu khẩn, van lơn, cậu bé không đành lòng bỏ lại nó một mình dưới nhà nên đi ngược trở xuống.
              Thấy chủ quay xuống, Mi Lu mừng rỡ, rối rít vẫy đuôi và ư ử rên lên sung sướng.
              Quý ôm chú chó lên phòng ngủ của mình. Và bắt đầu từ hôm đó căn phòng của Quý có thêm một nhân vật mới: Chú chó Mi Lu đáng mến!
              Có đêm, Quý ngủ trên giường còn Mi Lu nằm dài ở tấm thảm bên dưới, nhưng cũng có khi cao hứng, Mi Lu ta chồm hai chân trước lên giừơng cào cào, rên rỉ để Quý phải nhấc bổng nó lên cho ngủ bên cạnh.
              Mới đầu bà Hai còn la rầy cầm chừng, nhưng riết rồi bà cũng quen mắt và cũng thấy thương mến con chó nhỏ nên thôi, bỏ mặc hai đứa chơi đùa, ăn ngủ cùng nhau.
              Mỗi con chó ít nhiều đều có một cái “nghề”, ngoài cái “nghề” truyền thống là coi chừng nhà và chăn gia súc. Mi Lu không có máu săn bắt, song “nghề” giữ nhà của nó thì trên cả mức tuyệt vời! Bên cạnh đó, nó còn có “nghề” tìm lại đồ vật bị thất lạc!
              Ai vào nhà ở đâu yên đó, lên nhà trên nó theo lên, xuống nhà dưới nó theo xuống, không gầm gè cắn xé ai bao giờ nhưng ánh mắt nó cứ gườm gườm khiến bất cứ kẻ nào có tà tâm đều phải chùn bước.
              Có lần, Quý đánh rơi một chiếc vớ, tìm mãi không thấy. Quý dí chiếc vớ còn lại trước mặt Mi Lu nói giỡn:
              - Ê, tìm giúp tao với! Sắp trễ giờ học rồi!
              Nhưng thật không ngờ, Mi Lu nhà ta lập tức sục sạo khắp mọi xó xỉnh trong nhà, và chỉ trong nháy mắt đã gặm chiếc vớ trong miệng chạy đến lập công với Quý. Lần đó Mi Lu được chủ thưởng cho nửa ổ bánh mì thịt to đùng, và sau này, thỉnh thoảng khi mất gì Quý đều nhờ Mi Lu tìm giúp. Kể ra, nó làm việc cũng rất có hiệu quả!
              Tình bạn giữa Quý và chú chó Mi Lu ngày càng trở khắn khít không rời.
              Mỗi bữa gần tới giờ Quý đi học về, Mi Lu đều chạy ra cửa sủa ngóng. Nó rất thính tai và tinh mắt, chủ còn tít mù xa nó đã sủa đón rồi rúc cái đầu bé nhỏ vào khe hở của cánh cổng sắt.
              Lúc Quý vừa dừng xe trước cổng là nó nhảy chồm lên, vẫy đuôi rối rít.
              Nhưng ở Mi Lu có một điểm rất lạ, không giống với những chú chó bình thường khác!
              Thỉnh thoảng Quý bắt gặp nó đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chồm lên cào cào vào không khí, miệng ư ử mừng vui giống y như mừng rỡ đón chào lúc Quý đi đâu về.
              Quý có cảm giác nó như đang chào đón, đùa vui với một người vô hình nào đó.
              Có lần Quý chỉ cho bà Hai xem rồi nói:
              - Mẹ thấy nó có lạ không? Tự nhiên nhảy lên đùa giỡn một mình, y như có một người nào đứng bên cạnh nó vậy!
              Bà Hai không chú ý lắm, trả lời con:
              - Mi Lu còn nhỏ, nó là chó trẻ con, giống như con nít, nó cũng thường hay chơi một mình, nói chuyện một mình vậy thôi, đâu có gì lạ đâu con! Hồi nhỏ con cũng vậy, con thường nói chuyện một mình lắm đấy!
              Nghe mẹ nói vậy, Quý thôi không còn thắc mắc nữa, nhưng mãi mấy năm sau, khi chú chó Mi Lu không còn là một “chó trẻ con” nữa nó vẫn không bỏ đi tính nghịch ngợm ấy.
              Quý cũng đã quen mắt nên cũng chẳng lấy đó làm lạ!

              ***
              Cuộc sống của gia đình ông bà Hai Phát cứ trôi đi êm đềm như thế.
              Từ ngày có con chó nhỏ bên mình, Quý vui và khỏe mạnh hẳn lên. Lúc nào người và chó cũng quấn quýt bên nhau.
              Quý thi đỗ vào trường Cao đẳng Kinh tế, vợ chồng ông Hai lập tức mua ngay một căn nhà gần trường để cậu con trai thuận tiện việc học hành. Ngày chuyển về nhà mới ở Sài Gòn, Quý không quên dẫn theo con chó.
              Chú chó nhỏ năm nào bây giờ đã lớn phổng phao. Bộ lông trắng mượt mà sạch sẽ, vì mỗi ngày dù bận rộn học hành hay mê mãi chơi bời gì Quý cũng không quên tắm rửa cho chú chó.
              Từ ngày lên sống ở Sài Gòn hoa lệ, Quý giao du và kết thân với đông đảo bạn bè, gồm đủ các thành phần.
              Từ nhỏ quen sống trong sự giáo dục của bà Hai, Quý luôn luôn  nhìn cuộc đời bằng đôi mắt màu hồng tươi sáng.
              Với Quý, bạn bè nào cũng là người tốt, và Quý chưa một lần ngần ngại khi giúp đỡ các bạn về mặt tiền bạc, vật chất, cũng như mọi khía cạnh khác trong cuộc sống.
              Vây quanh bên cạnh Quý không chỉ có những bè bạn thật lòng, mà còn có không ít kẻ rắp tâm kết thân để lợi dụng.
              Sống xa nhà, không còn được giám sát của mẹ nên Quý rất đỗi tự do, bạn bè rủ rê gì Quý cũng nghe theo, một phần do ham vui, một phần không muốn làm mất lòng bạn.
              Dần dần, Quý trở nên bê tha, suốt ngày có mặt ở các quán bar, vũ trường hoặc những cuộc đỏ đen tại nhà mình hay các chuyến đi chơi xa Vũng Tàu, Đà Lạt cùng với bạn bè.
              Ông bà Hai Phát thấy con xin nhiều tiền để đóng tiền học thêm vi tính, ngoại ngữ và rất nhiều môn học khác…, ông bà lấy làm mừng vui lắm. Đôi lúc xót ruột con, bà Hai cản:
              - Học bớt bớt lại một chút đi con! Nhìn con kìa, mỗi ngày một gầy ốm! Đừng có mà lao vào học suốt ngày đêm, sức nào chịu nổi…
              Quý chỉ cười, không nói gì.
              Thi thoảng, Quý ân hận vì đã dối gạt cha mẹ, nhưng rồi Quý không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ mà đám bạn bè vây quanh luôn gọi mời, xô đẩy Quý bước vào.
              Một đêm, Quý trở về nhà trong trạng thái ngà ngà say. Mở cửa vô nhà, không thấy Mi Lu nhảy tới đón mừng như thường lệ, Quý ngạc nhiên, lấy dĩa đổ túi thức ăn ra và lên tiếng gọi:
              - Mi Lu! Mi Lu! Mầy đâu rồi? Sao không mừng tao hử? Mầy giận tao hay sao vậy? Có khi nào tao quên đem thức ăn về cho mầy đâu? Mi Lu… Mi Lu… ra đây ăn nè con!...
              Mi Lu từ trong sàn giường lừ lừ đi ra, không vẫy đuôi, cũng không kêu mừng, nó chỉ ngước nhìn Quý bằng đôi mắt ướt rượt, buồn buồn.
              Quý ngạc nhiên:
              - Hôm nay mầy làm sao vậy? Có bệnh không đây?
              Vừa nói, Quý vừa kéo dĩa thức ăn tới bên cạnh Mi Lu. Nó chúi mũi vô dĩa khịt khịt mấy tiếng rồi quay ra, mệt mỏi nằm xuống, gác mõm lên chân Quý.
              Quý ôm Mi Lu vào lòng, dỗ dành:
              - Thôi, đừng buồn nữa nha! Chủ bỏ đi suốt ngày nên mầy buồn chứ gì? Tao xin lỗi nhé! Những chỗ tao đến không thể dẫn mầy theo được! Nhưng mà nè, tao đã đem về cho mầy đủ thứ món ngon. Ăn đi, ăn đi cho tao vui, rồi sáng mai tao chở đi bác sĩ thú y khám xem sao…
              Nghe lời chủ, Mi Lu chậm chạm đứng lên, ăn một cách nhỏ nhẻ khác thường.
              Quý dỗ cho Mi Lu ăn gần hết dĩa mới chịu đi tắm rửa.
              Mệt mỏi vì cả ngày ngồi hết sòng bài rồi chuyển qua bàn nhậu, vừa tắm xong, Quý nằm dài trên sa lông ngủ luôn, không kịp vào phòng.
              - Anh Quý ơi! Quay lại đi anh… Rời xa chốn ăn chơi đó đi anh…
              Nghe tiếng gọi văng vẳng bên tai, Quý cố hết sức để mở mắt ra nhưng cơn buồn ngủ lại cứ kéo sập xuống, nhướng lên mấy lần, Quý vẫn không nhận ra ai đang gọi mình. Chỉ thấy lờ mờ bóng dáng một cô gái đứng kề bên Mi Lu.
              Cô gái nói nhỏ:
              - Anh Quý ơi! Anh đừng giao du với đám bạn đó nữa! Bọn nó không tốt đâu, chúng chỉ lợi dụng anh thôi! Anh lo học hành đi!
              Quý muốn cất tiếng cãi lại nhưng không được, hai mi mắt anh như đã bị dán chặt vào nhau và thật nhanh chóng, Quý chìm sâu vào giấc ngủ.
              Sáng hôm sau, chợt nhớ lại chuyện đêm vừa rồi, Quý thầm nghĩ:
              - Quái lạ! Sao mình lại mơ thấy chuyện gì kỳ thế không biết! Bạn bè mình có đứa nào lợi dụng gì mình đâu? Tụi nó mà biết được, sẽ chẳng đứa nào thèm chơi với mình nữa!... Cô gái đó là ai? Không giống bất cứ một cô bạn nào của mình?
              Nhưng rồi chuyện giấc mơ và hình bóng mờ ảo của cô gái cũng nhanh chóng trôi vào quên lãng. Quý vẫn ngày ngày ăn chơi trác táng không thôi.
              Quý không hề nghĩ ngợi gì đến chuyện tương lai phía trước. Quý chỉ biết hiện tại mình đang rất vui, và đinh ninh đó sẽ kéo dài bất tận…

              ***
              - Quý! Quý ơi!
              Nghe tiếng gọi hớt hãi của Tài, Quý đặt ly rượu xuống bàn, lên tiếng:
              - Tao ở đây! Mầy làm gì khẩn trương vậy?
              - Mầy phải về nhà ngay! Đứng lên, tao chở mầy về!
              Quý hồi hộp:
              - Có chuyện gì vậy?
              Tài kéo tay bạn, giọng run run:
              - Ba mẹ mầy… Ba mẹ mầy gặp tai nạn rồi!
              Quý kinh hoảng đứng bật lên:
              - Tai nạn? Tai nạn gì?
              Tài lắc đầu:
              - Tao cũng không rõ! Nghe nói… tai nạn giao thông!
              - Bây giờ ba mẹ tao ở đâu?
              - Hình như… ở nhà mầy dưới quê! Một người hàng xóm dưới đó vừa gọi điện lên trường báo tin, chuyện xảy ra thế nào cũng chưa ai rõ! Bây giờ mầy phải về dưới gấp! Tao chở mầy đi…
              Quý lảo đảo đứng lên rồi bất thần nôn ọe ra, bẩn hết cả quần áo.
              Tài cùng với mấy người bạn đang ngồi nhậu đỡ Quý về nhà, thay quần áo cho Quý rồi kéo Quý ra xe.
              Xe vừa nổ máy, con chó Mi Lu trong nhà kêu lên thảm thiết, cào cấu kịch liệt vào cánh cửa đang đóng kín.
              Quý bảo:
              - Tài ơi, cho tao vô nhà dẫn theo con chó về quê!
              Ban đầu Tài không chịu, nhưng thấy Quý cứ lằng nhằng năn nỉ hoài, cuối cùng Tài cũng phải để Quý mở cửa dắt theo con chó đi ra.
              Mi Lu ngoan ngoãn ngồi im suốt quãng đường về.
              Vừa về tới cổng, nhìn thấy trong nhà xôn xao người qua kẻ lại, Quý bủn rủn cả chân tay. Linh tính báo cho Quý biết ba mẹ mình đã xảy ra điều hệ trọng lắm rồi.
              Mấy người đàn bà vừa trông thấy Quý bước vô đã bật khóc:
              - Trời ơi, con ơi! Con về muộn mất rồi! Ba mẹ con đã không đợi được con về…!
              Quý lảo đảo bấu tay vào cánh cửa. Ngay lúc đó, Mi Lu từ ngoài sân phóng ào vào nhà, chạy đến bên hai chiếc giường đặt ở giữa nhà, nó nhảy chồm chồm lên giường, cất lên những tiếng tru thật dài, nghe thê thiết…
              Trên hai chiếc giường ấy là xác của vợ chồng ông Hai Phát.
              Quý run rẩy giở tấm vải trắng phủ trên mặt ba mẹ để nhìn hai người lần sau cuối.
              Gương mặt bà Hai trông vẫn thanh thản như đang ngủ, riêng ông Hai, mặt bị xây xát rất nhiều chỗ, cả người ông đầy thương tích.
              Quý đau đớn gục xuống ôm lấy cha mẹ, khóc tức tưởi.
              Mi Lu thôi không tru nữa. Nó đến bên Quý, thè cái lưỡi dài đỏ hồng ra liếm chân Quý như đang an ủi dỗ dành cậu chủ trước nỗi đau quá lớn này.
              Quý khóc một hồi rồi gượng dậy, quay sang hỏi chú Dự – người em bà con xa với ông Hai Phát, cũng là người lâu nay được ông Hai Phát tín nhiệm, coi như cánh tay mặt của mình, giao trông coi rất nhiều công trình xây dựng. Ông Hai không coi Dự là một nhân viên bình thường mà là một người thân tín.
              - Chú ơi… Ba mẹ con… tại sao ra nông nỗi?
              Chú Dự cúi xuống khẽ lau nước mắt:
              - Sáng sớm này ba con dặn chú ở nhà lo một số chuyện, ba và mẹ con đi thành phố để thăm con, vì hai tuần nay không thấy con về, mẹ con rất nhớ. Vừa ra khỏi thị trấn vài cây số thì không may… gặp phải một thằng chạy xe gắn máy ngược chiều tông phải. Mẹ con thì chết liền tại chỗ, ba con và cái thằng đó thì chết trong bệnh viện…
              Quý cảm thấy buốt nhói trong lòng. Cũng tại mình, tại mình mà ba mẹ mới lâm tai nạn. Nếu chủ nhật vừa rồi mình đừng mải chơi cùng bè bạn, mình về thăm nhà thì hôm nay mẹ với ba đâu phải lặn lội đi thăm mình để xảy ra cớ sự!
              - Tại con!... Tại con… Ba mẹ ơi, con đã làm hại ba mẹ rồi…
              Quý gục đầu lên xác ông Hai nức nở.
              Chú Dự cùng mấy người hàng xóm dìu Quý đứng lên, an ủi:
              - Con đừng tự trách mình như vậy! Con người ta sống chết đều có số thôi con ạ! Con đừng quá đau buồn, phải tỉnh táo để lo chuyện hậu sự cho anh chị Hai. Trong nhà bây giờ chỉ còn lại một mình con thôi đó! Con không được ngã quỵ, dù thế nào con cũng phải cắn răng để gượng dậy…
              Nhưng Quý không gượng dậy được!
              Suốt mấy ngày cử hành tang lễ, Quý cứ lừ đừ như kẻ mất hồn, mọi việc hầu như đều do một tay chú Dự lo toan, sắp xếp. Quý chỉ biết làm theo những gì chú Dự sai biểu và gật đầu khi chú ấy hỏi qua ý kiến.
              Quý và chú chó Mi Lu cứ quanh quẩn bên cạnh hai chiếc quan tài. Chó không sủa tru và người cũng thôi không khóc nữa nhưng cả hai đều ngơ ngác, u sầu…
              Sau ba ngày tang lễ, vợ chồng ông Hai Phát được đưa đi an táng ở một miếng đất của gia đình cách nhà chừng non cây số.
              Đám người đưa tang về hết chỉ còn Quý và Mi Lu ngồi lại bên hai nấm mồ trơ trọi giữa đồng không mông quạnh.
              Quý cứ ngồi bó gối ngó trân trân, trong đầu không còn buồn vui hay nghĩ ngợi bất cứ điều gì.
              Từ nhỏ, Quý vốn quen sống trong vòng tay bao bọc của mẹ cha, bất thình lình hai người bỏ Quý ra đi không một lời từ giã dặn dò, Quý cảm thấy mình thật trơ trọi, thật bơ vơ, thấy như mình vừa rơi từ một ngọn núi cao nào đó xuống.
              Khi ánh mặt trời đã tắt hẳn ở phía trời Tây, Mi Lu gầm gừ cắn ống quần Quý lôi đi.
              Quý sực tỉnh, đứng lên nhìn lại hai ngôi mộ lần nữa rồi lủi thủi ra về, sau lưng Quý, Mi Lu cũng lặng lẽ bám theo.
              Ngôi nhà quạnh quẽ thê lương, tràn ngập mùi khói nhang làm lòng Quý đau quặn thắt.
              Vẫn còn mặc nguyên bộ đồ tang trên người, Quý nằm dài xuống sàn nhà và bắt đầu khóc. Quý khóc như chưa bao giờ được khóc. Mi Lu nằm sát cạnh bên, mắt nó cũng dàn giụa nước…
              Quý thiếp đi lúc nào không biết, đến chừng nghe thấy một luồng hơi nóng phả vào mặt mới giật mình thức dậy. Thì ra đó là Mi Lu, nó húc mõm vào mũi Quý, cọ vào mặt Quý.
              Quý mệt mỏi ngồi dậy, vuốt ve con chó:
              - Mầy đói rồi phải không? Từ mấy hôm nay chắc mầy cũng giống như tao, chưa ăn gì vào bụng phải không? Để tao xuống bếp tìm xem có gì cho mầy ăn không nhé?
              Mi Lu âu yếm liếm nhè nhẹ vào tay Quý.
              Thức ăn dưới bếp còn nhiều nhưng Quý không tài nào nuốt nổi. Quý lấy một dĩa thật đầy để xuống cho Mi Lu. Con chó không sục mõm vào ngay như mọi lần mà nó cứ nhìn Quý rồi kêu ăng ẳng.
              Quý lại nằm dài xuống cạnh dĩa thức ăn, một tay vuốt ve lưng con chó nhưng mắt thì nhắm lại.

              ***
              - Quý ơi! Quý! Cháu thức dậy chưa?
              Nghe tiếng chó sủa inh ỏi cùng với tiếng gọi cửa, Quý lồm cồm bò dậy,  rửa vội qua mặt mày rồi chạy lên nhà trên chào khách.
              Chú Dự bước vô nhà, trông thấy vẻ bơ phờ hốc hác của Quý, chú khẽ lắc đầu, than:
              - Trời ơi! Coi cháu kìa! Cháu phải biết tự chăm sóc mình chứ! Giờ đây ba mẹ cháu không còn, cháu càng phải lo cho bản thân để vong hồn ba mẹ cháu được nhẹ nhàng thanh thản mà đi đầu thai kiếp khác chứ! Cháu mà như vầy, ba mẹ cháu sẽ không yên lòng nhắm mắt đâu.
              Nghe chú Dự rầy, Quý không nói gì mà chỉ đứng im cúi đầu, mắt rưng rưng lệ.
              Chú Dự tự kéo ghế cho mình và cho Quý, chú ngồi xuống rồi nói với Quý:
              - Cháu ngồi đi! Ngồi xuống đây tính chuyện nhà với chú!
              Quý lơ đãng nghe chú Dự tính toán các khoản chi tiêu mà chú đã ứng ra từ lúc ba mẹ mình gặp nạn đến khi mồ yên mả đẹp. Sau khi trình bày cặn kẽ, chú Dự gút lại:
              - Hôm qua tới giờ cháu đã kiểm lại số tiền người ta đi phúng điếu chưa?
              Quý lắc đầu:
              - Dạ chưa! Tối hôm qua cháu mệt quá…
              Chú Dự thông cảm:
              - Không sao! Bây giờ cháu mang ra đi, chú cháu mình cùng kiểm.
              Quý đứng lên mở tủ lấy chiếc túi đựng tiền phúng điếu đưa cho chú Dự. Hai chú cháu người ghi, người kiểm.
              - Vậy là… cháu phải đưa thêm cho chú hai mươi triệu nữa mới đủ!
              Quý ngơ ngác:
              - Cháu?... Cháu làm gì có tiền?
              Chú Dự gật gù:
              - Chú biết! Chú biết chứ! Nhưng mong cháu hiểu mà thông cảm cho chú! Ba mẹ cháu gặp nạn bất thình lình như vậy, chú quá nóng ruột nên phải chạy đi vay mượn để lo cho anh chị… Hôm nay chú phải hoàn trả cho người ta…
              Nhìn vẻ mặt khổ sở của chú Dự, Quý bảo:
              - Để cháu kiểm lại xem, ba mẹ cháu còn tiền để trong tủ không?
              Quý mở hết các tủ trong nhà, lục lọi một lúc thật lâu. Số tiền tìm được không nhiều nhưng lại có một số vòng vàng nữ trang của bà Hai.
              Nhận gói nữ trang từ tay Quý, chú Dự ngần ngại nói:
              - Cháu… cháu vui lòng đem bán số nữ trang này để gửi lại tiền cho chú chứ?
              Quý buồn rầu:
              - Dạ! Chú làm ơn đem đi bán giùm cháu luôn đi, cháu giờ không còn lòng dạ nào…
              Chú Dự nhét gói nữ trang vào túi áo rồi nói tiếp:
              - Ừ, nếu cháu nhờ thì chú sẽ đi bán giúp. Nhưng bây giờ chú muốn cho cháu biết về tình hình công việc của ba cháu…
              Dự ngập ngừng nhìn Quý thăm dò, nhưng thấy Quý vẫn ngồi im, nghe một cách lơ đễnh.
              - Chắc cháu không biết, thời gian gần đây việc làm ăn của ba cháu gặp nhiều khó khăn lớn?
              - Dạ, cháu không nghe ba cháu nói, cũng không thấy mẹ than thở gì…
              Quý đáp.
              Dự thở dài:
              - Cháu biết tính ba cháu rồi đó, ông không muốn vợ con phải phiền lòng nên cố chịu đựng khó khăn mà không một lời than vãn… Chú nói thật, hiện nay, ba cháu còn một số nợ rất lớn…
              - Chú giúp cháu giải quyết mọi việc đi, trước giờ chú vẫn làm với ba cháu nên chú hiểu rõ chứ cháu đâu có biết gì?
              Quý mệt mỏi nói như muốn chấm dứt cuộc nói chuyện.
              Chú Dự đứng lên vỗ vai Quý:
              - Được rồi, chú sẽ cố gắng dàn xếp một cách tốt nhất! Cháu cứ yên tâm nghỉ ngơi đi! Chú về nhé!
              Những ngày tiếp sau đó rất nhiều người đến thăm hỏi động viên Quý, ai cũng tỏ ra ái ngại cho cuộc sống sau này của Quý,  có người nói xa nói gần khuyên Quý đề phòng chú Dự. Nhưng với ai thì Quý cũng dạ dạ vâng vâng, chứ thật sự Quý không hề để tâm đến bất cứ lời khuyên bảo nào. Đầu óc Quý như đã bão hòa rồi, không còn tiếp nhận bất cứ thông tin nào nữa!
              Ông bà Hai Phát là người giàu có nhất nhì trong vùng, vậy mà khi chết đi, gia tài để lại cho cậu con trai duy nhất chỉ là ngôi nhà với vài mảnh đất ở quê cùng ngôi nhà ở Sài Gòn mà lâu nay Quý ở đi học.
              Chuyện đó cũng không làm Quý thắc mắc. Quý tin tưởng chú Dự. Chú bảo chú đã cố gắng hết sức, lấy bên này tấp bên nọ mới giải quyết xong các khoản nợ nần của ông Hai mà không phải bán đi căn nhà cha mẹ để lại cho Quý.
              Hơn một tuần sau, Quý đóng cửa ngôi nhà dưới quê, trở lên Sài Gòn, hành lý mang theo chỉ một số tiền ít ỏi và chú chó trung thành.
              Nghe tin Quý trở lên, bạn bè tới thăm đông đảo. Ai cũng xót xa thương cảm, ai cũng khuyến khích động viên khiến Quý cảm thấy ấm lòng trước tình nghĩa bạn bè dành cho mình.
              Quý lại bị cuốn vào những cuộc nhậu nhẹt thâu đêm, gọi là để vơi đi buồn khổ…
              Từ ngày trở lên Sài Gòn, Mi Lu càng quấn quýt bên cậu chủ. Quý cũng vậy, đêm đêm thường ôm Mi Lu vào lòng mà khóc.
              Trong những giấc ngủ chập chờn, Quý thường nghe văng vẳng tiếng ai đó gọi mình, rồi thỉnh thoảng lại thấy bóng dáng một người con gái thoáng qua, mà bao giờ người con gái đó cũng đi bên cạnh Mi Lu, Mi Lu có vẻ rất thân thiện với cô gái.
              Cô gái quỳ xuống bên cạnh Quý, thầm thì khuyên can Quý đừng sa vào ăn chơi nữa, lo mà học hành thi cử…
              Nhiều lần Quý cũng cảm thấy băn khoăn vì giấc mơ lặp đi lặp lại ấy, nhưng cuối cùng Quý vẫn trượt dài, không gượng nổi.
              Liên tiếp thi rớt mấy môn, Quý chán nản quyết định không đi học nữa! Vậy là từ hôm đó, suốt ngày Quý cứ rong ruổi đi theo những lời rủ rê mời gọi của bạn bè.
              Các vũ trường, quán bar, sòng bạc là những nơi Quý thường xuyên lui tới.
              Khi tất cả đồ đạc có giá trị trong nhà cùng với chiếc xe gắn máy đều phải đem bán hết thì Quý bắt đầu lo lắng.
              Là một cậu ấm con nhà giàu, được ba mẹ chăm chút từng li từng tí, chưa bao giờ Quý phải bận tâm đến cái ăn cái mặc hàng ngày. Tất cả đối với Quý đều là hiển nhiên, không gì phải băn khoăn lo nghĩ.
              Nhưng lúc này thì Quý không còn gì cả!
              Hai ngày liền Quý nằm nhà ăn mì gói trừ cơm, nhưng với Mi Lu, Quý vẫn dành cho nó khẩu phần ăn “cao cấp” là mấy cây xúc xích!

              ***
              - Làm gì mấy hôm nay mầy trốn biệt vậy?
              Tỉ dừng xe trước cửa nhà Quý bấm còi inh ỏi. Vừa thấy Quý ló mặt ra, nó hất hàm hỏi.
              Quý cười ngượng nghịu:
              - Mầy vô nhà chơi!
              - Trời! Mầy bị bịnh hay sao vậy? Nhà mầy thì có giống gì ở trỏng mà vô chơi? Chán như con gián ấy! Đi! Lên xe tao chở đi! Tao mới khám phá ra một bar chiến lắm! Bảo đảm vô đó là mầy mê liền!
              Tỉ tháo cặp kính đen to đùng trên mắt xuống, vừa kéo vạt áo lau, vừa nói với Quý.
              - Tao… tao không đi đâu…
              Quý trả lời nhát gừng.
              Tỉ ngạc nhiên, nheo mắt hỏi:
              - Ủa, sao vậy? Mầy đừng nói với tao là mầy tu nghe?
              - Không! Nhưng tao… tao còn nợ tụi thằng Khoa, tao… hết tiền rồi!
              Tỉ “à” lên một tiếng như hiểu ra rồi bật cười hô hố:
              - Tưởng gì! Chuyện đó chỉ là chuyện nhỏ như con thỏ, vậy mà nhìn mặt mầy kìa, buồn như con chuồn chuồn, làm tao cứ ngỡ mầy sắp cạo đầu đi tu như thằng ngu ấy chứ!
              Vừa nói, Tỉ vừa dẫn xe vào nhà theo lời mời của Quý.
              Vào nhà, Tỉ đảo mắt nhìn khắp một lượt ngôi nhà giờ đã trống huơ trống hoác, bàn tay Tỉ nhịp nhịp như đang suy tính gì lung lắm.
              Cuối cùng Tỉ hỏi:
              - Mầy không còn chút vốn liếng nào à?
              - Không!
              Quý nói nhỏ.
              Tỉ cười:
              - Mầy nói cũng lạ! Ông già mầy giàu có như vậy mà không để lại gì cho mầy sao?
              - Tao nghe nói trước khi mất, công việc làm ăn cũng ba tao đã sa sút, đã lâm vào cảnh nợ nần rồi, chỉ tại ba tao giấu…
              Tỉ gật gù:
              - Có lý như con chí! Đời bây giờ giàu nghèo đổi chỗ cho nhau chỉ trong một cái chớp mắt! Có người đang nghèo như cái cù nèo, ngủ một đêm sáng ra bỗng thành tỉ phú. Lại cũng có người đang giàu như con cào cào, chớp mắt một cái hóa ra ăn mày như trâu đi cày…
              Tỉ vừa nói vừa đi tới đi lui trong phòng, rồi bất thần đứng dừng ngay trước mặt Quý, hỏi:
              - Mầy có muốn phất lên không? Muốn trở lại những ngày vung tiền qua cửa sổ không?
              Quý cười héo hắt:
              - Giàu thì ai lại không muốn, nhưng… tao hiện nay đã không còn cơ hội rồi!
              - Sao lại không? Chỉ cần mầy có một chút vốn, tao sẽ chỉ cho mầy cách làm ăn!
              - Làm gì?
              Quý hỏi.
              Tỉ cười:
              - Mua chứng khoán! Chắc mầy có nghe chuyện này rồi chứ gì? Bây giờ nhiều người phất lên nhờ chứng khoán lắm đó nghen mậy!
              Quý thở dài:
              - Đầu tư vô đó cũng hên xui thấy bà! Tao nghe cũng không ít người đã bị phá sản vì chơi chứng khoán.
              Tỉ bật cười hô hố:
              - Thì đó! Tao đã nói với mầy, đời bây giờ giàu nghèo chỉ cách nhau bởi một lằn ranh nhỏ như sợi tóc! Ăn thua là có cái đầu biết suy nghĩ và sự tính toán sát sao. Mầy thấy tao không? Tao không phải con nhà giàu như mầy. Hồi mới lên Sài Gòn tao phải làm thuê làm mướn đủ mọi nơi để kiếm sống. Tích cóp được một số tiền nhỏ, tao hùn với người ta, chơi theo kiểu cò con. Thế mà dần dần, giờ đây tuy tao chưa thuộc hàng đại gia, nhưng tao đã có thể phè phỡn giữa cái thành phố bon chen nầy rồi!
              Ngừng một chút, Tỉ nói tiếp, giọng có vẻ bí mật:
              - Tao nói cho mầy biết thêm thông tin nầy để mầy vững bụng. Tụi tao có “nội gián”, nên hễ đánh là thắng!
              Quý thở dài:
              - Nghe mầy nói tao cũng ham, nhưng tao đâu còn tiền!
              - Không còn tiền nhưng mầy còn đất, đúng không?
              Quý gật:
              - Ừ, tao còn mấy mẫu đất dưới quê!
              Tỉ vỗ tay đánh đét vào đùi:
              - Vậy là nhứt rồi! Đất bây giờ là vàng ròng đấy con ạ! Mầy về bán mẹ nó mấy mẫu đất ấy đi, lên đây tạo dựng sự nghiệp!
              Quý lắc đầu:
              - Không, tao không bán đâu! Đất đai của ba mẹ tao làm lụng vất vả mới có được, hai ông bà chết chưa bao lâu, tao không thể đem đi bán hết được!
              Nghe Quý nói vậy, Tỉ làm mặt giận:
              - Thì tùy mầy! Tao chỉ muốn giúp bạn bè nên mới gợi ý chuyện đó, mầy không đồng ý thì thôi vậy! Bây giờ mầy đi bar với tao không? Hôm nay tao bao, khỏi phải lo chuyện tiền bạc!
              Quý từ chối:
              - Thôi, mầy đi đi, hôm nay tao không được khỏe!
              - Vậy thì bye nhé! Khi nào cần gì mầy cứ tìm gặp tao, tao sẽ giúp đỡ mầy, tụi mình là bạn bè lâu năm với nhau, mầy đừng ngại nhé!
              Tỉ vừa đi ra vừa huýt sáo.
              Ra tới cổng, Tỉ quay lại cười cười rồi bất thần cho xe vọt lên, phả vào Quý một làn khói nóng…
              Quý buồn bã đứng nhìn theo bạn một lúc rồi mới khép cửa quay vào.
              Vừa xoay lưng, Quý nghe tiếng Khoa gọi giật:
              - Ê, ê! Chờ chút! Chờ chút!
              Quý chưa kịp mở cổng, Khoa vội bảo:
              - Có tiền chưa? Đưa cho tao đi, tao đang cần lắm!
              Quý cúi gầm mặt xuống đất:
              - Tao… tao chưa có! Mầy thông cảm cho tao đi!
              Khoa gắt:
              - Thông cảm con mẹ gì! Bạn bè là bạn bè, tiền bạc là tiền bạc, đâu đó phải rõ ràng sòng phẳng, không thể nhập nhằng được. Tính tao là như vậy! Chẳng lẽ mầy không hiểu?
              Quý nói nhỏ:
              - Có gì mầy vô nhà nói chuyện với tao, đừng đứng ở đây la lối như vậy, người ta nghe được…
              Chưa đợi Quý nói hết câu Khoa cười khẩy:
              - Cái gì? Mầy sợ người ta cười mầy à? Trời! Còn ai không biết cậu ấm Quý bây giờ chỉ còn lại hai bàn tay trắng mà mầy sợ? Sĩ diện gì nữa cậu ấm ơi!
              Nghe giọng giễu cợt của Khoa, Quý tức giận:
              - Mày nói năng cho đàng hoàng một chút! Dù sao tao với mầy đã từng là bạn bè thân thiết suốt mấy năm qua. Chắc mầy không quên, suốt mấy năm liền, có khi nào đi quán bar, vũ trường hay ăn nhậu ở bất kỳ nơi đâu mà tao để cho mầy phải trả tiền chưa? Thậm chí, mầy đánh bạc thua người trả cũng là tao. Rồi chiếc xe của tao nữa, cũng chính mầy mượn đi rồi làm mất, có khi nào tao nặng nhẹ mầy chưa?
              Khoa chống một chân xuống đất, ngửa mặt lên trời cười lớn:
              - Ha ha… Không phải những lúc ấy mầy làm vậy để chứng tỏ ta đây là đại gia sao? Tao chỉ chìu theo cho mầy nổi bật lên, mầy không cám ơn tao thì thôi, sao còn kể lể? Thưa cậu, cậu là con nhà giàu, cậu có thể vung tiền ra cho thiên hạ lóa mắt, cho thiên hạ cúi đầu vị nể. Còn tôi, tôi không giàu có nên từng đồng, từng đồng của tôi mỗi khi bỏ ra đều phải có mục đích hẳn hoi, xin cậu hiểu giùm cho điều đó!
              Quy tức nghẹn họng:
              - Tao không ngờ mầy là kẻ vong ân bội nghĩa đến như vậy! Những lúc mầy thua bài bạc, mầy cần tiền làm điều gì mầy luôn than vãn với tao. Vì thương mầy nên tao không ngần ngại giúp đỡ, bây giờ mầy lại trở mặt mỉa mai tao. Còn số tiền mầy nói tao nợ mầy đó, thật sự tao đâu có mượn. Mầy rủ tao đi chơi bời, tao từ chối vì không còn tiền thì mầy bảo đừng ngại, đã có mầy lo hết. Vậy mà… vậy mà mầy lại giở thủ đoạn, chờ lúc tao say rượu, ép tao ký tên vào giấy nợ…
              Khoa không cười nữa, nhìn thẳng vào Quý bằng vẻ mặt khinh khỉnh:
              - Ủa, tới giờ mầy mới biết sao? Muộn quá rồi cậu hai ơi! Tất cả những trò ngu muội cậu làm trước kia, giờ đừng nhớ lại chi nữa mà thêm uất ức. Mình ngu thì ráng mà chịu! Điều mà cậu hai nên làm và phải làm ngay lúc này là tìm cho đủ số tiền để trả lại cho thằng này! Nghĩ tình mầy dại dột trước kia, tao gia hạn thêm cho hai tuần nữa, đến lúc đó vẫn không có thì đừng trách tao cạn tàu ráo máng đấy nhé!
              Nói vừa dứt câu, Khoa phóng xe đi, không thèm nói một lời tạm biệt với Quý.
              Quý giận run người nhưng biết hiện nay mình đang như cá nằm trên thớt. Giấy mượn nợ đã ký rồi, dù có nói gì thì trước pháp luật mình cũng là người thua cuộc.
              Một nỗi cay đắng trào dâng trong lòng Quý.
              Lê bước vào nhà, Quý buông người xuống giường, đau khổ.
              Hình ảnh những ngày ăn chơi lại hiện ra trong đầu Quý thật rõ rệt như mới xảy ra ngày hôm qua thôi! Mà cũng đúng, mới đây thôi mà, mới đây Quý và Khoa vẫn còn là một cặp bài trùng ở các tụ điểm ăn chơi nổi tiếng Sài Gòn. Vậy mà… từ khi biết Quý không còn gì, và nhất là từ lúc ép được Quý ký tên vào tờ giấy nợ, Khoa đã quay ngoắt đi, trở mặt một cách không ngờ được.
              Lúc mới quen nhau, Khoa còn là một đứa lông bông đói khát, Quý đã giúp đỡ tiền bạc bất kỳ lúc nào Khoa cần, mua cho Khoa từng bữa ăn, từng chiếc áo.
              Quý không hề suy nghĩ gì khi giúp đỡ bạn. Quý đã quen với việc giúp đỡ những người thua sút hơn mình, bởi vì từ nhỏ, Quý đã được mẹ dạy cho điều đó. Quý đã rất vô tư giúp bạn như một lẽ tự nhiên chứ hoàn toàn không có ý vung tiền ra để mua danh, mua sự kính nể như lời Khoa nói lúc nãy!
              Giờ phút này Quý mới thật sự nhận ra sự đen bạc của cuộc đời! Nhận ra được thì đã muộn!
              Giờ đây Quý chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Bạn bè xa lánh. Bên cạnh Quý chỉ còn mỗi một chú chó Mi Lu!
              Những người bạn đàng hoàng trung thực thì đã xa Quý từ lâu, từ lúc Quý sa chân vào con đường ăn chơi thác loạn. Bạn bè đã cố gắng khuyên can, đã cố níu kéo nhưng Quý tự mình bứt ra, tự mình dấn thân vào con đường tăm tối!
              Lúc ấy, Quý không bận lòng, vì vây quanh Quý là rất đông bạn hữu, những kẻ sẵn sàng thức thâu đêm suốt sáng để “sẻ chia” tâm sự cùng Quý, những kẻ sẵn sàng có mặt bất kỳ lúc nào Quý buồn, cần có người đi giải khuây với mình!
              Bây giờ thì những kẻ đó cũng đã rời xa Quý!
              Càng nghĩ Quý càng cảm thấy đắng chát trong lòng. Và bỗng nhiên Quý nhớ lại lời cảnh báo của cô gái trong mơ!
              Cô gái ấy là ai?
              Quý thẩn thờ ngồi lên ôm Mi Lu vào lòng thầm thì:
              - Lần nào khi thấy cô gái ấy, tao đều thấy mầy đứng bên cạnh cổ, nhìn cổ âu yếm lắm. Mầy biết cô gái là ai phải không Mi Lu? Mầy nói cho tao biết đi Mi Lu!
              Nói xong, Quý bật cười một mình, áp mặt mình vào mặt Mi Lu:
              - Tao ngớ ngẩn quá phải không? Làm sao mầy có thể nói cho tao biết được? Bây giờ tất cả đã bỏ tao mà đi hết rồi… Cả ba mẹ tao, cả đám bạn bè chí cốt của tao, cả mấy đứa con gái từng chạy theo thề thốt mong muốn được lo lắng chăm sóc cho tao… Tất cả… tất cả đều bỏ tao đi hết rồi! Bây giờ tao thật bơ vơ giữa cuộc đời này, tao chỉ còn mỗi một mình mầy thôi đấy, Mi Lu ạ! Mầy đừng bỏ tao mà đi nhé!
              Đáp lại lời cậu chủ, Mi Lu thè lưỡi liếm nhẹ khắp tay chân mặt mũi Quý rồi rúc vào lòng chủ, miệng rên lên nho nhỏ.
              Quý vuốt ve bộ lông trắng giờ đây đã ngã màu và có phần xơ xác. Chợt nhớ ra Mi Lu đã sống, đã gắn bó với mình từ thời thơ ấu, giờ đây nó đã già rồi! Ánh mắt nó đã không còn lóe lên những tia sáng rỡ đầy vẻ tinh nghịch, giờ đây nó thường nhìn Quý bằng cái nhìn lặng lẽ u buồn.
              Một nỗi ân hận lại trào lên trong lòng Quý. Quý thầm nghĩ, dù mình có rơi vào hoàn cảnh nào, mình cũng sẽ chăm sóc cho nó thật chu đáo, thật đầy đủ. Mình có thể nhịn đói, nhưng nhất quyết mình phải lo được cho nó đủ hai bữa ăn mỗi ngày. Nó là người bạn trung thành nhất của mình, mình không thể để tuổi già của nó phải đến trong đói rét.
              Ôm chặt Mi Lu vào lòng, Quý lại hồi tưởng những ngày Mi Lu còn bé xíu, mới tới sống ở nhà mình. Ôi, những ngày tháng đó mới hạnh phúc làm sao, thần tiên biết chừng nào! Vậy mà trước nay Quý chưa hề nhận ra giá trị của quãng thời gian ấy…
              Đêm đó Quý không ngủ được, Mi Lu cũng thức cùng chủ. Quý nằm dài dưới sàn nhà, Mi Lu gác mõm lên chân Quý. Chốc chốc nó lại đứng lên đi quanh quẩn một lúc rồi lại đến bên Quý, cọ mũi vào người chủ rồi rúc vào lòng chủ, ư ử tâm tình…
              Quý nghĩ nát óc vẫn không tìm ra cách nào nhanh chóng có được số tiền mấy chục triệu để trả cho Khoa.
              - Hay mình hỏi mượn tạm của Tỉ? Dù sao Tỉ cũng giàu có, mấy chục triệu đối với nó không là gì! Mình mượn tạm rồi tìm việc làm, kiếm tiền trả lại cho Tỉ sau, chẳng lẽ nó lại từ chối?
              Nghĩ là làm. Sáng ra, Tỉ mua một chén bánh canh bán trước nhà đem vô nhà cho Mi Lu ăn rồi dặn nó:
              - Mầy ở nhà nhé! Tao đi công việc một chút!
              Thấy Mi Lu lại nhìn mình buồn thảm, Quý xoa đầu nó:
              - Mầy yên tâm đi! Hôm nay tao không phải đi chơi bời nhậu nhẹt gì đâu! Tao hứa với mầy, từ nay tao không ăn chơi nữa, tao sẽ làm lại từ đầu, mầy tin tao nhé!
              Hình như nghe và hiểu được những lời chủ nói, Mi Lu vẫy đuôi rối rít và ánh nhìn của nó cũng lấp lánh niềm vui…
              Quý định gọi một chiếc xe ôm, nhưng nhẩm tính lại số tiền ít ỏi trong túi mình nên thôi không gọi nữa.
              Quý thả bộ trên vỉa hè, trông như người nhàn nhã muốn dạo chơi thư giãn, nhưng kỳ thực trong lòng Quý đang chất chứa ngổn ngang tâm sự, lo âu, buồn chán…
              Đi bộ gần mười cây số mới tới nhà Tỉ. Cửa đóng im ỉm, có lẽ Tỉ vẫn còn say ngủ!
              Mấy lần Quý đưa tay lên định nhấn chuông nhưng rồi ngại ngần dừng lại. Quý nghĩ có lẽ tối qua Tỉ đi chơi khuya, giờ này mà phá giấc ngủ của nó sẽ làm nó bực mình, việc nhờ vả của mình có thể gặp khó khăn. Nghĩ vậy, Quý đành rảo bước tới lui, đến lúc hai chân mỏi rã rời Quý đành ngồi dưới một gốc cây bên vỉa hè mà chờ đợi.
              Trên đường phố, người và xe vẫn dập dìu qua lại. Cuộc sống vẫn trôi đi, thành phố vẫn ồn ào… Tất cả không có gì thay đổi, tất cả đều bình thường như những gì vốn là của nó! Chỉ riêng Quý là có rất nhiều đổi thay…
              Mới ngày nào Quý không phải lo toan gì đến cuộc sống, không tiếc nuối hay đắn đo khi phải chi ra hàng đống tiền cho những trò vô bổ. Vậy mà ngày hôm nay, Quý phải đắn đo cân nhắc khi mua một gói mì tôm, một điếu thuốc… Ngày hôm nay, vì mấy chục triệu đồng Quý phải lội bộ hơn mười cây số và phải chầu chực trước cửa nhà người ta như một con chó đói chầu chực bên cạnh một bàn tiệc…
              Mặt trời đã lên cao, lưng áo Quý đã đẫm ướt mồ hôi mà cánh cổng nhà Tỉ vẫn còn đóng kín.
              Mệt mỏi, chán chường, Quý đứng phắt dậy tiến tới cổng nhà, nhưng khi bàn tay vừa chạm vào chuông cửa, Quý đã nhận ra Tỉ đứng trên ban công từ lúc nào, đang nhìn xuống mỉm cười.
              Chẳng lẽ Tỉ đã trông thấy mình ngồi đó từ nãy giờ mà nó cố tình không gọi? Ý nghĩ ấy thoáng qua làm tim Quý đau thắt lại, nhưng Quý vội xua đi. Không đâu, lẽ nào lại thế! Chắc nó vừa mới đi ra đó thôi!
              Tỉ ung dung mở cổng đón Quý bằng nụ cười thân thiện:
              - Chà, hôm nay rồng đến nhà tôm sớm thế!
              Tự nhiên Quý có cảm giác dường như Tỉ đang mỉa mai mình. Lòng tự ái thúc giục Quý quay người chạy trở ra, nhưng sự túng bấn thì kéo ghì Quý lại. Quý cắn chặt răng, nuốt ực cay đắng vào lòng, nối goát theo Tỉ vào nhà.
              Trước đây, Tỉ không sống bám vào Quý như Khoa, nhưng cũng không ít lần Quý giúp đỡ mỗi khi Tỉ cần tiền làm ăn gì đó. Hy vọng Tỉ không phải loại người bạc bẽo như Khoa.
              - Này, uống cà phê đi! Nhìn mặt mầy ảm đạm như tấm thảm thế kia thì chán bỏ mẹ! Cuộc đời này có gì phải tâm đến vậy? Cứ sống, cứ vui chơi thỏa thích mầy ạ!
              Đặt ly cà phê đen vừa pha trước mặt Quý, Tỉ nói.
              Quý gượng cười:
              - Ừ, tao cũng đang phấn đấu để sống đây này!
              Tỉ ngạc nhiên:
              - Úi trời! Thằng này hôm nay nói chuyện nghe hay nhỉ? Phấn đấu để sống à? Ha ha… vui nhỉ!
              Cười ngất một hồi, Tỉ bỗng nín bặt rồi hỏi với vẻ nghiêm túc:
              - Mầy định phấn đấu bằng cách nào?
              Quý gãi gãi đầu:
              - Tao… Trước tiên tao cần mầy giúp đỡ! Mầy có thể cho tao mượn tạm mấy chục triệu để trả cho thằng bạn chó má kia. Sau đó… sau đó tao đi xin việc làm rồi kiếm tiền trả lại cho mầy…
              Tỉ lim dim mắt nhìn theo làn khói thuốc tỏa ra:
              - Cho mầy mượn số tiền đó không có vấn đề gì! Nhưng Quý ạ, mầy phải nhìn thẳng vào thực tế! Mầy đừng mải sống trên mây nữa! Giờ đây mầy đã không còn nguồn cung cấp hàng tháng của ba má mầy rồi, mầy sẽ làm được việc gì ở Sài Gòn này đây? Mầy có bằng cấp gì không? Không nhé! Mầy có sức khỏe không? Cũng không! Mầy có vốn liếng không? Không luôn! À, phải nói chính xác là mầy có vốn chứ, có một số khá lớn nữa là khác, nhưng mầy cố chấp quá nên phải chuốc khổ vào thân. Rồi mầy sẽ làm gì? Bồi bàn? Bán vé số hay làm tiếp thị? Tao nói ra mầy đừng tự ái, một thằng công tử lỡ thời như mầy chẳng làm được gì bằng sức lực đâu! Hiện tại bây giờ, mầy kiếm được ngày hai bữa cơm đã là vất vả lắm rồi, thì thử hỏi đến khi nào mầy mới có thể kiếm ra mấy chục triệu đó để trả lại cho tao?
              Tỉ dừng lại rít thêm một hơi thuốc nữa rồi thong thả nói tiếp:
              - Là bạn bè, thấy hoàn cảnh mầy như vậy, tao rất muốn giúp đỡ. Tao cũng có thể cho hẳn mầy số tiền đó để mầy trả cho thằng Khoa. Nhưng sau đó thì sao? Tao chỉ có thể giúp mầy một lần chứ không thể nuôi mầy cả đời, mầy phải biết vận dụng đầu óc để có thể tồn tại được. Nếu mầy không muốn bán mấy mẫu đất dưới quê vì muốn lưu lại kỷ niệm của ông bà già mầy thì mầy có thể đem nó đi cầm cố. Có tiền, mầy đầu tư vào làm ăn, sau đó về chuộc lại mấy hồi! Tương lai của mầy rõ ràng vẫn đang sáng lạn, chỉ tại mầy không muốn đi tới mà thôi.
              Quý im lặng lắng nghe những lời phân tích vừa ra vẻ kẻ cả, vừa ra vẻ thân tình của Tỉ. Tâm tư Quý rối bời.
              Bao nhiêu nỗi nhục nhã ê chề của mấy ngày qua, viễn cảnh đen tối trước mắt thúc giục Quý phải vươn lên bằng mọi cách. Nhưng thật sự, ngoài cái cách mà Tỉ vạch ra, Quý không còn biết con đường nào khác nữa!
              Quý tự biết bản thân mình rất khó chen lấn được trong cuộc sống ở cái thành phố đông đúc này nếu chỉ với sức vóc cơ thể! Mấy ngày vừa qua, Quý đã nếm trải rất nhiều vị đắng mà trước nay Quý chưa từng nghĩ tới, Quý đã hiểu được giá trị của từng đồng xu nhỏ! Nhưng trước cuộc đời, Quý vẫn còn nhiều bỡ ngỡ…
              Mình không thể tiếp tục sống nhục nhã thế này được! Mình phải đứng lên, để một ngày nào đó có thể cười vào mặt loại người phản bạn như thằng Khoa, để không còn phải ứa nước miếng khi mùi thơm lừng của gánh bánh canh trước nhà bốc lên mỗi sáng, để không bao giờ còn tái diễn lại cảnh chầu chực trước cổng nhà người khác để mượn tiền như hôm nay…
              Giàu!Mình phải giàu lên bằng mọi cách!
              Ý nghĩ đó như một ngọn lửa chợt bùng lên đốt cháy khát khao trong lòng Quý, thôi thúc Quý!
              - Mầy thấy tao nói đúng không?
              Tỉ hỏi khi nhìn thấy trong mắt Quý vừa lóe lên những tia tham vọng.
              - Đúng! Mầy nói rất đúng! Tao sẽ đứng lên bằng mọi cách! Rồi đây, những đứa như thằng Khoa sẽ không còn cơ hội để nhục mạ tao. Tao phải giàu lên bằng mọi cách!
              Quý nghiến chặt răng, đấm tay xuống bàn làm ly cà phê sóng sánh văng mấy giọt ra ngoài.
              Tỉ chìa tay ra:
              - Ô kê! Vậy mới đúng là nam tử hán! Có đâu cái kiểu rụt rè e sợ như loại công tử bột được ấp kín trong lồng. Đời sống bây giờ, chỉ những thằng dám nghĩ, dám làm mới có thể đứng vững được! Mấy đứa xìu xìu ển ển chắc chắn sẽ bị đào thải…
              Quý nắm lấy bàn tay chìa ra của Tỉ, siết chặt với một quyết tâm.
              - Ngồi đây, tao sẽ lấy tiền đưa mầy để đem về quăng vô mặt thằng Khoa! Nhưng mà nè, cũng đừng nên trách nó, cách hành xử của nó cũng là một trong những cách để vươn lên đấy! Chỉ có điều hơi tồi một chút!
              Tỉ cười vang, khệnh khạng lên lầu.
              Quý ngồi im trên ghế, không nói gì nhưng quai hàm Quý bạnh ra, lòng Quý đang sục sôi một ý chí vô cùng mạnh mẽ.
              Tỉ trở xuống đưa cho Quý một xấp tiền mới cứng, hất hàm:
              - Đếm lại đi!
              Quý nhận lấy đút ngay vào túi rồi đứng lên:
              - Thôi khỏi! Tao về đây! Cảm ơn mầy rất nhiều!
              - Ha ha… có gì mà ơn với huệ hả mậy?
              Tỉ cười lớn, rồi bất chợt im ngang:
              - Khi nào mầy về quê?
              - Ngay chiều nay!
              Quý quả quyết.
              Tỉ vỗ vai Quý cười thật tươi:
              - Có thế chứ! Mong rằng tao với mầy sẽ sớm hợp tác cùng nhau! Này, có cần tao cho mượn con “ngựa chiến” để cưỡi về làng không đấy?
              - Không cần!
              Quý trả lời dứt khoát rồi từ giã ra về.
              Tỉ đứng nhìn theo, trên môi nở một nụ cười nham hiểm.
              Khi Quý đã bước ra khỏi cánh cổng sắt nặng nề phía trước, Tỉ vung tay lên hét:
              - Wow! Một con nai vàng sắp sửa đút đầu vào bẫy! Nghĩ thật tội cho anh chàng công tử Bạc Liêu! Mầy sắp phải trả giá cho sự ngu ngơ của mầy rồi đấy con ạ!
              Là người thật thà, Quý không thể nào ngờ lòng người lại đen bạc đến mức độ đó!
              Trời nắng chang chang, Quý vẫn xăm xăm bươn bã đi qua mấy con phố dài dàng dặc tìm tới nhà Khoa. Quý biết, tính Khoa vẫn thích lấy ngày làm đêm.
              Quý đấm ầm ầm vào cánh cổng sắt trước nhà Khoa, từng cú đấm của Quý như muốn trút bỏ những căm hờn đang sôi sục trong lòng suốt mấy hôm nay.
              Khoa chạy ra, vẻ mặt còn ngái ngủ:
              - Làm cái quỷ gì ghê thế?
              Khoa gắt khi trông thấy Quý.
              - Giấy nợ của tao đâu?
              Quý nghênh mặt hỏi.
              Khoa ngó sững Quý như không tin vào những gì mà tai mình vừa mới nghe thấy. Một phút sau, chừng đã hiểu ra, gương mặt Khoa giãn ra và nở một nụ cười hết cỡ:
              - Á à… Thì ra ông anh đến đây vì chuyện đó! Mời vào… mời vào… quý hóa quá! Cậu ấm vẫn là cậu ấm có khác!
              Không thèm đếm xỉa đến lời châm chọc của Khoa, cũng không thèm theo Khoa vào nhà, Quý gằn từng tiếng:
              - Mau đem giấy nợ ra đây!
              - Hơ hơ… ông anh ghê thật! Thằng em này bắt đầu phục ông anh sát đất rồi đó! Chỉ trong vòng chưa đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ, ông anh đã có thể xoay được ngần ấy tiền rồi sao? Đừng có nói với thằng em đây rằng ông anh chỉ trả bớt một phần thôi nhé!
              Khoa cười cợt, có vẻ bán tín bán nghi.
              Quý gầm lên:
              - Mầy có đem giấy ra ngay không?
              Khoa làm bộ sợ sệt:
              - Dạ, dạ… em đi lấy ngay đây! Ông anh làm thằng em nầy hết cả hồn vía rồi đấy!
              Khoa nhảy ba bậc thềm lên nhà, thoáng chốc đã quay trở ra cổng, trên tay là tấm giấy nợ có chữ ký của Quý.
              Quý móc túi lấy xấp tiền quăng thẳng vào người Khoa, Khoa vội vàng đưa tay ra bắt lấy. Quý giật phắt tờ giấy trên tay Khoa và lập tức xé nát, tung lên cao cùng với một tràng cười đau đớn:
              - Cảm ơn mầy đã bán cho tao một bài học!
              Nói dứt câu, Quý quay lưng đi thẳng.
              Khoa đứng nhìn theo hơi có vẻ thắc mắt, nhưng chỉ thoáng chốc Khoa chẳng còn bận tâm gì nữa ngoài xấp tiền dày cồm trên tay. Khoa đưa xấp tiền lên, chu môi hôn đánh chụt vào nó rồi cười vang đắc thắng.
              Quý không muốn ăn uống gì, cứ đi thẳng một mạch về nhà. Về gần tới nhà, Quý ghé tiệm ăn mua cho Mi Lu một cái đùi gà thật lớn.
              Thấy chủ về, Mi Lu mừng rỡ vẫy đuôi rối rít, nhảy chồm lên người Quý. Quý cầm lấy hai chân trước của Mi Lu, rồi làm điệu bộ như cả hai đang khiêu vũ, Mi Lu rất thích trò đùa này, nên lúc Quý buông nó ra, nó vẫn tiếp tục chồm lên đòi hỏi.
              - Thôi nào! Thôi nào! Tới đây xem tao đem gì về cho mầy nè? Mầy là số một đấy nhé Mi Lu! Từ sáng giờ trong bụng tao chưa hề có chút gì trong đó, nhưng tao ưu tiên cho mầy trước đó…
              Mi Lu ngước cặp mắt ướt rượt âu yếm nhìn chủ, dụi đầu vào lòng một chập rồi mới chịu ngoan ngoãn ngoạm lấy cái đùi gà bóng mỡ.

