Quân Vương (bản dịch khác) - Niccolò Machiavelli - HẾT
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 32 bài trong đề mục
Sun Ming 12.09.2009 10:48:28 (permalink)
12
CÁC LOẠI QUÂN ĐỘI VÀ LÍNH ĐÁNH THUÊ
 
 
            Sau khi xem xét đặc điểm của các hình thức vương quốc, các nguyên nhân thành công cũng như hạn chế của các hình thức này và những phương cách thâu tóm cũng như cai trị đất nước của nhiều bậc quân vương, giờ đây tôi muốn bàn một cách tổng quan về những phương cách tấn công và bảo vệ các vương quốc đó.
            Như đã nói ở trên, một quân vương cần xây dựng những nền móng vững chắc, nếu không sẽ phải gánh chịu hậu quả. Nền móng chủ yếu của tất cả các vương quốc, dù mới hay cũ hay hỗn hợp, là luật pháp nghiêm minh và quân đội hùng mạnh. Bởi vì ở đâu không có quân đội hùng mạnh sẽ chẳng thể có luật pháp nghiêm minh và nơi nào có quân đội mạnh thì tất phải có luật pháp nghiêm minh. Tuy nhiên, tôi tạm gác lại vấn đề luật pháp mà chỉ bàn về sức mạnh quân sự.
            Để bảo vệ đất nước, quân vương có thể dùng một đội quân chỉ gồm thần dân của mình hoặc chỉ có lính đánh thuê, hoặc ngoại binh hoặc cả ba loại này. Lính đánh thuê và ngoại binh thường vô dụng và rất nguy hiểm. Nếu một quân vương bảo vệ đất nước bằng quân đánh thuê thì không bao giờ có được sự an toàn và ổn định. Bọn chúng là những kẻ thiếu đoàn kết, tham lam, vô kỷ luật và không trung thành. Chúng hùng hổ trước bạn hữu nhưng lại hèn nhát trước kẻ thù. Chúng không kính sợ Chúa và cũng chẳng trung thành với ai. Sự sụp đổ của ngài chẳng qua là được trì hoãn lại cho đến khi những cuộc tấn công xảy ra.
            Trong thời bình, ngài bị chúng bòn rút, còn trong chiến tranh, lại bị chúng phó mặc cho kẻ thù cướp phá. Chúng không có tình cảm hay động lực nào để chiến đấu ngoài đồng lương ít ỏi không đủ để hy sinh vì ngài. Chúng thích là lính khi không có chiến tranh nhưng khi chiến tranh đến, chúng tháo chạy hoặc đào ngũ. Thật chẳng khó khăn gì để tìm một dẫn chứng bởi vì chính sự suy tàn của đất nước Italia ngày hôm nay là kết quả của một thời gian dài dựa vào sự che chở của những đội quân đánh thuê.
            Mặc dù các đội quân này đôi lúc cũng được việc và tỏ ra khá dũng cảm khi đụng độ với đội quân đánh thuê khác nhưng khi ngoại xâm đến, chúng đã thể hiện đúng bản chất đánh thuê. Vua Charles nước Pháp đã chiếm được nước Italia chỉ với một mẩu phấn49. Có người đã nói rằng tội lỗi của chúng ta là nguyên nhân của thảm họa. Chính người đó đã nói lên sự thật50. Tuy nhiên, ý của ông ta không hoàn toàn như vậy mà nguyên nhân sâu xa chính là những gì tôi vừa bàn tới. Đó là tội lỗi của những quân vương. Chính vì thế, những quân vương phải chịu sự trừng phạt.
             [49 Thành ngữ chỉ với một mẩu phấn: ám chỉ việc vua Charles VIII đã đánh dấu những ngôi nhà được dùng làm nơi đóng quân trong thời kỳ chiếm đóng Italia (1494-1495), Giọng coi thường của Machiavelli là do ông tin rằng hoàn toàn không có sự kháng cự nào từ phía người Italia. Thành ngữ này cũng được sử gia người Pháp Philippe de Commynes (Mémoires VII,14) dùng khi nói về Giáo hoàng Alexander VI.
            50 Có lẽ ám chỉ Girolamo Savonarola, với bài giảng đạo ngày 1 tháng 12 năm 1494 đã coi sự xâm lược Italia của vua Charles VIII như một sự trừng phạt đối với những tội lỗi của nước Italia, Florence và của Giáo hội.]
             Tôi xin được xem xét một cách toàn diện hơn về thực tế đáng buồn của những đội quân này. Những viên chỉ huy các đội quân đánh thuê có thể tài giỏi hoặc bất tài. Nếu tài giỏi, ngài không thể tin họ, bởi họ luôn thèm khát vinh quang, thậm chí cả bằng cách lấn át ngài, chủ nhân của họ, hay bằng cách áp chế những người khác, trái với ý nguyện của ngài. Thế nhưng nếu là kẻ bất tài, hắn lại làm cho ngài suy tàn. Nếu ai đó nói rằng bất cứ ai khi cầm vũ khí đều có bản chất này, cho dù đó có phải là lính đánh thuê hay là loại lính gì đi nữa, thì tôi xin trả lời rằng, các đội quân phải được đặt dưới sự chỉ huy của một quân vương hoặc một nền cộng hòa, và bậc quân vương phải đích thân nắm quyền tổng chỉ huy.
             Nền cộng hòa phải có quân đội gồm những công dân của chính mình. Nếu người chỉ huy được cử ra không tài giỏi, anh ta phải được thay thế, nếu người đó có năng lực, anh ta phải được kiềm chế bằng luật pháp sao cho anh ta không làm gì vượt quá quyền hạn của mình.
             Chúng ta đều có thể thấy một thực tế rằng chỉ những quân vương và những nền cộng hòa được vũ trang mới giành được ưu thế lớn, còn những đội quân đánh thuê chẳng làm được gì ngoài phá hoại. Một nền cộng hòa với quân đội là các công dân của mình sẽ khó bị quân đội tiếm quyền hơn so với khi được bảo vệ bằng quân lính nước ngoài.
