Quân Vương (bản dịch khác) - Niccolò Machiavelli - HẾT
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 32 bài trong đề mục
Sun Ming 12.09.2009 08:32:24 (permalink)
Dich thuật: Vũ Mạnh Hồng & Nguyễn Hiền Chi
Nguồn: http://www.giaodiemonline.com/2007/04/quanvuong.htm

QUÂN VƯƠNG
 
The Prince: http://www.constitution.org/mac/prince00.htm

(THUẬT TRỊ NƯỚC)

 
  
 “Bậc quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú: biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẩy, còn cáo thì lại không thể chống lại sói. Vì thế cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẩy và là sư tử để dọa sói.”
                                                                                                                                              Niccolò Machiavelli
 
LỜI NHÀ XUẤT BẢN :
 
 
Niccolò Machiavelli (1469-1527) là một nhà chính trị thực tiễn, nhà văn, nhà sử học, nhà tư tưởng vĩ đại người Italia.
 Với khối kiến thức đồ sộ do thừa hưởng giáo dục của một gia đình có nguồn gốc quí tộc, với niềm đam mê trí thức mãnh liệt và nhãn quan chánh trị nhạy bén, Machiavelli đã viết lên nhiều công trình chính luận sâu sắc về nhà nước, chính trị, pháp luật… Trong số đó, cuốn Quân Vương (The Prince) là công trình nổi tiếng nhất.
Suốt mấy thế kỷ qua, dưới nhiều ngôn ngữ khác nhau, Quân vương không ngừng thu hút sự quan tâm của hàng triệu độc giả trên thế giới, gây ra nhiều tranh luận và thậm chí có khi bị chỉ trích kịch liệt. Cho đến nay, nhiều hướng tiếp cận đối với tác phẩm Quân vương cũng như toàn bộ di sản Machiavelli chưa hề thỏa mãn nhu cầu của công chúng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu các giá trị tư tưởng nhân văn của ông và dường như thách đố khả năng khám phá và sự sáng suốt của các nhà nghiên cứu và đông đảo độc giả.
Cty sách Alpha và nhà xuất bản Lao động-Xã hội trân trọng giới thiệu tác phẩm Quân vương tới bạn đọc với bản dịch của các dịch giả Vũ Mạnh Hồng & Nguyễn Hiền Chi.
Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp phê bình của bạn đọc.
                                                                                                        NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG-XÃ HỘI.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.09.2009 12:47:42 bởi Sun Ming >
#1
    Sun Ming 12.09.2009 08:34:16 (permalink)
    LỜI GIỚI THIỆU
     
        Machiavelli là người bạn, là người cùng thời với Leonardo Da Vinci. Nếu như ngay từ thế kỷ 16, thiên tài Leonardo Da Vinci đã đưa ra những nguyên tắc cơ sở của máy bay trực thăng và tàu ngầm thì Machiavelli còn nghĩ ra những nguyên tắc cơ sở của thứ vũ khí nguy hiểm hơn gấp bội – vũ khí chính trị, với tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Quân vương.
       Quân vương chủ yếu nói về thuật trị nước và thuật hưng quốc, là cẩm nang để nhà cầm quyền củng cố địa vị, quyền lực với vấn đề trung tâm là bàn về thủ đoạn chính trị. Đây là cuốn sách kinh điển, chuyên luận bàn về nhà nước, phẩm chất và các thủ thuật chính trị của những người đứng đầu nhà nước. Có thể nói, Quân vương là tác phẩm đầu tiên đặt nền tảng cho ngành chính trị học hiện đại.
        Quân vương là kết quả của những đêm lạnh lẽo, Niccolò Machiavelli ngồi suy tư miệt mài và hy vọng đặt vào đó nỗi niềm của một con người có lòng yêu nước nồng nhiệt với mong ước thống nhất nước Italia và xây dựng một quốc gia hùng mạnh. Suy nghĩ của ông là suy nghĩ của một con người có kinh nghiệm thực sự, là kết quả của việc đọc vô số các tác phẩm chính trị và lịch sử.
        Sống trong thời kỳ khi trật tự chính trị cũ kỹ của châu Âu đang tan vỡ, những vấn đề mới đang nảy sinh và nhiều biến động mạnh mẽ đang diễn ra trong xã hội, Machiavelli cố gắng lý giải ý nghĩa logic của các sự kiện để dự đoán những điều không thể tránh khỏi và để hình thành những luật lệ chi phối mọi hoạt động chính trị đang diễn ra trong bối cảnh hình thành một quốc gia.
        Bằng những nỗ lực đầy trí tuệ của các dịch giả tác phẩm này, chúng tôi hy vọng rằng độc giả Việt Nam sẽ cảm thấy thích thú khi biết đến tư tưởng của con người là hiện thân của tinh thần nhân văn cao cả của thời đại Phục Hưng của thế kỷ 15-16. Qua tác phẩm này, độc giả sẽ nghĩ suy về thực trạng xưa, nay để rồi có thể sẽ ít nhầm lẫn hơn khi đối mặt với những gì thuộc về đương đại.
     
    Hà Nội, tháng 1/2005
    Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Đào
    #2
      Sun Ming 12.09.2009 08:49:37 (permalink)
      VỀ TÁC GIẢ & TÁC PHẨM
       
                             
                Niccolò Machiavelli sinh ngày 3 tháng 5 năm 1469 tại thành phố Florence, Italia. Người ta biết rất ít về tuổi thanh xuân của Machiavelli nhưng một điều chắc chắn là ông đã được thừa hưởng nền giáo dục về văn hóa, lịch sử Hy Lạp và La Mã.
                  Khi Machiavelli còn trẻ, Italia đang chia thành 5 vương quốc lớn: Vương quốc Naples ở phía Nam, Công quốc Milan ở Tây Nam, nhà nước cộng hòa Venice ở Tây Bắc, Cộng hòa Florence và nhà nước của giáo hội ở miền Trung. Khi đó, Florence đang trong giai đoạn huy hoàng dưới sự cai trị của gia đình Medici đầy uy quyền với người đứng đầu là Lorenzo de Medici. Khi đó, Florence là một thành phố giàu có, sôi động, là trung tâm của nghệ thuật và tri thức, còn Lorenzo như thể một mạnh thường quân.
                  Nhưng đến năm 1494 gia đình Medici bị lật đổ, và bị thay bằng một chính quyền cộng hòa chịu nhiều ảnh hưởng của Girolamo Savonarola, một giáo sĩ dòng tu Đa Minh mới gây được uy tín.
                  Năm 1498, chính quyền chịu ảnh hưởng của Savonarola lại sụp đổ và một chính quyền cộng hòa mới ra đời ở Florence, còn Machiavelli được bổ nhiệm  vào chức vụ bộ trưởng ngoại giao khi mới 29 tuổi. Trí tuệ tuyệt vời và lòng nhiệt huyết của Machiavelli đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các chính khách Florence lúc bấy giờ. Chỉ sau đó một tháng, ông đã được bầu làm thư ký Hội đồng quân sự và ngoại giao. Với vai trò như một sứ thần, ông đã đi khắp các vương quốc trên lãnh thổ Italia cũng như các đế chế lớn của Châu Âu để thương thảo với các đồng minh tiềm năng, thu thập thông tin và đồng thời là người phát ngôn của Hội đồng về những chính sách đối ngoại của Florence.
                  Trong suốt 14 năm phụng sự nền cộng hòa Florence, Machiavelli đã có dịp tiếp xúc nhiều chính khách nổi tiếng và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử. Ông đã tiếp kiến nữ bá tước Caterina Sforza (năm 1499), vua Louis VII nước Pháp (trong các năm 1500, 1504, 1510 và 1511), Cesare Borgia (vào các năm 1502 và 1503), Pandolfo Petrucci (vào các năm 1503 và 1506), Giáo hoàng Julius II (vào các năm 1503 và 1506), và hoàng đế Maximilian II (từ năm 1507 tới 1508). Các sứ mệnh ngoại giao này cùng với kinh nghiệm về chính sách đối ngoại đã hình thành nên nhiều nguyên lý mà ông đã thể hiện trong tác phẩm Quân vương, còn những nhân vật nổi tiếng ông được tiếp xúc đã trở thành những tấm gương và bài học trong tác phẩm này.
                  Ông cũng trở thành người bạn của Piero Soderini, người được bổ nhiệm làm gonfaloniere (người đứng đầu chính phủ Florence) vào năm 1502. Do quá chán nản trước sự kém cỏi của đội quân đánh thuê mà chính phủ Florence sử dụng, ông đã thuyết phục Soderini hậu thuẫn việc xây dựng quân đội quốc gia của Florence bất chấp những ý kiến phản đối của giới qúy tộc Florence. Machiavelli đã đứng ra tuyển chọn, đào tạo và tập luyện cho đội quân này. Vào năm 1509, sự sáng suốt của ông đã được minh chứng khi quân đội Florence giành được quyền kiểm soát thành phố láng giềng Pisa sau một cuộc chiến kéo dài suốt 15 năm. Thành công này đánh dấu một bước tiến trong sự nghiệp của Machiavelli.
                  Là một đồng minh trung thành của nước Pháp, Florence đã đối đầu với Giáo hoàng Julius II người đang tìm cách đánh đuổi quân Pháp ra khỏi đất Italia. Giáo hoàng Julius II đã kêu gọi sự trợ lực của đồng minh Tây Ban Nha để lật đổ chính quyền của Soderini. Năm 1512, quân đội quốc gia Florence của Machiavelli bị đội quân Tây Ban Nha thiện chiến đánh bại tại thành phố Prato, và Soderini buộc phải từ chức. Gia đình Medici trở lại nắm quyền ở Florence và Soderini bị tống giam. Vì là người ủng hộ chính quyền của Soderini, Machiavelli bị bãi chức và bị cấm rời khỏi lãnh thổ Florence.
                  Vài tháng sau, hai thanh niên bất mãn với chính quyền bị bắt cùng với danh sách những kẻ âm mưu chống lại gia đình Medici. Trong đó có tên của Machiavelli. Dù không có dấu hiệu nào chứng tỏ ông có liên quan, nhưng Machiavelli vẫn bị tống giam và tra tấn. Từ trong tù, ông đã viết hai bài thơ xô-nê gửi Giuliano de Medici để xin can thiệp nhưng không có kết quả. Tuy nhiên, nhân đợt ân xá khi người chú của Giuliano là Giovanni được bầu làm Giáo hoàng Leo X vào tháng Ba năm 1513, Machiavelli được tha và ông lui về sống tại một trang trại nhỏ ở quê nhà. Trong thời gian này, ông viết nhiều thư cho người bạn thân là Francesco Vettori, một nhà ngoại giao Florence được bổ nhiệm giữ chức đại sứ tại thành Rome để nắm bắt thông tin của thế giới bên ngoài và hy vọng Vettori có thể tiến cử ông cho nhà Medici. Trong hoàn cảnh bức bách đó, ông đã viết cuốn Quân vương (Il Principe). Tác phẩm này chắt lọc những nhìn nhận của ông về bản tính con người, nghệ thuật lãnh đạo cũng như chính sách ngoại giao. Ông dâng tặng nhà Medici tác phẩm này nhằm chứng tỏ sự tận tâm  của mình nhưng không thành công. Cho tới năm 1515, nhà Medici vẫn không để mắt tới ông và sự nghiệp ngoại giao của ông đã chấm dứt.
                  Trong suốt mười năm sau đó, vì không được tham gia chính sự, Machiavelli chuyển hướng sang sáng tác. Trong giai đoạn này, ông đã viết một tác phẩm về nghệ thuật chiến tranh, đúc rút từ kinh nghiệm của một người tổ chức lực lượng quân đội  và một bình luận về tác phẩm của nhà sử học La Mã cổ đại Livy. Thông qua việc xem xét các ghi chép của Livy về nền cộng hòa La Mã, Machiavelli đã luận bàn chi tiết khái niệm chính phủ cộng hòa. Trái ngược với cuốn Quân vương, một tác phẩm ủng hộ nền quân chủ và thậm chí là quân chủ chuyên chế, cuốn Luận bàn về Livy thường được trích dẫn như một bằng chứng về sự nhiệt thành của Machiavelli đối với thể chế cộng hòa. Ông cũng sáng tác thơ ca và ba vở hài kịch.
                  Các tác phẩm của ông đã thu hút được sự chú ý của Hồng y Giáo chủ Giulio de Medici, người đã nắm quyền ở Florence một vài năm và nhờ đó, ông đã được giao nhiệm vụ viết về lịch sử của Florence. Ông viết cuốn Lịch sử Florence từ năm 1520 tới năm 1524. Năm 1523, Giulio được bầu làm Giáo hoàng Clement VII và Machiavelli đệ trình cuốn Lịch sử Florence cho giáo hoàng vào năm 1525. Sự giảng hòa với nhà Medici đã giúp Machiavelli được tham gia chính sự trong một thời gian ngắn. Ông được giao trách nhiệm phụ trách các vấn đề quân sự tại Florence cho Giáo hoàng. Tuy nhiên, Giáo hoàng Clement mắc mưu kẻ thù và thành Rome bị bị quân đội Tin lành của Đức cướp phá. Sự cố này đã khiến cho người dân Florence làm cuộc lật đổ nhà Medici vào năm 1527. Machiavelli, người suốt đời ủng hộ và bảo vệ nền cộng hòa Florence, lại một lần nữa không gặp may vì bị những người cộng hòa nghi ngờ là cấu kết với nhà Medici. Tuy nhiên, ông không phải tiếp tục chứng kiến định mệnh trớ trêu của mình bởi ông qua đời sau một trận ốm vào tháng 6 năm 1527.
                  Quân vương là tác phẩm nổi tiếng nhất của Machiavelli nhưng không được xuất bản khi ông còn sống mặc dù được lưu hành rộng rãi dưới hình thức các bản chép tay. Quân vương được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1532, với sự cho phép của Giáo hoàng Clement VII. Trong vòng 20 năm sau đó, tác phẩm này đã được tái bản bằng tiếng Italia tới 7 lần. Nhưng đến năm 1559, tất cả các tác phẩm của Machiavelli bị đưa vào “Danh mụch sách cấm” của Giáo hội cơ đốc giáo vì bị coi là tà giáo. Điều đó không làm ảnh hưởng với sự lan truyền của cuốn sách và Quân vương đã sớm được dịch sang tất cả các thứ tiếng quan trọng của châu Âu. Ngày nay, Machiavelli tiếp tục được công nhận là một trong những nhà tư tưởng chính trị hiện đại và là một nhà bình luận sắc sảo về tâm lý học và nghệ thuật lãnh đạo.
                  Tên  tuổi  và  ảnh  hưởng  của Machiavelli
                  Các tác phẩm của Machiavelli, đặc biệt là cuốn Quân vương, đã nổi tiếng trong suốt gần 5 thế kỷ và thậm chí, tên tuổi của Machiavelli trở nên quen thuộc với hàng triệu người chưa từng đọc các tác phẩm của ông nhưng đối với rất nhiều người, ông bị chỉ trích là một kẻ rao giảng loại chính trị vô đạo đức và là đồng lõa của quỷ dữ.
                  Còn Francis Bacon (1561-1626) đã nhận xét: “Chúng ta chịu ơn Machiavelli và những tác giả đã viết về những điều mà con người làm chứ không phải điều con người nên làm”. Sự nhìn nhận  đúng đắn về Machiavelli như một người quan sát và miêu tả chân thực bản tính của con người đã đem lại cái nhìn tích cực hơn rất nhiều về tầm quan trọng và giá trị của ông.
                  Mặc dù đối với phần đông mọi người, Machiavelli vẫn bị mang tiếng xấu là một kẻ thủ đoạn, nham hiểm, phản trắc nhưng hầu hết các tác giả đương đại đều coi ông là người sáng lập ra hệ tư tưởng chính trị học hiện đại.
                  Thomas Hobbes (1588-1679), nhà lý luận chính trị có ảnh hưởng rất lớn và là người chủ xướng luận thuyết cơ bản về chế độ quân chủ chuyên chế, đã sử dụng những nhận xét cay nghiệt của Machiavelli về bản tính mưu mô, quỷ quyệt của con người để đưa ra yêu cầu về một chính quyền mạnh nhằm giữ cho các cá nhân không làm hại nhau và tránh cho sự suy thoái của xã hội. Trong cuốn Quân vương, Machiavelli đã sử dụng  nhuần nhuyễn phương pháp đưa ra các kết luận trên cơ sở những ví dụ trong lịch sử cũng như trong thời đại của chính ông và đây đã trở thành phương pháp nghiên cứu khoa học chính trị hiện đại. Ngay cả Montesquieu (1689-1755), tác giả cuốn Tinh thần pháp luật (1748) cũng chịu nhiều ảnh hưởng của phương pháp này.
                  Machiavelli không chỉ có ảnh hưởng rất lớn tới tư tưởng chính trị mà còn trực tiếp tác động tới những hành động chính trị. Những nhà phê bình có thái độ thù địch với Machiavelli cho rằng, những nhà cai trị độc tài như Napoleon I và Adolf Hitler đã coi Quân vương là cuốn cẩm nang để tranh giành quyền lực.
                  Tuy nhiên, hầu hết các học giả đã coi lời buộc tội này là một sự hiểu lầm cơ bản. Mục đích của Machiavelli là miêu tả những thực tế của đời sống chính trị chứ không phải để tạo ra những bạo chúa. Một điều chắc chắn là rất nhiều chính khách đã đọc cuốn Quân vương và học hỏi được rất nhiều từ tác phẩm này. Nhưng nếu những sự thật mà Machiavelli phơi bày được các nhà độc tài của thế kỷ 19-20 như Napoleon và Hitler áp dụng thì thực tế này cho chúng ta thấy: Machiavelli đã hiểu được tận gốc rễ khía cạnh chính trị của bản chất con người.
                  Hơn thế nữa, Machiavelli còn ảnh hưởng sâu rộng tới hai lĩnh vực khác của đời sống chính trị. Trước hết, Machiavelli là một người yêu nước nồng nàn. Ông sống vào thời kỳ Italia bị chia nhỏ thành hàng chục công quốc và thành bang nhưng riêng ông gắn bó rất nhiều với Florence, thành phố quê hương. Lời kêu gọi giải phóng Italia khỏi nạn ngoại xâm mà Machiavelli đề cập ở chương cuối cùng của cuốn Quân vương đã làm thức tỉnh lòng yêu nước của người dân Italia và báo hiệu về một đất nước Italia thống nhất. Phải tới hơn 3 thế kỷ sau, ước mong này của ông mới trở thành sự thật khi vào năm 1861, Italia hoàn toàn thống nhất, thoát khỏi ách đô hộ và chiếm đóng của các lực lượng ngoại bang, còn Machiavelli được thừa nhận là một nhà tiên tri của chủ nghĩa yêu nước hiện đại.
                  Thứ hai, Machiavelli đã có những đóng góp vĩ đại với tư cách là một nhà tư tưởng quân sự. Ông được nhìn nhận là người sáng lập của môn khoa học quân sự hiện đại. Tác phẩm Nghệ thuật chiến tranh của ông đã đặt nền móng cho kỹ thuật quân sự hiện đại. Nói một cách tổng quát hơn, những luận điểm của ông trong cuốn Quân vương về việc sử dụng vũ lực để chiếm đoạt, nắm giữ và tăng cường quyền lực chính trị là nền tảng vững chắc cho những công trình nghiên cứu của nhà lý luận quân sự vĩ đại Karl von Clausewitz (1780-1831) - tác giả cuốn Luận về chiến tranh (1833).
                  Đồng thời, đề xuất không ngừng của Machiavelli về quân đội quốc gia và những nỗ lực của ông khi còn đương chức trong việc xây dựng đội quân như vậy cho nhà nước cộng hòa Florence đã tiên đoán về tầm quan trọng và mức độ phổ biến của quân đội quốc gia trong hầu hết các cuộc chiến tranh giữa các nhà nước hiện đại, kể từ sau cuộc Cách mạng Pháp.
                  Lịch sử cho thấy Machiavelli đã có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều thế hệ độc giả. Chắc chắn là chúng ta sẽ học được rất nhiều từ ông về bản chất chính trị của con người và tư tưởng của nhân loại vào thời kỳ Phục hưng. Đây là những bài học quan trọng và rất quý báu. Tầm quan trọng của Machiavelli còn nằm trong chính tấm gương của ông là một con người tiêu biểu của thời kỳ Phục hưng.
                  Ông là một con người luôn hành động, một chính khách và là một nhà ngoại giao. Ông cũng là một con người của thơ văn với những công trình kinh điển trong lĩnh vực chính trị học, lịch sử và thậm chí cả sân khấu kịch nữa. Vở kịch Mandragola do ông viết kịch bản được đánh giá là vở hài kịch vĩ đại nhất của Italia. Ông đã dùng những kinh nghiệm tham gia chính sự của mình làm chất liệu cho các tác phẩm này. Đồng thời, ông đã dựa vào tài thơ văn, học vấn uyên thâm và trí tuệ của mình để vượt qua những rối ren, đôi lúc rất nguy hiểm của chính sự. Bởi vậy, ông là một tấm gương về sự uyên bác, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và hành động và được đánh giá rất cao trong thời kỳ Phục hưng.
       