              ***
              Trở lại ngôi nhà lạnh lẽo dưới quê, Quý không khỏi bùi ngùi xúc động. Hình ảnh ba mẹ vẫn còn gắn chặt với từng nơi từng chỗ ở nơi này. Dù đã cố dằn lòng, Quý vẫn không sao ngăn được những giọt nước mắt nóng hổi vỡ tràn trên mí mắt.
              Thắp ba nén nhang, Quý đứng trước bàn thờ ba mẹ lâm râm khấn vái:
              - Ba mẹ ơi! Xin ba mẹ hãy phù hộ cho con! Ba mẹ ra đi đột ngột, còn lại một mình con bơ vơ lạc lõng trên đời. Con thật không biết phải làm sao nữa… Cuộc đời không như con vẫn nghĩ… Ba mẹ chết đi chưa lâu mà con đã bị cuộc đời vùi dập tan nát rồi ba mẹ ơi…
              Quý ôm di ảnh cha mẹ vào lòng nức nở khóc. Bao nhiêu tủi buồn uất ức mà Quý phải chịu đựng một mình trong suốt những ngày qua, giờ đây Quý đem ra giãi bày cùng cha mẹ, tưởng chừng như sau đó sẽ nhận được những lời chỉ dạy khôn ngoan của ba của mẹ như thuở nào.
              Nhưng giờ đây, trước mặt Quý chỉ là hai bức di ảnh với cái nhìn da diết của ông bà Hai Phát…
              Loanh quanh trong nhà một lúc, Quý khép cửa đi tìm chú Dự. Trên đường đi, Quý gặp mấy người quen trong xóm. Họ có ý níu Quý lại thăm hỏi và nói chuyện, nhưng Quý chỉ gật đầu chào hỏi và trả lời lấy lệ, chân vẫn không dừng bước, thành ra mọi người chỉ biết nhìn theo Quý với thật nhiều ái ngại.
              - Đi đâu mà vội vã vậy con?
              Nghe hỏi, Quý gật đầu chào và đáp:
              - Dạ, con tới thăm chú Dự!
              - Thằng đó đang bị quả báo…
              Người phụ nữ còn định nói tiếp nhưng Quý đã rảo bước đi rồi. Quý cũng không quan tâm gì tới những lời nói mà mình vừa thoáng nghe được lúc nãy.
              Quý tần ngần đứng trước một ngôi nhà đồ sộ, không dám cất tiếng gọi. Quý nhớ rõ ràng nơi đây là nhà chú Dự. Nhưng sao bây giờ đã hoàn toàn đổi khác? Chỉ mới đây thôi, cả gia đình chú Dự còn sống trong một ngôi nhà nhỏ, ẩm thấp. Tuy cũng được xây tường gạch, mái lợp thiếc nhưng nhà chú rất tềnh toàng. Vậy mà bây giờ, nơi đây lại mọc lên một ngôi nhà đồ sộ theo lối kiến trúc Pháp, thì thử hỏi làm sao Quý tránh khỏi sự ngỡ ngàng xa lạ.
              Một con bẹc-giê to lớn lừng lững đi từ trong nhà ra, nhe hàm răng trắng nhỡn gầm gừ rồi sủa lên đông đổng.
              Quý giật bắn người vội lùi lại mấy bước.
              Một người đàn bàn bà trong nhà nghe tiếng chó sủa nên nghiêng đầu ngó ra, nhìn thấy Quý, bà ta vội vã chạy ra kéo con bẹc-giê lại, cất giọng đon đả:
              - Cháu Quý! Cháu về lúc nào thế? Vô chơi đi cháu!
              Một tay giữ chó, một tay tháo chốt cửa, người đàn bà cười tươi mở rộng cánh cổng đón Quý vào nhà:
              - Vô nhà đi cháu! Không sao đâu, đã có thím giữ nó rồi… Nó coi vậy chứ cũng hiền lắm.
              Thím Dự trấn an khi thấy Quý có vẻ dè chừng con bẹc-giê to lớn.
              Quý rụt rè bước vô, mắt vẫn không rời con chó. Nó vẫn còn gầm ghè, nhưng cũng biết nghe lời chủ, không vùng lên nhào tới Quý.
              - Cháu về khi nào vậy?
              Thím Dự hỏi lần nữa.
              Quý đáp:
              - Dạ, cháu cũng mới về tới. Ghé qua nhà một lát rồi cháu tới đây ngay!
              - Cháu tới thăm chú thím hay còn có việc gì khác?
              Thím Dự nhìn Quý thăm dò.
              Quý ấp úng:
              - Dạ… cháu tới thăm chú thím… cũng có chút chuyện cháu muốn hỏi ý kiến chú!
              Gương mặt thím Dự thoáng một tia sợ hãi:
              - Chuỵên gì vậy cháu? Cháu có thể nói cho thím biết được không?
              - Dạ, cũng không có gì! Chú có nhà không thím?
              Quý đánh trống lãng.
              Thím Dự băn khoăn:
              - Chú đi công việc, chút nữa sẽ về tới. Cháu ngồi đây chơi, chờ chú một chút nhé!
              - Dạ, không sao đâu thím! À, nhà này chú thím mới xây à? Suýt tí nữa cháu tưởng mình đến nhầm nhà đấy! Thấy chú thím làm ăn khấm khá như vầy, cháu cũng mừng lắm!
              Thím Dự cụp mắt xuống, bối rối:
              - Toàn là vay mượn không thôi đó cháu ơi!
              Quý cười:
              - Thím nói lạ quá! Cháu không nghĩ vậy đâu!
              Thím Dự len lén nhìn Quý rồi vội ngó chỗ khác, cười buồn:
              - Cũng vì cái nhà này mà gia đình chú thím xảy ra bao nhiêu là chuyện?
              - Chú thím cãi nhau vì chú vay tiền làm nhà sao?
              Thí, Dự lắc đầu:
              - Phải chi chỉ đơn giản là vợ chồng cãi nhau thì đâu có gì phải nói. Đằng này… nhà vừa xây xong, đứa con gái tám tuổi của thím té ao chết đuối. Mấy tháng sau, thằng con nhỏ hai tuổi đang mạnh sân sẩn vậy mà chỉ sau một đêm nóng sốt thì trở nên người bại liệt, nằm một chỗ, không thuốc thang nào cứu chữa được…
              Thím Dự nghẹn ngào lấy ống tay áo chùi nước mắt.
              Quý bàng hoàng:
              - Trời ơi! Cháu thành thật chia buồn cùng chú thím! Cháu… không biết gì về những việc đó…
              Thím Dự gượng cười:
              - Không có gì đâu cháu, cháu đừng ái ngại! Tất cả đều do… số mạng cả thôi cháu ạ!
              Nghe tiếng chó hực lên ngoài cổng, thím Dự ngoảnh nhìn trông thấy chồng về, thím vội vã lau nước mắt rồi đứng lên nói với Quý:
              - Chú con về rồi kìa! Con đừng nói gì với chú về những điều thím vừa kể, không khéo chú lại mắng thím lắm điều…
              Quý cũng đứng lên đáp nhỏ:
              - Dạ, thím yên tâm đi! Cháu sẽ không nói gì đâu!
              Quý cất tiếng chào lớn:
              - Dạ thưa chú!
              Vừa đặt chân lên thềm nhà, nghe tiếng chào của Quý, ông Dự ngẩng lên, trông thấy cháu, ông không mừng vui mà trái lại tỏ ra lo sợ. Ông lắp bắp hỏi:
              - Mầy… cháu… có việc gì mà cháu tới đây?
              Quý ngạc nhiên:
              - Cháu tới thăm chú thím… Không được sao chú?
              Chừng như đã lấy lại bình tĩnh, chú Dự cười xòa:
              - Trời! Lúc này chú già cả rồi nên sinh ra lẩm cẩm vậy đó con ơi! Con về khi nào?
              - Dạ, con mới về! Chú thím lúc này làm ăn khấm khá quá nhỉ?
              Chú Dự khẽ chau mày:
              - Cái thằng này, có gì đâu!
              Rồi lập tức chú Dự chuyển sang đề tài khác:
              - Lúc nà con học hành thế nào rồi? Sắp ra trường chưa con?
              Quý cúi mặt đáp khẽ:
              - Dạ, con… con nghỉ học rồi chú ạ!
              - Nghỉ học?
              Chú Dự sửng sốt hỏi lại. Quý gật đầu xác nhận.
              - Mầy nghỉ học rồi làm gì đây con?
              - Dạ… chính vì vậy nên hôm nay cháu tới nhờ chú giúp cháu một việc?
              Quý nhỏ nhẹ.
              Chú Dự nhìn Quý thăm dò:
              - Chú giúp cháu? Giúp gì? Chú thì… nói thật, tiền bạc thì chú không có! Cơ ngơi nhà chú coi vậy chứ toàn là tiền vay bạc hỏi không đó cháu!
              Quý xua tay:
              - Chú hiểu nhầm ý cháu rồi! Không phải cháu muốn nhờ vả chú về chuyện tiền bạc đâu!
              Chú Dự thở phào:
              - Vậy chú có thể giúp cháu việc gì?
              Quý ngập ngừng giây lát rồi nói:
              - Dạ… cháu đang cần một số để làm ăn. Cháu muốn nhờ chú tìm giúp người để cháu cầm cố mấy mẫu ruộng…
              - Cầm ruộng à? Cầm hết?
              Chú Dự hỏi lại.
              - Dạ, cháu muốn cầm hết!
              Quý quả quyết.
              - Cháu nhờ chú giúp đỡ, vì ở đây cháu không biết ai có đủ khả năng để bỏ ra một số tiền lớn như vậy…
              Chú Dự ngồi xuống ghế bóp trán suy nghĩ:
              - Phải chi cháu chỉ cầm vài ba sào đất thì dễ, đằng này cháu cầm hết mấy mẫu đó, chú e rằng người dân ở đây không ai đủ tiền đâu. Mà cháu cần nhiều tiền như thế để làm gì vậy?
              Quý có ý lảng tránh:
              - Cháu hùn hạp buôn bán với bạn bè.
              Chú Dự có vẻ nghĩ ngợi lung lắm.
              Riêng thím Dự, Quý không hiểu tại sao thím cứ ngồi cạnh bên chú ra chừng vô cùng thắc thỏm.
              - Cháu nên tính kỹ lưỡng trong chuyện làm ăn! Đời bây giờ nhiều gian trá lắm, mà cháu thì dễ tin người, thím sợ…
              Thím Dự rụt rè xen vào, nhưng thím chưa kịp nói hết câu, chú Dự đã gạt ngang, trừng mắt lườm thím:
              - Đàn bà biết gì mà nhiều chuyện! Bà im lặng cho tui nhờ! Thằng Quý lớn bộn rồi, bộ bà tưởng nó còn nhỏ lắm sao mà dạy đời như vậy?
              Thím Dự rân rấn nước mắt.
              Quý cười giả lả:
              - Dạ, thím dạy con như vậy là phải lắm đó chú! Con còn phải học hỏi thêm nhiều điều lắm!
              - Bà xuống bếp lo cơm nước mời cháu Quý ở lại dùng bữa chiều với nhà mình!
              Chú Dự ra lệnh, cố ý muốn đuổi thím đi chỗ khác.
              Thím Dự đứng lên, ném cho chú một cái nhìn ai oán, rồi nhìn sang Quý một hồi lâu mới đi xuống bếp.
              Không hiểu sao từ lúc bước chân vô nhà này, Quý có cảm giác vợ chồng chú Dự có điều gì đó thật lạ lùng, nhất là ánh mắt của thím Dự mỗi khi nhìn Quý, cứ như là van xin, là chất chứa đầy tội lỗi đang chờ được tha thứ vậy!
              Im lặng hồi lâu, chú Dự bỗng nói:
              - Để chú tính như vầy, cháu xem có được không nhé! Với số tiền lớn như vậy, chú điểm qua các nhà khá giả trong vùng cũng không ai có khả năng đâu. Bởi thế chú tính, để giúp cháu, chú sẽ tìm gặp ông chủ của chú, nhờ ổng bỏ tiền ra cầm giúp cháu một thời gian…
              Quý mừng rỡ:
              - Dạ, nếu được vậy thì may mắn quá! Chú ráng giúp cháu nhé!
              - Ừ, chú sẽ cố hết sức! Bây giờ cũng sắp tối rồi, có đi cũng không kịp. Vậy cháu ở lại ăn với chú thím một bữa cơm rồi về đằng nhà mà nghỉ ngơi. Sáng mai chú sẽ tới báo kết quả cho cháu biết.
              - Dạ, cháu thật biết ơn chú!
              Chiều đó Quý ở lại ăn cơm cùng vợ chồng chú Dự. Suốt bữa cơm, chú Dự khề khà hết chuyện này sang chuyện khác, nhưng chuyện mà chú nhắc tới nhiều nhất là ngày xưa ông Hai Phát đã tin tưởng chú ra sao, giao cho chú những trọng trách thế nào, và chú là người mang về cho ông Hai lợi nhuận đáng kể đến đâu…
              Thím Dự lặng lẽ ngồi bên cạnh đút cơm cho thằng bé bại liệt, ánh mắt thím buồn da diết, nét mặt thím đầy vẻ cam chịu, nhẫn nhịn…
              Khi trời đã tối mịt Quý mới rảo bước về nhà. Mở cánh cửa, Quý mò mẫm bật công tắc điện. Một luồng ánh sáng bật lên lạnh lẽo bao quanh.
              Quý ra ngồi bó gối trước thềm nhà, mắt ngó mông ra ngoài đường mà lòng trống vắng.
              - Ủa, con về hồi nào đó Quý?
              Tiếng chú Hai nhà bên cạnh làm Quý giật mình ngó lên. Chú Hai đi vô ngồi cạnh bên Quý.
              - Dạ, con mới về lúc xế chiều! Chú thím và mấy em ở nhà đều khỏe?
              - Ừ, cảm ơn cháu! Gia đình chú mạnh giỏi hết. Lúc này cháu còn đi học hay ra trường đi làm rồi?
              - Dạ… cháu buồn quá, không học hành gì nổi nữa chú ơi! Cháu bỏ học luôn rồi!
              - Tội nghiệp dữ hôn! Rồi bây giờ cháu làm gì sinh sống ở trển? Sao không về đây hở cháu?
              Quý cười buồn:
              - Cháu chưa tính tới chuyện trở về đây chú ạ! Chắc chắn cháu sẽ trở về nhưng chưa phải là lúc này!
              - Cháu nói cũng phải, cần phải có thời gian để mọi việc nguôi ngoai…
              Chú Hai im lặng một chút rồi hỏi Quý:
              - Mấy tháng nay, chú Dự của cháu có giúp đỡ gì cho cháu không?
              Quý cười:
              - Dạ, về vật chất thì không, vì chú ấy còn phải lo nuôi vợ nuôi con. Nhưng chú ấy đối với cháu rất tốt, cháu nhờ việc gì chú ấy cũng sẵn lòng giúp!
              Chú Hai đắn đo:
              - Có chuyện này không biết chú có nên nói cho cháu nghe không?
              - Chuyện gì vậy chú?
              Quý tò mò.
              - Chú nói ra xin cháu đừng cho chú là người nhiều chuyện, ăn cơm nhà đi nói chuyện hàng xóm nghe! Cũng vì thương cháu nên chú mới nói…
              Chú Hai rào đón.
              Quý cười:
              - Dạ, cháu đâu dám nghĩ vậy! Có gì chú cứ nói, đừng ngại!
              - Vì ở xa nên cháu không biết, chứ suốt mấy tháng nay ở đây người ta đồn ầm lên, nói rằng chú Dự đã chiếm đoạt một số lớn tiền bạc của gia đình cháu. Ba cháu chết bất đắc kỳ tử, không kịp trối trăng gì, mà cháu thì thuở nay không hề biết gì tới chuyện làm ăn của ba cháu, chỉ có chú Dự là rành rẽ. Ba má cháu chết không bao lâu thì chú Dự xây cất nhà cao cửa rộng, nếu không phải chiếm đoạt của ba cháu thì tiền đó lấy ở đâu ra? Ngày còn sống, gia đình cháu giàu có đến như vậy, tại sao lúc ba cháu vừa nằm xuống thì cháu đã trắng tay? Chuyện thực hư thế nào chú không dám quả quyết, nhưng những lời đồn đại nghe ra rất hợp tình hợp lý. Chú muốn nói để cháu biết mà đề phòng. Người ta còn nói, do ăn đồng tiền bất nghĩa nên gia đình chú Dự cháu phải trả quả, con thì đứa chết trôi, đứa bại liệt nằm một chỗ…
              Quý cười buồn:
              - Chuyện làm ăn của ba cháu quả tình cháu không biết chút gì, nên chú Dự nói sao thì cháu nghe vậy. Cháu cám ơn chú đã nhắc nhở cháu, nhưng mọi việc đã qua rồi, cháu cũng không muốn nhắc lại thêm đau lòng. Cháu tin ông trời có mắt, ai ăn ở sao thì sẽ được nhận lấy hậu quả y như vậy thôi chú ạ!
              - Cháu thiệt là có lòng bao dung nhân hậu giống y như mẹ cháu trước đây!
              Hai chú cháu chuyển qua nói chuyện mùa màng thóc lúa mãi đến khuya lắc khuya lơ chú Hai mới đứng lên từ giã ra về.
              Quý vô giường nằm, nỗi nhớ cha mẹ lại trào lên dữ dội. Giấc ngủ đến với Quý một cách nặng nề.
              Giữa lúc tâm trí Quý đang mơ màng thì cô gái hôm nào lại xuất hiện. Lần này Quý nhìn rõ mặt hơn một chút. Cô gái có gương mặt bầu bĩnh trẻ thơ, mái tóc dài xoã xuống ngang lưng, và bên cạnh cô gái vẫn là Mi Lu giống như các lần trước.
              - Ở lại nhà đi anh Quý! Anh đừng lên Sài Gòn nữa…
              Cô gái đứng ngay bên cạnh nhưng lời nói lại nghe như từ một nơi nào đó rất xa xôi vọng tới.
              Quý cố chồm dậy nhưng tay chân nặng trĩu không thể nào nhấc lên được, chỉ ú ớ mấy tiếng mà thôi. Mãi một lúc sau Quý mới mở mắt ra được, cũng vừa đúng lúc hình bóng mờ ảo của cô gái tan ra.
              Quý giật mình nhớ tới Mi Lu. Tối nay mình không về, chắc là nó trông mình lắm. Cô gái kia có liên hệ gì với Mi Lu, sao lần nào mình mơ thấy cô gái đều có Mi Lu bên cạnh?
              Bao nhiêu câu hỏi cứ xoáy trong đầu Quý mà không cách nào giải thích được.
              Quý xem đồng hồ, thấy mới bốn giờ sáng nhưng Quý không thể dỗ giấc ngủ lại được, cứ nằm thao thức nghĩ suy.
              Những cử chỉ lúng túng, kỳ lạ của vợ chồng chú Dự chiều này, những gì chú Hai nhà bên kể lại khiến Quý hoang mang.
              Chẳng lẽ nào chú Dự lại đối xử với gia đình mình như vậy? Trước đây ba mình rất tốt với chú kia mà! Nhưng biết đâu được, tình đời đen bạc ra sao thì mình đã nếm qua rồi, còn có gì mà không thể xảy ra đâu? Có thể vì thấy chú Dự xây cất nhà cửa, người ta ganh ghét nên đặt điều nói xấu, nhưng cũng có thể tất cả lời đồn thổi là sự thật cũng nên! Mình cũng nên đề phòng chú ấy.
              Nghĩ tới đó Quý chợt phì cười. Mình còn gì nữa mà đề với chả phòng? Có mất thì đã mất rồi… Thôi, không nhắc nữa, không nhớ nữa… Hãy để cho những chuyện đó lùi vào quá khứ đi! Nếu thật sự chú Dự có chiếm đoạt tài sản của ba mình thì giờ chú ấy cũng đã bị trả giá đắt rồi còn gì…
              Quý cứ miên man suy nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác mãi đến khi trời sáng rõ mới uể oải ra khỏi giường.
              Giữ đúng lời hứa, chú Dự tới. Vừa thấy chú, Quý hỏi ngay:
              - Sao chú? Ông chủ của chú có đồng ý không?
              Chú Dự gãi đầu:
              - Nghe chú năn nỉ thì ổng đồng ý, nhưng ngặt một nổi tiền mặt của ổng không còn đủ số mà cháu yêu cầu, nếu cháu chịu cầm với hai phần ba số tiền đó thì ổng lấy, còn không thì… chú đành chịu thôi, hết biết cách nào để giúp cháu…
              - Chỉ hai phần ba thôi sao? Thế thì ít quá…
              - Đành thôi cháu ơi!
              Cân nhắc một hồi, Quý quyết định:
              - Thôi kệ, cháu đồng ý! Chú đưa cháu đi gặp ổng để làm hợp đồng.
              Chú Dự cười tươi:
              - Khỏi, không cần đâu! Vừa nãy ổng đã lên xe đi công tác rồi! Ổng đã giao hết quyền đại diện cho chú rồi! Lâu nay ổng vẫn tin tưởng vào chú mà! Chú sẽ thay mặt ổng để làm hợp đồng với cháu!
              - Ồ, thế thì tiện lợi quá còn gì!
              Không lâu sau hai người đã hoàn tất bản giao kèo, chú Dự trao tiền cho Quý rồi vui vẻ bắt tay từ biệt. Quý cũng vội vã trở về Sài Gòn, không quên thắp nhang lên bàn thờ ba mẹ.
              ***
              Tỉ đón Quý bằng một chầu thịnh soạn, nhưng Quý không còn thiết tha gì đến chuyện nhậu nhẹt, chơi bời nữa, lúc nào trong đầu Quý cũng nghĩ đến việc làm cách nào để số tiền này phải sinh sôi nảy nở…
              Ngay sáng hôm sau, Tỉ đưa Quý đến sàn giao dịch để tìm hiểu. Cứ thế ròng rã suốt hơn một tuần, Quý đã nắm chắc được quy luật cuộc chơi, nhưng vẫn chưa dám phiêu lưu đổ dồn hết vốn liếng.
              Quý chơi nhấp nhử và lần nào cũng thắng.
              Một hôm, mới sáng sớm Tỉ hấp tấp tới tìm Quý:
              - Hôm nay ngưng nghe mậy! Có tin nội bộ, thị trường chứng khoán sắp đóng băng, đừng có ngu mà bỏ tiền vô đó.
              Quý tiếc rẻ:
              - Tao mới thắng có mấy bận mà đã phải ngưng lại rồi sao, uổng quá!
              Tỉ cười:
              - Mầy đừng có lo! Nay mai thôi, chứ phải đâu nó như vậy mãi. Mà nè, mầy có muốn làm một vố khác không? Hổng chừng còn trúng đậm hơn gấp mấy lần chứng khoán nữa đó!
              Quý ngạc nhiên:
              - Làm gì? Mầy nói tao nghe thử?
              Tỉ ghé vào tai Quý thầm thì:
              - Mấy hôm nay tao không tới sàn giao dịch là vì tao có mối làm ăn lớn. Hiện giờ tao đã gom được một số lượng rất lớn kỳ nam ở miền Trung, mà vốn của tao lại không đủ, đang chạy đi kiếm người hùn đây. Nếu mầy có hứng thú thì tham gia.
              Quý do dự:
              - Mà có chắc ăn không đó?
              Tỉ cười lớn:
              - Trời! Bộ mầy quên tao là ai hả? Có khi nào tao bày vẽ chuyện gì bất lợi cho mầy chưa? Đừng nói lần này tao đã đổ vô đó toàn bộ tài sản của tao, nếu không nắm phần thắng, đời nào tao dám liều mạng như vậy! Mà thôi, nếu mầy còn nhát thì để lần sau cũng được. Tao đi nghe, lúc nãy có mấy đứa gọi điện hỏi chuyện đó, giờ tao đi gặp tụi nó để bàn bạc. Vố này một vốn bốn năm lời, dại gì mà bỏ qua!
              Vừa nói, Tỉ vừa rồ ga chuẩn bị cho xe vọt đi, Quý vội ngăn lại:
              - Khoan, khoan! Chờ tao một chút, mầy làm gì gấp gáp vậy? Theo mầy, tao nên hùn bao nhiêu?
              Tỉ nhếch môi:
              - Không chơi thì thôi, đã chơi thì chơi cho đáng! Chứ không thì tới lúc chia lời lãi, mầy lại tủi thân khi cầm chút tiền còm. Mà nhiều khi ít quá cũng khó mầy ạ!
              - Ý mầy nói tao nên dồn hết vô vố này?
              Quý hơi ngần ngại.
              Tỉ cười hềnh hệch:
              - Mầy có dồn hết cũng chỉ là phần lẻ của mấy đứa kia thôi! Hay mầy để lần sau hãy tham gia nhé?
              Máu tham trong người Quý nổi lên:
              - Thôi được, tao chơi hết bóp!
              - Bao nhiêu?
              - Thì toàn bộ số tiền tao có hiện giờ!
              Tỉ chép miệng:
              - Chỉ vậy thì bõ bèn gì! Theo tao, ngay bây giờ mầy đem giấy tờ đi thế chấp căn nhà này đi, lời lãi bao nhiêu không quan trọng. Chỉ ba ngày nữa khi chuyến hàng đó về tới Sài Gòn, mầy đã trở thành tỉ phú rồi, chuộc lại chẳng mấy hồi…
              Thấy Quý còn do dự, Tỉ dùng hết lời lẽ khôn ngoan để vừa thuyết phục, vừa làm như không cần thiết có sự tham gia của Quý, vừa kích thích máu ham làm giàu của Quý.
              Cuối cùng Quý đã ngoan ngoãn nghe theo, lấy giấy tờ nhà theo Tỉ đi thế chấp cho một tay anh chị giang hồ khét tiếng.
              Trao toàn bộ vốn liếng của mình cho Tỉ, Quý suốt ngày nằm nhà đùa giỡn với chú chó Mi Lu và chờ đợi giờ phút đổi đời đang nhích đến rất gần.
              Ba ngày, bốn ngày rồi một tuần lễ trôi qua Tỉ vẫn bặt vô âm tín. Quý nóng ruột như hơ, liên tục gọi điện cho Tỉ, nhưng điện thoại của Tỉ luôn nằm ngoài vùng phủ sóng.
              Lo âu, hoảng sợ, Quý tới sạp báo lục tung các tờ báo của mấy ngày vừa qua tìm xem có tin tức gì về chuyến hàng kỳ nam nào bị công an phát hiện không nhưng chẳng thấy gì. Linh tính báo điều không may đang ụp đến nhưng Quý vẫn chưa muốn tin. Ngày nào Quý cũng lội bộ hàng chục cây số tới đứng trước cánh cửa có một ổ khóa to đùng nhà Tỉ, đứng từ trưa tới lúc chiều tà mới thất thểu quay về…
              Hai tuần lễ trôi qua chậm chạp. Hai tuần Quý không buồn cạo râu, không buồn tắm rửa. Ăn uống cầm hơi, nhưng riêng với Mi Lu Quý vẫn lo chu đáo. Mấy ngày trước Quý lo chuyến hàng bị bắt, hoặc xe gặp tai nạn dọc đường, nhưng giờ thì Quý biết chắc mình đã bị Tỉ lường gạt để chiếm đoạt toàn bộ số tiền.
              Quý giận mình quá ngu muội, quá tin người! Giao cho Tỉ số tiền lớn vậy mà không đòi một chữ làm bằng chứng, thì cho dù bây giờ có gặp lại Tỉ ngay giữa Sài Gòn này cũng làm gì được nó? Ăn năn, hối hận thì đã quá muộn màng…
              Rồi cũng tới ngày Quý bị người ta trục xuất ra khỏi nhà vì không có tiền trả nợ. Vai mang túi hành lý nhẹ hẫng, Quý rời nhà như một kẻ không hồn, Mi Lu lủi thủi bám theo chủ.
              Quý đi lang thang khắp các nẻo đường, đi đến lúc hai chân mỏi rã rời mới chịu dừng lại ở một công viên vắng ngắt.
              Về đâu? Đi đâu? Quý hoàn không biết! Về quê ư? Không, không thể trở lại quê nhà trong tình trạng thảm hại này, dù có chết gục ở đầu đường xó chợ mình cũng không thể về quê…
              Cái thành phố bao la rộng lớn này cũng không còn nơi nào cho Quý nương thân. Quý mệt mỏi nằm dài trên ghế đá, Mi Lu buồn bã ghếch mõm lên tay chủ, mắt long lanh như sắp khóc…
              Quý nằm im lặng, mắt ngó chăm chú lên vòm cây trên đầu, tâm hồn trống rỗng. Những tàn cây xao động nhẹ rồi buông rơi từng chiếc lá xuống mặt đất. Chốc chốc một cơn gió mạnh ùa đến làm cây lá lao xao rung động, Rồi bất chợt trời kéo mây đen kịt, gió thốc từng cơn, đám lá trên lối đi bị gió cuốn tung lên mù mịt.
              Rồi mưa bắt đầu lộp bộp rắc xuống khắp đất trời. Người và xe ngoài đường càng trở nên vội vã, cuống quýt. Ai cũng muốn mau mau về với tổ ấm của mình.
              Quý ngồi lên, ngơ ngác nhìn ra bốn phía.
              Mi Lu dụi mõm vào chân chủ rên lên từng chập.
              Quý như sực tỉnh, vội vàng ôm Mi Lu vào lòng, khom người che mưa cho nó.
              Cả người Quý đã ướt sũng, nước mưa thấm vào da thịt, cộng với từng gió thổi qua khiến Quý lạnh buốt, hai hàm răng va vào nhau, tay chân run rẩy nhưng Quý vẫn cố hết sức che chắn cho Mi Lu. Chú chó nằm gọn trong lòng Quý không ngừng rên rỉ như than khóc.
              Nước trên tóc, trên mặt Quý chảy xuống thành dòng, không biết lẫn trong đó có giọt nào là nước mắt của Quý đang rơi mặn đắng…
              Mưa Sài Gòn đến bất chợt và cũng bất chợt bỏ đi. Vừa mới mưa như trút nước giờ thì bầu trời đã trở nên quang đãng, ở phía chân trời còn le lói một quầng sáng cuối ngày.
              Quý thả Mi Lu xuống đất. Con chó lắc mình rũ những giọt nước bám trên bộ lông trắng xác xơ của nó. Còn Quý, cả người ướt đẫm. Quý vuốt nước trên mặt, giở túi quần áo ra định lấy một cái khác mặc vào thì hỡi ôi, túi quần áo cũng đã ướt sũng từ lúc nào.
              Chán nản, Quý cởi cái áo đang mặc ra vắt cho ráo bớt nước rồi mặc trở lại.
              Bỗng nhiên Quý cảm thấy đói cồn cào. Đã hai ngày nay, Quý chưa ăn gì, chỉ uống nước.
              Thò tay vào lục hết các túi quần, Quý tìm được vài ngàn đồng, không đủ tiền ăn một dĩa cơm bình dân ven đường.
              Nhìn Mi Lu đang nằm mẹp dưới chân Quý thấy tim mình thắt nghẹn lại vì thương nó.
              Mới ngày nào Mi Lu còn là một chú chó mạnh mẽ với bộ lông trắng mướt rượt, bốn chiếc chân thon săn chắc, ánh mắt lấp lánh nghịch ngợm và cái mũi màu đen không ngừng nghếch lên nhìn Quý.
              Vậy mà giờ đây nó đã trở nên chậm chạp, u sầu, bộ lông đã ngả màu bụi đất và mỗi ngày một xác xơ hơn.
              - Mi Lu, ráng chịu đựng nghe! Tao sẽ đi mua chút gì về cho mầy ăn! Mầy phải kiên cường lên đó! Giờ đây bên cạnh tao chỉ còn mỗi một mình mầy thôi…
              Thấy chủ khoác túi lên vai, Mi Lu nhổm dậy đi theo.
              Quý ra đầu đường mua hai ổ bánh mì không rồi dắt Mi Lu trở vào công viên, xé ra từng miếng nhỏ đút cho nó ăn. Nó ăn hết một ổ nhưng có lẽ vẫn chưa no. Quý lấy tiếp ổ bánh thứ hai xé đưa cho thì nó nhất quyết không ăn, mà kêu lên ẳng ẳng.
              Quý ứa nước mắt:
              - Mầy nhường cho tao phải không?
              Quý ngồi cạnh Mi Lu, trệu trạo ăn cho hết ổ bánh rồi cứ ngồi mãi như thế cho tới lúc trời tối hẳn.
              Đêm đó Quý nằm co ro trên ghế đá, dùng cái túi ướt nước gối đầu, Mi Lu cũng trèo lên rúc vào lòng chủ. Nó có ý muốn dùng bộ lông của mình đem lại một chút hơi ấm cho Quý.
              Quý ôm Mi Lu nằm trên chiếc ghế nhỏ bé trong góc công viên, người run cầm cập.
              Khi ánh nắng gay gắt chiếu thẳng vào mắt Quý vẫn không ngồi dậy nổi. Đầu Quý nặng trịch như đang có một tảng đá lớn cột vào, hơi thở nóng hừng hực nhưng người lại lạnh không chịu nổi.
              Mình cùng đường rồi, mình sắp chết rồi sao? Nước mắt ứa ra khi Quý nghĩ tới điều đó.
              Bụng Quý đau quặn từng cơn, một thứ nước chua loét cứ trào lên từ bao tử. Quý chợt thấy thèm biết bao một tô cháo nóng.
              Ngày nhỏ, mỗi lần đau ốm, mẹ vẫn thường nấu cháo cho Quý ăn. Khi thì cháo cá, lúc lại cháo thịt bằm. Mẹ cho nhiều tiêu vào, rắc thêm chút hành ngò thơm lựng, ăn vào tới đâu mồ hôi đổ ra tới đó… ƯơÙc gì giờ phút này mình được ăn một muỗng cháo đó, một muỗng thôi…
              Quý lại lịm đi trong mùi cháo hành bát ngát…
              Không biết Quý đã lịm đi như thế đến bao lâu. Mãi đến lúc có cản giác một vật gì nóng ấm, ram ráp đang mơn man trên má mình Quý mới cố nhướng mắt lên.
              Mi Lu chồm hai chân lên ghế đá, thè lưỡi liếm khắp khuôn mặt Quý.
              Bên cạnh Quý là mấy củ khoai lang nhem nhuốc.
              Quý gượng với lấy một củ khoai, không đủ sức lột vỏ, bẻ ra đút cho Mi Lu một nửa, còn một nửa Quý bỏ vô miệng nhai ngốn ngấu.
              Khi người và chó ăn hết mấy củ khoai, Quý cảm thấy khát nước vô cùng nhưng không thể nào đủ sức đứng lên đi qua bên kia đường xin nước uống. Quý nghiêng người, thò tay xuống vũng nước phía dưới, lấy chiếc lá cây múc lên một chút nước cho vào miệng rồi lại lã người nằm thiêm thiếp.
              Quý nằm như vậy suốt hai ngày hai đêm thì cơn bệnh bị đẩy lùi. Quý đã ngồi dậy được.
              Nhìn thấy Mi Lu, Quý thật không thể tin vào mắt mình được. Khắp người nó đầy thương tích, một chân sau đi tập tễnh…
              Quý ôm Mi Lu vào lòng, khóc len nức nở.
              Giờ thì Quý hiểu suốt mấy ngày qua, để có thức ăn cho chủ, Mi Lu đã phải xông pha vào đời để ăn cắp từng củ khoai, từng miếng bánh tha về đây, những thứ mà giữa lúc chập chờn trong cơn sốt Quý ăn nhưng không hề thắc mắc từ đâu mình có.
              Tưởng tượng ra cảnh Mi Lu bị người ta rượt đuổi, vây đánh Quý không thể nào cầm được nước mắt…
              Quý gượng dậy, lang thang vô chợ hỏi xin phụ rửa dọn chén bát cho mấy hàng ăn uống. Nhìn bộ dạng nhếch nhác của Quý, nhiều người lắc đầu quầy quậy. Nhưng rồi cuối cùng Quý cũng được nhận vào giúp cho một hàng phở nhỏ.
              Thấy Quý cần mẫn làm việc lại không hỏi han gì tới tiền công, ông chủ quán có vẻ hài lòng lắm.
              Từ hôm đó cuộc sống của Quý và Mi Lu có phần đỡ vất vả hơn. Tối ngủ ngay tại hàng phở, ban ngày thì Mi Lu được chủ dành cho những tô phở ngon lành, vì khi dọn bàn lúc nào Quý cũng sớt lại những sợi phở, những miếng thịt bò vụn khách ăn còn lại, tất cả những cái đó trở thành bữa ăn thịnh soạn cho Mi Lu.
              Dù đã không phải ôm bụng đói nằm ngoài mưa gió, nhưng đêm đêm Quý vẫn trằn trọc không yên.
              Quý tủi hổ khi nghĩ tới cha mẹ. Nếu linh hồn cha mẹ còn phảng phất đâu đây, chắc hẳn sẽ đau lòng vô hạn khi thấy đứa con trai vàng ngọc của mình bây giờ phải sống đầu đường xó chợ.
              Quý tự trách mình ngu dại, rồi Quý lại trách ông trời không biết thương người tốt.
              Từ ngày Quý ngủ ở chợ, cô gái trong giấc mơ lại đến thường xuyên hơn nữa. Cô đứng bên cạnh Quý, chăm chú nhìn rồi khẽ gật đầu nói nhỏ:
              - Em sẽ giúp anh!
              Một đêm, Quý đang ngủ say bỗng nghe tiếng Mi Lu ăng ẳng bên cạnh. Quý lười biếng không thèm mở mắt, chỉ quơ tay ra như muốn ôm nó vào lòng. Thường khi Mi Lu sẽ sà ngay vào vòng tay của Quý, nhưng hôm đó nó không làm thế. Gọi mãi quý không dậy, Mi Lu cắn tay áo Quý giật mạnh. Quỷ mở mắt ra trách:
              - Mầy muốn gì đây? Sao không để tao ngủ hả? Tao buồn ngủ lắm, mầy không biết sao mà quậy tao như vậy?
              Thấy Quý thức dậy Mi Lu mừng cuống quýt, nó làm ra vẻ lăng xăng khó hiểu khiến Quý ngạc nhiên ngồi dậy hỏi:
              - Có chuyện gì vậy Mi Lu?
              Mi Lu ngước nhìn Quý rồi chui vô gầm bàn lôi ra một túi ni lông, bên trong là một gói giấy báo vuông vức.
              Quý ngồi xổm xuống, tò mò mở gói giấy ra. Khi lớp giấy cuối cùng được giở hết, Quý sửng sốt nhìn thấy những miếng vàng lá xếp chồng lên nhau ngay ngắn.
              Quý run bần bật như đang lên cơn sốt rét, nhìn quanh quất bốn phía rồi vội vàng vơ mớ giấy báo gói lại, đem giấu kín vào túi quần áo.
              Từ đó tới sáng Quý không tài nào chợp mắt được.
              Nằm gối đầu lên chiếc túi mà chốc chốc Quý lại sờ nắn xem nó còn ở đó hay không.
              Sáng ra, Quý như người mất hồn, vừa bưng bê chén bát, vừa liếc mắt ngó chừng túi hành lý để sát trong góc quầy, vừa lắng tai nghe ngóng bên ngoài, xem có ai nói chuyện mất mát gì không.
              Riêng Mi Lu, từ sang sớm, lúc quý dậy nhóm bếp nấu nồi nước lèo là nó chạy tới nằm sát bên cái túi, mắt mở thao láo, lưỡi thè ra như thách thức kẻ nào cả gan dám đụng chạm vào đồ đạc của chủ nó. Và dường như nó cũng muốn nói với Quý rằng hãy yên tâm, sẽ không ai xâm phạm được!
              Một ngày rồi hai, ba ngày trôi qua, Quý cố tâm đi nghe ngóng khắp xung quanh vẫn chẳng nghe ai nói về vụ mất mát nào. Quý thầm nghĩ: “Hay đúng là cô gái trong giấc mơ đã giúp mình?” Nhưng Quý vốn không tin lắm vào những chuyện hoang đường ma quỷ, thành ra Quý cũng nhanh chóng quên đi ý nghĩ ấy.
              Chiều xuống, khi khu chợ nhỏ đã vắng hẳn người, các hàng quán đều đã dọn về hết, quý giấu gói vàng vào bụng rồi thong thả dẫn Mi Lu đi dài theo các đường phố, các công viên để dạo chơi.
              Từ những buổi đi dạo đó, Quý phát hiện ra xung quanh mình có rất nhiều nghề dễ kiếm tiền.
              Có lần đang lang thang trên đường, một người phụ nữ gọi Quý lại hỏi:
              - Cậu em là người ở đâu mà tối nào cũng thấy đi lòng vòng khu vực này vậy?
              Quý cười:
              - Tôi không có nhà cửa gì hết chị ơi! Tôi phụ bán phở với người ta trong chợ kia, tối buồn nên đi dạo vậy mà!
              - Cậu làm vậy lương có khá không?
              - Lương bỗng gì đâu chị, tôi chỉ làm để kiếm qua ngày và có chỗ trú thân thôi!
              Nghe Quý nói vậy, người phụ nữ bất bình:
              - Trời đất! Ai đời lại đi làm mọi không công như thế! Còn biết bao nhiêu việc hái ra tiền sao cậu không làm mà đi làm chuyện đó?
              Quý cười:
              - Chuyện gì hái ra tiền, chị chỉ tôi đi, tôi làm liền! Nhưng tôi nó trước, một đồng bạc vốn tôi cũng không có à nghe!
              Người phụ nữ cười toe toét:
              - Ai mà cần vốn liếng gì ở cậu! Nè, bây giờ cậu làm giúp tôi chuyện này, tôi cho cậu hai trăm ngàn ngay lập tức!
              - Chuyện gì?
              Quý ngạc nhiên khi nghe số tiền công nhiều như vậy.
              - Không có gì là khó khăn hay nặng nhọc hết. Cậu chỉ cần cầm giúp chị cái gói này rồi thong thả dẫn chó đi tới cuối đường đưa cho người đàn ông đeo kính đen ngồi gác chân trên xe máy. Thế là xong!
              Vừa nói, người phụ nữ vừa len lén lấy ra một gói nhỏ dúi vào tay Quý. Quý rụt tay lại hỏi:
              - Cái gì ở trỏng?
              - Có gì đâu! Chỉ là… thư tình thôi mà!
              Người phụ nữ cười xởi lởi.
              Quý cầm lấy cái gói:
              - Tôi nghi ngờ loại thư tình này lắm nhe! Nhưng thôi, đưa đây!
              Quý bỏ cái gói cùng hai trăm ngàn của người phụ nữ đưa cho vào túi áo rồi bình thản cùng Mi Lu quay lại như người đi hóng mát.
              Quý thừa biết trong cái gói nhỏ ấy là gì, và lúc này thật sự Quý cũng không cần thiết gì hai trăm ngàn đồng tiền công đó. Sở dĩ Quý chấp nhận một cách dễ nhàng, nhanh chóng vậy là vì trong đầu Quý vừa lóe lên một ý nghĩ.
              Từ hồi còn lui tới các quán bar, vũ trường, Quý vẫn thường nghe nói tới ma túy, thuốc lắc và vô số các chất kích thích khác. Tuy chưa lần nào Quý tham gia dùng thử nhưng Quý không xa lạ gì nó.
              Quý đã từng biết có những người trở nên giàu có nhờ buôn bán ma túy. Chính lúc này đây Quý muốn được như vậy!
              Hiện tại Quý đang có một số vàng không phải là nhỏ, nhưng những ngày đói khổ vừa qua làm bùng phát trong Quý một sự khao khát khủng khiếp, khoa khát được trở nên giàu có, khao khát có thật nhiều tiền, thật nhiều vàng…
              Lần này Quý nhất định phải dùng số vàng đó để đổi đời. Quý sẽ không tin tưởng ai nữa, sẽ không hùn hạp với ai nữa mà tự Quý sẽ làm một mình khi nào rành rẽ các mánh khoé.
              Đi tới cuối đường, Quý nhận ra ngay người đàn ông đeo cặp kính đen to đùng đang ngồi gác chân lên xe máy. Quý giả bộ lại gần rồi ngồi xuống làm như đang vuốt ve con chó, nhưng tay Quý lại nhét cái gói giấy vào bàn tay đang đặt hững hờ bên hông của người lạ, nói nhỏ:
              - Chị kia nhờ tôi trao cho anh cái này!
              Người đàn ông nói mà không hề ngó Quý:
              - Cám ơn nghe!
              Quý đứng lên cùng với Mi Lu đi dạo mấy vòng nữa rồi mới quay về ngủ.
              Cứ thế nhiều ngày nối tiếp Quý thâm nhập vào cái thế giới tối tăm đó, đến lúc đã hiểu được nguyên tắc làm ăn, Quý bắt đầu “ra quân”.
              Ban ngày Quý vẫn phụ bán cho hàng phở không có gì thay đổi, chỉ đêm xuống Quý mới bắt đầu tham gia vào những cuộc bán mua mờ ám.
              Gói vàng trong túi Quý ngày một nặng thêm, lòng tham của Quý ngày càng mãnh liệt.
              Ban đầu Quý định bụng chỉ mua bán chừng vài chuyến rồi về quê chuộc lại ruộng đất cưới vợ làm ăn, vì đã chán ngán cảnh phồn hoa đô thị nầy rồi.
              Nhưng những chuyến hàng cứ diễn ra trót lọt, tiền vàng cứ chảy vào túi thì làm sao Quý có thể dừng lại được. Quý như đang say mùi vàng, cứ lao vào, lao như một con thiêu thân…
              Từ ngày Quý nhúng tay vào công việc đó, Mi Lu thường xuyên bỏ ăn, nó luôn nhìn Quý với vẻ van nài ai oán. Nhưng không tối nào nó không lếch thếch theo Quý ra đường.
              Đêm đêm, cô gái lại hiện về trong giấc mơ của Quý, nước mắt ngắn dài và lần nào cũng gọi những lời thống thiết:
              - Anh Quý ơi… Về quê đi anh Quý!...
              Có khi Quý giật mình thức giấc mà trong tai vẫn còn nghe văng vẳng những âm thanh thê thiết đó.
              Quý bắt đầu lo sợ khi mỗi đêm đều bắt gặp những hình ảnh đó, nghe những âm thanh đó.
              Có khi giữa ban ngày, những lúc hàng vắng khách, Quý mơ hồ thấy bóng cô gái từ ngoài bước vào, gọi khẽ:
              - Anh Quý… về quê đi anh Quý ơi….
              Quý choáng váng, đưa tay dụi mắt, rõ ràng cô gái đứng ngay trước mặt. Người con gái này Quý chưa từng gặp qua trong đời sống thực lần nào. Vậy mà suốt bao nhiêu năm nay tại sao cô ấy lại cứ quanh quẩn bên cạnh Quý?
              Quý lấy hết can đảm bước tới hỏi:
              - Xin cô làm ơn cho tôi biết, cô là ai?
              Vừa nó xong câu đó, Quý nghe tiếng ông chủ hàng phở kêu lên:
              - Quý! Mầy nói chuyện với ai vậy? Bộ mầy bị mộng du hay sao vậy? Nhìn mầy kìa, y như đứa mất hồn.
              Quý đưa tay ra định chỉ cô gái cho ông chủ quán, nhưng thật kỳ lạ, cô gái đã không còn đứng đó nữa!
              Quý đành phải ú ớ giả lả cho qua chuyện.
              Mấy hôm nay Mi Lu cũng ít khi cất tiếng sủa, nó chỉ tru lên đầy ai oán, như đang khóc than, đang trách hờn Quý vậy.
              Quý mua về cho Mi Lu một cái đùi gà thật to, tỉ mỉ xé ra từng miếng cho nó ăn xong rồi Quý mới ăn phần của mình.
              Khi cả hai đã no nê, Quý kéo nó lại gần vuốt ve:
              - Hôm nay mầy chịu khó giúp tao một chút nhé! Ngoan đi rồi tao thương, tao lại mua đùi gà về cho mầy…
              Thường thì những lúc Quý vuốt ve nói nựng như thế Mi Lu rất thích, nó sẽ ư ử đáp lại, sẽ chúi mõm vào người chủ, sẽ thè lưỡi liếm vào tay chủ để chứng tỏ nó cũng thương yêu chủ lắm đây. Thế nhưng hôm nay nó không có bất kỳ một động tác nào đáp lại, nó ủ rủ nhìn Quý rồi cụp đuôi lủi vào một góc.
              Quý cười:
              - Mầy lại giận tao rồi phải không?
              Vừa nói, Quý vừa tiến tới gần bên Mi Lu tròng vào cổ nó một sợi dây nịt nhỏ, phía dưới có cột theo một gói ni lông.
              Vỗ vỗ vào lưng Mi Lu, Quý năn nỉ:
              - Đừng giận tao! Ráng giúp tao! Hôm nay không có mầy là không được đâu! Ngoan nào, đứng lên đi với tao một chút thôi! Tao năn nỉ mầy đó, mầy không thương tao sao?
              Chừng như xiêu lòng trước những lời dỗ dành của quý, Mi Lu chậm chạm đứng lên rồi đi thẳng ra đường không chờ Quý.
              Quý nhìn theo mỉm cười rồi lặng lẽ đi sau một quãng khá xa.
              Mi Lu đlon ton chạy trên đường, tới địa điểm giao hàng đã được hẹn trước, một người đàn ông trung niên vừa cúi xuống gỡ lấy cái túi ni lông nơi cổ Mi Lu thì bất thần công an ập đến.
              Ngay lập tức, người đàn ông bị bắt giữ. Mi Lu phóng vụt đi, phía sau mấy người nữa ra sức đuổi theo.
              - Bắt lấy nó! Con chó đó vận chuyển ma tuý! Bắt lấy nó!
              Quý kinh hãi, sững sờ dừng bước. Tưởng đâu Mi Lu sẽ phóng về bên cạnh chủ để được che chở, nhưng không, nó làm như nó với Quý không hề quen biết, cứ phóng vụt qua đường.
              Tiếng thắng xe phanh vội rít lên, một tiếng kêu quen thuộc nhưng yếu ớt của Mi Lu xoáy sâu vào đầu Quý.
              Tay chân Quý rụng rời, bủn rủn.
              Ở giữa đường Mi Lu đang nằm trên vũng máu, bốn chân đưa lên trời co giật liên tiếp mấy cái rồi rơi xuống lặng im.
              Quý muốn nhào ra đường ôm lấy xác Mi Lu nhưng công an đang vây quanh đó, họ đang cần tìm ra chủ của con chó, thì làm sao Quý dám bước ra nhận xác Mi Lu?
              Những người hiếu kỳ xúm quanh đó nhưng Quý cũng không dám lại gần, Quý ngồi xuống lề đường mồ hôi tuôn ra ướt đẫm lưng áo.
              Không lâu sau đám đông giải tán, người ta mang xác Mi Lu đi, Quý vẫn ngồi chôn chân tại chỗ.
              Quý nhớ ánh mắt buồn thảm trách hờn của Mi Lu lúc nãy, một nỗi đau quặn thắt bóp chặt trái tim Quý, nỗi ân hận dày vò khiến Quý muốn vùng chạy ra đường lao vào xe để được chết cùng với Mi Lu.
              Mi Lu là người bạn thân duy nhất, luôn kề cận bên mình lúc giàu sang cũng như khi khốn cùng. Chính nó đã không màng nguy hiểm đi tìm thức ăn về nuôi sống mình những ngày mình ốm đau khốn khổ. Rồi cũng chính nó đã đem tới cho mình một số vàng không nhỏ, đủ để mình tạo dựng một cuộc sống đành hoàng, lương thiện.
              Vậy mà… chỉ vì lòng tham không đáy, mình đã đẩy người bạn trung thành của mình vào chỗ chết! Mình đã lợi dụng sự trung thành tuyệt đối của Mi Lu, mình không xứng đáng làm người! Mình thua cả một con chó! Ngay đến lúc hiểm nguy nhất nó cũng luôn bảo vệ mình, nó không nhận mình là chủ vì không muốn mình bị bắt!
              Trời ơi! Mình phải làm sao đây? Mi Lu đã chết rồi! Chết thật đau đớn… Vậy mà mình cũng không được làm cho nó một nấm mồ!
              Mi Lu ơi… Hãy tha thứ cho tao! Hãy tha thứ cho tao! Giờ đây tao không cần gì nữa cả! Vàng bạc, giàu sang… tất cả tao đều không cần nữa, tao chỉ cần mầy sống lại với tao thôi!
              Tao sẽ dẫn mầy về quê! Mình sẽ rời xa vĩnh viễn cái nơi nhiều cạm bẫy, nhiều đau thương mất mát này… Mi Lu ơi… về với tao đi, tao van mầy, mầy hãy về với tao đi…
              Quý gục mặt xuống đầu gối khóc nức nở.
              Đường phố tấp nập người xe, đêm thành phố sáng rực ánh đèn, quý càng cảm nhận được nỗi cô độc của bản thân mình hịên tại.
              Chưa khi nào Quý thấy mình bơ vơ lạc lõng như lúc này. Khi cha mẹ qua đời, khi bạn bè phụ rẫy, khi phải xách gói lang thang ra đường Quý cũng không cô độc vì bên cạnh còn có Mi Lu.
              Bây giờ thì Mi Lu đã bỏ mình đi rồi! Mà không, không phải Mi Lu bỏ mình, chính mình… chính mình đã đẩy Mi Lu vào chỗ chết…
              Quý chạy vào công viên khóc rống lên, rồi như điên loạn Quý cứ chạy, chạy mãi không thôi, đến khi mệt lả Quý gục xuống bên lề đường bất tỉnh.
              Quý mở choàng mắt ra, trước mắt là một khung cảnh hòan toàn xa lạ. Tường vôi trắng toát, mùi ê te xộc vào mũi đến khó chịu, nhìn quanh thấy người nằm rải rác trên những chiếc giường bên cạnh. Sau phút định thần, Quý biết nơi này là bệnh viện.
              Có lẽ một ai đó bắt gặp Quý ngất xỉu bên đường đã động lòng trắc ẩn mà đưa giúp tới đây.
              Đặt tay lên bụng, Quý không thấy gói vàng ở đó nữa nhưng thật kỳ lạ, Quý không hề cảm thấy hoảng hốt hay tiếc nuối chút nào! Tất cả đối với Quý đã trở thành vô nghĩa.
              Hình ảnh Mi Lu nằm trên vũng máu, bốn chân đưa lên cào vào không khí cứ hiện ra trước mắt Quý rõ mồn một.
              Quý lặng lẽ đứng lên, lặng lẽ rời bệnh viện.
              Không một đồng xu dính túi, Quý thất thểu đi một mình trong đêm, tìm lại con đường lúc tối.
              Đường phố vắng người, Quý đi liêu xiêu, vờ vật như một bóng ma.
              Từ xa, Quý đã nhận ra vết máu của Mi Lu.
              Thật chậm chạm, Quý tiến tới và quỳ xuống đưa bàn tay run rẩy chạm vào vết máu trên đường, nước mắt chan hòa trên gương mặt.
              - Anh Quý ơi! Về quê đi anh Quý…
              Tiếng gọi xa  xăm quen thuộc ấy bỗng lại vẳng bên tai Quý, kế tiếp là tiếng sủa gâu gâu mà không thể nào Quý lầm lẫn được!
              Quý đứng vụt lên gọi to:
              - Mi Lu! Mi Lu ơi! Có phải mầy không? Ra đây với tao đi… Đừng trốn tao nữa Mi Lu ơi…
              Quý vừa gọi vừa khóc nghẹn ngào.
              Thấp thoáng trước mắt Quý là hình bóng cô gái cùng với Mi Lu!
              Mi Lu nhìn Quý âu yếm, vẫy đuôi rối rít …
              Quý nhào tới, nhưng những hình bóng đó như làn khói mỏng đã nhanh chóng tan ra…
              Suốt đêm, Quý quanh quẩn khu vực đó, miệng lảm nhảm như người điên.
              Sáng ra, Quý quay về hàng phở hỏi xin ông chủ một số tiền nhỏ để về quê.
              Nhìn vẻ mặt bơ phờ không thần sắc của Quý, ông chủ vô cùng ái ngại  muốn cầm giữ Quý ở lại cho thật tỉnh táo, nhưng Quý đã quyết tâm nên ông phải chìu theo.
              Ông cũng rất tiếc khi phải mất một người phụ việc chăm chỉ như Quý.

              ***
              Quý về tới nhà lúc trời đã chập choạng tối.
              Không buồn mở đèn, cũng không thèm ăn uống hay tắm rửa, Quý thắp nhang lên bàn thờ ba mẹ rồi cứ để nguyên thân người bẩn thỉu như thế mà ngã vật ra giường.
              Quý ngủ rồi thức, thức rồi ngủ không biết bao nhiêu lần nhưng Quý vẫn không chịu dạy hẳn.
              Khát nước thì lê xuống nhà sau, uống no lại trở nên nằm tiếp.
              Có lẽ suốt hai ngày Quý chìm sâu trong tình trạng đó. Chòm xóm láng giềng vẫn chưa ai biết sự có mặt của Quý trong ngôi nhà hoang lạnh ấy.
              Đến ngày thứ ba Quý tỉnh táo hẳn. Đã biết đói bụng và thèm ăn cơm. Quý lê người xuống bếp lục lạo một hồi thì có gạo để nấu cơm, nhưng toàn bộ nước tương nước mắm trong nhà đều đã hư không còn dùng được nữa. Mặc kệ! Cơm chín, Quý cứ cơm trắng mà ăn một cách ngon lành.
              Khi đã no nê, Quý bắt đầu đi xem xét nhà cửa. Đâu đâu cũng giăng đầy mạng nhện. Mùi ẩm mốc xộ lên rất khó chịu.
              Lúc đi ngang qua tấm gương lớn trong phòng ngủ của ba mẹ lúc trước, Quý sửng sờ không nhận ra mình trong đó.
              Một thân hình ốm o, hai má hõm sâu vào, râu ria thì đâm ra tua tủa, đôi mắt Quý đầy vẻ chán chường mệt mỏi, không còn một chút sức sống nào trong đó.
              Bất chợt Quý cất tiếng cười vang, tiếng cười chưa kịp dứt Quý đã khóc nghẹn ngào.
              Quý không biết ngày mai của mình của sẽ ra sao, mình sẽ sống như thế nào? Quý chưa nghĩ tới điều đó, bởi vì giờ đây trong lòng Quý còn tràn ngập niềm hối hận, tiếc thương. Mặc cảm tội lỗi như đang nhấn chìm Quý xuống.
              Có lúc Quý thèm được nhắm mắt mãi mãi, không bao giờ còn thức dậy được nữa. Cuộc đời đã vùi dập Quý, tàn nhẫn với Quý và Quý thì lại tàn nhẫn với chính con vật trung thành đã gắn bó với mình như hình với bóng suốt bao nhiêu năm tháng. Cuộc sống là một cái vòng lẩn quẩn sao? Không! Quý muốn thoát ra, Quý không muốn tiếp tục quay cuồng trong đó!
              Nhưng làm sao để thoát ra đây? Muốn sống đã khó khăn, muốn chết cũng không phải dễ!
              Quý đứng tần ngần trên cầu thang nhìn xuống dưới. Bất chợt hình ảnh chú chó nhỏ ngày nào lại xuất hiện trong đầu. Bên tai Quý văng vẳng tiếng đùa giỡn của Mi Lu, tiếng cười trong trẻo của chú bé vô tư của nhiều năm trước…
              Suốt ngày hôm đó Quý cứ thơ thẩn đi tới đi lui khắp nhà, đầu óc vẫn còn mụ mị, chưa nghĩ được gì một cách rõ ràng…
              Đêm ấy Quý ngủ rất sớm sau khi ăn hết phần cơm còn lại.
              Trong giấc ngủ chập chờn, Quý lại thấy cô gái kia hiện đến. Khi vừa nhận ra bóng trắng của cô gái, thì một bóng trắng khác nhỏ hơn đã nhảy chồm lên giường, chui vào lòng Quý.
              - Mi Lu! Mi Lu! Mầy về rồi phải không Mi Lu!
              Hôm nay Mi Lu có vẻ phấn khích lắm. Nó rối rít liếm tay liếm mặt Quý, dụi đầu cọ mõm vào khắp thân thể Quý, Quý cũng muốn giang tay ôm lấy Mi Lu, nhưng hình như có một sức mạnh vô hình nào đó đè nặng khiến Quý cứ nằm im không hề nhúc nhích được.
              Cô gái đứng bên cạnh, nhìn cảnh tượng đó mỉm cười thật dịu dàng.
              Một lúc sau, cô gái vẫy tay, Mi Lu luyến tiếc rời khỏi Quý, tan ra cùng với bóng hình cô gái.
              - Mi Lu! Mi Lu! Mầy đừng đi, Mi Lu ơi…
              Quý thất thanh gọi và bật ngồi lên.
              Xung quanh không một bóng người, nhưng rõ ràng hai bên má Quý vẫn còn cảm giác nóng ấm của Mi Lu để lại.
              Quý mở toang cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời còn tối lắm, giờ này vào khoảng nửa đêm, nhưng tinh thần Quý lúc này lại vô cùng tỉnh táo và sảng khoái.
              Quý biết mình không thể chết. Vậy thì phải sống, phải sống cho đàng hoàng! Quý quyết tâm như vậy!
              Quý bật đèn sáng trưng cả nhà và bắt đầu dọn dẹp.
              Trước tiên, Quý dọn dẹp bản thân mình.
              Tìm khắp nơi vẫn không có gì có thể cạo râu được, Quý xuống bếp lấy con dao nhỏ đem ra mài thật bén rồi dùng nó để tạm thời làm sạch mặt mình một cách tương đối.
              Sau đó, Quý đi quét gián nhện, sắp xếp lại đồ đạc. Hì hục mãi đến khi trời sáng rõ thì mọi việc trong nhà đâu đã vào đó tinh tươm, ngăn nắp.
              Mùi ẩm mốc vẫn còn, nhưng không sao, hôm nay Quý sẽ mở toang hết các cánh cửa để ánh nắng vào nhà, Quý sẽ đem mền mùng chiếu gối ra phơi. Tất cả sẽ ổn thôi.
              Vừa mở cánh cửa lớn ra, Quý đã thấy mấy người hàng xóm thập thò trước cổng nhà mình. Trông thấy Quý thím Hai nhà bên cạnh thở phào:
              - Trời! Con về lúc nào chẳng ai hay? Từ nửa đêm tới giờ nghe bên đây lục đục, đèn đuốc sáng choang, thím ngạc nhiên hết sức mà không dám chạy qua…
              Quý cười:
              - Dạ, con về hồi tối. Vì không ngủ được nên thức dậy dọn dẹp, không ngờ lại làm cho dì lo lắng…
              - Ối, có gì đâu con ơi! Chỉ tại không biết cháu về mà nghe bên này có tiếng động, thím sợ không biết có kẻ gian nào vô không nữa. Giờ thì thím yên tâm rồi. À, con về chơi khi nào đi vậy?
              Quý nói nhỏ:
              - Lần này con về ở nhà luôn, không đi nữa thím à!
              Thím Hai mừng rỡ:
              - Ờ, vậy được đó! Ở nhà mà lo nhang đèn cho anh chị Hai chứ! Lâu nay cháu vắng nhà, bỏ nhang tàng khói lạnh, thiệt tình thím cũng thấy xót ruột lắm…
              - Dạ, con cảm ơn thím!
              - Thôi, con làm gì thì làm đi, thím về nhé! Trưa nay qua nhà ăn với chú thím bữa cơm nghen!
              Quý khẽ gật đầu, nhìn theo thím Hai quầy quả bước đi.
              Trưa ấy, Quý sang ăn cơm bên nhà hàng xóm. Bữa cơm đơn sơ với canh chua cá kho mà Quý cảm thấy ngon hơn sơn hào hải vị.
              Lâu thật lâu rồi Quý mới lại được ngồi ăn bữa cơm trong không khí đầm ấm thế này.
              Cơm nước xong, chú Hai cùng với Quý lên nhà trên ngồi uống trà.
              Sự nhớ ra, chú Hai hỏi:
              - Con nghe tin chú Dự con chưa?
              - Tin gì hả chú?
              Quý ngạc nhiên hỏi lại.
              Nhấp một ngụm nước trà, chú Hai chậm rãi kể:
              - Ở đời, làm điều phi nghĩa tất phải gặp quả báo thôi con à! Lần trước chú cĩ nĩi với con về chuyện đồn thổi xung quanh việc làm bất nghĩa của ơng Dự mà xem chừng con khơng mấy tin. Sau đĩ, hình như con cĩ cầm ruộng đất cho ơng Dự phải khơng?
              Quý vội nĩi:
              - Dạ khơng, con cầm cho ơng chủ của chú Dự, chứ chú ấy làm gì cĩ tiền mà cầm! Con nghe chú nĩi, ngơi nhà đĩ cũng tồn là tiền vay bạc hỏi thơi…
              Chú Hai bật cười ha hả:
              - Cái thằng này coi vậy mà khờ thiệt! Chẳng lẽ nào ơng Dự lại lại nĩi với con rằng: Tui xây nhà bằng tiền của ba cậu đĩ hay sao? Người ta phải nĩi trớ qua như vậy để che mắt thế gian, che giấu tội lỗi của mình!
              Ngừng lại uống tiếp một ngụm nước, chú Hai nhìn Quý thương hại:
              - Bởi vì con quá tin người, nên con lại một lần nữa đem ruộng đất dâng cho ổng. Chính ơng Dự bỏ tiền ra cầm chứ cĩ ơng chủ nào ở đây!
              - Chú nĩi thật à?
              Quý ngơ ngẩn giây lát rồi bình tỉnh lại:
              - Mà thơi, coi như con cĩ thêm một bài học nữa!
              Chú Hai gật gù:
              - Ơng bà ta nĩi quả khơng sai!
              Rồi chú bật ngâm nga hai câu:
              - “Đời xưa quả báo thì lâu
                 Đời nay quả báo một câu nhỡn tiền!”
              Đĩ! Thấy rõ ràng trước mắt rồi đĩ! Hai đứa con thằng Dự, đứa thì chết, đứa thì nằm một chỗ. Phải vậy thơi sao, mới tháng trước, tức là sau khi con cầm đất cho nĩ khơng bao lâu, nĩ bị tai biến mạch máu tưởng đâu nằm một chỗ luơn rồi, cũng may… chắc nhờ phước đức ơng bà cịn để lại nên bây giờ miệng thì méo xệch một bên, bán thân bất toại. Hai vợ chồng nĩ mỗi lúc cãi nhau, lời qua tiếng lại, đến đứa con nít nghe qua cũng biết được những việc mờ ám mà nĩ làm với gia đình con đĩ Quý à!
              Quý thở dài:
              - Nghĩ cũng tội nghiệp chú ấy! Nếu quả thật chú ấy đã làm những điều tác tệ như vậy, chẳng qua cũng chỉ lịng tham. Lịng tham luơn đẩy con người ta đến bên vực thẳm…
              Giữa lúc này, thật sự Quý khơng hề ốn trách gì chú Dự, mà trái lại Quý liên tưởng tới mình. Cũng vì lịng tham khơng đáy, Quý đã nhẫn tâm đẩy Mi Lu, người bạn trung thành thân thiết nhất vào cõi chết…
              Thấy Quý cĩ vẻ buồn, chú Hai đổi đề tài:
              - Con cĩ tính cách nào để sinh sống chưa?
              Quý bối rối:
              - Dạ, con thú thiệt với chú, hiện giờ con khơng cịn tiền bạc gì hết, bao nhiêu vốn liếng con đã đầu tư vào làm ăn trên Sài Gịn nhưng cuối cùng lại thất bại thảm thương. Con cũng chưa biết tính cách nào nữa…
              Cĩ lẽ thơng cảm với một chàng trai cịn trẻ người non dạ như Quý, chú Hai mỉm cười chỉ dẫn:
              - Khơng cĩ gì khĩ đâu con! Ơng trời ổng khơng cĩ phụ lịng người đâu! Chỉ cần con chịu chí thú làm ăn thì khơng lo gì chết đĩi. Tuy bây giờ ruộng đất con khơng cịn nữa, nhưng con cịn lại mảnh vườn quanh nhà cũng khá rộng lớn. Bây giờ con chịu khĩ dọn sạch cỏ, chăm bĩn cho những cây ăn trái cĩ sẵn, trồng thêm một số cây nữa, xen lẫn với một vài thứ rau cải… Chú đảm bảo con sẽ sống được, khơng giàu cĩ, nhưng chắc chắn cuộc sống ổn định. Con nhìn quanh đây xem, cũng cĩ rất nhiều gia đình, người ta đâu cĩ ruộng đất gì mà người ta vẫn sống tốt đấy thơi! Chú biết, con sẽ gặp rất nhiều khĩ khăn lúc mới bắt đầu, vì từ hồi nào tới giờ con đâu cĩ quen lao động chân tay, nhưng một khi con đã cĩ quyết tâm rồi thì chẳng cĩ gì là khơng giải quyết được!
              Quý cảm động:
              - Con rất biết ơn những lời chỉ dạy của chú! Từ hơm nay con sẽ làm lại cuộc đời. Con quyết tự nuơi sống mình bằng chính sức lao động của bản thân.
              Chú Hai thân mật vỗ vai Quý:
              - Vậy thì tốt rồi! Chú rất thích những thanh niên cĩ bản lĩnh. Cháu yên tâm đi, cĩ khĩ khăn gì chú sẽ giúp cháu! Mà nè, cháu phải nhớ, khơng phải cháu chỉ nuơi sống bản thân mình khơng thơi, mà cịn phải lấy vợ sinh con rồi phải lo cho cả một đồn tàu há mồm nữa đĩ!
              Quý bật cười trước câu nĩi đùa của chú Hai:
              - Dạ, hiện nay cháu chưa nghĩ tới chuyện ấy! Nhưng chú ơi, bây giờ cháu chỉ là một thằng con trai tay trắng, sức khỏe khơng bằng ai, tính tốn làm ăn cũng khơng biết thì cĩ cơ gái nào cả gan, dám liều mạng ưng làm vợ cháu đâu chú?
              - Ê, đừng tự hạ thấp mình như vậy chứ cháu! Chú nhìn người khơng lầm đâu… Hay cháu đồng ý làm rể chú nghen? Cịn nhớ con Út Thảo của chú khơng? Chú đồng ý gả nĩ cho cháu đĩ, chịu khơng?
              Quý mắc cỡ, chỉ cười cười, khơng nĩi gì.
              Ngồi chơi với chú Hai đến tận xế trưa Quý mới đứng lên cáo từ ra về. nhưng về ngang nhà mình quý khơng quẹo vơ mà đi thẳng tới nhà chú Dự.
              Ngơi nhà của chú Dự vẫn to lớn khang trang nhưng lại tốt lên một khơng khí u ám nặng nề.
              Thấy cổng chỉ khép hờ nhưng Quý khơng dám tự tiện đi vào vì cịn ngại chú  chĩ bẹc – giê to lớn lần trước. Quý gọi to:
              - Chú ơi! Chú thím cĩ nhà khơng?
              Nghe tiếng gọi cổng, thím Dự từ sau nhà tất tả đi lên, vừa trơng thấy Quý thím mừng rỡ:
              - Quý về rồi đĩ hả cháu! Vơ nhà, vơ nhà chơi đi cháu!
              Mới gặp thím cách đây chưa bao lâu mà hơm nay Quý suýt khơng nhận ra thím Dự. Thân người thím gầy mịn, khắc khổ, gương mặt u buồn, nhìn thím cười một cách héo hắt Quý chợt thấy lịng đau buốt.
              - Nghe nĩi chú bệnh nên cháu tới thăm. Chú cĩ khơng thím?
              Nghe Quý hỏi, thím Dự gật đầu:
              - Bây giờ ổng cịn đi đâu được nữa mà khơng ở nhà hả cháu? Nhà thím bây giờ khổ lắm cháu ơi, hết con rồi tới chồng, thím thiệt là…
              Thím Dự rưng rưng khơng nĩi được hết câu.
              Quý an ủi:
              - Thím đừng buồn, mọi việc rồi sẽ quen dần thơi thím ạ! Mỗi người đều cĩ một số phận, biết sao bây giờ…
              Nghe tiếng người nĩi chuyện trước nhà, chú Dự từ trong buồng chống gậy nhắc nhổm đi ra, một cánh tay buơng thõng thượt bên mình, một cảng chân kéo lên dưới sàn nhà…
              Nhìn cảnh tượng ấy, nước mắt Quý chực tuơn ra nhưng Quý cắn chặt răng kìm nén lại.
              Vừa trơng thấy Quý, chú Dự thảng thốt, cái miệng méo xệch của chú cứ há ra mà khơng nĩi được lời nào.
              Quý chạy tới dìu chú Dự ngồi xuống ghế:
              - Chú ngồi xuống đây đi chú! Cháu nghe tin chú bệnh nên tới thăm chú nè! Bây giờ chú thấy trong người thế nào?
              - Chú… kh…ỏ…e! Cá…m ơn cháu
              Khĩ khăn lắm chú Dự mới thốt ra được mấy câu ngọng ngịu để hỏi thăm Quý một cách qua loa. Rồi chừng như muốn tránh mặt Quý, chú Dự than mệt, ra dấu bảo vợ dìu vào buồng.
              Quý nhanh nhẹn đứng lên đỡ một bên cùng đưa chú Dự trở vơ buồng. Căn phịng rộng rãi nhưng âm u, âm u như chính nỗi lịng chủ chủ nhân nĩ vậy.
              Trở ra bàn ngồi nĩi chuyện với thím mà Quý khơng thể nào nén được tiếng thở dài.
              Quý biết, nếu đúng chú Dự đã làm như những gì người bên ngồi đồn đãi thì chắc chắn giờ đây, khi phải nằm một chỗ như vậy lương tâm chú chắc khơng ngừng cắn xé. Một khi con người phải sống trong sự dày vị của lịng hối hận, trong sự cắn rứt của lương tâm thì cịn khổ sở, đau đớn gấp ngàn lần sống trong nghèo đĩi.
              - Chú ơi, nếu thật sự chú đã làm gì cĩ lỗi với gia đình cháu, thì hơm nay, cháu thay mặt ba má cháu mà xĩa hết mọi lỗi lầm. Chú hãy sống thanh thản đi, hãy để cho nhà này vang lại tiếng cười…
              Quý nĩi thầm trong bụng.
              Khi được Quý cho biết từ nay sẽ về sống hẳn ở đây, thím Dự cĩ vẻ rất vui, nhắc đi nhắc lại:
              - Cĩ gì cần cháu cứ nĩi với thím một tiếng, thím sẽ giúp cháu nghen! Cháu đừng ngại gì hết, từ xưa tới nay lúc nào thím cũng xem cháu như con cháu trong nhà…
              Quý nắm chặt tay thím Dự:
              - Dạ, cháu biết rồi! Cháu nhớ rồi! Bây giờ cháu cũng đâu cịn bà thân thích nào ngồi chú thím, cháu cũng thật lịng muốn được chú thím coi như người trong nhà vậy!
              - Được vậy thì tốt biết mấy…
              Nĩi thêm vài ba câu chuyện nữa Quý đứng lên từ giã chú thím ra về. Trên đường về, quý bỗng cảm thấy tinh thần mình trở nên sảng khối, vui vẻ lạ thường, như vừa trút bỏ được tảng đá lớn từ lâu nay luơn đè nặng trong lịng.
              Ngay chiều hơm đĩ thím Dự mang đến cho Quý nào là gạo, mắm, muối, thức ăn nấu sẵn và một vài thứ lặt vặt khác nữa.
              Quý cảm động:
              - Thím bận bịu suốt ngày như vậy mà cịn dành thời gian lo lắng cho cháu nữa, cháu thật ngại quá!
              Thím Dự tỏ ý khơng bằng lịng:
              - Cháu đã bảo chúng ta là người cùng một nhà, vậy sao cịn khách sáo như thế? Cháu cứ để cho thím lo cho cháu phần nào, tới khi cháu cưới vợ, cĩ người lo cho cháu rồi thì thím mới yên tâm!
              Quý mỉm cười, khơng thể chối từ thím được!
              Thím Dự vừa ra khỏi nhà thì chú Hai bên cạnh chạy sang, đem qua cho Dự mấy cái liềm, cuốc, xẻng. Chỉ dẫn Quý cách sử dụng từng mĩn một.
              - Sáng mai chú cũng rảnh, chú sẽ sang đây làm tiếp với cháu cho quen việc.
              Quý mỉm cười nghe lịng ấm áp trước những tình cảm mộc mạc chân thành của những người dân quê chất phác.

              ***
              - Anh Quý ơi, ngừng tay vô ăn bắp luộc đi anh!
              Nghe tiếng gọi, Quý ngước nhìn lên rồi kéo tay áo lau mồ hôi vui vẻ mỉm cười.
              - Chờ anh một chút, anh cắt mấy liềm nữa cho xong hết liếp rau này đã!
              Quý quơ chiếc liềm bén ngót tới đâu thì đám rau muống xanh non mơn mởn ngã rạp xuống tới đó.
              Cắt hết liếp rau, Quý đứng lên vươn vao một cách khoan khoái rồi thong thả đi vô nhà.
              Đặt chân tới cửa bếp, Quý xuýt xoa:
              - Ô, mùi bắp luộc thơm quá! Bắp nhà em phải không Thảo?
              Thảo dừng tay tướt lạt, mỉm cười nhìn Quý:
              - Dạ, bắp nhà em đó! Anh Quý ăn ngay đi cho nóng!
              Thảo vừa nói vừa nhanh tay chọn một trái bắp ngon nhất lột vỏ đưa chio Quý.
              Quý ngồi xuống lột một bên:
              - Em cũng phải ăn với anh chứ! Ăn một mình anh… mắc cỡ chết!
              Thảo lườm Quý rồi cả hai cùng cười vang.
              Từ ngày về lại quê nhà, Quý luôn được sự quan tâm giúp đỡ của thím Dự và vợ chồng chú Hai nhà bên cạnh.
              Chú Hai còn cho cả đứa con gái út của mình là Thảo sang đây phụ giúp Quý những khi cô rỗi rảnh.
              Từ ngày có sự chăm lo quét dọn của Thảo, ngôi nhà rộng lớn này trở nên ngăn nắp gọn gàng giống y như hồi bà Hai Phát còn sống. Quý cũng đỡ phần cô đơn khi mỗi ngày có bóng dáng Thảo tới lui mấy lượt. Khi thì tới nấu giúp Quý bữa cơm, lúc mang qua cho Quý một món ăn nào đó…
              Hồi còn ở Sài Gòn, Quý chưa từng yêu ai, nhưng Quý vẫn thường thích đi theo chọc ghẹo những cô gái trông được mắt. Vậy mà khi đối diện với Thảo, chưa bao giờ Quý dám nói một lời suồng sã, mặc dù lắm lúc Quý cảm nhận được trái tim mình đang thực sự rung động trước Thảo.
              Thảo là một cô gái mùa hiền lành, bình dị, có nước da rám nắng và nét duyên dáng mặn mà của cô gái miền Tây. Tuy hơi ít nói nhưng tính Thảo lại vui vẻ, hay cười, khiến cho bầu không khí càng thêm ấm cúng.
              Chú Hai nhiều phen nói xa gần ý muốn tác hợp cho Quý và Thảo. Quý còn mong đợi điều gì hơn nữa? Nhưng hiện nay Quý cho là chưa phải lúc. Quý mới bắt đầu gầy dựng lại mảnh vườn, ít nhất đến khi nào có thể đảm bảo được cuộc sống cho hai vợ chồng thì mới có thể tính tới chuyện hỏi cưới Thảo được.
              - Anh làm gì ngồi trầm ngâm quá vậy? Bộ… bắp em nấu không được ngon sao anh?
              Thảo hỏi khi thấy Quý cứ ngồi lặng im bên cạnh.
              Giật mình, Quý cười lớn:
              - Đâu có, bắp ngọt lắm! Mai em nhớ nấu cho anh ăn nữa nhe! Chỉ tại anh đang suy nghĩ một số việc?
              - Anh suy nghĩ việc gì thế?
              Thảo tò mò.
              Quý ngập ngừng:
              - Anh không biết mình làm tới khi nào mới có tiền cưới vợ?
              Nghe Quý nói vậy, tự nhiên hai má Thảo nóng bừng lên, đôi tay luống cuống vơ lấy nắm lạt dưới đất, cười cười đánh trống lảng:
              - Thôi, anh cứ ngồi đó vừa ăn vừa suy nghĩ đi! Để em ra bó rau muống, sáng đem ra chợ bỏ mối giúp anh, kiếm tiền để dành mai mốt anh cưới vợ nha!
              Quý bật cười, đứng lên theo gót Thảo trở ra vườn.
              Quý cắt hết hai liếp rau nữa rồi cùng Thảo bó thành từng lọn.
              Hồi chưa quen việc, cả đến công bó rau đơn giản như vầy Quý cũng làm không xong! Thảo phải hướng dẫn cho Quý từ cách tuốt lạt, chọn dây đến cách quay từng nuột lạt quanh bó rau muống như thế nào. Bây giờ, có thể nói Quý đã thành một nông dân chính cống!
              Khu vườn quanh nhà hồi Quý mới về cỏ mọc cao hơn đầu gối, giờ trở nên sạch sẽ đẹp mắt. Cây trái xum xuê, từng luống rau luống cải thẳng đều tăm tắp.
              Khi những tia nắng yếu ớt cuối ngày đã tắt hẳn phía trời tây, Thảo và Quý cũng vừa bó xong hết đám rau vừa cắt.
              Quý đứng nhìn Thảo lom khom quét dọn mà thấy trong lòng dâng tràn một thứ hạnh phúc ngọt ngào khó diễn tả.
              Ngước lên, bắt gặp ánh mắt Quý đăm đắm nhìn mình, Thảo mắc cỡ nói vu vơ cho đỡ ngượng:
              - Hôm nay rau nhiều quá!
              - Khuya em nhớ gọi anh dậy để anh gánh ra chợ với em nghen!
              Quý dặn.
              Thảo lắc đầu:
              - Thôi khỏi, nhiều thì có nhiều thật đó, nhưng một mình em cũng gánh được rồi, mắc công anh phải dậy sớm…
              Quý làm bộ giận:
              - Trời! Rau là của anh, bán về em đưa tiền cho anh, vậy mà còn sợ anh phải dậy sớm? Sao kỳ vậy ta, đáng lẽ phải ngược lại mới đúng chứ? Em đừng tưởng anh là công tử bột, chỉ biết ngồi nhà hưởng mát đâu nhe!
              Thảo giấu một nụ cười dưới vành nón lá:
              - Thôi đi, anh đừng có đứng đó cãi lý với em! Mau vô tắm rửa rồi qua nhà em ăn cơm. Ba má dặn em mời anh chiều qua ăn đó, hồi trưa ba cắm câu được con cá lóc lớn lắm… Giờ em về trước nghen, anh tắm xong nhớ qua liền, ba má em đợi…
              Nhìn theo dáng người thon thả của Thảo thấp thoáng đi giữa hàng cây, Quý chỉ muốn chạy theo cầm lấy tay cô mà nói hết lòng mình… Nhưng rồi Quý vẫn đứng im một chỗ…
              Quý giận mình vô dụng, với người không có chút cảm tình nào, thì bao nhiêu lời hoa mỹ, hẹn biển thề non cũng có thể nói ra được một cách dễ dàng, lưu loát. Vậy mà với người con gái mình thật sự yêu thương chỉ cần nói một lời cho người ta hiểu được lòng mình mà đã biết bao nhiêu lần ngập ngừng không thốt được nên câu.

              ***
              Cuộc sống của Quý dần dần đã đi vào ổn định. Nhờ tính cần mẫn siêng năng của Quý, cây cỏ trong vườn được chăm bón rất đầy đủ nên mùa vụ nào trái cũng oằn cây.
              Mới đó đã ba năm.
              Ba năm, thời gian không phải là dài trong một đời người nhưng cũng không thể nói là ngắn.
              Từ một thanh niên trói gà không chặt, chỉ sau ba năm Quý đã lột xác để trở thành một nông dân dẻo dai, mạnh khỏe.
              Nhiều lần thím Dự đề nghị Quý lấy lại mấy mẫu đất để canh tác nhưng Quý đều từ chối. Quý bảo:
              - Cháu đã nhờ chú Dự đem đi cầm cố rồi, thì dù có cầm cho ai cũng như nhau thôi. Một khi chưa có tiền để chuộc về thì cháu không thể nhận lại. Cháu rất biết ơn vì thím đã lo cho cháu, nhưng thím yên tâm đi, cuộc sống của cháu như hiện nay cũng rất tốt rồi, cháu không mong muốn gì hơn nữa!
              Hình như khi được quan tâm lo lắng cho Quý thì mặc cảm tội lỗi trong lòng thím Dự có giảm đi đôi chút, nên về sau này trông thím có vẻ khá hơn trước nhiều. Thân hình thím không còn gầy gò thảm hại, nụ cười cũng bớt héo hon.
              Mặc dù không phải là người trực tiếp nhúng tay vào tội lỗi, nhưng thím đang sống trong căn nhà đồ sộ được dựng lên bằng những đồng tiền phi nghĩa, những bữa cơm thím ăn hàng ngày cũng là từ những đồng tiền nhơ nhớp đó, thì làm sao thím Dự có thể thanh thản được.
              Chỉ có điều, thím Dự không thể nào thú thiệt hết với Quý và tố cáo chồng mình được. Nên nỗi trầm uất trong lòng thím ngày một nặng nề. Chỉ từ khi Quý về lại quê hương, mỗi ngày thím tới lui khi thì giặt cho Quý mền mùng, lúc may cho Quý cái áo thì chừng như nỗi niềm u ất trong lòng thím có phần vơi bớt.
              Về sau này, chú Dự tuy vẫn sinh hoạt bình thường nhưng đôi lúc có phần ngớ ngẩn. Tâm trí không hoàn toàn sáng suốt như xưa, thành ra mọi việc trong gia đình đều do thím Dự sắp xếp. Chứ còn trước kia, thím giống như nô lệ trong nhà. Bất cứ việc gì dù lớn hay nhỏ thím đều phải răm rắp tuân theo lời chỉ bảo của chú mà không được quyền có ý kiến phản bác nào.
              Chính vì lẽ đó thím mới có thể bảo Quý lấy ruộng đất về canh tác.
              Thấy Quý đã quyết liệt chối từ, thím Dự biết dù có nói cách nào cũng không khuất phục được thằng cháu, thím đành phải chuyển sang phương án khác.
              Suốt mấy năm qua, thím Dự không để cho Quý mua dù là một lon gạo. Quý không thể từ chối được vì thím viện lẽ, trước đây bà Hai Phát đã giúp đỡ vợ chồng thím rất nhiều, ngày nay coi như Quý tạo điều kiện để thím được đền đáp lại một phần ơn nghĩa đó. Cuối cùng, Quý ra giao hẹn với thím Dự là, khi nào Quý cưới vợ thì Quý sẽ không nhận nữa.
              Cuộc sống của Quý cứ bình lặng trôi qua. Nỗi nhớ mẹ cha cũng nguôi ngoai theo ngày tháng. Suốt ngày Quý quần quật hết việc này tới việc khác không ngơi tay, tới lúc vô mùng là đánh một giấc ngon lành tới sáng. Thi thoảng những khi thức giấc nửa đêm, Quý lại thèm được mơ giấc mơ có cô gái nhỏ và chú chó Mi Lu, nhưng lâu lắm rồi hai hình bóng đó rất ít khi hiện về bên Quý.
              Mỗi lúc nhớ tới Mi Lu, trong lòng Quý vẫn cồn lên niềm ăn năn hối tiếc. Quý chỉ biết thầm hứa với bản thân là phải sống cho thật tốt, cho thật đàng hoàng để vong hồn ba mẹ và Mi Lu có thể yên lòng ở bên kia thế giới.
              Chiều nay Quý bỗng thấy nhớ Mi Lu, nhớ thật nhiều…
              Không phải tự nhiên mà nỗi nhớ dâng tràn đến vậy. Chỉ vì một câu nói vô tình của Thảo đã khơi dậy trong Quý cái tình cảm mà lâu nay Quý cố chôn sâu tận đáy lòng mình.
              Lúc chiều, khi cùng ngồi nhổ cỏ với Quý, bất chợt Thảo khoe:
              - Anh Quý, con chó nhà em sắp sinh con rồi đó! Anh có muốn nuôi không? Nếu anh thích thì em về nói ba để dành lại cho anh, chứ chó bây giờ đắt lắm, vừa sinh ra là người ta dặn hết trơn à!
              Quý nghe tim mình nhói đau nhưng cố gượng cười:
              - Ừ, em để cho anh một con, nuôi cho vui nhà vui cửa.
              Chợt nhớ ra, Thảo hỏi:
              - Hồi trước anh Quý có con chó khôn lắm phải không? Bây giờ nó đâu rồi anh Quý?
              Quý giả bộ cắm cúi xuống nhổ cỏ để che đi đôi mắt đang ứa lệ của mình.
              - Nó… nó chết rồi Thảo ơi!
              - Tội nghiệp nó quá hả anh? Nó chết chắc anh buồn lắm phải không? Hồi trước anh với nó như hình với bóng…
              Cũng may là Thảo không hỏi tiếp tới nguyên nhân cái chết của con chó, chứ nếu không chắc Quý không dằn lòng được. Nhưng từ đó tới tối, lòng Quý lại nặng trĩu u sầu.
              Tối đó, nghe hết chương trình ca nhạc cải lương của Đài phát thanh Thành phố, Quý với tay tắt radio rồi chui vô mùng ngủ. Nhưng khi giấc ngủ chưa kịp kéo tới, Quý giật mình nhổm dậy vì phát hiện một bóng người thoáng qua bên ngoài cửa sổ.
              Quý nhẹ nhàng đi chân trần tới áp mặt vào kính cửa nhìn ra ngoài. Rõ ràng một bóng trắng đang ung dung dạo bước.
              Đêm nay trăng rất sáng, nhưng Quý không sao nhận ra người đó là ai vì những tàng lá cây che khuất.
              Đánh bạo, Quý mở cửa đi ra sau vườn.
              Đang ngó quanh quất thì bất ngờ bóng trắng xuất hiện ngay trước mặt Quý, chỉ đứng cách Quý chưa đầy một sãi tay.
              - Cô… cô là ai?
              Quý giật mình lắp bắp hỏi khi nhận ra bóng trắng đứng cạnh bên mình là một cô gái.
              Cô gái xoay người lại làm Quý càng ngạc nhiên hơn nữa:
              - Cô… cô chính là cô gái trong những giấc mơ của tôi?
              Cô gái nhoẻn miệng cười:
              - Đúng rồi! Người con gái thường đến trong mơ chính là em! Anh quý vẫn còn nhận ra em sao?
              Quý mừng quýnh, chồm tới định nắm tay cô gái nhưng hai bàn tay Quý chỉ chạm vào khoảng không trống rỗng. Quý rụt tay về, hấp tấp hỏi:
              - Mi Lu đâu? Sao hôm nay cô không dẫn nó tới thăm tôi? Những lần trước cô đều dẫn nó theo mà?
              Cô gái làm mặt giận:
              - Cũng vì chuyện của Mi Lu mà em rất giận anh đấy! Em đã từng muốn bỏ mặc anh rồi. Nhưng thấy anh đã thật lòng hối hận, nên em quyết định tha lỗi cho anh đó!
              Quý ngơ ngác:
              - Cô nói gì tôi không hiểu?
              Cô gái nhìn Quý cười chúm chím:
              - Anh từ từ suy nghĩ rồi sẽ tự hiểu ra thôi. Hôm nay em tới đây là để chào từ biệt anh!
              - Từ biệt tôi? Cô làm đầu óc tôi rối lên rồi đây! Nhưng mà cô khoan nói những chuyện khác, cô làm ơn nói cho tôi biết Mi Lu đâu?
              Quý khẩn trương, chỉ sợ cô gái lại nhanh chóng tan ra như những lần trước.
              Cô gái nhìn Quý thông cảm:
              - Anh đừng cuống lên như thế! Hôm nay Mi Lu không thể theo em đến thăm anh được, nhưng mà anh đừng có lo, ngay sáng ngày mai anh sẽ được gặp lại Mi Lu. Nhưng anh phải hứa với em là anh luôn luôn đối xử tốt với nó đấy nhé! Nếu anh mà còn làm gì tổn hại đến nó một lần nữa, em sẽ không tha cho anh đâu!
              Quý lặp lại như kẻ mộng du:
              - Sáng mai tôi được gặp lại Mi Lu sao? Nó sẽ sống với tôi như trước kia chứ? Tôi nhớ… tôi nhớ nó đã chết rồi mà?
              Cô gái bật cười:
              - Đúng là nó đã chết rồi nhưng duyên nợ với anh còn chưa dứt nên nó phải sống lại thôi! Mà thôi, anh đừng hỏi nhiều nữa, em không được phép nói nhiều đâu.
              Cô gái bước tới gần Quý chút nữa rồi nói với giọng nghiêm trang:
              - Kiếp nạn của anh đến đây là chấm dứt. Từ nay, cuộc sống của anh sẽ được yên ổn tới cuối đời, không còn gặp bất kỳ sóng gió nào đáng kể nữa. Như vậy là nhiệm vụ của em đã hoàn thành. Em tới chào anh em đi. Từ hôm nay, mãi mãi không bao giờ chúng ta còn gặp lại nhau nữa…
              Quý cắt ngang lời cô gái:
              - Khoan, tôi xin phép hỏi, giữa tôi với cô có quan hệ như thế nào? Tại sao cô lại có trách nhiệm gì đó với tôi? Tôi xin cô nói rõ cho tôi biết, đừng để tôi phải nát óc vì chuyện này! Từ những lần đầu tiên gặp cô trong giấc mộng, tôi đã rất lấy làm lạ, vì hình như tôi với cô hoàn toàn xa lạ, mình chưa từng gặp nhau trong đời thật, phải vậy không cô?
              Cô gái do dự một lúc rồi cất tiếng:
              - Đáng lẽ ra em không được nói gì với anh hết, nhưng thấy anh tỏ ra khổ sở như vậy em không cam lòng. Đúng là em với anh chưa từng gặp nhau trong đời thật, nhưng mẹ anh là người có ơn rất lớn với mẹ con em, mẹ em đã dặn dù sống hay chết gì cũng phải báo đáp ơn nghĩa đó. Vì vậy, suốt bao nhiêu năm qua, em luôn luôn có mặt bên cạnh anh, để bảo vệ anh. Anh đừng hỏi tại sao em không giúp anh thoát khỏi những tai ách, vì đó là kiếp nạn mà anh phải chịu, đó là những ân oán mà kiếp trước anh đã gây ra, không ai có thể thay đổi được. Thôi, em vậy cũng đã quá rõ ràng rồi, giờ đã tới lúc em phải đi…
              Cô gái vừa dợm bước bỗng sực nhớ lại điều gì, dừng chân lại:
              - À, quên nữa, suýt một tí em lại mắc lỗi lầm rồi, cũng tại anh hỏi nhiều quá làm em không tập trung được đó!
              Quý vẫn đứng ngẩn ngơ không nói được lời nào, cũng không hỏi thêm câu gì được nữa.
              Cô gái phì cười khi nhìn vẻ mặt đờ đẫn của Quý:
              - Coi anh kìa, em sắp báo cho anh một tin vui nè, phải tươi tỉnh lên đi chứ!
              - Tin vui à?
              Quý hỏi lại.
              - Dạ. Ông bà Hai còn để lại cho anh một số vốn khá lớn, ngày mai anh hãy sử dụng nó vào việc làm ăn chân chính, không được dại dột như những lần trước đâu nhé! Em nói rồi đó, nếu anh còn như vậy nữa em sẽ không tha…
              Quý thắc mắc:
              - Cô nói vốn liếng gì? Sao tôi không biết gì hết?
              - Ngay phía dưới giường ngủ của anh, tại miếng gạch thứ ba tính từ trong tường, anh cứ đào đúng chỗ đó lên thì khắc biết. Em phải đi đây, chào anh nhé!
              Bóng trắng đứng trước mặt Quý bắt đầu tan loãng ra, Quý cuống quýt gọi to:
              - Cô ơi… cô ơi, tên cô là gì thế?
              - Mi Lan… Mi Lan…
              Tiếng cô gái từ xa xăm vọng đến. Bóng trắng đã hoàn toàn biến mất. Quý lẩm bẩm:
              - Mi Lan! Cái tên này sao nghe quen quá… Thôi rồi, mình nhớ ra rồi, đó chính là tên của cô bé nuôi Mi Lu trước mình… Hèn gì… hèn gì lúc nào mình cũng thấy cô gái đó và Mi Lu quấn quýt bên nhau. Vậy mình không nghĩ ra được, mình đúng là quá ngu ngơ…
              - Anh Quý! Làm gì giờ này anh đứng một mình ở đó vậy?
              Quý giật mình khi nghe tiếng Thảo từ phía bên kia hàng rào.
              - Anh… Trăng đêm nay đẹp quá… anh đứng ngắm trăng…
              Quý dối.
              Thảo cười khúc khích:
              - Em không ngờ anh Quý cũng lãng mạn ghê đó nghe! Thôi, qua nhà em chơi đi, ba em cũng đang trãi chiếu ngoài sân vừa uống trà vừa ngắm trăng nè. À, anh Quý ơi, con chó nhà em vừa mới sinh xong, anh mau qua mà chọn chó con đi!
              Bất chợt trong đầu Quý liên tưởng tới những câu vừa lúc nãy nghe Mi Lan nói: “Đúng là nó đã chết rồi nhưng duyên nợ với anh còn chưa dứt nên nó phải sống lại thôi”.
              - Mi Lu sống lại? Có lẽ… có lẽ… phải rồi! Đúng rồi!
              Quý lảm nhảm trong miệng rồi bỗng mừng rơn reo lên:
              - Thảo ơi, anh qua liền…
              Sang bên nhà Thảo, Quý chào hỏi ba má Thảo mấy câu rồi giục Thảo cho xem mặt chó con. Thảo bưng ổ chó ra khoe, Quý hồi hộp đỡ chú chó bé xíu có bộ lông trắng lên nhìn chằm chằm vào nó.
              Đúng là Mi Lu rồi! Không sai đâu được! Bộ lông trắng với một chấm đen nơi cổ rất khác biệt… Quý trào nước mắt:
              - Mi Lu! Mi Lu đã trở về…
              Thảo ngạc nhiên:
              - Anh sao vậy anh Quý? Anh vừa nói gì?
              Quý nhoẻn cười:
              - Không, tại anh thấy chú chó này giống con Mi Lu trước kia của anh quá nên anh xúc động vậy thôi. Em nói ba để con này cho anh nhé!
              Thảo gật đầu bưng ổ chó để lại trong buồng, Quý nhìn theo vẻ đầy lưu luyến.
              - Nãy giờ chấm được con nào chưa? Xong rồi thì ra đây uống trà với chú, Quý ơi!
              Nghe tiếng chú Hai, Quý dạ lớn rồi vội vã ra sân, lòng quý giờ phút này ngập tràn hạnh phúc.
              Ánh trăng sáng vằng vặc khiến khung cảnh trở nên đẹp một cách huyền ảo. Những tán lá cây khe khẽ rì rào như đang thủ thỉ cùng nhau muôn ngàn tâm sự.
              Uống hết một bình trà, chú Hai từ tốn nghiêng bình thủy rót thêm ra. Chú cầm ly trà lên trầm ngâm nói:
              - Cuộc sống của cháu bây giờ đã ổn định rồi, cháu có nghĩ tới việc cưới vợ chưa?
              Quý bối rối:
              - Dạ… cháu…
              Thấy Quý ngắc ngứ, chú Hai di thẳng luôn vào vấn đề:
              - Từ lâu nay chú luôn quý mến cháu, chú có ý muốn cháu về làm rể nhà chú, nhưng chú đã mở lời nhiều lần mà vẫn không thấy cháu có thái độ gì. Vì vậy hôm nay chú muốn hỏi thẳng cháu. Kể ra làm vậy thì cũng có hơi kỳ cục, nhưng cháu biết tánh chú rồi đó, chú rất thật tình, ăn nói thì huỵch toẹt không có gì phải giấu giếm. Chú muốn cháu trả lời thật lòng mình, cháu có tình cảm với con Thảo nhà chú không?
              Quý im lặng một chút rồi mạnh dạn nói:
              - Dạ thưa chú, từ ngày về đây, cháu luôn được chú thím và em Thảo hết lòng giúp đỡ nên cháu mới có được ngày nay. Quả thật lòng cháu rất cảm kích. Rồi sau một thời gian tiếp xúc với Thảo, cháu nhận thấy ở cô ấy có nhiều điều đáng quý, đáng trân trọng. Cháu đã cảm mến Thảo từ rất lâu rồi nhưng cháu chưa dám ngỏ lời vì… vì cháu ngại mình không xứng đáng với Thảo.
              Nghe Quý nói tới đó, chú Hai cười hà hà:
              - Có gì mà xứng với không xứng hả cháu? Chú chỉ sợ cháu chê con Thảo nhà chú quê mùa, đen đúa. Nếu cháu không chê nó là tốt rồi. Tuy bây giờ gia cảnh của cháu có phần hơi sa sút, nhưng điều đó đâu có can hệ gì, con người ta sống với nhau trên đời quan trọng là cái tình, phải không cháu?
              Quý gật đầu:
              - Dạ, nếu chú thím và em Thảo không chê cháu thì ngay ngày mai, cháu sẽ nhờ thím Dự bước tới chính thức ngỏ lời hỏi cưới em Thảo cho cháu, được không chú?
              Chú Hai vỗ mạnh vào vai Quý:
              - Được! Được quá đi chứ! Lâu nay thấy con Thảo quyến luyến cháu, chú chỉ sợ cháu không thương thì tội cho nó, nay biết được tình ý của hai đứa rồi thì chú thím sẵn sàng tác hợp ngay. Chú thím cũng không cần lễ vật hay tiệc tùng rình rang gì đâu, chú chỉ cần hai đứa thương yêu nhau, biết lo lắng cho nhau là được rồi.
              - Dạ, cháu cảm ơn chú thím đã thương mà nghĩ cho cháu. Nhưng… biết em Thảo có đồng ý…
              Quý lo lắng.
              Chú Hai cất tiếng gọi lớn:
              - Thảo à, Thảo! Ra đây ba hỏi chút con.
              Thảo “dạ” rồi đi ra sân, trên tay bưng dĩa bắp vừa mới luộc xong.
              Đặt dĩa bắp xuống giữa chiếu, Thảo lên tiếng:
              - Con mời ba, mời anh Quý ăn bắp.
              Chú Hai nhìn con gái gật gù:
              - Ừ, để đó cho ba. Con ngồi xuống đây, ngồi xuống cho ba hỏi chuyện này!
              - Chuyện gì vậy ba?
              Thảo ngồi sát bên cạnh cha, ngạc nhiên hỏi
              Chú Hai nhìn Quý rồi nhìn Thảo, chậm rãi nói:
              - Anh Quý con vừa nói với ba là nó thương con, muốn bước tới hỏi cưới con đó! Ý con thì sao, con có bằng lòng không thì nói cho ba và anh Quý con biết.
              Thảo thẹn cứng người, đứng lên vùng vằng nói:
              - Ba… ba kỳ quá đi!
              Nói xong Thảo chạy vụt vào nhà.
              Chú Hai và Quý nhìn theo cùng nở nụ cười sung sướng.