             Thành Rome và Sparta trong nhiều thế kỷ đã được vũ trang và nhờ đó được tự do. Người Thụy Sỹ cũng có quân đội rất mạnh và hoàn toàn tự do. Một ví dụ từ thời xưa về việc sử dụng các đội quân đánh thuê là người Carthage. Sau cuộc chiến  tranh đầu tiên với người La Mã, họ gần như đã bị chính những quân lính đánh thuê của mình đánh bại, mặc dù các sĩ quan cũng là người Carthage. Vua Philip của xứ Macedonia51 [51  Vua Philip của Macedonia: Vua Macedonia (359-336 TCN) cha của Alexander Đại đế. Nói một cách chặt chẽ thì Philip không phải là lính đánh thuê.] được người xứ Thebes đưa lên làm chỉ huy quân đội của họ sau khi Epaminondas52 chết, [52 Epaminondas: Vị tướng người Thebes đã đánh bại người Sparta tại trận chiến Leuctra (371 BC)] nhưng sau khi chiến thắng, ông ta lại tước đoạt tự do đó của họ. Sau cái chết của công tước Philip, người Milan cũng đã thuê Francesco Sforza để tiến hành chiến tranh chống lại người xứ Venice nhưng sau khi đánh bại kẻ thù tại Caravaggio, ông ta bắt tay với chúng quay lại chống người Milan, những người đã thuê ông. Sforza (Cha) được nữ hoàng Giovanna của vương quốc Naple53 thuê cũng đã bỏ rơi bà ta ngay lập tức nên để giữ được vương quốc của mình, bà buộc phải ngả vào vòng tay vua Aragon. [53 Nữ hoàng Giovanna của Naples: Người cai trị xứ Naples (1414-1435), đã dùng lính đánh thuê (Sforza và những người khác) để bảo vệ vương quốc của bà].
             Nếu trước đây, người Florence và Venice mở mang đất đai là nhờ vào lính đánh thuê và được chúng bảo vệ chứ không tiếm quyền, thì tôi có thể nói rằng, chẳng qua người Florence đã gặp may. Nguyên do nằm ở chỗ những vị tướng đầy năng lực đó. Người thì có lý do để e sợ, người thì thất trận, người khác gặp sự chống đối và những người khác nữa thì lại đang âm mưu tham vọng ở chỗ khác.  Người đã thất trận là John Hawkwood54 [54 John Hawkwood: Một hiệp sỹ người Anh, tới Italia năm 1361 và đánh thuê cho Florence cho tới khi chết năm 1393 (được biết đến ở Italia với cái tên Giovanni Acuto)]. Ông ta không thành công nên chẳng ai biết đến lòng trung thành của ông ta.* Nhưng bất kỳ ai cũng phải thừa nhận rằng nếu ông ta giành thắng lợi thì chắc hẳn người Florence đã nằm dưới sự định đoạt của ông ta. Sforza và gia tộc Bracceschi55 luôn là kẻ đối địch nên cả hai phải canh chừng nhau. Francesco thực hiện âm mưu ở xứ Lombardy, còn Braccio thì chống lại Giáo hội và vương quốc Naples.
            [55 Gia tộc Bracceschi: là các đội quân đánh thuê do Braccio da Montone (1368-1424) chỉ huy chống lại các đội quân đánh thuê của Sforza được nữ hoàng Giovanna của Naples thuê]
             Bây giờ, chúng ta hãy bàn đến những sự kiện gần đây hơn. Người Florence đưa một người đầy năng lực là Paulo Vitelli56 lên làm chỉ huy quân đội.[56 Paulo Vitelli : Lính đánh thuê người Florence bị xử tử năm 1499 sau trận chiến bất thành tại cuộc vây hãm Pisa, là anh trai của Vitellozzo Vitelli bị Cesare Borgia treo cổ tại Sinigaglia.]. Từ một người thường dân, ông đã vươn đến danh tiếng lẫy lừng. Nếu ông chiếm được Pisa, không ai có thể phủ nhận  rằng người Florence buộc phải làm đồng minh của ông bởi nếu kẻ thù thuê ông thì chẳng còn ai bảo vệ Florence. Còn nếu họ muốn giữ ông lại thì buộc phải tuân theo ông. Về phía người Venice, chúng ta có thể nhận thấy khi chiến đấu bằng chính quân đội  của mình (trước khi họ bắt đầu các cuộc chiến trên bộ), họ rất vững vàng và đáng tôn vinh. Với giới quý tộc và những người dân thường được vũ trang, họ đã chiến đấu dũng cảm.
             Nhưng khi bắt đầu chiến tranh trên bộ, họ không sử dụng chiến lược đã thành công đó mà lại đi theo lối mòn chiến tranh ở Italia. Khi bắt đầu mở rộng lãnh thổ trên bán đảo này, bởi vì họ không có nhiều đất đai ở đây và trong khi có danh tiếng lẫy lừng nên họ chẳng có gì phải e sợ những viên sĩ quan. Nhưng khi lãnh thổ được mở rộng dưới thời viên tướng Carmagnola57 [57 Carmagnola: Francesco Bussone, bá tước Carmagnola (1380-1432), là người Venice. Ông bị Venice xử tử do nghi ngờ thông đồng với kẻ địch là Visconti], thì người Venice đã phải trả giá. Nhận thấy ông là người có năng lực (dưới sự chỉ huy của ông, họ đã đánh bại công tước xứ Milan), nhưng không còn ý chí chiến đấu, người Venice cho rằng không nên chiến chinh cùng ông nữa, bởi vì ông cũng chẳng muốn như vậy. Thế nhưng họ lại không thể loại bỏ ông vì sợ mất đi những gì đã chiếm được.
             Bởi vậy, để được an toàn, họ buộc phải hành quyết ông. Sau đó, họ đưa Bartolomeo da Bergamo, Roberto da San Severino, bá tước xứ Pitigliano58 và nhiều người khác lên chỉ huy quân đội.
             [58 Bartolomeo Colleoni (1400-1475) đã chiến đấu phục vụ xứ Venice, được tưởng nhớ bằng bức tượng hiệp sỹ cưỡi ngựa Verrocchio dựng tại thành phố; Roberto da San Severino chỉ huy quân đội Venice trong cuộc chiến với xứ Ferrara (1482-1484); Niccolò Orsini, bá tước Pitigliano (1442-1510) chỉ huy quân đội Venice trong cuộc chiến thảm khốc Vailà chống lại quân đội của Giáo hoàng Julius II.]
             Với những người này, họ phải lo sợ những vùng đất mất đi chứ không phải vùng đất họ giành được, và rốt cục điều đó cũng đã xảy ra sau này ở Vailà59 [59 Tại trận chiến Vailà hay Agnadello năm 1509, quân Pháp đã đánh bại người Venice], nơi chỉ trong một ngày, họ đã mất hết thành quả của tám trăm năm gian nan vất vả. Những chiến binh này đã tiến hành những cuộc chinh phạt chậm chạp, những thất bại đột ngột và bàng hoàng. Từ những ví dụ này, tôi muốn xem xét trường hợp của Italia, đất nước đã nhiều năm nằm dưới sự thống trị của những đội quân đánh thuê. Tôi muốn thảo luận vấn đề này kỹ hơn, để khi đã làm sáng tỏ những nguồn gốc và diễn biến của vấn đề thì có thể sửa chữa dễ dàng.