      Về  Tác  Phẩm
       
                  Kể từ khi xuất hiện vào đầu thế kỷ XVI, tác phẩm Quân vương đã luôn là một đề tài gây tranh cãi. Tập sách mỏng này đã trở thành một tác phẩm kinh điển về tư tưởng xã hội hiện đại và là phần không thể thiếu khi bàn đến những tác phẩm vĩ đại, đến học thuyết chính trị và về văn hóa thời Phục Hưng và đến nay, cuốn sách này vẫn tiếp tục là đề tài tranh cãi nóng hổi.
                  Mặc dù Machiavelli hoàn toàn dự đoán được những phản ứng quyết liệt của độc giả đối với giọng văn phê phán của ông, nhưng có lẽ chính bản thân ông cũng sẽ ngạc nhiên trước những cách hiểu phong phú và đa dạng về tác phẩm này trong bốn thế kỷ qua. Khi tác phẩm ra đời, mục đích thực tiễn ban đầu của Quân vương đã thay đổi, nhưng cách xử lý tận gốc rễ và triệt để các vấn đề cơ bản về triết học và chính trị vẫn luôn hấp dẫn độc giả, cho dù phần nhiều trong số họ không ý thức được mục tiêu chính trị thực tế mà Machiavelli ngầm đưa ra trong luận điểm của mình.
                  Mặc dù chứa đựng nhiều khái niệm cơ bản về triết học chính trị của Machiavelli nhưng tác phẩm này không phải là một sự trình bày hệ thống, hoàn hảo tất cả các quan điểm của ông về bản chất của chính trị. Do mục đích trước mắt của ông, các tiên đoán lý thuyết của Machiavelli về bản chất của vương quốc và người cai trị nêu ra trong tác phẩm này, về mặt nào đó, vẫn còn những hạn chế nhất định. Đó là thuyết phục gia đình Medici khởi xướng một cuộc thập tự chinh chống lại những kẻ xâm lược “man rợ” đã can thiệp vào cuộc sống của người Italia kể từ cuộc xâm lược của nước Pháp năm 1494, sự kiện đã biến Italia thành bãi chiến trường của châu Âu. Đồng thời ông mong muốn gia đình Medici có thể thống nhất được các vương quốc, lãnh địa và các nước cộng hòa trên bán đảo Italia.
                  Trong khi đưa ra những lời khuyên thực tế và mục tiêu chính trị cụ thể cho dòng họ Medici, Machiavelli sử dụng khuôn khổ truyền thống các bài giảng chủ nghĩa nhân văn thời Trung cổ để bàn về bản chất của sự lãnh đạo chính trị.
                  Như chính ông đã nói : “Tìm tòi về bản chất của một vấn đề thì phù hợp hơn là việc tưởng tượng ra vấn đề đó … Có một khoảng cách giữa việc sống như thế nào trên thực tế và cách mà người ta phải sống thế nào. Người nào từ bỏ những gì đáng lẽ đã làm trên thực tế để thực hiện những gì phải làm thì sẽ bị diệt vong chứ không phải là được bảo toàn”(Chương XV). Những người cùng thời với Machiavelli vốn đã quen với hình ảnh lý tưởng của những nhà cai trị nhân đức theo đường lối Cơ Đốc giáo, hẳn sẽ bàng hoàng trước quan điểm mạnh mẽ của ông về một quân vương vượt ra khỏi đạo đức và tư tưởng truyền thống.
                  Việc xuất bản cuốn Quân vương đã gây ra một cuộc tranh luận phức tạp về những hàm ý lý thuyết và tư tưởng của tác phẩm này, vượt xa những tranh luận về mục tiêu chính trị tức thời và mối liên hệ của tác phẩm với khát vọng và thời cơ chính trị của gia đình Medici. Các nhà đạo đức học, đặc biệt ở Anh và Pháp, công kích tác phẩm như là sự tổng kết của chủ nghĩa hoài nghi, chỉ phù hợp với những bạo chúa tội lỗi.
                  Gần bốn trăm tác phẩm tham khảo thời Elizabeth về Machiavelli đã đưa tên của Machiavelli vào ngôn ngữ tiếng Anh để chỉ sự gian trá, quỷ quyệt và phản trắc cũng như những kẻ như thế. Giới tăng lữ đã coi Quân vương là tác phẩm của quỷ dữ và tác giả của nó là kẻ dị giáo. Tên của Machiavelli gắn liền với thuật ngữ thường dùng để chỉ quỷ dữ và cuốn sách bị tấn công từ mọi phía. Năm 1559, Giáo hội Cơ Đốc giáo đưa Quân vương vào Danh sách các cuốn sách cấm. Còn đối với những nhà cải cách Tin lành thì tác phẩm này tiêu biểu cho tất cả những gì vẫn bị nền văn hóa kiểu Italia của châu Âu thời Phục hưng đỉnh cao khinh miệt.
                  Trong thời kỳ Khai sáng, hoàng đế Frederick II của nước Phổ đã ủng hộ Voltaire công kích kịch liệt những tư tưởng vượt khỏi các chuẩn mực thông thường của Machiavelli, nhưng các nhà tư tưởng khác như Hume, Rousseau, Montesquieu  đã ca ngợi người con xứ Florence này như nhà tư tưởng hiện đại đầu tiên trình bày về bản chất của chính thể chính trị. Thậm chí sau đó, trong thời kỳ đấu tranh thống nhất Italia vào thế kỷ XIX (còn được gọi là thời kỳ Risorgimento), người dân Italia đã coi chương cuối của cuốn Quân vương như sự báo hiệu về một tổ quốc mới.
                  Ngay trong thời đại này, cuốn sách cũng gợi ra nhiều cách hiểu khác nhau. Quân vương được coi như một tác phẩm đầu tiên phân tích về sự lãnh đạo của các lãnh tụ chính trị cũng như xác lập tính độc lập của chính trị với thần học.
                  Hiểu biết về lịch sử trường phái Machiavelli và bối cảnh lịch sử ra đời cuốn Quân vương góp phần giúp chúng ta tránh được việc hiểu sai lệch về tác phẩm này. Đến nay vẫn chưa có một trí tuệ uyên thâm về lịch sử nào có thể giải thích được các vấn đề  tư tưởng Machiavelli đã đề cập, đặc biệt là ở chân dung một vị quân vương nổi tiếng của ông. Lấy ví dụ, Machiavelli đã chọn Cesare Borgia làm hình mẫu cho vị quân vương. Điều này vào cuối thế kỷ XVI là không thể chấp nhận được khi cuốn Lịch sử Italia của Francesco Guicciardini được đón nhận ở Châu Âu đã lan truyền tin đồn  về quan hệ loạn luân giữa Giáo hoàng Alexander, Cesare và Lucrezia Borgia cũng như về những kẻ mưu sát bí ẩn .
                  Đơn giản hóa quan điểm phức tạp của Machiavelli về chính trị và đạo đức (“mục đích biện minh cho phương tiện”) là một sai lầm hoàn toàn khi dựng lên một rào cản hầu như không thể vượt qua để có thể đến được với tư tưởng của Machiavelli. Chỉ biết tới luận điểm này, người ta dễ hình dung về những kẻ cai trị quyền năng và điên rồ theo đuổi những mục tiêu phi đạo đức bằng những phương cách còn vô đạo đức hơn, nhưng Machiavelli không bao giờ nói đến sự biện minh. Ông chỉ tuyên bố, trong hành động của con người, nhất là của bậc quân vương thì không bao giờ có một người phán xử công bằng. Bởi vậy, chỉ có kết quả cuối cùng là đáng quan tâm.
                  Nhưng Machiavelli tinh tế hơn người ta tưởng. Ông không bao giờ ảo tưởng rằng sẽ có hành động chính trị nào đó không thể bị phán xét và ông chỉ rõ rằng, ông nhận thức được những đòi hỏi về đạo đức truyền thống. Ông lên án những chính khách chỉ biết theo đuổi quyền lực, những kẻ giết đồng loại, phản bội bạn bè, những kẻ không biết đến lòng trung thành, sự dung thứ và lòng sùng đạo. “Bằng những phương cách này”, ông tuyên bố, “ người ta có thể đạt được quyền lực chứ không thể có vinh quang”. Quyền lực không đem lại vinh quang và cũng không đồng nhất với lẽ phải. Mục đích hướng tới là yếu tố để phân biệt những quân vương chỉ có quyền lực với những quân vương xứng đáng được ngợi ca.
                  Mục đích duy nhất thể hiện trong các tác phẩm của Machiavelli, kể cả cuốn Quân vương, là tạo dựng một thể chế chính trị ổn định và vững mạnh có thể biện hộ cho những hành động bị coi là ngang ngược và phi đạo đức theo các chuẩn mực truyền thống của đạo Cơ Đốc. Vương quốc phải được lãnh đạo bởi vị quân vương nào biết tự bảo vệ bằng quân đội gồm những công dân tự do và biết giành lấy quyền lực từ sự mến phục của thần dân.
                  Đứng trước hoàn cảnh đất nước Italia bị các lực lượng ngoại bang xâm lược, giày xéo và cơ hội lịch sử hiếm hoi để dòng họ Medici thực hiện công cuộc thống nhất Italia, mặc dù là một người ủng hộ chế độ cộng hòa và đồng thời là một người yêu nước nồng nàn, Machiavelli đã chấp nhận đánh đổi một chế độ cộng hòa yếu ớt bị ngoại xâm đe dọa sự độc lập của đất nước và sự ổn định nội bộ trong nước. Chính vì vậy, trong tác phẩm Quân vương, Machiavelli đã đưa ra những thủ đoạn chính trị để giúp thống nhất và ổn định một đất nước bị chia cắt và đang trong tình trạng hỗn loạn.
                  Hoàn cảnh nguy nan đòi hỏi phải có những biện pháp cực đoan, một “liều thuốc mạnh” như ông vẫn nói. Để thành công trong việc bảo vệ nước Italia mới, vị tân vương phải học cách không trở thành một quân vương Cơ Đốc giáo ngoan đạo. Vị quân vương này phải quên đi những kế hoạch mơ hồ, viển vông và không tưởng. Theo Machiavelli, không thể cai trị các quốc gia bằng tôn giáo. Vượt xa việc chỉ đơn thuần  loại bỏ yếu tố đạo đức khỏi đời sống chính trị, Machiavelli đưa ra một hệ thống các nguyên tắc đạo đức mới mẻ có tính đột phá, hoàn toàn đối nghịch với những đòi hỏi nghiêm khắc của hệ tư tưởng Cơ Đốc giáo truyền thống.
                  Machiavelli phân biệt rạch ròi giữa việc theo đuổi các nguyên tắc đạo đức và mục tiêu thực tiễn. Khi bước vào lĩnh vực chính trị, ông khuyên rằng : “Quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy còn cáo thì không chống lại được sói”. Thay vì đưa ra bức tranh đạo đức về một quân vương Cơ Đốc giáo cai trị các thần dân trung thành như người chăn cừu bảo vệ đàn cừu dễ bảo, Machiavelli tập trung vào thế giới chính trị học đầy quyền lực.
                  Mặc dù hy vọng gia tộc Medici sẽ đón nhận lòng yêu nước đáng trân trọng của mình nhưng ông cũng ý thức được rằng một thái độ thực tế và thực dụng như vậy nằm trong tay một người không xứng đáng có thể sẽ bị sử dụng cho những mục đích xấu xa.
                  Sau khi thay thế những giá trị đạo đức truyền thống bằng những mục tiêu và ý tưởng chính trị mang tính đột phá, Machiavelli đã kết thúc luận thuyết của mình một cách châm biếm với giọng văn đậm nét tôn giáo và hình ảnh của Kinh Thánh. Ở cuối tác phẩm Quân vương, Machiavelli khẳng định rằng một nhà tiên tri không có binh lực thì chẳng được đất nước mình ngợi ca. Ông so sánh sự thành lập quốc gia Italia với việc rời bỏ Ai Cập của người Do Thái và thời cơ của gia đình Medici được coi như một món lộc trời cho.
                  Nhưng sự tranh luận về mâu thuẫn giữa quyền lực nhà nước với đạo đức cá nhân thực sự là một thành công đầy trí tuệ. Và nhận thức sắc sảo của ông về vai trò của sự ảo tưởng và vẻ bề ngoài trong những vấn đề quốc gia vẫn đưa ra là một bức tranh chính xác tuyệt vời về tính chất thực tế của quyền lực ở mọi thời đại và của bất kỳ ai. Mục tiêu chính trị của riêng ông về một đất nước Italia thống nhất được dẫn dắt bởi những nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực chính trị hướng tới tương lai.
                  Đọc tác phẩm Quân vương của Machiavelli, các độc giả ham thích chính trị học không khỏi ngạc nhiên vì sự giống nhau giữa những nhận xét lạnh lùng về bản tính của con người và những luận điểm  trong tác phẩm Hàn Phi Tử – một trong những tác phẩm chính trị học đầu tiên của thế giới ra đời trước Quân vương trên 1.700 năm .
                  Một nhà nghiên cứu đã nhận xét về tương lai của Quân vương như sau: Người ta sẽ luôn luôn đọc nó chừng nào con người vẫn chưa thôi cái trò chơi nguy hiểm  nhưng hấp dẫn có cái tên là “chính trị” kia. Ở mọi thời đại, cuốn sách này sẽ luôn thức thời vì nó đề cập một vấn đề được quan tâm nhất nhưng không phải ai cũng với tới và giải quyết một cách êm thấm, đó là vấn đề quyền lực.
      #3
        Sun Ming 12.09.2009 08:51:31 (permalink)

        Đề Tặng
         
        NICCOLÒ MACHIAVELLI GỬI ĐỨC ÔNG LORENZO DE MEDICI

                    Phàm lệ, để chiếm được cảm tình của bậc quân vương, người ta phải tự tiến cử mình bằng những thứ họ cho là đắt giá nhất hoặc những món quà được xem là sẽ làm hài lòng quân vương nhất. Bởi vậy, các quân vương thường được dâng tặng ngựa quý, vũ khí, châu báu và những tặng phẩm tương xứng với địa vị cao quý của họ.
                    Nay, với mong muốn tự tiến cử mình lên Đức Ông, và để thể hiện lòng tận tụy, tôi lại chẳng tìm thấy trong gia sản của mình vật gì đáng giá hơn là sự hiểu biết về sự nghiệp của những vĩ nhân mà tôi đúc rút từ kinh nghiệm bản thân đối với những thực tế đang diễn ra cũng như từ việc miệt mài nghiên cứu kinh nghiệm đời xưa. Sau thời gian dài trăn trở, tôi xin gửi gắm những điều đó vào cuốn sách nhỏ bé này để dâng, tặng lên Đức Ông với tất cả tấm lòng trân trọng.
                    Tôi chắc là với địa vị của ngài thì tác phẩm này không có mấy giá trị nhưng với lòng bao dung, ngài hẳn sẽ nhận nó, vì tôi không có món quà nào đáng giá hơn để dâng tặng, ngoại trừ các phương tiện để trong một thời gian ngắn, ngài có thể nắm bắt được những vấn đề mà trong nhiều năm với nhiều nỗi vất vả và hiểm nguy, tôi mới có thể hiểu và đánh giá được giá trị của chúng. Tôi không viết tác phẩm này với những câu văn cầu kỳ, những từ ngữ hào nhoáng hay với bất kỳ một thủ pháp nào mà các nhà văn thường sử dụng để trình bày và làm phong phú thêm chủ đề chính, bởi tôi mong muốn sự hấp dẫn của tác phẩm phải đến từ sự phong phú của tư liệu và sự nghiêm túc của nội dung.
                    Tôi cũng không muốn người ta coi cuốn sách này là sự tự phụ khi một người ở địa vị thấp kém dám luận bàn và chỉnh lý nền cai trị của những bậc quân vương. Bởi vì, cũng như những họa sĩ vẽ tranh phong cảnh, người ta phải đứng ở một vị trí thấp hơn nơi bình nguyên để nắm bắt hồn của những ngọn núi và phải đứng trên đỉnh những ngọn núi để ngắm bình nguyên. Cũng vậy thôi, hiểu dân không ai bằng bậc quân vương và hiểu được bản chất của quân vương chính là các thần dân.
                    Cầu xin Đức Ông hãy đón nhận món quà nhỏ này đúng với bản chất của nó. Nếu ngài để tâm một chút thôi, ngài sẽ thấy ở đó những mong ước tận đáy trái tim tôi và có thể ngài sẽ tìm thấy cơ hội lớn lao trong tầm tay ngài. Và nếu Đức Ông, từ địa vị tôn quý của mình, có một lúc nào đó nhìn xuống dân chúng, ngài sẽ thấy sự bất công mà số phận buộc tôi phải gánh chịu.      
        #4
          Sun Ming 12.09.2009 08:53:54 (permalink)
          1
          CÁC HÌNH THỨC QUỐC GIA
          VÀ PHƯƠNG THỨC HÌNH THÀNH

                     
                     
          Các chính thể xưa nay giữ vai trò thống trị tại tất cả các quốc gia, lãnh thổ đều là chế độ cộng hòa hoặc chế độ quân chủ. Chế độ quân chủ gồm chế độ thế tập, là chế độ mà quyền cai trị được truyền trong dòng họ hoàng gia từ đời này sang đời khác và chế độ quân chủ mới.
                       Các hình thức quân chủ mới có thể là hoàn toàn mới, như Milan dưới thời Francesco Sforza4 [4 Francesco Sforza : Viên tướng đánh thuê nổi tiếng (1401-1466), cưới con gái của Fillippo Maria Visconti, công tước Milan,sau đó cai trị Milan vào năm 1450.]  hoặc được hình thành khi các nước chư hầu sáp nhập vào quốc gia quân chủ thế tập của quân vương đã thôn tính các nước đó, như vương quốc Naples của vua Tây Ban Nha5. [5 Vua Tây Ban Nha :tức là Ferdinand II xứ Aragon (1452-1516) đã đồng ý chia vương quốc Naples với vua Louis XII của Pháp tại Hiệp ước Granada (11/11/1500). Sau này, vua nước Pháp đã phải công nhận Ferdinand là vua của xứ Naples]
                       Trong những quốc gia bị thôn tính theo cách này, có nơi dân chúng đã quen sống dưới quyền cai trị của một quân vương nào đó; nơi khác dân chúng lại quen hưởng nền tự do. Các quốc gia này bị thôn tính bằng quân đội của chính quân vương hoặc bằng các loại bạo lực khác, nhờ vận may hoặc nhờ tài trí.
          #5
            Sun Ming 12.09.2009 09:13:15 (permalink)
            2
            CÁC QUỐC GIA QUÂN CHỦ
             