              ***
              ĐaÙm cưới của Quý và Thảo được tổ chức sau đó không lâu, hình thức đơn sơ nhưng không kém phần long trọng.
              Bà con chòm xóm quanh đó ai cũng đều khen cặp vợ chồng rất xứng lứa vừa đôi.
              Ngày hôn lễ, vợ chồng chú Dự được mời ngồi ở ghế thông gia. Thím Dự cảm động không cầm được nước mắt. Chú Dự cũng xúc động lắm nhưng suốt buổi không nói gì.
              Mãi tới khi khách khứa về hết, chú Dự cho gọi Quý lên rồi ra hiệu cho thím Dự lấy một chiếc hộp nhỏ trong túi áo chú đặt lên bàn.
              Bằng những câu ngọng nghịu khó khăn, chú Dự muôn trao toàn bộ giấy tờ của mấy mẫu đất lại cho Quý. Khi thấy Quý từ chối, thím Dự khóc lóc van xin:
              - Nếu cháu thật sự tha lỗi cho chú thím thì thím xin cháu hãy nhận lại số giấy tờ này. Đây là những gì hoàn toàn thuộc về cháu, cháu nhận lại là lẽ đương nhiên…
              - Nhưng… cháu vẫn chưa kiếm đủ số tiền để trả lại cho chú thím
              Nghe Quý nói câu ấy, chú Dự chảy nước mắt, nói câu gì đó mà Quý không nghe rõ.
              Thím Dự cúi mặt nói nhỏ:
              - Từ lâu nay, chú thím vẫn biết cháu đã rất rõ những việc làm không phải của chú. Vậy mà cháu vẫn luôn kính trọng chú thím, chính điều đó đã làm chú Dự của cháu thức tỉnh. Bây giờ chú thím cũng không biết nói gì ngoài việc xin cháu tha thứ… Cháu nhận lại giấy tờ này, có như vậy chú con mới được nhẹ lòng đôi chút, chứ nếu không… chắc tới lúc chết, chú thím đây cũng không nhắm mắt được…
              Trước những lời lẽ đầy thuyết phục của thím Dự và thái độ cầu khẩn thảm thương của người chú, Quý không thể chối từ.
              Từ đó, mối quan hệ giữa nhà càng thêm khắn khít.
              Số vàng ông bà Hai Phát chôn dưới gầm giường theo lời Mi Lan chỉ dẫn không biết hư thực thế nào, vì Quý không một lần nhắc tới. Nhưng cuộc sống của vợ chồng Quý thì đáng để cho bao người mơ ước.
              Hai vợ chồng luôn quấn quýt bên nhau, khi ngoài đồng, lúc ở mảnh vườn con, khi thảnh thơi cũng như lúc bộn bề công việc.
              Bên cạnh hai vợ chồng son còn có một nhân vật thứ ba xuất hiện trong gia đình: đó là chú con liếng thoắng.
              Quý đã trải qua những ngày bơ vơ đói khổ, trải qua bao cảnh thăng trầm nên cuộc sống hôm nay Quý vô cùng trân trọng.
              Ngôi nhà không vắng tiếng cười đùa.
              - Mi Lu, đừng có lôi đất cát vào nhà, mẹ sẽ không bằng lòng đâu! Coi chừng mẹ sẽ đánh đòn con đấy! Mẹ bỏ đói con đấy!
              Quý ôm chú chó nhỏ vào lòng, vừa nói vừa liếc nhìn Thảo.
              - Ba con nói xấu mẹ phải không Mi Lu? Mẹ không bỏ đói con đâu, mẹ chỉ bỏ đói ba thôi, con đồng ý không?
              Mi Lu chuồi ra khỏi tay Quý, chạy lăng xăng quanh chân Thảo. Quý giả bộ ôm đầu:
              - Trời ơi, đến con cũng không thèm bênh vực ba sao? Con nghe mẹ hăm dọa bỏ đói ba là con ủng hộ liền vậy sao?
              Mi Lu chạy trở lại bên cạnh Quý, chồm hai chân trước bám đầy đất cát lên ngực áo Quý làm cả hai vợ chồng bật cười vui vẻ.
              Chú thím Hai ở nhà bên cạnh, lắng nghe tiếng cười đùa vọng sang, hai ông bà nhìn nhau tràn đầy hạnh phúc.
              Hết
              Nguyễn Thị Mộng Thu
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:46:24 bởi nguyenthu >
              #82
                nguyenthu 10.08.2009 22:22:11 (permalink)
                TRÒ CHƠI SINH TỬ
                 
                - Em chờ anh có lâu không?
                Mai giật mình ngoảnh lại sau lưng, Khoa đã đứng đó từ lúc nào. Vậy mà nãy giờ cô cứ dõi mắt nhìn hút về phía đầu làng để trông ngóng.
                - Bắt đền anh đó! Làm người ta chờ muốn… rụng cẳng luôn!
                Mai giận dỗi.
                Khoa ôm lấy Mai dỗ dành:
                - Thôi, cho anh xin lỗi, đừng giận anh nữa nhe em! Con gái mà giận hoài mặt mày xấu lắm đó, lại mau già nữa…
                Mai hất tay Khoa:
                - Kệ tui! Tui biết tui quê mùa xấu xí, quần thô áo vải, anh đi mà tìm mấy cô mắt xanh môi đỏ má hồng đi!
                Khoa cười xòa, nắm chặt tay người yêu:
                - Coi em kìa, anh tới trễ có một chút, làm gì hờn trách dữ vậy?
                Mai ngước nhìn Khoa, cặp mắt đỏ hoe:
                - Anh có biết em mong anh biết chừng nào hôn? Suốt cả ngày nay em cứ bồn chồn, thấp thỏm, chỉ mong trời mau tối để được gặp anh. Vậy mà anh lại để em đứng đây cả buổi. Ngày mai anh đi rồi, mình không còn bao nhiêu thời gian để ở bên nhau, em chắt chiu từng chút, còn anh… anh thì không biết trân trọng gì hết…
                Khoa kéo Mai sát lại gần mình:
                - Anh biết chứ! Anh cũng mong từng giây từng phút để được gặp em, chỉ tại lúc nãy má sai anh đi công chuyện gấp, anh chạy muốn hụt hơi luôn mà em không thương, còn ở đó giận dỗi! Em xem nè, mồ hôi ướt áo anh luôn rồi nè!
                Vừa nói, Khoa vừa kéo tay Mai vòng ra sau lưng mình. Quả thật, lưng áo Khoa ướt đẫm, bao nhiêu hờn giận, trách cứ trong lòng Mai trôi tuột một cách nhanh đến không ngờ. Cô âu yếm:
                - Thôi… em xin lỗi! Tại em chờ lâu quá nên mới giận anh, tưởng anh không mong muốn gặp em, chứ một khi hiểu lòng anh rồi thì em không giận nữa!
                Khoa đỡ Mai ngồi xuống bờ cỏ ven đường, vuốt ve mái tóc dài óng mượt của cô:
                - Em không được nghĩ như vậy nữa nhé! Mình sắp xa nhau rồi, em phải tin tưởng ở tình yêu mà anh dành cho em chứ! Hễ mỗi chút mỗi nghi ngờ giận dỗi thì làm sao tình cảm của mình tròn vẹn được. Nhất là những lúc không được ở gần nhau, nếu em cứ mãi suy nghĩ vu vơ rồi buồn bã trách hờn, làm sao anh có thể dỗ dành em được…
                Mai biết lỗi, dụi đầu vào ngực Khoa nũng nịu:
                - Em biết em sai rồi, anh đừng la em nữa mà! Em hứa với anh, từ hôm nay em sẽ tuyệt đối tin tưởng vào anh. “Dù ai nói ngã nói nghiêng, lòng em vẫn vững như kiềng ba chân” há, anh chịu chưa?
                Khoa cúi xuống đặt một nụ hôn lên má người yêu:
                - Ừ, vậy phải ngoan hông! Vậy anh thương nhiều!
                Mai ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt Khoa:
                - Nhưng mà… anh cũng phải hứa với em một điều!
                - Điều gì? Em nói đi!
                Khoa lại cúi xuống, hôn tới tấp lên gương mặt sáng rỡ của Mai. Mai xô Khoa ra, nghiêm giọng:
                - Anh khoan tham lam như vậy, anh nghe em nói nè! Anh phải hứa, ngoài em ra anh không được để ý, không được có tình cảm với bất kỳ người con gái nào khác…
                Khoa cũng làm mặt nghiêm hỏi lại:
                - Với con gái thì không, nhưng với đàn bà chắc được phải không em?
                Mai nhéo một phát thật mạnh vào tay Khoa:
                - Lúc nào anh cũng giỡn được hết á! Em đang nói chuyện nghiêm túc mà! Đàn bà con gái gì cũng không hết, anh có chịu hứa với em không?
                Khoa vừa xuýt xoa vừa cười:
                - Cả làng này đều nói em hiền lành, thùy mị… Họ lầm hết rồi, em hung dữ y như sư tử Hà Đông vậy, lại còn ghen hơn cả Hoạn Thư nữa mới chết anh chớ!
                Mai rân rấn nước mắt:
                - Em hông có giỡn đâu… Em đang buồn thúi ruột nè…
                Khoa thôi không cười nữa, anh đứng thẳng người, giơ một tay lên đầu vẻ long trọng:
                - Con tên Trương Thái Khoa, năm nay con vừa đúng hai mươi tuổi, con xin thề có đất trời và vầng trăng kia chứng giám, suốt cuộc đời này của con, con nguyện yêu thương chỉ một mình Mai. Sau này khi tốt nghiệp ra trường, công thành danh toại, con sẽ cưới Mai về làm vợ. Nếu con thay lòng đổi dạ mà phụ bạc, ruồng rẫy Mai con xin được đất trời đem con ra xử bắn…
                Vừa nghe Khoa nói tới đó, Mai hoảng hốt nhổm dậy bịt chặt miệng Khoa, lo sợ:
                - Em không muốn anh thề độc như vậy đâu, em chỉ muốn anh hứa với em thôi mà! Anh thề độc địa vậy, lỡ sau này có chuyện gì…
                Khoa cười xòa, đỡ Mai ngồi xuống:
                - Em đừng lo, đó là những lời thật sự trong lòng anh, sẽ không bao giờ thay đổi, thì dù có thề độc hơn nữa anh cũng không sợ…
                Mai ôm chầm lấy Khoa, nước mắt ràn rụa.
                - Làm sao anh có thể thay lòng đổi dạ mà bỏ rơi em được hở Mai? Giữa chúng ta ngoài tình yêu mặn nồng còn có ân tình sâu đậm của em. Nếu không có em thì làm sao anh có thể tiếp tục ăn học, và nếu không có em thì ngày mai này làm sao anh có đủ khả năng để bước chân vào giảng đường Đại học?
                Mai lắc đầu:
                - Anh đừng nghĩ tới chuyện đó! Em yêu anh, được lo lắng cho anh là niềm vui, là hạnh phúc của em, em xin anh đừng bao giờ nói tới hai tiếng ân nghĩa!
                Bàn tay Khoa mơn man trên má Mai, giọng bâng khuâng da diết:
                - Con gái thời nay hễ có chút nhan sắc là nhắm đến các đại gia nhiều tiền lắm của, nhắm đến các anh chàng Việt kiều béo tốt rủng rỉnh đô la. Vậy mà em, một khoa khôi của vùng này, em lại không chê anh là một thằng học trò nghèo kiết xác, cơm không đủ no, áo không đủ mặc. Em thương anh, em không quản ngại nắng sương, tần tảo sớm hôm lo cho anh đủ mọi phương diện. Em giống như nàng Quỳnh Nga miệt mài bên khung cửi để kiếm tiền lo cho Trần Minh ăn học vậy…
                Mai khẽ cười trong màn lệ:
                - Em chỉ mong sao anh cũng giống như Trần Minh, đừng bao giờ tham sang phụ khó, được như vậy thì dù có vất vả hơn nữa em cũng cam tâm.
                Khoa siết chặt Mai vào lòng, bồi hồi rung động.
                Ánh trăng trãi rộng trên khắp cánh đồng lúa đang vào thời ngậm sữa, gió đêm nhè nhẹ thổi khiến cánh đồng như một mặt biển xanh lăn tăn gợn sóng. Từng làn sóng lúa nhấp nhô, phả vào không gian một mùi hương đằm thắm trong lành.
                Thứ ánh sáng huyền hoặc đêm trăng càng làm nổi bật những đường nét thanh mảnh, đáng yêu và rất gợi tình của người con gái đẹp.
                Ôm Mai trong vòng tay, cảm nhận được hơi ấm và mùi hương trinh nữ dịu dàng toát ra từ thân thể của người mình yêu, bỗng dưng lòng Khoa dâng lên một niềm khát khao cháy bỏng.
                Anh cúi thấp xuống hôn lên mắt lên môi Mai những nụ hôn rừng rực lửa đam mê. Mai nhắm mắt tận hưởng niềm hạnh phúc ngút ngàn mà chỉ sáng mai thôi cô phải tạm thời xa vắng.
                Từ khi quen biết rồi yêu thương nhau, Mai và Khoa chưa từng xa cách một ngày. Tuy không phải hai người mỗi ngày đều hẹn hò gặp gỡ, nhưng cả Mai và Khoa đều vững lòng vì luôn biết người mình yêu đang làm gì, và đang ở rất gần mình, chỉ cần đi qua một đoạn đường ngắn là có thể thấy mặt rồi.
                Nhưng ngày mai… Ngày mai Khoa lên Sài Gòn nhập học. Sài Gòn với nơi đây chỉ cách nhau chưa tới hai trăm cây số, trong thời buổi xe cộ dập dìu như hiện nay có thể khoảng cách đó không phải là lớn. Nhưng bỗng nhiên Mai có cảm giác như cách trở nghìn trùng, xa xôi diệu vợi…
                Rồi đây mỗi ngày Mai không thể nào biết được Khoa đang làm gì, đang ở đâu, mạnh khỏe thế nào đau ốm ra sao Mai cũng không biết được.
                Người ta thường nói câu “xa mặt cách lòng”, ngày mai xa mặt rồi, chỉ xin lòng đừng cách!
                Biết bao nhiêu cuốn tiểu thuyết, biết bao nhiêu vở cải lương đã nói tới chuyện người con trai lên Sài Gòn ăn học, rồi khi thành đạt lại phụ rẫy người yêu ở chốn quê mùa. Mai lo sợ mình cũng phải bước vào con đường đau thương đó. Một nỗi lo sợ đến mức hãi hùng làm cho Mai suốt từ hôm biết Khoa có giấy gọi nhập học đã ăn ngủ không yên, tinh thần chao đảo.
                Có lúc Mai muốn Khoa bỏ tất cả, đừng thèm tới bằng cấp, đừng thèm tới dang vọng làm gì, hãy cứ ở lại đây, cùng nhau xây dựng một mái nhà hạnh phúc. Trong mái nhà ấy có người vợ hết mực chìu chồng và những đứa con ngoan ngoãn, xinh tươi; trong mái nhà ấy có người chồng biết yêu thương vợ, biết đem lại tiếng cười giòn giã cho vợ cho con.
                Viễn cảnh đó thật đẹp biết bao và Mai chỉ cần có vậy. Nhưng cô không dám mở lời với Khoa, vì Mai biết với người đàn ông thì sự nghiệp luôn được đặt ở hàng đầu, nhất là với Khoa.
                Nhà Khoa nghèo nhất làng. Cha theo người ta đi tàu đánh cá, không may gặp cơn bão lớn đã vĩnh viễn không về từ sáu năm trước. Từ lúc ấy mẹ Khoa trở nên ngớ ngẩn, không còn biết tính toán làm ăn gì.
                Nhà có mấy sào ruộng, Khoa phải đem cho người ta thuê để lấy lúa ăn hàng năm và nhín nhút tiền ăn học.
                Khoa học rất giỏi, vì vậy năm nào cũng được nhận học bỗng và vì hoàn cảnh khó khăn như thế nên được nhà trường miễn giảm nhiều khoản tiền. Tuy nhiên, cuộc sống của hai mẹ con Khoa luôn thiếu trước hụt sau. Bởi vì cuộc sống đâu chỉ có ăn cơm trắng và việc học hành đâu chỉ có các khoản lệ phí ở trường.
                Thi thoảng mẹ Khoa cũng kiếm được chút ít khi những người trong làng thuê làm một vài việc lặt vặt nào đó. Khoa cũng vậy, tranh thủ những ngày hè, ngày nghỉ, ai mướn làm gì Khoa cũng làm. Nhưng thu nhập của cả hai mẹ con không được bao nhiêu lại bấp bênh như thế nên đã nhiều lần Khoa suýt bỏ học nửa chừng.
                Yêu thương và nể phục sự phấn đấu vươn lên của Khoa, Mai không ngần ngại những lời đàm tiếu. Cô buôn bảo bán tần, tiện tặn từng đồng để dành dụm lo cho Khoa.
                Mai mồ côi từ nhỏ, sống với bà ngoại già nua ốm yếu. Với mấy sào ruộng và sạp hàng nhỏ ngoài chợ xã cuộc sống của hai bà cháu Mai cũng tương đối dễ chịu. Nhưng từ khi yêu Khoa, gánh nặng trên vai Mai ngày một trĩu xuống. Mai lo cho Khoa ăn học, lo cho mẹ Khoa những lúc bà ốm đau…
                Dân làng không ít người chê bai, họ cho là Mai ngu dại. Vì tuy là con nhà nghèo, không được ăn học tới nơi tới chốn nhưng nhan sắc Mai lại nổi bật, tính nết lại không chê vào đâu được. Đã có không ít đám khá giả ngắm nghé, Mai chỉ cười và lắc đầu. Mới hồi năm ngoái, bà Năm xóm trên cậy người đánh tiếng hỏi Mai cho cháu bà, là một Việt kiều Mỹ, ở bên đó có cả một nhà hàng sang trọng hẳn hoi nhưng Mai vẫn một lòng yêu Khoa không hề chao đảo.
                Bỏ ngoài tai những lời gièm pha, chê trách, Mai dành trọn cho Khoa một tấm chân tình.
                Khoa thường tâm sự với Mai rằng anh sẽ cố gắng vươn lên để thoát khỏi kiếp đời nghèo khó. Anh sẽ đem lại cho Mai một cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc. Khoa sẽ khẳng định được vị trí của mình trong xã hội bằng chính con đường học vấn của anh.
                Vậy thì làm sao Mai có thể khuyên Khoa bỏ tất cả để ở lại đây với cô? Mai tự thẹn vì sự ích kỷ quá đáng của mình. Một khi đã yêu Khoa, đã nâng đỡ Khoa đi trên con đường học vấn đó mấy năm nay, thì sao bây giờ khi đã sắp đến đích Mai lại nhẫn tâm bắt anh dừng lại? Yêu là phải biết hy sinh! Mai dặn lòng mình trăm ngàn lần như vậy.
                - Em nghĩ gì mà thẫn thờ ra vậy?
                Khoa hỏi.
                Mai áp bàn tay Khoa lên má mình:
                - Em nghĩ tới lúc phải xa anh, chắc em sẽ nhớ anh không chịu nổi! Anh có biết là… em yêu anh nhiều lắm không?
                Bàn tay Khoa vuốt từ mặt xuống tới cổ rồi từ từ đi dần xuống, anh hổn hển nói:
                - Mai, anh biết… anh biết chứ! Anh cũng rất yêu em…
                Những chiếc nút áo của Mai lần lần được Khoa mở hết, phô bày dưới ánh trăng đôi gò bồng đảo căng tràn sức sống tuổi thanh xuân.
                Ngọn lửa khát khao bùng dậy, Khoa không dừng lại ở đó như những lần trước, bàn tay tham lam vội vã của Khoa hấp tấp tiến xa hơn nữa. Mai run rẩy níu tay người yêu lại:
                - Anh… đừng anh…!
                Khoa như kẻ mê man:
                - Mai, anh van em… Anh yêu em lắm! Em đừng từ chối nữa… Ngày mai anh đi rồi, em không muốn cho anh vui trọn đêm nay sao?
                Mai chống trả yếu ớt:
                - Em… em sợ…
                - Em sợ gì? Chúng mình rồi sẽ thành chồng thành vợ… Em không tin anh sao?
                Hơi thở hổn hển và cơ thể nóng rực của Khoa đè bẹp sức kháng cự mong manh nơi người con gái. Những nụ hôn vội vã, tham lam đi vào vùng trái cấm đã làm Mai như tê liệt, cô không còn sức để chống đối, mà thật sự lúc này đây cô cũng không muốn chống đối nữa.

                Vòng tay Mai cũng ôm siết lấy Khoa, họ cùng đưa nhau đến cõi thiên đường…
                Trên bầu trời, vầng trăng mười sáu lên cao rắc vàng lóng lánh. Ánh trăng bàng bạc xuyên qua kẽ lá, nhảy múa rung rinh trên khắp các cành cây. Gió nhẹ thổi. Đêm yên tĩnh quá. Ở phía xa xa, xóm làng đã đi vào giấc ngủ, nhưng nơi đây vẫn còn lại tiếng thầm thì của hai người trẻ tuổi yêu nhau…
                 
                ***
                - Anh Khoa ơi, em mệt quá rồi! Cho em nghỉ một tí đi!
                Thắm gục mặt xuống bàn, nhõng nhẽo.
                Khoa nghiêm giọng:
                - Không được! Em phải học cho hết bài này thì mới được nghỉ. Mấy hôm nay anh thấy em lười quá đó nghen, chút nữa hai bác về anh méc đó!
                - Thầy gì mà khó tính thấy sợ à! Hổng biết thương, biết cưng học trò gì hết! Anh hành hạ em, bắt em học hoài, em… chết cho anh coi!
                Khoa phì cười trước thái độ trẻ con của Thắm:
                - Thôi được rồi, anh thua em đó! Cho em nghỉ đúng năm phút thôi nhe! Đúng năm phút sau phải học hành nghiêm túc nhé!
                Thắm ngồi bật dậy cười tươi:
                - Ok! Như vậy có phải dễ thương hông!
                Khoa kéo ghế ngồi xuống cạnh bên Thắm, mắt chăm chú nhìn vào quyển sách dày cộm để trên bàn.
                - Mệt anh quá đi, cứ tối ngày chúi đầu vô sách vở! Dẹp đi, dẹp hết đi, nói chuyện với em nè!
                Thắm vừa nói vừa gấp quyển sách lại rồi đẩy ra xa.
                Khoa nhìn Thắm lắc đầu:
                - Em thiệt là… Em lười biếng rồi cũng muốn người khác lười biếng theo nữa hay sao?
                Thắm chu môi nũng nịu:
                - Tại vì bây giờ em muốn nói chuyện với anh!
                - Chuyện gì vậy cô nương?
                Khoa hỏi.
                Thắm nhìn Khoa vẻ lí lắc:
                - Anh Khoa có vợ dưới quê chưa?
                - Em hỏi chi vậy? Bộ tính làm mai cho anh hả?
                Khoa cười cười hỏi lại.
                Thắm nghiêng người ra xa để ngắm Khoa một lúc rồi nói:
                - Anh Khoa đẹp trai nè, học giỏi nè, chắc có nhiều cô thương lắm há? Anh kể chuyện tình yêu của anh cho Thắm nghe đi…
                Khoa cười lớn:
                - Anh đã yêu bao giờ mà kể?
                - Xạo, em hông tin đâu!
                - Anh nói thiệt đó, không phải xạo với em đâu. Nhà anh nghèo quá, đâu cô nào dám thương.
                Thắm nheo mắt:
                - Nếu như người ta thương anh, anh có từ chối không?
                - Trời, được người ta thương anh mừng không hết, sao lại từ chối hả em? Nhưng mà em ơi, hổng ai thèm thương anh đâu…
                Khoa làm ra vẻ khổ sở.
                Thắm chợt trở nên bối rối:
                - Mà em hỏi thiệt, ở dưới quê anh đã có người yêu chưa?
                Khoa làm mặt giận:
                - Anh nói rồi, em không tin thì thôi! Em hỏi bao nhiêu lần anh cũng chỉ trả lời một câu đó!
                Thắm nhoẻn cười:
                - Em tin rồi! Em không hỏi nữa đâu…
                - Ủa, mà em hỏi chi vậy? Bộ tính làm mai cho anh thiệt hả? Ai vậy? Nói cho anh biết được hôn?
                Khoa kề sát vào mặt Thắm hỏi nhỏ.
                Hai gò má Thắm đỏ hồng lên, cô quay ngoắt về phía khác đánh trống lảng:
                - Hết năm phút rồi thầy ơi!
                - Trời, không ngờ học trò siêng bất tử như vậy!
                Khoa cười lớn rồi đứng lên giảng tiếp bài học dở dang, nhưng có lẽ Thắm không tập trung được mấy. Cô vẫn ngồi im ngó thẳng về phía Khoa, nhưng ánh mắt cô lại mơ màng một điều gì khác hẳn.
                Thắm là sinh viên năm thứ nhất cùng trường Đại học với Khoa. Hơn hai tuần nay Khoa được ba mẹ Thắm mời về dạy kèm tiếng Anh cho Thắm tại nhà.
                Hơn bốn năm sống đời sinh viên, đều đặn mỗi tháng Khoa vẫn nhận được tiền từ dưới quê do Mai gởi lên. Đáng lẽ Khoa không cần phải vất vả kiếm chỗ dạy kèm, mà dành toàn bộ thời gian chuyên tâm vào việc học. Nhưng Khoa luôn là người tính toán kỹ càng trong mọi công việc. Khoa muốn đến dạy kèm cho con cái những gia đình giàu có và thế lực, gây cảm tình để còn nhờ vả về sau.
                Ở cái thành phố đầy bon chen này, một đứa quê mùa, không ai quen biết như Khoa thì sau này dễ gì tìm được một chỗ làm như mong muốn. Mà cái sự mong muốn của Khoa lại không hề đơn giản chút nào!
                Tốt nghiệp ra trường, làm một anh kỹ sư quèn thì có gì phải nói! Ước mơ của Khoa cao hơn, lớn hơn rất nhiều. Khoa không muốn mình phải miệt mài phấn đấu để vài ba năm sau mới có thể được cất nhắc lên một chức vụ gì đó be bé, rồi lại phải phấn đấu, phải khom lưng để nhích lên từng bước. Không! Nhất định không như thế! Khoa muốn khi vừa tốt nghiệp anh phải được đặt vào một chiếc ghế thật cao, thật vững vàng để có thể thoải mái ngồi đó quan sát đám “quần thần” kẻ cúi người khom bên dưới. Phải như thế! Cái tham vọng đó đã được Khoa dưỡng nuôi từ thời còn học phổ thông. Đến hôm nay, khi đã hòa mình vào nhịp sống sôi động của cái thành phố đông đúc này, được tận mắt chứng kiến sự chênh lệch rõ ràng giữa hai tầng lớp nghèo và giàu thì tham vọng đó càng thêm lớn mạnh.
                “Cuộc đời là bể cả, ai không bơi sẽ chìm”, đó là câu danh ngôn mà Khoa luôn tâm niệm. Khoa đã và đang bơi, Khoa nhứt định phải tới bờ bên kia bằng những đường bơi ngắn nhất. Muốn như vậy, phải biết lựa dòng nước mà bơi, phải biết xuôi theo chiều gió, phải biết cưỡi lên đầu những con sóng để được nó trợ lực bơi xa…
                Chính vì những suy nghĩ đó, khi nghe ba mẹ Thắm cần một gia sư dạy tiếng Anh cho con gái, Khoa đã nhanh chóng đến ứng tuyển. Ngay lần gặp mặt đầu tiên, nhìn dáng vẻ hiền lành thanh lịch của Khoa, cộng với bảng thành tích học tập đáng để nhiều người nể phục, ba mẹ Thắm đã rất hài lòng.
                Ba của Thắm là một quan chức khá lớn trong ngành Viễn thông, ngành mà Khoa đang theo học. Mẹ Thắm cũng giữ một chức vụ không nhỏ ở một Ngân hàng.
                Lúc mới tới đây, mục đích của Khoa là tạo lập mối quan hệ để khi ra trường có ngay người đỡ đầu, cất nhắc. Nhưng chỉ mấy ngày sau, Khoa khám phá Thắm là đứa con gái duy nhất của hai ông bà, lại chưa từng có người yêu, thế là ngay lập tức Khoa đổi mục tiêu, không còn nhắm vào hai ông bà nữa mà là nhắm vào cô con gái rượu của hai người.
                Từ hôm đó, Khoa cảm thấy như mình đang tiến đến gần, rất gần một địa vị mà nếu vuột qua cơ hội này, có lẽ phấn đấu cả đời cũng không làm sao đạt tới.
                Mỗi ngày, Khoa luôn cố gắng hết sức mình để giảng dạy cho Thắm tiến bộ một cách nhanh nhất. Mà quả thật Thắm tiến bộ rất nhanh, khiến ông Hòa ba Thắm cũng không khỏi ngạc nhiên và khâm phục chàng sinh viên tỉnh lẻ.
                Mới dạy hơn hai tuần mà tình cảm giữa Khoa và Thắm đã trở nên khắn khít. Nói đúng hơn là Thắm đã dành cho Khoa một thứ tình cảm lớn hơn tình nghĩa thầy trò, anh em. Trước mắt mọi người trong nhà Thắm, Khoa luôn là một người thầy tận tụy, đứng đắn. Chưa bao giờ Khoa buông lời trêu ghẹo hay bóng gió xa xôi gì với Thắm. Khoa đến dạy rất đúng giờ và thường về trễ hơn vì phải ở lại hướng dẫn giúp Thắm những bài học trên giảng đường mà cô không theo kịp.
                Ông bà Hòa thường nói với nhau là may mắn lắm mới tìm được một thanh niên như Khoa về dạy cho con gái.
                Riêng Thắm, sự ngưỡng mộ mà cô dành cho Khoa còn vượt trội hơn cha mẹ nhiều lần. Trong mắt cô, Khoa vừa đẹp trai, vừa tài giỏi, vừa lịch sự đàng hoàng. Nói chung, Khoa là mẫu người mà cô luôn mơ ước.
                Thắm không thuộc loại phụ nữ đẹp nhưng rất dễ thương và có duyên ăn nói. Nhưng cái ưu điểm nổi bật ở Thắm khiến cho lắm anh chàng đeo đuổi chính là “nhà mặt phố, bố làm to”. Thắm cũng thừa biết điều đó, nên trong chuyện tình cảm cô rất dè dặt. Suốt những năm học phổ thông rồi cả khi vào Đại học, trái tim Thắm vẫn chưa một lần mở ngõ để đón chàng trai nào. Nhưng từ ngày gặp Khoa, tim cô đã bắt đầu hé mở.
                Điều làm Thắm nể phục nhất ở Khoa chính là nhân cách của anh. Thắm xác định Khoa là một người vô cùng đứng đắn, vì đã mấy lần, Thắm cố tình tỏ ý lả lơi để xem thái độ Khoa phản ứng thế nào, nhưng tuyệt nhiên anh không hề lợi dụng điều đó như đa số những thanh niên khác mà Thắm từng nghe kể đến.
                Sáng nào Thắm cũng nấn ná ở cổng trường để chờ thấy Khoa một chút. Có khi Khoa không có giờ học, Thắm lại thấy sân trường hôm đó thật vắng vẻ đìu hiu.
                Về nhà là Thắm trông mong tới giờ học, học xong lần nào Thắm cũng viện cớ không hiểu bài này bài khác để nhờ Khoa chỉ giúp.
                Nhiều khi Thắm muốn mở lời xin ba mẹ cho Khoa tới ở ngay tại nhà mình để tiện giúp Thắm trong việc học, nhưng Thắm chỉ nghĩ vậy thôi chứ không dám nói.
                Thắm biết mình đã yêu Khoa rồi, cô chỉ lo Khoa đã có người khác trong tim. Vì thế cô đã cố tình dò xét, tìm hiểu những bạn bè ở trường và được biết, ngoài giờ học, Khoa lại chúi đầu vào nghiên cứu, đọc sách vở, nên ngoài những giao tiếp thông thường, Khoa không hề có một mối liên hệ thân thiết nào với bạn gái.
                Thông tin đó làm Thắm vui lắm, hôm nay cô hỏi thẳng Khoa về chuyện người yêu ở quê là muốn cho mình càng thêm vững bụng mà nuôi dưỡng tình yêu đó.
                - Ủa, hết giờ rồi mà hai đứa còn học sao?
                Ông Hòa cười tươi khi cùng vợ bước vô nhà.
                Khoa đứng lên lễ phép cúi chào:
                - Dạ, tại bài hôm nay hơi khó, cháu phải nói kỹ hơn chút ạ!
                Bà Hoa hài lòng, mỉm cười nhìn con gái:
                - Hiểu bài chưa con? Ráng tập trung học đừng để anh Khoa vất vả quá đó nghe không?
                Thắm dỗi:
                - Mẹ làm như con tối dạ lắm không bằng! Anh Khoa chỉ cần dạy sơ qua một lần là con hiểu liền! Nhưng mà phải công nhận, anh Khoa hợp với nghề sư phạm ghê đó, ảnh giảng bài rất hay, nghe không chán như mấy ông thầy ở trường.
                Ông Hòa gật gù:
                - Con nói cũng đúng lắm!
                Rồi quay sang Khoa ông nói tiếp:
                - Vợ chồng tôi mang ơn cậu lắm đó! Con Thắm nhà tôi bao năm nay học môn gì cũng khá giỏi, chỉ riêng môn ngoại ngữ là cứ lết bết đi sau thiên hạ. Hồi còn học phổ thông, tôi đã mời mấy giáo sư có tên tuổi về kèm cho nó, mà học với ai nó cũng kêu chán, kêu học không vô. Bây giờ, cậu mới dạy chưa bao lâu mà nó đã tiến bộ thấy rõ rồi! Chúng tôi sẽ tăng tiền lương cho cậu.
                Khoa mỉm cười hiền hậu:
                - Dạ thưa bác, hai bác đừng nghĩ tới chuyện đó, cháu chỉ là làm tốt nhiệm vụ của mình, việc tiến bộ là hoàn toàn do ở nơi Thắm. Có thể trước đây vì còn nhỏ, Thắm chưa ý thức hết nên mới không thích học. Cháu không dám nhận thêm đâu ạ!
                Bà Hòa nghe những lời khiêm tốn của Khoa càng thêm hài lòng, bà cười rạng rỡ:
                - Cháu nói vậy sao được, dù thế nào hai bác đây cũng phải thưởng công cho cháu chứ! Hợp đồng về dạy tiếng Anh thôi, mà cháu lại phải chỉ dẫn cho Thắm đủ các môn khác nữa…
                Khoa cười:
                - Dạ, có gì đâu bác.
                Thắm chạy lại ôm vai mẹ:
                - Con có ý kiến như vầy, ba mẹ mời anh Khoa đi ăn một bữa cho vui đi, ba mẹ đồng ý không?
                Cả hai vợ chồng ông Hòa đều gật đầu. Bà Hòa nhanh nhẩu:
                - Hôm nay cháu có bận gì không? Nếu không hai bác mời cháu đi với gia đình bác ngay bây giờ?
                Khoa từ chối:
                - Dạ, con cảm ơn hai bác, nhưng xin phép hai bác cho con hẹn lại dịp khác, vì hôm nay con còn nhiều bài vở lắm.
                Bà Hòa chép miệng:
                - Tiếc quá! Nhưng nếu cháu bận việc thì hai bác không dám nài ép. Nhưng hôm khác hai bác mời trước, cháu phải sắp xếp nhé, không được từ chối lần nữa đâu đấy!
                - Dạ, cháu hứa ạ!
                Khoa nói xong, xếp lại sách vở trên bàn để chuẩn bị ra về.
                Thắm phụng phịu:
                - Anh Khoa này khó tính lắm mẹ ơi! Ảnh dạy con học mà mời ăn uống gì ảnh cũng từ chối hết á!
                Bà Hòa phật ý, rầy Khoa:
                - Coi cháu kìa, ai lại khách sáo thế? Cháu với con Thắm nhà bác học cùng trường thì đã là bạn bè anh em với nhau rồi, lại thêm có tình thầy trò, đáng lý ra phải thân tình hơn chứ! Hai bác muốn cháu đến đây thật thoải mái, xem như anh em với con Thắm nhà này, đừng giữ thái độ làm khách như vậy, hai bác buồn lòng lắm đó!
                Ông Hòa tiếp lời vợ:
                - Bác gái cháu nói đúng đó! Từ nay tới đây cháu cứ tự nhiên như ở nhà mình, không nên giữ kẻ như vậy nghe không?
                Khoa lúng túng gật đầu:
                - Dạ… cháu cảm ơn hai bác, cháu sẽ nghe theo ạ!
                - Ừ, như vậy mới vui chứ!
                Bà Hòa mỉm cười.
                Thắm nhìn vào mắt Khoa, cười chúm chím:
                - Anh Khoa nhớ đó nghe, từ nay hổng được khách sáo với em nữa à nghen!
                Khoa cười, đứng lên xin phép:
                - Thưa hai bác cháu về! Anh về nhe Thắm!
                - Em đưa anh ra cổng.
                Thắm nhanh nhẩu trả lời rồi đứng lên theo Khoa ra cửa.
                Vợ chồng ông Hòa nhìn theo một lúc rồi nhìn nhau mỉm cười.
                Bà Hòa nói khẽ:
                - Tui chấm thằng đó rồi nghen ông! Được thằng rể như nó là tui yên tâm lắm!
                Ông Hòa trêu vợ:
                - Bà không cần biết thành phần xuất thân của nó sao?
                Bà Hòa cười lớn:
                - Tui đâu phải mấy ông bà già cổ hủ mà đòi hỏi phải môn đăng hộ đối rồi làm khổ con mình. Với lại vợ chồng mình chỉ có mỗi một con Thắm, chẳng lẽ không nuôi nổi nó hay sao mà cần phải kiếm chồng giàu cho nó để nhờ vả?
                Ông Hòa gật gù:
                - Tui cũng đồng ý với bà, nhưng mình cũng cần phải dò xét nó thêm một thời gian nữa bà ạ!
                Bà Hòa liếc xéo chồng:
                - Cái ông này thiệt là… chẳng lẽ tui biểu tụi nó cưới nhau ngay ngày mai hay sao mà ông lo?
                Hai vợ chồng cùng cười vui vẻ rồi dắt tay nhau lên lầu, tình cảm thắm thiết như hồi còn trẻ.
                - Chiều mai anh Khoa có bận gì không?
                Thắm vừa mở cổng, vừa hỏi.
                Khoa đá cái chống xe đạp lên, trả lời:
                - Thì… bốn giờ anh tới đây dạy Thắm.
                - Em muốn hỏi là sau khi dạy em kìa, anh có bận gì không?
                - Chiều mai thì không có việc gấp. Có gì vậy Thắm?
                Khoa thắc mắc.
                Thắm nũng nịu:
                - Em có hai vé xem phim. Anh Khoa đi với em nha, nha! Anh không được từ chối đó, lúc nãy anh vừa mới hứa…
                Thấy Khoa đứng im ra chiều suy nghĩ, Thắm cầm lấy hai tay Khoa lắc mạnh:
                - Đi với em nha anh! Đi đi mà, hứa với em đi…
                - Thôi được rồi, anh đi với em, chịu chưa?
                Khoa cốc nhẹ vào trán Thắm.
                Thắm vui mừng ôm chầm lấy Khoa:
                - Hoan hô anh! Như vậy mới là tốt với em chứ!
                Rồi như nhận ra hành động của mình hơi quá đà, Thắm vội vàng lùi lại, lúng túng.
                Khoa khẽ cười:
                - Thôi anh về nhé! Em vô nhà đi!
                - Dạ, anh về!
                Thắm đáp nhỏ rồi đứng nhìn theo dáng Khoa đạp xe đi một quãng thật xa mới chịu quay vào.
                Khoa nhấn mạnh chân để những vòng quay của bánh xe nhanh hơn nữa, anh vừa đạp xe, vừa huýt sáo vang vang. Lòng Khoa đang ngập tràn niềm hạnh phúc. Bàn chân của Khoa đã sắp đặt vào chỗ danh vọng rồi!
                Vừa ló mặt vô phòng ký túc xá, thằng bạn giường bên nói:
                - Ê, hồi chiều mầy có giấy mời lĩnh tiền đó! Thằng này sướng thiệt, tháng nào gia đình cũng gửi tiền đều đặn, chứ ai như tao, mấy bữa nay ăn mì tôm dài dài rồi mà tiền đâu vẫn không thấy tới.
                - Ừ, để sáng mai tao đi lãnh tiền rồi về cho mầy mượn xài đỡ.
                Khoa đáp lời bạn, nụ cười trên môi tắt ngấm.
                Mối lo lớn nhất trong lòng Khoa lúc này là Mai.
                Thật tình trước đây Khoa rất yêu Mai, anh luôn nghĩ tới ngày được cưới cô về làm vợ. Khoa tự hào mình có được người yêu như thế.
                Nhưng từ khi lên Sài Gòn, được tiếp xúc với nhiều người, nhiều giới, Khoa mới nhận ra tình yêu của mình rất dại khờ.
                Mai tuy đẹp nhưng học hành không bao nhiêu, lại quê mùa chất phác, so với các cô gái quanh đây thì cái đẹp của Mai không còn chút giá trị nào. Nếu cưới Mai, chắc chắn cô sẽ là người vun vén gia đình một cách hoàn hảo, nhưng ngoài việc đó ra Mai còn làm được gì? Mai sẽ không giúp gì được cho Khoa trong sự nghịêp, cũng không thể cùng anh đến các buổi tiệc tùng long trọng. Nếu lỡ ai đó hỏi “Bà xã anh tốt nghịêp Đại học nào?” Khoa biết phải trả lời sao?
                Không! Không thể cưới Mai.
                Nhưng Khoa cũng không thể dứt khoát với Mai được. Mai đã nuôi anh ăn học ròng rã bao nhiêu năm qua. Rồi từ ngày anh lên Sài Gòn, Mai lại phải thay anh chăm sóc người mẹ quanh năm đau ốm của anh. Những ngày mẹ đau nặng, Mai phải thức suốt mấy đêm liền bên giường bệnh, đến khi bà đời cũng một tay Mai lo liệu việc tang ma.
                Từ ngày bà ngoại Mai mất, mỗi lần về thăm nhà Khoa lại sống với Mai như vợ chồng ở chính ngôi nhà nhỏ của Mai, điều đó cả làng hầu như ai cũng biết. Trước mắt dân làng, Khoa và Mai đã là vợ chồng dù thật sự chưa cưới hỏi.
                Khoa không thể dứt khoát với Mai. Nhưng nếu không dứt khoát, thì làm sao Khoa có thể tiến tới với Thắm được? ĐoÙ là điều trăn trở rất lớn trong đầu Khoa suốt hai tuần nay.
                Cái ý nghĩ không cưới Mai đã manh nha trong đầu Khoa từ hồi mới chân ướt chân ráo lên Sài Gòn, nhưng Khoa chưa nghĩ tới chuyện dứt khoát. Dẫu vậy tình cảm cũng vơi đi rất nhiều, Khoa không còn nhớ nhung cháy bỏng như hồi mới xa nhau, những lá thư Khoa viết cho Mai cũng thưa thớt dần, và mỗi khi viết cũng viết qua loa đại khái, với lý do bài vở quá nhiều, không còn thời gian trống. Rồi từ khi mẹ mất, Khoa lại ít về quê. Những lúc gặp nhau, Mai có trách hờn khóc lóc thì Khoa cũng đem hết lý lẽ ra để biện hộ, và bao giờ Mai cũng ngoan ngoãn tin theo.
                Nhưng đến lúc này, Khoa cần phải chấm dứt ngay mối quan hệ với Mai. Nếu lỡ gia đình Thắm biết được thì tất cả mọi cố gắng của Khoa sẽ đem đổ sống đổ biển, tương lai rực sáng của Khoa sẽ tan tành ngay tức khắc.
                Nhưng chấm dứt bằng cách nào thì Khoa chịu, không nghĩ ra được!
                “Trước mắt, mình phải hạn chế tối đa sự liên lạc giữa mình và Mai, rồi sau đó tính tiếp! Không thể để món tiền còm cõi hàng tháng này hủy hoại tương lai mình được!” Cuối cùng Khoa nghĩ vậy.
                Khoa vội vã lấy giấy bút viết cho Mai một bức thư. Sau những câu thăm hỏi xã giao, Khoa chốt lại: “Hiện nay anh đã đi dạy kèm cho người ta nên đủ tiền sinh hoạt rồi, em đừng gởi gì lên cho anh nữa nhé!”
                Viết xong mấy dòng ngắn ngủi, Khoa cẩn thận bỏ vào phong bì dán lại rồi khoan khoái chui vô mùng nằm vạch kết hoạch cho buổi đi xem phim với Thắm chiều mai.
                 
                ***
                - Anh Khoa thấy em có đẹp hông?
                Thắm xoay một vòng trước mắt Khoa làm chiếc đầm xòe ra như một cánh dù hoa sặc sỡ. Trông Thắm lúc này thật dễ thương và nhí nhảnh như một cô bé con.
                Khoa nheo nheo mắt:
                - Ui chà, em mà không lên tiếng là anh không nhận ra rồi, anh tưởng trong nhà em vừa xuất hiện một cô tiên!
                Thắm đấm thùm thụp vào lưng Khoa:
                - Anh này thấy ghét quá đi! Anh nói vậy là anh chê trước nay em xấu lắm phải hôn?
                Khoa giơ hai tay lên:
                - Anh đầu hàng ! Đừng đánh anh nữa! Hổng phải anh chê em đâu, bình thường em đẹp một cách khác, lúc này em đẹp một cách khác, không giống nhau. Mà phụ nữ biết làm thay đổi mình là cả một nghệ thuật đó nghe em!
                Thắm cười thẹn thùng:
                - Anh dẻo miệng quá đi!
                - Anh nói thiệt, anh không biết nịnh đầm đâu! Nông dân mà em, nghĩ sao nói vậy thôi!
                Thắm sung sướng khoác tay Khoa một cách tự nhiên:
                - Mình đi đi anh, để trễ giờ đó! Anh lấy xe em đi nhe?
                Khoa lúng túng một chút rồi nói một cách miễn cưỡng:
                - Thôi được rồi, em ăn mặc vầy, hổng lẽ anh bắt em ngồi lên chiếc xe đạp cà tàng của anh sao?
                Thắm cười tươi:
                - Cũng đâu có sao! Tại hôm nay sợ trễ phim, chứ không thôi em sẽ đòi anh chở em bằng xe đạp đó! Như vậy càng thêm lãng mạn. Anh không nhớ bài hát “Xe đạp ơi!” của Ngọc lễ sao?
                Hỏi xong, chưa đợi Khoa trả lời, Thắm đã cất tiếng hát khe khẽ, hai chân nhún nhẩy theo nhịp điệu:
                “Nhớ khi xưa anh chở em trên chiếc xe đạp cũ…”
                - Hôm nay anh mới biết em có giọng ca hay đến vậy!
                Khoa vỗ tay.
                Thắm không hát nữa, thầm thì:
                - Em “bật mí” cho anh biết nha, hồi học lớp mười hai, em đi thi hát Karaokê cấp thành phố và đạt được giải nhì đó nha!
                - Anh phục em sát đất! Thôi, mời ca sĩ ra xe, không thôi chút nữa trễ phim lại bắt đền anh, anh không có sẵn kẹo để dỗ đâu.
                Hai người cười vang, khoác tay nhau đi ra cổng.
                Lúc Khoa đưa Thắm vào đến rạp thì trên màn ảnh đã bắt đầu trình chiếu.
                Đây là một bộ phim tâm lý xã hội đang được giới trẻ hâm mộ, nhưng nội dung của nó hơi nghiêng nặng về khía cạnh tình yêu trai gái. Trong phim có rất nhiều cảnh nóng và cả những cảnh éo le khiến người xem vừa thẹn thùng vừa phải bồi hồi xúc động.
                Vốn tính nhạy cảm, Thắm không cầm nước mắt khi xem đến đoạn nhân vật chính lặn lội đường xa vạn dặm để tìm gặp mặt người yêu. Nghe tiếng Thắm sụt sịt khóc, Khoa không hề trêu chọc mà trái lại, anh nhẹ nhàng chạm vào tay Thắm như sẻ chia niềm cảm xúc. Thắm tựa hẳn đầu mình lên vai Khoa và cảm thấy như mình đang được chở che, nương tựa. Niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng lên tràn ngập tâm hồn làm nước mắt Thắm trào ra không ngừng, những giọt nước mắt hạnh phúc chứ không còn là xót thương cho nhân vật trên phim nữa.
                Khoa vòng tay qua vai Thắm, khe khẽ vuốt mái tóc bỏ lửng bờ vai của cô và chỉ dừng ở đó.
                Khi đèn trong rạp phim bật sáng, Thắm e thẹn nhấc đầu ra khỏi vai Khoa, không ai nói với ai lời nào nhưng đã hiểu được tình ý của nhau, điều đó làm Thắm vô cùng sung sướng.
                Ra khỏi rạp phim, Thắm không chịu về nhà ngay mà đòi Khoa chở đi ăn kem.
                Ngồi sau xe, Thắm vòng tay ôm chặt lấy Khoa, áp hẳn mặt mình vào tấm lưng vững chắc của Khoa mà nghe lòng rộn rã.
                Lần đầu tiên biết yêu, lần đầu tiên có những cử chỉ tiếp xúc thân mật với người khác giới, Thắm càng trở nên ngây ngất, đê mê.
                Dừng xe trước một quán kem có khung cảnh nên thơ, Khoa đưa Thắm vào ngồi ở một góc khuất.
                Thắm nhìn anh thật lâu rồi hỏi:
                - Anh Khoa… anh có thương Thắm không?
                Khoa cúi mặt buồn buồn, tay cầm muỗng khuấy nhẹ vào ly cà phê:
                - Anh… anh cũng không biết phải trả lời với em sao nữa?
                Thắm ngạc nhiên:
                - Anh nói vậy là sao? Hay là… anh không có chút tình cảm nào với em?
                Khoa chồm qua bàn, nắm chặt tay Thắm, nhìn thẳng vào mắt cô bằng ánh mắt thật buồn:
                - Không! Anh thương em. Thương em ngay hôm đầu tiên anh gặp em ở sân trường. Nhưng anh nghĩ… anh không xứng đáng với em, anh không có quyền yêu em…
                - Em không hiểu?
                Thắm ngây thơ hỏi lại.
                - Tại vì… anh chỉ là một sinh viên tay trắng, một đứa mồ côi, thì làm sao anh dám nói tiếng yêu em. Người đời sẽ cho là anh đang lợi dụng em, anh không muốn điều đó. Thà rằng mãi mãi anh giấu kín tình yêu này trong tim… Vậy mà hôm nay anh đã không kìm nén được. Anh… anh thành thật xin lỗi em! Em hãy coi như giữa chúng ta chưa hề xảy ra chuyện gì, được không em?
                Thắm rớt nước mắt:
                - Anh nói vậy mà anh nghe được sao? Anh thương em thì anh phải biết tới cảm nhận của em chứ! Người ngoài ai nói gì thì mặc người ta. Chỉ cần em hiểu anh và anh hiểu em là đủ rồi. Với lại anh đâu có gì kém cỏi mà phải tự ti như thế? Ba em nói rồi, ba nói người có chí như anh sẽ tiến rất xa trong sự nghiệp. Anh không được để em buồn…
                Khoa bối rối:
                - Nhưng anh…
                - Không nhưng gì hết! Anh biết em thương anh đến mức nào không? Anh là người con trai đầu tiên em thương yêu đó! Nếu anh cũng thương em thì không lý do gì anh phải che giấu tình cảm của mình. Em không cho phép anh làm vậy đâu! Chỉ trừ trường hợp anh đã có người yêu rồi thì em sẽ tự động rút lui, dù yêu anh đến mấy em cũng không bao giờ chịu làm kẻ thứ ba. Em nói vậy, anh có hiểu lòng em không?
                Khoa vuốt ve bàn tay mềm mại của Thắm:
                - Em là người con gái đầu tiên bước vào tim anh, nhưng anh thật sự không…
                Khoa chưa nói hết câu Thắm đã đứng lên đi vòng qua bàn đưa tay bịt miệng Khoa lại, cô nũng nịu ngồi sát vào Khoa:
                - Anh không được nói câu đó! Từ giờ phút này em là của anh và anh là của em, không gì có thể thay đổi được.
                Thắm ngã vào vòng tay ấm áp của Khoa, đón nhận những nụ hôn dịu dàng từ người con trai mà cô hằng mơ ước…
                 
                ***
                Vợ chồng ông Hòa không mấy ngạc nhiên khi nghe đứa con gái cưng thú thiệt là đã yêu Khoa. Cả hai đều không phản đối nhưng ông Hòa vốn tính cẩn thận không quên dặn dò con gái:
                - Ba mẹ thấy thằng Khoa cũng là đứa đáng quý, con với nó thương nhau cũng là điều tốt. Nhưng gì thì gì, mình cũng mới quen biết nó đây thôi, con phải giữ khoảng cách có chừng mực nghe con!
                Thắm bá vai ông Hòa nhõng nhẽo:
                - Ba… ba phải tin vào bản lĩnh của con gái mình chứ! Con cũng biết nhìn người lắm chứ bộ!
                Vợ chồng ông Hòa cười xòa.
                Hai người quá rõ tính nết con gái. Nó tuy hay nhõng nhẽo và còn lắm tính trẻ con, nhưng lại là đứa có bản lĩnh không dễ xiêu lòng trước những lời ngon ngọt. Khi đã quyết định làm gì nó sẽ làm cho kỳ được mới thôi, nó là đứa dám làm dám chịu và dám dứt bỏ đam mê khi nhận ra mặt xấu của nó. Nó không thuộc dạng tiểu thơ đài các như mấy cô con nhà giàu khác. Lâu nay, cả hai vợ chồng đều rất yên tâm về con gái.
                Được sự cho phép và vun vào của vợ chồng ông Hòa, tình cảm giữa Khoa và Thắm ngày càng trở nên gắn bó sâu đậm.
                Vợ chồng ông Hòa càng yên tâm hơn khi thấy Khoa là đứa biết tự trọng. Ông bà dự định sẽ mua xe cho Khoa để tiện việc đi lại, nhưng Khoa nhất định chối từ. Khi ông Hòa đề nghị Khoa dọn tới ở cùng Khoa cũng không đồng ý.
                Việc dạy dỗ Thắm vẫn được Khoa duy trì một cách hết sức nghiêm túc, không vì chuyện tình cảm riêng tư mà lơ là trách nhiệm.
                Vợ chồng ông Hòa cùng mừng thầm cho hạnh phúc của con gái. Ông cũng đã dự tính trong đầu, là ngay sau khi Khoa tốt nghiệp sẽ dành cho nó một chỗ ngồi thật xứng đáng trong cơ quan ông, việc đó đối với ông hoàn toàn không có gì là khó.
                Những ngày tháng này Thắm như đang bơi trong hạnh phúc. Niềm hạnh phúc vỡ òa ra trên nét mặt ngời sáng của cô.
                Ngoài những lúc bắt buộc phải mỗi người một việc, còn thì lúc nào Thắm cũng có mặt bên cạnh Khoa. Mối tình của hai người đã công khai không ai không biết.
                Bạn bè trong trường có lắm kẻ tiếc nuối vì đã không lọt được vào mắt xanh của cô tiểu thư con nhà quan ấy, họ ganh tị với Khoa, bảo anh là chuột sa hũ nếp. Nhưng cũng có những người khách quan nhìn nhận, họ thấy cặp Khoa – Thắm rất xứng đôi, không chê vào đâu được, tuy hai gia đình không được môn đăng hộ đối, nhưng thời nay điều đó không còn quan trọng nữa.
                Tất cả đang chờ một đám cưới linh đình sẽ được tổ chức ngay sau khi Khoa tốt nghịêp ra trường.
                Ngày tốt nghiệp cũng không còn xa nữa.
                Tuy Khoa và Thắm chưa cưới hỏi, nhưng vợ chồng ông Hòa dã coi Khoa như con rể trong nhà.
                Sau một thời gian thăm dò, thử thách, một người cẩn trọng như ông Hòa cũng đã đặt trọn niềm tin vào Khoa.
                Mỗi lần hai vợ chồng đi công tác hay du lịch nước ngoài, ông Hòa đều gọi Khoa đến ở nhà cùng con gái. Nhà ông Hòa có điều đặc biệt, tuy giàu có đến vậy mà không hề mướn người giúp việc, không phải vì sợ tốn tiền mà chỉ vì cả ông và bà đều không thích có người lạ trong nhà.
                Lần đầu Khoa đến ở đêm tại đấy, bà Hòa có hơi e ngại, bà dặn dò Thắm đủ thứ, và không quên nhắc chừng Khoa đừng vượt qua ranh giới với con bà. Nhưng lâu dần bà rất yên tâm không còn lo lắng nữa. Vì Khoa luôn giữ đúng chừng mực với Thắm.
                Lần này vợ chồng ông Hòa đi Singarpo một tuần, Khoa lại được gọi đến ở trông nhà với Thắm.
                Suốt ngày hôm sau Khoa chở Thắm đi chơi khắp các nẻo đường Sài Gòn, chiều Thắm đề nghị không đi ăn tiệm mà mua đồ về nhà, Thắm sẽ tự nay nấu một bữa thật ngon cho Khoa thưởng thức.
                 Nghe Thắm nói vậy, Khoa trêu:
                - Em nói lại lần nữa để anh nghe kỹ xem, mua đồ về em nấu hay anh?
                Thắm vênh mặt lên:
                - Trời, anh đừng tưởng em là đứa con gái vụng về đểnh đoảng nhé! Em nấu ăn ngon phải biết. Những lúc ba mẹ có khách thân tình, cùng thường đưa về tiếp đãi ở nhà, đều do mẹ và em nấu đó!
                Khoa cười:
                - Tiếp thị dữ quá, nội dung ra sao thì còn phải xem lại…
                Thắm thụi vào bụng Khoa một cái rồi ngúng nguẩy xách túi thức ăn ra xe. Khoa mỉm cười đi theo.
                Về nhà, cả cùng xuống bếp vừa làm vừa trêu chọc nhau. Cười đùa vui vẻ.
                Đến tối thì bữa ăn hoàn thành.
                Quả đúng như lời giới thiệu của Thắm, tay nghề nấu nướng của cô không chê vào đâu được. Món ăn nào cũng thật ngon và đẹp mắt làm Khoa cứ xuýt xoa mãi không thôi.
                - Anh! Mình uống một tí rượu nha?
                Thắm đề nghị.
                Khoa ngập ngừng:
                - Anh nghĩ thôi đi…
                Thắm bướng bỉnh:
                - Không, phải uống một tí thì bữa ăn này mới trọn vẹn.
                Vừa nói Thắm vừa đứng lên mở tử lấy ra một chai rượu Tây.
                - Anh không uống được nhiều đâu nhe em!
                Khoa dặn trước.
                Thắm rót rượu vào ly đưa cho Khoa:
                - Anh phải tập uống đi cho quen, mai này ra đi làm khi cần ngoại giao chẳng lẽ cứ kêu cà phê hay nước ngọt?
                Bữa ăn ngon cộng thêm men rượu làm cả hai người đều ngây ngất, lâng lâng. Thắm vui lắm, hạnh phúc lắm. Cô nghĩ tới một ngày không xa nữa, những bữa ăn như thế này sẽ diễn ra hàng ngày trong gia đình, mỗi tối Khoa đi làm về, cô sẽ đón Khoa bằng những bữa ăn nóng sốt.
                Tương lai tươi đẹp đang vẫy gọi cô, đang chờ đợi cô phía trước.
                Vì quá vui nên Thắm cứ uống mãi không ngừng mặc dù Khoa đã nhiều lần ngăn cản.
                - Anh đừng cản em. Hôm nay em vui lắm, anh cho phép em say một bữa đi…
                Thắm giằng ly rượu khỏi tay Khoa, rót thêm nữa.
                Mãi tới lúc không còn gượng được Thắm mới gục xuống bàn.
                Khoa vội vã đến bên bế xốc Thắm vào phòng.
                Thắm vòng tay qua cổ Khoa kéo anh xuống, đặt lên môi Khoa những nụ hôn nồng nàn…
                Lúc này Khoa cũng không cần phải gìn giữ nữa. Khoa ôm Thắm vào lòng, nhẹ nhàng cởi bỏ tất cả áo quần vướng víu trên người cô và bắt đầu thỏa mãn cái dục vọng mà suốt thời gian qua anh phải đè nén, nhẫn nhịn.
                Trong cơn say chếch choáng, Thắm vẫn biết chuyện gì đang xảy ra nhưng cô không phản kháng vì đã từ lâu rồi, cô luôn nghĩ Khoa là chồng mình. Trong một đêm thật vui, thật hạnh phúc như đêm nay, dâng hiến cho chồng sự trinh trắng của mình cũng không có gì là đáng tiếc.
                 
                ***
                Mai buồn bã gạch tiếp một gạch chéo vào cuốn lịch túi đang cầm trên tay. Vậy là đã thêm một ngày nữa trôi qua, thêm một ngày đợi chờ trong tuyệt vọng.
                Ngày mới lên Sài Gòn, đều đặn mỗi tuần Khoa viết cho Mai một lá thư dài đến mấy trang giấy học trò. Khoa kể cho Mai nghe chuyện học hành, chuyện phố xá và cả những chuyện sinh hoạt hàng ngày của anh. Nhưng nhiều hơn hết, cảm động hơn hết vẫn là những dòng chữ nói lên nỗi nhớ nhung cồn cào gan ruột mà anh phải chịu đựng trong những ngày tháng vắng xa nhau.
                Lá thư nào Khoa cũng an ủi và khuyên Mai đừng quá nhớ thương mà sanh bệnh, một ngày không xa nữa anh sẽ tốt nghiệp ra trường, hai người sẽ được sống bên nhau trọn vẹn.
                Tất cả những lời lẽ đó Mai thuộc nằm lòng, vì đã biết bao nhiêu đêm khó ngủ, khắc khoải trong niềm thương nỗi nhớ, Mai đem từng tờ thư ra đọc đi đọc lại, ghi khắc từng câu từng chữ trong tâm trí của mình.
                Một tháng hoặc lâu hơn chút ít là Khoa lại nhảy xe đò về quê. Lần nào gặp nhau, Khoa cũng dành cho Mai thật nhiều hạnh phúc.
                Nhưng rồi những cánh thư của Khoa cứ thưa dần theo ngày tháng, mặc cho Mai thắc thỏm mong chờ. Thư đến, cũng chỉ là đôi ba dòng thăm hỏi bâng quơ chứ không còn nhớ mong gì nữa…
                Mai có trách hờn thì Khoa lại viện cớ mấy năm đầu Đại học chương trình còn nhẹ, còn có thời gian rảnh, nay sắp tốt nghiệp rồi, bài vở ngập đầu đến thời gian ngủ cũng không đủ thì còn thời gian nào mà ngồi đó viết thư rồi tỉ tê tâm sự.
                Mai vẫn đều đặn viết thư cho Khoa mỗi tuần, nhưng thư đi mà không hề có tin quay trở lại.
                Sau đó không lâu, Khoa không cho Mai viết thư nữa.
                - Em đừng viết thư cho anh nữa, anh bận lắm nên không có thời gian viết thư trả lời cho em. Mà dạo này anh đi thực tập lung tung, ít khi có ở trường, thư rất dễ bị lạc mất.
                Khoa bảo với Mai như thế.
                Tất cả những gì Khoa nói Mai đều nghe rất có lý, rất hợp tình nên cô không thể bắt bẻ vào đâu được.
                Ngày nào ở chợ về Mai cũng ghé vô trạm Bưu chính để lục thư với hy vọng thư Khoa gởi sẽ về tới hôm nay, nhưng niềm hạnh phúc đơn sơ ấy của Mai vẫn còn ở biệt mù xa tít.
                Ngày nào cũng vậy, nhìn Mai lủi thủi ra về sau khi đã tự tay tìm hết các xấp thư trong ngày của trạm, người Bưu tá già lắc đầu thương cảm cho cô.
                Chuyện tình cảm mặn nồng giữa Mai và Khoa thì cả làng không ai không biết, chuyện thời gian mấy năm gần đây Khoa tỏ ra lạnh nhạt với Mai người ta cũng đều biết hết!
                Những người xấu tính, độc mồm độc miệng thì cho là đáng đời Mai, ai biểu chỗ đàng hoàng tử tế không chịu, mà lại đâm đầu vô chỗ đó. Nhưng những người nhân hậu, có hiểu biết thì lại cảm thấy xót xa, thương hại cho Mai.
                Nhiều người khuyên Mai bắt Khoa phải cưới, vì cưới rồi Khoa cũng vẫn có thể đi học tiếp; người lại xui Mai tìm lên Sài Gòn để tìm hiểu cho tường tận trắng đen.
                Ai nói gì thì nói, Mai vẫn âm thầm chịu đựng buồn khổ để giữ tròn lời hứa sẽ luôn tin tưởng Khoa, sẽ không vì những lời thị phi đàm tiếu mà làm sứt mẻ tình cảm của hai người.
                Nhưng ba tháng trước đây, Mai thật sự đau lòng khi nhận được thư Khoa. Cầm trong tay lá thư với nét chữ quen thuộc của Khoa, lá thư mà đã bao nhiêu ngày đêm Mai thắt lòng chờ đợi, cô hồi hộp đi thẳng một mạch từ trạm Bưu chính về nhà, vội vã mở thư ra đọc.
                Trên đường đi, Mai tưởng tượng ra những lời lẽ nồng nàng âu yếm, những lời mà đã lâu lắm rồi Khoa dường như đã quên đi, chưa một lần lặp lại.
                Thế nhưng lần này Mai vô cùng hụt hẫng. Lá thư chỉ vỏn vẹn có mấy dòng ngắn ngủi, viết chưa kín nửa trang giấy học trò với những lẽ hoàn toàn xa lạ, lạnh lùng.
                Mai đâu đớn nhất khi đọc tới câu: “Từ nay em đừng gởi gì lên cho anh nữa!”
                Thế là thế nào? Khoa có ý gì đây? Bao nhiêu năm đã qua, đều đặn hàng tháng Mai gửi tiền lên cho Khoa ăn học, vậy mà bay giờ Khoa lại từ chối.
                Hồi mới nhập học được mấy tháng, Khoa có nói anh sẽ đi làm thêm hoặc đi dạy kèm để kiếm thêm thu nhập hàng tháng cho Mai đỡ vất vả.
                Nhưng nếu như vậy Khoa sẽ không chuyên tâm vào việc học được, chắc chắn kết quả sẽ không cao, mà anh lại muốn khi tốt nghiệp ra trường thành tích của anh phải thật nổi bật.
                Mai đã an ủi động viên anh đừng lo lắng gì tới vấn đề tiền bạc, Mai sẽ lo liệu tất cả. Mai khuyên anh đừng làm gì hết mà hãy tập trung vào việc học hành.
                Vậy mà hôm nay Khoa lại bảo Khoa đi dạy kèm! Trong khi bài vở nhiều tới mức Khoa không có thời gian về thăm Mai, thậm chí còn không có thời gian viết thư cho cô thì sao lại đi dạy thêm vào lúc này?
                Thật tình Mai không thể giải thích.
                Mai đã khóc rất nhiều khi đọc xong lá thư ngắn ngủi đó. Đêm ấy Mai viết cho Khoa thật nhiều, kể lể hết những mối lo âu sợ hãi trong lòng cô cho
                Khoa biết, nhưng lá thư giống như một cánh chim vô định, bay đi rồi là mất dạng bặt tăm.
                Tháng sau, Mai vẫn tiếp tục gửi tiền nhưng số tiền đó lại bị gởi trả về với lý do không có người nhận.
                Đau đớn, hoang mang, buồn tủi… Mai linh cảm một điều gì đó đã và đang xảy ra, dường như Khoa đang lẩn tránh mình.
                Dù Mai cố nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần rằng Khoa đang rất bận vì ngày tốt nghiệp đang đến rất gần, nhưng từ trong thâm tâm Mai không còn thấy lập luận đó còn có sức thuyết phục nữa.
                Hay Khoa đã thay lòng đổi dạ? Khoa muốn cắt đứt mọi liên lạc với mình?
                Mối hoài nghi này càng lớn hơn khi Mai suy nghĩ lại tất cả những gì xảy ra trong khoảng thời gian mấy năm sau này, cô xâu chuỗi lại từng sự việc thì câu trả lời như đã rõ ràng rồi!
                Mai đã trao trọn đời con gái của mình cho Khoa mà không hề nuối tiếc. Khoa đã thề hẹn với cô rồi, lẽ nào bây giờ Khoa không còn nhớ? Nhưng mà người xưa thường bảo “dò sông dò biển dễ dò, mấy ai lấy thước mà đo lòng người”, lòng dạ Khoa hiện nay ra sao Mai hoàn toàn không hiểu được!
                Mai có cảm giác niềm hạnh phúc mong manh trong tay mình đang trôi tuột đi mà không cách gì níu giữ lại được…
                Khoa ơi… dù thế nào anh cũng phải nói với em một tiếng cho mọi việc rõ ràng, để em không phải đêm ngày thắc thỏm âu lo chờ đợi nữa! Khoa ơi… sao anh lại hờ hững lạnh lùng với em như vậy, Khoa ơi…
                Mai cắn chặt răng vẫn không kìm nén được những tiếng khóc uất ức nghẹn ngào…
                Mấy ngày liên tiếp không ăn ngủ được, Mai cũng không còn sức lực để dọn hàng ra chợ buôn bán mỗi ngày. Cô nằm suốt ngày trong nhà đọc ngấu nghiến những lá thư thấm đẫm nỗi nhớ nhung của Khoa lúc trước mà nước mắt không ngừng tuôn chảy.
                Ba ngày trôi qua, Mai cũng đã đi tới một quyết định quan trọng trong đời mình.
                Mai sẽ lên Sài Gòn để tìm gặp Khoa hỏi cho ra lẽ!
                Bao nhiêu năm nay đã nhiều lần Mai có ý muốn đi thăm Khoa nhưng đều bị Khoa từ chối.
                Khoa bảo anh còn đang đi học, nếu bạn bè thầy cô biết anh đã có người yêu, họ sẽ nhìn anh bằng một ánh mắt khác, không mấy thiện cảm. Vậy nên nếu thương Khoa, Mai hãy cứ ở yên chốn quê nhà, khi nào tranh thủ được thời gian, tức khắc Khoa sẽ về thăm.
                Một cô gái quê mùa trong trắng như Mai, là sao đủ hiwru biết để nhận ra bản chất thật của những lời biện hộ ấy. Mà ngược lại, đối với Mai, Khoa luôn luôn là người có suy nghĩ và hành động đúng, anh nói gì Mai cũng tuyệt đối nghe theo.
                Vì vậy, để đi đến quyết định này, với Mai đó không phải là điều đơn giản.
                Khuya hôm đó khi gà mới gáy lần thứ hai, một mình lầm lũi trên con đường quê, Mai rảo bước ra đường cái đón chuyến xe đò đi Sài Gòn sớm nhất.
                Khi chiếc xe ôm dừng lại bỏ Mai xuống trước cổng khu ký túc xá của trường Đại học, nơi Khoa đang sống, cô trở nên lúng túng và hồi hộp vô cùng.
                Không dám đi thẳng vào để hỏi thăm, Mai cứ thập thò ngoài cổng, may sao thấy một tốp nữ sinh viên vừa đi đâu về nói cười ríu rít, Mai đánh bạo tiến đến tiếng hỏi:
                - Chị ơi… mấy chị làm ơn cho em thăm anh Khoa học lớp K36 ở phòng nào vậy chị?
                Mấy cô nữ sinh dừng chân ngó Mai rồi đáp:
                - Lớp K36….? À, đúng rồi, Thi ơi, anh Thi ơi, anh có biết Khoa K36 ở phòng nào không?
                Cô nữ sinh quay sang gọi với hỏi anh thanh niên đang ngồi ở quán cà phê ngay bên vỉa hè.
                Người thanh niên nghe hỏi nhanh nhẹn chạy ra:
                - Khoa K36 hả? Nó ở chung phòng với anh nè? Mấy đứa hỏi nó có gì không?
                Mấy cô nữ sinh chỉ vào Mai đang đứng khép nép một bên:
                - Chị này tìm anh Khoa đó, vậy anh đưa giúp chỉ đi gặp anh Khoa nhe? Tụi em đi à!
                Rồi nhìn Mai, cô nữ sinh mỉm cười gật đầu chào:
                - Tụi em đi nha chị! Chị theo anh Thi này, ảnh đưa chị đi gặp anh Khoa, ảnh với anh Khoa ở cùng một phòng đó chị!
                Mai lí nhí cảm ơn rồi ngượng ngùng nhìn Thi.
                Thi cười:
                - Chị là…
                Nhìn chiếc áo bà ba mặc trên người và chiếc nón lá Mia đang cầm nơi tay, Thi như như khám phá được điều gì đó, bật reo to:
                - A, tôi biết rồi! Chị là chị Mai, em họ của anh Khoa phải không? Anh Khoa vẫn nhắc tới chị luôn đó!
                Mai choáng váng khi nghe Thi gọi mình là “em họ” của Khoa, nhưng cô nghĩ có lẽ sợ bạn bè cười chê vì đang đi học mà bày đặt có bồ bịch người yêu nên Khoa mới nói trớ như vậy, Khoa nhắc tới mình nghĩa là Khoa vẫn nhớ mình nhiều lắm…
                Nghĩ vậy nên Mai thấy yên tâm hơn. Cô mỉm cười không nói gì, đi theo Thi vòng qua phía bên kia sân, rồi leo lên mấy tầng lầu mới tới được phòng Khoa ở.
                Tim Mai đập rộn rã. Cô vừa vui mừng, hồi hộp vì sắp được gặp lại Khoa sau mấy trời xa cách, nhưng bên cạnh đó cô lại rất lo âu, sợ Khoa sẽ giận vì cô đã không nghe lời Khoa căn dặn. Nhưng mặc kệ, cô sẽ nói với Khoa rằng “Tại em nhớ anh quá, nhớ không chịu nổi, và cũng tại vì em lo lắng nữa, không biết ở đây anh có xảy ra chuyện gì hay không nên em phải đánh liều lên đây tìm anh…”. Mai sẽ nói với Khoa như vậy và Mai cũng tin rằng Khoa không nỡ lòng nào lại trách giận khi thấy Mai lặn lội tới tận nơi đây.
                - Mời chị vô phòng!
                Thi đẩy cánh cửa phòng, lịch sự nói với Mai.
                - Khoa ơi, em gái tìm này!
                Thi gọi lớn.
                - Thằng Khoa không có đây!
                - Em gái nào thế?
                - Có xinh không?
                Ba bốn người thanh niên trong phòng nhao nhao lên hỏi, làm Mai trở nên luống cuống không dám bước chân vô.
                Thi lườm các bạn, rồi quay sang Mai, cười ái náy:
                - Chị thông cảm, ở đây tụi này hay giỡn lắm! Mời chị vào phòng!
                - Dạ, không có chi…
                Mai bối rối trả lời rồi ngại ngùng đi theo sau lưng Thi.
                - Đây là chị Mai, em họ của anh Khoa! Còn đây là các bạn ở cùng phòng với anh Khoa đó chị!
                Thi giới thiệu
                Mai e thẹn gật đầu chào từng người rồi khép nép ngồi xuống ghế, lòng thắc thỏm tự hỏi Khoa đi đâu vắng mặt nhưng miệng lại không dám nói ra lời.
                May sau lúc đó Thi lên tiếng hỏi các bạn:
                - Có ai biết Khoa đi đâu không?
                - Chắc có lẽ ở đằng nhà má vợ tương lai.
                Một anh thanh niên trả lời.
                Thi hỏi:
                - Chị Mai có biết nhà Thắm không?
                Mai bàng hoàng không nói nên lời, chỉ biết ngó Thi với cái nhìn ngơ ngác.
                - Tôi… tôi không…
                - Thôi, chị cứ ở đây chơi, chờ chút nữa chắc anh Khoa cũng về tới sớm thôi. Giờ tụi em phải lên rồi, chị cứ ở đây tự nhiên nhé!
                Chỉ vào một chiếc giường, Thi bảo:
                - Đây là giường của anh Khoa, nếu mệt, tụi tôi đi rồi chị có thể nằm nghỉ, chị đừng có ngại gì hết nghe!
                Mai dạ thật nhỏ, đầu cúi thấp cố dằn tiếng khóc đang sắp bật ra.
                Thi cùng với mấy người thanh niên lục đục soạn tập vở rồi chào Mai, ra vừa khỏi cửa là họ ồn ào hẳn lên, ai cũng khen Mai xinh đẹp, dịu dàng và rất dễ thương.
                - Tao xí phần làm em rể thằng Khoa!
                - Không! Tao…
                - Tao…
                Họ cười vui rộn rã giữa lúc lòng Mai đang quặn thắt từng cơn.
                Mai đứng lên khép cửa phòng, cài chốt cẩn thận rồi rụt rè đến bên chiếc giường của Khoa.
                Mấy chiếc áo sơ mi giắt trên đầu giường, cái mền cái gối, cả chiếc rương to kềnh kia cũng rất đỗi thân quen. Bởi vì tất cả đều tự tay Mai mua sắm cho Khoa.
                Mai cầm lấy một chiếc áo, áp vào má mình mà nghe lòng ngập tràn cay đắng…
                “Ở nhà má vợ tương lai”? Thắm ? Những câu nói vô tình của họ như bóp nghẹt trái tim Mai.
                Trời ơi, chẳng lẽ tất cả những nghi ngờ của mình đều là sự thật! Không, không đâu, có thể họ đùa giỡn vậy mà…
                Trong lòng Mai lúc này ngổn ngang trăm mối.
                Nhìn thấy chiếc va ly, trong đầu Mai lóe lên một ý nghĩ.
                Đúng rồi! Lúc mua, người ta đưa cho hai chiếc chìa khóa, nhưng Khoa bảo chỉ lấy một chiếc thôi, nên còn một chiếc Mai vẫn giữ tới bây giờ.
                Vừa tò mò, vừa hồi hộp, Mai run run tra chìa vào ổ khoá.
                Một tiếng “tạch” khẽ vang lên. Mai mở va ly ra, bên trong là quần áo, sách vở để lung tung không ngăn nắp. Cô nhẹ nhàng lấy hết ra để xếp lại ngay ngắn cho Khoa.
                Bất ngờ Mai bắt gặp một quyển album dày cộm.
                Run rẩy, Mai lật vội ra, đập vào mắt Mai là tấm ảnh Khoa cười tươi rói bên cạnh một người con gái khác…
                Tim Mai như vỡ ra, nước mắt Mai đã chảy tràn trên mặt. Mai lật tiếp nữa, những tấm ảnh vô cùng thân mật của hai người đã trả lời cho Mai biết tất cả những thắc mắc lâu nay.
                Vậy là đã rõ… Mai gục xuống khóc nức nở… Xung quanh Mai như ngả nghiêng chao đảo…
                Lát sau, lấy lại bình tỉnh, Mai ngồi lên lau khô nước mắt. Dù thế nào hôm nay mình cũng phải gặp cho được Khoa để nghe chính miệng Khoa xác minh sự việc. Mai quyết tâm như vậy.
                Mai yêu thương Khoa bằng tình yêu của một cô gái quê chất phác, nên cả trong giờ phút đau đớn khi bị phản bội Mai vẫn luôn nghĩ đến Khoa, không muốn làm tổn hại anh. Chính vì vậy, Mai sẽ cố gắng dằn lòng để đóng cho tròn vai cô em họ.
                Mãi tới trưa Thi mới trở lại phòng, nhìn Mai có vẻ ái náy:
                - Chị Mai à, anh Khoa… hôm nay anh Khoa đi Vũng Tàu với gia đình vợ, hai hôm nữa mới về. Em mới nghe đứa bạn bên lớp Thắm nói lại. Chị… chị có chờ anh Khoa được không?
                Mai muốn khóc òa lên, nhưng trước mặt Thi cô cố nén lòng mình lại.
                - Dạ… thôi, nếu vậy em xin phép về…
                Vừa nói, Mai vừa đứng lên, cầm lấy túi xách và chiếc nón lá, khẽ gật đầu với Thi:
                - Em… em cám ơn anh. Em xin phép…
                Thi nhìn Mai, ngạc nhiên thấy Mai có vẻ gì đó không được bình thường nhưng anh lại không tiện hỏi.
                - Chị có nhắn gì lại cho anh Khoa không?
                Thi ái ngại.
                Như sực nhớ lại, Mai vội nói:
                - Anh… anh làm ơn… lúc nào anh Khoa về, anh nhắn giúp em, bảo anh Khoa về quê gấp, có… có việc rất quan trọng…
                Thi gật đầu:
                - Chị yên tâm, khi anh Khoa về tôi sẽ chuyển lời ngay.
                Mai chào Thi lần nữa rồi lầm lũi ra về.
                Đoạn đường trước mắt Mai chừng như dài ra vô tận.
                Thi đứng nhìn theo dáng đi liêu xiêu của Mai, anh cảm thấy lòng dâng lên một niềm trắc ẩn.
                 
                ***
                Vừa về tới phòng, nghe các bạn bảo có Mai lên tìm, Khoa hết cả hồn vía, anh cứ ngỡ tất cả đã được Mai phơi bày ra ánh sáng. Khoa hoảng hốt khi nghĩ đến chuyện Thắm biết được tin này, mọi việc sẽ ra sao?
                - Ê, làm mai em họ mầy cho tao nhe? Con nhỏ đẹp ác! Từ nay tao gọi mầy bằng anh, chịu không?
                Câu nói của thằng bạn như một liều thuốc hồi sinh giữa lúc Khoa tưởng mình đang rơi xuống vực thẳm.
                - Ừ, đứa nào ưng lấy nó, tao gả đó!
                Khoa đùa lại.
                Thi lặng lẽ nhìn Khoa một lúc rồi nói nhỏ:
                - Tao thấy hình như Mai có chuyện gì đó rất đau khổ, mầy nên thu xếp về quê ngay đi, cô ấy nói có viêc quan trọng lắm.
                Khoa lãng tránh cái nhìn của Thi:
                - Ừ, để chút nữa tao ra Bưu điện gọi về dưới xem sao!
                Khoa nói thêm vài ba câu chuyện với đám bạn rồi ra khỏi phòng.
                Hôm nay Khoa đã hứa sẽ đi siêu thị mua giúp Thắm một số vật dụng, vì khi ở Vũng Tàu về, Thắm không được khỏe trong người.
                Đẩy chiếc xe đi qua mấy quầy hàng mà Khoa vẫn chưa tìm thấy nhãn hiệu Thắm dặn. Anh vừa đi vừa nhìn khắp hai bên, bất thần chiếc xe đẩy đâm sầm vào một cô gái từ gian hàng khác bước qua làm đổ tung tóe gói đồ đạc trên tay cô.
                Khoa giật mình, luống cuống:
                - Xin lỗi, xin lỗi cô! Tôi thật vô ý quá!
                Vừa nói, Khoa vừa ngồi xuống nhặt nhạnh những thứ rơi vãi dưới đất bỏ trở vào túi xách cho cô gái.
                - Dạ, xong rồi đây, xin cô bỏ lỗi cho…
                Khoa đứng lên vừa trao chiếc túi cho cô gái vừa nói, nhưng nói chưa hết câu Khoa đã đứng im há hốc.
                Trước mặt Khoa là một cô gái đẹp, đẹp đến sửng sờ! Một vẻ đẹp liêu trai huyền bí mà Khoa chưa từng gặp qua khiến anh ngây ngất.
                Cô gái bối rối cầm lấy cái túi, ấp úng nói câu gì đó mà trong lúc tâm thần bất ổn Khoa không nghe rõ được.
                - Cô… cô…
                Khoa lắp bắp.
                - Trời ơi! Cô! Cô làm em tìm muốn chết, sao cô đi qua đây mà không chờ em vậy?
                Một cô gái nhỏ khác từ đâu chạy tới ôm lấy cô gái reo lên mừng rỡ. Cô gái cười khẽ:
                - Chị… chị đi mua…
                - Thôi được, thôi được rồi! Em đã mua đủ hết rồi, bây giờ mình về đi cô, mình đi lâu lắm rồi đó, bà ở nhà trông…
                Cô gái vừa đi vừa ngoảnh lại nhìn Khoa. Còn Khoa, anh không biết nói gì, cũng không biết hành động ra sao, chỉ đứng chôn chân một chỗ sững sờ nhìn theo dáng đi tha thướt của nàng tiên vừa mới giáng trần.
                Mãi một hồi lâu Khoa mới sực tỉnh. Anh lắc đầu, cố xua đi cái ánh mắt kỳ lạ của cô gái. Một ánh mắt vừa có vẻ ngây thơ khờ khạo, vừa có vẻ hoang dại như muốn hút hồn người.
                Tiếp tục đây xe đi chọn hàng, nhưng trong tâm trí Khoa luôn nghĩ tới người con gái mới vừa chạm mặt.
                Đến khi ra quầy tính tiền của siêu thị, Khoa phát hiện trong xe hàng hóa của mình có một chiếc ví của phụ nữ.
                Vội vã mở ra xem, Khoa thấy trong đó là một số giấy tờ tùy thân mang tên Nguyễn Thị Thiên Lan và ảnh trên chứng minh thư đúng là cô gái mà Khoa vừa gặp lúc nãy.
                Tự nhiên Khoa cảm thấy vui vẻ trong lòng, vì ít nhiều Khoa đã biết đôi chút về người đẹp liêu trai ấy.
                Và bỗng dưng trong đầu Khoa nảy ra một ý định muốn tìm hiểu thêm cuộc sống của người con gái ấy.
                Khoa nhanh tay giấu kín chiêc ví vào túi rồi xách đồ về.
                Ngay chiều hôm đó, Khoa dò tìm theo địa chỉ trên giấy tờ trong ví. Thật bất ngờ, đó là một ngôi biệt thự rộng lớn ở ngoại ô thành phố.
                Khoa cố tình đi qua đi lại mấy lượt trước cổng nhà nhưng cánh cổng vẫn im ỉm khóa, nhìn vào trong khoảng sân vườn rộng lớn cũng chẳng thấy bóng dáng một ai.
                Định đưa tay bấm chuông để gởi trả lại chiếc ví cho cô gái, nhưng đột ngột Khoa dừng lại. Nếu trả lại chiếc ví lúc này thì mình sẽ không còn cơ hội nào để tìm tới đây được nữa. Hãy khoan, hãy để xem cô ta là ai, làm gì rồi sẽ trả cũng chưa muộn. Nghĩ vậy nên Khoa rồ ga cho xe chạy chầm chậm, vừa đi vừa ngắm nhìn quang cảnh hai bên đường.
                Xe vừa chạy một đỗi, Khoa bỗng nghe tiếng gọi:
                - Ê! Khoa, Khoa đi đâu đó? Vô chơi với tao chút đi!
                Ngạc nhiên, Khoa dừng xe và ngoảnh nhìn lại. Thì ra Tấn, bạn cùng trường với Khoa.
                Mừng rỡ, Khoa hỏi ngay:
                - Nhà mầy ở đây à?
                Tấn cười tươi:
                - Ừ, nhà tao đây, mời mầy vô chơi!
                Khoa dẫn xe đi theo Tấn đi vào một ngôi nhà khang trang nằm sát bên đường.
                Nói chuyện với Tấn một lúc, làm như vô tình Khoa chỉ tay về hướng biệt thự Thiên Lan hỏi:
                - Bên đó là nhà ai mà to lớn, đẹp lộng lẫy vậy?
                Tấn cười:
                - Nhà của tỉ phú đó mầy! Bà chủ nhà hiện là tổng giám đốc của một công ty chuyên về đồ gỗ, có nhiều chi nhánh ở nước ngoài. Giàu thuộc hàng  top ten của Việt Nam mình đó nghe mậy!
                Khoa rụt cổ:
                - Ghê vậy sao? Đàn bà mà giỏi dữ vậy à?
                - Mầy nghe được chuyện này sẽ thấy bả còn ghê hơn nữa ấy chứ!
                Tấn ra vẻ bí mật.
                Khoa tò mò:
                - Chuyện gì?
                - Mầy biết trước kia bả làm nghề gì không? Cave đó!
                - Cave?
                Khoa ngạc nhiên hỏi lại.
                Tấn gật gù:
                - Ừ, cave, nhưng mà là loại cave có nhan sắc, có học thức, cave hạng sang. Bởi vậy, bả nhanh chóng lọt vô mắt một lão tỉ phú người nước ngoài trong một lần lão ta tới Việt Nam để thăm dò thị trường. Suốt quãng thời gian ở đây, lão sống với bả như vợ chồng, nhưng rồi cuối cùng lão cũng phải trở lại quê hương của lão. Lão ra đi, để lại cho bả một đứa con gái và một gia tài kếch sù. Từ đó, bả mới bắt đầu gầy dựng sự nghiệp. Mà chưa hết đâu nhé, cách đây mấy năm, lão tỉ phú qua đời, để lại cho cô con rơi ở Việt Nam một nửa gia tài của lão. Mầy thấy con người ta có số đúng không?
                Tấn kể xong bật cười ha hả.
                Khoa hỏi tiếp:
                - Rồi sau đó bả có lấy chồng nữa không?
                - Không, bả sống với con gái từ đó tới giờ. Hai mẹ con người nào cũng đẹp dã man!
                Khoa bật cười theo Tấn, nhưng trong lòng Khoa ngọn lửa tham vọng lại một lần nữa bốc lên ngùn ngụt.
                Suốt trên đoạn đường về, tâm trí Khoa luôn nghĩ tới ngôi nhà đó, tới cô gái có vẻ quyến rũ là kỳ, tới khối tài sản kếch sù đang nằm trong tay cô gái.
                Nếu sau khi ra trường, mình được ngồi vào một vị trí quan trọng nào đó, thì sau bao nhiêu năm mình mới có thể tạo ra một khối lượng tài sản bằng một phần ba số tài sản đó?
                Tự nhiên Khoa lại đem địa vị và tiền bạc của nhà Thắm ra so sánh với địa vị, tiền bạc của mẹ con bà góa kia.
                Mình sẽ thử thời vận một lần nữa xem sao!
                Ý nghĩ đó nhanh chóng hiện ra trong đầu Khoa, và anh sẽ quyết tâm thực hiện.
                Nhưng ngay trước mắt Khoa, chuyện của Mai vẫn chưa biết phải giải quyết cách nào?
                Khoa nghĩ, nếu bây giờ mình về quê, chắc chắn sẽ nghe những lời trách móc, phải thấy những giọt nước mắt ngắn dài của Mai. Mình có giải gì thì cũng không giúp Mai vơi đi buồn đau được. Dù sao thì bây giờ Mai cũng đã rõ trắng đen, thà rằng mình trốn luôn ở trên này, đợi tới khi mọi việc nguôi ngoai sẽ về xin lỗi Mai thì có lẽ sẽ tốt hơn.
                Khoa biết tính Mai hiền lành nhẫn nhục, anh nghĩ Mai sẽ không làm gì quá đáng để hủy hoại tương lai của anh đâu, và nhất là vừa rồi, chẳng phải Mai vẫn im lặng sau khi biết anh sắp cưới vợ sao?
                Nghĩ vậy, Khoa tấp vào Bưu điện gởi cho Mai một lá thư chuyển phát nhanh. Nội dung bức thư chỉ là mấy lời xin lỗi Mai, Khoa mong Mai hãy vì tương lai của Khoa mà đừng giận anh. Tất cả những gì Khoa nợ Mai, một ngày không xa, khi đã có sự nghịêp trong tay, Khoa nhất định sẽ trả lại cho Mai gấp năm gấp mười lần như thế.
                Gửi xong bức thư, Khoa thấy lòng thật nhẹ nhỏm, y như vừa mới trút được một gánh nặng ngàn cân.
                Ngay ngày mai, Khoa sẽ dấn thân vào một cuộc chơi mới.
                Còn bây giờ, Khoa phải trở về bên Thắm để hưởng trọn vị ngọt tình yêu mà Thắm đang dâng tặng.
                 