            Vì thế, ngài cần phải hiểu tại sao mà gần đây, khi đế chế La Mã bị đánh bật khỏi Italia, và uy danh của Giáo hoàng tăng lên thì đất nước Italia lại bị chia rẽ thành nhiều tiểu quốc. Nhiều thành phố lớn đã nổi dậy chống lại giới quý tộc từng cai trị họ với sự hậu thuẫn ban đầu của hoàng đế; và Giáo hội lại ủng hộ việc gia tăng quyền thế tục của những thành phố này. Còn tại nhiều thành phố khác, nhiều công dân trở thành bậc quân vương.
            Nhờ thế, Italia đã hầu như nằm trong tay Giáo hội và các chính phủ cộng hòa. Những thầy tu và những người dân vốn không quen cầm vũ khí này đã thuê quân lính nước ngoài. Alberigo xứ Conio60 [60 Alberigo xứ Conio: Alberigo da Barbiano (chết năm 1409), người thành lập đội quân đánh thuê gồm toàn người Italia chứ không phải là người nước ngoài] – người xứ Romagna, là viên tướng đầu tiên đem lại tiếng tăm cho đội quân đánh thuê và sau đó là Braccio và Sforza, những người khi gặp thời đã từng làm mưa làm gió ở Italia. Cho tới nay, nhiều người khác vẫn chỉ huy các đội quân đánh thuê. Và kết quả là Italia đã bị vua Charles giày xéo, bị vua Louis cướp phá, bị vua Ferdinand quấy rối, bị người Thụy Sĩ sỉ nhục.
             Biện pháp của những viên tướng đánh thuê là trước tiên tăng uy danh cho đội quân bản bộ bằng cách hạ thấp vai trò của bộ binh. Chúng làm như vậy vì chúng là những kẻ không có tổ quốc và phải sống bằng nghề đánh thuê. Một lượng nhỏ bộ binh không thể đem lại thanh thế cho chúng và hơn nữa, chúng cũng chẳng có đủ tiền để thuê nhiều. Bởi vậy, chúng hoàn toàn dựa vào kỵ binh vì chỉ cần một ít quân cũng sẽ được kiêng nể. Chúng giảm thiểu lực lượng bộ binh đến mức trong hai mươi nghìn quân khó có thể tìm được hai nghìn bộ binh. Bên cạnh đó, chúng làm mọi cách để giảm bớt những khó khăn và lo sợ cho bản thân và quân bản bộ.
             Trong các trận đánh, chúng không giết nhau mà chỉ bắt tù binh nhưng lại không đòi tiền chuộc. Chúng không tấn công các thành phố vào ban đêm; còn các lính đánh thuê trong thành cũng không tấn công các trại lính vây thành. Chúng chẳng đào hào đắp lũy xung quanh trại đóng quân, cũng không tiến hành chiến dịch vào mùa đông. Quân pháp do chúng tự đặt ra cho phép chúng làm tất cả những điều đó và giúp chúng thoát khỏi, như đã nói, mọi khó khăn và nguy hiểm.
             Chính những viên tướng đánh thuê đó đã đưa Italia rơi vào tình trạng nhục nhã và cảnh nô lệ.
 




* Chú thích của Sun Ming: câu này phải dịch là: chẳng có gì chứng tỏ thật sự ông có trung thành hay không.
#16
    Sun Ming 12.09.2009 10:54:34 (permalink)
    13
     QUÂN ĐỘI QUỐC GIA, NGOẠI BINH VÀ QUÂN HỖN HỢP
     
     
                Ngoại binh, một loại quân vô dụng khác, là những kẻ mà ngài cầu viện một người có quyền lực sai tới để hỗ trợ và bảo vệ ngài, như Giáo hoàng Julius đã làm sau khi chứng kiến cuộc chiến đáng thất vọng của đội quân đánh thuê tại Ferrara. Giáo hoàng đã quay sang cầu viện ngoại binh và thỏa thuận với vua Ferdinand của Tây Ban Nha để điều quân hỗ trợ Giáo hoàng. Bản thân những tên lính này có thể là một đội quân tốt nhưng đối với người phải nhờ cậy thì chúng luôn chẳng đem lại gì tốt lành. Nếu chúng thua trận thì chỉ ngài bị đánh bại, nhưng nếu chúng thắng trận, thì ngài lại trở thành tù nhân của chúng.
                Mặc dù trong lịch sử có rất nhiều ví dụ như vậy, nhưng tôi muốn đi sâu vào trường hợp gần đây của Giáo hoàng Julius II – người có những chính sách vô cùng sai lầm. Để chiếm được xứ Ferrara, ông đã phó mặc cho ngoại bang. Vận may đã giúp ông tránh được hậu quả của quyết định sai lầm này vì sau khi ngoại binh tới Ravenna, người Thụy Sỹ đã vùng dậy và đánh đuổi những kẻ thắng trận trước sự kinh ngạc của Giáo hoàng và những người khác. Bởi vậy, ông không bị kẻ thù bắt, do chúng đã bỏ chạy, hay bị ngoại binh cầm tù. Như thế, ông đã chiến thắng nhờ người khác chứ không nhờ vào ngoại binh. Và người Florence, hoàn toàn không có quân đội, đã thuê mười nghìn quân Pháp để chiếm Pisa. Làm như thế, họ đã đem họa vào thân. Để chống lại các nước láng giềng, hoàng đế của Constantinople61 [61 Hoàng đế của Constantinople: Hoàng đế Cantacuzenus (1292-1383), người thống trị đế chế Byzantine và đồng thời nắm giữ ngôi vị Giáo hoàng với tước danh John VI], đã mang mười ngàn quân Thổ Nhĩ Kỳ đến Hy lạp, nhưng khi chiến tranh kết thúc, đạo quân này lại không muốn trở về, và từ đó bắt đầu thời kỳ lệ thuộc của Hy Lạp vào những kẻ ngoại đạo.
                Chỉ người nào không muốn chinh phục mới dùng những đội quân này bởi chúng nguy hiểm hơn nhiều so với đám lính đánh thuê. Sử dụng chúng tất yếu sẽ khiến ngài bại vong. Chúng hoàn toàn thống nhất và chịu sự chỉ huy của kẻ khác. Lính đánh thuê thì cần nhiều thời gian và cơ hội hơn nếu chúng có ý định hãm hại ngài sau khi giành chiến thắng, vì chúng không phải là một khối thống nhất và chúng được ngài thuê và trả lương. Còn kẻ được ngài phong làm chỉ huy chúng thì không thể ngay lập tức tập trung đủ quyền lực để làm hại ngài. Tóm lại, điều nguy hiểm nhất ở lính đánh thuê là sự hèn nhát, còn ở ngoại binh là sự liều lĩnh.