             
                        Ở đây, tôi không bàn về thể chế cộng hòa bởi thể chế này đã được đề cập chi tiết ở tác phẩm khác6 [6 Mặc dù câu này đã gây ra khá nhiều tranh luận và khiến cho các học giả cho rằng tác phẩm Luận bàn của Machiavelli được viết trước tác phẩm Quân Vương (do quyển 1 của Luận bàn đề cập rất nhiều đến chủ đề này), nhiều khả năng câu này đã được thêm vào khi Machiavelli viết Luận bàn, tức là sau khi Quân vương đã được hoàn thành]. Trong tác phẩm này, tôi chỉ đề cập đến nền quân chủ trên cơ sở phát triển các đề tài nói trên và bàn đến cách trị vì và bảo vệ các quốc gia quân chủ đó.
                        Như đã nói, nền quân chủ thế tập thuộc quyền cai trị của một dòng họ thì dễ bảo toàn hơn nhiều so với các nền quân chủ mới; bởi vì khi đó, quân vương nối ngôi chỉ cần không phá bỏ những tập tục lâu đời và biết điều chỉnh hành vi của mình trước những biến cố bất ngờ. Cứ như thế, một quân vương, với năng lực bình thường, luôn có thể duy trì đất nước của mình trừ khi có một thế lực đặc biệt và bất thường phế truất ông ta. Và cho dù điều đó có xảy ra, ông ta vẫn có thể dễ dàng giành lại đất nước nhờ một sai lầm nhỏ nhất của kế tiếm quyền.
                       Ví dụ như công tước xứ Ferrara7[7 Machiavelli đồng thời đề cập đến hai đời công tước xứ Ferrara: Ercole d’Este (1471-1505), người đã mất rất nhiều đất cho xứ Venice và đồng minh là Giáo hoàng Sixtus IV trong cuộc chiến với vua Ferranter xứ Naples. Con trai ông là Alfonso d’Este (1486-1534), người bị Giáo hoàng Julius II (tấn công?) năm 1510] của Italia đã chống lại được các cuộc tấn công của xứ Venice (1484) và của Giáo hoàng Julius8 (1510) [8 Giuliano della Rovere (1443-1513, trở thành Giáo hoàng Julius năm 1503). Ông đã củng cố các vương quốc thuộc Giáo hội trong lòng Italia và tổ chức Liên minh Cambrai chống lại Venice và Liên minh Thần thánh chống lại nước Pháp. Giáo hoàng Julius II còn là nhà bảo trợ các các nghệ sỹ nổi tiếng thời Phục Hưng như Michelangelo, Raphael và Bramante] chủ yếu nhờ vào truyền thống cai trị của dòng họ này. Bởi quân vương thì vốn dĩ chẳng có nhiều lý do cũng như chẳng cần gì nhiều để làm hại đến thần dân, bởi vậy quân vương thường được yêu quý nhiều hơn là bị thù ghét. Và nếu chẳng vì một thói xấu quá đáng nào khiến người ta phải thù ghét, thì điều hoàn toàn hợp lý và bình thường là mọi thần dân đều mến chuộng quân vương. Và dưới sự cai trị lâu đời và liên tục đó, những động cơ cho sự sáng tạo và cải cách đều lụi tàn, vì cái mới thường phải xây lên từ khoảng trống mà cái cũ để lại9 [9 Tại nguyên bản tiếng Italia, Machiavelli sử dụng thuật ngữ addentellato chỉ lượt đá răng cưa cuối một bức tường thường được để lại để thuận lợi cho việc xây dựng sau đó].
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.09.2009 09:14:29 bởi Sun Ming >
            #6
              Sun Ming 12.09.2009 09:28:01 (permalink)
              3
              CÁC QUỐC GIA QUÂN CHỦ MANG TÍNH HỖN HỢP
               
               
                          Nhưng các quốc gia quân chủ mới lại gặp nhiều vấn đề phức tạp hơn. Trước hết, nếu quốc gia này không phải hoàn toàn mới mà chỉ là kết quả của sự sáp nhập (khi hai vương quốc được hợp lại làm một thì có thể gọi là quốc gia mang tính hỗn hợp) thì rắc rối xuất phát từ bản chất của tất cả quốc gia quân chủ  mới: dân chúng hoan hỉ thay đổi kẻ cai trị và tưởng rằng mọi chuyện  sẽ tốt hơn; và lòng tin đó đã khiến họ cầm vũ khí chống lại người trị vì cũ. Nhưng họ đã lầm tưởng bởi vì thực tế sau này cho họ thấy  mọi sự còn trở nên tồi tệ hơn.
                           Điều này bắt nguồn tự một nguyên nhân bình thường và rất tự nhiên. Vị quân vương mới giành được quyền lực thường khiến các thần dân mới của mình thù ghét bởi binh lính và những thương đau gắn với cuộc chinh phạt của ngài. Do vậy, tất cả những người mà ngài làm tổn thương  khi xâm chiếm một đất nước sẽ trở thành kẻ thù của ngài trong khi những người đã giúp ngài nắm quyền lực lại không thể mãi là bạn bè, bởi vì ngài không thể làm họ hài lòng theo cách mà họ muốn hoặc có thể ngài không dám dùng những biện pháp mạnh10 do ngài phải chịu ơn họ. [10Những biện pháp mạnh: hiểu theo nghĩa đen, medicineforti có nghĩa là liều thuốc mạnh
                           Cho dù có quân đội hùng mạnh nhất, sự ủng hộ của dân bản xứ vẫn luôn là điều cần thiết để chiếm giữ một vùng đất. Chính vì lý do này, vua Louis XII của nước Pháp11 [ 11 Vua Louis XII của Pháp : Con trai của Charles d’Orléans (1462-1515), kế vị người em họ là vua Charles VIII vào năm 1948, hưởng quyền thế tập đối với xứ Naples và Milan, liên minh với người Venice chiếm đóng Milan một thời gian ngắn vào năm 1499, bị công tước Milan chiếm lại vào năm 1500, sau một cuộc nổi loạn chống lại viên thống sứ người Pháp] đã nhanh chóng chiếm được Milan và cũng nhanh chóng đánh mất thành phố này. Và ngay lần đầu tiên, chỉ riêng các đạo quân của Ludovico12 [12 Ludovico: Ludovico Sforza (1451-1508) được gọi là “il Moro” (người Moor), là con trai của Francesco Sforza, Công tước xứ Milan và Bianca Maria Visconti. Ông trở thành công tước xứ Milan năm 1494 sau khi Pháp xâm lược Italia và sau khi người cháu của ông, là Gian Galeazzo Visconti chết (có thể do chính ông ám sát). Trong khi Ludovico cố gắng chiếm lại Milan vào năm 1500, quân đội của ông chiến đấu với lính Pháp tại Novara, và khi các lính đánh thuê Thụy Sĩ của Ludovico đã không chịu đánh nhau với những người “đồng bào” của mình trong quân đội của vua Louis, nên Sforza đã bị bắt, bị cầm tù đến chết tại một nhà tù gần Tours. Ông cũng là một trong những nhà bảo trợ của Leonardo da Vinci]  cũng đã đủ để chiếm lại Milan, bởi vì chính những người dân đã mở cổng thành cho vua Louis cảm thấy bị lừa dối, thất vọng vì tương lai tốt đẹp hơn mà họ ảo tưởng đã không đến và họ đã không thể ủng hộ sự chiếm đóng của người cai trị mới thêm nữa.
                           Rõ ràng là những vùng đất đã nổi loạn nhưng bị chinh phục lại sẽ khó mất hơn vì nhân cơ hội dẹp loạn, vị chủ nhân của vùng đất đó bớt e dè trong việc trừng phạt những kẻ chống đối, truy lùng những kẻ tình nghi và khắc phục những điểm yếu của mình. Như vậy, chỉ cần công tước Ludovico đe dọa các vùng biên giới là đã đủ để nước Pháp phải mất Milan lần thứ nhất. Nhưng để người Pháp phải bỏ Milan lần thứ hai, cả thế giới13 đã phải chống lại nước Pháp, tiêu diệt và truy đuổi quân Pháp khỏi Italia. [13 Người Pháp nhanh chóng chiếm lại Milan sau trận chiến Ravenna (1512), một chiến thắng phải trả giá đắt mà tại đó người Pháp đã đánh bại Liên minh Thần thánh do Giáo hàng Julius II chỉ huy nhưng lại mất vị thống chế dũng cảm là Gaston de Foix. Machiavelli dùng từ “cả thế giới” để ám chỉ việc Liên minh Thần thánh không chỉ gồm Tây Ban Nha, Venice và Giáo hoàng mà ít nhất là trên giấy tờ còn gồm cả vua Henry VIII của Anh và hoàng đế Maximilian I của Đức]
                           Những lý giải chung về lần đầu nước Pháp mất Milan đã được bàn ở trên, bây giờ, tôi xin được đề cập tới những lý do dẫn tới việc mất Milan lần thứ hai cũng như xem xét các biện pháp mà vua nước Pháp đã áp dụng và những biện pháp đáng lẽ nên áp dụng trong trường hợp đó để chiếm giữ một cách hữu hiệu hơn. Các vùng đất bị chinh phục và sáp nhập vào vương quốc lâu đời của người chiến thắng có thể có chung hoặc không cùng chung vùng địa lý, ngôn ngữ. Với những xứ bị chinh phục có chung vùng địa lý và ngôn ngữ, việc chiếm giữ dễ dàng hơn, đặc biệt là khi những vùng đất này không quen với tự do; và để chiếm giữ một cách chắc chắn thì biện pháp duy nhất cần làm là tiêu diệt hoàng tộc cũ.
                           Con người thường sinh sống một cách hiền hòa miễn là cách sống quen thuộc không bị đảo lộn, tập tục không bị thay đổi. Chúng ta có thể thấy điều đó qua trường hợp của các xứ Burgundy, Brittany, Gascony và Normandy14 [14 Xứ Normandy được sáp nhập vào nước Pháp năm 1204, xứ Gascony được giành lại từ người Anh năm 1453, xứ Burgundy được nhập vào nước Pháp năm 1477, xứ Brittany thuộc về nước Pháp sau cuộc hôn nhân của vua Charles VIII với quận chúa Anne của xứ Brittany, sau này quận chúa Anne lại lấy vua Louis XII ]– những vùng đất đã trở thành một phần của nước Pháp trong thời gian dài. Mặc dù có vài khác biệt về ngôn ngữ nhưng do phong tục tương đồng nên sự hòa hợp trở nên dễ dàng. Bất kỳ ai muốn thôn tính và giữ được các vùng đất thuộc loại này cần nhớ hai điều: thứ nhất, phải tuyệt diệt hoàng tộc cũ; và thứ hai, không nên thay đổi luật lệ và thuế khóa. Được vậy, các vùng đất mới sẽ nhanh chóng hợp nhất vào chính quốc.
                           Nhưng khi các vùng đất bị chiếm đóng không tương đồng về ngôn ngữ, phong tục và luật lệ thì khó khăn sẽ gấp bội, và muốn vượt qua được thì cần phải có thật nhiều may mắn và tốn nhiều công sức. Tốt nhất, người chinh phục phải đích thân tới sống ở vùng đất vừa chiếm được. Nhờ thế, việc chiếm đóng mới lâu dài và bền vững, như hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ đã áp dụng với Hy Lạp. Bởi vì cho dù thực hiện tất cả các biện pháp đề phòng khác, nhưng nếu ông ta không tới đó sống thì việc giữ được các vùng đất này là điều không thể.
                          Bởi vì, chỉ khi mà người chinh phục sống ngay tại nơi đó thì mới có thể phát hiện vấn đề từ trong trứng nước và nhanh chóng tìm ra biện pháp giải quyết. Không sống ở đó, các bậc quân vương chỉ có thể biết được tình hình sau khi vấn đề đã trở nên trầm trọng và khi ấy thì vô phương cứu chữa. Hơn nữa, không nên để bọn quan lại cướp bóc vùng đất vừa chiếm được bởi dân chúng mong muốn được trông cậy trực tiếp vào nhà vua của mình. Muốn trở thành các thần dân tốt, họ sẽ có nhiều lý do để yêu mến vua hơn và muốn trở thành các thần dân xấu, họ sẽ có nhiều lý do để sợ vua. Bất kỳ lực lượng ngoại bang nào muốn xâm chiếm vùng này buộc phải e ngại, bởi vì khi nhà vua đã đích thân đến sống tại đây thì việc mất vùng đất này là vô cùng khó khăn.
                          Biện pháp còn lại và tốt hơn là di dân chính quốc tới một vài vùng thuộc địa với sự hỗ trợ cho chính quốc. Bởi vì điều cần thiết là quân vương phải dùng cách này hoặc duy trì một lực lượng lớn bộ sinh và kỵ binh, nhưng việc di dân chính quốc sang sinh sống các vùng thuộc địa không phải tốn kém gì nhiều. Phương cách này chỉ gây tổn thương cho thiểu số những kẻ bị tước đoạt nhà cửa, ruộng vườn để trao cho các cư dân mới. Và những kẻ bị tổn thương đó đều là loại nghèo hèn và phân tán nên chẳng thể làm hại gì ngài, còn tất cả những kẻ khác thì chẳng bị tổn hại gì (cho nên chúng sẽ im lặng). Hơn nữa, những kẻ này còn sợ sẽ phạm sai lầm khiến chúng có thể bị tước đoạt ruộng đất.
                          Tôi muốn kết luận rằng, hình thức di dân chính quốc tới sinh sống tại các thuộc địa không tốn kém, còn đám dân này trung thành hơn và ít gây phiền nhiễu hơn. Và những kẻ bị tổn hại, như tôi đã nói, không thể là mối đe dọa do chúng nghèo hèn và phân tán. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, quan hệ giữa người và người phải được đối xử tử tế hoặc thẳng tay đàn áp vì con người thường trả thù những xúc phạm nhỏ nhặt, nhưng trước sự lăng nhục nghiêm trọng thì lại chẳng thể làm gì. Bởi vậy, đã trừng trị ai thì phải dùng cách nào để khỏi sợ người đó báo thù.
                          Tuy nhiên, duy trì quân đội ở những vùng đất này để thay thế cho đám dân chính quốc di dân sang sẽ tốn kém hơn, phải trút hầu bao của chính quốc vào việc canh giữ các biên giới nên cũng lợi bất cập hại; và nhiều tác động tiêu cực hơn sẽ xảy ra bởi việc chuyển quân sẽ tác động đến cả nước khiến dân chúng bất bình và có thể sẽ chống đối. Những kẻ chống đối đó nguy hiểm bởi, mặc dù bị chinh phục, họ vẫn đang sống dưới chính mái nhà của mình. Như vậy, xét về mọi mặt, việc chiếm giữ bằng quân đội là vô ích trong khi cách di dân chính quốc sang các thuộc địa lại có lợi hơn nhiều.
                          Ngoài ra, khi vùng đất bị xâm chiếm không có những điểm tương đồng với chính quốc thì quân vương phải biến mình thành người lãnh đạo và người bảo vệ những láng giềng yếu hơn, và phải bằng mọi cách làm suy yếu những láng giềng hùng mạnh hơn. Và ông cũng cần lưu tâm để không có bất kỳ kẻ ngoại bang nào, có thế lực như ông, được tiến vào vùng đất này vì bất kỳ lý do gì. Những  kẻ bất mãn thường cầu cứu ngoại binh có thể vì chúng quá tham vọng hoặc quá sợ hãi, như trường hợp người xứ Aetolia đã dẫn quân La Mã vào Hy Lạp15 và tất cả những vùng đất khác mà người La Mã chiếm được đều nhờ vào sự nội ứng của chính cư dân bản xứ. [15 Năm 211 TCN, Liên minh Aetolia thuộc Hy Lạp đã liên kết với người La Mã chống lại vua Philip V của Macedonia (220-178 TCN) và chống lại Liên minh Achaea bao gồm các tiểu quốc Hy Lạp khác, đồng minh của Mecedonia ]
                          Ngay khi lực lượng ngoại bang hùng hậu tiến vào một vùng, tất cả những kẻ yếu hơn sẽ bám đuôi do chúng ganh tị với vị quân vương đang cai trị vùng này. Cho nên, đối với những kẻ yếu hơn, lôi kéo được chúng không có gì khó  vì tất cả bọn chúng đều ngay lập tức và hoàn toàn hậu thuẫn cho tân vương. Tân vương chỉ cần cảnh giác không cho bọn chúng nắm quá nhiều quyền hành và lực lượng; và bằng lực lượng của mình cùng với sự hỗ trợ của chúng, ông sẽ dễ dàng đè bẹp những kẻ mạnh để trở thành người thống trị duy nhất trong vùng. Bất kỳ ai không tuân theo những nguyên tắc này sẽ nhanh chóng mất vùng đất vừa chiếm được và cho dù có chiếm giữ được thì sẽ có vô vàn những khó khăn và lo lắng.
                          Tại các vùng đất chiếm được, người La Mã tuân thủ rất cẩn thận những nguyên tắc trên. Họ di dân sang, quan hệ với những kẻ yếu hơn nhưng không làm cho chúng mạnh lên, tiêu diệt những kẻ mạnh và không để các lực lượng ngoại bang giành được uy tín ở đó. Tôi chỉ xin lấy ví dụ về trường hợp Hy Lạp: người La Mã giữ thái độ thân thiện với người Achaea và người Aetolia; khuất phục vương quốc Macedonia16 đánh đuổi Antiochus17.
                          [16 Sau khi bị đánh bại tại trận chiến Cynoscephalae (197 TCN), vua Philip V của Macedonia đã mất quyền kiểm soát Hy Lạp cho La Mã.
                           17 Antiochus (223-187 TCN) : Vua Syria, xâm lược Hy Lạp và cuối cùng lại bị người La Mã đánh bại tại trận Magnesia (190 TCN)].
                          Thế nhưng, người La Mã không nhường bất kỳ vùng đất nào cho người Achaea và người Aetolia. Vua Philip của Macedonia ra sức cầu hòa nhưng điều này không giúp ông ta tránh khỏi sự đè bẹp của người La Mã.
                          Cho dù Antiochus có nhiều thế lực tại vùng đất này, nhưng người La Mã không trao cho ông ta bất kỳ quyền hành gì. Như vậy, người La Mã đã làm tất cả những gì mà một bậc quân vương khôn ngoan cần làm. Họ không chỉ đề phòng những vấn đề trước mắt mà còn phải lường trước và tìm cách phòng tránh cả những biến cố trong tương lai. Nếu được phát hiện sớm, những mầm bệnh có thể được điều trị rất dễ dàng. Nhưng nếu chờ đến lúc phát bệnh thì thuốc thang có thể là quá muộn vì căn bệnh đã trở thành nan y.
                          Quan điểm của các thầy thuốc về bệnh lao rất phù hợp với lập luận ở phần này. Thời kỳ đầu, bệnh dễ chữa nhưng khó chẩn đoán. Sau một thời gian không được phát hiện và chữa trị, bệnh trở nên  dễ chẩn đoán nhưng lại khó chữa. Đối với những vấn đề quốc gia đại sự cũng vậy. Bằng khả năng nhận biết trước những hiểm họa đang lan đi trong vương quốc (phẩm chất bẩm sinh có của nhà cai trị khôn ngoan), quân vương sẽ nhanh chóng đối phó. Tuy nhiên, khi những hiểm họa đó không được ai biết đến và cứ lớn dần lên, thì đến một lúc nào đó, mọi người đều biết nhưng quân vương không còn khả năng đối phó được nữa.
                          Do vậy, khi thấy trước các khó khăn, người La Mã luôn tìm ra giải pháp. Để tránh chiến tranh, họ không bao giờ để các rắc rối phát sinh mà không tìm cách xử lý, bởi họ biết rằng, không thể tránh được chiến tranh nhưng có thể dùng chiến tranh để lấy đi lợi thế của kẻ khác. Bởi vậy, họ đã gây chiến với vua Philip và Antiochus ngay trên đất Hy Lạp để không phải đương đầu với những địch thủ này trên đất Italia. Người La Mã hoàn toàn có thể tránh được cả hai cuộc chiến đó nhưng họ không muốn thế. Họ cũng không muốn có lợi thế về thời gian như những nhà thông thái thời chúng ta vẫn luôn nói. Thay vào đó, họ muốn có lợi thế về sức mạnh và sự khôn ngoan của mình, bởi thời gian có thể mang đến mọi chuyện, cả điều tốt cũng như điều xấu.
                          Hãy trở lại với trường hợp nước Pháp và thử xem có sự việc nào liên quan tới những nội dung bàn luận nêu trên không. Tại đây, tôi không nhắc tới vua Charles 18 mà chỉ xin được bàn về vua Louis. Vì vua Louis chiếm đóng Italia lâu hơn và hành động hoàn toàn ngược lại những gì cần phải làm để duy trì sự thống trị tại một vùng đất mới được chinh phạt. [18 Vua Charles VIII (1470-1498) xâm lược Italia vào năm 1494 để đòi quyền thế tập đối với vương quốc Naples. Sau khi chiếm được Naples vào năm 1495, ông bị Liên minh Venice-Milan, rồi Tây Ban Nha, Giáo hoàng Alexander VI và hoàng đế La Mã chống lại, Ông ta đã rút lui an toàn khỏi Italia sau khi thoát khỏi cuộc bủa vây của lực lượng Italia tinh nhuệ trong trận chiến Fornovo (1495). Anh họ ông là vua Louis (công tước xứ Orléan), nối ngôi với tước hiệu Louis XII.]
                         Vua Louis tiến vào Italia nhờ vào tham vọng của người Venice. Khi đó người Venice hy vọng có thể giành được một nửa xứ Lombardy bằng việc hậu thuẫn cho vua Louis. Tôi không phê phán những gì vua Louis đã làm. Vua Louis muốn xâm nhập Italia nhưng lại không có đồng minh ở nước này. Thêm vào đó, sau hành động xâm lược Italia của vua Charles thì mọi cánh cổng trước ngài đều đóng chặt. Do vậy, ngài buộc phải kết thân với bất kỳ đồng minh nào có thể có.
                          Lẽ ra vua Louis đã thành công nếu như không phạm sai lầm trong các bước tiếp theo. Sau khi chiếm được xứ Lombardy, ngay lập tức, vua Louis giành lại uy tín mà vua Charles đã để mất: xứ Genoa đầu hàng, người Florence trở thành đồng minh; hầu tước xứ Mantua, công tước xứ Ferrara, gia tộc Bentivogli, nữ bá tước xứ Forlì, các lãnh chúa của các xứ Faeriza, Pesaro, Rimini, Camerino, Piombino và dân chúng các xứ Lucca, Pisa, Siena đều xô đến tìm sự che chở của ngài 19.
                          [19 Sau khi vua Louis XII chiếm được Milan vào năm 1499, xứ Genoa đầu hàng, người Florence trở thành đồng minh của ông để nhận được sự hỗ trợ trong cuộc chinh phạt Pisa cùng năm đó. Những vua chúa tại các thành bang, lãnh địa mà Machiavelli nêu ra gồm Francesco Gonzaga (xứ Mantua), Ercole d’Este (xứ Ferrara), Giovanni Bentivogli và con trai là Annibale (xứ Bologna), Caterina Sforza Riario (xứ Forlì), Astorre Manfredi (xứ Faenza), Giovanni Sforza (xứ Pesaro), Pandolfo Malatesta (xứ Rimiri), Giulio Ceare da Varano (xứ Camerino) và Jacopo d’Appiano (xứ Piombino ].
                          Đến lúc này, người Venice mới nhận ra sự hồ đồ của mình. Để chiếm được một mẫu đất của xứ Lombardy, họ đã dâng cho vua nước Pháp một phần ba đất nước Italia.
                          Giờ đây, thật chẳng mấy khó khăn để vua Louis củng cố được thế lực của mình ở Italia nếu như ngài làm theo những quy tắc nêu trên và bảo vệ, che chở cho tất cả những kẻ thân hữu. Mặc dù số lượng rất đông đảo, nhưng phần lớn những kẻ này đều yếu hèn. Vì một số kẻ thì sợ Giáo hội trong khi số khác thì sợ người Venice, nên tất cả đều buộc phải là đồng minh của ngài.
                         Lẽ ra, nếu biết lợi dụng những kẻ này, vua Louis đã có thể dễ dàng chống chọi những vương quốc hùng mạnh khác. Thế nhưng, ngay khi vào đến Milan, ngài đã làm ngược lại. Ngài đã giúp Giáo hoàng Alexander chiếm giữ xứ Romagna. Ngài không nhận ra rằng chính quyết định này đã làm ngài suy yếu, buộc ngài phải bỏ rơi các đồng minh cũng như những kẻ đã tự đặt mình dưới sự che chở của ngài, và đồng thời tăng cường thần quyền của Giáo hội bằng cách bổ sung rất nhiếu những quyền thế tục mà nhờ đó, Giáo hội giành được quá nhiều quyền lực.
                          Sau khi mắc hết sai lầm này đến sai lầm khác, ngài đã buộc phải dẫn quân vào Italia để chấm dứt tham vọng của Giáo hoàng Alexander và ngăn không cho Giáo hoàng Alexander làm chủ vùng Tuscany. Ngài chẳng thể hài lòng khi Giáo hội mạnh lên còn mình lại mất các đồng minh. Vì thèm muốn vương quốc Naples, ngài chia xẻ xứ này với vua Tây Ban Nha. Ngài rước vào mảnh đất mà ngài đã từng nắm trọn quyền thống trị một ông vua để những kẻ tham vọng và bất mãn tại đây có nơi cầu cạnh. Tại cái nơi đáng lẽ có thể lập một ông vua bù nhìn để cai quản, thì ngài lại thay thế bằng một kẻ có thể tống khứ chính ngài khỏi vương quốc này.
                          Khát vọng chinh phục là một điều vô cùng bình thường và mang tính bản năng. Một người đàn ông có khả năng chinh phục luôn được ca ngợi và không bị chỉ trích nhưng một kẻ bất tài mà lại muốn chinh phục thì chỉ để lại những lỗi lầm  và chê trách. Bởi vậy, nếu nước Pháp có thể tấn công vương quốc Naples bằng chính quân đội của mình thì nên làm vậy, còn nếu nước Pháp không thể thì đừng nên chia xẻ vương quốc Naples với kẻ khác. Nếu như việc chia xẻ xứ Lombardy với người Venice có thể được tha thứ vì nhờ đó, vua Louis có thể đặt chân vào Italia thì những sự chia chác khác đều đáng bị lên án, vì thực ra ngài không cần đến những điều đó.
                          Vua Louis đã phạm phải năm sai lầm: ngài tiêu diệt những kẻ yếu hơn mình; tăng cường cho một thế lực khác ngay tại Italia, rước vào Italia một kẻ ngoại bang hùng mạnh, không tới Italia sống, và không di dân chính quốc tới sinh sống tại đây. Những lỗi lầm trên có thể đã không gây hại nếu ngài không phạm tiếp lỗi thứ sáu: làm suy giảm sức mạnh của người Venice. Lầm lỗi là vì nếu ngài đã không lỡ khiến Giáo hội mạnh lên cũng như không lỡ rước người Tây Ban Nha vào Italia thì việc ngài làm suy yếu người Vencie là hợp lý và cần thiết. Nhưng ngài đã trót hành động như thế thì ngài lại không bao giờ nên để cho người Venice suy yếu.
                          Chừng nào còn mạnh như xưa, người Venice còn tìm cách ngăn không cho những kẻ khác chiếm đoạt xứ Lombardy bởi vì chính người Vencie muốn trở thành chúa tể của xứ Lombardy và những kẻ khác cũng chẳng muốn giành mảnh đất này từ tay nước Pháp để trao cho Venice. Khi đó, chẳng có kẻ nào lại dám chọc giận đồng thời cả nước Pháp và xứ Venice.
                          Nếu ai đó cho rằng vua Louis nhượng xứ Romagna cho Giáo hoàng Alexander và vương quốc Naples cho Tây Ban Nha để tránh chiến tranh thì tôi xin nhắc lại điều đã nói ở trên: để tránh chiến tranh, không bao giờ cho phép những rối ren nảy sinh, bởi chiến tranh thì không thể tránh được nhưng có thể lợi dụng để lấy đi lợi thế của kẻ khác.
                          Nếu ai đó nói rằng vua Louis đã hứa nhượng lại xứ Romagna cho Giáo hoàng để đổi lấy chức vị Hồng y Giáo chủ cho Tổng giám mục xứ Rouen20 và việc hủy bỏ hôn ước của ngài thì tôi xin đáp lại trong phần sau, khi bàn về chữ tín và cách giữ chữ tín của các bậc quân vương.
                          [20 Để đổi lấy việc ban phép cho Louis ly dị vợ là hoàng hậu Joanne và cưới quận chúa Anne của xứ Brittany, vợ goá của vua Charles VIII, cũng như việc cất nhắc sủng thần của ông ta là George d’Amboise, tổng giám mục xứ Rouen, lên hàng Hồng y Giáo chủ, vua Louis đã đồng ý giúp Giáo hoàng Alexander VI thôn tính các vùng đất thuộc Romagna].
                          Vua Louis đã mất xứ Lombardy do không tuân thủ những nguyên tắc cần coi trọng khi chinh phục và cai trị các vùng đất. Những điều xảy ra không có gì lạ lùng mà hết sức bình thường và dễ hiểu. Tại Nantes21, tôi đã đàm đạo với Hồng y Giáo chủ xứ Rouen khi công tước Valentino (tên thường gọi của Cesare Borgia22, con trai của Giáo hoàng Alexander) chiếm Romagna.
                          [21 Tại Nantes: Machiavelli đã tới Pháp vào năm 1500 trong một phái đoàn ngoại giao của nước cộng hòa Florence và một số dịp khác.
                           22  Cesare Borgia: sinh năm 1476, là con trai của nguyên Hồng y Giáo chủ  Rodrigo Borgia (Giáo hoàng Alexander) và Vanozza Catanei. Cesare được phong Hồng y Giáo chủ vào năm 1493 nhưng lại từ bỏ sự nghiệp nhiều hứa hẹn tại Giáo hội vào năm 1498. Ông được vua Louis XII phong làm công tước và nhận được lời hứa về sự ủng hộ Pháp trong cuộc chinh phạt Romagna. Khi Giáo hoàng Alexander (1492-1503) qua đời đột ngột, quyền lực của Cesare tan thành mây khói, rồi ông chết tại Tây Ban Nha vào năm 1507 ].
                          Khi Hồng y giáo chủ nói với tôi rằng người Italia hiểu rất ít về chiến tranh, tôi đã đáp lại rằng người Pháp hiểu rất ít về chính trị. Bởi nếu hiểu được chính trị thì người Pháp đã không để Giáo hội thâu tóm nhiều quyền lực như vậy. Chúng ta đều thấy rằng cả Giáo hội và Tây Ban Nha giành được quyền lực ở Italia là nhờ nước Pháp, và nước Pháp sụp đổ là do Giáo hội và Tây Ban Nha.
                          Người ta có thể rút ra một quy luật chung hiếm khi sai, đó là: người nào đem lại quyền lực cho kẻ khác thì tự chôn vùi chính mình, bởi vì quyền lực này là kết quả của gian trá hoặc bạo lực và kẻ vừa trở nên hùng mạnh rất có thể có cả hai điều đó.
               