                ***
                Mai nằm liệt giường đã ba hôm, không ăn không ngủ. Nước mắt Mai cũng không còn để khóc. Giờ đây tất cả đối với Mai đều không còn chút ý nghĩa nào! Tất cả đều sụp đổ!
                Những người xóm giềng quanh đó chưa ai hay biết tình trạng của Mai. Mãi đến lúc người Bưu tá già gọi cửa để phát thư thì mọi người mới phát hiện Mai nằm bất tỉnh trong nhà.
                Người ta dùng mọi cách để cứu Mai tỉnh lại.
                Vừa thấy Mai mở được mắt, người Bưu tá già vội vã đưa cho Mai lá thư với hy vọng là thư đó sẽ tiếp thêm sinh lực cho Mai. Nhưng ông đâu có ngờ, tất cả mọi người đều không ngờ rằng vừa đọc xong lá thư, hai mắt Mai trợn ngược lên, bọt mép sùi ra và một lần nữa cô hôn mê bất tỉnh.
                Người ta đọc nội dung lá thư và đã hiểu rõ sự tình.
                Tính mạng Mai ngàn cân treo sợi tóc, như ngọn đèn dầu le lói trong bão táp phong ba. Có mấy người bạn xót thương cho hoàn cảnh của Mai, họ cử một người đại diện lên Sài Gòn để thông báo cho Khoa biết tình hình nguy kịch của Mai.
                Đến tối, người bạn đó quay về và tuyên bố một câu:
                - Thằng Khoa bây giờ là đứa bỏ đi rồi! Nó không còn nhân tính nữa! Tôi chỉ mong nó quay về cho Mai nhìn mặt lần cuối, để có phải ra đi thì cô ấy cũng thỏa lòng. Vậy mà nó không một chút xót thương, không một mảy may xúc động. Nó bảo một khi Mai đã muốn chết rồi thì nếu nó về cũng bó tay thôi, vì nó không phải là bác sĩ, thà rằng nó ở trên đó luôn để… tránh phải chứng kiến cảnh đau lòng…
                Mọi người lắc đầu quay đi, không ai còn lời lẽ gì để bình phẩm về Khoa nữa.
                Mấy giờ sau thì Mai mất. Trước khi trút hơi thở sau cùng, khóe miệng Mai trào ra hai dòng máu đỏ. Mãi cho tới khi liệm vào áo quan, máu trong miệng Mai vẫn trào ra mãi không ngừng. Hai mắt Mai mở lớn, dù mọi người đã làm hết cách vẫn không sao cho nó khép lại được.
                Người ta bảo, có lẽ do Mai quá uất ức nên mới bị như thế.
                Lúc ở quê nhà Mai trút hơi thở cuối cùng thì khi đó nơi thành phố xa hoa rực ánh đèn màu Khoa đang trên đường đến nhà chở Thắm đi dạo phố.
                Vừa trông thấy Khoa, Thắm kêu lên hoảng hốt:
                - Trời ơi! Anh bị làm sao vậy?
                Khoa ngơ ngác:
                - Anh có bị gì đâu?
                Chỉ vào vết máu loang lổ trên áo Khoa, Thắm run giọng:
                - Không bị gì mà ghê thế à? Anh bị… bị tông xe phải không?
                Lúc này thì Khoa trở nên lo sợ:
                - Ủa, sao lạ vậy? Anh đâu có bị gì! Nè, em xem đi, thân người anh đâu có bị trầy xước gì đâu? Nãy giờ anh cũng không đụng chạm vô chỗ nào hết. Ở nhà, tắm xong là anh đến đây ngay…
                Khoa vừa nói vừa vén áo lên cho Thắm kiểm tra. Quả thật thân thể Khoa vẫn vẹn nguyên lành lặn. Vậy thì vết máu đó ở đâu ra?
                Suy nghĩ muốn bể óc Khoa vẫn không tài nào hiểu được. Cuối cùng Thắm đành kết luận:
                - Có lẽ trên đường đi, anh bị ai đó tạt nước gì mà anh không hay…
                Khoa cũng phải tạm chấp nhận cái giả thiết đó.
                Tâm trí cả hai đều hoang mang bất ổn trước sự cố đó nên đồng ý hủy cuộc đi chơi. Khoa xin phép ra về để thay áo.
                Về tới ký túc xá, Khoa vội vàng chạy thẳng lên phòng.
                Cũng may tối nay mấy đứa cùng phòng đi vắng hết, lúc còn ở bên ngoài cũng không ai để ý tới vết máu trên áo Khoa, chứ nếu không người ta lại suy diễn lung tung thì phiền phức lắm.
                Gấp rút mở va ly lôi ra một chiếcáo khác, nhưng thật kỳ lạ, chiếc áo ồn cũng vương đầy máu!
                Run rẩy, Khoa đổ hết quần áo trong va ly ra: Tất cả đều vấy máu!
                Kinh hãi, Khoa bước lùi ra sau mấy bước đứng chôn chân một chỗ nhìn chăm chăm vào mớ áo quần bỏ ngổn ngang trên giường.
                Bất chợt Khoa có cảm giác ai đó đang đứng rất gần bên cạnh, Khoa hoảng hốt quay sang thì chỉ kịp thấy một bóng trắng thoáng qua.
                Hai chân Khoa run rẩy đứng muốn không còn vững nữa, nhưng lý trí của Khoa vẫn còn tỉnh táo.
                “Chẳng lẽ Mai chết thật rồi sao? Tất cả quần áo này đều là của cô ấy may sắm cho mình… Phải rồi, đúng rồi! Chắc là cô đã chết! Mai ơi, đừng làm anh sợ, em sống khôn thác thiêng, em đừng nhát anh như thế! Em vẫn luôn thương yêu anh mà, phải không Mai?”
                Khoa lắp bắp nói thầm trong miệng. Và bỗng nhiên như phát cuồng, Khoa giật phăng chiếc áo đang mặc trên người, gom luôn đống quần áo trên giường chạy vội vào nhà tắm. Khoa hối hả đổ nước ra thau, lập cập đổ gần nửa hũ xà bông vô thau rồi hì hục giặt, hì hục chà xát.
                Nhưng dù Khoa có cố gắng đến mấy thì những vết máu trên áo vẫn không hề phai nhạt đi chút nào. Nó cứ đỏ thắm lên như trêu tức Khoa vậy!
                Mồ hôi túa ra đẫm ướt cả thân người, chảy từng dòng trên mặt. Khoa hấp tấp vắt khô đống quần áo rồi dồn tất cả vào một chiếc túi ni lông đen. Xong đâu đấy, Khoa vơ đại chiếc áo của thằng bạn giường bên khoác vào người rồi xách túi đồ đi xuống.
                Khoa cho xe chạy thật nhanh qua nhiều đường phố quanh co, đến bên một bờ sông vắng Khoa dừng lại rồi thẳng tay vứt túi đồ xuống sông.
                Khoa thở hổn hển, kéo áo lau mồ hôi trán rồi lên xe chạy thẳng tới shop thời trang mua một lúc mấy bộ đồ.
                Về tới ký túc xá, Khoa mệt mỏi, lừ đừ như người vừa ốm dậy. Từ chiều tới giờ vẫn chưa ăn uống gì nhưng Khoa không hề cảm thấy đói.
                Khoa nhắm mắt lại những vẫn không xua được cái màu đỏ quái quỷ kia, những đốm đỏ cứ không ngừng nhảy múa, rồi chúng lại tan ra thành dòng, không, không phải dòng mà là một con rắn, một con rắn đỏ tươi màu máu đang uốn éo tiến về phía Khoa. Khoa kinh hãi hét lên rồi mở bừng mắt, trước mắt Khoa rõ ràng là Mai đang đứng đó. Mai đang nhìn Khoa, rưng rưng nước mắt.
                Khoa giật tung chiếc mền phủ kín mặt, người co rúm lại, câùt giọng van xin:
                - Mai ơi… em đừng làm anh sợ…
                Run lẩy bẩy một hồi vẫn không thấy xảy ra chuyện gì, Khoa có phần bình tĩnh lại. Hé mắt nhìn ra ngoài không thấy bóng một ai, Khoa mới yên tâm ngồi dậy. Người Khoa ướt đẫm như vừa mới xối nước nhưng Khoa cũng không màng lau.
                Chưa hết hoảng loạn, bỗng nghe tiếng đùa giỡn ngoài hành lang Khoa biết đám bạn đã về tới. Mừng rỡ, nhưng Khoa lại sợ chúng nó thấy được vẻ mặt khó coi của mình lúc này nên Khoa nằm xuống, xoay mặt vào tường giả vờ ngủ.
                - Trời! Hôm nay có chuyện lạ nghe! Mới giờ này mà thằng Khoa đã lên giường ngủ rồi. Ê, dậy mầy! Bộ gà hay sao mà ngủ giờ này?
                Khoa hất tay thằng bạn ra, giả bộ cằn nhằn:
                - Tao bị bệnh rồi, tụi mầy làm ơn để tao yên một chút đi!
                - Bệnh thiệt hay đang giận dỗi với người yêu đây?
                Thấy Khoa không có phản ứng gì, đám bạn tưởng Khoa đang có chuyện gì buồn nên cũng không ai chọc ghẹo gì nữa. Khoa cố dỗ giấc ngủ.
                - Trời, ai làm gì mà máu chảy tùm tum trong phòng vậy?
                Nghe tiếng hỏi của thằng bạn, cả mấy đứa trong phòng đều xúm lại coi, Khoa cũng ngồi bật dậy. Dưới nền nhà là một vũng máu nhỏ.
                - Khoa, nãy giờ mầy ở nhà, xảy ra chuyện gì vậy?
                Khoa ấp úng:
                - Có chuyện gì đâu? Tao thấy mệt nên vừa về tới phòng là lên giường nằm ngay, đâu thấy chuyện gì?
                Đám bạn nhìn Khoa đầy thắc mắc, không hiểu nó gặp phải chuyện gì mà không kể được với bạn bè?
                Mấy ngày liên tiếp Khoa luôn bị ám ảnh bởi màu máu đỏ tươi và bóng hình thấp thoáng mờ ảo của người con gái.
                Khoa muốn về quê xem có phải thật sự Mai đã chết hay không, nhưng anh sợ… sợ thái độ của mọi người dành cho mình nếu thật sự Mai không còn. Thôi, dù Mai còn sống hay đã chết thì mình cũng không làm gì hơn được nữa… Khoa không thể từ bỏ tất cả để quay về sống đời đạm bạc với Mai, không thể… nhất là hiện tại, Khoa đang ngấp nghé đi vào một con đường tương lai thênh thang khác, một con đường ngẫu nhiên mở ra trước mắt anh và anh nhất định bằng mọi cách phải đặt chân vào đó.
                Với cái vẻ ngoài đẹp trai, hiền lành và cách ăn nói khôn ngoan, lễ độ, Khoa đã gây được cảm tình ngay lần đầu tiên tiếp xúc với mẹ con Thiên Lan khi anh tìm đến trả cho Thiên Lan chiếc ví.
                Bà Ngọc Lan tuổi ngoài năm mươi nhưng trông bà trẻ trung hơn tuổi rất nhiều. Ở lứa tuổi đó mà bà vẫn còn giữ được những đường nét mà khối cô khao khát. Gương mặt và dáng dấp của bà vẫn chưa phai mờ dấu vết thanh xuân.
                Thiên Lan tuy không có điểm nào giống mẹ nhưng ở cô lại có một sức hút vô cùng ma quái. Thiên Lan mang trên người mình một vẻ đẹp siêu thực, một vẻ đẹp liêu trai tưởng chừng chỉ có trong huyền thoại.
                Thiên Lan rất ít nói, hỏi gì cô cũng chỉ mỉm cười, lâu lắm mới thốt ra một vài câu ngắn ngủi. Nhưng có vẻ Thiên Lan rất mến Khoa. Ánh mắt cô nhìn Khoa đã nói lên điều đó.
                Được lời mời của bà Ngọc Lan, Khoa thường xuyên đến ngôi biệt thự sang trọng đó để trò chuyện với Thiên Lan.
                - Con bé không được khỏe nên sự giao tiếp của nó với thế giới bên ngoài cũng rất hạn chế. Nó không có bạn bè, suốt ngày chỉ luẩn quẩn trong khuôn viên này, thỉnh thoảng mới được con bé giúp việc đưa đi chơi nên nó cũng buồn lắm. Từ hôm gặp cháu, bác thấy nó có vẻ quyến luyến cháu lắm…
                - Thiên Lan bị bệnh gì vậy bác?
                Lòng khấp khởi mừng vui, Khoa ngập ngừng hỏi tiếp.
                Bà Ngọc Lan buồn buồn:
                - Nó bị tim cháu ạ! Bác đã chữa chạy nhiều nơi, đã đưa nó ra nước ngoài một thời gian với hy vọng nền y học phát triển sẽ chữa lành cho nó, nhưng mà… nơi nào người ta cũng chịu thua… Với lại, do sống khép kín từ nhỏ nên… nên trí óc của nó cũng không phát triển được một cách bình thường…
                - Bác nói sao ạ?
                Khoa ngạc nhiên hỏi lại.
                Bà Ngọc Lan lắc đầu:
                - Không, không sao, bác chỉ nói là… nó hơi… ngây thơ một chút, có nhiều điều nó không hiểu hết được…
                Khoa cười:
                - Cháu nghĩ bác đừng quá bận tâm. Nếu được tiếp xúc với bên ngoài, được đi đây đi đó, cháu tin là không bao lâu sau, Thiên Lan sẽ hiểu biết nhiều hơn thôi bác ạ!
                Bà Ngọc Lan gật đầu:
                - Ừ, bác cũng hy vọng như thế! Mọi việc bác nhờ cậy ở cháu, cháu ráng giúp bác nhé, bác thì bị cuốn vào công việc, không còn được mấy thời gian mà lo cho con gái…
                Khoa mỉm cười:
                - Dạ, xin bác yên tâm, cháu sẽ cố gắng.
                Chỉ sau vài lần tiếp xúc thân mật với Thiên Lan, Khoa nhận thấy cô gái này không chỉ ít hiểu biết như lời bà mẹ nói, mà cô ta là một người quá ngớ ngẩn, một người khờ khạo, một người có bộ óc phát triển không bình thường!
                Khoa thật sự choáng váng và tiếc nuối giùm cho Thiên Lan khi phát hiện ra điều đó. Một người con gái đẹp đến thế, giàu đến thế lại bị… khùng thì quả là đáng tiếc!
                Nhưng không sao, chính sự khờ khạo quá mức của cô gái sẽ giúp Khoa xúc tiến âm mưu của mình một cách nhanh chóng hơn, đỡ mất nhiều công sức hơn!
                Tuy nhiên Khoa vẫn không dám buông hẳn Thắm. Khoa không muốn mình mất cả chì lẫn chài một khi “kế hoạch hai” lỡ không may bị phá sản. Làm bất cứ điều gì Khoa cũng cân nhắc thật kỹ càng, chi li từng bước một.
                Viện cớ phải dành nhiều thời gian cho luận văn tốt nghiệp, những cuộc thăm viếng và dạo chơi của Khoa dành cho Thắm đã thưa dần. Mặc dù rất buồn nhưng Thắm không mảy may nghi ngờ gì, cô muốn tạo mọi điều kiện tốt nhất để Khoa yên tâm đầu tư cho học tập.
                Khoa vốn rất thông minh, rất nhạy bén, nên luận văn tốt nghiệp đối với anh không mấy vất vả. Thời gian này Khoa luôn tung tăng bên cạnh cô gái vàng của bà tỉ phú!
                Từ thuở bé, Thiên Lan không được tiếp xúc nhiều với bên ngoài, nên lần đầu tiên được một chàng trai quan tâm săn sóc, đưa đi chơi khắp nơi và hết lòng chìu chuộng, bản năng phụ nữ trong Thiên Lan đã bùng lên, Khoa như thỏi nam châm cuốn hút lấy cô, không thể rời ra được.
                Những lúc không có Khoa bên cạnh, Thiên Lan buồn rầu ngơ ngác, không buồn ăn uống bất cứ thứ gì khiến bà Ngọc Lan phát hoảng lên. Bà không ngờ tình cảm của con gái lại phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ như vậy.
                Suy đi nghĩ lại, bà Ngọc Lan thấy chỉ có một cách duy nhất có thể đem niềm vui, hạnh phúc đến cho con gái mình, đó là để cho nó kết hôn với Khoa.
                Bà nhận thấy Khoa là một thanh niên tốt, có ý chí và nhất là bản tính chất phác thật thà, rặc mùi nông dân ở Khoa đã gây cho bà rất nhiều cảm tình. Giao con gái vào tay một đứa như nó bà cũng yên tâm.
                Nghĩ vậy nên bà gọi Khoa đến và nói thẳng ý định của mình.
                Quá bất ngờ và sung sướng vì đạt được mục đích một cách chóng vánh đến như vậy, nhưng Khoa vẫn làm bộ chối từ:
                - Dạ thưa bác, thật tình cháu rất thương Thiên Lan, cảm thông với những thiệt thòi mà cô ấy phải gánh chịu. Nhưng… được làm bạn với cô ấy là cháu đã hạnh phúc lắm rồi, việc tiến xa hơn nữa… cháu… thật sự cháu không dám nghĩ tới, vì cháu không đủ điều kiện để làm rể nhà bác…
                Bà Ngọc Lan mỉm cười dịu dàng:
                - Cháu đừng nghĩ vậy, nếu cháu thật tình thương Thiên Lan thì đừng ngần ngại gì nữa…
                Sau buổi nói chuyện hôm ấy không lâu thì ngày cưới được ấn định. Khoa lâng lâng như người say rượu, anh không ngờ ông trời lại tốt với mình như vậy, chưa kịp mất công sức thì đã hái được quả chín thơm rồi.
                Nghĩ đến sự khờ khạo của Thiên Lan, Khoa không khỏi chạnh lòng, nhưng anh lại chặc lưỡi bỏ qua tất cả. Nhan sắc đó, tài sản đó không phải đã bù đắp cho sự khiếm khuyết của cô ta hay sao? Một sự bù đắp mà phần hời nghiêng hẳn về phía Khoa.
                Một khi mình đã có tiền bạc và quyền lực trong tay thì muốn bao nhiêu cô gái vừa trẻ đẹp, vừa thông minh lại không được? Hiện nay bàn tay mình đã chạm vào chiếc chìa khóa tủ sắt của gia đình này rồi còn gì! Tiền bạc và quyền lực là hai thứ luôn song hành cùng nhau, mình lo gì chuyện cỏn con như thế!
                Hãy coi Thiên Lan là một vật trang trí trong nhà, mà chắc chắn ai cũng phải trầm trồ khen ngợi.
                Dạo này không hiểu sao Khoa thường mơ thấy Mai, lần nào cũng thấy cô khóc thật nhiều, rồi bỗng dưng Mai nhe răng ra cười với Khoa. Cái miệng đỏ lòm máu của Mai tua tủa những chiếc răng nanh dài và nhọn hoắc.
                Không biết bao nhiêu đêm Khoa hét lên hoảng loạn khiến bạn bè ai nấy đều tỏ ra lo lắng cho Khoa. Người ta nghĩ chắc do Khoa học hành nhiều quá nên đầu óc căng thẳng gây ra những mộng mị không hay. Nhiều người khuyên Khoa nên tìm tới các bác sĩ chuyên khoa thần kinh để được điều trị. Người khuyên Khoa nên đi bác sĩ này, kẻ lại bảo cần tới với bác sĩ kia… Ai nói gì Khoa cũng ừ hữ nhưng anh không đi bất cứ nơi đâu, vì anh tin chắc thần kinh của mình vẫn luôn hoạt động tốt.
                 
                ***
                Mặc dù chưa tới ngày cưới, nhưng cầm được tờ giấy đăng ký kết hôn trong tay, Khoa đã yên tâm vì biết rằng trong ván bài này mình đã là người thắng cuộc!
                Khoa ăn ngon, ngủ yên hơn, những vết máu và hình bóng mờ ảo thấp thoáng của Mai cũng không còn làm Khoa quá run sợ như lúc ban đầu. Khoa có lòng tin ông trời luôn ủng hộ anh. Mà một khi đã được ông trời ưu ái rồi thì còn sợ gì ma quỷ nữa.
                Khoa cũng không còn sợ làm mất lòng Thắm và gia đình Thắm nữa. Một ngày không xa, có lẽ ngay cả ba mẹ Thắm cũng phải cúi đầu thán phục Khoa!
                Khoa thẳng thừng từ chối những lời nhắn gởi của Thắm và khi Thắm tìm gặp mặt, Khoa lại tỏ ra lạnh lùng xa lạ.
                Hoang mang, hẫng hụt, Thắm hoàn toàn không biết chuyện gì đã làm cho tình cảm mặn nồng giữa cô với Khoa lại trở nên như thế?
                Đùng một cái, Khoa phát thiệp cưới mời bạn bè, trong đó có cả Thắm!
                Cả trường xôn xao bàn tán. Những đứa bạn thân hết lời khuyên can nhưng Khoa chỉ cười:
                - Cuộc đời tao là do tao quyết định, tụi mầy đừng nên can thiệp. Nể tình bạn bè tao mời tụi bây, đứa nào muốn dự thì đi, đứa nào không đi thì thôi tao không ép.
                Bạn bè đều ngỡ ngàng, Khoa bây giờ như đã biến thành một con người khác hẳn!
                Riêng Thắm, sau phát bàng hoàng Thắm lại nghĩ có khi nào Khoa đang thử lòng mình? Khoa đang giả vờ như thế để xem mình yêu Khoa đến mức độ nào? Nhưng mà… thiệp cưới này rất đông bạn bè được nhận chứ đâu riêng gì Thắm?
                Phải tìm gặp Khoa thôi! Thắm nhất định như thế.
                Cuối cùng thì Khoa cũng phải đối mặt với Thắm để giải quyết một lần cho xong vì ngày cưới đã đến rất gần.
                Sở dĩ Khoa dám ngang nhiên công bố việc cưới xin này, ngang nhiên gởi thịêp mời cho người mình vừa phụ bạc, là vì Khoa biết chắc với tính cách của Thắm, không bao giờ Thắm lại ghen tương quậy phá, và nhất là với danh giá gia đình của mình, dù có đau đớn như thế nào đi nữa Thắm cũng phải âm thầm chịu đựng, không thể nào làm lớn chuyện.
                Thật vậy, trong thâm tâm Thắm, dù rất phẫn uất, rất đau lòng nhưng chưa hề có một ý nghĩ nào theo kiểu “ăn không được thì thà đạp đổ”!
                Gặp lại Khoa, nhìn cái cười đểu giả trên gương mặt hiền lành chất phác, tận mắt chứng kiến sự lạnh nhạt thờ ơ của người mới đây thôi còn ôm ấp mình trong vòng tay, thủ thỉ bên tai mình những lời ngon ngọt Thắm biết đã không còn gì để níu giữ nữa! Không một lời mắng chửi, không một giọt nước mắt rơi ra, Thắm lặng lẽ quay về với trái tim tan nát.
                Nhưng khi vừa quay lưng nước mắt Thắm lại tuôn trào không sao kìm nén được. Dù bản tính có cứng rắn đến đâu thì Thắm vẫn là con gái. Khoa là người yêu đầu đời của cô, là người mà cô đã tin tưởng trao trọn trái tim và cả đời con gái thì dù có là sắt đá Thắm cũng không tránh được tổn thương…
                 
                ***
                Đám cưới diễn ra ngoài sự tưởng tượng của Khoa. Cả một nhà hàng rộng lớn đầy ắp những vị khách sang trọng. Những chiếc xe hơi đời mới đắt tiền đậu kín cả một khoảng sân.
                Cô dâu chú rể đẹp đôi không chê vào đâu được!
                Những lời chúc tụng vang lên hòa với tiếng khui nắp những chai rựơu ngoại… Tất cả âm thanh ồn ào vui vẻ đó tạo thành một thứ men khiến Khoa ngây ngất.
                Ôm trong tay cô dâu đẹp như tiên giáng trần đến từng bàn nhận những lời chúc mừng, khen ngợi, Khoa cảm thấy chếch choáng như mình đang đứng trên một đỉnh cao, rất cao của cuộc đời để nhìn xuống…
                Kể từ hôm nay Khoa đã chính thức đặt chân vào giới thượng lưu. Cuộc đời Khoa từ nay vĩnh viễn không bao giờ còn phải lặp lại những cảnh túng thiếu, trở trăn, phải cân nhắc từng đồng cho mỗi bữa ăn đạm bạc. Cuộc đời Khoa từ hôm nay bắt đầu rẽ sang một hướng hoàn toàn khác, nơi đó là con đường bằng phẳng đầy hoa thơm trái ngọt, rộn vang tiếng hót chim muông…
                Cái viễn cảnh xán lạng ấy khiến Khoa ngây ngất không thôi.
                Đang mơ màng trong hạnh phúc, Khoa bỗng sững người khi nhìn thấy ở ngay cửa chính một người con gái khác trong bộ áo cô dâu lộng lẫy đang từ từ chậm rãi đi vào.
                Định thần nhìn kỹ, Khoa thấy người đó rõ ràng là Mai!
                Khoa kéo Thiên Lan sát vào lòng, hỏi nhỏ:
                - Ai đang đi vào vậy em?
                Nhìn theo hướng tay Khoa chỉ, Thiên Lan lắc đầu ngơ ngác:
                - Em có thấy ai đâu?
                Nhưng cô gái kia vẫn thong thả tiến đến bên Khoa, trên mặt cô là nụ cười rất tươi, một tay ôm bó hoa thật lớn, một tay vén chiếc váy áo kéo lòa xòa dưới đất.
                Tất cả quan khách trong nhà không ai có phản ứng gì khác lạ, có nghĩa là không ai nhận thấy, chỉ trừ Khoa!
                Sợ toát mồ hôi, Khoa định kéo tay Thiên Lan chạy ra chỗ khác, nhưng lúc ấy người ta đang nâng ly chúc tụng, máy ảnh, máy quay phim đang chỉa thẳng vào anh thì làm sao có thể bỏ chạy được, vì thế Khoa phải trân mình chịu trận.
                Cô gái tiến sát bên Khoa, vòng một tay muốn khoác vào tay Khoa nhưng anh vội vàng rụt ngay lại. Bất thần, cô gái kề sát mặt mình vào Khoa, phả ra một làn hơi lạnh buốt, gương mặt xinh đẹp tươi cười lúc nãy giờ đây đã biến thành một khuôn mặt dị dạng, gớm ghiếc khiến Khoa chỉ muốn ngất đi…
                Khoa loạng choạng suýt ngã, may nhờ một người khách nhanh tay giữ kịp. Ai cũng cho là tại Khoa uống rượu, lại vất vả từ sáng sớm nên bị choáng.
                Bà Ngọc Lan cho phép con rể vào phòng khách sạn nằm nghỉ một chút, khi nào thật khỏe hãy ra tiếp khách.
                Khoa không nói gì, chỉ mệt mỏi nghe theo. Liếc mắt nhìn lại đã không thấy bóng dáng người con gái đó đâu nữa.
                Vợ chồng Khoa vào phòng nghỉ ngơi, mãi đến xế chiều, khi khách khứa đã về gần hết Khoa mới gượng dậy nổi cùng vợ ra ngoài thu dọn đồ đạc để về nhà.
                Vợ chồng Khoa cùng với bà Ngọc Lan bước từ trên chiếc xe hơi bóng lộn vào nhà, chưa kịp ngồi yên chỗ đã nghe tiếng cô bé giúp việc reo vang ngoài cổng:
                - Bà ơi, cô Hai ơi! Cô cả về, cô cả về rồi!
                Bà Ngọc Lan và Thiên Lan mừng rỡ chạy vội ra cổng, Khoa cũng chạy theo nhưng lòng chợt hoang mang lo sợ.
                “Cô Hai, cô Cả? Chẳng phải bà Ngọc Lan chỉ có duy nhất một cô con gái hay sao?”
                Từ ngoài cổng đi vào là một cô gái dong dỏng cao, có nét mặt phảng phất giống bà Ngọc Lan như hai chị em.
                Ở cô gái toát lên một phong cách tự tin, nhanh nhẹn, khác hẳn sự yếu đuối rụt rè của Thiên Lan.
                Cô gái chạy tới, giang rộng tay ôm chầm lấy bà Ngọc Lan:
                - Mẹ ơi… con nhớ mẹ quá!
                Quay sang ôm cả Thiên Lan vào lòng, cô gái cười thật tươi:
                - Chị xin lỗi vì đã không về kịp hôn lễ của em. Em đừng giận chị nhé! Chị không về kịp nhưng vẫn có quà cho em đấy, chút nữa chị lấy cho em xem, đảm bảo em sẽ thích lắm!
                Thiên Lan cười lắc đầu quầy quậy rồi hướng ánh mắt về phía Khoa đang đứng chôn chân nơi bậc cửa.
                Bà Ngọc Lan quay lại nhìn Khoa, giới thiệu:
                - Đây là Yến Lan, chị của Thiên Lan! Còn đây là Khoa, em rể của con đấy Yến Lan ạ!
                Yến Lan buông mẹ và em ra, tiến tới chìa tay ra trước mắt Khoa. Khoa lúng  túng bắt lấy bàn tay nhỏ bé của cô, miệng ấp úng:
                - Chị… chị mới về!
                Yến Lan cười:
                - Ôi, đừng gọi Yến Lan là chị, nghe già lắm! Hãy gọi là Yến Lan thôi, chắc Khoa với Yến Lan cũng chỉ trạc tuổi với nhau thôi mà!
                Khoa lúng túng trước lời đề nghị của Yến Lan, anh nhìn bà Ngọc Lan cầu cứu.
                Bà Ngọc Lan mỉm cười:
                - Tính tình Yến Lan là vậy đó con à! Nó không hề câu nệ bất cứ chuyện gì!
                Yến Lan thở phào, vui vẻ nói:
                - Vừa giải quyết xong công việc là con ra phi trường ngay, ngồi suốt mấy giờ trên máy bay mệt phờ cả người, chỉ mong về tới nhà. Về tới đây rồi tự nhiên bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến hết.
                Bà Ngọc Lan âu yếm dắt tay con gái:
                - Vô nhà nghỉ ngơi đi con, chuyện gì thì để chút nữa nói tiếp. Vợ chồng em con cũng mệt lắm rồi, cả ngày nay phải tiếp bao nhiêu là khách khứa…
                Yến Lan vui vẻ khoác tay mẹ đi vào, Khoa cũng choàng tay qua vợ, đưa Thiên Lan về phòng riêng.
                - Chị Yến Lan là sao với em vậy?
                Cửa phòng vừa đóng lại, Khoa hấp tấp hỏi ngay.
                Thiên Lan mở to mắt nhìn Khoa:
                - Là sao em không hiểu? Chị là chị của em!
                - Chị ruột?
                Khoa run giọng.
                Thiên Lan nhoẻn cười:
                - Dạ không. Chị là con của mẹ, em không phải do mẹ sinh ra.
                Khoa bấu chặt tay vào thành giường, đất trời xung quanh dường như đang đảo lộn.
                - Em… em nói sao? Em không… không phải do mẹ sinh ra?
                Thiên Lan ngước cặp mắt trong veo lên nhìn khoa:
                - Dạ. Mẹ em chết rồi, mẹ Lan mới đem em về nuôi…
                Khoa lảo đảo ngã ngồi xuống giường, mồ hôi túa ra giàn giụa trên mặt.
                Thiên Lan hoảng hốt:
                - Anh! Anh sao vậy? Anh…
                Gạt tay Thiên Lan ra, Khoa nằm dài xuống giường, mệt mỏi nói:
                - Anh không sao đâu! Chắc tại lúc nãy uống nhiều rượu. Em đi tắm trước đi, để anh nghỉ một chút.
                Do dự một chút nhưng không dám cãi lại lời Khoa, Thiên Lan soạn đồ đi vào phòng tắm.
                Nằm một mình trong căn phòng rộng lớn, Khoa nghe cay đắng trào dâng. Khoa đã vứt bỏ tất cả để được như vầy sao? Chỉ được một cô vợ có hình thức bề ngoài còn bộ óc thì rỗng tuếch? Đâu rồi cô con gái một của nhà tỉ phú? Đâu rồi giấc mơ nắm cả gia tài?
                Nước mắt trào ra, Khoa nghiến chặt răng, tay đấm thật mạnh xuống cạnh giường, anh rít lên trong miệng:
                - Không! Nhất định mình không thể chịu thua thảm hại như vầy đâu! Mình phải có cách nào đó…
                Và ngay trong giờ phút đó trong đầu Khoa lại manh nha một kế hoạch khác!
                Ngồi dậy đi loanh quanh khắp phòng và rít liên tiếp mấy hơi thuốc, Khoa đã phần nào lấy lại bình tĩnh.
                Nhìn thấy Thiên Lan thật quyến rũ đi từ phòng tắm ra, Khoa không dằn được dục vọng. Anh nhào tới, bế xốc Thiên Lan lên giường và trút vào cô tất cả bản năng của đàn ông, cùng với nỗi phẩn uất mà Khoa đang chịu đựng.
                Tiếng rên rỉ đau đớn lẫn tiếng van xin của cô gái không làm Khoa dừng được nỗi đam mê đang bốc cháy rừng rực trong người. Nỗi đam mê thể xác hòa với nỗi đam mê vật chất đã biến Khoa thành một con dã thú không có tính người. Con dã thú đội lốt người ấy đang hành hạ một đứa con gái yếu đuối, ngây thơ và hoàn toàn vô tội…
                Khi đã thỏa mãn thể xác, Khoa nằm vật ra giường bỏ mặc người vợ đáng thương đang co rúm người vì đau đớn và sợ hãi.
                Tiếng khóc thút thít của Thiên Lan làm Khoa chợt tỉnh. Anh giật mình vì hành động nông nổi của mình. Không được làm cho Thiên Lan buồn, không được để lộ ra bất kỳ một sơ hở nào, trước mắt những người trong nhà này, mình đóng cho thật đạt vai trò của một anh chồng tận tụy. Có như vậy mới có khả năng bước tiếp những bước sau này.
                Quay lại ôm Thiên Lan vào lòng, Khoa dịu dàng xin lỗi:
                - Anh xin lỗi vì đã chưa chuẩn bị tinh thần trước cho em! Vợ chồng nào cũng vậy em à, lần đầu tiên bao giờ cũng thế, chỉ tại em không quen…
                Trước những lời ngọt ngào âu yếm của Khoa, Thiên Lan đã cảm thấy yên lòng, không còn lo sợ nữa, cô nép sát vào Khoa:
                - Anh đừng làm em sợ như vậy nữa nha! Lúc nãy… lúc nãy anh thật đáng sợ!
                Khoa hôn lên má vợ:
                - Ừ, anh sẽ không như vậy nữa đâu…
                Tối hôm đó, sau khi cơm nước xong, cả nhà quây quần trong phòng khách, Khoa được bà Ngọc Lan kể cho nghe toàn bộ câu chuyện mà từ lúc chiều luôn ám ảnh trong anh.
                Hơn hai mươi năm trước, bà Lan và mẹ của Thiên Lan là đôi bạn rất thân. Năm ấy Yến Lan lên năm và Thiên Lan vừa tròn bốn tuổi.
                Hai bà mẹ đưa con ra công viên chơi rồi ngồi bên nhau tâm sự. Bất ngờ trông thấy Yến Lan chạy ào ra đường đuổi theo quả bóng trong khi một chiếc xe phóng với tốc độ cao đang tiến tới, mẹ của Thiên Lan đã vùng chạy ra, cứu được Yến Lan nhưng phải đánh đổi bằng chính sinh mệnh của mình.
                Từ đó bà Ngọc Lan đem Thiên Lan về nuôi và coi như con ruột của mình.
                Lớn lên, Yến Lan ra nước ngoài du học, hiện nay vẫn chưa tốt nghiệp nhưng đồng thời cô đang phải tiếp nhận và điều hành một công ty lớn do người cha quá cố để lại.
                Còn Thiên Lan, do thể chất yếu đuối và trí óc hạn chế nên chỉ học hết cấp hai là phải ở nhà suốt đến hôm nay.
                Mang ơn lớn của mẹ Thiên Lan, mẹ con Yến Lan luôn muốn bù đắp cho Thiên Lan bằng bất cứ điều gì mà họ có thể làm được.
                Nghe xong câu chuyện, Khoa làm như vô cùng xúc động và cảm thương cho số phận của Thiên Lan, anh kéo vợ ngồi sát vào mình, siết chặt đôi bàn tay mỏng manh của cô gái:
                - Cảm ơn trời phật đã cho anh có cơ hội được chăm sóc em, bù đắp cho em những thiệt thòi mà em phải gánh chịu.
                Thiên Lan sung sướng ngã đầu lên vai chồng.
                Bà Ngọc Lan và Yến Lan nhìn nhau vui mừng trước hạnh phúc của đứa con, đứa em nhiều bất hạnh.
                Lần này Yến Lan được về quê hương nghỉ phép đúng một tháng.
                Theo dự tính ban đầu, sau đám cưới, vợ chồng Khoa sẽ đi hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt, nhưng rồi Khoa xin phép khất lại một thời gian nữa, do anh đang còn vướng một vài vấn đề trong luận văn tốt nghịêp phải bảo vệ nay mai.
                Yến Lan thật sự mừng cho em gái tìm được một người chồng tốt như vậy. Là người giao thiệp rộng, tiếp xúc với nhiều chàng trai hơn hẳn Khoa về hình thức, học vấn cũng như địa vị trong xã hội, nhưng Yến Lan chưa gặp được người con trai trí thức nào có được cái vẻ chất phác thật thà đến như Khoa.
                Có đôi lúc Yến Lan thầm mơ ước sau này mình cũng có duyên gặp một người tốt như vậy.
                Trong khi đó, từng giờ từng phút trôi qua, Khoa luôn suy tính cách nào để hòng gỡ gạt lại sự sai lầm của mình.
                Nhưng Khoa không dám hắt hủi Thiên Lan, mặc dù có những lúc Khoa muốn đem tất cả bực tức mà đổ hết lên đầu Thiên Lan cho lòng mình phần nào vơi bớt…
                Thần kinh Khoa thời gian này luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Vừa phải đối phó với hoàn cảnh, vừa phải suy nghĩ tìm mưu tính kế, lại vừa không yên giấc lúc đêm về.
                Hồn ma của Mai không để cho Khoa yên.
                Nhưng Khoa giờ đây đã là kẻ phát cuồng!
                Lúc nào Khoa cũng tự trấn an rằng mình được ông trời ưu ái, những oan hồn uổng tử đó không làm gì được mình đâu…
                Mà quả thật, Mai không làm gì được Khoa cả. Anh ta vẫn sống trên nhung lụa xa hoa, vẫn nhởn nhơ hưởng lạc, trong khi đó linh hồn Mai phải vất vưởng lang thang, phải nương theo gió theo mây cho qua ngày tháng… Thế giới cõi âm cũng có những quy luật riêng của nó, không phải khi đã chết thành ma rồi thì có thể tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm.
                Xã hội loài người và xã hội của những bóng ma cũng gần giống như nhau. Ở đâu cũng có những người hiền, có những kẻ ác. Có những người chấp hành luật lệ và có cả những kẻ bất chấp tất cả những nội quy khuôn khổ…
                Mai không làm gì được Khoa, Mai chỉ biết giương mắt đứng nhìn Khoa ngày một lún sâu vào tội ác mà không cách gì níu giữ níu giữ anh lại được. Mai chỉ biết hiện hình ra để cảnh cáo Khoa, nhưng thật đau lòng, cả hình bóng mờ ảo của Mai cũng không khiến cho Khoa mảy may suy nghĩ lại.
                Mai biết hết những điều Khoa đang dự tính trong đầu, nhưng cô bất lực, hoàn toàn bất lực!
                Giờ đây Mai chỉ biết quanh quẩn trong ngôi nhà này để chờ đợi cái điều khủng khiếp sẽ xảy đến nay mai…
                Một tuần trôi qua, sự nôn nóng trong lòng Khoa càng thêm dữ dội. Thời gian Yến Lan ở lại nhà đang bị thu ngắn dần, phải gấp rút thực hiện mới có thể có được cơ may lật lại ván cờ.
                Và cơ may đó đã đến.
                Bà Ngọc Lan phải đột xuất đi nước ngoài để giải quyết một số vấn đề vừa mới phát sinh bên đó.
                Nhà chỉ còn lại ba người. Khoa biết rõ chính lúc này là lúc cần phải hành động.
                Nhưng hành động cách nào đây, Khoa không sao biết được!
                Bất chợt Khoa nhớ lại lời dặn của mẹ vợ:
                - Con nhớ nhắc vợ con phải uống thuốc đều đặn mỗi ngày, nếu bỏ cử bệnh của nó sẽ tái phát lập tức. Nó thường không nhớ mình đã uống hay chưa, nên con phải nhắc nhở nó.
                Khoa bật lên một tiếng reo sung sướng. Đây rồi! Chính bà Ngọc Lan đã vẽ ra trước mắt Khoa một cách thức rõ ràng mà lâu nay Khoa không nhận thấy.
                Quả là ông trời không nỡ đẩy Khoa vào đường cùng!
                Khoa vội vã chạy vù ra tiệm thuốc Tây mua một lọ thuốc cảm thông thường có hình dạng giống như những viên thuốc mà Thiên Lan đang phải uống.
                Mỗi bữa cơm, khia cả ba đã ngồi vào bàn, Khoa ân cần rót một ly nước đem tới tận tay vợ và nhắc cô uống thuốc. Thiên Lan ngoan ngoãn nghe theo, còn Yến Lan thì cảm phục trong lòng.
                Quả thật, chỉ một ngày vắng thuốc bệnh của Thiên Lan đã bộc phát trở lại.
                Cô luôn cảm thấy mệt và khó thở. Suốt ngày Khoa không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở bên cạnh để chăm sóc vợ.
                Bên tai Khoa luôn nghe văng vẳng tiếng ai đó kêu mình dừng lại.
                Không, làm sao mà dừng được, Khoa bây giờ giống như một chiếc xe không phanh đang lên một dốc cao, nếu dừng lại ở đây cũng đồng nghĩa với việc Khoa sẽ bị rơi xuống vực sâu thăm thẳm.
                Không, Khoa đã đánh cược đời mình vào trò chơi sinh tử này rồi, dù thắng hay thua, Khoa cũng phải đi cho tới đích.
                Mới mấy ngày trôi qua mà sức khỏe của Thiên Lan đã sa sút trầm trọng. Yến Lan muốn gọi điện thông báo cho mẹ, nhưng Khoa tỏ ý do dự, sợ mẹ bận tâm việc nhà mà không thể giải quyết chuyện rắc rối của công ty.
                Khoa luôn trấn an Yến Lan. Thiên Lan cũng bảo thỉnh thoảng cô thường bị như vậy, chỉ một vài hôm rồi sẽ khỏe lại nên Yến Lan cũng tạm yên lòng.
                Suốt mấy ngày đêm ròng rã Yến Lan và Khoa luôn túc trực bên giường bệnh để chăm sóc Thiên Lan.
                Sáng nay thấy Thiên Lan có vẻ tươi tắn hơn đôi chút, Yến Lan dặn dò cô bé giúp việc đi chợ mua một vài thứ về bồi bổ cho em. Dặn Khoa ở nhà lo cho vợ, cô ra ngoài thay đổi không khí một chst sẽ về.
                 Xong đâu đấy, Yến  Lan  khoác chiếc máy quay phim lên vai đi dạo một vòng quanh thành phố.
                Tuy theo học ở ngành kinh tế và hiện đang là một doanh nhân, nhưng Yến Lan lại mang trong người một tâm hồn nghệ sĩ.
                Thỉnh thoảng Yến Lan cũng làm mấy câu thơ và biết vẽ vời đôi chút. Nhưng niềm đam mê lớn nhất của Yến Lan lại là nghệ thuật nhiếp ảnh.
                Lần nào về Việt Nam, Yến Lan cũng bỏ ra không ít thời gian để đi chụp ảnh, quay phim để ghi lại những đổi thay đang diễn ra hàng ngày trên thành phố quê hương yêu dấu.
                Lần này cũng không ngoại lệ, mê mải với bao cảnh vật, cô đi hơn một buổi, đến lúc bụng đói cồn cào mới chịu quay về.
                Về tới nhà, Yến Lan vui vẻ đi thẳng lên phòng em gái để khoe với nó những tấm ảnh, những thước phim mà cô vừa ghi lại được.
                Thiên Lan mặc dù còn rất mệt những cũng cố gắng cười nói với chị cho chị được an lòng.
                Hai chị em đang vui vẻ thì Khoa bước vào thông báo:
                - Mẹ vừa gọi điện về lúc sáng, bảo Yến Lan tới công ty kiểm tra giúp mẹ một số vấn đề để mẹ giải quyết cho xong trong buổi chiều nay, ngày mai mẹ sẽ quay về. Tôi chờ mãi không thấy Yến Lan về, điện thoại Yến Lan lại quên không mang theo, sợ mẹ trông nên tôi lái xe đi vòng vòng kiếm Yến Lan nãy giờ.
                Nghe em rể nói xong, Yến Lan vội vã đặt chiếc máy quay phim lên bàn rồi hấp tấp tới công ty.
                Khoa ngồi im lặng bên cạnh Thiên Lan hai bàn tay nắm chặt lại.
                Phải hành động, hành động ngay tức khắc, không được dùng dằng nữa… Nếu mình còn dùng dằng, nếu mình bỏ qua cơ hội, ngày mai bà Ngọc Lan về tới lại càng khó ra tay…
                - Dừng lại… Dừng lại Khoa ơi… Dừng tay lại đi anh…
                Tiếng nói quen thuộc lại vọng đến bên tai Khoa.
                Khoa cười gằn, mắt long lên sòng sọc.
                - Không thể dừng được! Không thể nào dừng được!
                Khoa rít lên trong cổ họng.
                Vì ráng sức trò chuyện với Yến Lan nên giờ đây Thiên Lan gần như mệt lã. Cô thở gấp gáp, khẽ gọi chồng:
                - Anh… nước… lấy giùm em… ly nước…
                Khoa quay phắt lại nhìn Thiên Lan bằng đôi mắt đầy sát khí làm cho Thiên Lan trong cơn mệt mỏi càng thêm hoảng sợ.
                Khoa đứng thẳng lên, cẩn thận gài chặt chốt cửa rồi cầm một chiếc gối nhào tới đè chặt lên mặt Thiên Lan.
                Hoảng hốt, Thiên Lan ú ớ kêu lên, nhưng lập tức tiếng kêu yếu ớt của cô bị chiếc gối dưới sức mạnh của Khoa làm nghẹn lại.
                Thiên Lan vùng vẫy một cách yếu ớt rồi nhanh chóng xuôi tay.
                Khi thấy Thiên Lan đã nằm yên, Khoa nhấc tay ra nhưng vẫn cẩn thận kiểm tra lại cho thật chắc ăn rồi mới dọn dẹp mọi thứ ngăn nắp như bình thường, sửa sang lại tóc tai và gương mặt cho Thiên Lan, làm như cô đang ngủ thiếp đi trong cơn mệt mỏi.
                Xong đâu đấy, Khoa gọi cô bé giúp việc, dặn nó thỉnh thoảng vào phòng trông chừng cô Hai ngủ, Khoa đang có việc phải đến trường gấp.
                Vừa mở cửa nhà xe, Khoa chợt thót tim vì một bóng trắng thoáng qua trước mặt, nhìn dáng dấp không phải là Yến Lan hay Thiên Lan mà có vẻ giống… Mai!
                Khoa dụi mắt, nhìn kỹ lần nữa thì không thấy gì. Anh tự mắng mình trông gà hóa cuốc.
                Khoa cho xe chạy tới nhà ông thầy hướng dẫn đề tài để trao đổi một vài vấn đề, tư vấn ông thêm nhiều khía cạnh khác nữa.
                Rất có cảm tình với chàng sinh viên này nên ông thầy tận tình chỉ dẫn. Hai người ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Bất chợt điện thoại trong túi Khoa reo vang, Khoa xin phép thầy rồi vui vẻ nghe điện thoại.
                Sau câu chào hỏi ban đầu, ông thầy trông thấy mặt Khoa tái đi, tay anh run lẩy bẩy:
                - Yến Lan... Yến Lan nói sao? Không! Không thể nào đâu! Lúc nãy tôi chờ cô ấy ngủ ngon rồi mới đi mà! Yến Lan xem kỹ lại đi, cô ấy đang ngủ…
                Không biết người ở đầu dây bên kia nói gì, chỉ thấy Khoa lảo đảo rồi ngã ngồi xuống ghế, chiếc điện thoại trên tay rơi xuống Khoa cũng chẳng buồn nhặt lên.
                Miệng Khoa lắp bắp:
                - Không thể… không thể…
                Người thầy giáo lo lắng, chồm tới lắc mạnh vai Khoa:
                - Có chuyện gì xảy ra với em vậy?
                Nhìn thầy bằng đôi mắt vô hồn, Khoa bật khóc:
                - Thầy ơi… vợ em… chị em vừa bảo vợ em đã chết rồi!
                Người thầy sững sờ. Mới hôm tuần trước nghe tin Khoa cưới vợ, sao hôm nay lại có thể xảy ra chuyện thế này?
                Khoa gượng dậy xin phép ra về. Người thầy cảm thấy không yên tâm khi để học trò mình chạy xe trên đường trong tâm trạng thất thần như vậy. Ông đứng lên theo:
                - Thầy sẽ đưa em về!
                Khoa cúi đầu cảm ơn rồi nhảy vội lên xe, úp mặt vào lưng thầy cố dằn tiếng khóc.
                Ông thầy không biết phải nói lời gì để chia sớt nỗi đau của đứa học trò học xuất sắc, ông chỉ không ngớt lời nhắc nhở Khoa phải thật bình tĩnh, chuyện đâu còn có đó…
                 
                ***
                Bà Ngọc Lan lập tức bay về Việt Nam sau khi nghe báo hung tin của con gái.
                Dù rất đau đớn nhưng vốn là người phụ nữ giàu nghị lực, bà không đến nỗi hoang mang suy sụp.
                Bà biết, bà cần phải cứng cỏi để làm chỗ dựa cho Khoa và cả Yến Lan nữa.
                Trông hai đứa nó mới thật đáng thương làm sao. Yến Lan hoảng loạn trước cái chết bất ngờ của em gái. Còn Khoa, anh chỉ ngồi lặng bên xác Thiên Lan không ăn không uống, ai hỏi gì anh cũng không trả lời, cứ ngồi im như một xác chết.
                Bất kỳ ai nhìn thấy Khoa lúc này cũng không khỏi động lòng.
                Bà Ngọc Lan hiểu được nỗi lòng của con rể. Hai vợ chồng nó thương yêu như vậy, lại mới cưới nhau hơn một tuần, làm sao nó không chết điếng cả người trước sự mất mát lớn lao này.
                - Con đừng quá đau buồn như vậy! Dù sao Thiên Lan cũng đã qua đời, con có làm gì đi nữa nó cũng không sống lại được. Âu đó cũng là số kiếp của nó. Con đừng để linh hồn Thiên Lan phải bị dằn văït khi trông thấy con như vậy…
                Bà Ngọc Lan an ủi con rể.
                Mấy ngày tang lễ trôi qua, Khoa thất thểu như kẻ mất hồn làm không khí trong nhà càng thêm ảm đạm, thê lương.
                Sau khi Thiên Lan được đưa đi chôn cất. Khoa suốt ngày ở trong phòng, ngồi ngắm nhìn di ảnh của vợ.
                Sợ Khoa quá quẫn trí rồi làm những điều dại dột nên bà Ngọc Lan bảo con gái phải luôn luôn kề cận bên Khoa, giúp Khoa nguôi ngoai niềm đau tang tóc đó.
                Ngày ngày, Yến Lan chăm lo cho Khoa từng bữa ăn giấc ngủ. Tình cảm đã bắt đầu nảy nở trong lòng cô.
                Biết là không nên nhưng Yến Lan không thể ngăn được trái tim mình đang dành cho Khoa những nhịp đập dịu dàng, thầm kín.
                Chứng kiến Khoa đau khổ thế nào trước cái chết của em gái, Yến Lan càng thêm cảm mến.
                Đêm đêm, Yến Lan thường trằn trọc khó ngủ, cô hay lang thang ra vườn, ngồi lên chiếc xích đu mà ngày còn sống, mỗi khi về nhà hai chị em cô thường ngồi với nhau nơi đó.
                Mấy hôm nay liên tiếp trong những giấc mơ Yến Lan đều thấy Thiên Lan quay về nhà. Lần nào nét mặt Thiên Lan cũng u buồn ủ rũ, cô không nói với chị tiếng nào, chỉ nhìn Yến Lan rồi bật khóc. Yến Lan cũng chưa lần nào kịp nói với em gái câu gì…
                Lầ này về lại quê hương, Yến Lan cứ ngỡ mình sẽ vui nhiều lắm, vì em gái lấy chồng, gia đình có một người đàn ông cho đỡ phần chông chênh hụt hẫng.
                Aáy vậy mà… đám cưới em gái cô không kịp dự , giờ đây phải dự đám tang.
                Nỗi đau to lớn ấy không biết làm sao cho vơi bớt…
                Dù không có cùng huyết thống, nhưng đối với Yến Lan, Thiên Lan mãi mãi vẫn là đứa em ruột thịt của cô.
                Hai đứa đã cùng nhau lớn lên chung một mái nhà, được sự yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ của cùng một người mẹ, trong suy nghĩ của Yến Lan không có bất cứ một sự phân biệt nào giữa con nuôi và con ruột.
                Tối nay, Yến Lan cũng một mình ra ngồi lên chiếc ghế xích đu, thả tâm hồn mình quay ngược lại những ngày còn thơ bé.
                Ngày đó, hai chị em luôn yêu thương và nhường nhịn lẫn nhau. Yến Lan luôn là người bảo vệ cho đứa em gái hiền lành, khờ khạo. Đừng hòng một ai có thể bắt nạt được Thiên Lan một khi có mặt Yến Lan ở đó.
                Cô giống như con gà mái mẹ sẵn sàng lao vào bất cứ ai để bảo vệ đàn con bé bỏng của mình.
                Đang miên man suy nghĩ, Yến Lan bỗng giật mình nghe tiếng khóc ti tỉ vang lên đâu đó rất gần.
                Cô đứng lên ngó quanh quất. Trời đêm nay không trăng, nhưng ánh đèn hai bên lối đi cũng đủ để soi sáng cả khu vườn.
                Không thấy có gì lạ, nhưng sao tiếng khóc cứ vang lên mỗi lúc một thêm ai oán.
                Yến Lan bắt đầu thấy lạnh dọc theo sống lưng.
                Sống ở nước ngoài từ năm mười sáu tuổi, Yến Lan không bao giờ tin vào những chuyện ma quái, nhưng sao lần này cô cảm giác có một cái gì đó rất lạ đang hiện diện quanh mình.
                Mạnh dạn bước lên mấy bước nữa theo hướng tiếng khóc vọng tới, Yến Lan chỉ thấy những chậu hồng, những luống hoa, những loại cây kiểng đang rì rào lay động trong làn gió đêm man mác.
                - Ai vậy? Có ai ở đây không?
                Yến Lan cất tiếng hỏi khẽ, nhưng không ai đáp lại. Tất cả lặng im một cách đáng sợ.
                Nhưng chỉ một phút sau, tiếng khóc nỉ non ấy lại vang lên ở phía ngược lại làm Yến Lan không còn giữa được bình tĩnh.
                Cô lùi lại dần và vụt chạy vào nhà.
                Lên tới phòng riêng mà tim Yến Lan vẫn còn đập thình thịch.
                Ai đó cố tình trêu ghẹo cô? Không, trong nhà này có ai còn tâm trạng để chơi trò đó nữa? Mẹ cô buồn lặng lẽ, mà hôm nay mẹ lại không có mặt ở nhà. Khoa suốt ngày ủ rũ, con bé giúp việc thì lại càng không dám đùa giỡn kiểu đó với cô.
                Vậy thì ai? Vậy thì cái gì vừa mới xảy ra?
                Yến Lan tiến tới bên cửa sổ đứng nhìn xuống vườn qua khung cửa kính.
                Thật lạ lùng, có bóng người đang thấp thoáng dưới sân, không phải một mà là hai bóng trắng đang lượn lờ qua lại.
                Tiếng rên rỉ vang lên xa vắng, nỉ non.
                Yến Lan chạy vội lên phòng Khoa, đập cửa ầm ầm.
                - Khoa ơi, Khoa ơi! Mở cửa mau lên…
                Nghe tiếng gọi khẩn trương của Yến Lan, Khoa vội vã mở toang cánh cửa, ngạc nhiên hỏi:
                - Yến Lan, có chuyện gì vậy? Yến Lan mau nói đi
                Yến Lan thở hổn hển lôi Khoa đến bên cửa sổ, chỉ tay xuống dưới:
                - Đó Khoa nhìn đi… Khoa có thấy gì không?
                Khoa run bắn người khi nhận ra hai bóng trắng dưới sân, đó không ai khác hơn Mai và Thiên Lan!
                Thế nhưng, trước mặt Yến Lan, Khoa không thể để lộ ra nỗi sợ hãi ấy.
                - Yến Lan… Yến Lan muốn nói thấy gì? Tôi … tôi có thấy gì lạ đâu?
                Yến Lan cuống quýt:
                - Trời ơi, vậy chẳng lẽ chỉ một mình Yến Lan thấy? Chẳng lẽ đó là… đó là ma thật sao?
                Khoa bước tới ôm chầm lấy thân người đang run bắn lên của cô gái, vỗ nhè nhẹ lên lưng cô an ủi:
                - Không sao, không sao đâu! Yến Lan đừng quá hoảng hốt như vậy! Có tôi đây, đừng sợ…
                Yến Lan òa khóc, hai tay bấu chặt vào cổ Khoa.
                Mặc dù trong lòng đang rất đỗi hoang mang, Khoa vẫn không giấu được một nụ cười đắc thắng đang nở trên môi.
                Dỗ dành một lúc, thấy Yến Lan có vẻ đã bình tĩnh lại, Khoa dìu cô về phòng để cô ngồi xuống giường rồi cẩn thận đi kéo tất cả màn cửa lại.
                Xong đâu đấy, Khoa nhìn Yến Lan với vẻ buồn bã:
                - Yến Lan nghỉ ngơi đi! Tôi… tôi về phòng.
                Yến Lan lo lắng:
                - Yến Lan vẫn còn sợ lắm, Khoa ngồi lại với Yến Lan một chút nữa nhé! Một chút thôi để Yến Lan có thời gian bình tỉnh lại…
                Khoa khẽ gật đầu rồi ngồi xuống bên cạnh, nắm lấy bàn tay Yến Lan, nhẹ nhàng đặt lên má cô một nụ hôn.
                Rồi làm như giật mình, Khoa vội buông Yến Lan ra, tỏ vẻ luống cuống:
                - Tôi… tôi xin lỗi Yến Lan… ĐaÙng ra tôi không nên… nhưng tôi, tôi thật đang rất cần có Yến Lan bên cạnh. Nhìn thấy Yến Lan, nỗi khổ đau trong lòng tôi như được vơi bớt. Tôi… tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy nữa…
                Yến Lan bật khóc. Tình cảm tội lỗi mà cô đang cố đè nén lại mấy ngày qua bị Khoa khơi dậy, khơi dậy trong lúc cô đang cần có người chở che, bảo bọc.
                Yến Lan ngã vào vòng tay Khoa thổn thức.
                Bỗng dưng một tràng cười ma quái vang lên làm cả hai đều dựng tóc gáy. Yến Lan càng bấu chặt vào Khoa hơn nữa.
                Còn Khoa, mặc dù cũng sợ không kém, nhưng trong giờ phút sinh tử này, Khoa biết mình cần phải giữ bình tĩnh, không được chùng bước lúc này. Tất cả kế hoạch của Khoa có thành công hay không chính là quyết định vào những lúc như thế này đây.
                Suốt đêm hôm đó Khoa ngồi bên cạnh canh chừng giấc ngủ cho Yến Lan. Cô giật mình thức giấc mấy lần vẫn thấy anh ngồi trầm tư ở đó, dù có nói cách nào Khoa cũng không chịu về phòng ngủ.
                - Yến Lan yên tâm ngủ đi! Thấy Yến Lan hoảng sợ như vậy, có về phòng tôi cũng không ngủ được…
                Mãi tới gần sáng, Yến Lan choàng dậy và thấy Khoa đang ngủ gục trên bàn.
                Cô khe khẽ bước tới lấy chiếc mền choàng qua lưng anh, và thấy trong lòng mình dâng trào một niềm xúc động.
                Từ hôm đó, tình cảm quyến luyến giữa Yến Lan và Khoa càng thêm phát triển, không che giấu được.
                Cuối cùng, Yến Lan cũng phải thú nhận với mẹ rằng cô thật tình yêu thương Khoa, cô muốn thay thế em gái để cùng Khoa xây dựng gia đình.
                Bà Ngọc Lan thở dài khi nghe con gái nói, nhưng bà cũng không phản đối.
                Suy nghĩ của bà trước nay luôn rất thoáng. Bà và Yến Lan đều là người sống, làm việc và giao tiếp với nhiều người ở nước ngoài nên đầu óc cũng không quá câu nệ.
                Tuy nhiên, bà cũng bàn với con gái, gì thì gì, cũng phải chờ đợi thêm một thời gian nữa. Thiên Lan vừa mới mất không bao lâu, mồ chưa xanh cỏ, đừng nên làm tủi vong linh của nó.
                Yến Lan cũng nhất trí đồng ý với mẹ là không tính đến chuyện hôn nhân trong thời gian này, nhưng cô muốn lập tức lo thủ tục để đưa Khoa ra nước ngoài một cách sớm nhất, nhằm giúp Khoa nguôi ngoai nỗi buồn và có thể tiếp tục con đường học vấn.
                Bà Ngọc Lan không phản đối, và ngay lập tức, Yến Lan đi lo thủ tục xuất ngoại cho Khoa.
                Trong nhà lúc này, Khoa vẫn là người đáng thương nhất, được mọi người dành cho sự quan tâm đặc biệt nhất.
                Trước mắt mọi người, Khoa luôn giữ bộ mặt ủ dột khổ đau của người vừa bị mất đi người mình yêu thương nhất, nhưng sau lưng Khoa luôn cười thỏa mãn với bản thân mình.
                Cái gì một khi Khoa đã muốn là phải được! Khoa tự hào về mình biết bao, tự cảm thấy mình hết sức tài giỏi, thấy mình xứng đáng được đứng trên cao hết thảy mọi người trong xã hội.
                Từ hôm thấy bóng ma dưới sân nhà tới nay, hầu như đêm nào Yến Lan cũng nghe có tiếng khóc, rồi hình như có tiếng ai đó gọi tên cô nghe thê thiết lắm, nhưng tất cả những cái đó đều rất mơ hồ, như có như không. Đôi lúc Yến Lan cũng không biết đó là mơ hay thực nữa.
                Nhiều lần Yến Lan muốn kể hết với mẹ, nhưng cô nghĩ mình sắp phải đi xa rồi, nhà chỉ còn mình mẹ, nếu biết thêm việc này e rằng mẹ sẽ thêm lo lắng.
                Nghĩ vậy nên cô không dám nói gì với bà Ngọc Lan.
                Cô đem nỗi lòng đó tâm sự cùng Khoa thì bao giờ cũng được Khoa trấn an và động viên rằng, do tinh thần suy sụp sau cái chết của em gái, thần kinh không vững nên mới nảy sinh rẵnhng chuyện lạ lùng. ĐoÙ cũng là chuyện thường tình, hay xảy ra đối với những người vừa trải qua một cơn sốc mạnh.
                Riêng Khoa, bất kể là đêm hay ngày Khoa đều bị ám ảnh bởi hai bóng trắng ma quái đó. Không đêm nào Khoa ngủ được yên giấc, ban ngày thì luôn luôn giật mình bởi những chuyện không đâu.
                Có đêm đang ngủ, Khoa nghe như có ai đang lay gọi mình, mở mắt ra Khoa nhìn thấy Mai há chiếc miệng đầy máu cười với mình, hoảng sợ, Khoa quay ngoắt vào trong, thì trời ơi, nằm cạnh bên Khoa là Thiên Lan với đôi mắt hoang dại mở to trừng trừng.
                Khoa hét to lên rồi bất tỉnh, nhưng vì phòng Khoa ở tách biệt một mình trên tầng ba nên tiếng thét của Khoa không làm ai hay biết.
                Ngất đi tỉnh lại mấy lần nhưng Khoa vẫn không hề có định bỏ cuộc. Khoa cảm thấy oán hận hai người con gái đó.
                Khoa không tiếc lời nguyền rủa. Khoa tin ông trời luôn ủng hộ Khoa, Khoa đòi hỏi hai hồn ma kia phải biết yêu thương Khoa như lúc họ còn sống, phải biết thông cảm cho Khoa bởi vì Khoa cũng đâu muốn vậy.
                Khoa luôn cho những suy nghĩ của mình là đúng, Khoa không hề nhận thấy được tội lỗi của mình. Khoa đã dấn quá sâu vào tội ác rồi, nên không còn nhận ra đâu là điều phải trái nữa.
                Thân người Khoa gầy rộc hẳn đi, càng khiến cho mẹ con bà Ngọc Lan thêm phần thương cảm và cảm thấy việc đưa Khoa đi nước ngoài là một điều tốt, giúp Khoa rời xa nơi chứa đầy kỷ niệm của hai người.
                Chỉ còn hai ngày nữa Yến Lan lên đường, thủ tục của Khoa khi nào hoàn tất anh sẽ đi sau.
                 
                ***
                Tự nhiên hôm ấy Yến Lan cảm thấy trong người bồn chồn không chịu được.
                Cố nằm dỗ giấc ngủ trưa hoài mà không thành, Yến Lan xuống vườn đi dạo để chờ Khoa về. Khoa đi từ sáng giờ này có lẽ cũng sắp về đến nơi rồi!
                Mấy ngày qua, mỗi khi đêm xuống Yến Lan không còn dám bén mảng ra vườn nữa, nhưng hiện giờ là ban ngày nên Yến Lan không thấy lo lắng hay sợ sệt gì.
                Cô cầm theo một tờ báo, vừa ngồi đong đưa trên ghế xích đu vừa đọc một cách hờ hững.
                - Chị ơi… chị Yến Lan ơi…
                Bỗng đâu Yến Lan nghe rõ ràng một tiếng rên rỉ đau đớn và tiếng người gọi đích danh cô.
                Buông tờ báo, Yến Lan đứng bật dậy:
                - Ai? Ai vừa mới gọi?
                Yến Lan quát lớn.
                Một giọng nói xa xăm đưa lại bên tai cô:
                - Em đây chị ơi… em là Thiên Lan của chị đây…
                Cả người Yến Lan run lên, nước mắt cô trào ra, cô không còn sợ ma quỷ gì nữa, chỉ muốn được nhìn thấy lại hình bóng đứa em gái yêu dấu của mình, dù là hồn ma cũng được:
                - Thiên Lan? Có phải đúng là em không? Em tới trước mặt chị đi Thiên Lan ơi…
                Có tiếng khóc uất nghẹn rồi tiếng nói yếu ớt của Thiên Lan:
                - Chị ơi… em không thể… Em chỉ là hồn ma bóng quê… Em chết oan ức lắm chị ơi…
                Yến Lan hấp tấp:
                - Em nói sao? Em nói rõ cho chị biết đi!
                - Khoa… Hắn là tên Sở Khanh, chính hắn đã giết chết em… Hắn cưới em chỉ vì muốn hưởng gia tài… Khi biết em không phải là con ruột của mẹ, hắn đã ra tay tàn nhẫn với em để quay sang tấn công chị…
                Yến Lan thật sự hoang mang khi nghe em gái kể lại trong tiếng khóc.
                - Em đứng ra trước mặt chị đi, chị van em, em phải đứng ra trước mặt chị để chị xác định có đúng là em không…
                Yến Lan vừa dứt lời thì một luồng gió lạnh buốt thổi hắt tới, trước mặt Yến Lan là hai bóng trắng, một trong hai bóng trắng đó chính là đứa em gái tội nghịêp của cô.
                Vừa nhận ra em, Yến Lan vội nhào tới nhưng cô loạng choạng suýt ngã vào khoảng không trước mặt.
                Hai bóng trắng nhập nhòe rồi tan ra cũng nhanh chóng như lúc xuất hiện.
                - Thiên Lan! Thiên Lan! Em đâu rồi?
                Yến Lan hoảng hốt gọi to.
                - Chị ơi… em vẫn đứng bên cạnh chị đây…
                Nuốt ực nước mắt vào lòng, lấy lại bình tỉnh, Yến Lan hỏi em:
                - Em nói Khoa là kẻ sở khanh? Chính Khoa đã giết em?
                Tiếng khóc ti tỉ lại vang lên, mãi một lúc lâu Yến Lan mới nghe một giọng nói khác, không phải của em mình:
                - Chị ơi, em là người yêu đầu tiên của hắn… Em đã nuôi hắn ăn học ròng rã bao nhiêu năm trời, trao cả đời con gái của mình cho hắn… Nhưng rồi hắn phụ bỏ em khi gặp người con gái khác giàu có và thế lực hơn em. Quá buồn đau tủi hổ em đã không gượng dậy được. Trong giờ phút hấp hối, em chỉ cần hắn về thăm em một lần nhưng hắn vẫn nhẫn tâm bỏ mặc… Em buồn, em giận hắn nhưng khi nghĩ lại em không trách hắn nữa, vì có lẽ những ngày tháng cách xa đã làm tình cảm trong hắn nhạt phai. Nhưng rồi bất ngờ gặp Thiên Lan, biết được gia cảnh của cô ấy, hắn lại một lần nữa bỏ rơi cô gái kia và dùng mọi thủ đoạn để gây lòng tin với gia đình Thiên Lan. Rồi khi biết Thiên Lan không phải là con ruột, tức là khối tài sản khổng lồ kia không do Thiên Lan thừa kế, hắn lại tức điên lên nên đã âm mưu giết chết cô ấy. Em đã nhiều lần hiện về để cảnh cáo hắn, nhưng hắn đã là một con quỷ đội lốt người rồi, hắn không còn sợ gì một bóng ma yếu ớt như em.
                Kể tới đó, hồn ma không thể tiếp tục được nữa bởi những tiếng nấc nghẹn ngào đang dội lên.
                Có tiếng của Thiên Lan tiếp lời:
                - Em và chị Mai giờ đây chỉ là hai hồn ma vật vờ không nơi nương tựa. Bởi vì cả hai đứa em đều chưa ai tới số. Chúng em sẽ phải lang thang như vậy cho đến khi nào phần số mãn thì mới được gọi về trình diện dưới Diêm Vương. Chúng em chỉ có thể hiện thân mờ ảo trong đêm và không can thiệp gì vào chuyện của trần thế, nếu vi phạm sẽ bị phạt… Nhưng khi thấy hắn giở thủ đoạn ra với chị… chúng em không thể chịu nổi, không thể lặng im. Hai đứa em bàn với nhau dù có bị phạt thế nào cũng cam chịu, quyết không để hắn nhởn nhơ như thế nữa, hắn phải bị đền tội…
                - Nhưng hắn sẽ đền tội cách nào đây? Làm sao chị có thể vạch mặt tên mặt người dạ thú đó khi trong tay chị chẳng có một chút gì để gọi là bằng chứng? Chị không thể báo với cảnh sát rằng hồn em gái tôi hiện về nói cho tôi biết như vậy! Bây giờ chị phải làm sao đây?
                Yến Lan tức giận.
                Thiên Lan nuốt nước mắt nói với chị:
                - Chị còn nhớ hôm đó trước lúc em chết, chị có cho em xem mấy tấm hình và phim chị quay trên phố không?
                Yến Lan gật đầu, thắc mắc:
                - Có gì liên quan hả em?
                Thiên Lan cười cay đắng:
                - Chị về tìm lại chiếc máy quay phim đó đi, tội lỗi của hắn nằm trong đó, đó chính là bằng chứng để chị vạch mặt hắn, buộc hắn phải trả lại công bằng, phải đền mạng cho chúng em…
                Yến Lan lẩm bẩm:
                - Máy quay phim… Máy quay phim… Chị cũng không nhớ đã vứt nó ở đâu rồi nữa? Thiên Lan… Thiên Lan… em còn ở đó không?
                Một làn gió lạnh lại hắt qua, cuốn theo những tiếng khóc nghẹn ngào của hai hồn ma tội nghịêp…
                Yến Lan hoảng hốt gọi mãi tên em, nhưng cô biết âm dương đã cách trở rồi, làm sao Thiên Lan có thể quay về với gia đình mãi được…
                Lau nước mắt, Yến Lan chạy vội vào nhà rồi đến ngay phòng mẹ.
                Bà Ngọc Lan đang ngủ trưa, nghe tiếng gõ cửa gấp gáp nên lâït đật ngồi dậy.
                Cánh cửa vừa mở ra, Yến Lan ào vào như một cơn lốc, trông cô có vẻ hoảng hốt ghê lắm.
                Cài chặt chốt cửa, Yến Lan hổn hển nói trong tiếng thở:
                - Mẹ ơi, mẹ có biết Thiên Lan bị người ta giết chết không?
                Bà Ngọc Lan kinh hãi:
                - Con nói gì bậy bạ vậy? Con vừa mơ gặp ác mộng hay sao? Hay con có đau ốm gì không?
                Yến Lan ngồi xuống giường ôm lấy mặt:
                - Con vừa mới gặp Thiên Lan!
                - Sao? Con nói con vừa mơ gặp em con sao?
                Bà Ngọc Lan hỏi lại.
                Yến Lan ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn mẹ:
                - Mẹ ơi, con nói ra có thể mẹ không tin, nhưng con không phải ngủ mơ, con gặp em ngoài vườn, em đã kể cho con nghe tất cả!
                - Em con kể những gì?
                Bà Ngọc Lan bán tín bán nghi.
                - Em con bảo… chính Khoa đã giết nó!
                - Khoa giết nó? Trời ơi, con ơi, con mê sảng mất rồi, con đừng nói những điều điên khùng như vậy… gia đình mình đã quá nhiều bất hạnh rồi, con đừng tưởng tượng ra thêm cái điều ghê rợn ấy…
                Yến Lan lau nước mắt:
                - Mẹ! Mẹ phải tin con! Mẹ biết rồi đó, trước nay con chưa bao giờ tin có chuyện ma quái, và con… con cũng đã có tình cảm với tên lòng lang dạ sói ấy, thì tại sao con lại đặt điều cho hắn được chứ! Mẹ nghĩ lại xem…
                Bà Ngọc Lan không biết phải nghĩ sao cho đúng. Tất cả những điều Yến Lan kể nghe vừa có lý lại vừa phi lý vô cùng.
                Thấy mẹ vẫn chưa tin. Yến Lan đứng lên kéo tay mẹ:
                - Mẹ đi theo con, con sẽ tìm bằng chứng… Thiên Lan đã mách bảo cho con bằng chứng nằm ở chỗ nào. Con quyết tâm phải lấy lại công bằng cho em con và những người con gái khác đã từng bị Khoa lường gạt và vứt bỏ… Mẹ, mẹ đi với con đi mẹ! Con sẽ cho mẹ xem bằng chứng để mẹ biết những gì con vừa kể không phải là một giấc mơ cũng không phải là điều hoang tưởng.
                Bà Ngọc Lan theo con gái về phòng nó.
                Yến Lan lục tung các ngăn tủ trong phòng, áo quần, sách vở bị cô ném ra ngoài tung tóe.
                Bà Ngọc Lan run sợ nghĩ thầm, có lẽ nào con gái bà bị cuồng tâm loạn trí?
                - Con đang tìm gì vậy? Nói cho mẹ biết đi con…
                Giữ hai tay Yến Lan lại, bà Ngọc Lan dịu dàng hỏi.
                Thấy mẹ lắc đầu, Yến Lan sực nhớ ra reo lên:
                - Đúng rồi! Chắc là ở trong phòng của Thiên Lan! Hôm đó con để trên bàn trong phòng Thiên Lan… Cầu trời, cầu trời mấy hôm nay tên súc sinh đó chưa biết được gì. Nhưng… giờ này tên ác quỷ đó sắp về tới rồi. Không thể để hắn về nhà trong lúc này, hắn mà khám phá ra được bí mật đó thì mình sẽ không còn gì làm bằng chứng nữa…
                Rồi Yến Lan hoảng hốt gọi mẹ:
                - Mẹ ơi, mẹ gọi điện cho hắn đi, mẹ sai hắn đi đâu đó, mẹ đừng cho hắn về nhà lúc này… Mẹ… nhanh lên mẹ ơi!
                Mặc dù không mấy tin vào những lời hoảng loạn của con gái, nhưng bà Ngọc Lan vẫn làm theo.
                Bà bấm điện thoại, nhờ Khoa làm giúp một số việc. Anh ta nhanh nhẹn nhận lời.
                Yến Lan cùng mẹ tới phòng Thiên Lan. Lâu nay cửa phòng này không khóa vì Yến Lan vẫn thường ra vô chăm sóc cho Khoa.
                Bà Ngọc Lan lo lắng:
                - Con nói nãy giờ mẹ vẫn chưa hiểu được gì? Sao lại chính Khoa giết chết Thiên Lan? Sao lại phải cuống cuồng đi tìm cái máy quay phim của con? Bằng chứng gì nằm trong đó? Thiệt tình… con làm đầu óc mẹ sắp nổ tung ra rồi đó Yến Lan ạ!
                - Mẹ ơi, mẹ đừng hỏi gì nữa! Bởi vì chuyện này con có nói ra mẹ cũng không tin được, không ai có thể tin được. Bởi vậy, mẹ nhanh chóng tìm chiếc máy quay phim đi, tìm được nó thì mẹ sẽ biết tất cả! Tìm được nó là mọi việc sẽ được phơi bày ra ánh sáng… Trời ơi… Vậy mà suýt chút nữa con lại đón nó về Mỹ… Suýt chút nữa con lại trở thành kẻ tiếp theo sụp vào bẫy rập mà hắn giương ra…
                Vừa nói trong tiếng khóc, Yến Lan vừa lục tung hết mọi ngóc ngách trong phòng.
                Hai mẹ con tìm kiếm một lúc lâu thì Yến Lan phát hiện chiếc máy quay phim của cô bị vứt lăn lóc trên đầu tủ.
                Mừng rỡ xen lẫn với sự hồi hộp, Yến Lan run run mở máy cho hai mẹ con cùng xem.
                Trên màn ảnh từng cảnh vật lần lượt hiện ra: Đường phố Sài Gòn nhộn nhịp, Nhà thờ Đức Bà, cảng Sài Gòn… những hình ảnh lần lượt lướt qua trước mắt hai người… Bỗng cả hai mẹ đều như bị ai đó bóp chặt quả tim khi nhìn thấy thật rõ ràng hành động dã man của Khoa đối với người vợ ốm đau bệnh tật của mình. Khoa đang dùng hết sức lực đè chặt chiếc gối xuống mặt Thiên Lan, Thiên Lan quẫy đạp, chống chọi một cách yếu ớt trên giường… hình ảnh đó đập mạnh vào mắt hai mẹ con Yến Lan làm cả hai đều bủn chân tay, bởi vì không ai có thể ngờ sự việc lại ra nông nỗi thế!
                Mồ hôi túa ra đẫm lưng áo bà Ngọc Lan. Cuộc đời bà đã từng chứng kiến nhiều mặt trái của xã hội, chứng kiến nhiều tội ác do con người gây ra, nhưng bà không thể ngờ được ngay trong nhà bà, trên chiếc giường cưới của con gái bà lại diễn ra một hành động giết người dã man đến vậy, mà kẻ thủ ác lại chính là thằng con rể mà bà đã vô cùng quý mến!
                Bà quỵ xuống sàn nhà, ôm mặt khóc nức nở.
                Lần này Yến Lan lại tỏ ra bình tỉnh hơn mẹ. Cô dìu mẹ về phòng rồi căn dặn bà nếu Khoa có về phải ráng làm như không có gì xảy ra, mọi việc Yến Lan sẽ lo liệu.
                Vội vã bỏ chiếc máy quay phim vô túi xách, Yến Lan hộc tốc chạy đến trụ sở công an gần nhất, cô quyết tâm không để Khoa có cơ hội thoát khỏi tội lỗi tày trời này.
                Còn lại một mình trong phòng, bà Ngọc Lan không sao cầm được nứơc mắt. Từng cơn nức nở cứ dội lên không ngừng từ lồng ngực bà, khiến bà không còn chút sức lực nào nữa hết!
                Bà úp mặt xuống gối rên rỉ:
                - Thiên Lan ơi, đứa con gái bạc phận tội nghịêp của mẹ ơi… Hãy tha lỗi cho mẹ… Mẹ cứ ngỡ con sẽ được hạnh phúc nhưng mẹ nào ngờ con của mẹ phải chết oan chết ức như vậy… Thiên Lan ơi… Làm sao mẹ còn mặt mũi nào để gặp lại mẹ con đây hở Thiên Lan…?
                Đang khóc mùi mẫn, bà Ngọc Lan có cảm giác ai đó vừa bước vào phòng. Bà giật mình ngồi dậy thủ thế.
                Từ lúc biết ra bộ mặt thật của Khoa, bà luôn thấp thỏm lo sợ. Bà sợ nếu Khoa phát hiện bí mật của mình đã bại lộ, chắc chắn hắn không ngại gì mà giết cả hai mẹ con bà để bịt đầu mối. Vì vậy, và cứ tưởng Khoa lẻn vào phòng.
                Nhưng trong phòng ngoài bà ra vẫn không có ai, chỉ thấy tấm rèm đang lay động mạnh mặc dù các cánh cửa đều đã được đóng kín và trong phòng không hề mở quạt máy.
                - Thiên Lan ơi, có phải con về với mẹ đó không con?
                Bà Ngọc Lan gọi tên con trong tiếng khóc.
                - Mẹ ơi… con về với mẹ đây…
                Một giọng nói yếu ớt từ xa vọng tới. Bà Ngọc Lan hớt hãi nhìn quanh:
                - Thiên Lan! Thiên Lan! Con đâu? Con cho mẹ nhìn mặt con lần sau cuối đi con… Mẹ nhớ con, mẹ rất nhớ con…
                - Con cũng rất nhớ mẹ… nhưng mẹ ơi, con không thể… con không thể hiện ra với nguyên vẹn hình hài được nữa… con không còn sức mẹ ơi…
                Bà Ngọc Lan nghẹn lời không còn nói gì thêm được nữa. Bà quỳ mọp trên giường huơ tay tứ phía mong muốn được chạm vào con gái, nhưng đứa con gái yêu dấu của bà giờ đây chỉ còn là sương khói mỏng manh thì làm sao bà có thể chạm vào được nữa.
                - Mẹ ơi, mẹ đừng quá đau buồn… Mẹ hãy giúp cho con được nhẹ lòng nghe mẹ?
                Tiếng nói của Thiên Lan thoảng qua như hơi thở.
                - Mẹ phải giúp con bằng cách nào hở con?
                Bà Ngọc Lan thở hổn hển.
                - Mẹ ơi… mẹ cúng cho con đi, mẹ cúng cho chị Mai nữa… Chị ấy cũng tội nghịêp lắm mẹ ơi… Mẹ hãy cầu nguyện cho linh hồn chúng con sớm được siêu thoát, chúng con không chịu đựng nỗi sự vất vưởng thế này đâu… Mẹ ơi… mẹ đừng quá đau buồn nghe mẹ… mẹ ơi…
                Tiếng nói mỗi lúc một xa vời vời, cuối cùng chỉ còn rơi lại tiếng nức nở thương tâm.
                - Con ơi! Thiên Lan con ơi… con đừng bỏ mẹ con ơi…
                Bà Ngọc Lan kêu lên tuyệt vọng khi thấy tấm màn lại một lần nữa lay động. Một bóng trắng thoáng qua rồi mất hút. Bà Ngọc Lan òa lên khóc ngất từng cơn…
                 