                Quân vương khôn ngoan luôn tránh xa những loại quân này mà chỉ dựa vào chính thần dân của mình. Quân vương thà thất bại với quân đội của mình hơn là chiến thắng với quân đội của người khác, vì chiến thắng bằng ngoại binh không phải là chiến thắng thực sự. Tôi không do dự trích dẫn Cesare Borgia và các chiến công của ông làm hình mẫu. Vị công tước này tiến vào Romagna bằng ngoại binh, một đội quân toàn lính Pháp và đã chiếm được Imola và Forlì. Nhưng khi thấy đội quân này không đáng tin cậy, ông quay sang dùng lính đánh thuê là gia tộc Orsini và Vitelli vì nghĩ rằng chúng ít nguy hiểm hơn.
                Sau khi thấy chúng cũng không đáng tin, thiếu trung thành và đầy xảo trá, ông đã loại bỏ chúng và quay sang dùng quân đội quốc gia của mình. Thật dễ dàng nhìn thấy sự khác biệt giữa hai loại quân này khi ta so sánh tiếng tăm của công tước khi dùng quân Pháp, quân của gia tộc Orsini và Vitelli với khi ông dựa vào đội quân của chính mình. Khi dùng quân đội quốc gia, tiếng tăm của ông ngày một tăng. Khi thực sự thống lĩnh quân đội của chính mình, ông được kính nể hơn rất nhiều.
                Tôi không muốn đi quá xa khi nhắc đến những trường hợp gần đây của Italia, nhưng tôi cũng không muốn lại bỏ sót Hiero của Syracuse, người tôi đã từng nhắc đến ở trên. Là thống lĩnh quân đội của Syracuse,  ông nhanh chóng nhận thấy đội quân đánh thuê thật vô dụng và gồm toàn những kẻ giống như lính đánh thuê người Italia. Nhưng dường như ông lại không thể duy trì hay sa thải chúng nên ông đã chia nhỏ chúng rồi sau đó tiến hành chiến tranh bằng quân đội của chính mình chứ không phải với đội quân nước ngoài. Tôi cũng xin trích một ví dụ từ Kinh Cựu Ước62 [62 Hình tượng David có vai trò rất quan trọng trong hình ảnh của nền cộng hòa Florence bởi các bức tượng David nổi tiếng do Donatello, Verrocchio và Michelangelo làm đều được đặt gần Palazzo della Signoria, trụ sở chính phủ cộng hòa]. David yêu cầu Saul để mình giao đấu với Goliath, tên khổng lồ người Philistine. Để tăng thêm lòng can đảm cho David, Saul trao cho ông bộ áo giáp của mình nhưng David đã từ chối và nói rằng, với bộ áo giáp đó, ông không thể chứng tỏ được bản lãnh của mình và do vậy, ông muốn được đối mặt với kẻ thù bằng chính thanh gươm và cây cung của ông.
                Tóm lại, vũ khí của kẻ khác có thể chĩa vào lưng ngài, đè ngài xuống hoặc trói ngài lại. Vua Charles VII - cha của vua Louis XI, đã giải phóng nước Pháp khỏi những người Anh bằng chính vận may và tài trí của ông. Nhận thấy cần phải vũ trang cho mình và dân chúng, ông đặt ra các quy định tuyển kỵ binh và bộ binh cho vương quốc của mình. Về sau, con trai ông là vua Louis đã hủy bỏ các quy định về bộ binh và bắt đầu thuê lính Thụy Sỹ. Sai lầm này cùng với những sai lầm khác, như ngày nay chúng ta đang chứng kiến, đã đem lại nhiều hiểm họa cho nước Pháp. Bằng cách đề cao người Thụy Sỹ, vua Louis đã hạ thấp quân đội của chính mình; vì ông hoàn toàn loại bỏ bộ binh và đặt kỵ binh phụ thuộc vào quân của người khác.
                Chỉ quen chiến đấu cùng với lính Thụy Sỹ, kỵ binh Pháp cảm thấy không thể chiến đấu mà không có lính Thụy Sĩ nên thành ra quân Pháp không mạnh bằng quân Thụy Sỹ, và khi không có lính Thụy Sĩ, kỵ binh Pháp không dám chiến đấu. Và thế là quân Pháp luôn kết hợp cả lính đánh thuê với quân đội quốc gia. Quân đội được phối hợp như vậy mạnh hơn nhiều so với toàn là lính đánh thuê hoặc toàn là lính nước ngoài nhưng kém xa khi so với quân đội toàn là người bản quốc. Ví dụ vừa dẫn đủ để khẳng định rằng nước Pháp lẽ ra là bất khả chiến bại nếu chính sách của vua Charles được duy trì và triển khai. Nhưng sự nông cạn của con người đã khiến người ta áp dụng những chính sách trông thì có vẻ tốt nhưng ẩn chứa biết bao hậu họa như tôi đã đề cập ở trên 63 [63 Xem chương 3].
                Do vậy, vị quân vương nào không nhận thấy được những tai ương còn trứng nước trong vương quốc của mình không thực sự là người khôn ngoan. Tuy nhiên, chỉ có rất ít người có được khả năng này. Nếu tìm hiểu nguyên nhân chính dẫn tới sự sụp đổ của đế chế La Mã thì người ta sẽ thấy sự sụp đổ này mở màn bằng việc những người Goths được thuê làm lính. Kể từ đó, sức mạnh của La Mã suy yếu và rút cạn để truyền sang người Goths.
                Tôi xin kết luận rằng không một vương quốc nào có thể an toàn nếu thiếu quân đội của chính mình. Nếu không, trong khó khăn sẽ chỉ có vận may chứ không thể có sức mạnh và sự trung thành nào bảo vệ cho vương quốc đó. Và một người khôn ngoan luôn tin tưởng và biết rằng “danh tiếng có được không nhờ năng lực của chính mình thì không thể bền lâu”. Quân đội quốc gia là đội quân được hình thành từ các thần dân hoặc từ những người được ngài bảo hộ, còn những đội quân khác đều là lính đánh thuê và lính nước ngoài.
                Có thể dễ dàng tìm ra cách tổ chức một đội quân của mình từ các phương pháp đã được bốn nhân vật mà tôi trích dẫn ở trên sử dụng. Tôi hoàn toàn tin tưởng và cách mà vua Philip (cha của Alexander Đại đế), nhiều nền cộng hòa và nhiều quân vương đã áp dụng để tự vũ trang và tổ chức quân đội.
    #17
      Sun Ming 12.09.2009 10:59:14 (permalink)
      14
      QUÂN VƯƠNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ QUÂN SỰ
       
       
                  Những điều duy nhất mà bậc quân vương phải làm và phải lo nghĩ là chiến tranh, các thiết chế và các quy tắc của chiến tranh, bởi đó là công việc của người trị vì. Điều này rất quan trọng vì không chỉ giúp những người sinh ra đã là quân vương duy trì được địa vị mà trong nhiều trường hợp, còn có thể đưa một người dân thường lên ngôi báu. Hiển nhiên, những quân vương nào quan tâm đến sự hưởng thụ cá nhân hơn là đến quân đội sẽ đánh mất vương quốc của mình. Nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới mất nước là bỏ qua binh pháp, còn phương thức để mở mang bờ cõi đã được đúc kết vào binh pháp.