              #7
                Sun Ming 12.09.2009 09:32:35 (permalink)
                4
                TẠI SAO ĐẾ CHẾ BA TƯ CỦA VUA DARIUS KHÔNG NỔI LOẠN
                CHỐNG LẠI NHỮNG NGƯỜI KẾ VỊ ALEXANDER ĐẠI ĐẾ

                 
                 
                             Bàn về những khó khăn trong việc cai trị một vương quốc mới bị chinh phục, người ta hẳn sẽ tự hỏi về những gì đã diễn ra sau cái chết của Alexander Đại đế 23 [23 Alexander Đại đế: Cai trị Macedonia (356-323 TCN) và chinh phục đế chế Ba Tư của vua Darius III (336-331 TCN)] Sau vài năm chinh phạt, Alexander Đại đế đã bá chủ châu Á, nhưng việc cai trị vùng đất này gặp không ít khó khăn.
                            Khi Alexander Đại đế qua đời, dường như nguy cơ nổi loạn của đế chế Ba Tư là điều khó tranh khỏi, nhưng những người kế vị Alexander Đại đế đã kiểm soát được tình hình. Khó khăn duy nhất mà những người kế vị này phải đối mặt chính là tham vọng của bản thân họ. Cho tới nay, theo hiểu biết của mọi người, tất cả các vương quốc đều được cai trị theo một trong hai hình thức. Theo hình thức thứ nhất, vương quốc được cai trị bởi đấng quân vương cùng với sự trợ giúp của các cận thần. Trong khi đó, theo hình thức thứ hai, vương quốc do quân vương cùng với các lãnh chúa cai trị. Các lãnh chúa này nắm giữ tước vị hiện tại không phải do ân sủng của quân vương mà là nhờ vào dòng dõi quý tộc của mình.
                            Những lãnh chúa này có lãnh địa riêng và thần dân sinh sống tại lãnh địa đó tôn sùng và thừa nhận lãnh chúa là người cai trị mình. Đối với những vương quốc nằm dưới quyền cai trị của quân vương cùng với các cận thần, quân vương có nhiều quyền lực hơn và nắm giữ vai trò tối thượng trên toàn lãnh thổ. Nếu thần dân có tuân lệnh ai thì cũng chỉ như là đối với cận thần và thuộc hạ của quân vương. Những kẻ cận thần và thuộc hạ này không được dân chúng dành cho sự mến chuộng đặc biệt nào.
                            Các chính thể của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ và vua nước Pháp có thể được dùng làm những ví dụ đương đại để minh họa cho hai hình thức này. Toàn bộ đế chế Thổ Nhĩ Kỳ nằm dưới quyền thống trị của hoàng đế và những kẻ khác chỉ là bề tôi. Hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ phân chia đế chế thành nhiều tiểu quốc và cử người cai quản cho từng xứ. Những tiểu vương này có thể bị thuyên chuyển hoặc bãi chức theo ý muốn của hoàng đế.
                            Trái lại, vây quanh vua nước Pháp là những nhà quý tộc được dân chúng trong lãnh địa của họ công nhận và yêu quý. Những nhà quý tộc này có những quyền thế tập mà nhà nhà vua không dám mạo hiểm tước bỏ. Do vậy, khi xét tới hai hình thức chính thể nêu trên, có thể nhận thấy rằng, chiếm được đế chế Thổ Nhĩ Kỳ là rất khó khăn, nhưng một khi đế chế này đã bị chinh phục thì việc cai trị lại rất đơn giản. Trong khi đó, xét về một số phương diện, nước Pháp tương đối dễ chiếm nhưng lại khó giữ.
                             Có một số lý do khiến việc chiếm được đế chế Thổ Nhĩ Kỳ rất khó khăn. Không có nguy cơ các tiểu vương của đế chế Thổ Nhĩ Kỳ “cõng rắn cắn gà nhà” và cũng chẳng có hy vọng gì về khả năng bọn cận thần xung quanh các tiểu vương này tạo phản. Sở dĩ lại như vậy là vì tất cả bọn họ đều là bề tôi chịu ơn sâu nặng của hoàng đế nên khó lòng bị mua chuộc. Cho dù một số kẻ có thể bị mua chuộc nhưng điều đó cũng chẳng đem lại lợi thế cho ai vì chúng không có khả năng lôi kéo được dân chúng theo mình.
                            Bởi vậy, bất kỳ ai khi tấn công đế chế Thổ Nhĩ Kỳ cũng phải ý thức được rằng những người Thổ Nhĩ Kỳ là một khối thống nhất trọn vẹn. Người tấn công phải dựa vào sức mình nhiều hơn là trông đợi sự mất đoàn kết của đối phương. Thế nhưng, một khi đối phương bị đánh bại và chia cắt đến mức không thể tập hợp lại đội quân của mình, thì chỉ còn một mối lo ngại duy nhất là hoàng tộc đang trị vì. Một khi hoàng tộc này bị tuyệt diệt thì chẳng còn ai đáng sợ, vì những kẻ ngoài hoàng tộc không được dân chúng tin tưởng. Người tấn công không hy vọng gì có được sự tin tưởng của dân chúng xứ này trước khi giành thắng lợi và cũng chẳng phải lo ngại gì về họ sau khi chiến thắng.
                             Chuyện hoàn toàn ngược lại ở những vương quốc được cai trị theo kiểu nước Pháp bởi vì, một khi đã lôi kéo được các lãnh chúa về phía mình, ngài có thể dễ dàng xâm nhập vào các vùng đất này. Ngài sẽ luôn có dịp tìm được những kẻ bất mãn và những kẻ đang trông đợi sự đổi thay. Vì những lý do đã nêu, những kẻ này có thể mở đường và giúp ngài chiến thắng.
                             Tuy nhiên, việc cai trị vương quốc này kéo theo vô vàn rắc rối, liên quan tới cả những kẻ đã ủng hộ ngài và những kẻ bị ngài đàn áp. Liệu việc tiêu diệt hoàng tộc đã đủ chưa khi mà vẫn còn tồn tại các lãnh chúa tự cho mình là người lãnh đạo các phe phái mới. Ngài có nhiều nguy cơ để mất vương quốc vừa được thôn tính bởi ngài không làm cho những lãnh chúa đó hài lòng cũng như không tiêu diệt được bọn chúng.
                            Qua xem xét, sẽ thấy chính thể của đế chế Ba Tư và của đế chế Thổ Nhĩ Kỳ có nhiều điểm tương đồng. Bởi vậy, trước tiên Alexander Đại đế đã tiêu diệt hoàn toàn đế chế Ba Tư và đánh bại đội quân của vua Darius trên chiến trường. Sau khi Alexander Đại đế thắng trận và vua Darius chết, cả đế chế Ba Tư đã quy phục sự thống trị của Alexander Đại đế. Nếu biết đoàn kết với nhau thì những người kế vị Alexander Đại đế đã có thể dễ dàng tận hưởng điều đó.
                            Tại vương quốc này, những rối loạn nảy sinh hoàn toàn là do những người kế vị Alexander Đại đế gây ra. Tuy nhiên, việc cai trị những vương quốc có chính thể như nước Pháp không dễ dàng như vậy. Những cuộc nổi loạn thường xuyên diễn  ra ở Tây Ban Nha, ở Pháp, ở Hy Lạp nhằm chống lại người La Mã, chính là vì các quốc gia này được chia nhỏ thành rất nhiều lãnh địa.
                             Khi trong tâm trí dân chúng vẫn còn hình ảnh các lãnh chúa, thì người La Mã chẳng thể nào cai trị những vùng đất bị chinh phục một cách yên ổn. Thế nhưng, một khi những ký ức này bị việc chiếm đóng lâu năm và sức mạnh của đế chế La Mã xóa nhòa thì người La Mã lại trở thành người thống trị thực sự. Sau này, khi xung đột với nhau, mỗi phe phái của người La Mã đã có thể lôi kéo được các lực lượng ủng hộ từ những vùng đất tương ứng với thế lực của mình. Khi đó, do gia tộc các lãnh chúa trước đây đã bị tuyệt diệt, nên dân chúng chỉ thừa nhận sự thống trị của người La Mã đối với những lãnh địa này mà thôi.
                             Do vậy, bằng cách suy xét tất cả những điều trên, ta có thể thấy rằng chẳng có gì đáng ngạc nhiên trước sự thống trị dễ dàng của Alexander Đại đế trên đế chế Ba Tư hoặc các vấn đề rắc rối mà những kẻ khác gánh chịu khi duy trì sự chiếm đóng của mình (như Pyrrhus22 và nhiều người khác). Những kết quả đó không phụ thuộc vào tài cao thấp của kẻ thắng trận mà phụ thuộc vào sự khác biệt về hoàn cảnh. [22 Pyrrhus: Vua của xứ Epirus (319-272 TCN). Ông đã tiến hành chiến tranh với La Mã ngay tại Italia nhưng hoàn toàn thất bại].
                #8
                  Sun Ming 12.09.2009 09:38:01 (permalink)
                  5
                   PHƯƠNG THỨC CAI TRỊ NHỮNG VƯƠNG QUỐC, THÀNH BANG
                  ĐÃ TỪNG CÓ CHỦ QUYỀN