                ***
                - Thắm ơi! Thắm! Ra đây ba cho con xem cái này, nhanh lên con!
                Nghe tiếng gọi gấp gáp của cha, Thắm vứt quyển tập xuống bàn rồi chạy vội ra phòng khách.
                Vừa trông thấy Thắm, ông Hòa hỏi ngay:
                - Con đã đọc báo sáng nay chưa?
                - Dạ chưa! Có gì không ba?
                Thắm ngạc nhiên trước vẻ khẩn trương hiếm thấy của ông Hòa.
                - Đây, con xem đi! Ba thật không tin vào mắt mình được…
                Trao tờ báo đang đọc dở dang cho con gái, ông Hòa lắc đầu ngao ngán.
                Thắm tò mò lướt mắt qua trang báo, không hiểu chuyện gì mà làm cho người cha vững chãi của mình có vẻ lạ lùng như thế?
                Ánh mắt Thắm dừng lại ở một dòng tít lớn: “Lưới trời lồng lộng – Phơi bày vụ giết người ở biệt thự Vườn Lan”, bên cạnh đó, rõ ràng là tấm hình của Khoa!
                Run rẩy cầm chặt tờ báo, Thắm cố gắng đọc thật nhanh một mạch cho hết bài. Mồ hôi cô rịn ra hai bên thái dương và nước mắt cô đã chảy dài trên mặt.
                Ông Hòa đỡ con ngồi xuống ghế:
                - Lâu nay ba mẹ luôn đau lòng khi thấy con bị thằng Khoa phụ rẫy. Và nói thật lòng, ba mẹ cũng tiếc vì đã mất đi một thằng rể tốt. Nhưng hôm nay ba mẹ phải thắp nhang tạ ơn trời đất vì nó sớm bỏ con…
                Thắm gạt nước mắt:
                - Con không ngờ anh ta lại là kẻ vô lương tâm đến mức độ ấy! Vậy mà con đã hết lòng thương yêu anh ta…
                Ông Hòa vuốt tóc con gái:
                - Cũng may, cũng may con gái của ba là đứa có bản lĩnh! Ba còn nhớ, sau khi thằng Khoa báo tin đi cưới vợ, con tìm gặp nó rồi về nhà cứ nằm suốt trong phòng, làm ba mẹ lo cháy ruột, chỉ sợ con nông nỗi, nghĩ quẩn rồi làm điều gì đó dại dột. Nhưng thật không ngờ, chỉ ba ngày sau con lại xuất hiện với vẻ mặt bình thản như không có gì xảy ra. Ba mẹ tuy mừng những vẫn chưa hết âu lo. Bởi vì ba mẹ biết, tận trong sâu thẳm lòng con, không dễ gì con quên nó nhanh chóng đến vậy. Cũng may cho con, chứ nếu không người chết đó có thể là con cũng nên. Nhưng thật tội nghiệp cho người con gái xấu số ấy…
                Thắm đưa tay quệt ngang mũi rồi nói:
                - Ba biết tại sao con có thể bình tỉnh lại không?
                Thắm hỏi nhưng không đợi ông Hòa trả lời, cô nói tiếp:
                - Chính vì cái hôm con tìm gặp anh ta để hỏi cho ra lẽ, nếu như hôm ấy anh ta tỏ vẻ buồn khổ một chút, khó xử một chút chắc là con cũng khó mà dứt khoát lòng mình được. Đằng này anh ta lại tỏ ra lạnh lùng và vô cùng xa lạ với con, trong khi chỉ trước đó không lâu lại luôn nói với con những lời sắc son gắn bó. Thấy được bộ mặt đểu giả của anh ta nên con mới có thể sớm nguôi ngoai. Nhưng… thật tình lòng con vẫn còn đau đớn lắm… Con đã… dại dột…
                Suýt chút nữa Thắm đã buột miệng nói ra cái điều mà lâu nay cô luôn giấu kín, cô không muốn ba mẹ buồn hơn nữa nên đành nói trớ đi:
                - Con đã dại dột đi thương yêu một người như vậy!
                Ông Hòa thở dài:
                - Con đừng tự trách mình như thế! Ngay như ba mẹ đây, đầu đã hai thứ tóc rồi mà vẫn còn bị nó qua mặt ngon ơ thì nói gì một đứa con gái mới lớn như con.
                Vỗ vào vai con gái, ông Hòa động viên:
                - Thôi, con đừng buồn, con còn trẻ, còn nhiều cơ hội đang chờ đợi con phía trước, đừng vì một đứa không ra gì như nó mà đau khổ làm gì con ạ! Nhưng nói đi rồi cũng phải nói lại, nó là một đứa có tài, nếu nó đừng có tham vọng quá lớn, thì tương lai của nó cũng sẽ thênh thang lắm, ba nghĩ mà thấy tiếc cho nó…
                Thắm tư lự:
                - Giờ này chắc anh ta đã nhận ra sai lầm của mình…
                - Cũng chẳng biết thế nào mà nói trước được con ơi! Có những kẻ, tới chết họ vẫn luôn có đủ lý lẽ để biện hộ cho những hành vi vô nhân tính mà họ đã gây ra, họ không bao giờ nhìn thấy tội lỗi của mình con ạ!
                Suốt buổi sáng, Thắm đọc lại bài báo đến mấy lượt. Cô không sao hiểu nổi, tại sao một tên ác quỷ lại có thể mang được gương mặt của thiên thần như thế? Chính cái vẻ ngoài hiền lành, chất phác của hắn đã làm bao nhiêu người sa chân vào bẫy.
                ĐơØi con gái của Thắm đã mất đi, tình yêu đầu tiên của cô cũng bị người ta phản bội. Nỗi đau đó đâu dễ gì phai nhạt trong một sớm một chiều. Nhưng Thắm không yếu đuối như những cô gái khác, trong tình trạng đó chỉ biết van xin khóc lóc. Cô không van xin, vì cô biết tình yêu là thứ mà không thể đem ra bố thí được. Cô đã nuốt nước mắt vào lòng để gượng dậy đi cho hết cuộc đời.
                Thắm đã cố quên, nhưng hôm nay bài báo đó làm sống dậy trong cô những niềm đau mà bấy lâu cô chôn giấu.
                Buổi chiều, Thắm ghé chợ mua một giỏ thức ăn rồi tìm tới trại giam thăm Khoa.
                Vừa trông thấy Thắm, Khoa vô cùng mừng rỡ. Ít ra bây giờ bên cạnh mình cũng còn lại một người, Khoa thầm nghĩ vậy.
                - Thắm… anh xin em tha lỗi cho anh!
                Thắm cười buồn:
                - Còn gì nữa mà lỗi phải hả anh?
                Khoa nhìn Thắm khẩn thiết:
                - Thắm ơi, anh van em, em cứu anh với Thắm ơi! Em nhờ ba mẹ em giúp anh với… Anh luôn yêu thương em, chỉ tại… chỉ tại…
                Thắm nhếch miệng mỉm cười:
                - Giờ phút này là giờ phút nào rồi mà anh vẫn chưa nhận thấy tội lỗi của mình hả anh? Trước khi tới đây, em muốn nói với anh nhiều điều lắm, nhưng bây giờ, khi nghe câu này thật sự em không còn muốn nói gì nữa hết! Bởi vì tất cả những gì em nói sẽ không đi vào tai anh được đâu. Đáng lẽ ra anh đã có được một cuộc sống đàng hoàng ổn định, vậy mà anh tự tay hủy hoại tất cả. Anh không những hủy hoại chính cuộc đời anh mà anh còn nhẫn tâm hủy hoại luôn những ngừơi vô tội khác, những người đó là người ơn của anh, những người hết lòng thương yêu anh. Vậy mà… anh đã quá nhẫn tâm…
                Thắm nói xong đứng lên đẩy túi thức ăn về phía Khoa rồi nói:
                - Giờ thì em về! Mong rằng trước khi đền tội, anh có thời gian mà nhìn lại chính bản thân mình.
                - Thắm ơi… em đừng bỏ anh, Thắm ơi…
                Khoa tuyệt vọng gọi theo nhưng Thắm không hề quay lại.
                Khoa gục xuống nghẹn ngào…
                Bất giác, Khoa nghe như có người chạm khẽ vào vai mình, cứ ngỡ Thắm quay lại, Khoa mừng rỡ ngẩng đầu lên, trước mặt Khoa là hai người con gái: một mắt mở trừng trừng, một miệng mồm đầy những máu…
                Hoảng hốt, Khoa đứng bật dậy và lùi lại, lùi lại đến sát chân tường. Hai bóng trắng chợt buông một tràng cười lạnh lẽo rồi tan biến đi…
                Cánh cổng buồng giam trước mắt Khoa đã khép lại, trò chơi sinh tử mà Khoa dám đem cả cuộc đời mình cũng đã khép lại rồi và Khoa chính là người thua cuộc!
                Bỗng nhiên Khoa nhớ lại lời thề của mình vào một đêm trăng thật sáng bên cánh đồng quê…
                Hết
                Nguyễn Thị Mộng Thu
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:49:10 bởi nguyenthu >
                #83
                  nguyenthu 10.08.2009 22:26:26 (permalink)
                  NHÀ MỒ OAN KHỐC
                   
                  Chương 1
                   
                  Chiếc ghe máy hướng về phía cù lao Hàm Rồng, giảm dần tốc độ rồi từ từ quay mũi vào bờ.
                  Tiếng máy nổ xình xịch làm khuấy động sự yên tĩnh của bến sông quê. Chủ ghe nhanh nhẹn với lấy tấm ván bắt ngang qua cho hành khách bước lên.
                  Người đàn bà dắt tay đứa con gái trạc chín, mười tuổi thận trọng đặt từng bước chân trên chiếc cầu dừa trơn tuột bắt chênh chếch ở mé sông. Đứa bé níu chặt tay mẹ nhưng gương mặt lại hớn hở nhìn ngó xung quanh, chừng như nơi này đối với nó còn lạ lẫm lắm.
                  Trái lại, người phụ nữ lộ rõ sự lo âu, căng thẳng, tay dắt con, tay mang hành lý, dáng vẻ vội vàng, hấp tấp.
                  Mới hơn sáu giờ chiều mà nơi đây trời đã nhá nhem tối. Những tia nắng yếu ớt cuối ngày không đủ sức xuyên qua những tàn lá rậm rạp của những vườn dừa, vườn cây ăn trái trãi dài.
                   Không gian tĩnh lặng, thỉnh thoảng có tiếng chó sủa râm ran đâu đó, hoặc tiếng ca vọng cổ thật mùi vẳng lên từ mấy chiếc xuồng câu.
                  Những ngôi nhà lá lụp xụp nằm rải rác hai bên đường đã leo lét ánh đèn. Dân cư ở đây thưa thớt, quanh năm sống bằng nghề chài lưới, vườn tược, cuộc sống của họ thật đạm bạc, bình yên.
                  Nằm tách biệt khỏi xóm nhà lá nghèo nàn là ngôi nhà ngói ba gian đồ sộ của bà Chín Hoa được bao bọc bởi một tường rào cao quá đầu người. Trong sân nhà, ngoài các loại cây ăn trái như xoài, mận, vú sữa... còn trồng nhiều loại cây kiểng khác.
                  Tất cả vẻ bề ngoài ấy đã phản ánh được phần nào sự giàu có, sang cả của gia đình này.
                  Trước đây bà Chín Hoa cùng chồng sống ở Sài Gòn. Ngoài hai nhà máy dệt do ông chín làm chủ, bà còn được thừa hưởng của gia đình một số lớn của cải, đất đai.
                  Dòng họ bà hiếm hoi, hai bên nội ngoại chỉ có anh em bà là cháu. Hai anh chết do bom đạn, chỉ còn lại mình bà nên dù là gái bà vẫn được thừa hưởng toàn bộ gia sản.
                  Vợ chồng bà sinh được ba người con, hai con trai đầu là ông Thúc, ông Thịnh, và cô Lan, con gái út.
                  Ông chín đột ngột qua đời do tai biến mạch máu, bà hết sức đau buồn, suy sụp. Công việc kinh doanh từ đó không phát triển được.
                  Bà quyết định bán ngôi biệt thự cùng hai nhà máy dệt chia làm bốn phần, ba phần  cho ba đứa con, phần còn lại bà mang về quê sống cùng với người quản gia câm nhưng hết mực trung thành.
                  Chiều nay, bà chín Hoa qua đời.
                  Ngôi nhà ngói ba gian sáng rực ánh đèn néon, tiếng người nói chuyện lao xao, tiếng bình bịch đều đều của máy phát điện làm mất hẳn vẻ thâm u cổ kính thường ngày.
                  Con cháu bà chín Hoa đã về gần như đông đủ, chỉ còn thiếu cô con gái út.
                  Ông Thúc vừa kê lại bộ ván trước sân vừa hỏi Mạnh – con trai ông:
                  - Trưa nay đánh điện thế nào mà bây giờ cô út mày chưa về tới?
                  - Dạ, con có nói rõ bà nội yếu lắm, chắc không qua khỏi…
                  Vừa nói đến đó Mạnh chợt nhận ra người đàn bà dẫn con đang tất tả đi vào, anh reo lên:
                  - Cô út về, cô út về rồi kìa ba!
                  Lan không kịp chào hỏi ai. Cô vất túi hành lý lên bàn rồi chạy ào vào phòng mẹ. Con bé Liễu mếu máo chạy theo thì bị Mạnh ngăn lại:
                  - Em đừng vào trong đó, ở đây anh cho xem cái này hay lắm!
                  Con bé chưa kịp phản ứng thì Mạnh đã bế xốc nó lên lưng cõng ra sân.
                  Trong phòng riêng, xác bà chín Hoa được phủ vải trắng toát, trên bụng đặt nải chuối xanh, bốn góc giường là bốn ngọn bạch lạp đang cháy sáng. Dưới sàn, ngọn đèn dầu leo lét cháy, ngọn lửa chốc chốc lại chao qua, chao lại.
                  Lan phục xuống cạnh xác mẹ nức nở:
                  -Mẹ ơi, sao mẹ không chờ con về? Con bất hiếu quá, giờ phút cuối đời của mẹ mà con cũng chẳng ở bên…
                  Cô run run giở tấm vải trắng ra để nhìn mặt mẹ lần cuối cùng. Gương mặt bà chín tuy không còn sắc hồng hào nhưng trông vẫn phúc hậu, hiền lành. Những người thân đứng bên cạnh lại sụt sùi khóc.
                  Ông Thúc đẩy cửa bước vào, thấy em gái đang vật vã bên xác mẹ, ông rất thương tâm. Tội nghiệp, nó vừa mới chịu nỗi khổ sinh ly với chồng giờ đây lại thêm nỗi đau tử biệt với mẹ. Ông vỗ vai em gái an ủi:
                  - Mẹ tuổi đã cao, đời người rồi ai cũng phải vậy thôi em. Mẹ ra đi nhẹ nhàng, thanh thản cũng là phúc đức của gia đình ta. Em đang thai nghén đừng bi lụy quá không tốt, vả lại anh em mình phải bàn bạc chuyện hậu sự cho mẹ nữa, sắp đến giờ tẩm liệm rồi!
                  Mọi người đỡ Lan dậy, đặt cô ngồi vào ghế rồi họ lặng lẽ rút lui. Bà câm thay mấy cây bạch lạp đã cháy lụi xong cũng đi ra nhà ngoài.
                  Giờ đây trong phòng chỉ còn ông Thúc, cô Lan và vợ chồng ông Thịnh.
                  Ông Thúc tuy đã ngoài tuổi năm mươi nhưng vẫn còn tráng kiện. Ba anh em họ mặc dù đã sống riêng tư từ nhiều năm nay nhưng ông Thịnh, cô Lan vẫn luôn kính nể anh mình, những việc lớn của họ tộc đều do ông Thúc chủ trì.
                  Ông Thúc nhìn hai em rồi chậm rãi cất tiếng:
                  - Vợ chồng chú ba, cô út! Lúc sắp ra đi mẹ có trao cho tôi và chú thiếm đây một số vàng, dặn lo hậu sự cho mẹ xong còn bao nhiêu thì chia cho ba anh em ta. Nhưng theo ý tôi, mẹ đã một lần chia gia tài cho anh em mình rồi, số của cải mẹ cho, ba anh em mình đã gầy dựng được cơ ngơi, giờ ai cũng có cuộc sống tương đối sung túc. Đây là phần của mẹ, thôi thì chúng ta nên làm hành trang cho mẹ. Ý tôi là vậy, chú thiếm và cô út nghĩ sao?
                  Lan nghẹn ngào, cô chỉ khẽ gật đầu chứ không nói nên lời. Bà Nghiêm - vợ ông Thịnh thì nghĩ mình là phận dâu con cũng không có ý kiến.
                  Ông Thịnh trầm ngâm giây lát mới chịu nói:
                  - Em cũng nhất trí với anh, nhưng ta phải làm thế nào cho thật kín đáo chứ nếu người ngoài biết được, em sợ mồ mả mẹ không yên.
                  Ông Thúc gật gù:
                  - Chú nói phải lắm! Vậy việc tẩm liệm phải do người trong nhà mình làm, đừng nhờ thêm ai khác.
                  Sau khi mấy anh em bàn bạc xong, ông Thúc bước ra nhà ngoài cung kính chắp tay nói với mọi người:
                  - Gia đình chúng tôi rất biết ơn bà con cô bác đã đến đây giúp đỡ chúng tôi trong lúc hữu sự. Việc tẩm liệm đáng lý ra cũng phải nhờ các bác, các chú đây giúp cho một tay, nhưng vì mẹ tôi mất nhằm giờ kỵ với người ngoài, sợ ảnh hưởng không tốt đến bà con nên gia đình tôi xin được tự mình lo phần tẩm liệm. Xin bà con đừng thắc mắc.
                  Ông Thúc nói xong xá dài một lượt. Một số người xôn xao bàn tán, nhưng rồi ai cũng sợ vận xấu đến với mình nên họ lãng ra rất nhanh.
                  Sau khi đã cẩn thận cài chặt cửa, anh em ông Thúc đến xem xét lại chiếc quan tài đã được xóm giềng chuẩn bị từ chiều.
                  Bà Nghiêm cùng cô Lan đeo vào cho mẹ thêm vòng xuyến, dây chuyền, bỏ vàng bạc vào hai túi áo, còn lại bao nhiêu trút cả vào chiếc túi gấm để đem theo cho mẹ.
                  Công việc tẩm liệm xong xuôi, khi nắp quan tài vừa đóng lại, Lan không còn gượng được nữa cô ngã xuống bất tỉnh.
                  Bà chín Hoa mất khi tuổi đã cao, đã “nên nấm mồ” như người dân quê thường nói, vì vậy đám tang bà không có vẻ thê lương quá như những người chết trẻ .
                  Người khóc nhiều nhất có lẽ là cô Lan và bà quản gia câm. Nhưng rồi họ cũng phải dằn lòng để cùng với bà Nghiêm quán xuyến mọi việc trong nhà.
                  Mộ bà chín được an táng trên gò đất cao ven bờ sông Tiền, trong khuôn viên đất của gia đình.
                  Mấy ngày sau khi mở cửa mả và nhà mồ được xây cất xong, ông Thúc nhờ người xuống tận Long Xuyên rước thầy bùa người Khơme về làm phép, đón âm binh đến bảo vệ mộ phần.
                  Không biết bằng cách nào, lão thầy bùa đã dẫn dụ được một đàn dơi đông đúc đến an cư phía trong nhà mồ.
                  Người dân ở xứ cù lao heo hút này nói với nhau rằng hồi còn sống bà chín Hoa sống trong ngôi nhà lớn nhất, sang nhất ở đây, giờ chết đi bà lại được nằm dưới ngôi mộ cũng lớn nhất, đẹp nhất vùng này. Quả là người giàu đến chết vẫn giàu!
                  Đúng vậy, ngôi nhà mồ được chạm khắc tỉ mỉ, mái vòm cong cong cao vút, trông thật nguy nga. Ai có dịp đi qua cũng trầm trồ khen ngợi.
                  Nhưng cũng từ đó, ban đêm dân ở đây hết sức né tránh con đường này. Họ không sợ vong hồn bà chín, bà vốn dĩ hiền lành sống không mích lòng ai, tuy giàu có nhưng luôn nhã nhặn với xóm giềng.
                  Họ sợ là sợ đàn dơi ngày một đông đúc, tiếng vỗ cánh phành phạch, tiếng kêu của chúng trong đêm nghe giống như một bầy quỷ đói đang rên rỉ đòi hút máu người.
                  Sau đám tang, anh em ông Thúc ai về nhà nấy, chỉ còn lại bà quản gia câm thui thủi một mình trong ngôi nhà rộng thênh hiu hắt.
                  **
                  *
                  - Ông làm gì đi chậm như sên vậy?
                  Tiếng người đàn bà cằn nhằn. Người đàn ông trả lời vẻ gắt gỏng:
                  - Trời tối đen như mực, tui không thấy đường, biểu bà đốt đuốc lên mà bà không nghe!
                  - Trời đất! Bộ ông muốn mọi người chú ý hay sao mà đòi đốt đuốc?
                  Rồi bà nhỏ giọng dỗ dành:
                  - Ông ráng lên, chỉ một chút nữa thôi là vợ chồng mình được đổi đời rồi! Mặc sức cho ông tiêu xài vung vít! Tui cam đoan với ông số đó không nhỏ đâu. Cứ nhìn vẻ mặt của mấy đứa con bà Chín Hoa hôm đó là đủ biết!
                  - Bà chỉ giỏi đoán mò! Ông Thúc nói rõ ràng, tại mẹ ổng chết nhằm giờ kỵ mới không để người ngoài có mặt khi tẩm liệm!
                  - Xì, ông dễ tin người quá! Tui thì biết tỏng! Chẳng qua họ sợ người ta dòm ngó, chứ thưở đời nay ông đã nghe nói ai chết kỵ kiểu đó chưa?
                  Người đàn ông đuối lý, vừa lẩm bẩm vừa theo sát vợ. Chị vợ hăm hở đi dấn lên phía trước.
                  Dân quê có thói quen tiết kiệm, khi vô mùng ngủ họ tắt hết đèn đuốc để đỡ tốn dầu, nên xóm làng chìm trong bóng đêm mù mịt.
                  Đêm ba mươi tối như mực, trên bầu trời không một ánh sao. Thỉnh thoảng một vài con chim ăn đêm bay ngang buông  những tiếng kêu rờn rợn.
                  Người chồng nghe vợ xúi giục, tham của nên đi theo chứ thật bụng ông không tin tưởng dưới mồ bà Chín có chôn theo của cải. Ông lại nhát gan, chuyện đào mồ cuốc mả đêm hôm thế này ông sợ lắm!
                  Hai vợ chồng lần dò, xách cây đèn bóng lù mù soi không đủ sáng.
                  Đến cổng nhà mồ, người chồng tụt lại phía sau, chị vợ hối thúc:
                  - Ông trèo vô đi, tui đứng ngoài này canh cửa cho!
                  -Thôi, tui ớn ớn sao đó bà ơi!
                  - Ông nhát gan quá, vô lẹ lẹ đi!
                  Người vợ cố đẩy chồng tới sát cổng. Anh chồng ngập ngừng một lát rồi đánh bạo trèo lên tường rào. Vừa đặt chân xuống đất nghe chị vợ thì thào:
                  - Nè, cuốc xẻng nè, cầm lấy! Ông làm trước đi, tui đứng đây xem động tịnh thế nào rồi vô phụ ông liền!
                  Anh chồng lúi húi nhặt cuốc, xẻng vợ quăng vào, tay giơ cao cây đèn lập cập bước sâu vào trong nhà mồ.
                  Ngôi mộ bà Chín  được ốp đá hoa, sàn nhà mồ lát gạch men, lâu ngày không ai lui tới, và nhất là vào ban đêm thế này, cả căn nhà toát lên một làn hơi lạnh lẽo làm người đàn ông thấy nổi gai ốc.
                  Ông mím môi, đặt cây đèn bóng lên mộ bia rồi vừa mò mẫm xung quanh chân mộ tìm chỗ thuận tiện nạy gạch lên, vừa lầm rầm khấn vái:
                  Bà Chín ơi, con biết làm như vầy là có tội với bà lắm! Nhưng bà sống khôn thác thiêng, xin bà thương xót cho vợ chồng con. Gia đình con quanh năm nghèo khó, tiền của bà để dưới mồ cũng chẳng làm gì, bà cho vợ chồng con xin một ít, con sẽ…
                  Người đàn ông chưa kịp khấn hết câu đã nghe tiếng dơi rào rạt từ góc nhà túa ra. Ông nghĩ đúng là vong hồn bà Chín Hoa linh hiển, xua bầy dơi về phía ông như một lời cảnh cáo.
                  Người đàn ông hoảng quá, đưa tay chụp lấy cây đèn nhưng tay ông chưa với tới, cây đèn đã bị đàn dơi đụng phải, ngã nhào xuống đất ngọn lửa nhỏ nhoi lập tức tắt ngóm đi.
                  Tinh thần bấn loạn, người đàn ông không còn nhận biết lối ra, ông cứ chạy lòng vòng xung quanh ngôi mộ, miệng không ngừng lắp bắp:
                  - Bà Chín…! Bà Chín…Tha… tha… cho con!
                  Người vợ đứng bên ngoài nghe tiếng loảng xoảng, hốt hoảng hỏi khẽ:
                  - Ông ơi, chuyện gì ở trỏng vậy?
                  Không có tiếng trả lời, chỉ nghe tiếng chân chạy huỳnh nhuỵch, gấp rút vọng từ trong ra.
                  Người vợ quýnh quáng vừa chồm người vào trong thì lập tức bị những con dơi rất to xông thẳng tới. Chị cuống cuồng bỏ chạy, miệng kêu cứu vang trời:
                  - Cứu với! Có ma… cứu với làng xóm ơi!
                  Lúc mọi người đổ xô tới bắt gặp chị đang run lẩy bẩy ngồi nép dưới gốc dừa, mắt ánh lên vẻ hoảng loạn.
                  Người ta dìu chị đứng lên, chị chỉ tay vào trong nhà mồ, nói từng tiếng rời rạc:
                  - Chồng… chồng… tôi… trong… đó!
                  Mọi người đùn đẩy nhau, không ai dám liều lĩnh tiến vào trong. Cuối cùng, năm thanh niên lực lưỡng nhất xóm cầm theo năm bó đuốc sáng rực leo tường vào, những người còn lại đứng dồn sát cổng, sẵn sàng tiếp ứng.
                  Lát sau, năm thanh niên khiêng người đàn ông đã bất tỉnh ra ngoài. Họ phát hiện ông nằm vắt ngang qua mộ bà Chín, hai mắt mở trừng trừng nhưng đã lạc hồn tán phách!
                  - Hu… hu… hu… Tui hại ông rồi! Ông ơi, tỉnh lại đi ông ơi!
                  Người đàn bà ôm lấy chồng khóc ngất lên. Dân làng phải dìu cả vợ lẫn chồng về nhà, thắp đèn đóm sáng lên, đánh dầu, xoa bóp.
                  Hơi thở của người đàn ông dần dần đều đặn lại nhưng ông vẫn chưa tỉnh dậy. Mấy người lớn tuổi trong xóm sau khi biết rõ nguyên nhân đều lắc đầu:
                  Hết nói nổi vợ chồng bây! Tụi bây dám làm chuyện động trời đó hèn gì bà Chín không bắt hồn chồng bây sao được. Thôi, giờ lo nấu mâm cơm mang ra đó thành tâm tạ lỗi với người ta, xin người ta trả hồn chồng bây về!
                  Người vợ riu ríu nghe theo, xuống bếp vo gạo nấu cơm, bắt con gà mái tơ duy nhất trong nhà ra làm thịt.
                  Trời vừa hửng sáng, người vợ lễ mễ bưng mâm cơm để trước cửa nhà mồ, quỳ sụp xuống vái lia vái lịa.
                  Trong khi đó ở nhà , người chồng bỗng dưng tỉnh lại, ngồi bật dậy ngơ ngác ngó xung quanh:
                  - Bà Chín… Bà Chín đâu rồi?
                  - Bà Chín nào?
                  Mọi người hốt hoảng hỏi:
                  - Bà Chín Hoa đó! Tui thấy bả mà…
                  Mấy cô gái yếu bóng vía nghe vậy hét toáng lên, ôm nhau chặt cứng.
                  Chị vợ nghe người tới báo tin chồng đã tỉnh liền tất tả chạy về. Vừa tới cổng đã nghe chồng cười khóc huyên thuyên:
                  Bà Chín ơi, con xin lỗi! Con không dám nữa đâu… Bà buông con ra, đừng níu chặt lấy con như vậy, con nghẹt thở lắm. Hu... hu… ha… ha…
                  Nó loạn trí mất rồi!
                  Mọi người nhìn nhau ái ngại, rồi họ lãng ra ai về nhà nấy.
                  Còn lại một mình với người chồng ngây dại, chị vợ vô cùng hối hận nhưng mọi việc đã xong, không thể nào sửa đổi lại được. Chị khóc rấm rúc, xấu hổ với bà con xóm giềng về hành vi tham lam vô lối của mình, chị không dám than thở cùng ai.
                  Hơn tuần sau, bệnh tình của người chồng vẫn không có chút nào thuyên giảm. Người ta xì xào bàn tán, người thương xót, kẻ bảo đáng đời.
                  Một sáng không ai nhìn thấy vợ chồng họ đâu nữa, vì nửa khuya hôm đó chị vợ đã đặt chồng lên chiếc xuồng câu nhỏ, tài sản duy nhất của hai vợ chồng, gom hết mớ áo quần ít ỏi lặng lẽ ra đi…
                  Làng xóm, chợ búa ở cù lao Hàm Rồng xôn xao hẳn lên vì chuyện đó. Người ta kể lại, thêm thắt nhiều chi tiết ly kỳ, rùng rợn đã diễn ra trong ngôi nhà mồ.
                  Từ đấy, dân làng vốn đã sợ nhà mồ bà Chín nay càng thêm sợ hãi. Họ xem đó là nơi cấm địa, không ai dám bén mảng tới, chỉ trừ dân bợm nhậu hoặc những tay “cứng cựa” nhất trong làng.
                  Những sự việc xảy ra ở  nhà mồ bà câm đều biết hết. Bà không nhắn tin cho anh em ông Thúc, cũng không tỏ ý tức giận gì, bà chỉ lặng lẽ thở dài…
                  (Còn tiếp)
                  Nguyễn Thị Mộng Thu
                   
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:51:36 bởi nguyenthu >
                  #84
                    nguyenthu 10.08.2009 22:32:05 (permalink)
                    NHÀ MỒ OAN KHỐC
                    (Tiếp theo)

                    Chương 2
                     
                    Ông Thúc ôm ngực ho sù sụ, người ông nóng ran , mồ hôi vã ra ướt cả lưng áo. Vành môi ông khô rát, nứt nẻ .
                     Ông lồm cồm ngồi dậy rót nước từ bình thủy ra ly. Chiếc bình thủy đã cũ quá rồi, đáy vỏ sắp rơi ra. Ông phải một tay rót, một tay đỡ phía dưới, run run thế nào mà nước tràn ra ly suýt phỏng.
                    Bất chợt ông cảm thấy cuộc đời buồn quá, buồn đến rơi nước mắt.
                    Mạnh thường bảo ông già rồi nên lẩm cẩm. Chẳng biết có đúng không mà sao dạo này ông hay buồn vô cớ.
                    Ông nhớ má thằng Mạnh hồi mới cưới, nhớ lúc bà có nghén nó thích ăn toàn đồ chua, ai cũng bảo sẽ sinh con gái, bà buồn buồn vì biết ông khoái con trai.
                    Vậy mà lúc sinh ra thằng Mạnh, thằng con trai bụ bẫm nặng ba ký tư, bà chưa kịp thấy mặt, chưa kịp mừng vui đã vội lìa đời.
                    Ông gà trống nuôi con, tuy hồi đó ông còn giàu có, bỏ tiền ra thuê người lo cho thằng Mạnh không thiếu thốn gì về vật chất, nhưng sự mất mát tinh thần của cha con ông thì không có tiền bạc nào bù đắp được.
                    Ông đã đi qua nhiều mối tình, cố gắng tìm cho thằng Mạnh một người mẹ để yêu thương, chăm sóc nó. Nhưng rốt cuộc mấy chục năm đằng đẵng trôi qua, vẫn chỉ hai cha con ông sớm tối nương nhau mà sống.
                    Sau chuyến vượt biên không thành, không chỉ riêng gia đình ông, mà cả nhà ông Thịnh, bà Lan đều trở thành những kẻ trắng tay, nghèo khó.
                    Mấy năm gần đây, ông tuổi già sức yếu, phần buồn phiền trước cảnh suy sụp của gia đình nên cứ nay ốm mai đau.
                    Mạnh đã gần ba mươi tuổi vẫn chưa cưới vợ. Ông Thúc thương con đứt ruột. Nó mồ côi mẹ từ lúc lọt lòng nên được ông và cả dòng họ thương yêu, chìu chuộng, vậy mà nó không hề ỷ lại, từ bé đã ngoan ngoãn, hiền lành, càng lớn càng sống có tình có nghĩa.
                    Từ lúc gia đình sa cơ thất thế, nó lầm lì ít nói hẳn đi. Nó vừa lo cho cha, vừa phải dòm ngó chị em con Liễu, thằng Sang nhà cô út.
                    Đôi khi ông Thúc muốn bàn với hai em bán miếng đất dưới quê. Nhưng rồi ông nghĩ đất đai ông bà để lại đã mấy đời, ông cha mình giữ được cho mình sao mình không giữ được cho con cháu đời sau. Đó là một tội lỗi lớn.
                    Càng nghĩ ông Thúc càng buồn, nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt trên mặt ông, rồi ông khóc hu hu như trẻ nít.
                    Mạnh vừa về đến cửa nghe tiếng khóc của cha, anh vội vã chạy vào:
                    - Ba, ba sao vậy?
                    Ông Thúc giật mình. Rồi khi nhận ra Mạnh ông bẽn lẽn kéo khăn lau mặt, nằm xoay người vào tường.
                    Mạnh thở dài, đặt tay lên trán ông:
                    - Ba còn nóng quá, con mua thuốc về rồi, ba mau uống đi.
                    Thấy ông Thúc vẫn nằm im, Mạnh bước tới đỡ ông dậy, cằn nhằn:
                    - Ba dạo này kỳ cục quá, cứ y như con nít, lúc nào cũng bắt con phải dỗ dành!
                    Đưa thuốc cho cha uống xong, Mạnh lấy áo quần định đi tắm, chợt nhớ ra điều gì, anh quay lại nói:
                    -À, ba ơi! Lúc nãy đi làm về con gặp Liễu, nó nói lát nữa chú ba với cô út sẽ tới thăm ba đó!
                    Ông Thúc lầm bầm trong miệng:
                    - Tụi nó bày vẽ quá…
                    Nói chưa dứt câu ông lại ho sù sụ. Mạnh lắc đầu đi ra nhà sau.
                    Ăn cơm xong, Mạnh đang nằm võng ca mấy câu vọng cổ thì  ông Thịnh và bà Lan đến.
                    Nam – con trai ông Thịnh và Liễu – con gái bà Lan dựng xe đạp trước nhà, chào hỏi xong liền bắt ghế lại ngồi bên Mạnh.
                    Ba anh em thì thầm to nhỏ, thỉnh thoảng Liễu lại cười rúc rích.
                    Sau khi thăm hỏi bệnh tình ông Thúc, bà Lan khẽ liếc mắt nhìn ông Thịnh, đằng hắng mấy tiếng rồi trịnh trọng nói:
                    - Em với anh ba tới đây trước là thăm anh, sau nữa là muốn bàn với anh một việc...
                    Thấy bà Lan còn do dự, ông Thúc nói:
                    - Việc gì thì cô chú cứ nói, anh em trong nhà có gì phải ngại!
                    Bà Lan mạnh dạn:
                    - Dạ, em với anh ba tính vầy, không biết anh hai có chịu không. Ba anh em mình giờ ai cũng lớn tuổi, sống ở đây tù túng quá. Các cháu thì làm thuê làm mướn, không đứa nào có nghề nghiệp ổn định. Chi bằng dắt nhau về quê, cùng sống chung trong ngôi nhà thờ dưới đó. Dẫu sao ở đó cũng còn đất đai vườn tược.
                    Bà Lan nói luôn một hơi, chừng như sợ không trình bày rõ sẽ không được sự đồng ý của ông anh cả.
                    Ông Thịnh rót ly nước trà, nhấp một hớp rồi nói:
                    - Em nghĩ về quê khí hậu trong lành, tốt cho sức khỏe chúng ta. Con cái cũng đỡ tủi cực. Mình làm cho mình dầu gì thì cũng hơn đi làm mướn cho người ta. Tuy ngày nay chúng ta không còn được như xưa, nhưng gia thế, tiếng tăm của gia đình mình dưới quê chắc vẫn còn tồn tại.
                    Bỗng Nam đứng lên xen vào:
                    - Hôm qua tình cờ con nghe ba má nói chuyện về của cải chôn theo lúc bà nội qua đời. Nhưng khi con hỏi thì ba má lại gạt đi, không đề cập tới. Nay có mặt bác Hai, ba con  và cô út, con muốn biết chuyện đó có thật hay không?
                    Bà Lan nhìn ông Thịnh, ông Thịnh lại nhìn qua ông Thúc, không ai trả lời câu hỏi của Nam. Mạnh và Liễu cũng đang chăm chú lắng nghe.
                    Mãi một lúc sau ông Thúc mới khe khẽ gật đầu:
                    - Thôi, giờ đây con cháu chúng ta đã trưởng thành rồi, tôi thiết nghĩ  cũng đã đến lúc cho chúng biết.
                    Cơn ho lại kéo đến khiến ông Thúc không sao nói tiếp được, ông phải ra hiệu cho ông Thịnh kể tiếp câu chuyện năm xưa.
                    Khi ông Thịnh vừa dứt lời, Liễu vỗ tay reo lên:
                    - Ôi! Vậy là chúng ta giàu to rồi!
                    Nam kéo ghế ngồi cạnh ông Thúc:
                    - Bác Hai! Mình về quê quật mồ lấy số vàng đó chia cho mỗi người một ít. Bác Hai, ba má con và cô út có tiền dưỡng già, tụi con có vốn làm ăn. Như vậy phải tốt hơn không?
                    Bà Lan xua tay rối rít:
                    - Không! Không… con đừng nói bậy hổng nên! Đó là của cải của bà nội, các con không đứa nào được xâm phạm. Vả lại ngày xưa số vàng đó đã được thầy pháp ếm bùa rồi, không lấy được đâu!
                    Nam cải lại:
                    - Bà nội chết rồi, có đem theo của cải cũng chẳng ích gì. Nhưng nếu nội còn sống mà trong tay có số vàng đó, con tin chắc nội cũng không để tụi con cực khổ như hiện nay đâu. Còn chuyện bùa ngãi gì đó chỉ để dọa mấy người dân quê yếu bóng vía thôi cô út ơi!
                    Ông Thịnh tức giận dằn ly nước xuống bàn:
                    Tao đến tức chết với mẹ con mày! Hết con mẹ mày giờ tới lượt mày! Làm ăn không lo làm ăn, tối ngày chăm bẵm vào mồ mả ông bà!
                    Ông Thúc ôn hòa hơn:
                    - Tôi tuy là con trưởng, nhưng việc này tôi không tự quyết định được! Tùy cô chú và các cháu định liệu. Nếu mọi người nhất trí thì tôi không phản đối. Nhưng riêng ý tôi, tôi cũng không muốn làm việc đó.
                    Nghe ông Thúc nói vậy, Nam có ý mừng, nghĩ mình cố gắng thuyết phục ba và cô út là xong. Còn mấy anh em con cô con bác, ai nghe đến vàng mà không sáng mắt.
                    Đột nhiên Mạnh đứng lên nói:
                    - Thưa ba, chú ba và cô út, những lời Nam nói đều có lý mà ý của ba và cô chú cũng không sai! Theo con, ba gia đình chúng ta cùng về quê sống là biện pháp tốt nhất hiện nay, nhưng việc xin của cải của bà nội thì chưa phải lúc. Chúng con đứa nào cũng sức dài vai rộng, nếu cần cù chịu khó sợ gì không nuôi nổi mẹ cha, cần chi phải quật mồ mả ông bà mình lên để tìm sự sống. Chỉ khi nào trong đại gia đình có ai đó lâm vào cảnh ngặt nghèo, hết phương giải quyết, khi ấy ta xin lấy số vàng đó chắc bà nội cũng vui lòng. Còn nếu như về quê làm ăn khấm khá thì còn nói đến chuyện đó làm chi!
                    Nam hết sức hậm hực khi nghe Mạnh nói, vì cứ tưởng Mạnh sẽ đứng về phía mình xúi người lớn đồng ý. Ai dè Mạnh lại dở hơi đến thế! Mà lời nói của Mạnh trước giờ luôn được mọi người tin tưởng thì Nam còn có hy vọng gì?
                    Trái lại, anh em ông Thúc ai cũng vui mừng khi nghe Mạnh nói thấu tình đạt lý.
                    Vậy là coi như mọi việc được bàn xong. Một ngày gần đây họ sẽ rời bỏ nơi phố thị bon chen để về lại quê cha đất tổ, mảnh đất hiền hòa trên cù lao Hàm Rồng ven bờ sông Tiền êm ả.
                    Nam, Quốc vẫn còn lưu luyến cuộc sống nơi phố thị, hai anh em không ai muốn về quê nhưng nghĩ tới số của cải đang nằm dưới mộ bà nội nên cả hai trở nên náo nức.
                    Cả hai cùng nghĩ, một ngày không xa  những người lớn tuổi trong nhà không chịu đựng nỗi những vất vả, thiếu thốn sẽ phải lấy kho của chìm lên mà sinh sống. Họ về gần bên để sớm tối nhắc nhở các ông bà già lẩm cẩm ấy rằng thật ra chúng ta không nghèo, đừng nên ép mình vào đời khổ cực!
                    Chị em Liễu nghe nói về quê thì vui như đi hội. Liễu nhớ những lần về trước cô được bà quản gia đãi đủ các món ngon, được tung tăng dưới vườn cây mặc tình hái quả. Lại nghe nói con gái xứ vườn dịu dàng đằm thắm, trai xứ vườn chung thủy, dễ ưa…
                    Còn ở đây, cô phải thua chị kém em đủ mọi phương diện, nhiều lúc rất tủi thân.
                    Thằng Sang chẳng biết gì nhiều, cứ thấy cả nhà tất bật thu xếp là nó cũng chộn rộn theo.
                    Riêng Mạnh, anh vẫn trầm trầm, không ai hiểu được chuyến hồi hương này gây cho anh cảm xúc vui hay buồn nữa!
                    * **
                    Liễu mở choàng mắt nhưng vẫn nằm im trên giường, tai lắng nghe tiếng chim hót ríu ran ngoài sân. Buổi sáng thôn quê thật hiền lành thơ mộng.
                    Một mùi hương gì đó không phải hương hoa cứ phảng phất quanh nhà, ngày đầu tiên mới về Liễu đã phát hiện ra nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm được đâu là cội nguồn xuất phát. Quốc nói đùa, đấy chính là mùi “hương đồng quê”, Liễu nghe cũng có lý.
                    Liễu về sống ở thôn quê đến nay đã gần ba tháng nhưng cô vẫn còn quen với lối sống thị thành. Không sáng nào cô dậy được sớm, hoặc có dậy thì cũng nằm lăn qua lộn lại cho đến khi ánh nắng chiếu rọi vào phòng hay lúc mẹ cất tiếng mắng yêu, rầy rạt cô mới chịu rời giường.
                    Giờ này đàn gà đã ra khỏi chuồng từ lâu, mặc dù Liễu được phân công việc nhốt và thả gà, nhưng vốn quen thói ngủ trưa nên cô lại đùn cho mẹ hoặc thằng Sang.
                    Thằng Sang thì khỏi nói, mờ sáng đã nhảy khỏi giường chứ không như Liễu.
                    Liễu kéo mền kín mặt, định nướng thêm chút nữa thì nghe tiếng mẹ gọi:
                    - Sáng bét mắt rồi mà con Liễu còn chưa chịu dậy phụ dọn cơm nước gì sao?
                    Cô uể oải duỗi chân duỗi tay rồi ngồi dậy thủng thẳng xếp dọn mùng mền.
                    Đến lúc Liễu xuống bếp thì bà quản gia đã dọn bàn ăn tươm tất. Ông Thúc, vợ chồng ông Thịnh cùng bà Lan đã ngồi vào ghế.
                    Ngôi nhà trước giờ vắng vẻ nhưng từ ngày anh em ông Thúc dọn về đã trở nên ồn ào, đông đúc hẳn lên.
                    Nhà ba gian, mỗi gia đình ở một gian. Cha con ông Thúc ở gian chính, vợ chồng ông Thịnh và bà Lan ở hai gian bên cạnh.
                    Riêng bà quản gia câm vẫn ở căn phòng nhỏ phía sau, nơi bà đã sống gần hai chục năm qua.
                    Lan múc cháo ra chén, đẩy dĩa tép rang ra giữa bàn rồi gọi với ra sân:
                    - Mấy ông anh có ăn sáng không?
                    Mạnh, Nam, Quốc và Sang đang đùa với nhau ngoài ngõ, nghe tiếng Liễu gọi lục tục đi vào. Vừa nhìn thấy chén cháo trắng nghi ngút khói Sang giãy lên:
                    - Con không ăn, con không thèm ăn cháo đâu!
                    Bà Lan nhìn con trai út, lòng xót xa.
                     Liễu cốc vào đầu nó, nạt:
                    - Không thèm cũng phải ráng mà ăn! Người mày đã gầy như que củi, không lo ăn mai mốt đi qua cầu khỉ gió thổi mạnh là bay mất tiêu luôn.
                    Nam, Quốc mỗi người bê một tô cháo ngồi chồm hổm ở bậc cửa. Nam than thở:
                    - Hết cơm tới cháo, hết cá kho lại tới tép rang, đến tôi còn ngán tận cổ huống gì thằng nhỏ.
                    Mạnh lên tiếng:
                    - Thôi, ăn cho xong rồi đi vun gốc nhãn với tao. Bữa nay làm riết cho rồi khu vườn đó, mai còn cuốc  miếng đất bên kia, mưa xuống kịp gieo giống.
                    Ông Thịnh góp lời:
                    - Ừ, thằng Nam, thằng Quốc từ hôm nay đừng đi chơi la cà đây đó nữa, ráng cùng với anh Mạnh tụi bây lo làm lụng. Mấy vườn cây có sẵn thì chăm sóc kỹ vào, không bao lâu nữa là có thu hoạch. Còn những chỗ đất hoang, đất xấu ráng cải tạo lại. Rồi anh em tụi bây tìm hiểu xem hiện giờ loại cây trái nào đang được bà con ở đây tập trung vào trồng, mình bắt chước họ mua giống về làm. Cái gì mình chưa biết, chưa thông thì để ý học hỏi, bà con hổng ai dấu diếm gì đâu!
                    Quốc dằn dỗi:
                    - Đất đai còn bao la, chỗ nào cũng cỏ mọc lút đầu, vườn cây thì xơ xác, có sức trâu cũng không làm xuể. Chi bằng bán bớt  vài công lấy tiền mướn người làm phụ.
                    Bà Nghiêm phụ họa:
                    - Thằng Quốc nói đúng đó! Làm chuyện gì trước tiên cũng cần có vốn đầu tư. Nay mai phải mua phân, thuốc, cây giống, con giống đủ thứ hết mà tiền thì không còn. Thà rằng thu hẹp diện tích lại một chút, hơn để vậy mà không chỗ nào ra hồn.
                    Bà Nghiêm dứt lời, đưa mắt nhìn ông Thúc. Mọi ánh mắt quanh bàn ăn cũng đổ dồn về phía ông, chờ xem thái độ.
                    Ông Thúc húp hết chén cháo mới ngẩng lên:
                    - Nếu mọi người tính vậy thì ta kêu bán miếng đất bên kia sông. Hồi còn sống có lần mẹ cũng tính bán vì nó ở xa quá, không tiện quản lý.
                    Thấy ông Thúc đồng ý và không ai phản bác, Nam hớn hở:
                    - Hôm rồi con qua đó làm cỏ, gặp ông Bảy, ổng dặn nếu có bán miếng đất đó thì kêu ổng, vì đất ổng ở liền bên. Vậy để con qua bển kêu ông Bảy sang đây bàn giá cả với mình, nghen bác Hai?
                    Ông Thúc thở dài:
                    - Vậy là mọi người ở đây biết rõ hoàn cảnh nhà ta rồi sao?
                    Bà Lan an ủi:
                    - Anh đừng buồn, đời người lên voi xuống chó mấy hồi, biết đâu mai sau con cháu mình lại phát đạt, thịnh vượng hơn xưa!
                    - Chừng nào thịnh vượng không biết, còn hiện tại sao mà oải quá! Trong nhà cả thảy mười miệng ăn, chưa tính đến chó mèo, dù có nhín nhút, dè sẻn mấy cũng làm không đủ ngày ba bữa cơm đạm bạc, có nước đào được kho vàng mới mong phát đạt.
                    Quốc mỉa mai.
                    - Sao mình không lấy số vàng chôn theo bà ngoại khi xưa lên để gầy dựng sự nghiệp, bao giờ làm ăn khá giả mình trả lại y nguyên?
                    Liễu nói một cách ngây thơ. Bà Lan trừng mắt nhìn con, ra hiệu cho Liễu không được nói nữa. Liễu lè lưỡi, rụt vai ngồi im thin thít.
                    - Giờ có đi kêu ông Bảy không, bác hai?
                    Nam nôn nóng.
                    Ông Thúc cười buồn, quay sang Nam:
                    - Con đi kêu thì đi, nhưng phải nói cho khéo đừng để người ta biết mình quá túng quẫn mà bắt chẹt giá cả nghe con!
                    - Dạ!
                    Nam nhanh nhẹn húp hết tô cháo, hấp tấp đứng lên.
                    Thằng Sang đang đứng mếu máo trong góc nhà bỗng trở nên tươi tỉnh. Nó bỏ chén cháo còn đầy nguyên, chỉ nhón tay bốc một con tép rang bự chảng rồi co giò chạy theo Nam, mặc Liễu gọi thế nào cũng không dừng lại.
                    Mạnh ăn xong, ra hè vác hai cây cuốc, nói với Quốc:
                    - Tao ra vườn nhãn phía bờ sông đây! Mày ăn xong ra phụ tao nghen!
                    Quốc làu bàu nhưng cũng đứng lên đi theo Mạnh.
                    - Về đây chán quá, thà ở Sài Gòn đi làm mướn còn hơn.
                    Quốc vừa đi vừa than thở.
                    Mạnh vờ như không nghe thấy. Anh chỉ con mương nhỏ chạy dài phía trước, nói:
                    - Mai tao đi xin một mớ rau nhúc về gầy ở đây. Còn chỗ mương cạn dưới kia mày nhắm trồng rau muống được không?
                    - Chắc được chứ sao không! Quốc trả lời.
                    Tới khu vực vườn nhãn, Mạnh chỉ cho Quốc cách vun gốc. Những điều này anh mới học ở dân làng chưa lâu, nhưng làm có vẻ thuần thục lắm rồi.
                    Quốc miễn cưỡng bổ từng nhát cuốc. Lát sau lại cằn nhằn:
                    - Ông Nam lấy cớ đi luôn nãy giờ, còn con Liễu tối ngày õng ẹo đi ra đi vô, chỉ có tui với anh làm thì biết đời nào xong?
                    Mạnh chỉ cười. Từ lúc dọn về quê đến nay, Mạnh không hề tỏ ra khó chịu, trái lại anh là người củng cố gia đình, hoạch định công việc rất rạch ròi, rành mạch.
                    Mạnh chấp nhận cuộc sống này một cách vui vẻ. Nam, Quốc bắt buộc phải làm theo anh nhưng chúng chẳng thiết tha gì, cũng chẳng nghĩ sẽ sống lâu ở nơi khỉ ho cò gáy.
                    Chúng chỉ chờ có điều kiện là sẽ chắp cánh bay đi.
                    Liễu đòi đi học may, nhất định không chịu ở nhà làm vườn. Cô sợ đôi bàn tay mềm mại sẽ chai sần lên vì cầm cuốc, cầm dao, sợ đôi má mịn màng phải nám đen vì mưa nắng. Bà Lan thương con gái nên cũng chìu theo ý Liễu.
                    Trong đại gia đình ấy chỉ có thằng bé Sang mới hơn mười tuổi là vô tư nhất. Nó không biết gì đến sự túng thiếu, chán nản của người lớn.
                    Ngày ngày, mới sáng tinh mơ nó đã ra sân chơi với đàn gà, đàn vịt, hoặc theo lũ trẻ con hàng xóm đi mò cua, bắt ốc. Tối đến, nó tung tăng xách giỏ theo các anh đi giăng lưới, cắm câu.
                    Với nó, cuộc sống ở đây quả rất tuyệt vời!
                    * *
                    *
                    Thằng Sang nằm chờ các anh dẫn đi gỡ lưới đã ngủ quên trên võng. Quốc bế nó vào nhà rồi trở ra nằm nói chuyện với Mạnh. Quốc than:
                    - Tui nhớ Sài Gòn quá anh Mạnh ơi! Con bồ tui ở trển chắc đã sang ngang rồi quá!
                    Mạnh cười:
                    - Vậy mà hồi nào tới giờ dấu kỹ dữ ha, sao trước đây không dẫn về ra mắt?
                    - Cũng định đưa về giới thiệu nhưng thấy anh và ông Nam chưa ai rục rịch gì hết, tui cũng ngại!
                    - Ôi trời! Hơi sức đâu mày chờ tụi tao. Đứa nào có đối tượng rồi thì tiến tới, chờ đợi làm gì.
                    Nam lững thững đi từ ngoài ngõ vào, nghe hai người nói chuyện liền xen vô:
                    - Ai có tin vui, có đối tượng vậy? Phải ông Mạnh không?
                    Mạnh cười khì:
                    - Lộn tiệm rồi Nam ơi!
                    Chợt nhớ ra, Mạnh hỏi:
                    - Mày đi mua cá giống từ hồi chiều tới giờ sao về tay không vậy?
                    Nam ngồi xuống bậc cửa, trả lời:
                    - Mới xuống tới bến sông gặp mấy thằng bạn kéo đi nhậu, còn cá tôm gì nữa!
                    - Hết nói ông luôn! – Quốc lắc đầu.
                    Nam châm thuốc hút, đốm đỏ lập lòe chốc chốc lại lóe lên, văng ra những tia lửa li ti đẹp mắt.
                    Lim dim mắt, Nam hỏi:
                    - Ông tính ăn đời ở kiếp ở đây sao, ông Mạnh?
                    Mạnh ngạc nhiên, ngóc đầu dậy hỏi lại:
                    - Không ở đây thì ở đâu? Bộ mày tính đi đâu hả?
                    Nam thở dài:
                    - Nói thiệt nghen, tui chán ở đây lắm rồi! Tui chán luôn mấy ông bà già lẩm cẩm nhà mình nữa. Tui không hiểu nổi tại sao ngay cả ông cũng cổ hủ giống họ vậy? Người chết rồi cần quái gì của cải mà ôm một đống dưới mồ. Thật phi lý hết sức!
                    Quốc nhổm dậy:
                    - Ê, hay tụi mình lén mấy ông bà già, bí mật đào lấy một ít rồi vọt lên Sài Gòn. Vài ba năm làm ăn khấm khá quay về tạ tội, chắc ổng bả cũng bỏ qua thôi!
                    Nam vỗ đùi đánh đét:
                    - Mày quả có cùng chí hướng với tao! Ông Mạnh, ông tham gia với anh em tui đi, ông phải có gan làm một vố mới có tiền cưới vợ chứ!
                    - Thôi... Tao sợ…
                    - Trời ơi, hổng lẽ ông tin ba cái chuyện bùa phép, ma quỷ mấy ông bà nhà mình kể?
                    - Có nhiều chuyện dù không muốn tin nhưng cũng cần suy nghĩ kỹ, tại sao dân ở đây lại sợ nhà mồ như vậy? Không có lửa làm sao có khói, chắc cũng có điều gì đó xảy ra. Mà cho rằng không có gì đi nữa thì tao không muốn xúc phạm đến vong linh bà nội, tao cũng không có ý định rời bỏ nơi đây. Vả lại như tao đã nói, hiện giờ mình còn xoay xở được mà!
                    - Tui biết rồi! Tui biết ông đang chết mê chết mệt con Huệ xóm trên, ông sẽ mọc rễ ở đây luôn chứ gì? Được thôi, nhưng ông nhìn lại gia đình mình chưa? Cả cái xứ cù lao này có ai không biết con cháu bà Chín Hoa giàu có khi xưa giờ chỉ còn lại vài ba công đất. Ông liệu nó có ưng làm vợ ông không?
                    Mạnh buồn buồn nhưng vẫn kiên quyết:
                    - Dầu gì đi nữa tao cũng không tham gia đâu. Tụi mày đừng tốn công vô ích!
                    Nam mỉa mai:
                    - Ông quả là đứa cháu đích tôn chí hiếu! Bà nội mà đội mồ sống dậy được chắc sẽ trao hết gia tài cho ông đó!
                    - Mày đừng nói vậy, tao với tụi mày là anh em, nhưng mỗi người đều có chí hướng riêng, đừng ai ép buộc ai là được rồi!
                    - Ông nói thế có nghĩa là tụi tui có thể thực hiện chí hướng của mình mà không bị ông ngăn cản à?
                    - Đúng vậy, tao sẽ không ngăn cản!
                    Nam khịt mũi:
                    - Nhắm tin được mấy chục phần trăm đây?
                    - Mày yên tâm đi, thằng Mạnh này trước nay nói một là một, hai là hai. Chưa biết nuốt lời hứa bao giờ!
                    Quốc vỗ tay:
                    - Vậy mới đúng là anh em chứ!
                    Mạnh đứng lên vươn vai:
                    - Thôi, tao đi ngủ đây. Lát nữa hai đứa mày nhớ gỡ lưới nghen, sáng mai không còn gì ăn cơm đâu!
                    Chờ Mạnh đi khuất Quốc mới hỏi Nam:
                    - Chừng nào mình thực hiện, ông Nam? Tui nhớ Sài Gòn lắm rồi, làm lẹ lẹ lên cho tui vọt!
                    - Giờ tao với mày đi ra đó điều nghiên tình hình trước rồi về vạch kế hoạch tỉ mỉ, được không?
                    Quốc hớn hở:
                    - Được lắm! Được lắm! Mình đi, anh Hai!
                    Quốc bước vô nhà lấy đèn pin.
                    Nam châm thêm điếu thuốc nữa rồi cùng với em trai khép cổng đi ra ngoài.
                    Đêm cù lao tối mịt. Bầu trời nặng nề không một ánh sao. Gió thổi lồng lộng, mấy bụi chuối ven đường vỗ lá phành phạch, những tàu lá dừa cọ nhau xào xạc. Tiếng côn trùng rỉ rả, tiếng cú rúc xa xa tạo nên một không gian ma quái.
                    Thỉnh thoảng Quốc đi chơi về khuya cũng thường nghe những âm thanh ấy, nhưng khi đó Quốc không có cảm giác sờ sợ như lúc này.
                    Hai anh em đi luồn trong vườn nhãn, hướng về phía gò nổi ven sông. Ánh đèn pin loang loáng quét qua quét lại.
                    Điếu thuốc trên môi Nam lập lòe làm Quốc liên tưởng đến ngọn lửa ma trơi thuở nhỏ thường nghe người ta kể.
                    Quốc dấn bước đi sát vào Nam.
                    - Sao tui thấy… ớn ớn quá, ông Nam ơi!
                    - Mày nhát vừa vừa thôi, có gì đâu mà sợ? Ban đêm tao đi ngang khu vực này hoài, có gì xảy ra đâu?
                    Nghe anh nạt, Quốc cố lấy tinh thần bám sát theo Nam không hề tụt lại.
                    Hai người đi gần tới gò nổi đã nghe tiếng dơi bay vù vù, ràn rạt. Nam nói thầm vào tai Quốc:
                    - Tao không mở đèn, mày bám theo tao nghen, đừng để lũ dơi này phát hiện ra chúng ta.
                    Từ ngày về đây, Quốc nghe rất nhiều huyền thoại về bầy dơi quỷ trong nhà mồ.
                     Họ bảo, chúng thật ra là những oan hồn vất vưởng được pháp sư tập hợp về đây giao nhiệm vụ canh giữ nhà mồ. Khi nào chúng bắt được hồn người khác thay thế thì mới được đi đầu thai.
                    Có người lại nói pháp sư cho bầy dơi uống một thứ bùa ngãi gì đó khiến chúng trở nên khôn ngoan và hung hăng hơn.
                    Quốc không tin vào những lời đồn đại ấy, nhưng giờ đây khi ngôi nhà mồ đã sừng sững trước mặt, Quốc bỗng thấy lòng nao núng.
                    Hai người đứng nép dưới gốc cây nhìn thấy bầy dơi lượn qua lượn lại, không biết có đến mấy trăm con.
                    Cổng nhà mồ khóa kín. Nam ra hiệu cho Quốc leo rào vào trong. Quốc run run bám tay vào tường, vừa đu mình lên được thì hằng hà sa số dơi lao vào người Quốc, chúng mổ tới tấp vào mặt, vào tay khiến Quốc không còn hồn vía, vừa la oái một tiếng đã rơi ngay xuống đất.
                    Bầy dơi quay sang tấn công Nam. Nam gồng mình chịu những vết mổ rát rạt, bật đèn pin lên, liên tiếp quơ qua quơ lại. Bầy dơi bất chợt thấy ánh đèn, chúng giật mình bay loạn xạ, rít lên những tiếng kêu dữ tợn.
                    Hòa lẫn trong tiếng dơi kêu dường như có thanh gì đó nghe như tiếng rên rỉ khóc than nho nhỏ.
                    Quốc lồm cồm ngồi dậy, chưa kịp định thần đã bị chúng tấn công. Quốc vừa bò vừa la, Nam chạy tới bịt miệng Quốc, nạt:
                    - Mày tính la làng cho mọi người tới đây hay sao?
                    Quốc sợ líu lưỡi, kéo Nam chạy tuốt vô vườn nhãn. Chạy một quãng khá xa Quốc mới dừng lại thở. Nam gắt gỏng:
                    - Thứ thỏ đế như mày thì làm ăn gì được!
                    Quốc chắp tay xá xá trước mặt Nam:
                    - Thôi, tui lạy ông, tui sợ quá rồi! Có được bao nhiêu vàng tui cũng chào thua! Mấy con dơi đó không phải là dơi đâu, chúng đúng là một lũ quỷ  như lời người ta đồn đại.
                    - Đồ điên khùng! Bây giờ là thời đại nào mà mày còn tin mấy chuyện bá láp đó.
                    - Không tin cũng phải tin, lúc nãy khi quơ tay đụng nó tui nghe thấy rõ ràng một luồng âm khí chạy dọc cánh tay. Vả lại, lúc té xuống tui thấy phía trong nhà mồ thấp thoáng có bóng người, không nhìn rõ nam hay nữ, già hay trẻ. Tai tui lại nghe tiếng người rên. Đúng là mình đã quấy rối nơi ở của người ta… Tui ham vàng bạc thiệt, nhưng tui ham sống nhiều hơn. Tui bỏ cuộc, không tham gia nữa đâu!
                    - Chỉ tại mày sợ quá đâm ra hoa mắt, váng tai chứ làm gì có bóng người, tao cũng đứng cạnh bên sao tao không nhìn thấy cũng không nghe gì cả?
                    - Ông không tin thì thôi, chứ còn tui… tui bắt đầu tin những chuyện mới nghe tưởng như huyền thoại, và tôi mới hiểu tại sao dân vùng này họ sợ nhà mồ đến thế!
                    - Tao không ngờ mày hèn nhát như vậy!
                    Nam tức tối đá trái dừa non bên đường rơi tõm xuống mương, không thèm nói chuyện với Quốc, lầm lũi bước đi.
                    * *
                    *
                    Thằng Sang chạy tìm mấy vòng mới thấy Nam ngồi tư lự ở bờ sông. Nó mừng quá, gọi lớn:
                    - Anh Nam ơi, nước sông ròng sát rồi mình đi bắt cá nghen anh Nam!
                    Thường ngày Nam vẫn chìu nó nhưng hôm nay lại gắt gỏng:
                    - Mày đi kiếm thằng Quốc mà rủ rê, tao không rảnh!
                    Thằng bé tiu nghỉu quay đi mà lòng còn thắc mắc, không hiểu sao anh Nam lại khó chịu như vậy.
                    Nó có biết đâu suốt mấy ngày nay đầu óc Nam không ngừng suy nghĩ, vạch ra kế hoạch đối phó với đàn dơi, và làm cách nào đào bới một cách nhanh gọn nhất.
                    Nam muốn mọi việc phải xong xuôi trước khi trời sáng, để sáng ra vả vờ vác một cây cuốc hoặc mang một tay lưới cho mọi người không chú ý, chỉ cần chờ đò hoặc ghe máy chạy ngang là trốn đi liền, họ có phát giác vắng mình cũng đã chiều tối, lúc đó mình đã cao chạy xa bay rồi. Đất Sài Gòn mênh mông biết đâu mà tìm kiếm!
                    Buổi chiều trời bất ngờ đổ mưa. Mới đầu còn lất phất nhưng càng về sau mưa càng nặng hạt. Nước tuôn xối xả, mưa giăng trắng trời trắng đất.
                    Nam biết thời cơ đã đến không thể bỏ qua nên đi soạn mấy thứ cần dùng rồi nằm hút thuốc chờ trời tối.
                    Mạnh từ chối tham gia, Quốc rút lui do sợ hãi, giờ chỉ còn Nam đơn độc một mình. Nghĩ đến lúc mở nắp quan tài Nam cảm thấy ớn lạnh, nhưng tự trấn an mình rằng chết là hết, không có gì đáng sợ.
                    Theo lời ông Thịnh kể thì số của cải dưới mồ rất lớn. Nam đắn đo không biết lấy đi hết hay chia đều cho mỗi người, mình chỉ lấy đi phần của mình thôi.
                    Nhưng rồi Nam ấm ức, tội gì mình phải làm vậy! Nếu họ đồng ý nhận lấy số vàng đó thì mình đâu cần mạo hiểm.
                    Cuối cùng Nam quyết định sẽ chỉ để lại cho bà Nghiêm, Quốc và Liễu mỗi người một ít, còn lại bao nhiêu sẽ cùng Nam khăn gói lên đường.
                    Vì trời mưa nên mọi người trong nhà ngủ sớm. Tiếng ông Thịnh nghiến răng kèn kẹt, tiếng trở mình rên rẩm của bà Nghiêm làm Nam chợt xót xa. Cũng vì chuyện của cải này mà ba mẹ Nam lục đục với nhau hoài.
                    Ý bà Nghiêm cũng giống như Nam và Quốc, muốn lấy số vàng dưới mộ để cuộc sống đỡ vất vả hơn, nhưng ông Thịnh lại khăng khăng từ chối.
                    Nam thở dài thương mẹ, chắc sau khi Nam đi rồi bà Nghiêm sẽ còn khổ sở nhiều hơn.
                    Mình đi vài năm lại quay về đón mẹ, Nam nhủ lòng như thế.
                    Mưa nhỏ dần rồi dứt hẳn. Tiếng ềnh oàng của ếch nhái mở đầu cho khúc nhạc đồng quê vang vọng.
                    Nam rón rén đi xuống tầng hầm lôi những thứ đã chuẩn bị mấy ngày qua.
                    Nghe kể, thời ông cố Nam, nơi này thường xảy ra chiến tranh, bắn giết. Khi xây nhà ông cho làm thêm tầng hầm để con cháu có chỗ trú thân, tránh bom tránh đạn.
                    Những năm gần đây tầng hầm trở thành nơi chứa vô số vật linh tinh hư hỏng, bỏ đi thì tiếc nhưng để lại cũng không sử dụng được, người ta dồn xuống đó.
                    Năm này qua năm khác trở thành một thứ kho chứa hổ lốn, hoạ hoằn lắm mới có người xuống đó để vứt thêm một vật vào kho.
                    Từ tầng hầm bước lên, Nam giật mình khi chạm phải ánh mắt bà quản gia câm đang nhìn anh dò xét. Thấy chài lưới trên tay Nam, bà cười ra dấu bảo Nam nhà hãy còn nhiều cá, không cần phải lặn lội một mình trong đêm mưa gió thế này.
                    Nam cũng ra hiệu với bà rằng anh không ngủ được, đi một chút sẽ về. Bà quản gia soi cây đèn bóng lù mù mở cửa cho Nam.
                    Ngoài trời gió thổi lạnh buốt. Nam co ro trong chiếc áo mưa rộng thùng thình, vòng ra sau hè lấy cuốc, xà beng.
                    Vừa đi, Nam vừa thò tay vào giỏ lấy xị rượu thuốc ra hớp suông vài ngụm. Có như vậy mới nóng máu, mới đủ tinh thần.
                    Thấp thoáng xa xa có ánh đèn của những người đi soi. Bao giờ cũng vậy, sau  trận mưa lớn là ếch nhái ra đầy đồng, mọi người đổ xô đi bắt. Ếch bây giờ là món hàng đắt giá, nào là đùi ếch xuất khẩu và nhiều món ăn cao cấp chế biến từ thịt ếch được ghi trong thực đơn ở các nhà hàng, quán nhậu.
                    Nam dò dẫm từng bước chân trơn trợt, thỉnh thoảng mới rọi đèn pin.
                    Khu vực gò nổi không thấy một ánh đèn nào. Người ta vẫn tránh xa nơi đó. Nam mừng thầm trong bụng, không có người lai vãng công việc sẽ thuận lợi hơn.
                    Còn mấy bước nữa là tới nhà mồ. Nam dừng lại giũ tay chài xòe ra như một cái lộng khổng lồ. Nam đã tốn rất nhiều công sức mới chế tạo được loại dù này.
                    Xung quanh Nam giờ đây được bao bọc bởi một lớp lưới để chống lại bầy dơi. Nam cảm thấy tự tin hơn, khe khẽ đu người trèo qua tường rào.
                    Thật lạ lùng, khi đã đứng trong khuôn viên nhà mồ rồi Nam vẫn không thấy bóng dáng một con dơi nào. Chắc tại trời lạnh bầy dơi đang say ngủ, Nam nghĩ vậy và trở nên hăng hái lạ thường.
                    Nhưng kìa, một vài con bay từ trong góc nhà ra, lượn tới lui mấy vòng giống như người lính đi tuần tra.
                    Nam cẩn thận phủ lưới che xung quanh ngôi mộ, chui vào trong lưới hớp thêm ngụm rượu nữa mới bắt đầu hành động.
                    Nam dùng xà beng nạy dần những tảng đá xung quanh chân mộ. Công việc được tiến hành khẩn trương nhưng rất nhẹ nhàng.
                    Nam giật mình vì tiếng cuốc đầu tiên bổ xuống nền nhà. Giữa không gian tĩnh lặng âm u ấy, tiếng cuốc vang lên như đánh động cả nhà mồ.
                    Hàng trăm con dơi túa ra bâu quanh Nam. Chúng hung hăng, dữ tợn xé toang lớp lưới nhằm vào mặt mũi Nam tấn công liên tục. Một bóng người lướt nhanh qua rồi biến mất. Nam hoảng sợ, vứt cuốc, vứt cả đèn pin định bỏ chạy, nhưng tay chân vướng lùng nhùng những lưới, trong lúc hốt hoảng Nam không gỡ ra được.
                    Những tiếng rên rỉ nho nhỏ được phát ra từ góc nhà, tuyệt nhiên không phải tiếng dơi kêu mà nghe như ai đó đang than khóc.
                    Bầy dơi càng lúc càng hăng máu hơn khi nghe tiếng khóc. Nam vừa cố chạy ra, vừa né bên này, tránh bên kia, quơ tay xua đuổi cuống cuồng. Nam dùng hết sức trèo được lên tường rào, bỗng thấy tối tăm mặt mũi té  nhào xuống đất bất tỉnh.
                    * *
                    *
                    - Ông Hai, ông Ba ơi! Dậy đi, dậy nhanh lên! Có chuyện xảy ra với thằng Nam rồi!
                    Tiếng người gọi giật giọng ngoài ngõ đánh thức cả đại gia đình ông Thúc. Mấy ông bà già còn lọ mọ chưa kịp xỏ chân vào dép thằng Sang đã nhanh nhẹn chạy ra mở cổng.
                    Nó kêu rú lên khi nhìn thấy xác người nằm trên cáng được lối xóm cáng về. Nó vừa bước giật lùi, vừa khóc:
                    - Mẹ ơi, cậu Ba ơi! Anh Nam...
                    Nam nằm dài trên cáng, mặt và tay chân đầy những vết trầy xước, những vết rỉa rói chi chít trông thật đáng sợ.
                    Lúc đó mọi người đổ xô ra tới. Nhìn thấy Nam, bà Nghiêm gào khóc:
                    - Trời ơi, con tôi sao lại thế này?
                    Đến khi biết Nam chỉ còn là một xác chết xanh xao như những người bị ma cà rồng hút hết máu trong truyền thuyết, bà đau đớn quỵ xuống ngất đi.
                    Ông Thịnh, ông Thúc run bắn người, quýnh quáng cả lên. Liễu ôm chặt thằng Sang, chỉ có Mạnh là bình tĩnh nhất.
                    Mạnh hướng dẫn mọi người khiêng Nam vào nhà đặt nằm trên bộ ván gõ, anh dìu bà Nghiêm vào cạnh bên Nam.
                    Bà Nghiêm đã tỉnh dậy cứ ôm lấy xác con khóc không thành tiếng.
                    Ở ngoài sân, ông Thúc đang nghe bà con tường thuật lại cái chết của Nam.
                    Thật ra, họ không biết gì về nguyên nhân Nam chết. Những người dân ra đồng sớm, đi ngang qua gò nổi phát hiện Nam nằm giữa lối đi, đã tắt thở tự lúc nào.
                    Người ta đoán già đoán non rằng Nam bị đàn dơi quỷ trong nhà mồ rượt đuổi hút máu khi Nam đi ngang qua đó. Có người không tin ma quái thì đoán Nam uống rượu về trúng gió, khi chết rồi mới bị dơi, quạ rỉa.
                    Tiếng khóc ai oán,vật vã của bà Nghiêm làm những người thân cận phải mủi lòng. Liễu, Sang đứng kề bên nức nở.
                    Quốc không khóc nhưng vẻ mặt thất thần, Mạnh sai đâu làm đó như người đần độn.
                    Trẻ con bu kín trước cửa, dân ở bên kia sông, thậm chí ở mấy cù lao lân cận cũng bơi xuồng tới xem. Tin đồn về cái chết kỳ dị của Nam nhanh chóng lan ra xa và được thêm thắt những chi tiết kinh hoàng, rùng rợn  hơn.
                    Có người nói đêm đó họ nghe tiếng hú kéo dài trong mưa, chắc là hồn ma đã giết được Nam nên cất tiếng reo hò mừng cho mình có người thay thế.
                    Khu vực quanh gò nổi vốn đã vắng người, sau cái chết của Nam  hầu như không còn ai lai vãng.
                    Ông Thúc nói với những người trong nhà rằng Nam dám quật mồ bà nội, bùa phép hiển linh nên phải chịu hậu quả như  thế.
                    - Trời ơi, ông bà ơi, sao nỡ mạnh tay với cháu mình đến thế?
                    Bà Nghiêm than vãn.
                    Sau đám tang, vợ chồng ông Thịnh làm một mâm lễ nhỏ mang ra nhà mồ khấn khứa và lấp lại nền nhà bị Nam đào lổ chổ trước kia.
                    * *
                    *
                    - Ê! Khoan, khoan! Mày uống ly này là ly thứ mấy rồi? Uống rượu với mày chán bỏ mẹ, cứ lầm lầm lì lì, ngồi cả buổi hổng nói câu nào cứ hả miệng ra nốc hết ly này đến ly khác!
                    Quốc cầm ly rượu đưa lên miệng chưa kịp uống thì  đám bạn nhậu nhao nhao phản đối. Anh dằn mạnh ly rượu xuống bàn:
                    - Tụi bây biểu tao nói gì bây giờ? Tao đang chán đời, chỉ muốn uống say mèm cho quên trời quên đất! Tụi bây không cho uống thì tao đi, tao đâu thèm uống chùa rượu của tụi bây…
                    Quốc dợm đứng lên, một người vội vàng níu lại:
                    - Thôi, anh em thấy mày buồn nên giỡn chút vậy mà, mày chấp nhứt làm gì! Ngồi xuống, ngồi xuống kể hết với anh em những đau khổ trong đời! Tụi mình là tri kỷ với nhau, có gì cũng cần chia sẻ.
                    - Đúng rồi đó! Anh Quốc ngồi xuống đi, cụng ly với thằng em này một cái rồi mình tâm sự…
                    Quốc ôm đầu khổ sở. Một người bạn nhậu ra vẻ hiểu biết, xé một miếng khô mực đưa cho Quốc rồi chép miệng nói:
                    - Tội nghiệp! Anh em biết mày đang trong lúc buồn phiền… Không buồn sao được, anh  mày chết thảm quá mà!
                    - Từ hôm thằng Nam qua đời tới nay nó có về tìm mày không, Quốc?
                    Một người tò mò hỏi. Quốc thở dài đáp:
                    - Ông Nam thì tui không thấy, mà đêm nào tui cũng mơ thấy toàn chuyện quỷ ma! Riết chắc tui phát điên lên quá!
                    - Mày cũng tin chuyện ma quỷ à?
                    - Sao không tin được! Tui… gần như tui đã gặp ma một lần rồi, từ hồi ông Nam còn sống lận!
                    Quốc nhớ lại cái đêm cùng với Nam ra nhà mồ với ý định đào lấy của cải. Giờ nhớ lại anh vẫn còn run.
                    - Mày thấy ma ở đâu?
                    - Ở… nhà mồ!
                    Một bợm nhậu khác lên tiếng:
                    - Thôi đi cha, đừng có nhát tụi này nghe! Chuyện ma trong nhà mồ tao nghe kể đầy hai tai rồi, tao sống ở đây từ nhỏ tới lớn mà có thấy gì đâu! Hay là đúng như lời đồn đại, tại trong mồ có chôn theo của cải nên gia đình mày tung tin để người khác hổng dám vô?
                    Quốc tợp một ngụm rượu, nhăn mặt khà một tiếng rõ to rồi nói chậm rãi:
                    - Tin hay không là tùy tụi mày, tao không muốn nhát ai hết!
                    - Phải đó! Chuyện ma hiện hình, ma rượt đuổi người ở khu gò nổi cũng có nhiều người chứng kiến. Tao nhớ hồi còn nhỏ từng đi xem một ông, tối ổng lén vô nhà mồ bị ma bắt mất hồn vía, cứ ngơ ngơ ngác ngác. Chuyện đó cả xứ này ai cũng biết!
                    - Đừng nói đâu xa, mới tuần trước tao đi nhậu ở xóm trên lỡ về khuya, ngang qua chỗ mả thằng Nam, tao thấy rõ ràng một bóng người ngồi trên mộ, tóc tai rũ rượi, khóc than rên rỉ nghe thương tâm lắm! Tao sợ gần chết, chạy vắt giò lên cổ.
                    - Còn tao, có một đêm tao đi ngang gò nổi, thoáng thấy một người đi phía trước, tao tính đuổi theo để cùng đi cho có bạn, nhưng thoắt cái bóng người biến mất ở cửa nhà mồ. Tao lúc đó chưa biết sợ là gì nên tiến sát vào cổng nhìn vô trong thử xem ai lẻn vào đó làm gì. Tụi mày biết tao nhìn thấy gì không? Thật khủng khiếp, tao thấy hai cánh tay thật lớn, lớn hơn tay người nhiều lắm đang chìa ra, còn lũ dơi thì chen chúc nhau ào vào cánh tay đó không biết để làm gì? Tao hoảng quá bỏ chạy thụt mạng, chạy một quãng còn nghe văng vẳng tiếng khóc than rên rỉ. Từ đó tao tởn luôn, chừa không dám đi qua đó ban đêm!
                    Đám bạn nhậu với Quốc nhao nhao bàn tán, mỗi người góp một câu làm cho câu chuyện vốn đã ly kỳ, mờ ám giờ lại càng đượm màu sắc yêu ma.
                    - Hôm thằng Nam chết, tụi mày có thấy mặt nó không? Thật vô cùng khủng khiếp! Mặt nó lủng lổ tan nát hết, giống như mấy người chết trôi dưới nước lâu ngày bị cá rỉa vậy. Phải không Quốc?
                    Quốc gật đầu xác nhận.
                    -Bởi vậy tao mới sợ! Tao nghe gia đình kể lại, trước nay ông bà tao làm ăn đàng hoàng lắm, lại luôn làm phước chứ đâu có ám hại ai, cũng không ỷ giàu sang mà phách lối. Vậy mà… không hiểu sao ma quỷ lại nhằm vào gia đình tao quậy phá, chẳng lẽ bà nội tao chết rồi thành tinh sao?
                    - Bậy, thằng Quốc mày đừng nói bậy! Ai chứ bà Chín thì cả làng này mang ơn! Tao nè, hồi nhỏ hổng có bà giúp đỡ thì tao chết tám đời rồi! Tao bịnh thập tử nhất sinh mà ba má tao đâu có tiền, cứ ôm con ngồi nhà khóc, may sao bà Chín biết được hối bà câm nhà mày lấy ghe máy đưa mẹ con tao vô bệnh viện, nhờ đó tao mới sống tới giờ! Cả làng này hầu như ai cũng mang ơn bà, không nhiều thì ít.
                    - Vậy thì anh giải thích cho tui nghe đi, tại vì sao nhà tui xảy ra những điều như vậy? Đất cù lao này rộng mêng mông, sao ma quỷ lại nhè mồ mả ông bà tui mà bám lấy?
                    Quốc tức tối.
                    -Điều đó… tao không biết! À… mà có lẽ tại vì bà Chín được chôn trong nhà mồ, cả xứ này chỉ có duy nhất một cái nhà mồ đó là to đẹp nhất, lũ yêu ma quỷ quái mới chọn nơi đó làm nơi trú ẩn cho mình. Tụi mày nghĩ xem tao nói phải không?
                    - Ờ há! Mày nói cũng có lý!  Hèn gì mấy ông già bà cả ở đây đều nói từ ngày có nhà mồ bà Chín ma quỷ mới lộng hành!
                    - Dẹp tụi bây đi! Thanh niên trai tráng, đầu đội trời chân đạp đất mà ngồi đây nói chuyện quỷ ma! Tao đếch tin ba cái chuyện tào lao ấy! Hôm nào trời nóng nực, tao ra nhà mồ ngủ một đêm cho tụi bây coi.
                    Một thanh niên lớn tiếng phản bác. Mọi người cụt hứng quay sang tấn công anh ta tới tấp:
                    - Mày ngon quá hén? Tụi tao không cần mày ngủ suốt đêm ngoài đó, chỉ cần tối nay mày vô đó mượn cái lư nhang ra đây cho tụi tao coi, tụi tao sẽ tôn mày làm “đại ca”.
                    - Làm đại ca tụi bây thì có lợi lộc gì? Tao hổng cần làm đại ca, tiểu ca gì hết, chỉ muốn thằng Quốc làm thịt con chó vàng nhà nó đãi tao nhậu một bữa thôi, chịu không?
                    Cả bọn nhao nhao:
                    - Chịu liền đi Quốc! Nó nói cứng vậy chứ đời nào dám bén mảng tới chỗ đó!
                    Quốc hăng máu:
                    - Tao đồng ý với điều kiện, nếu mày không dám đi hoặc đi mà gặp ma thì mày phải đãi tụi tao nhậu hết tháng này! dám không?
                    - Có gì phải ngán mậy? Tụi mày làm chứng nghe! Tối nay hẹn gặp tại đây, thằng Quốc khi đi nhớ dắt theo con chó!
                    Quốc cười mũi:
                    - Để rồi xem!
                    - Thôi, giờ anh em mình giải tán, tối nay tiếp.
                    Chủ nhà dọn dẹp chén bát, đám bạn nhậu tản ra ai về nhà nấy.
                    Quốc ngả nghiêng đi về. Tới cổng nhà chú chó vàng chạy ra quẫy đuôi mừng tíu tít. Quốc ôm con chó vào lòng, ngồi xuống thềm nhà lè nhè nói:
                    - Thằng Lam thèm thịt mày lắm đó chó vàng à! Nó biểu tao tối nay dẫn mày theo để làm thịt! Sức mấy… sức mấy mà nó động được sợi lông của mày, nó làm sao thắng tao được!
                    - Lại nhậu nhẹt nữa! Mày định làm thịt con chó này luôn à, Quốc?
                    Mạnh từ trong nhà đi ra, nghe lõm bõm câu chuyện Quốc nói với con chó, bèn cất tiếng hỏi.
                    Quốc cười khoái trá:
                    - Thằng Lam nó làm tàng lắm anh Mạnh ơi, nó nói trên đời này không hề có ma quỷ, người ta chết là hết… Nó cam đoan tối nay nó sẽ một mình đi vô nhà mồ lấy cái lư nhang trong đó ra cho mọi người coi. Cho nó chết, bỏ tật phách lối! Nó cá với tui là nếu nó làm được điều ấy tui phải giết con chó vàng này cho nó nhậu, còn không nó sẽ đãi tui nhậu trọn tháng luôn. Ha ha ha… phen này mày hết đời rối Lam ơi…!
                    Quốc ôm con chó vào lòng, cười ngất. Chú chó không biết gì cứ quấn lấy chủ, hết liếm tay, liếm chân lại dựng đứng hai chân chồm lên đùa giỡn với Quốc.
                    Mạnh lặng lẽ nhìn Quốc hồi lâu mới nói:
                    - Thôi, mày vô tắm rửa đi, người ngợm dơ như chồn!
                    Quốc đẩy con chó ra, liêu xiêu bước vô nhà, vừa tới bộ ván nơi ông Thịnh thường nằm đã ngã ra đó ngủ luôn, chưa kịp rửa tay chân, mặt mũi.
                    Bà Nghiêm nhìn con ngao ngán. Ông Thịnh thì hầm hừ, chỉ chờ thằng Quốc thức dậy sẽ cho một trận nên thân.
                    Nhưng khi Quốc tỉnh dậy lại không có ông Thịnh ở nhà, bà Nghiêm cằn nhằn:
                    - Lát nữa ba mày về là ầm nhà ầm cửa! Đã bảo lo làm việc với anh Mạnh mày mà không chịu nghe, tối ngày nhậu nhẹt say sưa! Tao thiệt hết nói nổi mày rồi Quốc à!
                    - Má nói hoài con nhức đầu quá! Con không còn tâm trí đâu mà làm với lụng! Má nói ba bán đất chia tiền cho con, con đi xứ khác làm ăn, không phiền tới ba má nữa. Chừng nào ăn nên làm ra con mới quay về!
                    - Chuyện đó mày nói với ba mày ấy! Tao thì có quyền hành gì trong cái nhà này, ta cũng đâu tha thiết gì ở lại đây!
                    - Vậy thì hai mẹ con mình cùng đi! Con hứa sẽ lo cho má chu đáo!
                    Bà Nghiêm rơm rớm nước mắt:
                    - Bộ nói đi là đi được hay sao? Một đồng trong túi cũng không có, con nói đi đâu được bây giờ?
                    - Bởi vậy con mới kêu má nói ba bán đất chia tiền! Đất đai ông bà để lại, mỗi người đều có phần.
                    - Đất là đất chung, một mình ba mày cũng đâu quyết định được.
                    - Nếu ba quyết tâm, con chắc bác hai với cô út cũng sẽ chìu theo! Thôi, má ở nhà ráng thuyết phục ba, con đi công chuyện một chút!
                    Quốc vừa nói vừa xỏ tay vào áo. Bà Nghiêm nhăn mặt:
                    - Tối rồi còn đi đâu nữa? Chút ba mày về không thấy ổng lại chửi tao.
                    - Con đi công chuyện cho anh Mạnh mà, má cứ nói vậy ba không la đâu!
                    Quốc đi nhanh ra cửa, bà Nghiêm nhìn theo thở dài. Mạnh đứng bên cạnh từ lâu, giờ mới cất tiếng an ủi:
                    - Thiếm đừng buồn, thằng Quốc còn nhỏ nên ham chơi, để từ từ rồi con khuyên bảo nó.
                    -Ừ, con ráng khuyên nó giúp thiếm, độ này nó ăn nhậu be bét, thiếm rầu hết sức.
                     Mạnh đứng nói chuyện với bà Nghiêm một lúc rồi về phòng. Bà Nghiêm lặng lẽ đi thắp nhang, mùi khói nhang thơm thơm lan tỏa khắp căn nhà.
                    Quốc tới chỗ hẹn đã thấy mấy người ngồi đợi. Anh hỏi:
                    - Thằng Lam tới chưa?
                    - Chưa thấy! Có khi nào hắn ta tỉnh rượu rồi mới sợ, trốn luôn không?
                    Vừa lúc đó Lam lững thững từ ngoài sân đi vào, mặt vênh vênh:
                    - Ai dám nói tui trốn? Thằng này không sợ trời, không sợ đất có gì mà phải trốn tránh?
                    Quay sang Quốc, Lam hỏi:
                    - Ê, con chó đâu sao không dắt theo?
                    - Mày yên tâm đi, tao cột sẵn nó ở nhà rồi! Mày làm xong bổn phận là…a lê hấp, sẽ có món cầy tơ cho mày ngay!
                    Lam sáng mắt:
                    - Thiệt nghen!
                    - Ừ, thiệt chứ! Còn mày, đã tìm được nơi nào cho vay chưa? Đãi tụi tao nhậu một tháng không phải ít tiền đâu nghen!
                    Một người bạn can:
                    - Thôi đi, cứ đôi co hoài cũng không phân thắng bại! Giờ cũng hơn 9 giờ đêm rồi, tụi mình sương sương một chút cho thằng Lam có tinh thần đi làm “nghĩa vụ”. Chừng đó ai thắng, ai thua là biết ngay thôi mà!
                    Cả đám ngồi quây quần giữa sân, cụng ly rốp rẻng. Lam ực một hơi cạn hết ly rượu, đứng lên nói:
                    - Tụi bây ở đây chờ tao!
                    - Chúc mày mã đáo thành công!
                    Lam đi băng qua góc sân, khuất sau hàng dâm bụt vẫn còn nghe tiếng Quốc cười:
                    - Tháng này nhậu miễn phí anh em ơi, dô!
                    Lam hậm hực. Để rồi xem, đừng vội!
                    Ánh trăng mờ mờ làm bóng Lam đổ dài trên mặt đường. Chín, mười giờ đêm ở thôn quê hẻo lánh là đã khuya khoắc lắm rồi. Không gian tĩnh lặng, ngoài tiếng côn trùng hòa tấu, thỉnh thoảng nghe tiếng chuột chạy sột soạt trên mấy tàu lá dừa, tiếng gió thổi lao xao, tiếng kêu quàng quạc của con chim nào đó trên cành.
                    Lam vừa đi vừa hát. Anh cố tình hát thật to để dằn bớt sự lo sợ trong lòng.
                    Sáng nay vì có rượu, Lam lỡ nói cứng trước mặt mọi người, phóng lao đành phải theo lao, Lam không thể thoái thác, chứ thật ra khi tỉnh rượu Lam cũng thấy mình quá trớn. Ngôi nhà mồ là nơi nhiều điều đồn đại, lẽ ra mình phải tránh xa, đằng này lại tự chui cổ vào tròng…
                    Lam bậm môi. Nhằm nhò gì, chỉ một chút thôi, ráng một chút thôi là ngoài việc được xơi thịt con chó mập ú nhà thằng Quốc, mình còn được đám thanh niên trong làng coi như anh hùng, không khoái lắm sao? Tự động viên mình như thế Lam hí hửng đi thật nhanh về phía gò nổi.
                    Ngôi nhà mồ đã hiện ra trước mặt, lạnh lẽo, âm u. Ánh trăng làm cảnh vật lung linh, mờ ảo đầy chất liêu trai.
                    Lam trèo lên tường rào, ngồi ngó vào trong. Căn nhà mồ im vắng, không một tiếng động nào, nên tiếng thở của Lam nghe rõ mồn một.
                    Bầy dơi đi đâu vắng sao không nghe chúng bay? Lam thầm hỏi rồi lại tự trả lời, lúc này đã vào mùa nhãn chín, chắc lũ đó đi phá phách vườn nhãn nhà ai rồi cũng nên!
                    Lam nhẹ nhàng nhảy xuống sân nhà mồ rồi chậm rãi tiến vào trong, mắt nhìn ngó láo liên, đề phòng từ mọi hướng.
                    Mộ bà Chín nằm giữa nhà, to đùng như một chú voi con đang nằm ngủ.
                    Lam căng mắt nhìn sâu vào góc nhà, không có gì khác lạ.
                    Đã từ lâu người nhà bà Chín không còn thắp nhang cho bà mỗi ngày nữa, mà chỉ đến ngày giỗ hoặc tết hay thanh minh gì đó mới mở cửa vào đây quét tước, cúng bái. Chiếc lư nhang nằm chơ vơ dưới chân bia mộ, không còn một chiếc tăm nhang nào, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai tới lui thăm viếng, chắc hẳn từ sau ngày thằng Nam chết, vợ chồng ông Thịnh tới cúng một lần rồi thôi chẳng còn ai lai vãng.
                    Lam khom người xuống, tay vừa chạm và chiếc lư nhang thì bổng nghe có tiếng thở dài áo não, thoảng nhẹ như tiếng gió thổi qua. Giật thót người, Lam rụt vội tay về, đứng im nghe ngóng. Ngoài tiếng con thạch sùng chắc lưỡi Lam tuyệt nhiên không nghe âm thanh nào khác lạ cả.
                    Mình ảo tưởng hay sao ấy! Lam cố trấn tỉnh, một lần nữa với tay định cầm lấy chiếc lư nhang. Bất chợt từ trong góc nhà mồ, khuất sau chiếc bàn thờ nhỏ có treo bức hoành phi, những đốm lửa đỏ tung tóe bay ra, tiếp theo sau là một bóng người hiện ra như chui lên từ lòng đất. Bóng người cao lênh khênh, không có một con người nào có thể cao đến thế, ngoại trừ những người đang chơi đi cà kheo, cái bóng đó không ngừng di chuyển, bộ quần áo trắng phất phơ qua lại khiến Lam điếng hồn.
                    (Còn tiếp)
                    Nguyễn Thị Mộng Thu
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:53:49 bởi nguyenthu >
                    #85
                      nguyenthu 10.08.2009 22:34:45 (permalink)
                      NHÀ MỒ OAN KHỐC
                      (Tiếp theo)