                  Từ một người dân thường, Francesco Sforza trở thành công tước xứ Milan là nhờ có binh lực. Những người kế nhiệm ông, do né tránh phiền toái của việc dùng binh nên từ địa vị công tước đã rơi xuống thành những kẻ thường dân. Không nói đến những hậu quả tai hại khác, việc không có quân đội khiến người ta bị coi thường, mà đây lại là điều bậc quân vương phải tránh, như sẽ bàn tới dưới đây 64 [64 Xem chương 15 và 16]. Không có gì để so sánh một người có vũ khí với một người không có vũ khí, chẳng có lý do gì để một người có vũ khí tự nguyện tuân lệnh kẻ tay không và làm sao một người không được vũ trang lại có thể an toàn giữa đám tùy tùng vũ khí đầy mình. Khi người có vũ khí bị nghi ngờ, còn người không có vũ khí lại có thái độ khinh miệt thì họ làm sao có thể cùng hợp tác với nhau được. Và do vậy, vị quân vương không am hiểu binh pháp, ngoài những tai ương khác đã đề cập ở trên, sẽ không thể được binh sĩ tôn trọng và ông ta cũng chẳng thể tin tưởng họ.
                   Như vậy, không thể phớt lờ vấn đề quân sự. Thời bình, quân vương lại càng phải rèn luyện nhiều hơn thời chiến. Có hai phương thức rèn luyện: bằng hành động và bằng tư duy. Về mặt hành động, bên cạnh việc duy trì kỷ luật và sự luyện tập của binh lính, quân vương phải thường xuyên săn bắn, thích nghi với những hoàn cảnh khó khăn. Quân vương phải nắm được đặc tính các loại địa hình, phải nhớ được các sườn núi, thung lũng, đồng bằng, các dòng sông và đầm lầy, và phải bỏ phần lớn thời gian của mình để tìm hiểu những điều này.
                   Những kiến thức đó hữu ích về hai mặt: thứ nhất, hiểu về đất nước mình và có thể tìm ra cách tốt nhất để bảo vệ nó; thứ hai, với hiểu biết và kinh nghiệm thực tế về địa hình, quân vương có thể dễ dàng nắm được đặc điểm của bất kỳ địa hình nào khác, điều này vô cùng cần thiết cho những cuộc khám phá và chinh phục. Chẳng hạn, những ngọn đồi, thung lũng, sông và đầm lầy của vùng Tuscany rất giống địa hình một số vùng khác. Bởi vậy, khi nắm được địa hình của một vùng đất có thể dễ dàng hiểu được địa hình những vùng còn lại. Quân vương nào thiếu khả năng này là thiếu phẩm chất quan trọng nhất của một người trị vì, bởi kỹ năng này dạy cho ông cách truy tìm kẻ địch; chọn nơi đóng quân, dẫn quân, bố trí trận đánh và vây hãm các thành phố một cách hữu hiệu nhất.
                   Vua Philopoemen65 của người Achaea, [65 Philopoemen: Vị tướng người Hy Lạp (253-182 TCN) và là người lãnh đạo Liên minh Achae], ngoài những lời ca ngợi khác còn được ca ngợi vì trong thời bình, ông không nghĩ đến điều gì khác ngoài chuyện binh pháp. Khi cùng bạn bè thăm thú các vùng quê, ông thường dừng lại và hỏi: “Nếu kẻ thù ở trên đỉnh đồi kia còn đội quân chúng ta ở đây thì bên nào có lợi thế? Làm thế nào để tấn công chúng mà không phá vỡ đội hình? Nếu muốn rút lui thì làm thế nào? Nếu kẻ địch phải rút lui thì truy kích thế nào?” Vừa đi đường, ông vừa đặt ra những tình huống khó khăn mà một đội quân có thể gặp phải và lắng nghe ý kiến của họ, bày tỏ quan điểm của mình rồi cùng họ tranh luận. Nhờ sự kiên nhẫn đó, khi cầm quân ông luôn có giải pháp cho mọi tình huống bất ngờ.
                   Về mặt tư duy, quân vương cần nghiên cứu lịch sử và học hỏi các chiến công của những người vĩ đại; quân vương cần lưu tâm đến cách họ tiến hành chiến tranh, đặt ra câu hỏi về nguyên nhân của thắng lợi và thất bại để tránh thất bại và tìm chiến thắng cho chính mình. Trước tiên, cần hành động như những người tôn vinh đã hành động, luôn làm theo những tấm gương được ca ngợi được tôn vinh và luôn nhớ đến những chiến công và hành động của họ, như Alexander Đại đế noi theo Achilles; Caesar noi theo Alexander, và Scipio66 noi theo Cyrus. Bất kỳ ai đã đọc những gì Xenophon viết về cuộc đời của Cyrus67 hẳn sẽ nhận ra tầm quan trọng của tấm gương đó với các chiến công của Scipio. Scipio đã noi theo sự thanh bạch, lòng tốt, tính nhân đạo và sự hào hiệp mà Xenophon miêu tả về Cyrus.
                   [66 Pubius Cornelius Scipio Africanus (236-184 TCN), Thống chế lừng danh của người La Mã, người đã chiến thắng Hannibal và xứ Carthage trong Chiến tranh Punic lần thứ hai.
                    [67 Xenophon (430?-354? TCN) đã viết một cuốn tiểu sử lý tưởng hóa Cyrus, cuốn Cyropaedia. Cuốn sách này được những người cùng thời Machiavelli rất ngưỡng mộ.]
                  Đó là cách mà một quân vương khôn ngoan nên luyện tập để thời bình cũng như thời chiến không bao giờ cho phép mình nhàn rỗi. Sự luyện tập cần cù trong thời bình sẽ có ích khi gặp biến cố. Sống như vậy, quân vương sẽ luôn được chuẩn bị để đối phó với thời vận đổi thay.
      #18
        Sun Ming 12.09.2009 11:02:02 (permalink)
        15
        SỰ NGỢI CA VÀ PHÊ PHÁN ĐỐI VỚI QUÂN VƯƠNG
         
         
                    Bây giờ, hãy bàn đến những phương cách mà quân vương nên áp dụng trong xử thế với thần dân và bằng hữu. Điều này đã được nhiều người đề cập tới nên tôi e rằng nếu tôi lại viết về chủ đề đó thì mọi người sẽ cho tôi là kẻ kiêu ngạo. Tuy nhiên, khi bàn luận, xuất phát điểm của tôi khác xa so với họ. Vì ý định của tôi là viết ra những điều hữu ích cho ai hiểu biết, nên tôi cho rằng, tìm tòi về bản chất của một vấn đề thì phù hợp hơn là việc tưởng tượng ra vấn đề đó 68.