                   

                              Như tôi đã nói, đối với những xứ đã từng có chủ quyền và từng được hưởng nền tự do thì khi thôn tính những xứ này, ngài có ba cách cai trị: thứ nhất là xóa bỏ toàn bộ; thứ hai là phải thân hành tới sống ở đó, thứ ba là cho phép cư dân xứ này sinh sống với những luật lệ riêng của họ, buộc họ cống nạp và dựng lên ở đó một chính quyền gồm một nhóm người và chính những người này sẽ đảm bảo duy trì sự thân thiện của đất nước họ đối với ngài.
                              Một chính quyền do quân vương dựng lên theo cách như vậy sẽ hiểu rằng, họ không thể tồn tại nếu không có sự bảo trợ và quyền uy của ngài, và chính quyền này phải cố gắng hết sức để có được điều đó. Nếu muốn giữ gìn một thành phố đã từng được hưởng nền tự do thì cách tốt nhất để cai quản được thành phố này là thông qua chính các công dân của thành phố.*
                              Hai minh chứng cho vấn đề trên là người Sparta và người La Mã. Người Sparta giữ Athens và Thebes bằng cách dựng lên ở đó một chính quyền gồm một nhóm người. Rốt cuộc, người Sparta đã để mất cả hai thành bang đó. Người La Mã đã hủy diệt các xứ Capua, Carthage và Numantia và đã chiếm giữ được các xứ này. Người La Mã cũng muốn cai trị Hy Lạp theo cách của người Sparta, tức là để vùng đất này tự do với những luật lệ riêng nhưng họ đã không thành công. Do vậy, để giữ được quyền cai trị của mình, người La Mã buộc phải hủy diệt nhiều thành bang Hy Lạp.
                              Trên thực tế, phương cách an toàn nhất để giữ những mảnh đất bị chiếm đóng là xóa bỏ mọi thể chế, luật lệ và tinh thần tại đó. Cai trị một thành phố đã từng có tự do mà không làm như vậy thì rất dễ bị chính thành phố này lật đổ. Trong những thành phố như vậy, luôn có nơi trú ẩn cho tinh thần tự do và những thể chế truyền thống, những điều chưa từng bị lãng quên cho dù bởi thời gian hay lợi lộc.
                              Những gì người cai trị làm hay dự đoán đều chẳng mấy ý nghĩa, vì nếu không chia rẽ và làm phân tán cư dân thành phố thì họ sẽ chẳng thể quên được cả sự tự do lẫn nền tự do đã có. Ngay khi có cơ hội, họ sẽ quay về với cuộc sống quen  thuộc như xứ Pisa 25 đã làm sau 100 năm dưới ách đô hộ của Florence.
                              [25 Sau khi chiếm được Pisa từ dòng họ Visconti năm 1450, Florence đã kiểm soát cảng biển quan trong này đến tận năm 1494, rồi tái chiếm vào năm 1509 sau nhiều cuộc vây hãm].
                             Tuy nhiên, đối với những vương quốc, thành bang từng sống dưới sự cai trị của một quân vương thì cho dù toàn bộ gia tộc của quân vương bị tiêu diệt, các cư dân ở đó đã có thói quen phục tùng. Khi quân vương cũ không còn, những cư dân đó cũng chẳng thể đồng lòng chọn ra một quân vương mới trong bọn họ.
                              Hơn nữa, bọn họ chưa được sống cuộc đời tự do nên do dự trong việc cầm vũ khí chống lại kẻ chinh phục. Vì thế, tân vương có thể dễ dàng lôi kéo họ về mình và tranh thủ sự ủng hộ của họ. Trong khi đó, ở các nước cộng hòa, sẽ tồn tại một sức sống mạnh mẽ hơn, một lòng căm thù sâu sắc hơn và một khát vọng trả thù mãnh liệt hơn. Ký ức về thời kỳ tự do trước đây khiến họ không thể bị khuất phục.
                              Chính bởi vậy, giải pháp chắc chắn và an toàn nhất là xóa bỏ và tiêu diệt những thể chế, luật lệ và tinh thần của chế độ cũ. Nếu không làm như vậy thì quân vương phải đích thân tới đó để sống và cai trị. 
                   




                  * Chú thích của Sun Ming: Người dịch đã phạm sai lầm chỗ này. Nếu đó là "cách tốt nhất" thì tại sao ở ngay đoạn kế tiếp, Machiavelli lại nói: người Sparta dùng cách đó, cuối cùng bị mất cả 2 thuộc địa, cũng như người La Mã vì dùng cách đó mà về sau phải hủy diệt nhiều thành bang Hy Lạp?
                   
                  Thật ra, trong nguyên bản, Machiavelli nói đó là cách "dễ nhất", nghĩa là đỡ tốn công sức thực hiện, nhưng cách đó không bền.
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.09.2009 09:43:21 bởi Sun Ming >
                  #9
                    Sun Ming 12.09.2009 09:51:52 (permalink)
                    6
                     NHỮNG VƯƠNG QUỐC MỚI GIÀNH ĐƯỢC BẰNG BINH LỰC
                    VÀ TÀI TRÍ CỦA BẢN THÂN

                     
                     
                                 Xin đừng ngạc nhiên nếu tôi sử dụng ví dụ về những con người vĩ đại nhất khi bàn về những quốc gia hoàn toàn mới dưới sự cai trị của vị lãnh tụ và chính quyền mới. Con người thường đi theo lối mòn và hành động trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các bậc tiền nhân. Thế nhưng họ không thể lập lại được toàn bộ những kinh nghiệm đó, cũng như không thể sánh được với những đức tính cao quý của các bậc tiền nhân mà họ muốn học hỏi.
                                 Do vậy, một người khôn ngoan cần đi theo con đường của những người vĩ đại nhưng chỉ nên cố gắng noi theo những người xuất chúng nhất. Khi ấy, nếu công lao không bằng bậc tiền nhân vĩ đại, thì ít ra cũng mang dáng dấp của người đó. Quân vương nên  hành động giống như những người bắn cung khôn ngoan. Khi ý thức được rằng đích bắn dường như quá xa so với tầm bắn của cây cung, người bắn cung khôn ngoan sẽ ngắm bắn cao hơn đích, không phải để bắn mũi tên vào vị trí cao hơn mà để bắn trúng đích mong muốn nhờ vào đường đi vòng cung của mũi tên.
                                 Tại vương quốc mới hình thành, việc cai trị của tân vương vừa giành được ngôi báu gặp ít hay nhiều khó khăn hoàn toàn phụ thuộc vào tài trí của chính ông. Một người dân thường trở thành đấng quân vương có thể do tài trí hoặc vận may. Dường như hai yếu tố này giúp cho tân vương đỡ phải đương đầu với nhiều khó khăn. Tuy nhiên, vị quân vương nào ít dựa vào vận may hơn thì sẽ bảo vệ địa vị của mình tốt hơn.
                                 Đối với vị tân vương vừa giành được ngôi báu, hoàn cảnh không có lãnh địa nào khác để cai trị buộc ông phải thân hành tới sống ở vương quốc mới. Trong những người bằng tài trí của bản thân chứ không phải dựa vào vận may mà đạt đến ngôi đế vương, đáng ngưỡng mộ nhất là Moses, Cyrus, Romulus, Theseus 26.
                                 [26 Trong số các nhân vật này, chỉ có vua Cyrus, người lập ra đế chế Ba Tư (599-529 TCN) mới là một chính trị gia thực sự. Theo Kinh Thánh, Moses đã viết luật cho người Israel (mặc dù Thượng đế đã trao luật đó cho ông). Theo thần thoại, Romulus là ông vua đầu tiên của La Mã vào năm 753 TCN, còn Theseus là ông vua huyền thoại sáng lập nên thành bang Athens.]
                                 Tuy nhiên, trường hợp của Moses không nên bàn tới ở đây vì ông chỉ là người thực hiện các ý nguyện của Thượng đế. Dù vậy, cần phải nói rằng, Moses là một người đáng kính phục vì đã có ân huệ được chuyện trò với Thượng đế.
                                 Khi tìm hiểu về Cyrus Đại đế cũng như những tấm gương lập quốc và trị quốc khác, ngài sẽ thấy những vị này thật đáng ngưỡng mộ. Thân thế và sự nghiệp của họ chẳng hề thua kém so với Moses, người được Thượng đế soi đường chỉ lối. Khi tìm hiểu thân thế và sự nghiệp của họ, ta có thể thấy vận may duy nhất mà họ nhận được là thời cơ. Thời cơ đem đến cho họ những chất liệu cần thiết để có thể hiện thực hóa các ước vọng. Nếu không có thời cơ, tài trí của họ có thể đã bị uổng phí nhưng nếu không có tài trí thì mọi thời cơ cũng chỉ là vô nghĩa.
                                 Chính sự áp bức và đô hộ của người Ai Cập đối với người Do Thái là cơ hội để Moses tìm được họ và đưa họ thoát khỏi ách nô lệ. Chính hoàn cảnh bị bỏ trôi sông  ngay từ lúc lọt lòng và bị buộc phải rời xứ Alba đã tạo thời cơ để Romulus trở thành vị vua đầu tiên của La Mã. Thời cơ của Cyrus là đã tìm ra những người Ba Tư bất mãn với sự cai trị của người Medes cũng như sự yếu đuối, nhu nhược của người Medes sau khi được sống yên ổn quá lâu. Theseus đã thể hiện được tài trí của mình nhờ vào việc tìm thấy những người Athens trong cảnh chia ly 27.
                                 [27 Theseus đã cứu các thanh niên trai tráng Athens thoát khỏi nanh vuốt quái vật Minotaur, con quái vật nửa người nửa bò, ăn thịt người Athens khi đi lạc vào Mê cung.]
                                 Như vậy, thời cơ đã đem lại thành công cho những vị anh hùng này và tài trí xuất chúng đã giúp họ nắm bắt được thời cơ. Nhờ đó, tổ quốc của họ được tôn vinh và thịnh vượng.
                                 Giống như các bậc tiền nhân vừa bàn tới, những người giành được vương quốc và lên ngôi đế vương bằng tài trí của bản thân thì sẽ gặp vô vàn khó khăn nhưng việc cai trị thường dễ dàng hơn. Những khó khăn mà quân vương gặp phải khi lên ngôi xuất phát phần nào từ những luật lệ và thể chế mới mà quân vương buộc phải xác lập nhằm củng cố đất nước cũng như để bảo vệ chính mình. Không có gì khó khăn hơn khi thực hiện, không có gì mơ hồ hơn khi đánh giá sự thành công, và không có gì nguy hiểm hơn trong việc xác lập một trật tự mới.
                                 Tất cả những kẻ được hưởng lợi từ trật tự xã hội cũ sẽ trở thành kẻ thù của quân vương  trong việc xác lập trật tự mới, còn tất cả những kẻ được hưởng lợi từ trật tự mới chỉ là những đồng minh miễn cưỡng của quân vương, một phần do bọn họ còn e sợ những kẻ đang được luật lệ cũ hậu thuẫn, một phần do bản tính hoài nghi của con người. Con người thường chỉ thật sự tin vào cái mới khi trực tiếp được trải nghiệm thực tế. Mỗi khi có cơ hội, kẻ thù của vị tân vương  sẽ tấn công không khoan nhượng, trong khi những đồng minh miễn cưỡng lại bảo vệ ông một cách yếu ớt. Chính vì thế, cả vị tân vương và những đồng minh miễn cưỡng đều chịu nguy hiểm.
                                 Để phân tích chủ đề này sâu hơn, chúng ta cần tìm hiểu xem những quân vương xác lập trật tự mới này hành động độc lập hay lệ thuộc vào những người khác. Như vậy, vấn đề đặt ra là, họ có thực lực hay phải nhờ cậy thế lực của người khác để thực hiện những ý nguyện của mình. Nếu họ phải nhờ cậy thế lực của người khác, kết cục luôn luôn xấu và chẳng bao giờ hoàn thành được việc gì. Nhưng nếu họ dựa vào thực lực của chính bản thân để thực thi quyền lực thì hiểm họa khó có thể đe dọa được họ. Thực tế cho thấy, tất cả những người nhìn xa trông rộng mà dùng vũ lực thì điều chiến thắng. Nếu như họ không dùng vũ lực thì hẳn đã bị thất bại.
                                 Hơn nữa, bản chất con người là hay thay đổi. Thuyết phục thì dễ nhưng duy trì niềm tin mới là điều khó. Bởi vậy, cần phải  đảm bảo rằng khi người ta không còn tin nữa thì phải dùng vũ lực buộc người ta phải tin.
                                 Moses, Cyrus, Theseus và Romulus đã không thể duy trì thể chế của mình lâu như thế nếu không sử dụng vũ lực. Một ví dụ điển hình trong thời đại của chúng ta là linh mục Girolamo Savonarola28. [28 Girolamo Savonarola: Giáo sĩ dòng tu Đa Minh, sinh tại xứ Ferrara năm 1452. Ông trở thành tu viện trưởng Tu Viện San Marco ở Florence vào năm 1491, là thế lực chính trong nền chính trị Florence sau sự kiện trục xuất dòng họ Medici năm 1494. Savonarola là một người cộng hòa nhiệt thành, nhưng đã đánh mất sự ủng hộ của quần chúng  sau khi bị Giáo hoàng Alexander VI rút phép thông công. Năm 1498, ông bị xử tử ở Piazza della Signoria. Ông là tác giả của tác phẩm chính trị quan trọng: Luận thuyết về Tổ chức và Chính phủ của Florence (1498)]. Ông ta đã bị chính thiết chế mới của mình tiêu diệt khi công chúng mất lòng tin vào những thiết chế này. Trong khi đó, ông ta lại không có biện pháp nào để duy trì lòng tin của những người đã tin mình cũng như để thuyết phục những kẻ hoài nghi. Khi đã vượt qua nhiều khó khăn và vô vàn nguy hiểm trên con đường sự nghiệp, bằng tài trí và sự can trường của chính mình và sau khi diệt trừ được những kẻ ghen tị, những con người vĩ đại này được kính phục và trở nên quyền uy, vững chắc, được tôn vinh và hạnh phúc.
                                 Tôi muốn bổ sung thêm một ví dụ nhỏ có một số điểm tương đồng với những tấm gương vĩ đại nêu trên và tiêu biểu cho tất cả những trường hợp tương tự. Tôi muốn nói tới Hiero xứ Syracuse 29.
                                 [29 Hiero xứ Syracuse: Tổng tư lệnh quân đội Syracuse và sau này trở thành vua Hiero II (306-215 TCN). Ông đã chiếm đoạt quyền lực và cai trị Syracuse như một bạo chúa. Sau khi thiết lập liên minh ban đầu với xứ Carthage trong những ngày đầu của chiến tranh Punic lần thứ nhất, ông lập lại hòa bình với La Mã và trở thành đồng minh của đế chế này.]
                                 Từ địa vị của một thường dân, Hiero đã trở thành vua xứ Syracuse. Vận may duy nhất mà ông nhận được là thời cơ. Do bị đè nén, áp bức, người dân xứ Syracuse đã suy tôn ông làm lãnh tụ và trên cương vị đó, ông chứng minh được mình xứng đáng là vua của họ. Ông là một người rất khôn khéo và tài giỏi.
                                 Ngay từ khi ông còn là một người dân thường, đã có người viết rằng “ông chỉ thiếu vương quốc để trở thành đế vương”. Ông đã giải tán đội dân quân cũ và xây dựng đội quân mới. Ông gạt sang một bên những mối bang giao cũ để thiết lập những quan hệ mới. Do có đồng minh và binh lính lệ thuộc vào mình, ông có thể xây dựng bất kỳ điều gì ông muốn trên cơ sở đã có. Ông đã phải vô cùng khó nhọc để chiếm lấy quyền lực nhưng lại duy trì quyền lực thật dễ dàng biết bao.
                    #10
                      Sun Ming 12.09.2009 10:06:38 (permalink)
                      7
                       
                      CÁC VƯƠNG QUỐC GIÀNH ĐƯỢC BẰNG BINH LỰC
                      CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ VẬN MAY CỦA BẢN THÂN

                       
                       