                      Lam bước giật lùi, vấp chân vào ngạch cửa nhưng anh gượng lại được. Miệng há hốc không kêu thành tiếng.
                      Bóng ma chờn vờn qua lại rồi vừa hú lên khe khẽ vừa từ từ tiến về phía Lam. Lam xoay người phóng ra sân trèo vội lên tường rào, chạy thục mạng.
                      Quốc và đám bạn nhậu đang ngồi lai rai thì Lam xồng xộc chạy vào, nằm lăn ra thở dốc, mặt đầy vẻ hốt hoảng. Ai nấy không còn tâm trí để chọc ghẹo Lam mà đều đổ xô vào lo cho Lam.
                      Lam ôm lấy Quốc:
                      - Tha lỗi cho tao, tao biết sợ rồi! Khủng khiếp quá… thật khủng khiếp biết bao!
                      Nhìn thấy tình trạnh hốt hoảng của Lam, Quốc không có cái cảm giác của người thắng cuộc mà chợt thấy buồn chán cho gia đình mình.
                      Dòng họ mình hết thời rồi nên ma quỷ mới dám lộng hành như thế!
                      * *
                      *
                      - Đừng đuổi theo tôi! Đừng đuổi theo tôi!
                      Tiếng la thất thanh của Quốc làm bà Nghiêm choàng tỉnh. Bà hốt hoảng chạy đến bên giường lay gọi con:
                      - Quốc à, Quốc! Con ngủ mê thấy gì mà la dữ vậy?
                      Ông Thúc ở gian bên hỏi vọng sang:
                      - Thằng Quốc lại mớ nữa à?
                      Bà Nghiêm “dạ” một tiếng rồi hối ông Thịnh thắp đèn.
                      Quốc ngồi dậy ngơ ngác nhìn quanh, vẻ mặt chưa hết hoảng sợ.
                      Từ sau cái chết của Nam, tinh thần khủng hoảng trầm trọng, Quốc đâm ra rượu chè be bét, đêm đêm lại thường mơ thấy ác mộng.
                      Trong những cơn ác mộng ấy luôn luôn có sự hiện diện của đàn dơi quỷ trong nhà mồ. Khi thì chúng rượt đuổi Quốc, khi thì chúng treo lơ lửng trước mặt Quốc cái thân hình quái dị, chim không ra chim, chuột không phải chuột…
                      Có khi Quốc chưa kịp ngủ, vừa mới lơ mơ đã nghe tiếng người rên rỉ nho nhỏ gần bên, rồi tiếng dơi bay, tiếng gió rít ngoài khe cửa…
                      Quốc luôn sống trong nỗi ám ảnh ghê rợn đó. Bao nhiêu chuyện ma quái được nghe kể từ thời còn bé, giờ đây bỗng nhiên Quốc nhớ rõ mồn một.
                      Ông Thịnh đặt cây đèn lên bàn, buồn rầu nhìn Quốc.
                      Có tiếng dép lê sền sệt của ông Thúc đi sang. Ông Thịnh kéo ghế:
                      - Anh ngồi chơi! Thiệt, con với cái, đêm hôm không để ai yên giấc.
                      Quốc chui ra khỏi mùng rót nước uống ừng ực, mồ hôi vã ra. Bà Nghiêm với lấy cây quạt ở đầu giường phe phẩy quạt cho con.
                      Quốc ngồi xuống ghế hai tay ôm đầu, giọng khổ sở:
                      - Bác Hai ơi, con không chịu nổi cuộc sống ở đây nữa rồi! Mình bán nhà, bán đất trở lên Sài Gòn như trước đi, bác Hai!
                      Ông Thịnh nạt:
                      - Mày ăn nhậu riết rồi phát điên hay sao vậy? Không sống ở đây được thì mày đi đi, tao đâu có cấm cản!
                      Quốc sừng sộ:
                      - Ba biểu tui đi với hai bàn tay trắng à? Đất đai ông bà để lại có phần tui trong đó, ít nhất cũng phải bán chia cho tui chút đỉnh chứ!
                      Ông Thịnh đập tay xuống bàn:
                      - Nửa đêm nửa hôm không phải là lúc nói chuyện đó, mày đi ngủ ngay cho tao nhờ!
                      Bà Nghiêm sợ chồng nổi giận sẽ làm to chuyện, vội vã kéo Quốc trở lại giường.
                      - Thôi, đêm hôm khuya khoắt cứ để cho nó ngủ, có gì sáng mai hãy nói!
                      Ông Thúc can. Quốc hậm hực chui trở vô mùng.
                      Ông Thịnh thở dài thườn thượt:
                      - Anh sao có phước, thằng Mạnh mồ côi mẹ từ nhỏ vậy mà lớn lên không làm anh phải buồn lòng. Còn hai đứa con tôi đủ đầy cha mẹ mà lại hư thân như vầy đây!
                      - Thằng Nam đã chết rồi, tôi xin ông hãy để nó yên!
                      Bà Nghiêm khóc rấm rúc.
                      Ông Thúc ngồi uống thêm với em mấy chung trà mới đứng lên về ngủ.
                      Sáng ra, cơm nước xong ông Thúc bảo:
                      - Mọi người nán lại một chút, tôi có chuyện cần bàn!
                      Thằng Sang có vẻ chán những cuộc họp gia đình thế này, nó len lén chuồn ra cửa sau chạy biến.
                      Ông Thúc nhìn bao quát mọi người một lượt rồi nói:
                      - Cháu Quốc nhiều lần đề nghị tôi bán nhà cửa đất đai để lấy tiền chia cho các cháu tự do đi làm ăn. Tôi không có quyền quyết định, nên muốn bàn với cả nhà xem sao.
                      Bà Lan ngăn:
                      - Nhà là nhà thờ, bán sao được mà bán!
                      Mạnh chen vào:
                      - Có đem bán tất cả rồi chia đều ra thì mỗi người cũng không được bao nhiêu.
                      Quốc cãi:
                      - Dẫu ít nhưng có cò hơn không. Ở nơi hắc ám này tui hết chịu nổi rồi.
                      Vợ chồng ông Thịnh cúi gằm mặt ngồi im. Ông Thúc thở dài hỏi:
                      - Vậy có còn ai muốn đi khỏi chỗ này không?
                      Bà Nghiêm len lét ngó chồng rồi lại cúi xuống. Trong thâm tâm, bà không thích cuộc sống hiện tại chút nào. Bà đã quen làm chủ, ở đây lại không có cái gì là của bà, từ cái bàn, cái ghế đều là “của chúng ta”, của cả đại gia đình.
                      Cuộc sống chung đụng làm bà vô cùng khó chịu. Nhiều lần bà đôn đốc chồng đào lấy của cải dưới mồ, nhưng từ ngày Nam chết bà không dám đề cập tới chuyện đó.
                      Giờ thì bà cũng giống như Quốc, chỉ mong được chia cho một số vốn, dù là nhỏ bé.
                      Nhưng bà ngán ông Thịnh, không biết ý ông thế nào nên bà không dám nói ra, chỉ sợ đổ thêm dầu vào lửa.
                      Cuộc bàn bạc cứ kéo dài dây dưa không ngã ngũ. Nắng đã vào tới thềm nhà, Mạnh chán nản đứng lên ra vườn.
                      Không khí trong nhà mấy lúc gần đây luôn ngột ngạt.
                      Thấy nguyện vọng của mình không thành Quốc tức giận bỏ đi.
                      - Ê, Quốc! Đi đâu mà hấp tấp vậy?
                      Nghe tiếng gọi từ phía bờ sông vọng tới, Quốc quay lại mừng rỡ nói với người ngồi dưới xuồng:
                      - Tao đi kiếm mày, tính rủ mày ra quán bà Ba Ú làm một chầu đây!
                      - Có chuyện gì mà gầy độ sớm vậy cha?
                      - Buồn đời nhậu chơi vậy thôi, đi với tao nghe mày!
                      - Thôi đi cha nội, có buồn thì nhảy xuống đây theo tao đi công chuyện. Chiều về ghé nhà thằng Tí có món cầy tơ, nó nhắn rủ mày đó!
                      - Thiệt hả?
                      Quốc vừa hỏi vừa bước xuống xuồng, vớ lấy cây dầm cùng bơi với bạn.

                      Tàn cuộc nhậu lúc làng xóm đã ngủ yên. Quốc chân nam đá chân chiêu loạng choạng bước đi.
                      - Có về một mình được không?
                      Người bạn nhậu nhìn Quốc e ngại. Quốc lè nhè:
                      - Sao không được mậy! Tưởng tao say rồi hả? Chưa đâu… tao chưa say đâu. Thằng này còn đủ sức nhậu tới sáng mà…
                      - Thôi đi cha, mắt mở hết lên mà còn làm tàng, có giỏi ở lại uống tiếp.
                      - Mày kỳ quá, khuya rồi để cho nó về! Về đi Quốc, tụi tao cũng dẹp luôn đây!
                      Mấy người bạn của Quốc dằng co, kẻ níu lại, người đẩy đi.
                      Quốc lừng khừng:
                      - Chào, chào hết tụi bây, tao về bán đất, thằng nào mua đất chỉ tới gặp tao nghe!
                      - Được rồi, được rồi! Về đi...
                      Quốc loạng choạng ra về.
                      Vầng trăng non treo nghiêng trên bầu trời, cảnh vật xung quanh trở nên huyền ảo. Dòng sông loang loáng ánh trăng, thỉnh thoảng một vài chú cá đớp mồi làm xao động mặt nước.
                      Cây lá hai bên đường rung rinh, xào xạc. Gió đêm mát rười rượi, đung đưa chùm ổi trước mặt Quốc. Quốc với tay hái chùm ổi, cắn vài cái rồi ném tõm xuống mương.
                      Cứ bước thấp bước cao như thế Quốc đi vòng vèo hết khu vườn này sang khu vườn khác, mãi chẳng tới nhà.
                      Hương nhãn thoang thoảng trong gió, Quốc nhận ra đã đến đất vườn mình, mới hôm qua Quốc và Mạnh đi bao nhãn hết cả buổi sáng, sợ bị dơi ăn.
                      Nhớ đến đó Quốc chợt lạnh người và tỉnh hẳn rượu. Ngôi nhà mồ đang ở trước mặt, lũ dơi  dập dìu lượn lờ qua lại.
                      Dưới ánh trăng mờ ảo, ngôi nhà mồ sừng sững uy nghiêm càng như chứa đựng biết bao điều mờ ám.
                      Hình như có bóng người thấp thoáng bên trong. Quốc dụi mắt nhìn kỹ vẫn chỉ thấy mơ hồ, phảng phất bóng một người đứng giữa đàn dơi. Sợ quá, Quốc co giò chạy thục mạng, phía sau lưng bầy dơi ồ ạt đuổi theo.
                      Tiếng rên rỉ lại vang lên ai oán.
                      Bầy dơi vây kín xung quanh Quốc, mổ tới tấp vào mặt mũi.
                      - Cứu! Cứu tôi với!
                      Tiếng kêu hãi hùng của Quốc xé toạc màn đêm, đánh thức một gia đình ở gần đó. Nhưng người chồng đi vắng, chị vợ không dám ra ngoài khi đêm xuống.
                      Nghe tiếng kêu cứu, chị chỉ biết run rẩy kêu với sang mấy nhà lân cận:
                      - Bà con ơi, có ai kêu cứu ngoài gò nổi, bớ bà con ơi…. ơi…!
                      Những nhà kế đó lại gọi sang nhà khác, tất cả đều bị dựng dậy giữa một đêm trời quang mây tạnh.
                      Cả xóm huyên náo hẳn lên bởi tiếng kêu réo, tiếng gõ xoong nồi ầm ĩ. Người ta đốt đuốc sáng rực, kéo nhau chạy về phía nhà mồ.
                      Mạnh cùng ông Thúc, ông Thịnh cũng có mặt trong đám đông ấy.
                      Quốc nằm ngửa dưới vườn nhãn, mặt bê bết máu nhưng vẫn còn thoi thóp thở.
                      Mạnh xốc Quốc lên vai cõng chạy về nhà. Mọi người chạy theo rần rần, lửa đuốc đỏ rừng rực một quãng đường dài.
                      - Liễu ơi! Liễu, mau đem bông băng với thuốc cầm máu ra đây, lẹ lẹ lên!
                      Từ ngoài ngõ Mạnh đã hét gọi. Liễu run bần bật không biết xảy ra chuyện gì nhưng cũng vội vã ra ngoài.
                      - Đứa nào bị  sao vậy?
                      Bà Nghiêm hớt hãi, linh tính báo cho bà biết có chuyện gì đó khủng khiếp đang xảy ra cho gia đình bà. Thằng Quốc đi từ sáng chưa về, bà thấp thỏm trông con, nằm nghe tiếng con chim heo kêu eng éc trên mái nhà bà cứ lo ngai ngái. Giờ nghe chuyện lùm xùm bà quýnh quáng bước đi không vững.
                      - Trời ơi, thằng Quốc! Quốc ơi, con ơi con sao vậy con?
                      Bà Nghiêm ôm lấy Quốc khóc rống lên.
                      Bà Lan kéo bà tránh ra một bên cho Liễu vào lau mặt Quốc.
                      Liễu run run cầm miếng bông chùi nhẹ bên má, bỗng cô tối tăm mặt mũi khi nhận ra mặt Quốc cũng đầy những vết thương chi chít giống như Nam lúc trước. Cô rú lên:
                      - Trời ơi, kinh khủng quá!
                      Ông Thịnh nóng ruột hối người chuẩn bị ghe máy đưa Quốc đi bệnh viện, nhưng không còn kịp nữa, người Quốc khẽ giật rồi thở hắt ra hơi cuối cùng, hai tay thõng xuống.
                      Ông Thịnh đấm tay vào ngực khóc hu hu. Bà Nghiêm điên cuồng giằng ra khỏi tay ông Thúc, nhào đến bên Quốc gào lên thảm thiết.
                      Xóm cù lao náo loạn. Chó sủa inh ỏi, trẻ con  giật mình khóc thét lên. Xung quanh khu vực nhà ông Thúc đèn đuốc đỏ rực, người ta chạy ra chạy vào, tiếng người nói ồn ào, tiếng khóc xé ruột của những người đàn bà trong ngôi nhà ngói ba gian khiến nhiều người động lòng rơi nước mắt.
                      * *
                      *
                      Liễu đạp lại mối đường may cuối cùng rồi vui vẻ đưa sản phẩm vừa hoàn thành lên ngắm nghía. Chiếc áo cổ dún bèo, tay loe rất đẹp, rất mô-đen.
                      Liễu học may chưa lâu nhưng đã thực hiện tốt những đường may khó. Chị Hằng chủ tiệm may không ngừng động viên Liễu:
                      - Em có hoa tay lắm đó, ráng chăm chỉ học đến tết này chị có thể giao hàng cho em may chia bảy ba rồi!
                      Thật ra ban đầu Liễu đòi đi học may không phải vì cô yêu thích nghề này, mà vì cô sợ ở nhà làm vườn riết rồi sẽ chai tay nám mặt. Nhưng dần dần Liễu nhận ra công việc này cũng có nhiều cái hay. Mỗi khi hoàn thành bất cứ một sản phẩm nào Liễu cũng cảm thấy sung sướng thật sự.
                      Từ ngày biết may bập bõm, những lúc ở nhà rảnh rỗi, Liễu thường đem quần áo cũ ra cắt, sửa kiểu nay kiểu khác, nhờ vậy cô tiến bộ rất nhanh.
                      Liễu thầm ước mong một ngày nào đó mình cũng có riêng một tiệm may nho nhỏ thế này.
                      -Chị gì đó ơi, cho tôi hỏi…
                      Liễu đứng lên chào khách:
                      - Dạ, có chuyện gì không anh?
                      - Hôm tuần trước tôi có đặt may áo ở đây, chị chủ tiệm hẹn nay tới lấy.
                      Người thanh niên trả lời. Liễu chợt nhớ, cách đây mấy hôm khi đưa chiếc áo sơ-mi màu xanh biển cho Liễu ráp, chị Hằng có nói đùa:
                      - May cho thiệt khéo nghen! Cậu Trọng này vừa đẹp trai, vừa giỏi giắn lại chưa vợ con gì, để chị làm mai cho.
                      Nhớ lại chuyện đó bất chợt Liễu cảm thấy hơi thẹn. Cô hỏi:
                      - Có phải cái áo sơ-mi màu xanh biển không ạ?
                      - Đúng rồi đó, áo xong chưa vậy chị?
                      Liễu đến bên tủ áo lấy đưa cho người thanh niên:
                      - Xong rồi đây, anh mặc thử đi!
                      Người thanh niên cười cười:
                      - Thôi khỏi, nhìn sơ cũng biết đẹp rồi! Chị cho tôi gởi tiền công.
                      Liễu kéo ghế mời khách:
                      - Dạ, anh chịu khó ngồi nán lại một chút chờ chị Hằng về, em chỉ là học trò nên...
                      Liễu ngắc ngứ không nói hết câu. Người thanh niên phì cười:
                      - Chị sợ giao áo “lộn tiệm” chứ gì? Thôi được rồi, tôi cũng đang rỗi ngồi chờ một chút không sao.
                      Liễu len lén nhìn người thanh niên. Anh ta có dáng người cao ráo, nước da ngăm đen chắc khỏe, đặc biệt là chiếc miệng cười rất có duyên. Từ con người anh toát ra một vẻ gì đó rất dễ gần gũi, rất phóng khoáng.
                      Chợt bắt gặp ánh nhìn của người thanh niên, Liễu vội vàng cụp mắt xuống, mân mê chiếc áo mới may tay tháo từng sợi chỉ lược.
                      - Chị học may lâu chưa?
                      - Dạ, mới hơn ba tháng.
                      - Nhà chị chắc ở gần đây?
                      - Dạ không, nhà em ở tuốt bên kia sông.
                      Người thanh niên gật gù rồi hỏi tiếp:
                      - Chị năm nay bao nhiêu tuổi?
                      - Dạ, em 21.
                      - Ồ, vậy chị nhỏ hơn tôi tới 7 tuổi lận đó!
                      - Thế… anh đừng gọi em bằng chị nữa... Già chết!
                      - Vậy… gọi bằng tên nhé! Tôi tên Trọng, còn chị… à mà không, còn… “ ấy” tên gì?
                      Liễu ấp úng:
                      - Em… Em tên Liễu.
                      Trọng cười:
                      - Người với tên quả giống nhau. Liễu cũng gầy và mỏng manh như… lá liễu vậy đó!
                      Liễu thẹn đỏ mặt, vờ chăm chú vào công việc.
                      Chị Hằng về, nhìn thấy Trọng liền đon đả:
                      - Chào cậu Trọng, cậu tới lấy áo à?
                      -Dạ , nhưng cô Liễu đây không dám giao hàng , bảo ngồi chờ chị về để xác minh “ người thật việc thật” đây .
                      Cả hai cùng cười. Chị Hằng hỏi:
                      - Bao giờ ghe cậu mới đi?
                      - Dạ, chiềy nay! Em lên hàng xong hết rồi, nhưng còn chờ trời mát một tí. Thiệt, rong ruổi hoài ngán hết sức, chị ơi!
                      - Vậy thì kiếm cô vợ rồi lên bờ làm ăn!
                      Trọng liếc nhanh về phía Liễu:
                      - Em kiếm hoài mà không cô nào chịu ưng mới khổ! Chị coi ai làm mai cho em một đám đi, em tạ lễ chị nguyên một con heo.
                      Chị Hằng nháy mắt, cười:
                      - Chị có mấy cô học trò, vừa hiền lành, vừa đảm đang lại xinh ra phết. Em chấm cô nào chị gả liền cô ấy cho.
                      Trọng giả bộ thở dài:
                      - Chỉ sợ mấy cô chê em dân sông nước quê mùa xấu xí thôi chị ơi!
                      - Ôi, ham chi thứ “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” cho khổ thân, người biết lo làm ăn như em không tốt hơn sao! Phải vậy không, Liễu?
                      Liễu mắc cở cúi gằm mặt xuống, hai má đỏ ran.
                      Trọng đùa thêm mấy câu nữa rồi đứng lên:
                      - Thôi, em về, sắp tới giờ lui ghe rồi!
                      Quay sang Liễu, anh chào:
                      - Tôi về nghen  Liễu.
                      Liễu lí nhí trả lời trong miệng.
                      Tiễn trọng ra ngõ, chị Hằng quay vào chọc Liễu:
                      - Chết rồi nghe, hai anh chị ở nhà tâm tình rỉ rả, chưa cần tui giới thiệu đã biết nhau rồi!
                      - Chị… kỳ cục quá!
                      Liễu giảy nảy. Chị Hằng nghiêm túc:
                      - Sao, thấy được không để chị làm mai cho. Cậu này con nhà đàng hoàng, học hết lớp 12 mới ở nhà đi buôn. Mới đầu chỉ buôn bán nhỏ thôi, nhưng giờ vốn liếng hàng mấy chục triệu. Còn trẻ vậy mà biết làm ăn lắm em à, ai làm vợ cậu ta là phước ba đời đó.
                      Chị Hằng giới thiệu luôn một tràng. Liễu nguây nguẩy không thèm nghe, nhưng tận trong sâu thẳm lòng cô dường như có thêm một làn gió mới...
                      * *
                      *
                      - Chị Liễu ơi, có khách!
                      Tiếng thằng Sang gọi lanh lảnh. Liễu ngạc nhiên, khách nào tới tìm mình vậy kìa? Thỉnh thoảng có mấy đứa bạn gái tới chơi thì thằng Sang đều báo đích danh từng người chứ không gọi là “khách” như hôm nay.
                      Liễu từ phòng riêng bước ra và khựng lại khi bắt gặp nụ cười của Trọng.
                      - Dạ… chào anh Trọng!
                      Liễu ấp úng. Trọng tự nhiên bước vào nhà, vui vẻ nói:
                      - Chắc Liễu ngạc nhiên lắm phải không? Tôi tới tiệm may nghe chị Hằng nói Liễu bệnh nghỉ học hai hôm nay, nên tôi đến thăm. Giờ , Liễu đã đỡ chưa vậy?
                      - Dạ, làm phiền anh Trọng quá, em chỉ cảm sơ sài thôi, không có gì đáng lo đâu. Mời anh Trọng ngồi ghế.
                      Trọng ngồi xuống, đưa mắt lướt qua căn nhà. Những cây cột gỗ mun to đùng, cùng với dáng dấp cổ xưa của các vật dụng xung quanh như cái tủ thờ chạm xà cừ, bộ trường kỷ với những nét khắc độc đáo… nói lên sự giàu có, sang cả một thời của gia đình này.
                      Nhìn Liễu, anh bỗng cảm thấy tội nghiệp cho cô. Sự suy sụp của gia đình Liễu dân ở đây ai cũng biết.
                      Là con gái đang tuổi ăn diện mà Liễu chỉ có vài ba bộ áo quần thay đổi, nên trong cô cũng có nhiều mặc cảm.
                      Từ ngày quen Liễu, Trọng thường ghé qua tiệm may sau mỗi chuyến ghe về, mua tặng Liễu nhiều món quà xinh xắn. Chị Hằng ra sức vun vào, Trọng cũng có cảm tình đặc biệt với Liễu, nhưng quan hệ của hai người vẫn chưa vượt quá ranh giới bạn bè.
                      - Anh Trọng về khi nào vậy? Liễu hỏi.
                      - Tôi về hồi đêm, nhưng trời mưa quá, mãi đến trưa mới cất hàng lên hết. Vừa xong việc là tôi đến thăm Liễu đây. À, Bác đi đâu vắng vậy Liễu?
                      - Mẹ em với hai cậu đi ăn giỗ ở xóm trên.
                      Liễu rót nước mời Trọng. Anh nhìn Liễu chăm chú và bất ngờ nắm nhẹ tay cô:
                      - Liễu xanh xao lắm đó!
                      Liễu mắc cở rút vội tay về. Trọng đặt túi quà to lên bàn:
                      - Anh có chút quà để Liễu bồi dưỡng, mong Liễu nhận cho anh vui.
                      Mặt Liễu nóng ran khi nghe Trọng dùng tiếng “anh” ngọt ngào, thân mật thay cho tiếng “tôi” xa lạ thường ngày. Cô không biết làm cách nào để từ chối, nhưng thật lòng cô cũng không muốn chối từ.
                      Liễu lí nhí:
                      - Em cảm ơn anh Trọng.
                      Sự thẹn thùng càng làm tăng thêm vẻ đẹp nhu mì của Liễu. Gương mặt xanh xao trở nên đỏ hồng, đôi mắt dẫu cố ghìm vẫn ánh lên những tia ngời sáng.
                      Một lần nữa Trọng nắm lấy tay Liễu, cô để yên tay mình trong tay anh lâu hơn một chút mới từ từ chuồi ra. Liễu thấy lòng rung động trước ánh mắt, nụ cười và cử chỉ thân mật của Trọng.
                      - Liễu biết không, từ ngày quen biết Liễu, anh cảm thấy những chuyến đi của mình sao dài quá. Vừa tới nơi là anh vội vã cất hàng rồi xuống hàng để được mau chóng trở về. Có những đêm bềnh bồng trên sông nước, anh thấy nhớ Liễu da diết, thầm hứa với mình rằng lần này về sẽ thổ lộ hết lòng mình với Liễu, nhưng rồi… không lần nào anh dám nói.
                      Liễu vân vê tà áo không dám ngẩng lên. Trọng tiếp tục:
                      - Lúc nãy khi bước vô tiệm may không nhìn thấy Liễu rồi nghe tin Liễu bệnh, anh mới biết tình cảm của anh dành cho Liễu là không gì sánh nỗi. Anh quyết định đánh bạo tìm đến đây, nói hết với Liễu.
                      Giọng Liễu run run:
                      - Anh Trọng đừng nói giỡn như vậy, tội nghiệp Liễu.
                      Trọng nắm chặt hai tay cô:
                      - Là anh nói thật lòng mình. Anh thương Liễu từ lâu rồi chẳng lẽ Liễu không nhận ra sao?
                      Thấy Liễu vẫn ngồi im, Trọng nói tiếp:
                      - Ba má anh năm lần bảy lượt hối thúc anh cưới vợ, mà anh thì cứ hẹn lần hẹn lựa. Nếu Liễu không chê anh, anh sẽ về nói ba má sang đây ngỏ lời với gia đình Liễu.
                      Trọng nhìn Liễu chờ đợi.
                      - Em… em…
                      Liễu ngắc ngứ, cô không biết nói sao. Lâu nay cô vẫn thường nghĩ về Trọng, cô cũng cảm thấy nhơ nhớ mỗi khi Trọng đi lâu về, nhưng đó có phải là tình yêu chưa thì Liễu không biết. Giờ đây Trọng lại đề cập tới chuyện hôn nhân, Liễu thật sự bối rối.
                      Liễu đã từng mơ ước lấy được một người chồng hết dạ yêu thương mình, cùng với mình sinh con đẻ cái. Trọng là mẫu người lý tưởng, là nỗi khát khao của rất nhiều cô gái. Nhưng bất ngờ bảo cô quyết định thì cô lại hoảng hốt.
                      Liễu chưa biết phải trả lời sao với Trọng thì thằng Sang chạy ào từ ngoài vào thở hổn hển:
                      - Chị Liễu ơi, chị thấy anh Mạnh đâu không? Ở ngoài kia có con rắn lớn lắm, kêu anh Mạnh bắt về nấu cháo…
                      Liễu rầy em:
                      - Có gì từ từ nói, cứ ào ào làm chị hết cả hồn vía! Anh Mạnh ra vườn rồi, đừng đi tìm nữa.
                      Thằng bé tiu nghỉu tới góc nhà ngồi chơi với mấy chú chó con, làm câu chuyện tình cảm của hai người lớn phải tạm hoãn.
                      Trọng ngồi chơi một lát rồi đứng lên:
                      - Thôi anh về, còn chuyện đó Liễu suy nghĩ trả lời anh sớm, nghen!
                      Liễu “dạ” khẽ rồi tiễn Trọng ra cửa. Vừa lúc đó Mạnh về tới. Trọng và Mạnh gật đầu chào nhau.
                      Liễu giới thiệu:
                      - Đây là anh Trọng bạn em, còn đây là anh Mạnh, con cậu Hai.
                      Trọng lịch sự đưa tay ra, Mạnh vui vẻ bắt tay Trọng. Cả hai nói mấy câu xã giao rồi Trọng cáo từ ra về.
                      Mạnh ngó Liễu, cười:
                      - Con nhỏ này coi vậy mà ghê quá ta! Bắt cóc đâu được anh chàng đẹp trai hết biết!
                      Liễu mắc cở, ngúng nguẩy:
                      - Anh Mạnh nói chuyện kỳ cục quá, tụi em chỉ là bạn bình thường thôi mà!
                      - Ánh mắt nó nhìn mày không bình thường chút xíu nào hết. Điệu này tao phải tính với cô út lo nuôi gấp heo gà là vừa!
                      - Ôi, cái anh này!
                      Liễu đấm thùm thụp vào lưng Mạnh. Mạnh cười vang:
                      - Ui, ui… mạnh dữ ta! Vậy mà mới hồi sáng kêu bệnh hoạn không ngồi dậy nổi, giờ đánh tui đau quá trời, đúng là sức mạnh tình yêu có khác!
                      Liễu dậm chân:
                      - Không thèm nói với anh Mạnh nữa!
                      Rồi cô chạy vụt vào nhà.
                      Lâu lắm rồi hai anh em mới đùa giỡn với nhau. Từ ngày Nam và Quốc gặp chuyện không may, những người sống trong ngôi nhà này trở nên trầm lặng hẳn đi, đến cả thằng Sang cũng ít nói cười hơn trước.
                      Vợ chồng ông Thịnh thì khỏi nói, người nào cũng già đi rất nhanh.
                      Mái tóc trên đầu ông Thịnh đã bạc trắng, lưng ông còng hơn. Ông không còn quan tâm đến công việc làm ăn hay vườn tược, mà chỉ thích ngồi uống rượu.
                      Sau đám tang Quốc, bà Nghiêm nằm hơn một tháng trời mới ngồi dậy nổi. Bà lờ đờ như người không hồn vía, lâu lâu lại tới bên bàn thờ ôm hai bức ảnh của Nam và Quốc mà khóc than, kể lể.
                      Trong ngôi nhà cổ kính  thâm u, cuộc sống cứ từng ngày diễn ra một cách nặng nề, lặng lẽ.
                      Ông Thịnh đi đám giỗ về ngà ngà say, thấy Mạnh đang săm soi mấy cây con vừa mới chiết. Ông xua tay:
                      - Dẹp! Dẹp cha nó mấy thứ đó đi! Không có trồng trọt gì nữa hết! Lát nữa tao đi kêu bán hết đất đai, nhà cửa, bán hết không chừa thứ gì…
                      - Chú ba say quá rồi, vô nhà nghỉ đi! Mạnh nhỏ nhẹ.
                      - Hừ, tao mà say… đời tao sai nhiều rồi, hại hai đứa con tao chết cũng một tay tao… Phải chi hồi đó bán hết chia cho chúng nó muốn đi đâu thì đi… Tao muốn giữ lại của cải ông bà, ông bà lại ghét bỏ tao, hại con tao chết trẻ…
                      Ông khóc hu hu. Mạnh khó chịu nhưng anh cố dằn lại, bỏ ra sau nhà mặc ông Thịnh một mình lải nhải.
                      Đêm.
                      - Liễu ơi, có ăn khoai nướng không?
                      Mạnh rủ rê.
                      Liễu đang giở gói quà Trọng tặng lúc trưa ra xem lại, cô đặt mấy hộp sữa, bánh trái lên bàn, tay ôm một con búp bê thật lớn. Cô vuốt ve mái tóc vàng hoe, xoăn tít thả lọn hai bên vai của búp bê mà thấy lòng rộn rã.
                      Thưở nhỏ, cô không thiếu những món đồ chơi sang trọng thế này, nhưng đã từ lâu cô không còn được sống những ngày như vậy.
                      Ôm món quà trong tay, Liễu như thấy tuổi thơ ùa về, thấy mình như bé lại. Cô thèm được ngã vào lòng ai đó để dỗi hờn, nũng nịu…
                      Nghe tiếng Mạnh, cô lật đật giấu con búp bê xuống mền rồi chạy ra ngoài.
                      Thằng Sang vắng nhà, nó một mình đi cắm câu. Bây giờ nó đã rành rẽ mọi công việc và là tay sát cá có tiếng. Nó lười trồng trọt nhưng lại mê bắt tôm bắt cá, không những nhà khỏi tốn tiền chợ mà nhiều hôm bà câm còn đem bán lấy tiền mua thêm gạo, tương, mắm, muối.
                      Mạnh gom một mớ cành khô rồi bật quẹt nhóm lửa. Tiếng nổ lép bép nghe thật vui tai. Liễu vùi mấy củ khoai vào đống lửa, cuối xuống thổi phù phù, lửa bùng lên soi rõ gương mặt rạng ngời của Liễu.
                      Mạnh chợt hỏi:
                      - Em với Trọng tính bao giờ mới cưới?
                      Liễu định chối, nhưng nghĩ lại từ nhỏ đến lớn mỗi khi có chuyện buồn vui gì cô cũng kể hết với Mạnh, và bao giờ Mạnh cũng là người che chở, chỉ dạy cô những điều tốt đẹp nhất. Vì vậy Liễu mạnh dạn:
                      - Anh Trọng mới đề cập tới chuyện đó, nhưng em còn chưa biết trả lời sao.
                      - Căn bản là em có tình cảm với anh ta không? Mạnh hỏi
                      - Tình cảm thì… cũng có, nhưng có lẽ chưa phải là tình yêu. Em muốn kéo dài thêm một thời gian nữa để xác định rõ lòng mình, nhưng mặt khác em lại muốn nhận lời ngay để thoát khỏi gia đình này.
                      Liễu tư lự một lát rồi nói thêm:
                      - Từ ngày anh Nam, anh Quốc chết đi, không khí trong nhà ngột ngạt quá, u buồn quá. Em luôn bị ám ảnh bởi những điều rùng rợn đó. Em nói thật, nếu lấy chồng, làm ăn được em cũng sẽ lôi kéo mẹ em với thằng Sang đi theo. Ở nhà này hình như có tà ma, ám khí gì đó…
                      - Anh không muốn tin, nhưng cũng thấy nhà mình có cái gì kỳ lạ lắm! Nhưng dù sao anh cũng không thể rời bỏ nơi này. Anh là con trưởng, là cháu đích tôn, nhiệm vụ của anh rất lớn!
                      Nói xong Mạnh ngồi trầm ngâm, lát sau khều mấy củ khoai lang trở qua trở lại. Mùi khoai nướng thơm lừng.
                      Anh bóc vỏ khoai, xuýt xoa vì nóng, đưa cho Liễu:
                      - Em ăn đi!
                      - Anh cũng ăn đi!
                      Hai anh em cùng ăn nhỏ nhẻ. Lát sau Mạnh nói:
                      - Em nghĩ vậy cũng phải. Nhưng theo anh thì em không cần phải xác định tình yêu với không phải tình yêu làm gì. Nếu xét thấy Trọng là người tốt, thương em thiệt tình và có khả năng lo cho cuộc sống của em thì em  nên nhận lời. Con gái có thì, bỏ qua cơ hội có khi suốt đời không tìm lại được. Đối với phụ nữ, tình yêu đến sau hôn nhân thường bền vững hơn. Bởi vì khi em yêu người nào đó, em chỉ thấy toàn những điều tốt đẹp của họ, em xem họ là thần tượng nên khi cưới nhau về, chung sống một thời gian em sẽ phát hiện ra họ cũng có những tính xấu, những điều không phù hợp với em, như thế đâm ra thất vọng, dễ chán nản. Thế nên những cặp vợ chồng lấy nhau do tình yêu mỗi khi cãi cọ thường có câu: “Phải tôi biết anh thế này thì đời nào tôi ưng”. Chi bằng chỉ cần mới có cảm tình như em và Trọng hiện nay, em ưng lấy Trọng là em đã xác định lấy cả những điều tốt lẫn điều không tốt ở anh ta, sau này có chuyện gì em cũng không ân hận.
                      Liễu nhìn Mạnh thán phục. Anh quả hiểu biết sâu xa, những điều anh phân tích sao mà rành rọt, dễ nghe đến thế. Liễu thầm nghĩ sau này ai được làm vợ Mạnh chắc sẽ hạnh phúc lắm. Chợt Liễu nhớ tới Huệ, cô gái xóm trên có mái tóc dài tha thướt và đôi mắt trong veo như trẻ con, người mà Mạnh vẫn thường nhắc đến trong những lúc chuyện trò.
                      - Anh Mạnh ơi, anh nói chuyện tâm lý nghe hay quá, nhưng sao chuyện anh với chị Huệ không tiến tới mà cứ dùng dằng hoài vậy?
                      Liễu chọc ghẹo. Mạnh thở dài:
                      - Chuyện anh thì lại khác. Anh chưa dám ngỏ lời với cô ấy. Anh là trai, khi cưới vợ phải lo cho người ta đầy đủ, nhưng hiện tại anh còn nhiều việc phải lo, cưới cô ấy về mà để cổ khổ sở anh không cam tâm.
                      Liễu thấy thương Mạnh quá. Anh nặng gánh gia đình, một mình lo cho cả đại gia đình, không có anh chẳng biết mọi người sẽ ra sao nữa.
                      Bỗng Liễu nhìn thấy đôi mắt Mạnh sáng rực lên, anh hơi nhếch mép cười. Trông anh thật khác lạ.
                      - Em yên tâm đi, không còn lâu đâu, một ngày gần đây anh sẽ đón Huệ về nhà một cách linh đình, rạng rỡ. Mọi việc anh đã tính toán hết rồi!
                      Liễu có cảm giác Mạnh không như bình thường, ở nơi anh có một vẻ gì đó cô không phân tích được nhưng lại làm cho cô thấy sờ sợ.
                      - Anh nói gì, em không hiểu?
                      Liễu hỏi . Mạnh thoáng giật mình, anh vỗ vai Liễu:
                      - Đấy là anh nói chuyện tương lai ấy mà! Anh tính rồi, nếu chịu khó làm ăn mình cũng có thể khấm khá lên được đó! Chừng đó lo gì không cưới được vợ, phải không? 
                      Hai anh em đang ngồi nói chuyện thì trong nhà vẳng ra tiếng cãi cọ, tiếng chén bát vỡ loảng xoảng. Mạnh, Liễu hấp tấp chạy vào.
                      Ông Thịnh gục mặt trên bàn, cơm nước đổ tung tóe. Ông Thúc đứng cạnh bên hầm hầm:
                      - Chú lớn rồi, ăn nói phải cẩn thận, đâu phải đứa con nít lên ba mà nói không suy nghĩ. Ông bà làm gì chú mà chú mắng chửi?
                      Ông Thịnh khóc rung hai bờ vai. Ông ngước lên, vẻ mặt ai oán:
                      - Anh nói ông bà không làm gì tui à? Vậy hai đứa con tui vì đâu mà chết? Nếu thằng Nam nó có muốn đào mồ đào mả là cũng vì nó quá khổ, muốn xin của ông bà chút ít, có quở phạt gì thì cũng nhẹ tay, có đâu khiến nó nên nông nổi. Còn thằng Quốc, nó nhút nhát vậy mà ông bà cũng không tha. Giờ đối với tui không còn ông bà tổ tông gì hết, ngày mai tui đi kêu bán đất bán nhà, ai ngăn cản thì trị giá thành tiền chia cho tui đi. Tui dắt vợ tui, dẫn theo vong hồn hai đứa con tui đi khỏi xứ này ngay lập tức.
                      Ông Thịnh nói xong ôm mặt khóc hu hu. Bà Nghiêm ở gian bên nghe chồng khơi lại nỗi đau cũng không dằn được, khóc nức nở.
                      Bà Lan lặng lẽ lau nước mắt. Bà không ngờ gia đình mình lại có cảnh xào xáo như hôm nay. Mấy mươi năm anh em hòa thuận, trên nói dưới nghe bỗng chốc trở thành hỗn độn.
                      Ba mẹ bà dưới suối vàng thấy cảnh này chắc cũng đau lòng lắm.
                      Bà là phận gái, khi nghe ông Thịnh đòi bán gia tài, dù rất đau lòng nhưng bà không dám có ý kiến. Ông Thúc kiên quyết không đồng ý, hai người đâm ra cãi cọ.
                      Ông Thúc dù rất tức giận khi nghe em xúc phạm ông bà, cha mẹ, nhưng nghĩ lại em ông  đã mất mát quá nhiều nên ông dịu lại:
                      - Thôi, mọi việc để từ từ tính lại. Khi nào chú thật bình tĩnh chúng ta sẽ cùng bàn bạc với nhau.
                      Nhìn thấy Mạnh, ông gọi:
                      - Mạnh, vô dìu chú ba mày về bển!
                      Mạnh lẳng lặng đến bên xốc ông Thịnh đứng lên, kè đi.
                       Ông Thịnh vẫn vừa đi vừa chửi, chửi ông bà, cha mẹ, chửi luôn cả ông trời.
                      Rồi bất chợt ông vùng khỏi tay Mạnh, chạy ra cửa. Vừa chạy vừa rên rỉ:
                      - Tao chán ghét cái nhà này, để tao đi, tao đi uống rượu tới sáng… uống cho quên trời quên đất…
                      Liễu thấy ngán ngẫm quá. Cô biết ngày mai mình sẽ nói gì với Trọng.
                      Đã hơn bốn giờ sáng bà Nghiêm vẫn còn thức đợi chồng. Từ sau đêm cãi cọ với ông Thúc, ông Thịnh thường đi nhậu qua đêm, về tới nhà không còn chút sức lực nào.
                      Bà Nghiêm định chờ khi nào ông tỉnh hẳn sẽ bàn với ông thôi không cần của cải gì nữa, vợ chồng về quê bà sinh sống. Ở đó, bà còn nửa công đất cha mẹ chia cho, mấy năm nay để cho thằng cháu canh tác, giờ về lấy lại hai ông bà sống hui húc qua ngày.
                      Nhưng suốt mấy hôm liền, cứ nhậu về là ông lăn ra ngủ như chết, thức dậy lại đi tiếp, bà không sao nói được.
                      Nghe tiếng gà cục tát trong chuồng, bà Nghiêm lồm cồm dậy ra lấy trứng. Con gà gì ngu ngốc, cứ đẻ trứng ra là mổ, nên hễ nghe nó cục ta cục tát là phải canh chừng để lấy.
                      Suốt đêm không ngủ bà thấy đầu choáng váng. Nhặt quả trứng gà bà lại nhớ thằng Nam, hồi còn sống nó thích húp trứng gà mới đẻ thế này lắm.
                       Gia tài bà có hai thằng con trai, vậy mà chúng đành lòng bỏ bà đi hết. Còn lại hai vợ chồng già trơ trọi, mấy lúc gần đây ông Thịnh cứ bỏ nhà đi suốt, bà thật đau lòng.
                      Trời đã sáng mà ông Thịnh vẫn chưa về. Lòng bà Nghiêm nóng như lửa đốt. Mấy đêm trước ông cũng đi nhưng sao bà không thấy cồn cào đến vậy. Hay có chuyện gì xảy ra với ông rồi? Lần thằng Quốc đi không về bà cũng có cảm giác giống y như thế.
                      Bà Nghiêm hoảng hốt gọi:
                      - Sang ơi, Mạnh ơi! Hai đứa đi tìm ông ba giùm thiếm đi, hổng biết ổng làm gì mà tới giờ không thấy về!
                      Thằng Sang ngồi dậy ngáp dài. Hồi đêm nó đi coi chiếu bóng về khuya, ngủ chưa đã giấc. Mạnh vừa súc miệng vừa nói lúng búng:
                      - Ổng đi hoài, hơi đâu thiếm lo!
                      Nói vậy nhưng Mạnh cũng quay vào gọi Sang:
                      - Dậy mày, tao với mày đi kiếm ổng. Già rồi bày đặt sanh tật, thiệt khổ hết sức!
                      Hai người chưa kịp đi thì bà câm hơ hãi chạy ào vào nhà. Bà ú ớ, tay chân quơ loạn xạ, mọi người chưa ai hiểu bà định nói gì  bà đã nắm tay bà Nghiêm lôi tuột về phía nhà mồ.
                      Mọi người trong nhà đổ dồn ra chạy theo.
                      Luồn dưới mấy vườn nhãn, chạy gần đến nhà mồ, cạnh chỗ Quốc nằm lúc trước,  bà câm chỉ tay xuống mương, ai nấy đều khựng lại chỉ có bà Nghiêm là nhào xuống.
                      Ông Thịnh nằm úp mặt xuống mương, nửa người trên cạn, nửa người dưới nước, quanh đó đám rau muống nát nhừ, hình như trước khi chết ông giãy giụa ghê lắm.
                      Người ông đã cứng ngắc từ lâu.
                      Bà Nghiêm chết đi sống lại, không còn nước mắt để khóc chồng. Bà cứ ngồi trơ trơ trước quan tài, không nói một lời, bà Lan dỗ cách nào bà cũng không ăn không uống.
                      Liễu thật sự kinh hoàng khi tai biến dồn dập đổ xuống nhà ông Thịnh. Cô tin chắc ông Thịnh chết là do đã xúc phạm đến tổ tiên.
                      Cô không dám ở một mình trong phòng, tối nào cũng chạy sang ngủ với mẹ.
                      Trọng đến dự tang lễ , anh khẽ an ủi Liễu:
                      - Em đừng buồn, con người ai cũng có số cả.
                      Liễu khóc nất lên, ôm chầm lấy Trọng không kể gì đến mọi người xung quanh:
                      - Anh Trọng ơi, anh mau mau đem em ra khỏi nhà này đi, em sợ lắm… Em sợ lắm anh Trọng ơi!
                      Thân hình cô run lên cầm cập trong vòng tay Trọng.
                      Trọng đã nghe nhiều người kể chuyện gia đình Liễu, anh không tin ma quái mà cho rằng đó chỉ là sự rủi ro trùng hợp. Anh vỗ về:
                      - Em đừng sợ, có anh với anh Mạnh bên cạnh, không ai làm gì hại em được đâu.
                      Liễu vẫn níu chặt tay Trọng, trông cô thật tội nghiệp. Trọng nói khẽ vào tai Liễu:
                      - Em yên tâm đi, anh nhất định đưa em đi một ngày gần nhất. Anh đã thưa chuyện với ba má rồi.
                      Suốt những ngày lễ tang ông Thịnh, bà Nghiêm cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, không ra buồn cũng chẳng ra vui. Ai hỏi tới bà cũng chỉ ậm ờ…
                      Lộc - cháu bà Nghiêm từ Vĩnh Long lên dự đám tang, thấy tình cảnh bà bi thương quá, sau khi ang táng ông Thịnh, anh thưa chuyện cùng ông Thúc và bà Lan:
                      - Thưa Bác Hai, thưa cô Út, hiện giờ tinh thần dì con suy sụp quá, con xin phép được đưa dì con về Vĩnh Long một thời gian, khi nào dì khỏe con sẽ đưa dì trở lại đây.
                      Ông Thúc thở dài thườn thượt:
                      - Tùy ý thiếm với cháu thôi, nơi này có quá nhiều điều đau thương xảy ra cho gia đình thiếm ấy, tôi đâu dám níu kéo.
                      Khi bà Nghiêm được mọi người cho biết Lộc sẽ đưa bà về Vĩnh Long, bà mừng quýnh, nhưng khi ngó lại bàn thờ chồng con bà lại ôm mặt khóc.
                      - Chị về dưới đó chơi cho khuây khỏa, khi nào nhớ nhà thì lại trở về đây, chị nhé! Ở đây mọi người đều mong chị đó!
                      Bà Lan vừa soạn giúp áo quần cho bà Nghiêm vừa nói.
                       Bà Nghiêm nhìn bà Lan bằng ánh mắt đờ đẫn, nơi khóe mắt hai giọt lệ vỡ ra. Bà thì thầm:
                      - Cô Út ở nhà nhớ thắp nhang cho chồng con tui với, đừng để họ lạnh lẽo. Lần này tui đi chắc không có ngày về, tui sợ nơi này quá cô út ơi!
                      Bà ghé sát vào tai bà Lan nói:
                      - Mẹ con cô cũng mau mau tìm đường dọn đi đi, ở đây không được đâu. Ma quỷ lởn vởn quanh nhà, cuộc sống không yên được. Phải chi lúc trước tui cho anh em thằng Nam, thằng Quốc trở về Sài Gòn thì nó đâu có chết…
                      Bà Nghiêm lại khóc nghẹn ngào.
                      Bà Lan cũng sụt sịt khóc theo:
                      - Chị yên tâm an dưỡng, dầu gì đó cũng là anh ruột, cháu ruột của em, em không để nhang tàn khói lạnh đâu. Chị về đó ít lâu em sẽ sai con Liễu hoặc thằng Mạnh đi đón chị mà, đây là nhà của chúng ta, chị phải về đây sống chứ!
                      - Không, tui không về… tui sẽ không về đâu mà…
                      Bà Nghiêm nức nở. Bà run rẩy đến bên bàn thờ thắp nhang cho chồng con, tiếng khấn khứa lẫn trong tiếng khóc:
                      - Ông với hai đứa con có linh thiêng thì cùng về quê tui, mỗi ngày tui ăn thứ gì sẽ cúng cho ông và hai con thứ ấy! Tui không quên các người, tui không bỏ các người nhưng tui không thể sống ở đây…
                      Hôm sau, Lộc dẫn bà Nghiêm đi, những người còn lại trong nhà nhìn theo ứa nước mắt.
                      Ngày bà Nghiêm về làm dâu nhà này, đám rước dâu tưng bừng rộn rã, bà áo quần lộng lẫy đi trong tiếng pháo rền vang. Ấy thế mà sau mấy mươi năm, bà lại ra đi trong nước mắt, trong lặng lẽ, đau buồn.
                      Cả gia đình ông Thịnh giờ không còn ai ở lại nhà này, gian nhà rộng hẳn ra, suốt ngày phảng phất mùi nhang khói.
                      (Còn tiếp)
                      Nguyễn Thị Mộng Thu
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:55:27 bởi nguyenthu >
                      #86
                        nguyenthu 10.08.2009 22:38:18 (permalink)
                        NHÀ MỒ OAN KHỐC
                        (Tiếp theo)


                        Chương 3
                         
                        Suốt gần hai tuần Liễu nghỉ may ở nhà phụ lo việc tang ma cho ông Thịnh, Trọng cũng bỏ bớt mấy chuyến hàng tới an ủi, động viên cô, giúp Mạnh rất nhiều việc từ lúc còn tang lễ đến lúc làm mộ, cúng kiếng.
                         Bà Lan biết Trọng đang theo đuổi con gái mình, bà có ý mừng. Trọng tháo vát, sau này Liễu sẽ đỡ tấm thân. Bà cầu mong con gái không bao giờ phải gặp cảnh như bà năm xưa.
                        Năm xưa, cha Liễu là một chàng thanh niên trí thức, phong độ hào hoa, rất được các cô gái ưa chuộng, trong đó có bà Lan.
                        Bà say ông như điếu đổ, mặc dù biết ông tính tình trăng gió. Mẹ bà can ngăn cách nào cũng không lay chuyển được bà.
                        Ông cưới bà không phải vì yêu mà là vì món tiền kếch sù bà thừa hưởng được của gia đình.
                        Sống với nhau gần chục năm, bà mấy phen ghen tương tưởng chết. Đến khi bà mang thai thằng Sang, ông ngang nhiên dẫn bồ bịch về nhà, cấm bà không được có phản ứng.
                        Ông giở thói vũ phu, đánh đập bà không thương tiếc. Quá ê chề, chán nản bà quyết định ly hôn.
                        - Cảm ơn bà đã giải thoát cho tôi.
                        Ông ấy nói thế khi ký vào đơn ly dị.
                        Từ ngày thằng Sang chào đời đến nay đã hơn 10 tuổi, nó chưa một lần biết mặt cha, dẫu cha nó còn sống sờ sờ trên dương thế.
                        Có một lần bà Lan tình cờ gặp lại ông, những tưởng ít ra ông cũng có vài lời thăm hỏi hai đứa con, nhưng thật đau lòng, ông xem bà như người xa lạ, chưa từng quen biết trong đời.
                        Buồn cho nhân tình thế thái, bà Lan từ đó khép kín cửa lòng, không còn tưởng nhớ đến ông, cũng không đoái hoài gì tới những lời gió trăng tán tỉnh của mấy lão trung niên góa vợ.
                        Bà dồn hết tình thương cho hai đứa con, chăm chút chúng từng li từng tí.
                        Gia đình dọn về quê sinh sống, điều lo lắng nhất của bà là sợ Liễu phải vất vả. Nhưng bây giờ Liễu đã có nghề may, cái nghề tương đối nhẹ nhàng, sạch sẽ. Liễu lại được một thanh niên như Trọng để ý tới, nếu hai đứa thành vợ thành chồng chắc cuộc sống của con gái bà không đến nỗi cơ cực.
                        Trọng cũng khá đẹp trai, nhưng trông anh ta hiền lành, chân thật hơn nhiều. Nhất là ánh mắt anh ta nhìn Liễu khiến bà Lan vững dạ. Cha Liễu chưa một lần dành cho bà ánh mắt thiết tha , trìu mến như vậy.
                        Mấy đời dòng họ nhà bà làm ăn ngay thẳng, của cải tạo ra từ mồ hôi nước mắt, tuy giàu có nhưng họ cũng phải làm việc không ngừng nghỉ, chưa từng chèn ép ai bao giờ. Vậy mà không hiểu sao đến đời anh em bà lại vướng phải toàn những chuyện không may.
                        Từ sau cái chết của ông Thịnh, bà luôn sống trong nỗi phập phồng lo sợ. Không biết phần mộ của mẹ bà có phạm vào điều khắc kỵ nào không, sao từ khi mẹ bà qua đời gia đình lại xảy ra nhiều tai biến lớn lao đến vậy.
                        Thoạt tiên là ba gia đình vượt biên không thành, quay về với hai bàn tay trắng, rồi đến việc cha con ông Thịnh nối tiếp nhau qua đời, mà toàn những cái chết bất ngờ, kỳ bí.
                        Dạo này bà Lan thường hay đi chùa. Chùa ở xa, phải qua sông mới tới nhưng ngày rằm, ba mươi nào bà cũng đi.
                        Tối tối bà thường ngồi tụng kinh. Có đêm bà ngồi lặng lẽ một mình trước bàn thờ phật đến khuya lơ khuya lắc mới chịu vào phòng.
                        Bà cầu trời khẩn phật cho những người còn lại trong gia đình này được sống bình yên, đừng ai gặp phải rủi ro nào nữa.
                         
                        Trọng giữ đúng lời hứa với Liễu. Sau đám tang ông Thịnh không lâu, Trọng đưa ba má đến nói chuyện cùng gia đình Liễu.
                        Gia đình Trọng trước kia rất nghèo nhưng nhờ cần mẫn làm ăn, lại gặp thời vận nên hiện tại cũng vào hàng khá giả trong vùng.
                        Khi biết người con gái Trọng định cưới làm vợ là Liễu, cháu gái bà Chín Hoa danh tiếng một thời nhưng nay gia đình suy sụp, trong dòng họ có nhiều điều bí ẩn, má Trọng lập tức phản đối:
                        - Bộ hết người để con lựa chọn hay sao mà đâm đầu vô cái nhà ấy?
                        - Má đừng chê người ta nghèo, người ta cũng một thời giàu có, chẳng qua…
                        Trọng bênh vực, nhưng nói chưa hết câu đã bị mẹ cắt ngang:
                        - Má không hề phân biệt hèn sang. Nhà ta trước kia cũng hai bàn tay trắng, giờ tuy có khá hơn nhưng đã giàu có gì đâu. Má sợ là sợ những điều kỳ lạ xảy ra liên tiếp trong nhà ấy.
                        Trọng thở phào nhẹ nhõm:
                        - Trời, có vậy mà má làm con hết hồn! Má ơi, người ta đồn đủ thứ chuyện tầm phào hơi đâu má tin cho mệt.  
                        Ba Trọng nói theo con:
                        - Má mày là vậy, cứ tối ngày nghe ba cái chuyện tào lao, riết rồi giữa ban ngày ban mặt có cho bả vàng bả cũng hổng dám đi con đường ngang qua gò nổi.
                        - Cha con ông không tin thì thôi, sau này có chuyện gì đừng trách tui biết mà không cản. Người ta đồn rùm beng lên rằng dòng họ nhà đó sắp bị tận diệt, rồi sẽ không còn ai sống sót được. Đó, trước mắt là cha con ông Thịnh, có nhà ai liên tiếp xảy ra ba cái chết lạ lùng vậy không chứ? Tránh sao bà Nghiêm không dở điên dở dại.
                        - Cho là má nói đúng đi, nhưng con cưới Liễu về thì Liễu là người của nhà mình rồi. Nữ sanh ngoại tộc mà, má!
                        Hai cha con Trọng liên tiếp tấn công, cuối cùng bà mới đồng ý.
                        Gia đình ông Thúc vừa ăn cơm trưa xong là Trọng đưa ba mẹ tới. Họ cố tình đi giác đó để không phiền người ta lo cơm nước.
                        Ông Thúc , bà Lan vui vẻ mời khách vào nhà. Liễu thẹn thùng đem nước lên châm. Cô cố giữ cho tay mình bớt run, sợ nước sánh ra ngoài.
                        Mẹ Trọng ngắm Liễu thật kỹ, bà thấy cô gái này thật dễ mến, hèn gì thằng con bà không tiếc lời bênh vực.
                        Ba Trọng đi thẳng vào vấn đề:
                        - Thưa anh Hai, thưa chị, chắc anh Hai và chị đây cũng biết hôm nay vợ chồng tôi đến trước là thăm anh, chị, sau nữa là bàn tới chuyện của hai đứa nhỏ. Thằng Trọng nhà chúng tôi thương cháu Liễu, nếu anh Hai và chị đây không chê thì xin cho vợ chồng tôi tính chuyện trăm năm cho hai đứa.
                        Ông Thúc đáp:
                        - Tôi tuy là anh cả, nhưng đây là chuyện quan hệ cả đời của cháu Liễu, con cô Út, tôi không có quyền quyết định. Ý của cô và cháu Liễu ra sao thì trình bày cho anh chị đây rõ.
                        Bà Lan khẽ chớp mắt, bà thấy lòng xúc động:
                        - Dạ, thưa anh chị, tôi đã được nghe nói rằng cháu Trọng và con Liễu nhà tôi có tình cảm với nhau. Đời bây giờ chúng nó ưng đâu thì tôi gả nấy. Nhưng gia cảnh nhà chúng tôi hiện giờ sợ không xứng đáng làm sui gia với anh chị.
                        - Chị đừng lo, nhà tôi cũng có hơn gì đâu, miễn hai đứa nhỏ thương nhau, ăn đời ở kiếp với nhau thì bậc làm cha mẹ như chúng ta thỏa nguyện rồi. Chuyện giàu nghèo có gì đáng bận tâm đâu chị.
                        Mẹ Trọng an ủi. Bà Lan cảm động rơm rớm nước mắt.
                        Dưới bếp, Trọng thì thầm với Liễu:
                        - Hồi nãy, lúc em lên châm nước bộ run lắm hả?
                        - Còn phải hỏi, người ta sợ muốn chết!
                        - Đừng lo, ba má anh hiền lắm. Mà anh bảo đảm, má anh nhìn thấy em là chịu liền!
                        Liễu nguýt Trọng:
                        - Thôi đi, đừng ở đó mà nịnh em, lỡ lát nữa ba má anh không đồng ý chắc em…
                        Liễu bỏ lửng câu nói, Trọng hỏi dồn:
                        - Chắc em làm sao, hả?
                        - Thì em đi tu chứ làm sao nữa! Liễu gắt.
                        Trọng phá lên cười. Liễu vội vàng bịt miệng anh lại, Trọng vẫn không nín được:
                        - Trời ơi, cô vợ tương lai của tôi nghe cải lương riết rồi lậm luôn rồi, tính hát bài “Lan và Điệp” hay sao vậy em?
                        Nói tới đó Trọng ráng nín cười, cất tiếng ca nho nhỏ:
                        - Lan… ý lộn, Liễu ơi xin đừng cắt đứt dây chuông đừng lạnh lùng khép cổng, Trọng tìm tới đây….
                        - Đồ quỷ!
                        Liễu nhéo một cái thật đau vào hông Trọng. Anh xuýt xoa:
                        - Dữ như cọp mà đòi làm ni cô!
                        - Người ta lo muốn thót tim luôn mà anh cứ giỡn hoài!
                        Thấy Liễu có vẻ giận, Trọng trở nên nghiêm túc:
                        - Tại thấy em căng thẳng quá, anh đùa một chút vậy mà! Em yên tâm đi, một khi ba má anh đã đến đây là coi như không phản đối, chỉ sợ mẹ em chê anh, không dám giao cô con gái cưng của mình cho anh thôi.
                        Trong lúc Trọng và Liễu nói chuyện với nhau ở nhà dưới thì ở nhà trên người lớn đã bàn bạc xong.
                        Họ định cuối năm sẽ tổ chức lễ cưới. Từ giờ tới lúc ấy còn bốn tháng nữa, hai gia đình sẽ có nhiều việc để lo toan.
                        Biết gia cảnh bà Lan túng thiếu, ba má Trọng khéo léo mở lời rằng họ sẽ lo toàn bộ chi phí cho đám cưới.
                        Bà Lan mừng cho con gái gặp được gia đình chồng tử tế hiếm có như vậy.
                        Đêm đó bà Lan không ngủ được, bà cứ trăn qua trở lại mà không sao chợp mắt. Già rồi khổ thế đấy, buồn thì không ngủ được mà vui cũng thức trắng đêm.
                        Bà nằm im lắng tai nghe tiếng con thạch sùng tắc lưỡi, tiếng cựa mình của thằng Sang, tiếng thở đều đều của Liễu ở nhà trong.
                        Bà khẽ khàng ngồi dậy lần mò đi vào phòng Liễu. Ánh trăng sáng rỡ ngoài kia xuyên qua khe cửa khiến cho căn phòng của Liễu lờ mờ sáng. Bà Lan đứng im nhìn con gái ngủ, môi nó còn phảng phất nụ cười, chắc hẳn đêm nay con gái bà gặp nhiều mộng đẹp.
                        Chỉ còn vài tháng nữa thôi con gái bà sẽ về làm dâu nhà người ta, rồi bổn phận làm vợ, làm mẹ sẽ trói buột nó đến hết cuộc đời. Nó không còn được ngủ nướng thêm khi trời sáng, cũng không còn nũng nịu với bà được nữa.
                        Nước mắt bà ứa ra. Bà thở dài, làm thân con gái là phải vậy, điều đó vốn là quy luật của tạo hóa.
                        Bất chợt bà nghe văng vẳng tiếng khóc than thê thiết, rồi tiếng kêu rin rít, ghê rợn của bầy dơi. Bà đi lại gần cửa sổ nghe ngóng.
                        Bà Lan tuy lớn tuổi nhưng tai, mắt vẫn còn tinh lắm. Bà thấy rõ ràng ngoài sân nhà bầy dơi đang bay lượn, cạnh đó còn có một bóng người lom khom không biết làm gì.
                        Bà định cất tiếng gọi nhưng sợ làm Liễu giật mình. Liễu rất sợ ma, lúc ông Thịnh mới mất cứ đeo theo ngủ với bà, nửa đêm dậy đi uống nước bà cũng phải đi theo, khó khăn lắm nó mới dám ngủ một mình trở lại.
                         Bà sợ làm Liễu hãi, sau này đi lấy chồng, lỡ đêm nào chồng nó vắng nhà thì tội cho nó lắm.
                        Bà rón rén đi sang gian nhà bên cạnh, định bụng kêu Mạnh ra xem chuyện gì. Mạnh vốn bình tĩnh, gan góc chắc là không sợ.
                        Bà bước tới bộ ván nơi Mạnh ngủ, gọi khẽ:
                        - Mạnh ơi, Mạnh!
                        Không có tiếng trả lời, bà đưa tay vào mùng sờ soạng. Bà Lan quá đỗi ngạc nhiên, giờ này mà thằng Mạnh còn đi đâu, chỗ nằm của nó không có chút hơi ấm nào chứng tỏ nó đã rời giường lâu lắm. Nhưng hồi hôm, khi sang đây đánh gió cho ông Thúc, bà thấy nó chui vô mùng ngủ rồi mà.
                        Bà Lan đi trở về phòng ngủ của Liễu. Liễu nằm nghiêng xoay mặt ra ngoài, ánh trăng soi tỏ gương mặt dịu hiền  của cô. Bà Lan ngắm con, lòng tràn đầy hạnh phúc.
                        Bà lại đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Bóng người vẫn nhô lên hụp xuống giữa bầy dơi, trông giống như những người dạy thú đang huấn luyện mà có lần đi xem xiếc bà nhìn thấy.
                        Ngoài sân trăng rất sáng, nhưng bà không nhìn rõ được mặt người ấy vì nó lẫn với bóng cây, chỉ thấy dáng người to khỏe như Mạnh, như Nam.
                        Bà Lan chợt lạnh người. Có khi nào đó chính là Nam, bầy dơi trước kia hút hết máu Nam, giờ Nam quay về trị tội chúng hay sao? Phải rồi, chắc là vậy rồi, chứ Mạnh thì có điên khùng đâu mà làm chuyện kỳ lạ vậy.
                        Bà vội vã lần tràng hạt ở cổ tay, miệng thầm thì niệm phật. Bà không dám quay về giường mình, sợ bỏ Liễu một mình trong phòng. Bà lần tìm chiếc võng trong góc phòng nhẹ nhàng ngồi xuống canh chừng giấc ngủ cho con gái.
                        Tiếng dơi kêu vẳng đến một hồi rồi từ từ xa dần. Bà Lan không tài nào hiểu nổi vì sao đàn dơi ở tuốt ngoài nhà mồ lại kéo vô đây, có đúng là oan hồn Nam về dẫn dắt? Bà cứ suy nghĩ mãi vẫn không tìm được câu trả lời, đến lúc trời hửng sáng bà mới mệt mỏi thiếp đi.
                        Liễu thức dậy thấy mẹ nằm ngủ trên võng, cô giật mình hỏi:
                        - Ủa, sao mẹ ngủ ở đây?
                        Bà Lan choàng dậy nhìn con cười:
                        - Tại mẹ muốn ngủ gần con mà, không bao lâu nữa là con về nhà người khác rồi, mẹ có muốn ngủ chung cũng không được.
                        Liễu cảm động ôm choàng lấy mẹ, cô dụi đầu vào lòng mẹ nũng nịu:
                        - Thì vài hôm con lại về ngủ với mẹ cho vui!
                        - Thôi đi cô, chứ không phải có chồng rồi thì quên mẹ mất tiêu luôn!
                        Bà Lan mắng yêu con gái. Liễu cười:
                        - Mẹ nói oan cho con, làm sao con quên mẹ được! Mẹ ơi, từ nay mỗi tối mẹ vào đây ngủ với con nhen!
                        Bà Lan mừng thầm. Từ lúc phát hiện thấy bóng người và bầy dơi trong sân nhà, bà luôn lo sợ cho Liễu vì phòng cô sát đó, bà chưa biết viện lý do gì để ở cạnh con mỗi tối thì Liễu đã mở lời. Bà đáp:
                        - Ừ, từ nay mẹ sẽ ngủ chung với con tới chừng nào con về nhà chồng mới thôi!
                        Hai mẹ con nói cười vui vẻ, nhưng khi Liễu đi học may rồi bà trở nên tư lự. Những hình ảnh hồi đêm cứ lởn vởn trong đầu bà. Không kìm được, bà đi tìm Mạnh hỏi:
                        - Lúc nửa đêm cháu có ra ngoài sân không?
                        - Ủa, sao cô út lại hỏi vậy?
                        Mạnh nhìn bà Lan bằng ánh mắt lạ lùng. Bà Lan muốn kể hết với Mạnh những điều kỳ lạ chính mắt bà trông thấy, nhưng bà sợ làm tinh thần nó hoang mang. Thôi đi, nhà này đã có quá nhiều chuyện buồn rầu rồi, bà không muốn ai phải lo lắng gì thêm nữa. Nghĩ vậy nên bà nói lãng:
                        - Tại cô qua tìm không thấy cháu nên hỏi vậy thôi.
                        - Cô tìm cháu có việc gì? Mạnh hỏi
                        Bà Lan ngắc ngứ:
                        - Cô tìm... ừ thì tại ba cháu không khỏe, cô sợ đêm hôm có chuyện gì nên sang dặn cháu canh chừng. À mà cháu đi đâu vậy?
                        - Đêm qua cháu bị chột bụng cứ đi ngoài suốt.
                        - Chết chưa, sao cháu không nói, đêm hôm lỡ có chuyện gì phải khổ không? Giờ bớt chưa để cô đi hái thuốc cho.
                        - Dạ khỏi, cháu đỡ nhiều rồi.
                        - Vậy để cô xuống nấu cho chén cháo ăn ấm bụng.
                        Bà Lan tất tả đi xuống bếp hối bà câm vo gạo nấu cháo, Mạnh nhìn theo bà một lúc lâu rồi bỏ ra ngoài.
                        *  *
                        *
                         