                    [68 Ở đây, Machiavelli hàm ý tới những nhân vật trừu tượng là những người cai trị được lý tưởng hóa hoặc về các ông hoàng Cơ đốc giáo theo tác phẩm của các nhà hiền triết Latin và của Plato.]
                    Nhiều học giả đã tự mình tưởng tượng ra những nền cộng hòa hoặc những nền quân chủ mà sự tồn tại của chúng chưa từng được chứng kiến hoặc biết đến trên thực tế. Có khoảng cách giữa cách sống trên thực tế và cách mà người ta phải sống. Người nào từ bỏ những gì đáng lẽ đã làm trên thực tế để thực hiện những gì phải làm thì sẽ bị diệt vong chứ không phải là được bảo toàn, bởi vì người mà lúc nào cũng muốn sống tốt sẽ bị tiêu vong giữa biết bao kẻ xấu. Bởi vậy, quân vương nào muốn bảo vệ địa vị của mình thì cần học cách gác lòng tốt sang một bên, và có vận dụng điều đó hay không thì còn tùy theo thời thế.
                    Do vậy, nếu gạt bỏ những điều tưởng tượng về một quân vương mà chỉ tính đến những sự thật, tôi cho rằng, khi nhận xét về bất kỳ ai, nhất là các quân vương - những người có địa vị cao sang, thì cần phải phán xét bởi những tính cách khiến họ được ca ngợi hay bị phê phán. Và đây là lý do vì sao người này được coi là hào phóng, còn kẻ khác là keo kiệt (ở đây tôi sử dụng từ “keo kiệt” theo thổ ngữ xứ Tuscan bởi vỉ từ “biển lận” trong ngôn ngữ của chúng ta được dùng để chỉ những người tham lam muốn chiếm đoạt của người khác, còn “keo kiệt” là để chỉ người không muốn dùng những gì mà mính có); người này biết cho, kẻ khác chỉ biết nhận; người này bao dung, kẻ khác lại tàn bạo, người thì tận trung, kẻ thì bất trung; người thì táo bạo dũng cảm, kẻ thì nhu nhược hèn nhát, người thì điềm đạm, kẻ thì ngạo mạn; người thì thanh tịnh, kẻ thì dâm ô; người thì chân thành, kẻ thì xảo trá; người thì sùng đạo, kẻ thì vô thần; v.v….
                    Và theo tôi, mọi người đều thừa nhận rằng một quân vương với những phẩm chất được cho là tốt trong số những tính cách được nêu trên đây là người đáng được ca ngợi. Tuy nhiên, vì nhân vô thập toàn, các phẩm chất tốt đẹp đó thường không thể đầy đủ hoặc không thể nhận ra được hoàn toàn, nên một quân vương phải đủ khôn ngoan để biết cách tránh tai tiếng của những thói xấu có thể khiến ông mất nước và nếu có thể, ông phải tự mình tránh xa cả những thói xấu không đến mức làm cho ông mất nước. Nhưng nếu không thể tránh được, thì quân vương cũng không cần quá khắt khe với bản thân khi lờ đi những thói xấu không quá nghiêm trọng này.
                    Hơn nữa, bậc quân vương cũng không cần bận tâm khi phải mang tiếng về những thói xấu mà nếu không có những thói xấu này thì việc giữ được vương quốc có thể sẽ khó khăn; bởi vì, khi xem xét mọi việc một cách kỹ lưỡng, ông sẽ nhận thấy rằng, nếu theo đuổi những việc có vẻ đúng đạo lý thì sẽ dẫn tới sự diệt vong của chính ông. Trong khi đó, những việc có vẻ tội lỗi, sẽ đem lại cho ông sự an toàn và phồn thịnh.
        #19
          Sun Ming 12.09.2009 11:06:52 (permalink)
          16
          HÀO PHÓNG VÀ KEO KIỆT
           
           
                      Bàn về những đức tính đầu tiên kể trên, tôi có thể nói là, nếu được coi là người hào phóng thì cũng là điều tốt, nhưng nổi tiếng về sự hào phóng sẽ chẳng đem lại điều gì tốt đẹp. Nếu sự hào phóng được sử dụng một cách đúng mực như lẽ thường tình thì sự hào phóng đó sẽ không được công nhận và ngài sẽ không tránh khỏi những lời chỉ trích là keo kiệt. Thế nên, nếu quân vương muốn được tiếng hào phóng đối với những kẻ quanh mình thì ông khó lòng bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để thể hiện sự xa hoa.
                      Nhưng khi làm vậy, quân vương sẽ tiêu sạch những gì mình có và cuối cùng, để duy trì cái tiếng tăm hào phóng của mình, ông sẽ buộc phải đè nặng dân chúng bằng những khoản thuế chồng chất, và không từ việc gì để thu được tiền bạc. Điều đó bắt đầu khiến ông bị thần dân ghét bỏ, và khi trở nên khánh kiệt, ông sẽ chẳng được ai kính trọng. Như vậy, hậu quả của sự hào phóng là làm cho nhiều kẻ thù ghét, một số ít kẻ được ban ơn, nên bất kỳ một bất ổn nhỏ nhặt nào cũng sẽ tác động đến quân vương và ông sẽ thấy mình sụp đổ ngay khi có dấu hiệu đầu tiên của hiểm nguy. Khi nhận ra điều này và muốn sửa đổi chính sách thì ngay lập tức, ông lại đứng trước mối đe dọa bị chỉ trích là kẻ keo kiệt.
                      Do vậy, khi không thể lợi dụng tính hào phóng mà không bị nó làm hại, bậc quân vương khôn ngoan không nên lo lắng việc bị kẻ khác gọi là keo kiệt. Bởi vì dần dần các thần dân sẽ thấy ông hào phóng hơn một khi có các bằng chứng thực tế là nhờ sự tằn tiện, ông có đủ thu nhập nên có thể tự bảo vệ mình trước bất kỳ kẻ nào mưu toan gây chiến và có thể làm những việc lớn mà không cần bóc lột thần dân.
                      Nhờ vậy, quân vương trở nên hào phóng với tất cả những kẻ không bị ông cướp đoạt, mà những người này nhiều vô số. Nhưng ông sẽ trở thành kẻ keo kiệt với một số ít những kẻ không được ông cho gì. Ngày nay, những chiến công vĩ đại mà chúng ta được chứng kiến đều là của những người đã từng bị coi là keo kiệt. Những kẻ được tiếng hào phóng đều đã thất bại. Giáo hoàng Julius II nhờ tiếng tăm hào phóng mà giành được ngôi Giáo hoàng nhưng để theo đuổi các cuộc chiến tranh, ông phải từ bỏ danh tiếng đó. Đức vua hiện thời của nước Pháp tiến hành nhiều cuộc chinh phạt mà không phải tăng thuế chính là nhờ sự tằn tiện của ông đã gánh đỡ những chi phí tăng lên. Đức vua hiện thời của Tây Ban Nha, nếu được tiếng là hào phóng thì đã chẳng thể tham gia vào nhiều cuộc chiến như vậy và cũng đã chẳng thể giành được nhiều chiến thắng như thế.