                                  Những người chỉ nhờ vận may mà trở thành bậc đế vương hầu như không phải nỗ lực gì để lên được ngôi báu. Nhưng để bảo vệ được địa vị của mình, thì họ phải khó nhọc gấp nhiều lần. Những người này lên được ngôi cao như diều gặp gió, nhưng khi đã ở trên địa vị cao quý đó, những khó khăn mới bắt đầu nảy sinh. Họ được ban tặng vương quốc vì họ có tiền hoặc được các vị quân vương hùng mạnh ân sủng. Điều này xảy ra khá nhiều ở Hy Lạp, nơi vua Darius dựng lên các tiểu vương ở các thành bang Ionia và Hellespont nhằm duy trì sự an toàn cũng như uy danh của mình. Hoặc tương tự như những trường hợp trở thành vua từ địa vị thường dân bằng cách mua chuộc binh sĩ.
                                  Những quân vương như vậy lệ thuộc hoàn toàn vào hai yếu tố mong manh và bất thường, đó là ý nguyện và vận may của người ban vương quốc đó cho họ. Trong khi đó, họ không biết làm thế nào và cũng không có khả năng bảo vệ địa vị của mình. Họ không biết làm gì, bởi nếu không phải là người thông minh tài trí tuyệt đỉnh thì một người quen với phận dân thường sẽ khó có thể biết cách cai trị một vương quốc. Họ không có khả năng duy trì được địa vị bởi không có những kẻ thân cận và trung thành.
                                  Hơn nữa, các vương quốc nổi lên mau lẹ cũng giống như thực vật sinh ra và lớn lên quá nhanh, sẽ không thể đủ cành rễ để chống chọi sự tàn phá của những trận cuồng phong đầu tiên. Nhưng như tôi đã bàn tới, chỉ có ngoại lệ đối với những người được ban tặng khả năng ứng phó nhanh chóng và bảo vệ những gì vận may đem đến, rồi sau đó xây dựng nền tảng mà những người khác thường phải tạo dựng trước khi trở thành quân vương.
                                  Để trở thành một quân vương như thế có hai con đường : bằng sự tài trí hoặc bằng vận may, và tôi muốn dẫn ra hai ví dụ gần đây: Francesco Sforza và Cesare Borgia. Bằng những biện pháp cần thiết cùng với tài trí siêu việt của mình, Francesco Sforza đã trở thành công tước xứ Milan từ địa vị của một kẻ thường dân, và ông đã dễ dàng cai trị chẳng mấy khó khăn vương quốc mà ông xiết bao khó nhọc mới giành được. Cesare Borgia (thường được gọi là công tước Valentino) thâu tóm được nhiều lãnh thổ nhờ ân sủng và sự giúp đỡ của người cha. Thế nhưng ông để mất vương quốc của mình ngay sau khi cha ông qua đời30 [30 Giáo hoàng Alexander VI chết đột ngột vào tháng 8 năm 1503,và ngay sau đó, Cesare Borgia cũng bị tước đoạt những vùng đất ông chiếm được] cho dù ông đã làm mọi việc cần thiết, cũng như dùng mọi kế sách của một người tài trí và khôn khéo nhằm bắt rễ an toàn ở những vương quốc mà ông đã thôn tính được bằng vận may của bản thân và binh lực của người khác. Như đã đề cập ở trên, vị quân vương nào chưa kịp xây dựng nền móng cho uy quyền của mình khi lên ngôi thì có thể thực hiện công việc đó sau khi giành ngôi báu nếu như ông ta có tài năng xuất chúng.
                                  Tuy nhiên, dù có tài trí tuyệt vời đến mấy thì việc tạo dựng nền móng theo cách này cũng rất khó thực hiện và nguy hiểm cho cơ nghiệp. Xét tới những bước đi của công tước Valentino, ta có thể thấy rằng ông đã xây dựng nền móng vững chắc cho quyền lực sau này. Theo tôi, bàn về những bước đi này sẽ rất bổ ích bởi vì tấm gương về hành động của vị công tước này là bài học quý giá nhất cho những các tân vương. Mặc dù trên thực tế, những mưu đồ của công tước không thành công nhưng không phải do lỗi của ông mà chỉ là do số phận vô cùng trớ trêu và nghiệt ngã.
                                  Khi cố gắng tăng thêm quyền lực cho công tước Valentino, con trai của mình, Giáo hoàng Alexander VI đã gặp nhiều trở ngại, cả trước mắt và về lâu dài. Trước hết, Giáo hoàng thấy chẳng có phương cách gì để ban cho công tước quyền cai trị một vương quốc không thuộc về Giáo hội. Còn nếu Giáo hoàng tìm cách chiếm đoạt những xứ thuộc về Giáo hội cho con trai mình thì người Venice và công tước xứ Milan sẽ không đồng ý vì các xứ Faenza và Rimini đều nằm dưới sự bảo hộ của Venice. Hơn nữa, Giáo hoàng nhận thấy các đội quân của Italia, và nhất là những đội quân ngài phải dùng đến, đều nằm dưới quyền của những người có lý do để e sợ ngài nhưng không đáng tin cậy, đó là gia tộc Orsini, gia tộc Colonna và bè lũ thân tín 31.
                                  [31 Gia tộc Orsini và gia tộc Colonnesi là hai phe cánh quyền uy tại La Mã và đồng thời là những kẻ thù truyền kiếp của nhau, nhưng cả Cesare Borgia và Giáo hoàng Alexander đều không thể tin vào hai gia tộc này trong cuộc chiến quyền lực của mình ]
                                  Bởi vậy, Giáo hoàng đã phải đảo lộn mọi trật tự, gây ra xung đột giữa các nước nhằm biến mình thành chủ nhân một phần những quốc gia đó một cách êm thấm. Giáo hoàng đã thực hiện kế hoạch đó khá dễ dàng bởi vì ngài nhận thấy rằng người Venice đã quyết định đưa người Pháp trở lại Italia với những động cơ riêng. Không những ngài không phản đối mà còn tạo điều kiện thuận lợi hơn cho động thái này bằng cách ban phép hủy bỏ cuộc hôn nhân đầu của vua Louis. Sau đó, vua Louis đã tấn công Italia với sự hỗ trợ của Venice và sự đồng tình của Giáo hoàng Alexander. Ngay khi vua Louis kéo quân tới Milan, Giáo hoàng đã lợi dụng các đội quân này để tấn công Romagna và xứ này đã rơi vào tay của ngài nhờ vào uy danh của vua Louis.
                                  Sau khi chiếm được Romagna và đánh bại gia tộc Colonna, dù muốn bảo vệ thành quả và tiến xa hơn nhưng Cesare Borgia buộc phải dừng lại vì hai trở ngại lớn. Thứ nhất là các đội quân của ông thiếu lòng trung thành và thứ hai là thâm ý của nước Pháp.
                                  Các đội quân của gia tộc Orsini mà ông vẫn dùng có thể trở mặt. Bọn chúng không những không giúp ông chiếm thêm đất đai mà thậm chí còn có thể cướp đoạt những xứ mà ông đã chiếm.
                                  Vua nước Pháp cũng có thể hành xử theo đúng kịch bản này. Kinh nghiệm của ông với quân lính của Orsini đã cảnh báo về điều đó. Sau khi chiếm được Faenza, ông tấn công Bologna và nhận thấy chúng giao chiến rất miễn cưỡng. Sau khi chiếm được lãnh địa Urbino, ông thừa thắng tiến quân vào Tuscany. Và khi vua Louis buộc ông phải rút quân, ông đã hiểu được thâm ý của vị vua này. Do vậy, công tước đã quyết định không dựa vào binh lực và ân sủng của những người khác nữa.
                                  Bước đầu tiên, ông làm suy yếu các phe cánh của gia tộc Orsini và gia tộc Colonna ở thành Rome. Ông lôi kéo tất cả các quý tộc thuộc phe cánh của hai gia tộc này bằng cách ban phát cho bọn chúng quyền cao chức trọng cũng như các khoản bổng lộc hậu hĩnh. Tùy theo từng cấp bậc, ông giao cho bọn chúng các quyền hành về dân sự và quân sự. Nhờ thế, chỉ trong vài tháng, tình cảm của bọn chúng đối với hai gia tộc này nhạt phai và bọn chúng quay sang phục tùng công tước.
                                  Sau đó, ông chờ cơ hội để loại bỏ những kẻ cầm đầu gia tộc Orsini và chia rẽ những kẻ cầm đầu gia tộc Colonna. Thời cơ tốt đã đến nhưng cách ông tận dụng thời cơ này còn tuyệt vời hơn. Khi tỉnh ngộ được rằng sự hùng mạnh của công tước và Giáo hội đồng nghĩa với sự diệt vong của mình, gia tộc Orsini tụ họp tại Magione, vùng Perugia. Cuộc tụ họp này đã châm ngòi cho những cuộc nổi loạn ở các xứ Urbini và Romagna cũng như những mối đe dọa không ngớt đến với công tước. Ông đã dẹp yên tất cả nhờ sự trợ giúp của người Pháp.
                                  Ngay khi giành lại uy danh, vì không còn tin vào cả người Pháp lẫn những lực lượng bên ngoài, ông đã quay sang sử dụng các mưu mô gian trá để bảo vệ quyền lực của mình. Ông đã che giấu các mưu đồ của mình khéo đến mức gia tộc Orsini phải giảng hòa với ông qua vai trò trung gian của đức ông Paulo (Paulo Francesco Orsini). Công tước đã không uổng công dùng mọi biện pháp hào phóng như tặng tiền bạc, vải vóc, ngựa quý để thuyết phục Paulo.
                                  Cuối cùng, chính sự ngu dốt của gia tộc Orsini đã đưa bọn chúng tới Sinigaglia và rơi vào tay ông32 [32 Sự lừa gạt của Borgia tại Sinigaglia (31/12/1502) đã dẫn tới việc trừ khử kẻ thù của ông. Oliverotto Euffreducci (vua xứ Fermo) và Vitellozzo Vitelli bị giết ngay lúc đó, còn Paulo Francesco Orsini chết sau đó vài ngày]. Sau khi trừ khử những kẻ cầm đầu và thu phục đồng đảng của chúng về phe mình, Công tước đã đặt được những nền móng quyền lực tuyệt vời, chiếm giữ cả vùng Romagna cùng với lãnh địa Urbino. Điều quan trọng hơn nữa là Công tước đã được toàn bộ dân chúng vùng Romagna thuần phục khi họ bắt đầu được hưởng lợi lộc từ sự cai trị của ông.
                                  Vì tấm gương này xứng đáng cho các bậc quân vương noi theo nên tôi không muốn dừng ở đây. Sau khi chiếm được Romagna, công tước nhận thấy xứ này đang nằm trong tay cai trị của những lãnh chúa không có quyền lực, chỉ chú tâm bóc lột thần dân chứ không lo cai trị, nên xứ này ngày càng chia rẽ và mất đoàn kết. Toàn xứ này đầy rẫy những kẻ trộm cắp, những vụ ẩu đả cũng như những vụ gây rối, mất trật tự.
                                  Trước tình hình đó, ông quyết định rằng nếu muốn nơi đây trở nên thanh bình và biết tuân theo luật lệ thì phải lập nên một chính quyền mạnh. Ông đã giao phó nhiệm vụ cai quản Romagna cho Remirro de Orco33, một người tàn bạo nhưng có năng lực. [33 Remirro de Orco: được bổ nhiệm là thống đốc Romagna năm 1501 nhưng sau này bị Cesare Borgia loại bỏ nhằm giành được cảm tình của đám dân chúng hay dao động của vùng đất này]. Remirro de Orco được trao toàn quyền cai trị vùng đất này. Chỉ trong một thời gian ngắn, Romagna đã trở nên thanh bình, đoàn kết, và nhờ đó, Remirro de Orco trở nên nổi danh. Sau đó công tước nhận thấy quyền lực tối thượng như vậy không cần nữa vì có thể làm cho người dân ghê sợ ông. Vì thế, ông đã dựng lên ngay tại vùng đất này một tòa án dân sự, đứng đầu là một vị chánh án đáng kính và mỗi thành phố có một luật sư riêng.
                                  Ông nhận thấy những biện pháp nghiêm khắc trước đây đã phần nào gây ra sự căm hận. Để gột rửa sự căm hận trong trí não dân chúng và lôi kéo họ, ông làm ra vẻ mọi sự tàn khốc đều xuất phát từ bản chất tàn bạo của người thừa hành cai quản vùng đất chứ không phải do mệnh lệnh của ông. Ngay khi có cơ hội, vào một buổi sáng, ông đã sai người giết chết Remirro de Orco và đem phơi thây bị chặt làm hai mảnh bên cạnh thớt gỗ cùng với thanh gươm đẫm máu tại quảng trường Cesena. Cảnh tượng rùng rợn này đã khiến người dân vừa hài lòng vừa hoảng sợ.
                                  Bây giờ, chúng ta hãy trở lại điểm bắt đầu câu chuyện. Công tước Cesare Borgia nhận thấy mình đã có nhiều quyền lực và khá an toàn trước những nguy hiểm hiện thời. Ông đã xây dựng được quân đội riêng cũng như tiêu diệt được phần lớn những thế lực lân bang có khả năng gây nguy hại. Trên con đường chinh phạt của mình, công tước vẫn còn phải e ngại vua nước Pháp bởi ông nhận thấy, dù nhận ra sai lầm quá muộn nhưng vua nước Pháp cũng sẽ không ủng hộ những cuộc chinh phạt tiếp theo của ông.
                                  Bởi vậy, ông bắt đầu tìm kiếm những đồng minh mới và tìm cách hòa hoãn với nước Pháp trong khi người Pháp tiến hành cuộc chiến tại vương quốc Naples với người Tây Ban Nha lúc đó đang vây đánh Gaeta. Mục đích của công tước là giữ cho mình an toàn và mưu đồ này của ông hẳn đã sớm thành công nếu Giáo hoàng Alexander không đột ngột qua đời.
                                  Đó là những thủ đoạn mà công tước đã sử dụng để đối phó với tình hình trước mắt. Tuy nhiên, đối với những sự kiện tiếp theo, ông sợ rằng vị Giáo hoàng kế nhiệm có thể sẽ không thân thiện với ông mà sẽ tìm cách tước đoạt những gì Giáo hoàng Alexander đã ban cho ông.
                                  Để đối phó với nguy cơ đó, công tước dự định sẽ bảo vệ mình bằng bốn cách. Thứ nhất, tiêu diệt thân thích của các lãnh chúa mà ông đã tước đoạt đất đai, của cải để Giáo hoàng mới không có cơ hội phục hồi quyền lợi cho bọn chúng. Thứ hai, giành sự ủng hộ của tất cả quý tộc ở thành Rome, như đã nói ở trên, để kiềm chế Giáo hoàng. Thứ ba, mua chuộc và chi phối Hội đồng Hồng y giáo chủ34 [34 Hội đồng Hồng y giáo chủ: Nhóm các Hồng y Giáo chủ có trách nhiệm bầu ra Giáo hoàng mới]. Thứ tư, chiếm thật nhiều đất đai trước khi Giáo hoàng Alexander chết để có thể chống lại cuộc tấn công đầu tiên mà không cần đến đồng minh.
                                  Khi Giáo hoàng Alexander chết, công tước đã thực hiện được ba trong bốn việc trên, còn việc thứ tư gần như đã hoàn thành. Ông đã trừ khử tất cả những quý tộc bị tước đoạt đất đai, của cải mà ông bắt được và chỉ có rất ít sống sót. Ông đã giành được cảm tình của giới quý tộc thành Rome. Ông đã lôi kéo được đa số thành viên của Hội đồng Hồng y Giáo chủ. Để thôn tính thêm những vùng lãnh thổ mới, ông đặt kế hoạch bá chủ vùng Tuscany và trên thực tế ông đã chiếm được Perugia, Piombino và đặt Pisa dưới sự bảo hộ của mình.
                                  Ngay khi không còn phải nể nang các ý nguyện của nước Pháp nữa (do người Pháp đã bị người Tây Ban Nha đánh đuổi khỏi vương quốc Naples nên cả hai bên đều đang muốn kết thân với ông), ông sẽ tấn công xứ Pisa. Sau đó, các xứ Lucca và Siena sẽ nhanh chóng đầu hàng, một phần để chọc tức người Florence và một phần do sợ hãi. Khi đó người Florence sẽ không có cách nào để tránh phải đầu hàng.
                                  Nếu những kế hoạch đó được thực hiện (và lẽ ra ông đã có thể hoàn thành đúng vào năm xảy ra cái chết của Giáo hoàng Alexander), ông đã có thể thâu tóm được binh lực hùng hậu và gây được uy danh lừng lẫy đến mức có thể một mình đứng vững nhờ quyền lực và tài trí của mình chứ không cần dựa vào binh lực và ân sủng của người khác.
                                  Nhưng khi ông mới bắt đầu cuộc chinh chiến được 5 năm, thì Giáo hoàng Alexander chết và bỏ lại ông đang ốm thập tử nhất sinh. Lúc đó, chỉ có xứ Romagna đã yên ổn và vững chắc, còn tất cả những xứ kia đều bất ổn và bị kẹt giữa hai kẻ thù hùng mạnh. Là một người dũng mãnh và tài trí, công tước hiểu rỏ được rằng tại sao người ta có thể chiến thắng hay thất bại. Ông cũng hiểu rõ những nền móng ông đã gầy dựng trong một thời gian quá ngắn không thể vững chắc. Nếu ông không có những kẻ thù như vậy hoặc ông khoẻ mạnh thì hẳn ông đã vượt qua được mọi khó khăn, trở ngại. Trên thực tế, những nền móng vững chắc mà ông đã tạo dựng được chính là sự trung thành âm thầm của xứ Romagna đối với ông suốt hơn một tháng trời.
                                  Tại thành Rome, mặc dù ốm thập tử nhất sinh, ông vẫn được an toàn. Và cho dù bọn Baglioni, Vitelli và Orsini có tới được thành Rome, chúng cũng không tìm được bè đảng nào chống lại ông. Nếu như ông không thể dựng lên Giáo hoàng mà ông muốn thì ít ra ông có thể đảm bảo rằng đó sẽ không phải là người mà ông không muốn. Nếu ông khỏe mạnh vào thời điểm Giáo hoàng Alexander chết, mọi sự đã thật đơn giản. Đúng vào ngày Giáo hoàng Julius II được thượng phong, chính ông đã nói với tôi rằng, ông đã tiên liệu được những gì có thể xảy ra sau khi cha của ông chết và đã có mọi giải pháp đối phó. Tuy nhiên, có một điều duy nhất mà ông không ngờ tới, và thời điểm giáo hoàng Alexander qua đời cũng chính là lúc ông hấp hối.
                                  Điểm lại tất cả các hành động của công tước, tôi thấy không có gì để chê trách ông. Trái lại, tôi cho rằng những bậc quân vương vươn tới quyền lực nhờ vận may của bản thân và binh lực của người khác đều nên noi theo tấm gương của ông. Là một người có trí lớn và lòng dũng cảm phi thường, ông đã làm tất cả những gì cần phải làm trong hoàn cảnh đó. Các mưu đồ của ông đã bị thất bại chính vì mệnh yểu của Giáo hoàng Alexander35 và sự ốm đau của bản thân ông.
                                  [35 Machiavelli ám chỉ thời gian nắm quyền ngắn ngủi của Giáo hoàng Alexander (11 năm) chứ không đề cập đến tuổi thọ của Giáo hoàng. Tại Chương 11, Machiavelli nhận xét rằng thời gian cầm quyền trung bình của một Giáo hoàng là khoảng 10 năm]
                                  Như vậy, những điều cần thiết  đối với một quân vương vừa giành được ngôi báu là: biết tự bảo vệ trước kẻ thù; tăng thêm đồng minh; chinh phạt bằng vũ lực hoặc bằng thủ đoạn; khiến dân chúng mến phục và sợ uy quyền, làm cho binh lính tôn trọng và tuân phục, trừ khử tất cả những kẻ có thể hoặc có khả năng gây nguy hại, thay thế những thể chế cũ bằng những thể chế mới, nghiêm khắc và độ lượng, cao thượng và hào phóng; giải tán những đội quân thiếu trung thành và tuyển chọn những đội quân mới, duy trì sự thân thiện của các bậc vương hầu theo cách khiến họ phải vui lòng giúp đỡ hoặc không thể tự do gây hại cho quân vương. Hành động của Cesare Borgia là một tấm gương thực tế nhất cho những việc cần làm kể trên.
                                  Người ta chỉ có thể trách ông vì đã để cho Julius trở thành Giáo hoàng. Ông đã có một lựa chọn sai lầm bởi vì, khi không có khả năng bầu ra một Giáo hoàng thuộc phe của mình, thì nên ngăn cản đường đến ngôi vị Giáo hoàng của bất kỳ kẻ nào mà ông không muốn. Ông cũng không bao giờ nên đồng ý việc bầu làm Giáo hoàng bất kỳ một Hồng y Giáo chủ nào mà ông đã nhục mạ hay kẻ nào mà khi trở thành Giáo hoàng, có lý do để sợ ông.
                                  Bởi vì người ta có thể làm hại nhau do căm ghét hoặc sợ hãi. Trong số những người đã bị ông hạ nhục có các Hồng y Giáo chủ San Pietro ad Vincula, Colona, San Giorgio, Ascanio36.
                                  [36 San Pietro ad Vincula, Colona, San Giorgio, Ascanio: Bốn  vị Hồng y này là Giuliano della Rovere (sau này là Giáo hoàng Julius II), được Machiavelli gọi là “Thánh Peter bị xiềng"; Giovanni Colonna (chết năm 1508); Raffaello Riario, Hồng y Giáo chủ xứ San Giorgio (chết năm 1521); và Ascanio Sforza, con trai của Francesco Sforza.]
                                  Nếu trở thành Giáo hoàng, những kẻ còn lại, ngoại trừ các Hồng y Giáo chủ người Tây Ban Nha và Hồng y Giáo chủ D’Amboise xứ Rouen, đều phải e sợ ông. Hồng y Giáo chủ D’Amboise xứ Rouen không sợ ông vì đã có nước Pháp là đồng minh trong khi các Hồng y Giáo chủ người Tây Ban Nha không sợ uy quyền của ông vì những mối liên hệ nhất định cũng như nghĩa vụ của ông với họ 37.
                                  [37 Giáo hoàng Alexander VI, cha của Cesare Borgia sinh ra và lớn lên ở Tây Ban Nha]
                                  Bởi vậy, giải pháp tốt nhất là công tước nên dựng lên một Giáo hoàng người Tây Ban Nha. Nhưng khi việc này thất bại, lẽ ra ông phải tán thành việc bầu chọn Hồng y Giáo chủ xứ Rouen38. Vậy mà, ông đã đồng ý bầu Hồng y Giáo chủ San Pietro ad Vincula với hy vọng xóa bỏ mối thù xưa39.
                                  [38 Hồng y Giáo chủ xứ Rouen: Machiavelli cho rằng Cesare Borgia phải ủng hộ Georges d’Amboise, Hồng y Giáo chủ xứ Rouen, làm Giáo hoàng do áp lực của tổng giám mục Tây Ban Nha và Pháp.
                                   39 Năm 1492, Hồng y Giáo chủ San Pietro ad Vincula (còn được gọi là Giuliano della Rovere, sau này là Giáo hoàng Julius II) đã bị Hồng y Giáo chủ Rodrigo Borgia (Giáo hoàng Alexander VI) đánh bại trong cuộc bầu chọn vào ngôi vị Giáo hoàng sau khi phải bỏ phiếu tới 3 lần.
                                  Tuy nhiên, người nào cho rằng những lợi lộc mới sẽ khiến những người ở địa vị cao quên đi những nỗi nhục xưa là đã tự lừa dối mình. Công tước đã sai lầm trong việc bầu chọn này và đây chính là nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của ông.
                      #11
                        Sun Ming 12.09.2009 10:13:32 (permalink)
                        8
                        NHỮNG NGƯỜI TRỞ THÀNH QUÂN VƯƠNG
                        BẰNG TỘI ÁC