                        Bà câm bưng dĩa cốm dẹp ra hiên nhà, kéo chiếc ghế đẩu ra đặt dĩa cốm lên trên đó. Bên cạnh, bà Lan ngồi đong đưa trên võng, mắt lim dim, tay lần tràng hạt.
                        Nghe tiếng ú ớ của bà quản gia, bà Lan mở mắt ra mỉm cười:
                        - Cám ơn bà, bà ngồi xuống đây ăn với tôi cho vui!
                        Bà câm lắc đầu ra hiệu mình đã có phần dưới bếp. Mấy lúc gần đây bà thường làm những món ăn quê mùa, dân dã.
                        Bà Lan thích lắm, bà nhớ lại thời thơ ấu của mình có một quãng thời gian dài bà sống rất vui vẻ ở đây, được bà câm – khi ấy còn là một cô thôn nữ – cho ăn những món rất ngon như cốm dẹp trộn mật ong, thứ mật ong lấy trong vườn nhà đặc quánh, thơm lừng, hoặc khoai mì trộn dừa, bánh lá, bánh bò…
                        Những món quà quê ấy ở Sài Gòn người ta cũng có bán nhưng không hiểu sao bà ăn không thấy ngon, chỉ khi về quê, ăn những món bánh đó bà mới cảm nhận được hết vị ngọt thanh của mật ong, ngọt bùi của nếp mới, vị béo ngậy của dừa…
                        Bà nhớ, có một lần nhìn thấy bà câm khóc, bà cứ đeo theo hỏi nguyên do nhưng bà câm không chịu nói. Vốn tính tò mò, bà theo dõi mãi mới khám phá ra bà câm có bạn trai. Hai người thường hẹn nhau ở vườn chuối sau nhà.
                        Bà lấy làm đắc ý vì đã nắm được bí mật của bà câm, bà đòi gì bà câm cũng chìu, nếu không bà sẽ đi mách mẹ.
                        Để lấy lòng bà, bà câm thường dành cho bà nhiều ưu ái, có gì ngon cũng dành phần. Có lẽ vì vậy mà bà với bà câm ngày càng trở nên thân thiết.
                        Bà câm ú ớ, quơ chân múa tay chuyện vãn một hồi rồi quay xuống bếp lúi húi làm gì đó. Bà vẫn thế, cứ luôn chân luôn tay suốt ngày, không chịu ngừng nghỉ. Nhà không còn việc gì thì bà lại ra vườn quét lá, vun thành đống để đốt, hoặc nhặt nhạnh từng que củi khô đem về đun nấu.
                        Đã mấy chục năm qua, bà câm sống với nhịp điệu đều đều như vậy, lòng bà buồn vui ra sao cũng không ai biết.
                        Mối tình thời con gái của bà chết đi, cũng từ đó bà chỉ còn là một cái bóng cô đơn trong ngôi nhà quạnh vắng.
                        Bà Lan nhón tay dúm từng nhúm cốm dẹp cho vào miệng nhai chậm rãi. Buổi trưa mát mẻ ở xứ vườn sao bình yên đến thế! Gió hây hây thổi, những ngọn gió cuối thu khiến lòng người thanh thản.
                        Con gà mái dẫn đàn con bươi tung tóe đống lá bên hè, chừng như đã no nê mấy mẹ con kéo nhau nép vào bóng râm nằm ngủ. Gà mẹ dang rộng đôi cánh cho bầy con chui vào, nhưng có mấy chú gà ngịch ngợm cứ nhảy thót lên lưng mẹ, âu yếm mổ nhẹ từng sợi lông trên đầu mẹ nó.
                        Nhìn cảnh ấy, bà Lan nhớ lại những lúc ngồi nhổ tóc sâu cho mẹ. Ôi, giá mà bây giờ được quay trở lại thời gian đó thì hạnh phúc biết bao. Nhưng thời gian đã đi qua rồi sẽ không thể nào quay ngược lại.
                        Ăn hết dĩa cốm dẹp, bà Lan nằm xuống võng đọc truyện Lục Vân Tiên, gió mát hiu hiu, bà ngủ quên lúc nào không biết. Đến chừng bà giật mình thức giấc trời đã xế chiều, thằng Sang đang ngồi bên cạnh vót tre làm diều.
                        - Sao không kêu mẹ dậy, con?
                        Bà hỏi. Thằng Sang cười khì:
                        - Thấy mẹ ngủ ngon quá trời kêu dậy làm chi! À, mẹ ơi, lúc nãy con bắt được con cá lóc thiệt bự, bà câm kêu đem bán nhưng con muốn để nấu cháo cho mẹ, mẹ chịu hôn?
                        Bà xoa đầu con, nói nựng:
                        - Ôi, con tôi có hiếu quá, chắc là muốn ăn cháo cá rồi chứ gì?
                        Thấy mẹ nói trúng tim đen, thằng Sang nhoẻn miệng cười. Nó đứng lên giũ giũ áo quần mấy cái cho bụi tre rớt xuống rồi nói với mẹ:
                        - Con đi hái rau đắng nghe mẹ!
                         - Để mẹ hái cho! Bà Lan tranh
                        - Vậy hai mẹ con mình cùng đi!
                        Chiều tối, cả gia đình bà Lan quây quần bên nồi cháo cá thơm lừng , nói cười rôm rả.
                        - Cô hai nhà này sắp đi lấy chồng nên được bồi dưỡng ghê chưa. Ráng ăn nhiều nhiều cho mập thêm chút nữa đi cưng!
                        Mạnh chọc Liễu. Liễu hứ một cái thật dài, giằng lấy miếng cá Mạnh vừa định gắp.
                        Mạnh cười ha hả:
                        - Gần có chồng rồi mà còn ham ăn quá, mai tao phải đi kiếm thằng Trọng mắng vốn mới được.
                        Ông Thúc, bà Lan nhìn thấy con cháu nô đùa lòng cũng vui khấp khởi.
                        *  *
                        *
                        Bà Lan nhẩm tính chỉ còn hơn hai tháng nữa là đến ngày cưới của Liễu. Gà, vịt bà nuôi tới đó cũng vừa rồi.
                        Mọi việc trong nhà Mạnh đều lo chu đáo như thể Liễu là em ruột của mình vậy.
                        Lúc này Liễu đã cắt may rành rẽ nên thường xuyên ở nhà với mẹ hơn. Trọng hứa sau ngày cưới sẽ ra chợ thuê một căn nhà cho Liễu mở tiệm may, vừa có nghề nghiệp đàng hoàng, vừa khỏi phải làm dâu.
                        Trưa nay Trọng đến xin phép đưa Liễu đi may áo cưới. Ông Thúc sang chơi nhà hàng xóm, thằng Sang chạy đi đâu không biết, nhà chỉ còn lại bà, bà Câm và Mạnh.
                        Mạnh ngồi hút thuốc ra vẻ đăm chiêu tư lự. Lát sau anh đứng lên vươn vai, hỏi:
                        - Đói bụng quá, nhà còn gì ăn không, cô út?
                        Bà Lan đáp:
                        - Còn lít cốm dẹp, để cô trộn cho mà ăn!
                        Bà dợm người đứng lên thì Mạnh bảo:
                        - Cô út nằm nghỉ đi, con xuống bếp kêu bà câm làm được rồi!
                        Hồi lâu, Mạnh bưng hai dĩa cốm dẹp lên, kéo ghế ngồi cạnh bà Lan.
                        - Mời cô ăn cốm!
                        Bà Lan đón lấy dĩa cốm từ tay Mạnh, xúc từng muỗng ăn nhỏ nhẻ. Mạnh nói:
                        - Cháu nghe cốm dẹp ở miệt Vĩnh Long do mấy người Miên làm ngon lắm, khi nào xuống đó thăm thiếm ba mình mua một về ăn thử nghen cô út!
                        Bà Lan gật gù:
                        - Ừ, vùng đó người ta chuyên làm món này mà.
                        Lặng im một chút bà nói tiếp:
                        - Lâu nay sao hổng có tin tức gì của chị ba, không biết chỉ sống dưới đó có được vui vẻ không nữa? Mạnh à, hay vài bữa nữa con xuống đó thăm thiếm ba con đi, sẵn mời đám cưới con Liễu giùm cô út luôn nghen!
                        - Dạ, để con sắp xếp công việc!
                        Hai cô cháu vừa ăn vừa nói chuyện. Loáng một cái Mạnh đã ăn hết dĩa cốm. Bà câm ra dấu hỏi ăn thêm nữa không, Mạnh vỗ bụng cười:
                        - Bà làm ngon quá, con ăn no bụng rồi, giờ phải ngủ một chút. Cỡ chừng ba giờ bà kêu con dậy tưới cây, nghe!
                        Bà câm gật đầu cầm chiếc dĩa không quay  xuống bếp.
                        Mạnh ngã người ra ván nhắm mắt ngủ. Bà Lan ngồi nhai nhóp nhép một mình.
                        Buổi trưa ở xứ vườn bình yên và thơ mộng biết bao! Bà Lan lại nhớ về chuỗi ngày đẹp đẽ của gia đình, lúc cha mẹ bà còn sống…
                        Ăn chưa hết dĩa cốm bà bỗng thấy buồn ngủ díp mắt. Bà ráng ăn nốt mấy muỗng còn lại, chưa kịp uống nước bà đã nằm ra võng ngủ ngon.
                        - Mẹ ơi, con về rồi nè!
                        Liễu gọi khi bước chân vô cửa. Không nghe tiếng bà Lan trả lời, Trọng trêu:
                        - Quê chưa, hổng ai thèm mừng!
                        Liễu chu môi nũng nịu:
                        - Hổng dám đâu, em là con gái cưng của mẹ mà. Em đi đâu về mẹ cũng mừng.
                        Rồi cô gọi vang:
                        - Mẹ ơi, mẹ! Mẹ đâu rồi?
                        Bà câm chạy lên chỉ tay sang gian nhà bên cạnh, Liễu nhìn theo thấy mẹ nằm ngủ trên võng, cô hơi ngạc nhiên vì bình thường bà Lan rất sẽ thức, sao nãy giờ cô gọi mà mẹ lại không nghe.
                        Liễu định đi sang gọi mẹ dậy, Trọng ngăn:
                        - Để mẹ ngủ đi em, người lớn tuổi khó ngủ lắm, lúc nào mẹ ngủ được thì nên để yên, đừng quấy rầy!
                        Liễu nghe theo, cùng với Trọng vào phòng riêng chuyện vãn.
                        Vừa khép cửa phòng lại, Trọng ôm chầm lấy Liễu:
                        - Ôi, vợ anh đẹp quá!
                        Liễu xô Trọng ra:
                        - Coi chừng… người ta thấy! Anh kỳ quá đi…
                        Trọng cười:
                        - Thấy thì thấy có sao đâu, mình sắp thành vợ chồng rồi em còn ngại gì nữa?
                        Liễu dí ngón tay vào trán anh:
                        - “Sắp” cũng có nghĩa là “chưa”, anh đừng tham lam quá…
                        Trọng ghì chặt lấy Liễu, đặt đôi môi nóng bỏng của mình vào má vào môi cô. Liễu kháng cự, nhưng dần dần cô cũng bị cuốn hút vào nỗi đam mê rừng rực của Trọng.
                        Mãi hồi lâu hai người mới rời nhau ra được. Liễu bẽn lẽn dụi đầu vào ngực Trọng.
                        Anh nhẹ nhàng dìu cô ngồi xuống giường, thì thầm vào tai cô:
                        - Liễu ơi, anh mong ngày cưới của tụi mình tới thật mau. Anh không muốn xa em một phút một giây nào nữa hết!
                        Liễu ngước đôi mắt nhòe lệ lên nhìn Trọng:
                        - Em cũng vậy, em không muốn xa anh! Những lúc có anh bên cạnh thế này em thấy mình như được chở che, bao bọc. Nhưng khi anh về rồi thì em lại cảm thấy lo sợ, bất an. Gia đình em đã xảy ra quá nhiều chuyện, em luôn luôn bị ám ảnh bởi những cái chết kỳ lạ của người thân. Em muốn rời khỏi ngôi nhà này, mặc dù em rất thương mẹ, thương thằng Sang, thương cậu Hai, anh Mạnh nữa. Em đếm từng ngày để được sống trọn vẹn bên anh. Anh Trọng ơi, anh hứa yêu thương em đến trọn đời nghe, anh đừng bao giờ bỏ rơi em…
                        Trọng siết chặt Liễu trong vòng tay, lòng anh dậy lên một tình yêu thương thiết tha, mãnh liệt. Người con gái này mỏng manh, yếu đuối quá, anh làm sao có thể bỏ rơi cô.
                        Anh muốn nói với Liễu nhiều, rất nhiều những lời đá vàng thề thốt, những lời yêu thương đầy cứng trong tim. Nhưng rồi anh lại muốn cứ ôm chặt cô thế này, để mặt cô áp vào ngực anh, tai cô sẽ nghe hết những gì con tim anh muốn nói.
                        Hai người ngồi như thế rất lâu, mặc cho ngoài kia trời chiều buông xuống.
                        - Chị Liễu ơi, mẹ sao thế này, chị Liễu ơi?
                        Tiếng gọi thất thanh của thằng Sang làm Trọng và Liễu giật mình buông nhau ra.
                        Bà Lan nằm trên võng như đang ngủ, trán bà hơi nhíu lại nhưng bà đã tắt thở từ lúc nào không ai hay biết.
                        Thằng Sang cuống cuồng lay gọi mẹ. Liễu quýnh quáng hối bà câm lấy dầu cho cô đánh gió. Liễu không tin, cô không thể nào tin mẹ cô đã vĩnh viễn lìa đời.
                        Mạnh tưới cây gần đó nghe ồn ào chạy về, bế thốc bà Lan đặt lên giường. Liễu cương quyết đòi giở áo mẹ lên để xức dầu, đánh gió.
                        Ông Thúc run giọng gạt Liễu ra:
                        - Mẹ con… đi rồi…!
                        Liễu òa khóc nhào tới ôm mẹ:
                        - Không, không, mẹ con còn sống mà, phải không mẹ? Mẹ trả lời con đi, mẹ ơi…!
                        Liễu và Sang mỗi người một bên lay lắt cái xác thân đã cứng đờ của bà Lan.
                        Thằng Sang vạch mắt bà Lan, kêu gào xé ruột:
                        - Mẹ ơi, mẹ mở mắt ra nhìn con đi! Mẹ đừng làm con sợ… Mẹ đừng bỏ con mà, mẹ ơi…
                        Nghe tiếng kêu khóc thảm thiết của chị em Liễu, làng xóm chung quanh biết rằng trong ngôi nhà kín cổng cao tường ấy lại có thêm một biến cố xảy ra.
                        Mọi người tụ tập tới phụ lo việc tang ma cùng gia đình ông Thúc.
                        Thảm hoa mười giờ xanh mướt Mạnh trồng dọc theo lối đi bỗng chốc bị bao nhiêu bàn chân dẫm nát.
                        Chiều tối rồi, gà vịt không ai đem về chuồng, chúng kêu lên tao tác.
                        Liễu rũ người trong tay Trọng. Thằng Sang hết cuống cuồng ôm mẹ lại chạy tới ôm chị, gào khóc vang trời.
                        Lối xóm mỗi người an ủi một câu nhưng chị em Liễu dường như không nghe thấy.
                        Không biết ai báo tin mà chị Hằng cùng mấy người bạn học may với Liễu tới. Họ vội vã bắt tay vào cắt may cho chị em Liễu những mảnh đồ tang.
                        Ngoài sân, trong nhà người ta ồn ào huyên náo. Những ngọn đèn măng-sông cháy sáng, mọi người chộn rộn chạy tới chạy lui. Thỉnh thoảng một vài người đàn bà lối xóm khẽ nhìn vào phòng thương cảm cho tình cảnh của chị em Liễu.
                        Liễu không còn khóc nữa. Cô câm nín quỳ bên xác mẹ.
                        Liễu chợt nhớ một cảnh tượng giống như bây giờ nhưng đã xảy ra cách nay hơn mười năm, và cũng xảy ra trong chính căn nhà này. Lúc ấy Liễu còn là một đứa bé con theo mẹ về quê chịu tang bà ngoại…
                        Tại sao tai ách cứ đổ dồn xuống gia đình cô? Ông trời muốn trừng phạt cả nhà cô vì những tội lỗi gì đây, cô không sao biết được.
                        Liễu chỉ biết rõ một điều là từ giờ phút này trở đi, chị em cô mới thật sự mồ côi.
                        Liễu vuốt ve bàn tay giá lạnh của mẹ, thầm thì:
                        - Mẹ ơi, con mới vừa đi may áo cưới, sao mẹ không chờ nhìn thấy con gái mẹ mặc áo cô dâu? Còn thằng Sang nữa, nó mới mười hai tuổi đầu sao mẹ đành lòng bỏ nó ra đi, con làm sao lo cho nó được như mẹ bây giờ? Con không chịu, con không cho mẹ đi đâu, mẹ phải trở về với chị em con….
                        Nước mắt Liễu lại rơi lã chã.
                        Thằng Sang kêu gào khản tiếng, lúc này đã đuối sức nằm dài xuống đất rên rỉ:
                        - Mẹ ơi… hơ… hơ… Mẹ ơi…!
                        Trọng lo dọn bàn ghế ngoài sân nhưng không yên tâm, chốc chốc anh lại vào nhà thăm chừng Liễu.
                        Khi người ta đưa xác bà Lan vô quan tài, thằng Sang giãy lên đành đạch. Nước mắt nước mũi tèm nhem trên mặt nó.
                        Liễu nhoài người theo, nhưng cô không còn đủ sức để vùng ra khỏi đôi tay Trọng đang giữ lấy cô.
                        Chị Hằng vừa lau nước mắt vừa đội cho Liễu chiếc khăn tang. Thằng Sang cũng đã được ai đó mặc áo quần, đội mũ rơm tề chỉnh.
                        Hai chị em Liễu quỳ trước linh sàn. Liễu kéo Sang vào lòng lau mặt mũi cho em. Thằng Sang lại tủi thân òa lên khóc ngất.
                        Đoàn người đưa tiễn bà Lan lặng lẽ đi dưới trời mưa lất phất. Đường đi trơn trợt, những người đàn ông khiêng quan tài phải bấu chặt bàn chân xuống mặt đường.
                        Thằng Sang dẫn đầu đám người đưa ma. Nó ôm trên tay tấm ảnh bà Lan chụp từ hai mươi năm trước. Bà Lan trong ảnh đang mỉm cười thật hiền, nét mặt bà hao hao giống Liễu bây giờ.
                        Giấy tiền vàng bạc rơi lả tả hai bên đường. Mọi người dìu Liễu bước đi từng bước….
                        Chiếc quan tài đã được hạ xuống lòng huyệt mới đào. Liễu cầm nắm đất trong tay nước mắt rơi thánh thót…
                        “Mẹ ơi, mẹ ngủ yên đi! Con sẽ thay mẹ lo lắng cho em, mẹ nhé!…”
                        Liễu xòe tay, đất rơi lả tả xuống nắp quan tài, cô ngồi bệt xuống hai tay ôm lấy mặt…
                        Về đến nhà Liễu lên giường nằm không ăn không uống, Trọng nói gì cô cũng không nghe.
                        Trọng nán lại với Liễu đến ngày mở cửa mả. Cúng kiếng xong anh phải về vì đã trễ mấy chuyến ghe.
                        Liễu nắm tay Trọng, run run dặn:
                        - Anh đi mau về với em nghe anh Trọng! Em sợ lắm…
                        Trọng gật đầu, nhìn Liễu xót xa…
                        * *
                        *
                        Vừa về đến nhà nhìn vẻ mặt căng thẳng của ba má, Trọng biết có điều không hay.
                        Trọng chưa kịp hỏi thì má anh đã lên tiếng:
                        - Con thấy chưa, má nói có sai đâu! Chưa một năm mà lần lượt bốn người trong gia đìng đó ngã lăn ra chết. Không phải tận diệt thì còn gì? Nói thiệt lòng má cũng thương con Liễu lắm, nhất là hoàn cảnh nó hiện giờ. Nhưng dù sao thì má phải thương con của má nhiều hơn chứ! Suy nghĩ lại đi Trọng ơi, giờ con nghĩ lại vẫn còn kịp đó…
                        Ba Trọng chép miệng:
                        - Ba vốn không tin vào lời đồn đại, nhưng mà hôm rồi nhìn lên bàn thờ nhà đó ba nổi cả gai ốc. Thiệt tình, trước nay ngoài việc chiến tranh, loạn lạc hay dịch bệnh, ba chưa thấy, cũng chưa từng nghe kể nhà nào liên tiếp xảy những cái chết bất đắc kỳ tử dồn dập như thế.  Ba nghĩ lời má con cũng có lý!
                        Trọng đang mệt mỏi, nghe ba má nói vậy anh đâm ra bực tức:
                        - Chỉ còn hơn hai tháng nữa tụi con cưới nhau rồi, ba má đừng nói gì nữa hết!
                        Ba Trọng nghiêm mặt:
                        - Cưới sao được mà cưới! Mẹ nó vừa mới qua đời, dù muốn dù không đám cưới cũng phải hoãn lại thôi!
                        Trọng vỡ lẽ, ngớ người ra. Vậy mà suốt mấy hôm nay, mỗi khi Liễu bị kích động anh đều an ủi, động viên cô rằng “… ráng lên đi em, còn không bao lâu nữa anh sẽ đưa em rời khỏi nơi tang tóc ấy…”
                        Anh hoàn toàn không nghĩ tới việc mồ bà Lan còn chưa xanh cỏ, lễ cưới sẽ không được tiến hành.
                        Má Trọng thở dài:
                        - Gia đình mình đành phải có lỗi với chị ấy, có lỗi với con Liễu vậy!
                        Ngẫm nghĩ một lát bà nói thêm:
                        - Nhưng Trọng à, con đừng nói gì với con Liễu nghe, đừng làm nó quá mức khổ đau mà tội nghiệp. Chờ khi nào nó nguôi ngoai , ba má sẽ nói chuyện với cậu hai nó. Giờ thì cứ coi như đám cưới chỉ tạm hoãn vậy thôi!
                        Trọng biết mình không thể bỏ rơi Liễu, không thể chối bỏ cuộc hôn nhân với Liễu, nhưng lúc này anh đã quá mệt mỏi, anh không muốn bàn cãi gì thêm với cha mẹ nên lặng lẽ vào phòng.
                        Ngược lại, thấy thái độ của con, ba má Trọng cứ ngỡ lòng anh đã dao động. Hai ông bà bàn tính tìm cách để Trọng và Liễu ít có cơ hội gặp nhau, cho tình cảm nhạt phai dần, để đến lúc chính thức tuyên bố từ hôn cả hai đứa đều không quá đau khổ.
                        Liễu hoàn toàn không biết gì về những toan tính của gia đình Trọng.
                        Cô sống những ngày tháng đau buồn, ủ rũ. Thằng Sang thì ngơ ngác như gà con lạc mẹ khiến lòng Liễu càng thêm đau xót.
                        Liễu nghĩ lúc nào mở được tiệm may ngoài chợ, cô sẽ xin phép Trọng đưaSang ra đó cho có chị có em. Tính tình Trọng phóngkhoáng chắc anh sẽ đồng ý thôi.
                        Hôm cúng tuần bà Lan, ba má Trọng tới bàn với ông Thúc việc hoãn đám cưới. Đó là điều phải lẽ, nếu ba má Trọng không đề cập tới ông Thúc cũng sẽ mở lời.
                        Nhưng có điều lạ là ba má Trọng không nói sẽ hoãn lại bao lâu, điều đó làm ông Thúc thắc mắc. Ông hỏi thì ba Trọng trả lời một cách mông lung:
                        - Để cháu Liễu có thời gian lấy lại tinh thần!
                        Liễu thật sự choáng váng, hụt hẫng khi nghe tin ấy.
                        Liễu yêu thương Trọng, cô muốn sớm được chung sống cùng anh, đó là một lẽ. Ngoài ra còn một lý do khác khiến Liễu mong chờ ngày cưới là để thoát khỏi nơi đây.
                        Ở trong ngôi nhà này, mỗi một ngày đi qua, khi bóng đêm trùm xuống là Liễu lại có cảm giác tai họa đang rình rập xung quanh.
                        Sau khi mẹ mất, Liễu càng trở nên hoang mang, sợ hãi. Ban đêm cô ngủ không yên giấc, một con chuột chạy qua cũng làm tim cô thắt lại.
                        Đã vậy thằng Sang thỉnh thoảng giữa đêm khuya khoắc lại thét lên gọi mẹ.
                        Bà Lan mất mới hơn một tuần, Liễu đã hai má hõm vào, mắt trũng sâu, nhìn cô thật thảm thương, tiều tụy.
                        Sau đám tang Trọng có ghé qua một lần, vội vội vàng vàng rồi lại ra đi.
                        Cả Trọng lẫn Liễu đều không biết rằng chính ba má Trọng đã ra tay dàn xếp chuyện này.
                        Hai ông bà cố tình giao cho Trọng những chuyến hàng phải chuyên chở thật xa, thật dài ngày. Và khi Trọng về tới họ lại tìm ra đủ thứ lý do chính đáng để vắng mặt, để Trọng phải trông coi toàn bộ các khâu từ xuống hàng, lên hàng đến quản lý hàng hóa trên ghe.
                        Trọng bận bù đầu bù cổ, chưa kịp ghé thăm Liễu đã tới giờ xuất bến, vì chuyến hàng nào cũng cần giao cho người ta đúng theo giờ giấc trong hợp đồng.
                        Vì công việc, vì uy tín làm ăn, dẫu có nhớ Liễu cháy lòng Trọng cũng phải dằn lòng lại. Anh cố an ủi mình “thời gian còn dài phía trước”.
                        **
                        *
                        - Sao lâu quá anh Trọng không ghé chơi vậy, chị Liễu?
                        Câu hỏi vô tình của thằng Sang khiến Liễu buồn ngơ ngẩn. Cô chớp nhanh mắt ngăn không cho dòng lệ trào ra, nói để em yên lòng:
                        - Dạo này hàng hóa nhiều, anh Trọng không có thời giờ rãnh!
                        Liễu trấn an em nhưng lòng mình thì không hề yên ổn.
                        Lâu rồi Trọng không đến. Ban đầu Liễu còn đếm từng giờ, từng ngày, luôn đi ra đi vào ngó mông ra cổng, lâu dần cô không dám tính thời gian nữa.
                        Ngày cưới của Liễu đã trôi qua, cái ngày mà lẽ ra Liễu được mặc áo cô dâu để về với Trọng, vậy mà Liễu phải ngồi một mình trong phòng nhìn chiếc áo cưới treo phía đầu giường mà lòng quặn thắt từng cơn.
                        Con búp bê Trọng tặng lúc nào cũng nở nụ cười hồn nhiên với Liễu, dẫu khi đó Liễu đang nước mắt như mưa…
                        Thỉnh thoảng Trọng gởi người quen mang đến cho Liễu một vài món quà kèm theo lời nhắn rằng: “Anh vừa về lại phải đi ngay, ráng chờ chuyến sau ghe về thế nào anh cũng sẽ ghé thăm em”
                        Liễu không biết cho tới hôm nay Trọng đã đi được bao nhiêu chuyến, mà lời hứa với cô vẫn còn biền biệt phương trời.
                        Bất chợt mắt Liễu sáng lên, cô nghĩ “Anh Trọng bận việc không ghé thăm mình được, vậy sao mình không tới nhà thăm hỏi ba má anh. Mình với anh ấy đã đính hôn rồi, có gì mà phải ngại?”
                        Nghĩ sao làm vậy. Liễu đi tìm Mạnh, thấy anh đang chẻ củi ở sau nhà, cô nói:
                        - Anh Mạnh có đi đâu không, cho em mượn chiếc xuồng?
                        Mạnh tò mò:
                        - Em đi đâu vậy?
                        - Em rủ thằng Sang xuống nhà anh Trọng!
                        Mạnh ngần ngừ một lát rồi nói:
                        - Em lấy đi đi, nhớ cẩn thận đó.
                        Rồi anh chậc lưỡi:
                        - Thằng Trọng này cũng kỳ thiệt, dạo này hổng biết làm sao mà biệt tăm biệt tích!
                        Liễu cúi mặt bước nhanh ra ngõ gọi Sang cùng đi.
                        Hai chị em vừa cặp xuồng vào bờ, má Trọng nhìn thấy liền chạy ra đon đả:
                        - Chị em con Liễu xuống chơi nè ông ơi! Liễu mới tới hả con? Hai đứa vô nhà đi!
                        Chờ cho Liễu, Sang chào hỏi xong bà nói:
                        - Hôm qua thằng Trọng về, nó tính lên trên đó thăm con, nhưng lu bu rồi cũng không đi được. Gần tết rồi hàng hóa ê hề mà chổ nào cũng đòi gấp. Ngày thường nếu lỡ có trễ hẹn một hai ngày cũng không sao, nhưng tết nhất mà trễ một giờ cũng bị họ cự nự, khổ lắm con à! Trong việc làm ăn muốn giữ được mối mang lâu dài, những lúc cập rập thế này mình càng phải giữ chữ tín với họ.
                        Nghe má Trọng nói một hồi Liễu cảm thấy yên tâm, và đến khi hai chị em ra về thì nỗi buồn trong Liễu đã vơi đi quá nửa.
                        **
                        *
                        Trọng nhổ sào cho ghe rời bến. Chuyến này ngoài anh và bác tài công, trên ghe còn có thêm Út Hạnh – con gái một mối hàng lớn của ba má anh ở chợ Long Xuyên.
                        Ba mẹ Hạnh gởi cô đi nhờ ghe Trọng để về quê tảo mộ.
                        Mẹ Hạnh ngày trước sinh trưởng ở cù lao Hàm Rồng, lớn lên đi buôn bán ngược xuôi quen biết ba Hạnh, cưới nhau xong là ở luôn dưới đó.
                        Dòng họ phân tán tứ phương, trên cù lao Hàm Rồng chỉ còn lại mấy ngôi mộ ông bà và gia đình Trọng là chỗ thân thiết còn sót lại.
                        Ba má Trọng và ba mẹ Hạnh rất muốn kết làm sui gia để mối thâm tình giữa hai nhà càng thêm thắt chặt.
                        Ba má Trọng năm lần bảy lượt đốc thúc anh cưới Hạnh về làm vợ. Hạnh cũng dễ thương, hiền dịu, có phần xinh đẹp hơn cả Liễu, không có gì để Trọng chê. Nhưng ngặt nỗi Trọng chỉ xem Hạnh như bạn, hay hơn chút nữa là như em gái chư tuyệt nhiên không có cái tình cảm rạo rực gái trai.
                        Hạnh lúi húi bên chiếc bếp dầu, chập sau cô múc ra mấy chén chè đậu xanh bày chung một mâm với  trái cây, bánh mứt.
                        Cô cười cười nói với Trọng:
                        - Anh vô cúng đưa ông Táo về trời đi, trễ lắm rồi đó! Lát nữa coi chừng hổng còn xe cho ổng đi à!
                        Trọng cũng đùa:
                        - Ông Táo ghe tôi biết bay mà sợ gì!
                        Nói xong Trọng chui vào khoang thắp nhang khấn vái rồi lại ra ngoài ngồi ngó mông lung. Hạnh ra ngồi cạnh một bên.
                        Là dân buôn bán, Hạnh tuy hiền nhưng không có vẻ rụt rè nhút nhát như Liễu.
                        Trên bầu trời đêm những ánh sao lấp lánh như hàng vạn viên kim cương khổng lồ, trông rất đẹp.
                        Trọng nhớ có lần cùng Liễu ngồi ngắm sao, cô nói rằng:
                        - Khi nào anh thấy trên bầu trời xuất hiện một ngôi sao băng, anh hãy nói nhanh nguyện ước của mình. Nếu lời nguyện đó kết thúc trước hoặc cùng lúc với ngôi sao thì chắc chắn sẽ thành hiện thực.
                        - Thế… em có ước lần nào chưa? Trọng hỏi
                        - Chưa, em sợ mình ước không kịp!
                        - Ai biểu em tham! Ước ngắn gọn thôi! Anh đã từng ước và điều ước đó cũng đã thành hiện thực rồi!
                        - Thật hả anh?
                        Liễu tròn xoe mắt. Trọng giả vờ nghiêm túc:
                        - Thật chứ sao không thật! Em nhớ lần đầu mình gặp nhau ở tiệm may không? Tối đó anh ngồi trên ghe thì thấy sao băng, anh vội vàng nói “Liễu – vợ” thế là trời đất biết ngay anh muốn cưới cô Liễu làm vợ nên đã cho anh toại nguyện nè!
                        Liễu véo vào tay Trọng:
                        - Anh gạt người ta nữa rồi! Em ghét anh lắm!
                        Trọng mỉm cười khi nhớ lại chuyện đó. Phải chi mẹ Liễu không qua đời, chắc giờ đây người ngồi cạnh bên anh không phải Hạnh mà là Liễu, anh sẽ hạnh phúc biết bao.
                        Gần hai tháng nay Trọng chưa gặp Liễu. Anh nhớ cô quay quắt. Chắc Liễu cũng chờ mong anh từng giây từng phút. Giữa lúc Liễu đau buồn mất mát thế này mà không được anh cận kề chăm sóc, thật là tội nghiệp cho Liễu biết bao.
                        Ngày cưới của mình với Liễu đã qua rồi, chắc hôm đó Liễu khóc nhiều lắm. “Liễu ơi, anh sẽ bù đắp lại cho em” . Trọng nói thầm với Liễu.
                        Trọng thấy lòng buồn da diết. Anh quay sang nói với Hạnh:
                        - Tối nay Hạnh thức phụ với bác tài giúp anh nghen, anh thèm rượu quá. giờ anh uống một chút rồi ngủ, chừng nào Hạnh mệt thì kêu anh dậy đổi ca!
                        Hạnh cười:
                        - Nhớ bà chị nên lấy rượu giải sầu à? Được thôi, em xin tận tình phục vụ.
                        Hạnh vào khoang nướng mấy con khô cá hố rồi làm chén nước mắm me bưng ra cho Trọng.
                        Trọng vừa nhìn trời nhìn nước vừa nhâm nhi ly rượu một mình.
                        Ban đầu anh định uống vài ly cho dễ ngủ, nhưng càng uống càng buồn, càng buồn lại càng muốn uống.
                        Hạnh giằng chai rượu trong tay Trọng, can:
                        - Anh say rồi, đừng uống nữa!
                        - Cho anh một ly thôi, một ly… Anh chưa say đâu, anh còn nhớ anh thất hứa với cô ấy mấy lần mà, say đâu mà say…. Ngoan, ngoan nào, cho anh thêm ly nữa, tới chừng đám cưới anh , anh sẽ cho em làm phù dâu….
                        Hạnh thấy tim mình đau nhói. Cô thầm yêu trọng từ lâu, được hai gia đình vun vào nên Hạnh nuôi rất nhiều hy vọng.
                        Bất ngờ nghe tin Trọng đi hỏi vợ, cô đã âm thầm khóc biết bao đêm. Chưa kịp nguôi ngoai lại nghe má Trọng nói xa nói gần đến chuyện hôn nhân của Trọng, trong cô lại le lói những tia hy vọng mới.
                        Nếu chuyện của Trọng và Liễu không thành, dẫu biết Trọng không dễ gì quên được Liễu, Hạnh cũng cam tâm.
                        Cô chỉ cần được sống bên Trọng, được yêu thương chăm sóc cho anh là đã mãn nguyện rồi.
                        Hạnh rót thêm cho Trọng ly rượu nữa. Anh vỗ vai cô:
                        - Em gái ngoan, vậy anh mới thương nhiều chứ!
                        Hạnh rùng mình bởi cảm giác ấm áp từ tay Trọng truyền sang. Ôi, ước gì cô là Liễu để giờ phút này được Trọng thương yêu nhắc nhở! Trọng ơi, sao anh tàn nhẫn với em đến thế, em đang ngồi cạnh bên anh mà anh không hề nghĩ tới… Anh có biết em thương anh nhiều lắm không? Liễu là cô gái thế nào mà lại được anh dành cho thật nhiều tình cảm, dành cho trọn vẹn con tim?
                        Nước mắt vòng quanh mi, Hạnh ngước đôi mắt buồn rầu nhìn Trọng, hỏi:
                        - Anh yêu chị Liễu nhiều lắm phải không? Chị ấy đẹp lắm phải không anh?
                        Trọng gật gù:
                        - Anh yêu nhiều, phải… phải… Yêu nhiều lắm! Cô ấy rất đáng yêu. Nhưng mà…cô ấy không đẹp bằng em đâu, Hạnh à!
                        - Vậy tại sao… anh lại chẳng yêu em?
                        Hạnh bật khóc.
                        Trọng vuốt ve cánh tay cô:
                        - Ngoan… ngoan nào, đừng khóc nữa… đừng khóc nữa… anh thương!
                        Hạnh không kềm được mình, cô ngã dúi vào lòng anh, thổn thức.
                        Trọng ôm Hạnh trong tay, chạm phải làn da mát rượi, bộ ngực phập phồng mềm mại đang áp chặt vào người anh, khiến những dục vọng trong anh bùng lên như lửa cháy.
                        Trọng cúi xuống hôn tới tấp vào khuôn mặt nhòe nước mắt của Hạnh, hổn hển nói:
                        - Liễu ơi, anh nhớ em lắm!…
                        Hạnh xót xa trong lòng nhưng cô đã sẵn sàng chấp nhận tất cả để được gần anh.
                        Đôi tay Trọng lần mở những chiếc nút áo để lộ ra dưới ánh đèn lù mù không đủ sáng một khuôn ngực đầy đặn mịn màng, đang phập phồng theo từng hơi thở.
                        Trọng như con thú hoang vồ được con mồi. Anh lao vào Hạnh với tất cả nỗi đam mê, khao khát của chàng trai hai mươi tám tuổi.
                                         ….
                        Trọng cảm thấy khát nước. Anh định chống tay ngồi dậy nhưng không được vì có cái gì đó đang đè nặng trên vai.
                        Trọng đưa tay kia quờ quạng bỗng chạm phải một thân hình mềm mại kề bên. Anh hốt hoảng ngồi bật dậy. Hạnh cũng ngồi lên, hai tay cô bắt chéo qua vai che bớt vùng ngực còn để trống.
                        Trọng nhìn cô kinh hoàng, và rồi anh nhớ ra tất cả!
                        Trên bầu trời đêm, một ngôi sao vừa rơi xuống…
                         
                        * *
                        *
                        Trọng ngồi ôm đầu khổ sở. Hạnh khóc thút thít, má Trọng dỗ dành:
                        - Con nín đi, mọi việc sẽ yên ổn thôi, hai bác thu xếp được mà, con đừng quá lo buồn!
                        Hạnh cố dằn lòng, cô nói:
                        - Thưa hai bác, lỗi này không hoàn toàn ở anh Trọng mà con cũng có phần, tại vì… tại vì con quá thương ảnh nên mới xảy ra cớ sự. Xin hai bác đừng ép buộc ảnh, số phần của con khổ thì con đành chịu, con coi như mình đã có chồng rồi, dù mãi mãi anh ấy không sống gần con.
                        - Ý, đâu có được! Bác với ba mẹ con là chỗ thân tình, từ lâu đã có chủ ý kết nghĩa sui gia. Âu cũng là ông trời đã định nên mới xui khiến chuyện này! Hai đứa con gạo nấu thành cơm rồi thì phải bàn tới chuyện cưới xin cho sớm.
                        Hạnh đưa mắt nhìn Trọng. Anh vẫn lặng im như những gì má anh vừa nói không có gì liên quan tới anh cả.
                        - Trọng, con nói gì đi chứ, đừng để con Hạnh nó khổ sở như vầy, ba má làm sao còn mặt mũi gặp lại ba mẹ nó?
                        Má Trọng giục.
                        - Má muốn con nói gì lúc này? Lòng con đang ngổn ngang trăm mối, con không biết phải làm sao nữa…
                        Trọng thẩn thờ. Hạnh biết anh là người có trách nhiệm, lại có ba má Trọng đứng về phía mình, nếu mình kiên quyết chắc sớm muộn gì mình với anh cũng thành chồng vợ, nhưng thấy vẻ mặt anh lúc này cô thật sự thương tâm. Hạnh sẵn sàng hy sinh tất cả để anh được vui cười trở lại. Cô nói:
                        - Anh Trọng đừng lo, em không đổ lỗi cho anh đâu! Anh cứ xem như chưa hề xảy ra chuyện gì, hãy tiến hành hôn lễ với chị Liễu, em không trách anh đâu, thật mà…
                        Ba Trọng nghiêm mặt lại:
                        - Cháu nói vậy sao được, thân con gái chữ trinh đáng giá ngàn vàng, cháu đã trao hết cho nó thì nó phải có trách nhiệm với cháu chứ, sao lại xem như không có chuyện gì? Thằng Trọng được hai bác nuôi dạy đàng hoàng, nó phải có bổn phận với cháu kể từ hôm nay.
                        Hớp một ngụm nước trà, ông nói tiếp:
                        - Còn về phía con Liễu, mặc dù đã đính hôn nhưng hai đứa nó chưa có gì với nhau. Hai bác sẽ sang bên ấy xin lỗi, chắc họ cũng không làm khó dễ gì mình.
                        - Con không muốn hai bác phải khó xử! Và nhất là con không muốn anh Trọng khổ vì phải xa chị Liễu, thà rằng con chịu khổ một mình…
                        - Thôi, bác trai đã nói vậy rồi, con đừng bận lòng làm gì nữa! Thiếu gì cặp vợ chồng lấy nhau do hoàn cảnh nhưng vẫn ăn đời ở kiếp với nhau. Như hai bác đây cũng vậy, hồi đó bác đâu có chịu ưng ổng, cha mẹ ép riết phải nghe theo, giờ cũng sống với nhau mấy chục năm trời, ổng đi vắng một ngày là bác nhớ rồi! Con đừng lo chuyện đó!
                        Má Trọng an ủi Hạnh.
                        Trọng không nói không rằng đi ra sau nhà lấy xuồng bơi tuốt lên nhà Liễu.
                        Liễu đang tưới dở liếp rau, nhìn thấy Trọng từ ngoài ngõ cô mừng quá đặt vội cặp thùng xuống đất chạy nhanh ra:
                        - Trời ơi, anh Trọng! Anh đi lâu quá, em nhớ anh muốn chết!
                        Liễu nũng nịu cầm tay anh. Trọng ghì chặt cô vào lòng, Liễu vội xô ra:
                        - Anh kỳ quá đi, gặp người ta chưa nói câu nào đã tham lam phát sợ!
                        - Anh nhớ em quá, Liễu ơi!
                        Liễu hỏi:
                        - Nhớ, sao gặp em mặt anh lại buồn như vậy? Có chuyện gì xảy với anh sao?
                        Trọng gượng cười:
                        - Đâu có, anh vui lắm, có gì buồn đâu!
                        - Đừng giấu em, có gì nói với em đi?
                        Trọng lắc đầu. Cả hai cùng đi vào nhà.
                        Nhìn thấy Trọng, ông Thúc mừng rỡ:
                        - Con về hồi nào? Lâu quá không tới chơi làm con Liễu nhà cậu ngày nào cũng trông cũng ngóng!
                        - Dạ, con xin lỗi! Cận tết công việc gấp rút, con không có thời gian!
                        - Ừ, cậu không trách, nhưng làm gì thì làm ráng tranh thủ gặp gỡ nhau, hai đứa sắp đám cưới rồi lại hoãn, con Liễu hai ba nỗi buồn chồng lại tội cho nó!
                        - Dạ!
                        Trọng cúi đầu không biết nói sao ngoài tiếng “dạ” có phần gian dối. Anh biết rằng anh và Liễu sắp phải mất nhau mặc dù lòng anh vẫn luôn thương yêu cô tha thiết.
                        Nhìn Liễu anh không nén được tiếng thở dài.
                        Thấy Trọng hôm nay có vẻ khác lạ, Liễu lo lắng:
                        - Anh bệnh hay sao vậy anh Trọng? Em thấy anh… khang khác thế nào ấy!
                        - Anh không có gì, em đừng lo!
                        Trọng giả lả.
                        - Em gầy quá, ráng chú ý tới sức khỏe của mình nghe Liễu!
                        Liễu rưng rưng nước mắt:
                        - Em vừa mất mẹ, lại phập phồng lo sợ mất anh, không đêm nào em ngủ yên giấc…
                        - Nếu lỡ mất anh thật, em càng phải bảo trọng sức khỏe cho mình, nghe Liễu!
                        Trọng không dằn được, anh đau đớn nói.
                        Liễu kinh ngạc nhìn anh. Cô run giọng hỏi:
                        - Anh nói gì hở anh Trọng? Em… em không hiểu?
                        - Anh… anh nói chơi thôi mà! Nào, em vui lên đi! Cuộc đời này dù có anh hay không em cũng phải vui vẻ chứ!
                        Trọng cố gượng cười. Anh không thể mở lời, dẫu rằng trong thâm tâm anh muốn nói hết với Liễu, van xin cô muốn mắng chửi anh, đánh đập anh sao cũng được, miễn cô hả lòng hả dạ và đừng khổ sở vì anh .
                        Nhưng Trọng hiểu, không đời nào Liễu nặng lời với anh mà cô sẽ vô cùng đau khổ, cô sẽ tự hành hạ bản thân mình…
                        Trọng nghe lòng chua xót quá. Suốt một buổi ngồi bên Liễu, anh vẫn cố nói cười, thôi thì hãy để Liễu vui cho trọn hôm nay, ngày mai… “Liễu ơi, em đâu biết hiện giờ gió dông đang chờ em phía trước. Anh ngàn lần có tội với em, Liễu ơi…”. Trọng rên rỉ trong lòng. 
                        * *
                        *
                        (Còn tiếp)
                        Nguyễn Thị Mộng Thu
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 15:58:08 bởi nguyenthu >
                        #87
                          nguyenthu 10.08.2009 22:43:34 (permalink)
                          NHÀ MỒ OAN KHỐC
                          (Tiếp theo & hết)


                          Liễu ôm mặt chạy vụt vào phòng, cô không còn đủ sức để ngồi nghe ba má Trọng nói hết câu chuyện. Với cô bấy nhiêu đó là đủ lắm rồi!
                          Liễu đổ sấp người xuống giường, răng cắn chặt lấy chiếc gối ôm để không bật ra tiếng nức nở. Nước mắt cô tuôn dầm dề, lòng cô như kim châm muối xát.
                          Vậy là tất cả đã hết rồi, hết thật rồi sao?
                          Những lời của má trọng còn vang bên tai Liễu: “Nó đã hại đời con gái người ta, vợ chồng tôi đành phải tới đây chịu lỗi với anh Hai, xin lỗi cháu Liễu để rút lại lời cầu hôn…”
                          Trọng ơi, anh đã nói với em những gì sao anh không nhớ? Sao anh nỡ bỏ rơi em…
                          Cả người Liễu run lên theo từng cơn uất nghẹn.
                          Thằng Sang mếu máo đứng ngoài gọi cửa:
                          - Chị Liễu ơi, cho em vào đi, chị ơi!
                          Mặc cho nó kêu khóc Liễu vẫn không lên tiếng.
                          Suốt đêm Liễu nằm mở mắt ngó trân trân lên nóc nhà. Cô không ngủ, cũng không còn khóc nữa, nước mắt cô dường như đã cạn khô rồi.
                          Liễu cảm thấy lòng mình tê buốt, nỗi đau đớn cứ cồn cào vò xé tim cô. Cô thèm được khóc, thèm được hét to lên nhưng cô không thể. Cô cứ nằm yên không hề suy nghĩ chuyện gì mãi đến khi gà gáy sáng.
                          Liễu dậy sớm. Cô cầm chổi đi quét dọn sân vườn, nhà cửa, những công việc này hàng ngày vẫn do bà câm làm, nhưng mấy hôm nay Liễu lại dành làm hết.
                          Bà câm không ngăn Liễu làm việc mà chỉ đứng dõi nhìn theo, nước mắt bà lăn dài trên má.
                          Liễu bây giờ cũng giống như bà thời thiếu nữ…
                          - Liễu ơi, mở cửa cho anh. Anh muốn nói chuyện với em, cho anh vào đi Liễu!
                          Nghe tiếng Trọng gọi, Liễu thấy tim mình thắt lại.
                          Đây là lần thứ ba Trọng đến. Hai lần trước Liễu ngồi yên trong phòng, dặn mọi người giả như không nghe không thấy. Nhưng hôm nay Liễu nghĩ mình cần phải gặp Trọng một lần sau cuối.
                          Liễu xếp vội chiếc áo cưới, mở tủ lấy hộp nữ trang ba má Trọng cho trong lễ đính hôn. Cô bỏ tất cả vào chiếc hộp giấy xinh xắn mà dạo trước Trọng mang quà đến tặng.
                          Liễu cắn chặt vành môi và… bình tĩnh bước ra ngoài.
                          Trọng không ngờ Liễu lại xanh xao, vàng vọt đến thế. Nước mắt anh ứa ra, anh chỉ muốn xô ngã cánh cổng sắt nặng nề này để nhào tới ôm lấy Liễu.
                          Liễu không mở cửa cho Trọng vào. Cô từ tốn nói:
                          - Duyên phận của chúng ta đến đây là chấm dứt. Từ nay xin anh đừng tới tìm em nữa, mình không còn gì để nói với nhau đâu. Em xin gởi lại anh vật này…
                          Trọng cuống quýt:
                          - Nhưng… Liễu ơi, hãy nghe anh nói, xin hãy hiểu cho anh…
                          Liễu cười cay đắng:
                          - Hiểu anh hay không hiểu được anh, từ giờ phút này liệu có còn ý nghĩa gì nữa? Đối với em tất cả đã chết rồi. Em thành tâm chúc anh hạnh phúc. Anh về đi...
                          Nói xong Liễu vội vã quay vào. Cô sợ chỉ đứng thêm chút nữa cô sẽ mềm lòng trước gương mặt hốc hác, trước cái nhìn buồn rầu tuyệt vọng của anh.
                          -Liễu ơi , Liễu !…
                          Trọng đau đớn gọi theo. Liễu đi như trốn chạy, nước mắt cô ràn rụa.
                          Ông Thúc lắc đầu buồn bã nhìn theo cô cháu gái. Ông nói với Trọng:
                          - Thôi, cháu về đi! Cậu không trách gì cháu nhưng từ nay xin cháu để cho con Liễu được yên thân, cháu đừng quấy rầy nó nữa!
                          Trọng không biết phải nói sao. Tất cả tội lỗi đều do anh gây ra, anh còn biết biện minh thế nào nữa.
                          Lòng Trọng quặn đau, anh thất thểu quay về.
                          Từ ngày đó Liễu trở nên một con người hoàn toàn khác. Cô không buồn đau, khóc lóc, cũng không có cái vẻ ngơ ngác tội nghiệp như thằng Sang mà cô trở nên cứng cỏi lạ thường.
                          Liễu làm tất cả những công việc mà trước đây cô thường né tránh.
                          Mạnh khuyên:
                          - Em có buồn khổ gì thì cứ khóc cho thỏa thích, khóc mười bữa nửa tháng cho vơi đi rồi còn làm lại cuộc đời. Chứ dồn nén kiểu này chỉ e...
                          Liễu cười chua chát:
                          - Anh yên tâm đi, em không có sao đâu mà anh lo. Vả lại cuộc đời em cũng không có gì phải làm lại. Em quyết định rồi, em sẽ sống ở đây mãi mãi, để lo cho thằng Sang, lo cho cậu Hai, bà câm và cả anh nữa.
                          Trọng nhìn Liễu khác lạ:
                          - Em nói thật à?
                          - Thật chứ!
                          Liễu gật đầu quả quyết.
                          - Em chán ngán chuyện tình cảm quá rồi! Em sẽ không bao giờ lấy chồng…
                          Mạnh không nói gì thêm, anh nhìn Liễu đầy vẻ suy tính.
                          * *
                          *
                          Ông Thúc trở mình qua lại, xương cốt ông kêu lên răng rắc. Đêm nào không ngủ được ông lại thấy đau nhức khắp cả người.
                          Ông nằm nghĩ ngợi chuyện nhà mà thấy buồn nát ruột. Tai ương liên tiếp đổ xuống gia đình ông, ông không thể nào lý giải được rõ ràng, khúc chiết. Đành rằng ông luôn tin tưởng có thánh thần, ma quỷ, nhưng các em ông, cháu ông đâu có ai làm gì quá quắt mà phải chết thảm thương đến vậy?
                          Giờ trong căn nhà rộng thênh thang này buồn tẻ quá! Có khi suốt cả ngày ông không biết nói chuyện cùng ai. Thằng Mạnh, thằng Sang suốt ngày chạy hết chỗ này tới chỗ kia, con Liễu từ lúc hôn nhân đổ vỡ, nó cứ âm thầm lặng lẽ, bà câm thì chỉ biết ú a ú ớ.
                          Ông Thúc ngồi dậy, quờ chân tìm dép rồi lệt sệt tới bên bàn nước. Ông không khêu ngọn đèn lên mà cứ để nó lù mù trên đầu tủ. Ông ngồi trầm tư nhìn những tấm ảnh người thân, những người đã mất. Nước mắt ứa ra, ông nghẹn ngào khóc không thành tiếng.
                          Chợt ông lắng tai nghe, hình như có tiếng động khẽ ngoài sân. Lâu nay ông thường nghe người trong nhà nói về những tiếng động lạ trong đêm, cũng nhiều đêm Mạnh giục ông đi ngủ ông cứ khăng khăng thức để rình xem, nhưng chưa khi nào ông tận tai nghe được.
                          Quả thật có tiếng chân người khi thì rón rén, lúc chạy huỳnh huỵch quanh sân. Ông Thúc lấy làm lạ, nhẹ nhàng đi xuống nhà sau đứng nép sát vào góc nhà mắt nhìn qua khung cửa sổ. Tại đây ông có thể nhìn bao quát khắp sân, nhưng vì mắt ông kém, bầu trời tuy rất quang đãng nhưng không có trăng nên ông không thể nhìn rõ được.
                          Xa xa, thấp thoáng bóng một người đang chạy tới chạy lui, khi ngồi khi đứng. Ông Thúc vô cùng thắc mắc, ông không thể đoán được bóng người ấy là ai và đang làm gì giữa đêm hôm thế này. Ông định lên tiếng hỏi, nhưng rồi ông quyết định im lặng theo dõi tiếp.
                          Bóng người đang chạy gần về phía ông, theo sau là cả một bầy dơi đông đúc. Người đó xòe tay ra, bầy dơi xúm vào mổ lia mổ lịa. Rồi những tiếng khóc than rên rỉ lại cất lên nho nhỏ, bầy dơi cứ xúm vào người đó rồi lại bay tóe ra. Những điều đó cứ lập đi lập lại nhiều lần, khiến ông Thúc lờ mờ nghĩ tới một việc...
                          Ông Thúc còn đang hoang mang thì bóng ma kia chợt nhảy lên, buông ra một chuỗi dài tiếng hú rợn người. Như được nghe hiệu lệnh, bầy dơi nối nhau bay đi, bóng ma cũng hấp tấp chạy theo. Không bỏ lỡ, ông Thúc nhanh tay rút chốt cửa, lách mình bám theo sau bóng người và đàn dơi bí ẩn.
                          Bóng ma cùng đàn dơi rồng rắn dẫn nhau luồn qua những khu vườn cây trái xum xuê, ông Thúc cố gắng đuổi theo nhưng cuối cùng ông bị tụt lại một quãng khá xa.
                          Ông tiếc rằng lúc nãy không kêu Mạnh đi cùng. Nó thanh niên trai tráng, chắc chắn linh hoạt hơn ông.
                          Ông theo đến cửa nhà mồ thì không còn nghe động tịnh. Rõ ràng từ xa ông thấy chúng đi tới chỗ này mà!
                          Ông Thúc rón rén đi tới sát cổng nép người nhìn vào trong. Một người đang ngồi trên thềm nhà hút thuốc, đốm đỏ trên đầu điếu thuốc chốc chốc lại lóe lên nhưng ông Thúc vẫn không sao nhận rõ người đó.
                          - Ai làm gì bên trong vậy?
                          Ông cất tiếng hỏi. Bóng ma kia dường như giật mình ném vội điếu thuốc ra xa, đứng bật dậy cất lên một tràng tiếng hú. Ông Thúc rợn người lùi lại mấy bước, ông cúi xuống cạy một cục đất ném vào trong.
                          “Bộp”, tiếng rơi lạc lõng của cục đất ông ném khiến bóng ma buông ra một chuỗi cười sắc lạnh rồi biến mất.
                          Ông Thúc loanh quanh một hồi trước cửa nhà mồ, thật lâu sau vẫn không thấy bóng ma xuất hiện ông mới lầm lũi quay về.
                          Bóng đó thật sự là người hay ma? Ông Thúc dằn vặt trong đầu câu hỏi ấy.
                          Ông Thúc vừa bước lên nhà trên đã nghe tiếng Mạnh hỏi, giọng tỏ ra khó chịu:
                          - Nãy giờ ba đi đâu vậy?
                          - Ừm… tao ngủ không được nên đi loanh quanh cho mát vậy mà!
                          - Ba già cả rồi, đêm hôm ra ngoài lỡ gió máy phải khổ không? Từ nay ba làm ơn ở yên trong nhà giùm con đi!
                          Ông Thúc do dự một chút rồi khẽ nói:
                          - Mạnh nè, hồi nãy ba thấy chuyện lạ lắm!
                          - Chuyện gì mà lạ? Mạnh hỏi
                          - Ba thấy bóng người đang dạy bầy dơi làm gì đó trong sân. Ba theo dõi đến nhà mồ thì mất hút.
                          - Ba ơi, nhà mình xảy ra nhiều chuyện không hay rồi, ba còn đi theo bóng ma đó làm gì? Mặc kệ chúng đi, từ giờ ba đừng dính dáng tới. Thôi khuya rồi, ba ngủ đi.
                          Mạnh gạt ngang, không cùng ông tìm hiểu sự thể thế nào. Ông Thúc vừa lo lắng, vừa buồn phiền, nằm tới sáng không tài nào ngủ được.
                          Mới sáng tinh mơ, ông vội vã đi ra nhà mồ lần nữa. Tất cả đều êm ắng, như không có chuyện gì xảy ra đêm qua.
                          Ông Thúc tra chìa vào ổ khóa. Vì lâu ngày cửa không được mở, ông loay hoay hồi lâu mới mở được ổ khóa để vào bên trong.
                          Bầy dơi treo ngược trên xà nhà chắc đang say ngủ. Ông đi tới lui trong nhà mồ mấy lượt vẫn khôg thấy gì lạ, đến chừng ra sân ông nhặt được điếu thuốc cháy dở mà đêm qua chính mắt ông trông thấy bóng ma đó quăng đi. Ông vòng ra phía sau nhà mồ, lại tiếp tục nhặt được bao diêm chắc cũng do người ấy đánh rơi.
                          Cầm hộp diêm trong tay, xoay qua lại một lúc ông Thúc chợt lạnh người khi phát hiện ở góc hộp diêm có vẽ hình con cá. Nét vẽ nguệch ngoạc này là của thằng Sang. Ông nhớ hôm qua khi ngồi với ông, thằng Sang cầm hộp diêm trên bàn lên vẽ còn bị ông rầy, nó nhe răng cười khì:
                          - Cậu xem con cá con vẽ giống con gì?
                          - Giống con lươn!
                          Ông nói đùa với nó như thế. Nhưng sao bây giờ hộp diêm lại nằm trong khuôn viên nhà mồ? Chẳng lẽ... Ông Thúc không dám nghĩ tiếp, vội vã về nhà.
                          - Mạnh ơi, Mạnh!
                          Vừa bước vô cổng ông Thúc đã cất tiếng gọi. Mạnh đang cho gà ăn gần đó ngạc nhiên:
                          - Ba làm gì mới sáng sớm mà hớt hơ hớt hãi vậy?
                          - Đến đây tao hỏi chuyện này.
                          Ông Thúc kéo Mạnh ra một góc hỏi nhỏ:
                          - Có phải đêm qua mày ra nhà mồ không?
                          Mạnh tròn mắt nhìn ông rồi cười ngất:
                          - Ba ơi, ba lẩm cẩm quá rồi! Con là con của ba chứ có là ma quỷ gì đâu mà đêm hôm lại ra chỗ đó? Hôm nay ba sao vậy?
                          - Vậy thì cái này sao lại nằm ngoài đó?
                          Ông Thúc đưa bao diêm ra. Mạnh hơi khựng lại nhưng rồi anh lại cười lên ha hả:
                          - Trời ơi, thiệt hết biết ba rồi! Có vậy mà cũng làm như quan trọng lắm. Chiều hôm qua con với thằng Sang ra vườn nhãn làm cỏ, hai anh em trèo vô nhà mồ đi lòng vòng kiếm trứng chim, chắc cái hộp diêm này rơi mất lúc ấy. Hèn gì từ tối tới giờ con tìm hoài hổng thấy!
                          Nghe Mạnh nói, ông Thúc thở phào nhẹ nhõm:
                          - Vậy à?… Vậy mà ba cứ sợ…
                          Ông Thúc bỏ lửng câu nói. Mạnh tiếp lời:
                          - Ba sợ con bị ma nhập hả?
                          Nói xong Mạnh cười lớn. Ông Thúc nạt:
                          - Đừng nói bậy bạ, không nên đâu con!
                          Ông Thúc đi vào nhà, Mạnh tần ngần nhìn theo cha vẻ mặt căng ra như có điều lo âu, suy tính…
                          * *
                          *
                          Từ  ngày mẹ qua đời rồi tiếp đến chuyện hôn nhân bị đổ vỡ, Liễu đâm ra khó ngủ. Có đêm cô trằn trọc đến hai, ba  giờ sáng mới chợp được mắt.
                          Mấy lúc gần đây, cứ vào khoảng nửa đêm Liễu lại nghe tiếng dơi kêu ngoài cửa sổ, tiếng chúng vỗ cánh và cả tiếng chân người rón rén bên ngoài.
                          Sợ quá, cô kể cho ông Thúc và Mạnh nghe. Mạnh gạt ngang:
                          - Đầu óc căng thẳng quá rồi tưởng tưởng ra thôi, làm gì có chuyện đó!
                          Liễu bán tín bán nghi, hai ba đêm liền cô cố gắng tỉnh táo theo dõi thì tuyệt nhiên không nghe thấy gì hết. Cô yên tâm nghĩ chắc đúng như lời Mạnh nói, tại mình quá lo sợ nên đâm ra ảo tưởng thế thôi.
                          “Xoảng!”
                          Liễu đang lơ mơ ngủ thì giật mình nghe tiếng kính rơi loảng xoảng. Cô nằm im mở to mắt quan sát. Trong bóng tối lờ mờ Liễu nhận thấy một cái gì đó đang ngo ngoe luồn vào chỗ kính bể của cửa sổ, cuối cùng cô nhận ra đó là một bàn tay to khỏe đang cố lách vào để mở chốt.
                          Cô thét lên kinh hoàng.
                          Nghe tiếng la thất thanh của Liễu, thằng Sang, ông Thúc, bà Câm lật đật chạy vào. Liễu ngồi trên giường run như cầy sấy:
                          - Ma… có ma…!
                          Liễu lắp bắp.
                          - Nói xàm! Ma đâu mà ma!
                          Ông Thúc nạt.
                          Liễu chỉ tay về phía cửa sổ. Ông Thúc cầm đèn tới soi thì thấy cửa kính bị đập vỡ lam nham, mảnh kính tung tóe dưới đất.
                          Ông quá đỗi ngạc nhiên. Dân ở cả cái cù lao Hàm Rồng này có ai không biết gia đình ông chỉ còn cái vỏ, làm gì có trộm cướp vô đây. Chẳng lẽ có đứa con trai nào muốn giở trò xằng bậy với Liễu? Khả năng đó cũng khó xảy ra….
                          - Có chuyện gì vậy?
                          Giữa lúc mọi người còn đang hoang mang thì Mạnh bước vào cất tiếng hỏi.
                          Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu ông Thúc, ông nhìn Mạnh chăm chú. Mạnh tránh cái nhìn của ông giả lả nói:
                          - Con Liễu lại mơ thấy gì nữa à?
                          - Không… không phải mơ đâu…
                          Ông Thúc cúi nhặt mấy mảnh kính vỡ, trấn an mọi người:
                          - Thôi, không có gì đâu, chắc trời gió, cành cây bên ngoài va vào làm bể kính. Tất cả đi ngủ đi!
                          - Không… không phải…
                          Liễu yếu ớt phản đối nhưng ông Thúc làm như không nghe thấy, ông quay lại nói với thằng Sang:
                          - Mày đem cái ghế bố vô đây nằm ngủ cạnh chị mày cho nó bớt sợ!
                          - Dạ!
                          Thằng Sang nhanh nhảu.
                          Nhìn vẻ mặt thất thần của Liễu, ông Thúc vỗ về:
                          - Con yên tâm ngủ đi, cậu ra ngoài uống trà canh chừng cho, đừng sợ nữa!
                          Liễu ngoan ngoãn nằm xuống. Cô cố dỗ giấc ngủ nhưng vừa chợp mắt là những hình ảnh ma quái lại lởn vởn quanh cô.
                          Liễu thức chờ trời sáng. Bên cạnh, thằng Sang đã thở đều đều, lát lát lại vung chân vung tay làm chiếc ghế bố không ngừng kêu kót két.

                          Bà câm bê chảo cơm chiên đặt lên bàn, xới ra chén tươm tất xong mới lên nhà trên gọi mọi người trong nhà xuống ăn sáng.
                          Đầu óc Liễu nặng trịch, cô chếch choáng ngồi vào bàn, cố gắng ăn cho hết chén cơm.
                          - Anh Mạnh đâu sao không ăn sáng, cậu Hai?
                          Nghe thằng Sang hỏi Liễu mới chợt nhớ từ sớm tới giờ không nghe tiếng Mạnh.
                          Ông Thúc buông đũa, cúi đầu buồn bã:
                          - Thằng Mạnh… nó… đi lên Sài Gòn rồi!
                          - Hả?
                          Hai chị em Liễu đồng thanh kêu lên, bà câm cũng tỏ ra ngơ ngác. Mọi người đều hết sức ngạc nhiên.
                          - Anh Mạnh lên Sài Gòn chi vậy, cậu?
                          Liễu hỏi.
                          - Nó… nó đi làm ăn!
                          Ông Thúc ấp úng.
                          - Sao kỳ vậy! Từ trước tới nay có bao giờ con nghe anh ấy tính chuyện này đâu. Ảnh vốn rất thích cuộc sống ở đây mà!
                          Liễu thắc mắc.
                          - Cậu cũng không biết nữa! Hồi khuya này nó đi, nó có gởi lời chào hai cháu…
                          Ông Thúc nói xong bỏ dở chén cơm đi ra sau hè. Liễu nhìn theo ông lòng đầy nghi vấn.
                          Tại sao Mạnh lại đột ngột bỏ đi như vậy? Có chuyện gì gấp rút mà anh không kịp nói với chị em Liễu một lời? Những câu hỏi đó cứ xoáy tròn trong đầu Liễu. Nhiều lần cô đề cập đến đều bị ông Thúc nói sang chuyện khác. Hình như ông có điều gì đau khổ lắm, khó nói lắm, ông không muốn nghe ai nhắc tới Mạnh trước mặt ông.
                          Từ ngày Mạnh đi ông Thúc già hơn thấy rõ. ông trở nên ít nói ít cười. Bữa cơm nào ông cũng ăn qua quýt.
                          Ngày tháng lặng lẽ trôi qua. Ngôi nhà vốn đã u buồn, ảm đạm, từ ngày Mạnh đi càng trở nên lạnh lẽo thâm u.
                          Ba người lớn suốt ngày im ỉm, thằng Sang từ khi mất mẹ cũng không còn liếng thoắng như xưa.
                          Liễu nhớ Mạnh quá! Có anh ở nhà, những buồn vui trong Liễu có người chia sẻ, giờ thì Liễu không biết tâm sự cùng ai. Thằng Sang còn nhỏ quá, nó chưa thể hiểu được những tâm tình của Liễu.
                          - Chị Liễu ơi, đôi giày này anh Mạnh thích nhất, sao đi Sài Gòn ảnh hổng đem theo?
                          Thằng Sang hỏi lúc hai chị em dọn dẹp nhà cửa.
                          Liễu đáp:
                          - Chị cũng không biết! Hình như anh Mạnh không đem theo vật gì hết.
                          - Sao kỳ vậy ta?
                          Liễu nghĩ thầm không biết trong nhà này sẽ còn xảy ra bao nhiêu điều kỳ lạ nữa…
                          Từ sau đêm kiếng cửa sổ phòng Liễu bị đập vỡ, thằng Sang tối nào cũng vào ngủ bên cạnh chị.
                          Hai hôm nay nó nóng sốt, đêm nào ngủ cũng mơ gọi mẹ. Liễu nhớ hồi còn sống, mỗi khi nhà có người bệnh mẹ thường nấu cháo giải cảm cho ăn, rồi đi hái lá cây về nấu nồi nước xông xông cho mau khỏi bệnh.
                          Liễu cũng bắt chước làm vậy, nhưng cả buổi chiều cố ép mấy thằng Sang cũng chỉ ăn được vài ba muỗng cháo.
                          Nó nói:
                          - Miệng em đắng lắm, không ăn được đâu!
                          Liễu rưng rưng nước mắt. Giá như có mẹ thế nào mẹ cũng dỗ được nó ăn.
                          Liễu không dám ngủ, cứ đi tới đi lui trong phòng, lâu lâu lại đến sờ vào trán em.
                          Đến khuya, cơn sốt đã hạ, thằng Sang tỉnh dậy cảm thấy đói bụng.
                          Nó gọi chị:
                          - Chị Liễu ơi, cho em ăn cháo!
                          Liễu mừng quýnh vì cô nghe nói khi người bệnh đòi ăn là sắp khỏi bệnh rồi. Cô vội đáp:
                          - Ừ, em chờ chút xíu, để chị hâm lại cho nóng đã!
                          Liễu vội vã xuống bếp. Vừa bước qua bậc cửa cô thấy rõ ràng một bóng người thoáng qua rồi mất hút về phía góc nhà.
                          Hoảng quá, Liễu gọi rối rít:
                          - Bà câm ơi, bà ra đây, mau lên!
                          Bà câm hấp tấp cầm đèn chạy ra, ngơ ngác nhìn liễu.
                          Liễu kể vắn tắt sự việc rồi hai người rọi đèn tìm khắp nhà nhưng không thấy gì khác lạ, cửa nẻo vẫn còn đóng y nguyên, cánh cửa tầng hầm nơi bóng người biến mất cũng im ỉm đóng.
                          Chẳng lẽ mình hoa mắt? Cô thật sự bối rối không biết đó là sự thật hay chỉ là ảo giác.
                          - Bà ở đây với con nghe!
                          Liễu không dám cho bà câm về phòng vì vẫn còn hồi hộp. Cô hối hả múc cháo đem lên cho em, rủ bà câm đi cùng. Bà lặng lẽ đi sau lưng Liễu.
                          Liễu ngồi đút cho thằng Sang từng muỗng. Nó ăn gần hết chén cháo mồ hôi đã giã ra ướt đẫm cả người. Bà câm âu yếm lấy khăn lau cho nó. Từ ngày mẹ mất nó với bà câm thường quấn quýt nhau hơn.
                          - Bà lên giường ngủ với con, nghen!
                          Liễu mời nhưng bà câm lắc đầu tới nằm lên võng. Lát sau bỗng nhiên bà ngồi dậy như sực nhớ điều gì, cầm đèn hấp tấp đi ra. Không bao lâu bà quay trở lại nét mặt buồn rầu , khác lạ lắm.
                          - Có chuyện gì vậy bà?
                          Liễu thắc mắc hỏi. Bà câm xua tay ý nói không có gì, rồi bà nhắm mắt như ngủ.
                          Cho em ăn xong Liễu cũng mệt mỏi thiếp đi.
                          Chị em Liễu ngủ say rồi bà câm vẫn không sao chợp mắt. Trong ngôi nhà này có điều gì đó mờ ám đang diễn ra.
                          Mấy lúc gần đây bà để ý thấy ông Thúc trở nên khác lạ. Tới bữa, ông ăn rất ít cơm, vậy mà cứ dặn bà nấu cơm dư dư, ông thường đói bụng.
                          Có lúc bà phát hiện ông Thúc xới một tô cơm đầy rồi không biết đi đâu, ông đâu còn bé bỏng như thằng Sang mà bê cả tô cơm sang chơi nhà hàng xóm!
                          Lúc nãy khi Liễu hô hoán lên sao không thấy ông Thúc chạy xuống? Bà đã rọi tìm khắp nhà, rọi cả vào mùng ông vẫn chẳng thấy ông đâu, trong khi các cánh cửa đều đóng kín, chứng tỏ ông không ra ngoài.
                          Ông Thúc đang làm gì, bà thật không sao hiểu nổi. Bà nhất định từ nay sẽ theo dõi ông để tìm ra điều bí mật.
                          * *
                          *
                          - Anh Mạnh đi lâu quá không về, mà sao cũng hổng có tin tức gì của ảnh hết vậy, cậu hai?
                          Nghe Liễu hỏi ông Thúc chỉ ậm ừ:
                          - Cậu cũng không biết nữa!…. À, con đã kêu mối lái tới coi vườn mận nhà mình chưa? Lúc này mận có giá phải tranh thủ bán liền, để một hai hôm lỡ rớt giá thì tiếc lắm!
                          Ông Thúc cố tình lảng sang chuyện khác.
                          - Dạ, con kêu rồi, lát nữa họ tới.
                          Cô ngập ngừng nói tiếp:
                          - Cậu hai nè, cậu có biết anh Mạnh lên trên đó làm gì và ở đâu không?
                          - Đã bảo tao không biết gì hết mà! Nó chỉ nói đi Sài Gòn làm ăn, nó nói sao tao nghe vậy chứ biết gì!
                          Ông Thúc gắt gỏng.
                          Thằng Sang lè lưỡi ra nhìn Liễu, Liễu thôi không dám hỏi nữa. Hai chị em lãng ra nhà sau phụ với bà câm chẻ củi.
                          Chạng vạng tối, bà câm lên phòng Liễu ngồi chơi. Hình như mấy ngày nay bà câm có điều gì khang khác.
                          Liễu nói bâng quơ:
                          - Nhà vắng anh Mạnh buồn quá!
                          Bà câm chợt níu tay Liễu lại, làm những điệu bộ diễn tả cho Liễu hiểu rằng bà đã đoán được nơi Mạnh  sống.
                          Liễu mừng rỡ:
                          - Bà biết anh Mạnh ở đâu à? Hồi đi ảnh có nói với bà sao? Hay quá! Vậy mà lâu nay bà không chịu nói. Ảnh đang làm gì? ở đâu vậy bà?
                          Liễu hỏi dồn dập. Bà câm lắc đầu, xua tay không cho liễu nói lớn tiếng. Bà dặn Liễu đừng tiết lộ việc này, nay mai bà sẽ dắt Liễu đi gặp Mạnh.
                          Liễu bụm miệng cười:
                          - Bà nói thật không đó? Cả đời bà chưa bước chân ra khỏi xứ cù lao này, làm gì biết đường sá Sài Gòn mà dẫn con đi tìm anh Mạnh?
                          Bà câm lặng im, thở dài buồn bã.
                          Thấy bà không muốn nói chuyện đó nữa, liễu lái câu chuyện sang hướng khác. Cô nhắc lại những kỷ niệm thời thơ ấu, rồi những ngày mẹ còn sống… Nhắc lại chuyện xưa hai bà cháu cùng rơi nước mắt.
                          Đêm đã khuya, Liễu giục:
                          - Bà về phònh ngủ đi, con hết sợ ma rồi! Nhà xảy ra đủ thứ chuyện, con phải tập tính kiên cường chứ, phải không bà?
                          Bà câm cười móm mém, bưng đèn trở xuống nhà sau.
                          Liễu kéo mền đắp cho thằng Sang, tấn mùng cẩn thận rồi mới về giường mình ngủ.
                          Dạo này suốt ngày lao động vất vả nên đêm nào cô cũng ngủ rất ngon.
                                       ………………
                          Liễu giật thót người khi có bàn tay ai đó lay cô dậy. Cô mở choàng mắt ra, chưa kịp kêu lên thì thấy bà câm đang đứng cạnh giường. Bà ra hiệu cho Liễu đi theo, cô rất ngạc nhiên nhưng không dám hỏi vì thấy vẻ mặt bà căng thẳng quá.
                          Hai bà cháu lần mò trong bóng tối. Bà câm dẫn Liễu tới trước cửa tầng hầm. Tim cô đập thình thịch, đây đúng là chỗ bóng người biến mất đêm hôm trước.
                          Có chuyện gì xảy ra vậy? Cô chưa kịp hỏi thì bà câm đã nhè nhẹ đẩy cánh cửa mở toang ra. Cảnh tượng bên trong đập vào mắt Liễu, khiến cô lảo đảo suýt ngất đi.
                          - Trời ơi, sao… thế này?
                          Cô kêu lên làm ông Thúc giật mình quay lại, chén cơm trên tay ông rơi xuống đất vỡ toang.
                          Ông ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm lấy đầu. Cả người ông rung lên theo tiếng khóc.
                          Trong chiếc cũi sắt mà hồi còn sinh thời ông Chín Hoa dùng để nuôi chó bẹc-giê, giờ Mạnh đang ngồi chồm hổm ngó ra, ánh mắt láo liên, dữ tợn.
                          Liễu lao tới bên ông Thúc:
                          - Cậu hai, tại sao có chuyện này vậy, cậu nói cho con biết đi, cậu hai!
                          Đột ngột ông Thúc quỳ sụp xuống chân Liễu khóc rống lên:
                          - Con tha lỗi cho cậu đi, cậu có lỗi với các con, với cả dòng họ…
                          Liễu bối rối:
                          - Cậu hai ơi, có gì từ từ nói, cậu đừng làm con sợ! Cậu đứng lên đi, cậu hai!
                          Liễu với bà câm mỗi người xốc một bên dìu ông Thúc ngồi vào ghế. Gương mặt già nua héo hắt của ông ràn rụa nước mắt.
                          - Con còn nhớ cái đêm cửa sổ phòng con bị vỡ không?
                          Ông Thúc hỏi, Liễu se sẽ gật đầu:
                          - Dạ, nhớ!
                          - Lúc ấy mọi người trong nhà đều đổ xô tới, chỉ thiếu thằng Mạnh. Và khi nó bước vô phòng, cậu phát hiện ra trên cánh tay nó có vết máu, có thể do miểng kiếng cứa vào…
                          Liễu kinh ngạc:
                          - Chẳng lẽ người luồn tay vào cửa sổ tối đó là anh Mạnh? Ảnh… làm vậy… để làm gì?
                          Ông Thúc khổ sở:
                          - Để thực hiện âm mưu… giết cháu!
                          Liễu lùi sát vào tường, hai chân cô run rẩy. Quả thật cô không sao hiểu nổi những lời ông Thúc nói.
                          Cô lắp bắp:
                          - Giết con à? Sao… sao anh Mạnh lại phải giết con?
                          Ông Thúc lại đưa hai tay lên bưng lấy mặt, không dám nhìn vào Liễu, ông kể một cách khó khăn:
                          “Từ sau cái chết của mẹ con, cậu phát hiện ở thằng Mạnh có điều gì đó rất khả nghi. Đêm đêm nó thường lén lút ra khỏi nhà không biết đi đâu, không biết làm gì. Đặc biệt mỗi khi trong nhà có người hô hoán lên rằng nghe tiếng dơi bay, tiếng chân người chạy ngoài sân là những lúc thằng Mạnh không có trong nhà. Nhiều lần cậu hỏi nó đều quanh co chối cãi.
                          “Khi phát hiện cánh tay thằng Mạnh có vết máu, cậu đã lờ mờ hiểu ra sự việc. Cậu trấn an để mọi người đi ngủ rồi kêu thằng Mạnh xuống tầng hầm này nói chuyện.
                          “Ban đầu nó cũng chối quanh nhưng cuối cùng cũng chịu nhận tội. Nó nói:
                          “Tôi làm vậy là cũng vì ba, vì muốn cho ba được sung sướng!
                          “Tao không cần sung sướng bằng cách đó!
                          “Cậu quát lên. Nó cười khinh khỉnh:
                          “Ba thì có thể không cần vì ba đâu còn sống bao năm nữa. Vả lại đã có tôi chăm sóc ba rồi! Nhưng tôi thì rất cần, ba biết không? Tôi đã phải chịu nhiều gian khổ, bày mưu tính kế, giờ sắp đạt được mục đích rồi ba đừng hòng lung lạc được tôi. Ba cứ coi như không hề hay biết, sau này tôi sẽ lo lắng cho ba, cung phụng ba tử tế.
                          “Rồi nó gằn giọng nói tiếp:
                          “Còn nếu như ba làm khó tôi, tôi đành phải dứt tình phụ tử, cho ba đi sum họp cùng mấy người em, cháu của ba.
                          “Cậu tái mặt:
                          “Thì ra thằng Nam, thằng Quốc, chú ba và cả cô út mày đều do một tay mày… giết chết?
                          “Nó hạ thấp giọng thầm thì vào tay cậu:
                          “Tôi đã cho bầy dơi quỷ trong nhà mồ hít á phiện để chúng nghe theo sự điều khiển của tôi. Thằng Nam, thằng Quốc chết là do tôi cố tình để lũ dơi đói thuốc. Khi có tín hiệu của tôi nó sẽ nhào vô hút cạn máu con mồi.
                          “Còn ông Thịnh, ổng đã bị tôi dìm xuống mương đến tắt thở. Đáng kiếp, sống an nhàn không muốn, quậy quạng lung tung đòi bán nhà bán đất. Tài sản này là của tôi, tôi là cháu nội đích tôn, tôi toàn quyền thừa hưởng.
                          “Cậu run rẩy nói:
                          “Mày không còn tính người nữa sao Mạnh?
                          “Nó cười vào mặt cậu:
                          “Còn chớ, tôi còn tính người nên vẫn hiếu thảo với ba!
                          “Cô út thương mày như con ruột, sao mày nỡ nhẫn tâm…?
                          “Tôi định để bả nhìn thấy con Liễu đi lấy chồng rồi mới ra tay. Nhưng bả lại xui xẻo phát giác ra hành tung của tôi, tôi đành phải khử sớm. Tôi trộn thuốc ngủ vào cốm dẹp, bả ăn no rồi ngủ say vậy chẳng phải êm ái lắm sao?
                          “Riêng phần con Liễu, quả thật tôi không muốn giết nó. Nhưng mà nó ngu quá, cứ khăng khăng bảo sẽ không đi lấy chồng, sẽ ở đây tới già. Mà nhà này làm gì có chỗ cho nó?
                          “Sau nhiều đêm khổ công tập luyện, tôi đã dẫn dắt bầy dơi đói thuốc đến bên cửa sổ phòng nó. Chỉ chờ tôi mở được cửa là chúng sẽ ùa vào. Vậy mà… tiếc thật! Giờ chỉ còn nó với thằng Sang nữa là dứt điểm, cha con mình có thể đàng hoàng lấy số của cải dưới mồ lên, bán hết đất đai nhà cửa, tôi đưa ba trở lên Sài Gòn sống lại những ngày sung sướng trước kia…
                          “Nghe giọng nói, nhìn cái thái độ bình thản và những tia nhìn khát máu của nó, cậu vô cùng hoảng sợ, cậu tự biết mình không đủ sức để loại trừ cái dã tâm trong nó. Sự tham lam đã biến nó thành một tên cuồng sát.
                          “Sau một hồi lâu cố gắng thuyết phục vẫn không đạt kết quả gì, cậu phải giả vờ đồng tình với nó, cùng nó vạch ra kế hoạch tương lai.
                          “Cậu bảo:
                          “Cha con mình phải uống mừng cho tương lai huy hoàng sắp tới!
                          “Nó cười đắc ý.
                          “Cậu lên nhà trên lấy rượu, pha vào ly cho nó mấy liều thuốc ngủ trước đây mẹ con mua còn sót lại, sợ chưa đủ cậu gom luôn mấy loại thuốc có trong tủ pha thêm vào .
                          “Uống xong mấy ly rượu đó thằng Mạnh ngã vật ra, miệng mồm sùi bọt. Nó vật vã mấy giờ đồng hồ cậu tưởng sẽ không qua khỏi. Cậu vô cùng hoảng sợ, vì cậu không có ý định giết chết nó mà chỉ muốn làm cho nó mê man để nhốt lại, không để nó ra tay giết chị em cháu. Cậu không nỡ báo cho nhà chức trách, vì… dù sao nó cũng là giọt máu của cậu.
                          “Nhưng rồi thằng Mạnh không chết. Tuy nhiên không biết do liều lượng và dược tính của các loại thuốc, hay do sự phẫn uất quá độ mà nó trở nên cấm khẩu và khi tỉnh khi mê thế này đây…”
                          Ông Thúc kể xong câu chuyện vẫn không dám ngẩng đầu lên. Bà câm bấu chặt tay vào cánh cửa. Còn Liễu, cô đứng sững như trời trồng.
                          Liễu không khóc, không run sợ mà cũng chẳng thấy đau lòng. Trong cô giờ phút này hoàn toàn trống rỗng, mọi thứ cảm giác đều không tồn tại.
                          Sự việc diễn ra ngoài sức tưởng tượng của Liễu.
                          Liễu đứng im như thế rất lâu, mãi đến khi Mạnh nhảy chồm chồm trong cũi mới làm cô giật mình, ngơ ngẩn.
                          Đột nhiên Liễu thấy xây xẩm mặt mày, cô ngã lăn ra bất tỉnh.
                          Liễu nằm liệt trên giường đúng một tuần lễ. Thằng Sang suốt ngày không dám rời chị ra một bước, nó quanh quẩn bên giường Liễu, trên mặt nó hằn rõ nét lo âu.
                          Bà câm một mình tất bật với bao nhiêu công việc.
                          Đến ngày thư tám Liễu gượng dậy. Cô nói với ông Thúc:
                          - Từ nay cậu cứ cho anh Mạnh ăn uống đàng hoàng, công khai, đừng lén lút chờ đến đêm hôm mới đem cơm cho anh ấy. Cậu nên đưa anh ấy lên trên này, ở dưới tầng hầm tối tăm ẩm thấp lắm. Thằng Sang có hỏi cậu cứ nói anh Mạnh tự nhiên phát bệnh cuồng tâm loạn trí, những chuyện đau lòng kia xin cậu đừng cho thằng Sang biết…
                          Thấy Liễu có vẻ do dự, ông Thúc hỏi:
                          - Con còn điều gì muốn nói?
                          Liễu đắn đo:
                          - Con… con xin gởi thằng Sang lại cho cậu…
                          - Còn con, con đi đâu?
                          Ông Thúc hốt hoảng.
                          Liễu cười thật buồn:
                          - Con cũng chưa biết nữa! Nhưng có lẽ con lên Sài Gòn tìm một công việc gì đó để sống qua ngày, chừng nào mọi việc nguôi ngoai con sẽ trở về.
                          Ông Thúc rưng rưng nước mắt. ông biết Liễu không thể thản nhiên tiếp tục ở lại đây để mỗi ngày ra vào đều gặp Mạnh, kẻ sát nhân đã giết hại mẹ mình. Thôi thì cứ để cô đi một thời gian cho mọi việc lắng xuống. Nhưng thân gái một mình bơ vơ nơi xứ lạ quê người, biết nó sẽ sống ra sao?
                          - Còn một điều nữa con muốn thưa với cậu… Liễu nói tiếp – Những thảm kịch xảy ra trong gia đình chúng ta đều bắt nguồn từ số của cải chôn dưới nhà mồ. Nếu không có nó, giờ đây chắc ba gia đình vẫn sống vui vẻ, anh em tụi cháu vẫn hòa thuận thương yêu nhau như những ngày nghèo khó lúc trước. Vì vậy cháu muốn, sau khi cháu đi rồi cậu hãy lấy toàn bộ số của cải ấy lên, sử dụng vào việc gì tuỳ cậu, đừng để sau này con cháu thằng Sang lại dẫm chân vào vết xe đổ ngày nay.
                          Ông Thúc gật đầu, nước mắt chảy dài xuống hai gò má nhăn nheo.
                          Liễu đi tìm bà câm, gởi gắm thằng Sang lại cho bà, nhờ bà chăm sóc luôn cha con ông Thúc. Bà câm ôm Liễu vào lòng, cả hai cùng nghẹn ngào không nói được câu từ giã.
                          Liễu đứng trước cửa tầng hầm, do dự hồi lâu rồi đẩy cửa bước vào.
                          Căn phòng ẩm thấp, âm u, đứng hồi lâu vẫn không nhìn rõ mọi vật xung quanh. Liễu phải trở lên nhà cầm đèn đi xuống.
                          Mạnh lúc này đang tỉnh táo, nhìn thấy Liễu anh xấu hổ quay mặt vào trong.
                          Liễu nhìn Mạnh chăm chăm. Cô từ từ tiến lại gần Mạnh:
                          - Sao anh nhẫn tâm đến vậy? Anh giết người không gớm tay, làm cho cả nhà tan nát hết. Anh tham của cải sao không âm thầm lấy hết đem đi, lại làm ra vẻ con người chính trực. Anh không chỉ hại chết cha con cậu ba, hại chết mẹ tôi, mà chính anh đã làm cho mợ ba trở thành kẻ ngớ ngẩn, làm cho hạnh phúc riêng tư của tôi đổ vỡ, làm cho người cha già hơn bảy mươi tuổi của anh phải ngày đêm sống trong khổ sở. Tôi hận anh, không bao giờ tôi tha thứ cho anh, tôi hận anh suốt đời….
                          Liễu khóc òa lên.
                          Mạnh nhìn Liễu đau đớn, đôi mắt anh như cầu khẩn, van xin. Anh quỳ mọp xuống, chắp tay lạy Liễu như tế sao, miệng mấp máy không thành tiếng.
                          Liễu hét to:
                          - Dù anh có van lạy tôi, có làm gì đi nữa, tôi cũng không bao giờ tha thứ cho anh đâu! Anh nghe rõ chưa?
                          Rồi cô cười nhạt vẻ đắng cay:
                          - Anh có trả được cho tôi và gia đình này những gì đã mất hay không? Trả hết lại đi, chừng đó tôi mới tha thứ cho anh được!
                          Mạnh khựng lại, những giọt nước mắt trong veo từ từ lăn xuống đôi gò má nhô cao. Liễu bỗng thấy lòng chua xót. Người anh họ mà cô hằng thương yêu, ngưỡng mộ đã vì mãnh lực của đồng tiền, vì lòng tham không đáy mà trở thành loài dã thú, đi giết hại chính những người ruột thịt của mình.
                          Liễu hoàn toàn không muốn chấp nhận điều đó!
                          Nước mắt Liễu rơi lã chả. Cô mắng nhiếc anh để những khổ đau trong lòng mình vơi bớt nhưng không ngờ nó lại đầy ắp thêm lên.
                          Nhìn Mạnh ngồi co ro như con thú sợ đòn, Liễu lại thấy anh sao mà tội nghiệp! Cô bậm môi quay đi, bỏ mặc Mạnh đang quỳ mọp trong chuồng…
                          Suốt ngày hôm đó Liễu cố gắng vui đùa với thằng Sang, dặn dò nó đủ thứ chuyện đến nỗi nó phải kêu lên:
                          - Làm như chị sắp đi đâu không bằng!
                          Liễu giả lả:
                          - Thì em phải biết tự lo, mai mốt đi lấy chồng chị mới yên tâm.
                          - Chị lấy chồng, em cũng đi theo!
                          Thằng Sang bá cổ Liễu nũng nịu, lòng cô xót xa đau đớn…
                          Tối đó Liễu ngồi nhìn thằng Sang ngủ thật lâu. Cô hình dung ra cảnh ngày mai thằng Sang ngủ dậy không thấy cô nó sẽ hoảng sợ, sẽ khóc lóc thế nào…
                          “Tha lỗi cho chị nghe Sang, chị đi rồi em sẽ buồn nhiều lắm, chị rất thương em nhưng chị không thể… Khi nào cuộc sống ổn định chị sẽ quay về đón em…”
                          Liễu cắn chặt vành môi để dằn tiếng khóc. Một lần nữa cô ôm em vào lòng nhè nhẹ vuốt mái tóc cháy vàng trên đầu nó. Cô đã hứa với vong linh mẹ rằng sẽ chăm sóc cho em, vậy mà bây giờ cô sắp bỏ nó để ra đi…
                          Liễu khóc chán chê rồi âm thầm thu dọn đồ đạc, và khi trời vừa mờ sáng cô lên nhà thắp nhang cho mẹ rồi lặng lẽ mang hành lý ra đi không cho ai theo tiễn biệt.
                          Ông Thúc, bà câm đứng nhìn theo cô, ai cũng nghe lòng quặn thắt.
                           