                      Để không phải cướp bóc các thần dân của mình, để có thể tự bảo vệ, và không tự biến mình thành kẻ nghèo khó và bần tiện, cũng như để tránh không bị buộc phải tham lam, bậc quân vương phải xem thường việc bị coi là kẻ bủn xỉn, bởi đó là một trong những thói xấu cho phép ngài giữ được quyền lực.
                      Nếu có ai đó lại nói rằng, Julius Caesar với sự hào phóng của mình đã giành được ngôi hoàng đế, và nhiều người khác nhờ lòng rộng rãi và được tiếng là rộng rãi đã giành được địa vị cao quý, thì tôi xin được trả lời là điều đó còn tùy thuộc ngài đã là quân vương hay đang trên đường trở thành quân vương.
                      Trường hợp thứ nhất, tính hào phóng chỉ gây tổn hại; còn ở trường hợp thứ hai, được tiếng hào phóng là một điều vô cùng cần thiết. Lúc đó, Julius Caesar là một trong những người muốn giành được địa vị tối cao ở thành Rome; nhưng nếu sau khi giành được địa vị đó, ông vẫn sống xa hoa, không chi tiêu tằn tiện thì ông hẳn đã hủy hoại quyền lực của mình. Nếu lại có ai đó đáp lại rằng có nhiều quân vương đã lập nên những chiến công vĩ đại với những đội quân được tiếng là hoang phí, thì tôi xin được trả lời như sau. Quân vương có quyền tiêu tiền của chính mình và của thần dân hay những người khác. Đối với tiền của chính mình, ông phải tiết kiện nhưng đối với tiền của thần dân và những người khác thì chẳng việc gì phải kìm hãm sự hào phóng.
                      Đối với những quân vương nuôi lính và sống bằng cách cướp bóc, bòn rút, đòi tiền chuộc, thâu tóm tài sản của người khác thì sự rộng rãi là cần thiết vì nếu không, binh lính chẳng theo ông làm gì. Đối với những của cải không phải của ngài hay thần dân của ngài thì ngài có thể thoải mái hơn khi ban phát, như Cyrus, Caesar và Alexander đã làm, bởi vì tiêu xài của cải của người khác không những không thiệt gì mà còn tăng thêm danh tiếng cho ngài. Chỉ có việc tiêu xài tiền bạc của chính ngài mới là điều làm hại ngài. Chẳng có điều gì tự hủy hoại mình nhanh bằng sự hào phóng, bởi vì khi ngài hào phóng tức là ngài đang đánh mất phương tiện để sử dụng nó. Ngài sẽ nghèo túng rồi bị khinh thường, và để tránh sự khánh kiệt, ngài sẽ trở thành tham lam và đáng ghét.
                      Điều quan trọng nhất là bậc quân vương cần tránh bị khinh miệt và thù ghét. Sự hào phóng dẫn ngài đến cả hai điều này. Bởi vậy, Người khôn ngoan nên sống với cái tiếng là kẻ keo kiệt, bị chỉ trích nhưng không bị căm ghét, còn hơn là chuốc lấy cái tiếng tham tàn, đem lại cả sự chỉ trích lẫn căm ghét, chỉ vì muốn được coi là người hào phóng.
          #20
            Sun Ming 12.09.2009 11:13:04 (permalink)
            17
            TÀN BẠO VÀ BAO DUNG
            LÀM CHO DÂN YÊU HAY LÀM CHO DÂN SỢ

             
             
                        Tiếp theo những đức tính đã nêu trên, tôi xin nói rằng tất cả các quân vương đều muốn thần dân coi là người bao dung chứ không phải kẻ bạo tàn, nhưng ông cần phải cẩn trọng không đặt nhằm chỗ lòng bao dung đó. Ceasar Borgia bị cho là tàn bạo. Thế nhưng, sự tàn bạo đó đã đem lại ổn định cho xứ Romagna, thống nhất mảnh đất này, và khôi phục ở đó bình yên và trật tự. Nếu xem xét kỹ, ta sẽ thấy ngài còn nhân đạo hơn người Florence, những người để tránh tiếng tàn bạo đã cho phép phá hủy Pistoia69 [69 Trong giai đoạn năm 1501-1502, khi những xung đột dữ dội giữa hai phe Cancellieri và Panciatichi của thành phố Pistoia, chư hầu của Florence nổ ra, Machiavelli đã được cử tới đây nhiều lần để khôi phục lại trật tự.]
                        Bậc quân vương không việc gì phải bận tâm đến lời chỉ trích về sự tàn bạo nếu điều đó khiến các thần dân của ông đoàn kết và trung thành; bởi dù chỉ ít lần tàn bạo, ông sẽ là người nhân đạo hơn kẻ có lòng bao dung quá đáng đã để xảy ra hỗn loạn, nguyên nhân của những vụ cướp bóc và giết chóc. Mà những hỗn loạn đó thì làm hại cả cộng đồng rộng lớn trong khi những vụ hành quyết của quân vương chỉ làm hại một số cá nhân nhất định mà thôi.
                        Và so với tất cả những quân vương khác, vị quân vương vừa giành được quyền lực không thể tránh cái tiếng tàn bạo, bởi các quốc gia mới luôn tràn đầy hiểm nguy. Nhà thơ Virgil, qua nhân vật hoàng hậu Dido, đã nói rằng: “Những hoàn cảnh khó khăn và nền cai trị mới mẻ của tôi buộc tôi phải hành động như vậy, rải quân mọi nơi trên khắp cả nước”70. [70 Machiavelli trích đoạn thơ từ bài Aeneid của Virgil, nguyên văn tiếng Latin.]
                        Tuy nhiên, quân vương nên cẩn trọng khi tin tưởng và hành động. Ông không nên sợ ngay cả cái bóng của mình. Ông phải biết kết hợp tính thận trọng với lòng nhân ái, sao cho quá tin cũng không khiến ông thành người bất cẩn và quá nghi ngờ cũng không khiến ông thành kẻ không thể chấp nhận được.
                        Từ bàn luận trên, một câu hỏi được đặt ra là nên làm cho dân yêu hay là cho dân sợ. Câu trả lời là bậc quân vương cần cả hai điều đó. Tuy nhiên, khó có thể kết hợp được cả hai điều này, nhưng được dân sợ thì an toàn hơn nhiều so với được dân yêu quý nếu chỉ được chọn một trong hai.