                         
                         
                                    Tuy nhiên, còn hai cách nữa, hoàn toàn không phải là vận may hay tài trí, để một người thường có thể trở thành quân vương. Tôi cho rằng không thể không đề cập đến những phương cách này, dù một cách sẽ được bàn kỹ hơn trong tác phẩm về nền cộng hòa. Cách thứ nhất là trở thành quân vương nhờ sự quỷ quyệt và hành vi tàn ác. Cách thứ hai là trở thành quân vương của đất nước mình nhờ sự ủng hộ của những người đồng bào. Về cách thứ nhất, tôi xin được trích dẫn hai ví dụ, một của thời xưa, một của thời nay. Tôi không đi sâu vào phân tích giá trị của những trường hợp này vì theo tôi, trích dẫn như vậy đủ để hiểu cho những ai buộc phải dùng tới phương cách này.
                                   Từ địa vị thấp hèn nhất, Agathocles xứ Sicily đã trở thành vua của Syracuse. Ông là con trai một người thợ gốm và từ bé, ông đã có một cuộc đời đầy tội ác. Sự độc ác này kết hợp với nghị lực và sự dũng mãnh nên khi gia nhập quân đội, ông leo qua các cấp để trở thành thống lĩnh quân đội Syracuse. Khi đạt đến vị trí này, ông đã quyết định chiếm lấy ngôi vua và dùng bạo lực để nắm giữ những quyền hành được mọi người đồng lòng giao phó.
                                    Để thực hiện âm mưu đó, ông đã hòa hoãn với Hamilcar xứ Carthage, lúc đó đang gây chiến với ông ở Sicily. Một buổi sáng, ông triệu tập dân chúng và các vị nguyên lão của Syracuse như thể sẽ thảo luận các vấn đề quốc gia đại sự. Với ám hiệu đã quy ước trước, ông ra lệnh cho binh lính giết toàn bộ các vị nguyên lão và những người giàu có nhất. Sau đó, ông đã chiếm giữ và cai trị thành phố này mà không vấp phải bất kỳ sự phản đối nào của dân chúng. Mặc dù bị người Carthage đánh bại hai lần và bị bao vây nhưng ông vẫn đủ sức bảo vệ được thành phố. Ông chia quân làm hai, một phần quân đội ở lại giữ thành phố bị bao vây trong khi ông dẫn một đạo quân vượt biển tấn công vào sào huyệt của người Carthage ở Châu Phi. Trong một thời gian ngắn, ông đã giải vây cho Syracuse, và buộc người Carthage phải rút lui một cách khốn khổ. Người Carthage buộc phải hòa hoãn với ông, chấp nhận lui về giữ Châu Phi và nhường Sicily lại cho Agathocles.
                                    Cuộc sống và sự nghiệp của con người này hầu như không có vận may. Như đã nói ở trên, ông không hề được ai giúp đỡ và chỉ bằng cách tiến thân qua những chức vụ trong quân đội với vô vàn khó khăn và nguy hiểm. Ông đã trở thành người cai trị một vương quốc. Sau đó, ông bảo vệ vương quốc này bằng những hành động dũng cảm và sự táo bạo. Tuy nhiên, không thể gọi là tài trí khi tàn sát đồng bào của mình, phản bội bạn bè, phản trắc, không biết xót thương và vô thần. Bằng những phương cách này, người ta có thể đạt được quyền lực chứ không thể có vinh quang.
                                    Khi xem xét sự dũng mãnh dám đương đầu và vượt qua hiểm nguy của Agathocles cũng như nghị lực phi thường của ông khi kháng cự và chiến thắng kẻ thù, người ta không có lý do gì không công nhận ông là vị tướng tài ba nhất. Nhưng sự tàn ác, bất nhân cùng với hàng loạt tội ác của ông đã khiến chúng ta không thể tôn vinh ông sánh ngang những người tài giỏi nhất. Chúng ta cũng không thể coi những thành quả Agathocles đạt được là nhờ vận may hay tài trí bởi vì ông không có cả hai yếu tố này.
                                    Bây giờ, tôi xin lấy một ví dụ thời nay. Dưới thời Giáo hoàng Alexander VI, Oliverotto xứ  Fermo, một đứa trẻ mồ côi, đã được người cậu là Giovanni Fogliani nuôi dưỡng từ tấm bé. Ngay từ khi còn rất trẻ, hắn đã gia nhập quân đội dưới quyền Paulo Vitelli với hy vọng thăng tiến trên con đường binh nghiệp bằng tài quân sự. Sau khi Paulo Vitelli chết, hắn tiếp tục phục vụ cho Vitellozzo, anh trai Paulo Vitelli. Chẳng bao lâu sau, nhờ sự thông minh, cơ thể cường tráng và dũng khí của mình, hắn đã trở thành thống lĩnh đội quân đó. Nhưng khi cảm thấy sự thấp kém vì phải phụng sự kẻ khác, hắn quyết định chiếm lấy Fermo, với sự giúp đỡ của một số người dân Fermo muốn thành phố của mình ở tình trạng phụ thuộc hơn là được tự do, và sự hậu thuẫn từ những bè đảng của Vitellozzo.
                                    Một ngày kia, hắn viết cho Giovanni Fogliani thông báo rằng, sau khi xa nhà đã nhiều năm, hắn muốn trở về gặp mặt cậu và thành phố quê hương cũng như muốn được tận mắt nhìn thấy gia sản của mình. Bởi vì hắn đã phấn đấu hết mình vì mục đích duy nhất là đạt được sự vinh quang  nên hắn muốn được trở về trong tư thế đáng được tôn kính, với một trăm kỵ sỹ là bạn bè và người hầu hộ tống để những người dân Fermo biết rằng thời gian của hắn đã không trôi đi uổng phí. Hắn xin cậu mình bố trí một cuộc đón tiếp trọng thể của người dân Fermo vì điều đó đem lại vinh dự, không chỉ cho hắn mà còn cho cả Giovanni, người họ hàng gần gũi nhất và cũng đồng thời là người nuôi nấng hắn.
                                    Vì thế, Giovanni không có cách nào trốn tránh trách nhiệm của mình với cháu. Giovanni đã bố trí để người cháu được dân chúng Fermo đón tiếp long trọng và mời cháu ở lại nhà mình. Vài ngày sau, Oliverotto đã bí mật sắp đặt những âm mưu đen tối. Hắn mở một bữa tiệc long trọng mời Giovanni Fogliani và tất cả những công dân quan trọng của Fermo. Khi các  món ăn và những trò vui của bữa tiệc kết thúc, theo chương trình, Oliverotto sẽ thảo luận những vấn đề nghiêm túc như ca ngợi sự vĩ đại của Giáo hoàng Alexander và con trai của ngài là Cesare Borgia, cũng như sự nghiệp của họ.
                                    Sau khi Giovanni và những người khác có vài lời đáp lại, hắn bất thần đứng lên tuyên bố rằng những điều này cần được thảo luận ở nơi kín đáo hơn. Giovanni và mọi người đi theo hắn vào một căn phòng khác. Ngay khi họ vừa ngồi xuống,  binh lính từ những chỗ bí mật trong phòng xông ra kết liễu Giovanni và tất cả những người khác. Sau vụ tàn sát này, Oliverotto lên ngựa dạo quanh thành phố, bay vây những quan chức hàng đầu của chính quyền. Do quá sợ hãi, những quan chức này buộc phải tuân lệnh hắn và lập ra một chính quyền mới do hắn đứng đầu.
                                    Sau khi đã trừ khử tất cả những kẻ bất mãn, hắn đã củng cố địa vị của mình bằng cách xây dựng các thể chế quân sự và dân sự mới. Nhờ vậy, trong thời gian trị vì vương quốc này, không những hắn được an toàn tại Fermo mà tất cả các nước lân bang cũng đều phải khiếp sợ. Việc loại bỏ hắn cũng khó khăn như đối với Agathocles nếu hắn không để Cesare Borgia lừa vào bẫy. Như đã nói ở trên, công tước đã bắt sống gia tộc Orsini và gia tộc Vitelli tại  Sinigaglia. Cũng chính tại đây, chỉ một năm sau khi phạm tội ác, hắn bị bắt và bị treo cổ cùng với Vitallozzo, bậc thầy của hắn về sự dũng mãnh và tàn ác.
                                    Người ta có thể đặt câu hỏi là làm thế nào Agathocles và những người như ông ta, sau biết bao tội ác và phản trắc lại có thể sống một cách yên ổn lâu như thế và có thể chống lại kẻ thù từ bên ngoài mà không bị dân chúng âm mưu lật đổ. Nhiều quân vương khác, khi dùng tới các biện pháp tàn bạo, đã không thể cai trị được đất nước trong thời bình chứ chưa nói đến thời chiến bất ổn. Tôi cho rằng điều đó phụ thuộc vào việc sự tàn bạo được sử dụng đúng cách hay không đúng cách. Sử dụng đúng cách là những sự tàn bạo (nếu có thể nói đến sự đúng cách trong tội ác) được thực hiện một lần chỉ để nhằm tự vệ. Sự tàn bạo này không lặp lại mà phải biến thành những lợi ích to lớn cho thần dân. Sử dụng không đúng cách là những tàn bạo ban đầu chỉ nhỏ bé nhưng dần dần lớn lên chứ không mất đi. Những người dùng tới tàn bạo đúng cách có thể chuộc lỗi với Chúa và con người, như Agathocles đã làm, còn những kẻ tàn bạo không đúng cách thì không thể tồn tại được.
                                    Bởi vậy, cần lưu ý rằng, khi chiếm lấy một đất nước thì người chinh phục cần tính toán tất cả những điều ác phải làm và thực hiện chúng cùng một lúc để không phải thường xuyên lặp lại.
                                    Cách này sẽ khiến dân chúng cảm thấy an toàn và quân vương sẽ chiếm được cảm tình của họ nhờ những lợi ích mà ông ban cho họ. Những kẻ làm ngược lại, cho dù vì thiếu quyết đoán hay vì bị xui dại, sẽ luôn phải cầm dao trong tay bởi chúng chẳng bao giờ dám tin vào thần dân và những thần dân này chẳng cảm thấy an toàn với vị quân vương của mình vì họ phải liên tiếp gánh chịu hậu quả của hàng loạt sự tàn bạo.
                                    Chính vì vậy, những tổn thương cần được dội xuống cùng một lúc, và thời gian nếm trải tổn thương càng ngắn thì sự thù ghét càng ít. Trái lại, lợi lộc được ban phát nhỏ giọt sẽ thấm thía hơn. Điều quan trọng nhất là bậc quân vương cần phải hành xử với thần dân theo cách mà cho dù bất kỳ một sự kiện bất ngờ nào, tốt hay xấu, xảy đến cũng không khiến ngài phải thay đổi đường lối. Bởi vì khi hoàn cảnh bất lợi buộc ngài phải hành động, việc dùng tới các biện pháp tàn bạo sẽ không đúng lúc, trong khi những việc tốt mà ngài thực hiện cũng chẳng đem lại lợi ích gì, vì người ta sẽ cho rằng ngài rơi vào hoàn cảnh buộc phải làm như vậy nên chẳng ai lại biết ơn điều đó cả.
                        #12
                          Sun Ming 12.09.2009 10:19:34 (permalink)
                          9
                          CÁC VƯƠNG QUỐC DÂN SỰ
                           