                          * *
                          *
                          Thằng Sang chạy dọc theo bờ sông dõi mắt nhìn theo những chiếc xuồng, ghe ngược xuôi qua lại.
                          Nó đã gào khóc khản tiếng nhưng chị nó vẫn không đáp lời nó gọi.
                          Sáng ra, bà câm nấu mì tôm, món ăn mà thằng Sang rất thích, nhưng nó cũng chẳng thèm động tới.
                          Nó chạy đi tìm chị khắp mọi ngõ ngách trong nhà, khắp vườn tược xung quanh. Thằng Sang không biết sao chị nó lại đột nhiên biến mất.
                          Ban đầu ông Thúc nói gạt thằng Sang rằng Liễu đi chợ một lát sẽ về . Nó đi ra đi vào chờ đợi. Đến lúc mặt trời lên cao nó bắt đầu hoảng hốt chạy tìm khắp chỗ.
                          Ông Thúc phải nói thật, vừa phải dỗ dành:
                          - Chị Liễu con đi Sài Gòn rồi! Từ nay con ở nhà với cậu, với bà. Con ngoan đừng khóc thì chị Liễu mau về, con không ngoan cậu sẽ nhắn cho chị Liễu biết, chị ấy giận con sẽ không trở về đây nữa!
                          Nghe nói Liễu đi Sài Gòn, thằng Sang vội vã chạy ra bến đò nhưng bến sông vắng lặng không một bóng người. Dưới sông, từng dề lục bình dập dềnh trôi nổi, ung dug như người nhàn hạ.
                          Thằng Sang hết ngồi lại đứng, lại chạy dọc bờ sông cầu mong có một phép màu để nó được nhìn thấy bóng dáng chị nó thấp thoáng trên một chiếc xuồng, ghe nào đó!
                          Bà câm lặng lẽ đi theo sau. Mọi cử chỉ âu yếm của bà lúc này chỉ làm thằng Sang thêm tủi phận.
                          Hoàng hôn phủ trùm thôn xóm. Chim chóc rủ nhau bay về tổ, tiếng bìm bịp kêu cầm canh con nước lớn nghe buồn nẫu ruột.
                          Thằng Sang không còn khóc cũng chẳng kêu gào. Nó ngồi bó gối dưới gốc dừa, mắt ngó mông lung về phương trời xa thẳm.
                          Chỉ mới một ngày thôi mà bà câm thấy nó như lớn thêm vài tuổi.
                          Bà câm chạm khẽ vào vai thằng Sang, ú ớ chỉ tay về nhà, nó đứng lên ngay không một lời kháng cự.
                          - Chị Liễu đi Sài Gòn, mai mốt sẽ về phải không, bà?
                          Thằng Sang lên tiếng hỏi khi hai bà cháu đi một quãng xa.
                          Bà câm gật đầu, nó lại hỏi tiếp:
                          - Nếu con không ngoan, chị đi luôn không về, phải vậy không bà?
                          Bà câm ứa nước mắt thương cho thằng bé bơ vơ côi cút, nó đang cố bám víu vào niềm hy vọng mỏng manh. Bà đi sát vào thằng Sang hơn, bà chỉ muốn dang rộng vòng tay để ôm choàng lấy nó, che chở cho nó.
                          Suốt cả ngày bơ phờ mệt mỏi, vừa về tới nhà thằng Sang đã sà vào bàn ăn ngốn ngấu những thứ bà câm dọn lên.
                          Ăn xong, nó bê chén bát xuống bếp thì bất ngờ phát hiện ra chiếc cũi sắt ông Thúc vừa mới dời lên. Mạnh ngồi trong đó đang nhìn nó lom lom, vẻ mặt đờ đẫn, ngây dại.
                          Thằng Sang quá đỗi giật mình, chén bát trên tay nó rơi xuống đất vỡ loảng xoảng.
                          Nghe tiếng động, ông Thúc, bà câm vội  vàng chạy xuống.
                          Thằng Sang chỉ tay vào chiếc cũi, cất giọng run rẩy:
                          - Anh Mạnh sao lại bị nhốt? Ảnh… ảnh đi Sài Gòn mà…?
                          Ông Thúc ngập ngừng giải thích:
                          - Anh Mạnh đi làm ăn, nhưng không may phát bệnh bất ngờ, người ta mới đưa về cho cậu sáng nay. Con đừng sợ, anh Mạnh không làm gì hại con đâu!
                          Ông Thúc vừa dứt lời thằng Sang bỗng khóc rống lên:
                          - Chị Liễu đi Sài Gòn… mai mốt chị Liễu cũng như anh Mạnh… hơ hơ… con muốn chị Liễu về ngay… hơ hơ…
                          Ông Thúc nghẹn ngào kéo nó vào lòng:
                          - Không đâu, không có đâu! Chị con sẽ mạnh khỏe trở về mà!
                          Thằng Sang vẫn thút thít khóc. Trong lồng, Mạnh gầm gừ, lồng lộn như con thú hoang đòi tháo cũi sổ lồng.
                          Thằng Sang hốt hoảng lùi lại, nín thinh không dám khóc nữa.
                          Ông Thúc tới gần Mạnh, vỗ vỗ vào song sắt:
                          - Yên nào, yên nào! Ngồi yên rồi ba lấy cơm cho mà ăn!
                          Bà câm không muốn để Sang chứng kiến cảnh đau lòng ấy nữa, bà dẫn nó ra nhà sau tắm rửa rồi đưa về phòng dỗ cho nó ngủ.
                          Trong giấc ngủ, thỉnh thoảng thằng Sang vẫn còn nấc lên khe khẽ…
                          * *
                          *
                          Tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà làm Mạnh thức giấc. Anh mở mắt nhìn quanh. Tối quá! Mãi hồi lâu mắt Mạnh mới quen dần với bóng tối.
                          Tuốt đằng kia là cây đèn bóng lù mù, để tiết kiệm dầu bà câm đã vặn lu hết cỡ. Ánh sáng của nó tỏa ra yếu ớt, không đủ soi rọi mọi vật xung quanh.
                          Thỉnh thoảng có những lúc Mạnh hoàn toàn tỉnh táo, như lúc này đây. Anh nằm nhớ lại tất cả những sự việc diễn ra trong gia đình này mà chính anh là đạo diễn.
                          Ân hận, ray rức vò xé tim anh. Mạnh chỉ muốn mình được chết đi để đền bớt phần nào tội lỗi, để không nhìn thấy người cha khốn khổ của anh ngày ngày phải đem từng chén cơm, ly nước, phải chăm sóc cho anh như ngày nào còn thơ bé.
                          Nhưng cũng có lúc Mạnh nửa mê nửa tỉnh. Anh thấy bầy dơi quỷ vây kín xung quanh, rồi bà Lan, ông Thịnh, thằng Quốc, thằng Nam lần lượt hiện về, gương mặt người nào cũng đầm đìa những máu.
                          Mạnh sợ hãi, muốn hét lên cầu cứu, nhưng từ lâu anh đã mất đi tiếng nói của loài người.
                          Giờ đây, nằm một mình trong chiếc lồng sắt lạnh lùng giữa đêm mưa gió, Mạnh thèm được sống lại những ngày đầm ấm cũ. Trong anh bỗng dậy lên một nỗi khao khát mãnh liệt được thoát khỏi nơi này để đi tìm Liễu, anh sẽ lấy cái chết của mình để van xin Liễu thứ tha.
                          Mạnh ngồi bật dậy dáo dác nhìn quanh. Mỗi ngày ông Thúc mấy lượt mở cửa lồng cho Mạnh đi vệ sinh, chùm chìa khóa ông vẫn móc vào cây đinh gần đó.
                          Mạnh nhón gót, cố với tay nhưng không sao với tới. Anh thất vọng ngồi phịch xuống, bất ngờ chạm phải cây roi chiều này ông Thúc đem đến dọa  lúc anh lên cơn quậy phá.
                          Mừng rỡ, Mạnh dùng cây roi làm cần móc, móc được chùm chìa khóa trên cao.
                          Mạnh run rẩy tra chìa vào ổ khóa.
                          “Tạch”! Một tiếng động khẽ khàng và ổ khóa được mở ra, Mạnh thận trọng lần dò từng bước một.
                          Anh rón rén đi khắp nhà nhìn những người thân say ngủ mà lòng đau như cắt.
                          Thằng Sang trở mình, miệng chóp chép như đang nhai thứ gì đó trong miệng.
                           Mạnh không dám lại gần sợ làm thằng Sang thức giấc. Anh đứng nhìn nó thật lâu và nước mắt lại chảy dài…
                          Mạnh đi khắp ba gian nhà. Cúi đầu trước những tấm ảnh trên bàn thờ mà Mạnh tưởng như họ đang nhìn anh căm phẫn.
                          Bên ngoài trời vẫn còn mưa , sấm chớp ầm ì, màn đêm dày đặc.
                          Mạnh leo rào ra đường, xăm xăm đi xuống bến sông với quyết tâm đi tìm Liễu.
                          Người Mạnh ướt sũng, tóc tai, râu ria lâu ngày không được cắt tỉa khiến Mạnh giống con dã nhân ở tận rừng sâu núi thẳm.
                          Mạnh nhận thấy ánh đèn leo lét phát ra từ một chiếc xuồng câu tấp vào bến trú mưa, mừng quá, anh chạy ào tới định xin quá giang, nhưng khi người thanh niên trên xuồng nghe tiếng động, ngó lên bờ thấy Mạnh đã hoảng hốt hét lên:
                          - Có ma! Cứu với… có ma, bà con ơi!
                          Những người dân quanh đó ào ra, Mạnh hoảng sợ chạy ngược lên phía gò nổi định trốn trong nhà mồ nhưng chưa kịp trèo vào đã nghe tiếng dơi bay rào rạt. Mạnh cuống cuồng chạy trở xuống bến sông.
                          Lâu ngày không được tự do đi lại, đôi chân Mạnh đã không còn linh hoạt như trước kia, lại thêm lạnh run vì dầm người dưới mưa lâu quá, Mạnh vấp ngã liên miên.
                          Dân làng hò reo khi bắt được anh, giống như những người thợ săn reo hò mỗi khi săn được thú.
                          - Ai… giống thằng Mạnh nhà ông Thúc?
                          Có tiếng ai đó kêu lên, rồi nười ta dựng Mạnh dậy để nhìn cho kỹ.
                          Mọi người bàng hoàng khi nhận ra Mạnh. Họ thật không ngờ, vì lâu nay ông Thúc vẫn nói với họ rằng Mạnh đi làm ăn xa, nào dè Mạnh lại ra nông nổi…
                          Lúc này anh lại lên cơn, dùng hết sức chống lại những người đang kềm chặt tay chân mình.
                          Họ trói Mạnh lại khiêng tới nhà ông Thúc.
                          Ông không dấu dân làng được nữa! Nhưng ông cũng không thể kể rõ nguyên nhân.
                          Sáng hôm sau, cả cù lao Hàm Rồng lại đồn ầm lên về một điều tệ hại nữa đang xảy ra trong gia đình ông Thúc.
                          Chương 4
                          Sáu năm sau.
                          Đò vừa cập bến, Liễu hấp tấp nhảy vội lên bờ, trong lòng cô rạo rực những buồn vui khó tả.
                          Cù lao Hàm Rồng giờ đây khác xưa nhiều quá! Cây cối vẫn xum xuê nhưng nhà cửa hai bên đường mất hẳn vẻ nghèo nàn, cam chịu trước kia. Cuộc sống đã thay da đổi thịt. Không còn những mái nhà lá lụp xụp mà thấp thoáng dưới rặng cây những mái nhà ngói đỏ hoặc mái tôn sáng rỡ dưới ánh nắng ban trưa.
                          Tiếng ê a của lũ trẻ con vang lên từ một ngôi trường nhỏ ven sông khiến lòng Liễu dậy lên những tình cảm nôn nao khác lạ.
                          Liễu đi như chạy. Mấy cây cầu khỉ chênh vênh năm cũ giờ được thay bằng cầu đúc bê-tông vững chắc.
                          Xứ cù lao thay đổi đến không ngờ!
                          Liễu dừng bước trước ngôi nhà mồ, nơi bắt nguồn của bao nhiêu oan khốc trong gia đình, cô thấy lòng vẫn còn đau đớn lắm.
                          Đau thương ngày cũ ùa về khiến Liễu rơi nước mắt.
                          Cô đã đi xa sáu năm trời. Trong sáu năm ấy vẫn không dứt khỏi tâm trí cô những hình ảnh quá khứ được.
                          Đêm đêm, từ trong tiềm thức lại vọng về tiếng kêu rợn người của đàn dơi quỷ, tiếng gầm gừ dữ tợn của Mạnh, tiếng khóc xé ruột của thằng Sang và cả những tiếng thì thầm yêu thương của Trọng.
                          Tất cả những điều đó không ngừng giằng xé Liễu, nửa thôi thúc cô quay về, nửa lại muốn bứt cô ra xa.
                          Những ngày đầu mới rời khỏi xứ cù lao, Liễu bơ vơ giữa Sài thành, với thân phận một cô gái quê không mẹ không cha, cũng không còn gia đình, nhà cửa, Liễu đã phải lăn thân vào cuộc sống cơ cực, tủi buồn.
                          Nhờ nắm vững nghề may, trong một dịp tình cờ Liễu được nhận vào làm ở nhà may của một ông chủ trẻ.
                          Liễu ít nói lại hiền lành nên rất được mọi người thương yêu, quý mến.
                          Cô cần mẫn, chăm chỉ ngày này sang ngày khác, chưa một lần xin phép nghỉ ngơi, hay về thăm quê như những bạn cùng may khác.
                          Đôi lúc mọi người thấy Liễu ngồi thờ thẫn, ánh mắt trĩu buồn dường như mang rất nhiều tâm sự. Cũng có người muốn sẻ chia, an ủi nhưng Liễu lại lãng đi:
                          - Dạ không… em không có việc gì… , các chị đừng bận tâm!
                          Dần dà rồi họ cũng quen với tính tình của Liễu.
                          Nhưng có môt người vẫn không nguôi thắc mắc. Đó là Sơn – người chủ tiệm may!
                          Một hôm trong tiệm vắng người, Sơn bỗng hỏi:
                          - Lâu nay anh luôn thấy Liễu u buồn, tư lự. Anh đoán hẳn là Liễu đã gặp phải chuyện gì đó đau đớn lắm. Sao em không mở lòng mình ra để vơi bớt phần nào?
                          Ngừng một chặp Sơn nói tiếp:
                          - Anh thấy chị em ở đây ai cũng mến Liễu, vì vậy em đừng quá dè dặt với họ. Cuộc sống trầm uất hiện nay của em không tốt đâu, nếu thần kinh không vững có thể một ngày nào đó em sẽ phát điên.
                          Liễu thở dài thườn thượt:
                          - Em không muốn nhắc lại những kỷ niệm không vui, em muốn quên đi tất cả khổ đau, em đang cố chôn vùi quá khứ, không bao giờ khơi gợi lại nữa!
                          - Nhưng em có quên được đâu? Ai đó đã từng nói “cố quên tức là còn tưởng nhớ”. Em sống ở đây gần một năm rồi, khoảng thời gian ấy tuy không dài nhưng cũng không phải là ngắn, nó đủ để làm phôi pha quá khứ. Vậy mà em hôm nay vẫn giống y nguyên cô Liễu ngày đầu tiên bỡ ngỡ tới đây. Xin lỗi em, anh nói hơi nhiều, nhưng anh nghĩ mình cần phải nói. Em có cho phép anh được nói tiếp không?
                          Liễu cười buồn:
                          - Dạ, anh Sơn cứ tự nhiên! Em như em gái trong nhà, có gì không phải xin anh cứ chỉ dạy.
                          Sơn lắc đầu:
                          - Không, anh không có ý chỉ dạy em. Anh chỉ muốn khuyên em vài lời rằng: Em đừng nên sống như thế này! Cho dù trong quá khứ em đã gặp bất cứ chuyện gì đi nữa thì giờ đây em cũng phải dũng cảm vượt qua. Em còn rất trẻ, cuộc đời em còn dài, chẳng lẽ em cứ như vầy mà đi hế quãng đời còn lại của mình sao?
                          Liễu bưng mặt khóc:
                          - Những điều xảy ra với em khủng khiếp lắm, anh Sơn không thể nào tưởng tượng được đâu! Em đã chạy trốn nhưng quá khứ cứ đuổi theo em mãi. Em cố quên nhưng lúc nào trong tâm trí cũng đầy ắp những ám ảnh thương đau. Em… em thật sự không biết phải làm sao nữa?
                          Sơn nắm chặt tay Liễu:
                          - Em cần phải đối diện với quá khứ, chấp nhận nó và vượt qua nó! Nếu không có gì bất tiện, Liễu hãy tâm sự với anh, biết đâu lòng em vơi bớt nỗi buồn phiền .
                          Liễu ngước nhìn Sơn qua màn nước mắt:
                          - Một ngày nào đó nhất định em sẽ nói hết với anh, còn hiện tại em… em không thể! Mong anh hiểu cho em, đừng trách em…
                          - Anh không trách em đâu. Nhưng em nên nhớ rằng, bất cứ lúc nào em cần có người chia sẻ thì hãy nhớ tới anh, anh rất thành tâm muốn được gánh giúp em nỗi niềm đau khổ đó!
                          - Em cảm ơn anh!
                          Liễu cố nhoẻn miệng cười:
                          - Chỉ xin anh đừng đuổi em đi, nếu mà rời khỏi nơi này em thật sự không biết phải đi đâu nữa?
                          Sơn kêu lên:
                          - Ôi, sao em lại nói vậy? Em thật không biết mình là thợ chính ở đây sao? Anh ngày đêm lo ngai ngái, sợ em chê tiệm của anh nhỏ hẹp mà bỏ đi, anh sao lại dám đuổi em chứ?
                          Sơn hạ thấp giọng ra vẻ bí mật:
                          - Chỉ cần em vừa bước qua thềm cửa này thôi là mấy tiệm may lớn bên kia sẽ “oánh” nhau sứt đầu mẻ trán để giành em về cho tiệm của mình ấy chứ!
                          - Anh cường điệu quá trời!
                          Liễu bật cười. Sơn nắm lấy vai Liễu:
                          - Đó, em cười vậy đó trông mới trẻ trung ra chứ! Từ nay nếu còn thấy mặt mày em ủ dột, anh sẽ gọi em là… “ bà cô” cho mà xem!
                          Liễu cười xòa.
                          Từ ngày đó Liễu thôi không sống khép kín mình như trước nữa. Cô cũng vui vẻ với bạn bè, cũng tung tăng ra phố dạo chơi những hôm rỗi việc, nhưng tuyệt nhiên vẫn không hé một lời về hoàn cảnh gia đình.
                          Ngày tháng êm ả trôi qua. Thợ may trong tiệm nhiều lượt đổi thay, chỉ riêng Liễu vẫn “bám đất giữ làng” như lời Sơn nói.
                          Tiệm may “Minh Sơn” mới ngày nào còn xa lạ với Liễu, giờ đây đã trở nên vô cùng thân thiết. Cô xem nơi đó là nhà, là chốn nương thân đã cưu mang cô trong những ngày khốn khó, nên không hề đòi hỏi thêm ở Sơn bất kỳ một quyền lợi nào khác.
                          Có thời kỳ tiệm may gặp khó khăn, mấy tháng không trả hết lương, những thợ khác lần lượt ra đi chỉ riêng Liễu vẫn vui vẻ làm việc, không một lời than phiền hay thắc mắc. Thậm chí lúc Sơn đưa tiền cô còn nói:
                          - Anh lo trả cho người khác trước đi, em chưa cần dùng tới số tiền này, cứ coi như em nhờ anh giữ hộ vậy nhé!
                          Ngoài công việc ra, hình như không có chuyện gì khiến Liễu quan tâm đến nữa!
                          Đã từ lâu Sơn không còn xem Liễu là người làm công ăn lương. Cô như người nhà cùng với anh lo toan mọi việc.
                          Nhiều lúc Sơn tự hỏi: “hay mình yêu Liễu mất rồi?”
                          Sơn đã yêu nhiều, bị phản bội cũng nhiều. Những người phụ nữ anh yêu đều chạy theo tiền tài, danh vọng mà anh chỉ là ông chủ của một tiệm may khiêm tốn giữa nơi phồn hoa đô hội, thì có nghĩa lý gì đâu?
                          Cay đắng cho thế thái nhân tình, Sơn không còn chú tâm đến tình yêu nữa. Anh dồn hết tâm huyết vào tiệm may bé nhỏ của mình.
                          Từ ngày có Liễu về, công việc làm ăn của Sơn ngày một phát đạt. 
                          Một cô thợ may trong tiệm nói vui:
                          - Tuổi của chị Liễu với anh Sơn hạp nhau, làm ăn tốt lắm! Chi bằng hai người kết nghĩa trăm năm cho chị em chúng tôi cùng hưởng phước!
                          Sơn không mê tín dị đoan, không tin việc hạp cung hạp tuổi gì gì đó. Anh nghĩ đơn giản do Liễu khéo chiều khách, lại có tay nghề vững thường sáng tạo ra những mẫu mã mới thu hút được khách hàng, và họ chuyền tai nhau giới thiệu.
                          Tâm lý chung của các bà, các cô và luôn cả các ông cũng vậy, họ rất thích được mặc những bộ quần áo vừa đẹp, vừa sang trọng lại kh6ng bị “đụng hàng”. Điều này, ở tiệm may “Minh Sơn” có thể đáp ứng được.
                          Sơn mua thêm căn nhà  bên cạnh để mở rộng tiệm may.
                          Tấm bảng hiệu “Minh Sơn” giờ không còn khép nép nữa mà đã ngạo nghễ vươn cao trên dãy phố, không thua kém bất cứ một tiệm may lớn nào trên đất Sài Gòn hoa lệ.
                          Khách hàng của “Minh Sơn” đa phần sang trọng. Nhưng nếu người bình dân đến vẫn được đón tiếp niềm nở, châ tình, không hề có sự phân biệt. Đó là chủ trương của Liễu.
                          Liễu không chỉ giỏi nghề may, cô còn giỏi uôn công việc quản lý.
                          Có lần Sơn bận việc phải đi xa nhiều ngày, anh vô cùng lo lắng. Nhưng khi về tới nhà mọi việc vẫn đâu vào đấy, sổ sách rạch ròi y như Sơn chưa từng vắng mặt.
                          Một hôm Liễu đề nghị:
                          - Sao anh Sơn không mua vải về để sẵn ở đây, khách hàng tới mình giới thiệu cho họ sẽ thuận tiện hơn. Em thấy có nhiều người muốn may một kiểu nào đó nhưng lại mua loại vải hoặc màu sắc, hoa văn không phù hợp, tiếc lắm anh à! Có sẵn vải, mình hướng dẫn họ cụ thể hơn, những bộ áo quần sau khi hoàn thành họ mặc sẽ đẹp hơn!
                          Sơn vỗ tay reo lên:
                          - Sáng kiến tuyệt vời! Vậy mà lâu nay anh chưa từng nghĩ tới! Anh sẽ thực hiện việc này ngay!
                          Hơn năm năm dài Sơn và Liễu gắn bó bên nhau bằng một thứ tình cảm không phải là chủ tớ, không phải bạn bè hay anh em, mà cũng chẳng phải là tình thương trai gái.
                          Cả hai đều không định nghĩa được tình cảm của bản thân mình. Chỉ biết một điều họ rất cần có nhau trong cuộc sống.
                          Từ lúc làm ăn thịnh vượng có không ít cô gái vây lấy Sơn. Sơn đôi lúc cũng vui đùa bay bướm. Nhưng anh chưa tìm ra cô gái nào khả dĩ cưới làm vợ được.
                          Đến với ai Sơn cũng thấy mau chóng  nhàm chán, mặc dù bản thân anh chưa từng đặt ra một tiêu chuẩn nào cả.
                          Sơn gần như bỏ hết những cuộc vui vẻ bên ngoài, những khi rỗi rãi thường ở nhà  bầu bạn với Liễu. Nhờ vậy Liễu không còn cảm thấy cô đơn nữa!
                          Hình bóng Trọng đã nhạt phai dần trong tim Liễu. Đôi lúc cô vẫn nhớ về anh, vẫn cảm thấy có chút gì xao động nhưng không còn cái cảm giác xót xa, tê tái nữa.
                          Nỗi hờn oán Mạnh cũng vơi theo ngày tháng. Liễu thấy tội nghiệp cho anh. Không biết chừng ấy năm trôi qua, những người thân còn lại dưới quê ai còn, ai mất? Cậu hai, bà câm, anh Mạnh và thằng Sang sinh sống ra sao?
                          Nhớ tới thằng Sang lòng Liễu se thắt lại. Cô đã hứa trước mồ mẹ là sẽ chăm lo chu đáo cho em. Vậy mà cô lại một mình chạy trốn…
                          Đã bao nhiêu lần liễu dự định về thăm quê hương, thăm những người thân yêu nơi đó. Nhưng cứ nghĩ đến cảnh phải đối diện với Mạnh, với những di ảnh trên bàn thờ lòng Liễu lại hoang mang, liệu mình có thật sự tha thứ cho Mạnh chưa? Hay về dưới đó lại làm ông Thúc thêm buồn khổ?
                          Tới ngày giỗ mẹ, cậu ba, Nam, Quốc, Liễu đều âm thầm đi mua vài thứ gì đó bày ra trên bàn rồi lặng lẽ nguyện cầu không cần nhang khói.
                          Có lần Sơn nói:
                          - Anh rất biết ơn em, Liễu à! Sự nghịêp anh có được ngày hôm nay phần lớn là nhờ vào công lao của em đấy! Anh hết sức khâm phục em, nhưng anh cũng hết sức nghi ngờ…
                          Liễu mở to mắt, ngạc nhiên:
                          - Anh nghi ngờ em điều gì?
                          Sơn cười:
                          - Anh nghi ngờ… em có phải là tiên nữ trên trời được ngọc hoàng thượng đế phái xuống giúp đỡ anh không nữa!
                          - Đồ quỷ!
                          Liễu vớ lấy cây thước may dập nhẹ vào tay Sơn, Sơn lùi ra xa nói tiếp:
                          - Chứ không phải sao? Bản thân em là một kho bí ẩn. Em nhỏ nhắn, mảnh mai thế này mà sức là việc lại quá dồi dào. Em sống ở đây bao nhiêu năm rồi anh vẫn không biết chút gì về gia đình, quê quán của em. Em như một người từ trên trời xuống để giúp anh!
                          - Anh nói vậy không sợ em phổng mũi bay tuốt lên trời sao? Em là người mang ơn anh mới phải. Nếu ngày ấy anh không nhận em vào làm, chắc giờ này em vẫn còn là con nhỏ bưng bê, rửa dọn trong mấy quán ăn! Còn chuyện riêng của em, anh thật sự muốn biết lắm sao?
                          Liễu hỏi.
                          - Anh thật tình muốn biết, không phải vì tò mò mà là vì… anh muốn hiểu em hơn. Và… như đã có lần anh nói với em, anh rất muốn được san sẻ cùng em mọi nỗi ưu tư trong cuộc sống!
                          Sơn thành thật.
                          Liễu nhắm mắt lại. Quá khứ như cuộn phim chiếu chậm đang lần lượt hiện về trước mắt cô.
                          Và thế là Liễu kể cho Sơn nghe về những ngày tháng khủng khiếp trên cù lao Hàm Rồng, những cái chết bí ẩn, những bóng ma hiện về trong đêm, những nỗi kinh hoàng mà cô từng nếm trải.
                          Liễu kể cho Sơn nghe về quãng đời thơ ấu của mình, về người cha đã ruồng rẫy mẹ con cô, về cơn bão bất ngờ đã xô giạt chiếc tàu có gia đình cô trên đó trở về hải phận Việt Nam… Rồi đám cưới của cô với Trọng không thành, cô kể hết!
                          Câu chuyện Liễu kể không theo một trình tự thời gian nào hết, nhưng cũng khiến Sơn đi từ sự ngạc nhiên này đến nỗi bàng hoàng khác.
                          Có lúc Liễu kể bằng giọng đều đều, dửng dưng như đang nói đến chuyện của một người xa lạ nào đó, hoàn toàn không dính dấp tới cô; có lúc Liễu lại nghẹn ngào, tức tưởi.
                          Sơn chắp nối câu chuyện rời rạc, lộn xộn Liễu kể, và rồi anh hình dung được hết!
                          Anh như nhìn thấy cô gái nhó nhoi, yếu đuối này một mình ngụp lặn giữa đau thương. Hèn gì đã nhiều  năm trôi qua mà cô vẫn chưa lấy lại trọn vẹn tinh thần.
                          Nếu mình là Liễu, chẳng biết mình có đủ sức để sống đến ngày hôm nay không? Sơn tự hỏi mình như thế.
                          - Đám cưới không thành, tình yêu đầu đời tan vỡ khi mẹ vừa mới mất, em tưởng mình đã chết đi lúc đó! nhưng vì em trai em, vì những người thân quanh mình mà em gượng sống, em quyết tâm dẹp hết buồn đau để đứng vững trong đời. Vậy mà… trời ơi! khi khám phá được kẻ gây ra bao cảnh tóc tang, ly tán là ai, em đã không chịu đựng nỗi, em bỏ tất cả để trốn chạy lên đây…
                          Liễu khóc nức nở. Những giọt nước mắt bị dồn nén bao năm qua giờ mặc tình tuôn chảy. Cô khóc đến lịm cả người đi.
                          Sơn để yên cho Liễu khóc. Nước mắt sẽ cuốn theo tất cả thương đau, sầu muộn trong lòng Liễu. Khóc được, cô ấy sẽ nhẹ nhàng hơn.
                          Sơn nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc buông dài của Liễu. Một tình cảm khác lạ đang dâng trào mãnh liệt trong anh. Sơn thầm trách mình lâu nay cứ lo tìm kiếm đâu đâu, một nửa kề bên lại không nhận thấy!
                          Sơn khẳng định với mình, đây chính là người con gái từ lâu anh hằng mong đợi.
                          Sơn kéo Liễu vào lòng vỗ về như đứa bé:
                          - Mọi chuyện đã qua rồi, em đừng lo sợ nữa! Một ngày gần đây anh sẽ đưa em về quê, sẽ may cho em chiếc áo cưới khác đẹp hơn, do chính tay em vẽ kiểu. Em sẽ là một cô dâu đẹp nhất trần đời!
                          Liễu run rẩy:
                          - Anh Sơn, Anh nói gì lạ vậy?
                          Sơn đỡ Liễu ngồi thẳng lên, anh nhìn thật sâu vào mắt cô:
                          - Em đồng ý làm vợ anh nghe Liễu?
                          Liễu bàng hoàng, không tin vào tai mình nữa.
                          Sơn nói tiếp:
                          - Anh thật sự không biết mình đã yêu em từ khi nào, nhưng mấy lúc gần đây anh luôn tự hỏi nếu như một ngày nào đó em rời bỏ nơi này, rời bỏ anh thì anh sẽ sống ra sao? Anh biết mình không thể sống thiếu em được, Liễu ơi!
                          Sơn ôm chặt Liễu vào lòng như sợ nới lỏng vòng tay cô sẽ bay đi mất!
                          Liễu nằm gọn trong vòng tay to khỏe của Sơn, cô không biết mình đang mơ hay tỉnh.
                          Mối tình đầu chắp cánh bay xa, Liễu cứ ngỡ trọn đời mình không thể yêu ai được nữa. 
                          Nhiều năm sống gần bên Sơn và cũng không ít lời ghép đôi, trêu chọc của bạn bè, nhưng Liễu chưa nghĩ đến việc cô và Sơn sẽ có một ngày nào đó thật sự yêu thương nhau.
                          Giờ đây Liễu nghe lòng mình dạt dào xúc cảm.
                          Liễu đã sống qua những ngày tháng cô đơn, trơ trọi giữa cuộc đời. Cô luôn khao khát một mái gia đình hạnh phúc, nhưng khi hạnh phúc đến bất ngờ lại khiến Liễu hoang mang…
                          - Ai như… chị Liễu phải không?
                          Tiếng gọi làm Liễu sực tỉnh, cắt đứt dòng hồi ức trong cô.
                          Liễu  quay nhìn lại vừa lúc thằng Sang thắng xe kin kít ngay ở sau lưng.
                          Nhận ra Liễu, nó mừng quýnh, vứt chiếc xe đạp nằm chỏng kềnh ra đất, lao tới ôm chầm lấy chị:
                          - Trời ơi, chị Liễu! Đúng là chị của em đây rồi! Em tưởng chị không về nữa…
                          Nước mắt Liễu nhòe nhoẹt nhưng cô lại cười rất tươi. Xém chút nữa cô đã không nhận ra Sang.
                          Ngày Liễu ra đi thằng Sang còn là một đứa bé đen nhẻm, gầy như que củi, giờ đã ra dáng dấp một chàng thanh niên khỏe mạnh.
                          Liễu xoa đầu em rối rít:
                          - Em tôi lớn nhanh quá!
                          - Chứ không phải tại chị đi lâu quá mới về sao?
                          Thằng Sang cãi lại, vẻ dỗi hờn. Liễu chợt nghẹn ngào:
                          - Sang à, chị… xin lỗi em…
                          Thằng Sang lại cười toe toét:
                          - Thôi đi, giờ chị về là em vui rồi, em hết giận chị rồi! Em nói thiệt nghe, hồi chị mới bỏ đi em giận chị ghê lắm, giận sao chị không dẫn em theo, giận chị đi mà không thèm nói với em một lời nào cả. Nhưng rồi dần dần khôn lớn, em hiểu ra chắc chị cũng có nỗi khổ tâm gì đó! Ngày ngày em mong chị về, em không còn giận chị lâu rồi!
                          Liễu thấy mắt mình cay xé. Cô nhớ rất rõ ngày ấy mình rời nơi này với tâm trạng đau đớn, hụt hẫng đến dường nào.
                          Nó cúi xuống đỡ xe đạp lên, đón lấy chiếc túi xách từ tay Liễu, nói:
                          - Chị lên xe, em chở về!
                          Liễu vui vẻ ngồi lên. Sang đùa:
                          - Chị ôm cho chắc, em chạy nhanh là chị văng tuốt xuống mương đó!
                          Liễu thấy lòng vui khấp khởi. Trên đường đi thỉnh thoảng lại gặp mấy người quen cũ, ai cũng trầm trồ nhìn Liễu.
                          Ngôi nhà ngói ba gian vẫn rêu phong mái ngói nhưng nay không có vẻ u ám nặng nề. Cổng ra vào mở toang, trong sân nhà trồng thật nhiều loại hoa, màu sắc thật rực rỡ. Trên cây xoài trước sân treo lủng lẳng mấy chiếc lồng chim, một vài con đang cất lên tiếng hót. Lại thêm chiếc xích đu được sơn màu vui nhộn.
                          Tất cả dường như đang trẻ ra, bừng bừng sinh khí!
                          Liễu bỡ ngỡ bước vào nhà. Sang ra vẻ bí mật, nói với bà câm và ông Thúc:
                          - Nhà mình hôm nay có khách, con đố bà với cậu biết ai?
                          Ông Thúc giương đôi tròng mắt đã đục lờ nhìn ra cửa, chỉ thấy dáng người chứ không nhận rõ là ai. Bà câm cũng nheo nheo nhìn mãi.
                          Liễu xúc động mạnh, cô chạy ào tới:
                          - Bà, cậu hai! Con về rồi đây!
                          Ông Thúc run giọng:
                          - Liễu hở cháu? cháu về rồi à?
                          Bà câm cầm tay Liễu nắn bóp liên hồi cho thoả lòng mong nhớ.
                          Liễu sụt sịt khóc:
                          - Con thật có lỗi, bao nhiêu năm qua con không làm tròn bổn phận…
                          Ông Thúc rầy:
                          - Thôi, mọi việc đã qua hết rồi, con đừng khóc nữa!
                          Liễu nhìn quanh, hỏi:
                          - Anh Mạnh đâu rồi, cậu hai?
                          Ông Thúc lặng lẽ chỉ tay lên bàn thờ, khuôn ảnh Mạnh đang cười tươi rói:
                          -Nó… nó đền tội rồi!
                          Ông Thúc nói nhỏ:
                          - Một lần nó lên cơn, tự lao đầu vào song sắt. Người nhà đi làm vườn hết, đến khi phát hiện thì nó đã tắt thở do mất máu quá nhiều.
                          - Thật khổ cho ảnh! Liễu bùi ngùi.
                          - Tất cả cũng do cậu mà ra, nếu năm xưa cậu đừng bày ra việc chôn theo của cải thì đâu có chuyện gì! Cậu hối hận hết sức. Sau ngày cháu đi, cậu với thằng Sang lấy hết của cải dưới mồ lên, dùng tiền đó tu sửa mồ mả cả dòng họ, gởi về Vĩnh Long cho thiếm ba con một số để dưỡng già, chia phần cho con với thằng Sang, còn lại bao nhiêu cậu dùng vào việc làm đường, xây cầu, xây trường học hoặc cho bà con quanh đây mượn không lấy lãi.
                          Ông Thúc quay lại nói với bà câm:
                          - Bà mở tủ lấy giùm tôi cái hộp phần con Liễu.
                          Bà câm lọ mọ đi đến tủ, loay hoay một hồi cầm ra chiếc hộp nhỏ đặt vào tay ông Thúc. Ông đẩy về phìa Liễu:
                          - Đây là phần của con, coi như là của hồi môn, con cầm đi!
                          Liễu từ chối:
                          - Dạ thôi, cứ để đó cậu với bà dưỡng già, cuộc sống của con hiện nay không có gì khó khăn, con không lấy đâu!
                          Thằng Sang nãy giờ dưới bếp, lò dò bước lên hỏi:
                          - Chị Liễu, năm ấy chị lên Sài Gòn làm gì trên đó?
                          - Ừ, giờ đến lượt con kể chuyện của con đi. Lâu nay cậu vẫn không yên tâm về con đó! Mà con cũng tệ lắm, không nhắn một lời nào về cho cậu với thằng Sang… Năm đó con đi cậu không ngăn cản, vì biết nếu ở lại con sẽ sống không có niềm vui. Cậu cứ nghĩ con đi vài ba tháng sẽ quay về, nào ngờ năm này qua năm khác con vẫn như bóng chim tăm cá. Cậu rất hối hận vì đã để con ra đi, nỗi niềm đó cứ ngày đêm vò xé tâm can cậu. Còn thằng Sang, nó chờ đợi con hết ngày này sang ngày khác, rồi tháng rồi năm … Nhiều lúc nghĩ dại, cậu lo con đã gặp phải chuyện gì đó không may. Cậu tuổi già sức yếu không thể đi xa, thằng Sang lại không biết đường sá Sài Gòn nên không cách nào đi tìm con được. Thôi thì đành phó thác cho vận mệnh…
                          Liễu cười buồn, nhớ lại những năm tháng vừa qua. Cô kể:
                          - Hồi mới lên con cực lắm cậu ơi, phải đi rửa chén thuê cho mấy tiệm phở. May mắn có một lần mấy chị thợ may tới ăn , than thở với nhau rằng hàng may nhiều quá mà ông chủ tìm thợ không ra, thành thử họ phải làm ngày, làm đêm vất vả. Nghe vậy, con đánh bạo hỏi thăm, nhờ họ xin giúp với ông chủ. Vậy là ngay chiều hôm ấy họ tới đón con về tiệm để thử tay nghề. Và thế là từ đó con ở luôn trong tiệm. Cuộc sống của con những năm qua không có gì đáng để phàn nàn, có chăng là nỗi day dứt mỗi khi nghĩ tới những người thân yêu còn lại nơi đây.
                          Liễu ngừng lời, nhìn những người thân quanh mình một lát rồi nói tiếp:
                          - Con xin lỗi cậu hai, con đã tự tiện kết hôn mà không hỏi qua ý cậu, mong cậu tha thứ cho con!
                          Ông Thúc ngạc nhiên mừng rỡ:
                          - Con lấy chồng bao giờ? Chồng con làm gì, sao không đưa nó về đây cho cả nhà biết nhau?
                          - Dạ, chúng con đám cưới cách nay mới hơn ba tháng. Chồng con chính là… ông chủ của con! Lẽ ra hôm nay anh ấy cùng về nhưng có việc đột xuất, ảnh phải ghé Long An để giải quyết. Có lẽ sáng ngày mai ảnh sẽ về tới!
                          Thằng Sang hí hửng:
                          - Vui quá ta, em không những tìm lại được người chị thân yêu của mình mà giờ đây lại có thêm ông anh rể. Thôi, chị Liễu ở nhà chơi với cậu hai nghen, để em ra sông kiếm mớ cá đãi anh chị! Dạo này cá lóc nhiều lắm, chị vẫn còn thích món canh chua cá lóc chứ? Tối nay em đi cắm câu thế nào cũng có, mai anh rể về sẽ có thức ăn ngon.
                          Liễu mỉm cười nhìn theo thằng Sang. Ông Thúc nói:
                          - Mấy năm qua nhờ có thằng Sang lo mọi việc trong ngoài. Mà nó giỏi thiệt, giống như thằng Mạnh hồi trước vậy…
                          Biết mình lỡ lời ông Thúc vội vàng im bặt. Lát sau không nghe Liễu nói gì, ông Thúc thở dài nói tiếp:
                          - Ngày con ra đi có dặn cậu giấu kín mọi chuyện không cho thằng Sang biết, nhưng cậu đã không làm theo lời dặn của con. Cậu mong con đừng buồn.
                          Đôi mắt già nua của ông như nhìn vào cõi hư vô:
                          - Hồi ấy, cả xứ này đồn ầm lên những câu chuyện ma quái của nhà ta, làm cho thằng Sang không khỏi hoang mang, thắc mắc. Đã vậy mỗi khi hơi tỉnh trí là thằng Mạnh lại van xin nó tha thứ lỗi lầm. Cậu cũng không dám nhìn thẳng vào mắt thằng Sang. Trong nhà không một ai sống thoải mái! Cuối cùng, cậu kể hết với thằng Sang. Lúc đầu nó cũng bàng hoàng, đau đớn lắm, nhưng rồi nó đã tha thứ cho thằng Mạnh, chăm sóc thằng Mạnh chu đáo hơn trước. Cậu thật xấu hổ vì đã không biết dạy dỗ con mình, để cho nó gây ra bao điều tàn ác, nhưng các con đã rộng lòng tha thứ khiến cậu thấy đỡ bứt rứt phần nào… Chứ nếu các con ngoảnh mặt đi hết chắc cậu không sống nỗi…
                          Liễu nắm tay ông Thúc:
                          - Cậu đừng buồn, ông bà ta thường nói “sanh con há dễ sanh lòng”, những gì anh Mạnh làm hoàn toàn không do cậu xúi giục, cậu cũng chẳng phải người đồng lõa. Tụi con không ai trách giận gì cậu đâu. Tụi con mồ côi mồ cút, chỉ còn lại một người cậu ruột, sao tụi con có thể bỏ mặc chứ!
                          - Vợ chồng con bàn với nhau, lần này về đón cậu, bà và em Sang cùng lên trên ấy, con mong mọi người đừng từ chối! Cậu với bà lên trên đó sống con mới có thể cận kề chăm sóc… Chồng con tính tình rất tốt, ảnh cũng chẳng còn người thân, cậu đừng ngại ngần gì hết! Cậu và bà đi với chúng nghen?
                          Liễu nói thêm.
                          Ông Thúc suy nghĩ hồi lâu mới lên tiếng:
                          - Cậu rất cám ơn vợ chồng con đã quan tâm đến cậu. Nhưng cậu già rồi, không sống được mấy năm nữa. Cậu muốn những năm tháng cuối đời mình được gắn bó với quê hương, muốn ở lại nơi này dùng chút sức lực còn lại để chăm sóc mộ phần, hầu tạ lỗi với tổ tiên vì đã trót sanh ra một đứa con ác độc. Con cứ dắt thằng Sang đi theo để lo tương lai cho nó, phần cậu con đừng bận tâm. Nhìn thấy các con sống yên vui là cậu mãn nguyện rồi, có nhắm mắt cũng được yên tâm.
                          Quay sang bà câm, ông Thúc hỏi:
                          - Còn bà, bà có đi theo chị em con Liễu không?
                          Bà câm xua tay, cười móm mém. Bà đã gắn cuộc đời mình với ngôi nhà này từ thời còn thơ bé. Bà là một đứa trẻ bị bỏ rơi được bà Chín Hoa mang về nuôi nấng.
                          Nhiều năm trôi qua, bà đã chứng kiến bao cảnh thăng trầm, đã lặng lẽ sớt chia với các con bà Chín những buồn vui, no đói. Giờ cuộc sống về già của bà thế này nghĩ cũng vui.
                          Bà được ông Thúc cho một số vàng làm của, đem gởi vào ngân hàng sống không lo đói. Bà lại thường giúp đỡ những người quanh đây nên chắc họ cũng không bỏ rơi bà khi bà cần đến.
                          Lên Sài Gòn làm gì, tù túng lắm! Bà vẫn thường nghe bà Lan thở than như thế!
                          Liễu hết lời thuyết phục nhưng vẫn không lay chuyển được hai người già, cô chỉ còn hy vọng đem được thằng Sang theo.
                          Vậy mà, vừa nghe Liễu đề nghị, thằng Sang  thừ người ra một chút rồi nói:
                          - Thôi, em không đi đâu! Em thích cuộc sống bình lặng ở thôn quê hơn, lên phố chợ ồn ào lắm, em không chịu được. Chị cứ yên tâm, thỉnh thoảng em lên thăm chị hoặc chị về thăm em, vậy là vui rồi!
                          - Em lên đó sẽ có tương lai!
                          Liễu nói.
                          Thằng Sang phì cười:
                          - Nói như chị những người không ở Sài Gòn thì chỉ có hiện tại và quá khứ thôi sao? Theo em, ở đâu cũng vậy, miễn sao mình có ý chí là được. Em mà lên Sài Gòn, chị biểu sẽ đi giăng lưới cắm câu chỗ nào? Thiếu mấy cái đó em buồn chết! Em thì không thể ngồi may vá như chị được đâu.
                          - Anh chị sẽ xin việc làm phù hợp với em!
                          - Những việc ở thôn quê này mới thật sự thích hợp với em, em không thể rời xa nơi này được. Mà thôi, để cho chị yên lòng em xin hứa, bao giờ chán cuộc sống nơi đây em sẽ lập tức lên sống cùng anh chị, chị chịu chưa?
                          Liễu năn nỉ hồi lâu vẫn không ai chấp thuận, cô thở dài không biết nói sao.
                          Chiều hôm ấy Liễu đi thăm hỏi những nhà lân cận. Ai cũng mừng cho cuộc sống hiện tại của cô.
                          Liễu cùng với Sang đi viếng mộ mẹ. Ông Thịnh, mẹ cô, Nam, Quốc, Mạnh nằm cùng một dãy với nhau.
                          Nhìn những ngôi mộ lạnh lùng, trắng toát Liễu không khỏi xúc động. Cô thắp nhang một lượt rồi quỳ trước mộ mẹ, nước mắt chan hòa.
                          Thằng Sang bứt mấy cọng cỏ vừa mới nhú lên quanh chân mộ, an ủi chị ra vẻ như người lớn:
                          - Mỗi người đều có phần số, chị đừng đau buồn thêm nữa! Cái gì đã qua rồi hãy để nó qua luôn! Mẹ mà thấy chị buồn phiền chắc mẹ cũng không vui đâu!
                          Nghe giọng ông cụ non của thằng Sang, Liễu không khỏi tức cười. Cô ngồi sát vào em, lưng tựa vào mộ mẹ, mắt ngó những ngôi mộ kề bên.
                          - Chị không ngờ sau sáu năm chị em mình xa cách, giờ em lại trưởng thành đến thế! Chị rất vui, Sang ạ!
                          Liễu vuốt tóc em trai, nói.
                          Hai chị em ngồi nhắc lại những kỷ niệm đẹp đã qua, mãi đến khi mặt trời khuất sau vườn cây phía trước hai chị em mới thong thả ra về.
                          Trời vừa sụp tối, thanh niên nam nữ trong vùng lũ lượt kéo tới nhà ông Thúc.
                          Thấy Liễu ngạc nhiên, Sang giải thích:
                          - Nhà mình giờ là lớp bổ túc văn hóa đó chị, em cũng đang theo học.
                          Liễu cười, gật đầu chào bọn trẻ rồi ung dung đi dạo quanh sân.
                          Trong nhà, đèn néon sáng trưng vang lên tiếng nói cười, giỡn đùa vui vẻ.
                          Liễu ngồi đong đưa trên chiếc xích đu nghe lòng thư thái lạ.
                          Cô thầm hỏi, không biết lâu nay Trọng sống ra sao, có khi nào anh ấy nhớ đến Liễu không?
                          Nếu có dịp nào gặp lại, mình sẽ nói với anh ấy rằng mình không còn trách hờn gì anh hết, cuộc sống vốn có rất  nhiều điều xảy ra ngoài ý muốn con người…
                          Buồn đau, oán giận tất cả qua rồi, giờ lòng cô thật sự bình yên.
                          Gió đêm thổi mát rượi, vành trăng non lấp ló trên bầu trời chưa đủ sáng để che khuất các vì sao.
                          Muôn vàn ngôi sao lấp la lấp lánh, Liễu đã có sẵn một điều ước trong lòng nhưng chờ mãi vẫn không thấy sao băng…
                          Liễu ngủ quên trên chiếc xích đu lúc nào không biết, đến khi lớp học tan ra, thằng Sang vừa lay chị dậy vừa cười ngắc nghẻo:
                          - Chị Liễu ơi, chị Liễu! Lớn rồi còn ngủ không đúng nơi đúng chỗ, em không ẵm chị nổi đâu nghen!
                          - Ơ… tại gió mát quá… chị ngồi chơi rồi ngủ luôn… Ai cần em ẳm chứ! Nè, bây giờ tự chị đi vào nhà, đâu cần em!
                          Hai chị em vừa đi vừa đùa giỡn.
                          Bà câm, ông Thúc lắng tai nghe cũng phơi phới trong lòng.
                          Sáng hôm sau Sơn về đến. Anh vừa bước lên khỏi đò đã nhìn thấy một cậu thanh niên tươi cười hỏi:
                          - Anh có phải là anh Sơn không? Chị Liễu bảo em đi đón!
                          - Ồ, vậy ra em là Sang à? Nghe Liễu nhắc em hoài nhưng anh cứ nghĩ em còn bé tẹo, không ngờ em lớn thế này rồi!
                          - Anh lên xe, em chở về! Từ đây tới nhà còn xa lắm!
                          - Trời mát, hai anh em mình vừa đi bộ vừa ngắm cảnh cho vui!
                          Sơn đề nghị nhưng Sang không đồng ý:
                          - Không được! Anh muốn ngắm cảnh chiều nay chị Liễu sẽ đưa anh đi, em có bổn phận phải đưa anh về nhà ngay, ở nhà mọi người đang chờ anh. Ai cũng nôn nóng gặp anh hết đó!
                          Sơn giả bộ lè lưỡi:
                          - Ý trời, em đừng làm anh run nghe!
                          Sang cười ngất:
                          - Em khoái anh rồi!
                          - Anh cũng khoái em luôn!
                          Hai anh em nhanh chóng trở nên thân thiết, cả hai vừa đi vừa nói cười rôm rả.
                          Về tới nhà sau khi chào hỏi, chuyện trò, Liễu mời cả nhà ngồi vào mâm cơm với nồi canh chua cá lóc còn bốc khói và món cá rô kho tộ thơm lừng.
                          Sơn hít hà, nói nhỏ với Liễu và Sang:
                          - Chắc anh ở đây luôn quá!
                          - Anh hai thích đi bắt cá không? Chiều nay theo em!
                          Nghe Sang rủ rê, Sơn cười đáp:
                          - Anh rất sẵn sàng!
                          Lâu lắm rồi cả nhà ông Thúc mới có được bữa ăn đông người và vui vẻ như thế. Bà câm cứ rối rít xới cơm cho người này, chan miếng canh hoặc gắp một chút cá cho người kia. Bà vui mừng ra mặt.
                          Cơm nước xong, vợ chồng Liễu về phòng riêng. Nhìn vẻ mặt rạng ngời hạnh phúc của Liễu, Sơn cười:
                          - Nếu biết về đây làm em vui thế này anh đã đưa em về từ lâu rồi!
                          Liễu dụi đầu vào ngực chồng:
                          - Tất cả đều nhờ anh đó! Nếu không có anh, chẳng biết tới bao giờ em mới có can đảm trở lại quê nhà… Anh nói đúng lắm, khi đối diện với sự thật, chấp nhận nó để rồi quên lãng nó thì lòng mình mới thư thả được. Còn cứ trốn chạy như em, mãi mãi vẫn không dứt được!
                          - Thấy em vượt qua được, anh rất mừng! Từ nay gia đình chúng ta sẽ bắt đầu một cuộc sống mới vui tươi hơn, Liễu nhé!
                          Liễu nằm gối đầu trên cánh tay chồng, lắng tai nghe tiếng gà gáy trưa, tiếng ầu ơ ru con từ nhà bên cạnh văng vẳng đưa sang, tiếng gió thổi xạc xào khóm cây ngoài vườn, cô bỗng hiểu tại sao ông Thúc, bà câm và cả thằng Sang không ai chịu theo vợ chồng cô lên Sài Gòn sinh sống.
                          Quê hương thật thanh bình và gần gũi biết bao.
                          Liễu ngủ thiếp đi, trên môi vẫn còn nở nụ cười.
                          * *
                          *
                          Hai hôm sau, Sang tiễn vợ chồng Liễu ra bến đò lúc trời chưa hửng sáng. Ba người tay xách lỉnh kỉnh đủ thứ quà cáp, trái cây.
                          Cỏ bên đường còn ướt sương đêm. Mùi hương ban mai thoang thoảng trong làn gió sớm…
                           Đi ngang qua ngôi nhà mồ Liễu hỏi:
                          - Bầy dơi còn sống trong đó không em?
                          - Dạ không, cậu hai kêu em đuổi chúng đi hết, giờ không còn con nào cả!
                          Liễu ngậm ngùi, thời oan khốc đã qua rồi, giờ đây đứa em bé bỏng của cô đã dẹp hết những tàn tích cũ.
                          Cũng phải thôi, lưu giữ mà làm gì!
                          Sơn dặn dò:
                          - Anh chị đi, ở nhà có việc gì em nhớ nhắn cho anh chị biết. Khi nào muốn thay đổi không khí, anh sẽ về đón em lên chơi.
                          - Dạ!
                          - Cậu và bà lớn tuổi rồi, chị không có ở nhà, em ráng thay chị chăm sóc cho bà và cậu nghe Sang!
                          Liễu bịn rịn. Thằng Sang nhìn chị cười:
                          - Hồi đó chị đi không thèm nói với em một tiếng, sao giờ dặn em đủ thứ vậy?
                          - Bộ em còn giận chị Liễu sao?
                          Sơn hỏi.
                          Thằng Sang cười tít mắt:
                          - Đâu có, em chọc chị ấy thôi! Ai biểu từ hôm qua tới giờ chị cứ dặn đi dặn lại câu đó hoài.
                          Liễu cốc vào đầu em.
                          - Ui da, anh hai xem chị Liễu ăn hiếp em kìa!
                          Sang vờ nhăn mặt.
                          Sơn nhìn hai chị em Liễu, lòng anh cũng thấy vui lây…
                          Đò tách bến, thằng Sang vẫy chào, bắt tay lên miệng làm loa:
                          - Anh chị nhớ về thăm em nghen!
                          Tiếng nó vang vang trong buổi sớm mai làm mấy chú chim nhỏ đang chuyền cành phải nghiêng đầu nghe ngóng.
                          Liễu gật đầu với em mà nước mắt nhạt nhòa.
                          Chồng Liễu nắm chặt tay cô nói khẽ:
                          - Quá khứ đã đi qua, em nên chôn vùi hết những đau buồn ngày cũ, hãy sống vô tư, vui vẻ như thằng Sang, Em nhé!
                          Liễu nép vào Sơn. Cô vẫy chào thằng Sang, nụ cười lại sáng bừng trên khuôn mặt…
                          Dòng sông ngầu đục phù sa lặng lờ trôi chảy. Đám lục bình dập dờn theo từng con sóng nhỏ, mang trên mình những bông hoa tím ngát.
                          Đò đã ra xa bờ. Cù lao Hàm Rồng nhìn xa chỉ thấy một màu xanh ngút mắt.
                          Bất chợt Liễu mỉm cười trước vẻ đẹp của sông nước buổi ban mai.
                          Xa xa, vầng mặt trời đỏ rực từ từ nhô lên, dòng nước trở nên lấp loáng. Cảnh vật xung quanh sáng bừng lên, cả không gian rực vàng ánh nắng.
                          Bình minh lên rồi. Một ngày mới bắt đầu.
                          Liễu tựa vào vai chồng, cô biết mình đang ngập tràn hạnh phúc….
                          Hết
                          Nguyễn Thị Mộng Thu
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.08.2009 16:01:23 bởi nguyenthu >
                          #88
                            nguyenthu 11.08.2009 15:31:51 (permalink)
                            ĐÓA HỒNG ĐÊM SINH NHẬT THỨ 20

                            - Thu ơi, ra bờ sông chơi không?
                            Nghị tay ôm cây ghi-ta ghé phòng tôi rủ rê. Tôi bật dậy:
                            - Ra! Chờ Thu chút nghen!
                            Tôi chảy sơ lại mái tóc, khóa cửa phòng rồi cùng Nghị ra sông. Phòng tôi nằm cuối dãy ký túc xá, gần bờ sông An Phú, chiều thứ bảy nào cũng vắng hoe, đứa đi chơi với “bồ”, đứa về quê, đứa tới nhà bà con để “nạp thêm năng lượng” sau một tuần lễ cặm cụi học hành. Tôi thì chưa có người yêu, nhà ở xa lơ xa lắc, có người cô ở quận 5 nhưng vì tôi không biết đi xe đạp nên cũng ít về chơi trong ấy. “Chiều thứ bảy máu chảy về tim”, bạn bè tôi thường nói vui như thế, nhưng đối với tôi chiều thứ bảy là những chiều buồn nhất, cô đơn nhất. Một mình nằm chèo queo trong căn phòng vắng ngắt, bài vở học không vô, đầu óc cứ lan man nghĩ ngợi chuyện tầm phào.
                            Thi thoảng cũng có đứa không đi chơi chiều thứ bảy, ở lại ký túc xá cùng người yêu thủ thỉ chuyện trò hoặc bày ra nấu nướng để bồi dưỡng cho nhau. Tôi trở thành kẻ thừa thải, và những lúc như thế tôi thường lang thang ra bờ sông hứng gió.
                            Ngoài bờ sông có một ngôi nhà trẻ xinh xắn nhưng chỉ giữ con nít buổi sáng, buổi chiều sinh viên ở khu ký túc xá này thường ra đây học bài, có đứa còn ngủ trưa ở đây để tránh cái nóng hầm hập từ mái tôn dội xuống. Đặc biệt vào những đêm trăng, đây là nơi lý tưởng để chuyện trò tâm sự, để mơ mộng viễn vông.
                            Đối diện với nhà trẻ là ngôi biệt thự một tầng lầu, dưới sân có trồng mấy cây xoài mùa này lúc lỉu những chùm trái xanh, bọn tôi vẫn thường nhìn mà… nuốt nước miếng cho đỡ thèm! Xung quanh nhà, cỏ với những bụi hoa hồng mọc chen chúc nhau, cao quá gối. Nghe những người dân ở đây kể lại rằng, bà chủ nhà này còn một ngôi nhà khác lớn hơn ở trong Sài Gòn, sở dĩ bà mua ngôi biệt thự nơi heo hút này là để cho anh Thông – con trai út của bà tịnh dưỡng.
                            Hồi mới nhập học, chúng tôi đã một phen hú vía vì anh ấy. Bữa đó, sau khi nghe nhà trường thông báo một số nội quy, chúng tôi được hướng dẫn về ở khu ký túc xá trong Làng Báo. Phòng tôi có tám đứa con gái, đều từ các làng quê heo hút mới lên thành phố. Chúng tôi mỗi đứa một tay đang dọn dẹp, bỗng từ ngoài cửa một người đàn ông ngang nhiên đi vào, nhìn chúng tôi cười cười. Ngỡ là quản lý ký túc xá tới kiểm tra, cả tám đứa đều ngoan ngoãn gật đầu chào, nhưng anh ta không thèm đáp lễ, cứ đi tới đi lui trong phòng rồi đột ngột bỏ đi ra.
                            - Người đâu mà mất lịch sự quá! Hằng làu bàu.
                            Chiều, Hương đang tắm, người đàn ông ấy lại xuất hiện cũng vừa cười, vừa xồng xộc đi xuống nhà sau, nơi có cái nhà tắm mà cửa không khóa được.
                            - Chú ơi, có người trong nhà tắm, chú đừng xuống đó!
                            Mặc những lời cản ngăn của Nguyệt, anh ta đẩy mạnh cửa làm hồn vía bọn tôi bay hết lên mây, cũng may lúc đó Hương đã quần áo chỉnh tề rồi. Tuy vậy Hương vẫn tức điên lên, nó cất giọng Huế nặng trịch:
                            - Mời chú lên phòng quản lý để giải quyết chuyện ni!
                            Anh ta cười hí hí, dập gót đưa tay chào Hương theo đúng kiểu nhà binh:
                            - Gút – bay, ngày mai dậy sớm!
                            Cả tám đứa đều sửng sờ, vừa buồn cười, vưa lo sợ.
                            Mỗi ngày anh Thông ra vào phòng tôi không biết bao nhiêu lần mà kể, có khi vừa ra tới ngõ anh lại quay vào. Ban đầu chúng tôi sợ lắm, nhưng dần dà cũng quen. Vả lại anh rất hiền, chẳng phá phách chọc ghẹo ai, ngoài việc đi lung tung trong phòng và thỉnh thoảng nói một vài câu ngớ ngẩn. Để đảm bảo “ an ninh”, chúng tôi làm lại cái then cửa thật chắc chắn.
                            Một lần, mẹ anh Thông đến, vẻ áy náy:
                            - Xin lỗi các cô, con tôi có làm phiền gì các cô? Nếu có, tôi sẽ khóa cổng không cho nó ra khỏi nhà!
                            - Dạ thưa Bác, anh Thông đâu có làm gì phiền tụi con. Bác cứ để ảnh tự do, đừng bó buột quá e không tôùt cho sức khỏe của ảnh.
                            Hằng đại diện cả phòng nói với mẹ anh Thông như thế. Bà cảm động lắm, hết cầm tay đứa này lại xoa tóc đưa kia.
                            - Bác cảm ơn các cháu, các cháu tốt quá! Nó hiền lành lắm, các cháu đừng sợ, nhưng nếu có gì các cháu cho bác hay, bác sẽ…
                            Anh Thông hiền thật, nhiều lúc tôi thấy anh ngoan và dễ bảo như một đứa con nít. Những khi rãnh rỗi chúng tôi chuyện trò với anh, mà chủ yếu là chúng tôi nói, còn anh chỉ cười, nụ cười hình như luôn gắn trên môi anh. Nhưng những lúc bận rộn bài vở, chẳng ai đoái hoài gì tới anh, một mình anh ra vào lặng lẽ.
                            Bọn con trai lớp tôi dạy anh nói mấy câu tiếng Nga khi lớp tôi bắt đầu học Nga văn. Anh chăm chỉ lắm, học được tiếng nào là suốt ngày lẩm bẩm nói đi nói lại: “bờ-rát bui-che” (xin chào), “đa” (vâng), “nhét” (không)… Tuần rồi nhỏ Thủy còn dạy cho anh “ hap-py bớt-đê” để chúc mừng sinh nhật nó.
                            Tối nay, tôi với Nghị ra bờ sống đã thấy anh ngồi lù lù trên ghế đá. Nhận ra chúng tôi, anh dịch người sang một bên nhường chỗ, bất ngờ thấy cây ghi-ta trong tay Nghị, anh hồ hởi bảo:
                            - Đàn đi! Hát đi! Hát “ Cháu lên 3” đi!
                            Nghị thân mật vỗ vai anh:
                            - Được rồi, bây giờ Nghị đàn và hát cho hai người nghe nha, nhưng không hát “ Cháu lên 3” đâu, bài hát đó dành cho con nít, mình lớn rồi phải hát bài người lớn chứ!
                            - Mình lớn rồi hả? Anh ngô nghê hỏi lại.
                            - Ừ, lớn lắm rồi !
                            Nghị búng nhẹ vào mấy sợi dây đàn, quay sang hỏi tôi:
                            - Thu thích bài gì?
                            - Bài gì Thu cũng thích! Tôi thờ ơ đáp .
                            - Vậy thì… “ Triệu đóa hoa hồng”, nhé!
                            - Ừ, anh Nghị hát đi!
                            Tiếng ghi-ta bập bùng, tiếng hát của Nghị lúc thiết tha day dứt, lúc sôi nổi nồng nàn khiến tâm trí tôi chơi vơi, buồn rũ. Tội nghiệp cho anh chàng họa sĩ si tình đã bán hết gia tài để mua những đoá hồng đỏ thắm tặng người yêu nhưng lại không được nàng biết đến, và hạnh phúc thay cho cô gái được chàng yêu! Ước gì trên đời này có một người yêu thương tôi, yêu thương bằng một phần nhỏ tình yêu cuồng nhiệt của anh chàng họa sĩ kia thôi, tặng cho tôi một đóa hồng thôi chắc tôi cũng sẽ sung sướng lắm. Ngày trước, cũng có một người yêu tôi nhưng người ấy có thật lòng không nhỉ? Một mối tình đến rồi đi, hư ảo như một giấc mơ, chẳng có gì sâu sắc nhưng sao cứ âm ỉ sống trong tôi, để những chiều thứ bảy quạnh buồn tôi cứ phải lê la ra ngồi bên bờ dòng sông này để tưởng nhớ tới một dòng sông khác.
                            Giờ đây, tôi bỗng thấy nhớ cồn cào, không hẳn là nhớ quê, nhớ nhà, cũng không hẳn là nhớ một người nào đó, chỉ biết rằng trong lòng tôi, lúc này, có một cái gì đó như đã dồn nén từ lâu, giờ chỉ chợt vỡ ra…
                            Nghị vẫn say sưa hát, bài hát về tình yêu, về những bông hồng đỏ thắm. Bất chợt anh Thông rời ghế đá, đến bên khóm hồng trước cổng ngắt lấy một bông, chìa ra trước mắt tôi và nói :
                            - Hap-py bớt-đê!
                            Nghị cười vang. Tôi run run nhận lấy bông hoa anh tặng và chợt nhớ đêm nay là đêm mười một tháng mười một, tôi vừa tròn hai mươi tuổi .
                            Nước mắt tuôn ra, tôi gục xuống, nức nở …
                            Nguyễn Thị Mộng Thu

                            #89
                              nguyenthu 11.08.2009 20:16:55 (permalink)
                              NHỮNG MÙA NOEL BUỒN
                               
                              Khi những ngọn gió mùa đông bắc tràn về trên khắp mọi ngã đường, mọi ngõ ngách. Khi đâu đó chan hòa nắng ấm, thấp thoáng ẩn hiện một vài chiếc áo len, và nhất là khi những cây thông Noel, những món quà giáng sinh, những vật trang trí cho đêm thánh lễ thêm phần rực rỡ được bày bán là lòng em lại không sao quên được, là nỗi đau trong em lại trỗi dậy sau bao nhiêu ngày tháng em cố lãng quên, cố vùi chôn dưới những bộn bề lo toan của cuộc sống, những bổn phận, những trách nhiệm mà em phải đeo mang trong vai trò làm vợ…
                              Anh ơi…
                              Anh còn nhớ không? Đã có những mùa Noel thật ấm áp cho chúng ta, khi tay trong tay mình dìu nhau bước giữa dòng người đông đúc trong đêm Chúa giáng sinh.  Tiếng chuông thánh đường ngân nga, đôi trái tim chúng mình cùng hòa nhịp… Em đã nhắm mắt nguyện cầu bên máng cỏ, cầu Chúa cho tình của đôi mình mãi mãi keo sơn…
                              Nhưng anh ơi… có lẽ lời nguyện cầu của em chưa đủ thành tâm, hay vì đêm Noel có quá nhiều lời cầu nguyện nên Chúa hài nhi đã không nghe được lời thì thầm của trái tim em?
                              Chúng mình xa nhau… xa nhau khi mùa xuân vừa kịp về tới ngõ, xa nhau khi cây thông Noel hôm nào ở nhà ai còn xanh mướt gọi mời… Chúng mình xa nhau không một lời trách hờn giận dỗi, không một câu nói nặng nề… Mà chỉ có nước mắt… nước mắt em rơi… nước mắt anh rơi…
                              - Mỗi năm, khi đến ngày Noel, anh sẽ vẫn chờ em nơi mình vẫn thường hò hẹn, nếu em nghĩ lại, nếu em muốn quay về với anh thì em hãy đến…
                              Đó là lời anh nói với em trước khi quay bước…
                              Em chơi vơi hụt hẫng, em ngơ ngác đau buồn… nhưng rồi, dòng đời đã cuốn phăng em đi, neo buộc em vào một bãi bờ xa lạ, không phải là anh…
                              Ngày em mặc áo vu quy cất bước theo chồng, trời mới lập đông. Những ngọn gió đầu mùa không đủ lạnh để xua tan cái nóng nực của phương Nam, nhưng cái nắng phương Nam cũng không đủ ấm để xua đi những tảng băng nặng nề đang kết tụ giữa lòng em…
                              Lấy chồng rồi em vẫn không thôi nhớ nghĩ về anh, vẫn không thôi nôn nao mỗi khi đi qua những con đường quen thuộc từng in dấu chân hai đứa của một thời yêu thương tha thiết…
                              Người người nô nức chờ đón ngày Chúa giáng sinh. Em cũng nô nức mong chờ…
                              Em đi mua cây thông, mua thật nhiều đồ vật trang trí… Suốt mấy ngày trời em dành hết thời gian và tâm trí của mình vào việc trang hoàng một góc Noel… góc Noel cho riêng mình…
                              Đêm Noel đầu tiên sau ngày lấy chồng, em thoái thác lời rủ rê của chồng mà tìm cách ra khỏi nhà một mình, lang thang một mình đến nơi hẹn cũ…
                              Dòng người qua lại ồn ào, nhưng hình như chẳng có một ai đơn lẻ như em…
                              Em co ro dù trời không rét mướt, em đứng nép vào lề đường, nhường lối cho bao nhiêu cặp tình nhân ríu rít đi qua…
                              Bất chợt, em hoảng hốt khi có ai đó khẽ chạm vào em…
                              Ngỡ ngàng em nhận ra anh!
                              Anh vẫn như xưa, vẫn đôi mắt u buồn nhìn em trìu mến…
                              - Em sống thế nào? Hạnh phúc không em? Tay em lạnh lắm rồi nè…
                              Bàn tay anh siết chặt tay em, giọng nói anh ân cần và thật ấm.
                              Em chỉ muốn được như ngày xưa… không, được như mùa Noel năm trước, em sẽ lại ngã đầu lên vai anh, sẽ lại vùi mặt mình vào khuôn ngực ấm áp của anh và sẽ kéo tay anh chạy thật nhanh đến hàng bắp nướng. Chúng mình sẽ vừa ăn, vừa xuýt xoa vì ngon và vì không khí ấm áp…
                              Nhưng bây giờ thì… không thể được! Ngay cả bàn tay em trong tay anh vẫn có chút gì đó gượng gạo không bình thường…
                              Mình đứng sát bên nhau, hơi thở anh thỉnh thoảng lại phả vào em thân thiết… mình nói những câu chuyện đời thường đâu đâu, mỗi đứa đều tránh nhắc tới hoàn cảnh hiện tại.
                              Rồi anh đi, không quay nhìn lại… Em nuốt nước mắt vào lòng lặng lẽ trông theo…
                              Lại một mùa Noel nữa đến kìa anh, em lại một mình đứng chờ anh bên lối hẹn ngày xưa…
                              Khuya lắm rồi mà sao anh vẫn chưa đến? Em run rẩy thu mình trong chiếc áo khoác mỏng manh mà lúc nãy khi rời khỏi nha,ø chồng em đã nhắc em phải khoác vào cho ấm.
                              Người xe trên phố thưa dần, lòng em cũng dần rệu rã…
                              Nhưng kia rồi, anh đang tới…
                              Anh chạm khẽ vào tay em, mỉm cười hỏi nhỏ:
                              - Chồng em đâu?
                              Sự va chạm giữa hai bàn tay rất khẽ và rất nhanh, nó không đủ để anh cảm nhận được đôi bàn tay em đang tê cóng…
                              Em chưa kịp trả lời anh, cũng chưa kịp hỏi anh điều gì thì anh đã vội gật đầu chào em và bước đi thật nhanh, đi về một hướng khác… Em thầm hỏi, ở cuối con đường kia, có người con gái nào đang chờ đợi anh không?...
                              Em buồn, buồn vô cùng! Em tự hứa với mình, đây là lần cuối cùng em một mình giữa đêm Noel… Sẽ không bao giờ em tìm đến nơi này mà trông chờ anh nữa…
                              Thế nhưng… ba trăm sáu mươi lăm ngày, ngày nào em cũng nhớ về anh, ngày nào cũng khắc khỏai đợi chờ đêm Noel, dù chỉ để được nhìn thấy anh, được chạm thật khẽ vào bàn tay mình yêu mến…
                              Mùa Noel thứ ba sau ngày em lấy chồng…
                              - Mẹ ở nhà đón Noel với con, với ba nghen mẹ?
                              Đứa con gái bé bỏng ngước nhìn em, mắt nó tròn vo trao cho mẹ ánh nhìn hy vọng. Chồng em cũng ngước nhìn em nay vẻ chờ đợi…
                              Em mỉm cười xoa đầu con gái:
                              - Mẹ chỉ đi một chút mà thôi! Một chút thôi mẹ sẽ quay về…
                              … Dòng người ào ạt tiến vào nhà thờ, đường phố trở nên trống trải….
                              Chuông thánh đường ngân nga báo hiệu giờ Chúa giáng sinh…
                              Nước mắt em thánh thót rơi như linh cảm một điều gì đó đã thật sự rời xa em, rời xa em mãi mãi…
                              Lễ tan, người ta về hết, đường phố lặng lẽ buồn tênh…
                              Em lê từng bước chân nặng nề quay về với mái ấm của mình mà có cảm giác máu trong tim em như đã đông cứng lại…
                              Anh đã không đến, anh đã không đến thật rồi!
                              Em biết từ đây em thật sự mất anh!
                              Biết rằng mình ích kỷ, nhưng anh ơi… em vẫn không sao làm chủ được con tim mình!
                              Từ bây giờ, mỗi một đêm Noel, em sẽ không ra đường nữa, em sẽ ở nhà và tự treo mình lên cây thập giá, anh ơi…
                              Lời con nguyện cầu Chúa có nghe không?
                              Sao bây giờ mình hoài xa vắng?
                              Bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian
                              Bấy nhiêu lần con nhớ người yêu…
                              Hết
                              Nguyễn Thị Mộng Thu

                              #90
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 7 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 99 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9