                           
                                     Bây giờ tôi xin bàn về cách thứ hai. Theo cách này, một người dân thường trở thành đấng quân vương do được những đồng bào của mình suy tôn chứ không phải bằng thủ đoạn độc ác hay sự tàn bạo không thể dung thứ.
                                       Đây có thể gọi là vương quốc dân sự. Vương quốc này giành được không hoàn toàn nhờ tài trí hay vận may mà nhờ vào sự khôn khéo gặp thời. Tôi xin lưu ý là những quân vương như vậy có thể được đưa lên ngôi báu bởi dân chúng hoặc giới quý tộc. Có hai khuynh hướng đan xen trong mọi thể chế chính trị. Dân chúng không muốn bị giới quý tộc cai trị và hà hiếp trong khi giới quý tộc thì lại muốn cai trị và đè nén dân chúng. Từ hai khuynh hướng đối lập đó, ba trường hợp có thể xảy ra: chế độ quân chủ, thể chế tự do hoặc tình trạng vô chính phủ.
                                      Một vương quốc ra đời có thể do dân chúng hoặc do giới quý tộc, tùy thuộc vào bên nào có thời cơ. Khi tự lượng sức không thể đối chọi với dân chúng, giới quý tộc sẽ ủng hộ việc đưa một người trong bọn họ lên ngôi vua, mong núp bóng quân vương này để thỏa mãn những tham vọng riêng của mình. Cũng như vậy, khi nhận thấy không thể đương đầu với giới quý tộc, những người dân thường sẽ ủng hộ việc đưa một cá nhân lên làm vua với hy vọng người đó sẽ hàm ơn và dùng quyền lực để che chở cho họ.
                                      Quân vương nào có được vương quốc nhờ giới quý tộc sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc duy trì ngôi báu so với quân vương lên ngôi nhờ sự hậu thuẫn của dân chúng. Bởi vì xung quanh vị quân vương này là những kẻ tự cho rằng bọn chúng ngang hàng với ông  nên ông sẽ không thể cai trị hay đưa bọn chúng vào khuôn phép theo ý muốn được. Trong khi đó, quân vương nào được dân chúng tôn lên ngôi vua sẽ có địa vị độc tôn và hầu như chẳng có kẻ nào dám chống lệnh ông.
                                      Hơn nữa, đối với giới quý tộc, quân vương không thể đồng thời làm hài lòng kẻ này mà lại không khiến kẻ khác thiệt thòi. Thế nhưng dân chúng chắc chắn sẽ cảm thấy hài lòng vì nguyện vọng của họ chính đáng hơn so với giới quý tộc. Dân chúng mong muốn không bị đè nén, áp bức còn giới quý tộc thì muốn hà hiếp dân chúng. Hơn nữa, một quân vương không bao giờ an toàn khi bị dân chúng căm thù bởi vì đây là một lực lượng vô cùng đông đảo.
                                      Thế nhưng quân vương có thể tự bảo vệ khi đối đầu với giới quý tộc vì chúng chỉ gồm một số ít người. Điều tồi tệ nhất mà một quân vương có thể gặp ở đám dân chúng thù địch là bị bỏ rơi. Trong khi đó, giới quý tộc thù địch thì không chỉ bỏ rơi ông mà chúng còn liên kết chống lại ông. Do khôn ngoan và hiểu biết hơn, giới quý tộc luôn kịp cứu bản thân mình, cầu cạnh phe cánh có khả năng chiến thắng. Quân vương luôn phải sống giữa một đám dân chúng gần như không có sự thay đổi nào nhưng lại có thể dễ dàng thay đổi giới quý tộc bằng quyền năng dựng lên và triệt hạ bọn chúng bất kỳ lúc nào. Quân vương có thể tước bỏ hay ban phát chức tước cho giới quý tộc bất cứ khi nào ông muốn.
                                      Để làm rõ điểm này, theo tôi, có thể nhìn nhận giới quý tộc theo hai loại chính sau đây. Loại quý tộc đầu tiên hành động hoàn toàn nhằm cống hiến cho sự nghiệp của ngài, còn loại thứ hai thì không có sự tận tâm như vậy. Những nhà quý tộc có sự tận tâm lớn nhưng không tham lam thì đáng được kính trọng và yêu quý. Đối với những nhà quý tộc không tận tâm, ngài có thể đánh giá theo hai khả năng. Nếu như bọn họ hành xử do sợ hãi và bản tính hèn nhát thì ngài nên khai thác, đặc biệt khi đó là những quân sư tài giỏi.
                                      Lúc thịnh, bọn họ có thể đem lại cho ngài danh tiếng, còn tới lúc suy bọn họ không đáng sợ. Nhưng nếu là những kẻ xảo quyệt và bị tham vọng chi phối, chúng sẽ không tận tâm với ngài. Đây là dấu hiệu cho thấy chúng nghĩ đến bản thân nhiều hơn là đến ngài. Bậc quân vương phải để mắt đến loại quý tộc này như những kẻ thù trực diện bởi vì khi khó khăn, đây luôn là nguyên nhân góp phần dẫn tới sự sụp đổ của ông.
                                      Tuy nhiên, quân vương nào lên được ngôi báu nhờ sự hậu thuẫn của dân chúng sẽ luôn phải duy trì sự thân thiện với dân chúng. Đây là một điều dễ dàng đối với quân vương vì nguyện vọng duy nhất mà người dân muốn được quân vương đáp ứng là không bị áp bức. Người nào được giới quý tộc đưa lên làm vua trái với ý nguyện của dân chúng thì điều trước tiên phải làm là tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng. Đây là một điều rất dễ dàng nếu quân vương biết đặt dân chúng dưới sự che chở của mình. Con người thường cảm kích hơn khi nhận được ân sủng từ những kẻ mà họ cho rằng lẽ ra đã xử ác với họ.
                                      Dân chúng sẽ nhanh chóng bày tỏ thiện cảm với vị quân vương này và sự ủng hộ còn nhiều hơn so với trường hợp quân vương được dân chúng đưa lên ngôi báu. Quân vương có thể tranh thủ tình cảm của dân chúng bằng nhiều cách. Vì cách nào được dùng tới còn tùy theo hoàn cảnh nên không có một quy tắc cố định nào. Do vậy, tôi không bàn về những quy tắc đó. Chỉ xin kết luận rằng, quân vương cần phải tranh thủ được cảm tình và sự ủng hộ  của dân chúng. Nếu không được lòng dân, quân vương sẽ bị bỏ rơi khi hoạn nạn.
                                      Nabis40, vua xứ Sparta, đã chống trả được các cuộc tấn công của tất cả các thành bang của Hy Lạp cũng như của một trong những đội quân La Mã thiện chiến nhất. Ông đã bảo vệ thành phố và vương triều của mình trước các cuộc tấn công của kẻ thù. Khi nguy hiểm đến gần, ông chỉ cần dựa vào một lực lượng nhỏ là đã đủ để tự bảo vệ. Lực lượng này chắc chắn sẽ không đủ nếu như dân chúng thù địch với ông.
                                      [40 Nabis: Làm vua xứ Sparta sau năm 207 TCN, bị La mã và người Hy Lạp tấn công năm 195 TCN trong suốt thời kỳ Chiến tranh Macedonian lần thứ hai]
                                      Có thể có ai đó sẽ phản bác ý kiến này của tôi bằng cách trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: “Người nào gây dựng sự nghiệp nhờ dân chúng thì giống như xây lâu đài trên cát”. Tôi xin được nói rằng câu tục ngữ này chỉ đúng trong trường hợp một quân vương xây dựng nền móng  của mình dựa vào dân chúng nhưng lại nghĩ rằng dân chúng sẽ buông tha ông ta khi ông ta chịu để kẻ thù hoặc bọn quan lại lấn át (khi ấy ông ta sẽ phải thất vọng, như anh em nhà Gracchus thành Rome41 hay Giorgio Scali42 thành Florence).
                                      [41 Anh em nhà Gracchus thành Rome: Tiberius Sempronius Gracchus (chết năm 133 TCN), nhà cải cách và quan bảo dân nổi tiếng người La Mã, và anh trai là Gaius Sempronius Gracchus (chết năm 121 TCN). Cả hai đã chết khi đấu tranh bênh vực cho tầng lớp dân nghèo thành Rome.
                                       42 Giorgio Scali : Một người Florence giàu có trở thành lãnh tụ của phong trào bình dân sau cuộc nổi loạn Ciompi năm 1378. Scali bị chặt đầu năm 1382 sau khi khởi xướng cuộc tấn công vào lâu đài của một vị quan tòa Florence.]
                                      Nhưng nếu vị quân vương đó là một người có tài lãnh đạo, giàu nghị lực, không run sợ trước nguy nan, và có đầy đủ các phẩm chất cần thiết khác, thì ông sẽ giữ vững được ý chí của dân chúng bằng lòng dũng cảm và các thiết chế của mình. Một bậc quân vương như vậy sẽ không bao giờ phải thất vọng vì người dân của mình. Ông sẽ thấy rằng ông đã gây dựng được một nền móng vững vàng.
                                      Các vương quốc loại này thường bị hiểm nguy khi chuyển từ hình thức dân sự thuần túy sang hình thức chính quyền chuyên chế. Với chính quyền chuyên chế, quân vương thường tự mình cai trị hoặc cai trị thông qua tầng lớp quan lại.
                                      Khi cai trị thông qua tầng lớp quan lại, vị thế của quân vương sẽ yếu hơn và dễ bị đe dọa hơn bởi quân vương hoàn toàn phụ thuộc vào ý nguyện của những kẻ được bổ nhiệm nắm giữ các chức quan. Bọn quan lại này, đặc biệt là trong lúc khó khăn, có thể dễ dàng chiếm giữ vương quốc bằng cách chống đối ra mặt hoặc bằng cách không tuân lệnh. Trong những thời điểm hiểm nguy này, quân vương sẽ không có đủ thời gian thâu tóm lại quyền lực tối cao. Do đã quen với việc thi hành mệnh lệnh của bọn quan lại nên trong cơn hoảng loạn, dân chúng sẽ không sẵn lòng tuân lệnh quân vương.
                                      Trong những hoàn cảnh rối ren, quân vương khó lòng tìm được người thân tín. Một vị quân vương như vậy không thể dựa vào những gì ông vẫn thấy trong yên bình khi người ta cần tới quyền lực của ông. Khi yên bình, mọi người vây quanh, hứa hẹn và sẵn lòng xả thân cho quân vương bởi vào lúc đó chẳng cần tới sự hy sinh nào.
                                      Nhưng vào thời điểm khó khăn khi quốc gia cần những công dân thực sự, sẽ chỉ có rất ít kẻ sẵn lòng. Phép thử này là vô cùng nguy hiểm vì không có cơ hội thực hiện lần thứ hai. Một quân vương khôn ngoan cần tìm ra cách để trong mọi hoàn cảnh và vào mọi lúc, thần dân của ông đều cần đến uy quyền của chính ông và của quốc gia. Khi đó, các thần dân sẽ luôn trung thành với ông.
                          #13
                            Sun Ming 12.09.2009 10:24:50 (permalink)
                            10
                            ĐÁNH GIÁ SỨC MẠNH CỦA CÁC VƯƠNG QUỐC
                             

                                       Khi xem xét đặc điểm của các vương quốc, chúng ta phải bàn tới một vấn đề: liệu quân vương có đủ quyền lực để tự đứng vững khi cần thiết hay luôn cần sự bảo vệ và che chở của người khác.
                                       Để làm rõ điểm này, tôi cho rằng những quân vương có khả năng tự vệ là những người, thông qua sự dồi dào về tiền bạc hoặc quân đội, có thể tập hợp được một đội quân thích hợp và giỏi xung trận chống lại bất kỳ kẻ nào định tấn công. Còn  những quân vương luôn cần sự bảo trợ của người khác là những quân vương không dám đương đầu với kẻ địch trên chiến trường mà phải ẩn náu, phòng thủ bên trong thành lũy. Trường hợp thứ nhất đã được đề cập43, và cũng sẽ được bàn thêm ở những phần thích hợp. [43 Xem chương 6, chương 12 và 13]
                                       Trường hợp thứ hai cũng chẳng có gì để nói ngoài việc phải khuyến khích những quân vương đó củng cố thành lũy, tích trữ lương thực và đừng bận tâm tới những vùng bên ngoài thành luỹ. Và bất kỳ quân vương nào đã gia cố thành trì vững vàng và đối xử tốt với dân chúng theo cách đã bàn kỹ ở trên (và dưới đây44) [44 Xem chương 9 và 19] thì kẻ địch phải suy tính rất nhiều khi muốn vây hãm ông. Khi thấy trước nhiều gian truân, người ta thường ngại hành động. Thật chẳng dễ dàng gì khi tấn công một quân vương có thành trì được gia cố vững vàng và không bị thần dân thù ghét.
                                       Các thành phố của nước Đức hoàn toàn tự do và có rất ít đất đai bên ngoài thành lũy. Vì thế, thành phố này tuân lệnh hoàng đế nước Đức khi nào họ muốn. Họ chẳng sợ cả hoàng đế lẫn những thế lực lân bang bởi vì các thành phố này đều có thành lũy kiên cố tới mức bất cứ kẻ nào cũng thấy rằng việc chiếm được thành phố hẳn phải rất khó nhọc. Họ có thành cao, hào sâu và pháo binh hùng hậu. Họ luôn dự trữ lương thực, thực phẩm và củi cho một năm.
                                       Bên cạnh đó, để đảm bảo nguồn sống cho tầng lớp hạ lưu mà không làm cạn kiệt công quỹ, họ luôn dự trữ nguyên vật liệu cho một năm để những người này có việc làm và có thể kiếm sống từ những nghề thiết yếu của thành phố. Bên cạnh đó, họ còn coi trọng nghệ thuật quân sự và ban bố nhiều quy định để duy trì nghệ thuật đó.
                                       Bởi vậy, không thể tấn công quân vương nào có thành phố vững vàng và không bị dân chúng thù ghét. Cho dù bị tấn công đi nữa thì kẻ thù cũng sẽ phải lui quân trong hổ thẹn bởi lòng người dễ thay đổi sẽ khiến việc bao vây thành phố suốt một năm với những đội quân nhàn hạ là điều gần như không thể thực hiện được.
                                       Có thể sẽ có ai đó phản bác lại rằng, khi nhìn thấy gia sản của mình ở ngoài thành phố bị phá hủy, người dân sẽ mất kiên nhẫn và sự vây hãm lâu ngày cùng với những lợi ích riêng sẽ khiến họ quên đi quân vương của mình. Tôi xin đáp lại ngay rằng, một vị quân vương có ý chí và uy quyền luôn vượt qua tất cả những khó khăn như thế bằng cách khích lệ thần dân hy vọng rằng nguy nan sẽ không kéo dài, kích động nỗi sợ hãi của họ đối với sự tàn bạo của kẻ thù và khéo léo tự bảo vệ trước những kẻ quá hấp tấp và nóng nảy.
                                       Lúc mới đến, kẻ địch thường đốt phá những vùng xung quanh thành phố. Khi đó, tinh thần của người dân còn rất cao và họ quyết tâm  bảo vệ thành phố nên quân vương không cần lo ngại gì nhiều. Vài ngày sau, khi tinh thần của dân chúng giảm đi phần nào thì thiệt hại lại đã xảy ra và tai họa đã giáng xuống và chẳng còn phương cách nào để khắc phục nữa. Giờ đây, có nhiều người hơn sẵn sàng sát cánh bên quân vương để bảo vệ ông vì dường như ông mắc nợ họ trước việc nhà cửa, gia sản của họ bị đốt phá khi bảo vệ ông.
                                       Bản chất con người là cảm thấy mắc nợ những gì nhận được cũng như cảm thấy người khác phải mắc nợ vì những gì mình đã cho.* Ta có thể thấy rằng, đối với một vị quân vương khôn ngoan thì việc giữ vững tinh thần của dân chúng suốt toàn bộ cuộc vây hãm cũng không khó lắm, miễn là đừng để khan hiếm lương thực và vũ khí.
                             




                            * Chú thích của Sun Ming: câu này dịch có vẻ vô nghĩa. Nguyên văn Machiavelli nói: bản chất con người là gắn bó chặt chẽ với người khác cả vì những ân huệ mình nhận lẫn những ân huệ mình đã trao tặng nữa.
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.09.2009 10:38:25 bởi Sun Ming >
                            #14
                              Sun Ming 12.09.2009 10:34:58 (permalink)
                              11
                              CÁC VƯƠNG QUỐC THUỘC GIÁO HỘI
                               

                                         Bây giờ chỉ còn các vương quốc thuộc Giáo hội là chưa được bàn tới. Đối với hình thức quốc gia này, những khó khăn chỉ nảy sinh trước khi Giáo hội nắm quyền cai trị. Đối với những vương quốc này, việc chinh phục đòi hỏi phải có năng lực hoặc vận may nhưng để cai trị thì lại chẳng cần cả hai điều đó. Các vương quốc này tồn tại bằng những thể chế tôn giáo cổ xưa. Những thể chế này có sức mạnh siêu phàm đến mức có thể đảm bảo quyền lực cho các quân vương cho dù họ có hành xử thế nào đi nữa.
                                          Những quân vương này có các vương quốc mà không phải bảo vệ, có các thần dân mà không phải cai quản. Cho dù không được bảo vệ, thì các vương quốc đó cũng chẳng bao giờ bị chiếm đoạt. Các thần dân không bị cai trị cũng chẳng bận tâm gì về việc phải xa lánh quân vương. Các vương quốc này là những thể chế duy nhất được an toàn và hạnh phúc. Vì các vương quốc này được bảo trợ bởi những trí tuệ siêu phàm mà người trần mắt thịt không thể sánh được, tôi không dám bàn thêm gì nữa. Chỉ có những kẻ tự phụ và liều lĩnh mới dám luận bàn các vương quốc được Chúa tôn vinh và bảo vệ.
                                         Tuy nhiên, có thể ai đó sẽ hỏi tôi rằng tại sao Giáo hội lại có thể đạt được quyền lực lớn đến như vậy45.[45 Quyền lực ở đây không chỉ là thần quyền của Giáo hội mà còn thể hiện ở sự mở mang về lãnh thổ của các vương quốc thuộc Giáo hội.].Trước khi Giáo hoàng Alexander nắm quyền, tất cả những kẻ có thế lực ở Italia, không chỉ vua chúa mà ngay cả bọn lãnh chúa, quý tộc, dù là kẻ hèn yếu nhất cũng đều coi thường quyền lực của Giáo hội. Vậy mà giờ đây, Giáo hội lại có thể khiến vua nước Pháp phải run sợ, đuổi ông ta ra khỏi Italia và làm suy yếu người Venice. Mặc dù những sự kiện này đều đã được biết tới nhưng tôi cho rằng việc nhắc lại cũng không phải là vô ích.
                                         Trước khi vua Charles nước Pháp xâm chiếm Italia, đất nước này nằm dưới quyền cai trị của Giáo hoàng, người Venice, vua Naples, công tước xứ Milan và người Florence. Những người trị vì này đều ý thức được hai vấn đề chính. Thứ nhất, không để quân đội ngoại bang xâm chiếm Italia. Thứ hai, ngăn cản nhau mở mang lãnh thổ. Hai thế lực mà các bên đều thấy cần phải đề phòng nhất là Giáo hoàng và người Venice. Để chế ngự người Venice, các bên còn lại cần lập một liên minh, cũng giống như trường hợp bảo vệ xứ Ferrara.
                                         Để phong tỏa uy quyền của Giáo hoàng, các bên sử dụng bọn quý tộc thành Rome. Bọn này luôn chia làm hai phe, phe gia tộc Orsini và phe gia tộc Colonna và luôn có lý do để hục hặc với nhau. Ngay trước mặt Giáo hoàng, bọn chúng diễu võ dương oai để làm suy yếu vị thế của Giáo hoàng. Mặc dù trong lịch sử, cũng có những giáo hoàng dũng cảm như Giáo hoàng Sixtus46 [46 Giáo hoàng Sixtus: tên thật là Francesco della Rovere (1471-1484), có họ với Giuliano della Rovere (sau này là Giáo hoàng Julius II)] nhưng chẳng vận may hay sự khôn khéo nào giải phóng được họ khỏi những phiền toái đó. Nguyên nhân chính nằm ở thời gian trị vì ngắn ngủi. Trong 10 năm, thời gian trị vì trung bình của một giáo hoàng, khó mà tiêu diệt được toàn bộ một phe phái.
                                         Chẳng hạn, nếu một vị giáo hoàng thành công trong việc tiêu diệt được một phe, chẳng hạn là gia tộc Colonna, thì một vị giáo hoàng mới là kẻ thù của gia tộc Orsini có thể sẽ kế vị và tạo điều kiện cho gia tộc Colonna phục hồi quyền lực nhưng ngay cả vị giáo hoàng này cũng chẳng có đủ thời gian mà diệt tận gốc gia tộc Orsini. Do vậy, trong một thời gian dài ở Italia, quyền lực của Giáo hoàng không được coi trọng.
                                         Khi lên nắm quyền, Giáo hoàng Alexander VI lần đầu tiên chứng tỏ được sự thành công của một Giáo hoàng khi có tiền bạc và quân đội. Nhân cơ hội cuộc xâm lược của người Pháp và bằng sự trợ lực của công tước Valentino, Giáo hoàng Alexander VI đã giành được tất cả những thành công mà tôi đã bàn tới khi kể về các hành động của công tước. Mặc dù thâm tâm của Giáo hàng Alexander VI là đem lại quyền lực cho công tước chứ không phải cho Giáo hội nhưng ngài cũng đã làm cho Giáo hội mạnh lên.
                                         Sau cái chết của ngài và của công tước, điều đó trở thành kết quả sau cùng của biết bao nỗ lực. Khi kế vị Giáo hoàng Alexander,Giáo hoàng Julius II47 [47 Giáo hoàng Julius II: Giuliano della Rovere trị vì với tước hiệu Julius II từ năm 1503 đến 1513] thấy rằng, Giáo hội đã có thế lực rất lớn. Giáo hội đã thâu tóm toàn bộ xứ Romagna trong khi bọn quý tộc thành Rome và các phe phái của chúng đã bị tiêu diệt bởi những đòn đánh chí mạng của Giáo hoàng Alexander. Giáo hoàng Julius cũng phát hiện ra một biện pháp để vơ vét của cải mà Giáo hoàng Alexander hay các vị tiền nhiệm khác chưa từng đụng đến.
                                         Các hành động trước đây của Giáo hoàng Alexander không những được Giáo hoàng Julius tiếp tục mà thậm chí còn được đẩy mạnh hơn. Giáo hoàng Julius quyết tâm chiếm Bologna, đè bẹp người Venice và tống khứ người Pháp khỏi Italia, và ngài đã thành công trong tất cả những công cuộc đó. Ngài xứng đáng giành được nhiều lời ca ngợi hơn bởi ngài đã làm tất cả những điều đó vì quyền lực của Giáo hội chứ không vì quyền lợi của một cá nhân nào. Ngài đã chế ngự được hai phe gia tộc Orsini và gia tộc Colonna trong vòng cương tỏa và khiến cho bọn chúng không gia tăng được thế lực.
                                         Mặc dù có một vài kẻ cầm đầu của hai phe phái này muốn thay đổi tình hình nhưng có hai trở ngại khiến chúng phải lùi bước. Thứ nhất, quyền lực của Giáo hội khiến chúng khiếp sợ. Thứ hai, cả hai gia tộc không có ai là Hồng y Giáo chủ.
                                         Trở ngại thứ hai chính là nguyên nhân sâu xa của mọi xung đột giữa hai phe phái này. Hai phe này không bao giờ có thể hòa hoãn được với nhau chừng nào trong phe bọn chúng có các Hồng y Giáo chủ. Các Hồng y Giáo chủ này sẽ dung dưỡng phe phái của mình không chỉ ở thành Rome mà cả những vùng khác nữa, và bọn quý tộc sẽ buộc phải bảo vệ các vị Hồng y Giáo chủ của phe mình. Bởi vậy, từ tham vọng của các Hồng y Giáo chủ sẽ nảy sinh những mâu thuẫn và xung đột giữa các phe phái quý tộc. Khi lên ngôi, Đức Giáo hoàng Leo48 đã nhận thấy quyền lực thực sự của ngôi vị Giáo hoàng. Thiên hạ hy vọng rằng, nếu như những Giáo hoàng trước đây đã đem lại uy quyền cho Giáo hội nhờ vào vũ lực thì sự nhân từ và đức độ của ngài sẽ làm cho Giáo hội thêm hùng mạnh và được tôn kính.
                                         [48 Đức Giáo hoàng Leo: Hồng y Giáo chủ Giovanni de Medici kế vị Giáo hoàng Julius II tháng 3 năm 1513 và trị vì cho tới năm 1521 với tước hiệu Leo X]
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.09.2009 05:31:08 bởi Sun Ming >
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 32 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9