                        Con người thường là vô ơn, hay thay đổi, giả tạo, lừa dối, tránh né hiểm nguy, và hám lợi. Khi ngài hành động vì lợi ích của họ, họ là của ngài, họ cống hiến cho ngài máu của họ, tài sản của họ, cuộc sống của họ và con trai họ, như tôi đã nói ở trên71 [71 Xem chương 9], nhưng đó là khi hiểm nguy còn ở xa. Khi hiểm nguy cận kề ngài, họ sẽ trở mặt.
                        Quân vương nào hoàn toàn dựa quyền lực của mình vào những lời nói đó trong khi lại không hề có những phòng ngừa cần thiết thì tất sẽ suy vong, bởi tình thân hữu có được bằng một giá nào đó, chứ không phải bằng sự vĩ đại và sự cao quý của nhân cách, thì có thể mua được nhưng không thể sở hữu, và lúc cần đến, lại không thể dùng được.
                        Người ta thường ít ngần ngại khi làm hại người mà họ yêu mến hơn là làm hại người mà họ e sợ.  Tình thân thiết được gắn với nhau bằng những mắt xích trách nhiệm, mà con người vốn là những kẻ tồi tệ sẽ sẵn sàng bẻ gẫy những mắt xích đó bất kỳ lúc nào vì lợi ích riêng. Thế nhưng nỗi e sợ lại được duy trì bởi sự sợ hãi những trừng phạt sẽ không bao giờ rời xa họ.
                        Tuy nhiên, bậc quân vương cần khiến người khác e sợ nhưng không thù ghét mình, cho dù có thể không được yêu mến; bởi vì có thể kết hợp rất tốt giữa bị e sợ và không bị ghét, và điều đó hoàn toàn dễ dàng khi ông không xâm phạm đến của cải và vợ con của những kẻ bề tôi cũng như của thần dân. Nếu muốn hành quyết ai, ông nên tiến hành khi có những tội danh rõ ràng và phán quyết hợp lý. Nhưng quan trọng hơn hết, ông cần tránh xâm phạm tài sản của người khác. Thường thì con cái sẽ quên cái chết của cha mình nhanh hơn việc quên đi số tài sản thừa kế bị tước mất.
                        Hơn nữa, chẳng bao giờ thiếu lý do để chiếm đoạt tài sản của người khác, và kẻ bắt đầu sống bằng nghề trộm cắp luôn tìm ra mọi lý do để chiếm đoạt của cải của người khác. Ngược lại, hiếm có lý do để lấy đi mạng sống của ai đó và cơ hội này qua đi rất nhanh.
                        Khi phải chỉ huy đội quân đông đảo, quân vương hoàn toàn không cần để tâm đến việc bị coi là tàn bạo bởi nếu không có tiếng là tàn bạo, đội quân của ông sẽ không bao giờ thống nhất và không ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Trong số những chiến công đáng ngợi ca của Hannibal72 [72 Hannibal: Thống chế đội quân của người Carthage (249-183 TCN), bị Scipio đánh bại tại trận chiến Zama năm 202 TCN. Trận chiến này đã kết thúc Chiến tranh Punic lần thứ hai] phải kể đến việc ông đã lãnh đạo một đội quân lớn, đủ mọi loại người chiến đấu ở nước ngoài nhưng không bao giờ nảy sinh bất đồng dù là nhỏ nhất giữa binh lính hay giữa binh lính với chỉ huy, cả khi thuận lợi lẫn lúc khó khăn. Điều này có được chẳng nhờ gì khác ngoài sự tàn bạo vô nhân tính của ông. Sự tàn bạo này cùng với nhiều phẩm chất khác đã khiến ông luôn được binh lính kính trọng và sợ hãi.
                        Nếu không tàn bạo mà chỉ với những phẩm chất còn lại thì ông đã không thể tạo ra một ảnh hưởng như vậy. Nhưng các sử gia không đánh giá cao vấn đề này. Một mặt, họ ca ngợi các chiến công của ông, mặt khác lại phê phán chính nguồn gốc của những chiến công đó.
                        Để chứng minh rằng chỉ các đức tính khác của ông thôi thì không đủ, ta có thể xem xét ví dụ về Scipio, người nổi bật nhất không chỉ trong thời đại ông mà còn trong cả những trang sử biên niên. Thế mà quân đội của ông đã nổi loạn chống lại ông ở Tây Ban Nha. Điều này xảy ra không vì nguyên nhân gì ngoài sự nhân từ quá mức đã khiến binh lính được tự do quá khuôn khổ cho phép.
                        Nguyên lão nghị viên Fabius Maximus73 [73 Fabius Maximus: Quan chấp chính tối cao, nhà độc tài La Mã vào năm 217 TCN, chết năm 203 TCN ]  đã chỉ trích điều này, gọi ông là làm hư hỏng quân đội La Mã. Người Locri bị một trong các sĩ quan của Scipio giết hại nhưng Scipio cũng không trừng phạt hắn và sự kiêu ngạo của viên sỹ quan này cũng không bị khiển trách. Tất cả đều là do bản tính nhân từ của ông.
                        Một nguyên lão nghị viên khi cố gắng bào chữa cho Scipio đã nói rằng, có nhiều người biết cách tránh phạm tội hơn là sửa chữa những lỗi lầm. Bản tính này lẽ ra đã có lúc hủy hoại danh tiếng và vinh quang của Scipio nếu như ông vẫn tiếp tục cầm quân. Nhưng dưới sự kiểm soát của nghị viện, khía cạnh đáng ngại này trong tính cách của ông, không những được che giấu mà thậm chí còn được ca ngợi.
                        Để kết luận, tôi xin trở lại vấn đề nên làm cho dân yêu hay làm cho dân sợ. Được yêu là lạc thú của con người, còn được dân sợ là lạc thú của bậc quân vương. Quân vương khôn ngoan cần xây nền tảng của mình trên những gì thuộc về ông chứ không phải trên những gì thuộc về người khác. Ông chỉ phải tránh không bị thù ghét mà thôi.
            #21
              Sun Ming 12.09.2009 11:19:48 (permalink)
              18
              CHỮ TÍN CỦA QUÂN VƯƠNG
               

                        Ai cũng biết là, thật đáng ca ngợi một quân vương biết giữ lời, sống chính trực và không lừa dối. Tuy nhiên, từ thực tế thời đại của chúng ta, có thể thấy rằng những quân vương làm nên những chiến công vĩ đại lại là những người không hề để tâm đến việc giữ lời hứa mà là những người biết dùng mưu mô để đánh lừa kẻ khác. Kết quả là những quân vương này vượt xa những người chỉ khăng khăng cố giữ chữ tín.
                        Bởi vậy, ngài cần phải biết có hai phương thức đấu tranh74 [74 Hai phương thức đấu tranh: Machiavelli lấy ý này trong tác phẩm De officiis của Cicero, nhưng thay đổi khá nhiều.]. Cách thứ nhất là bằng luật pháp, cách thứ hai là bằng vũ lực. Cách thứ nhất thích hợp với người, còn cách thứ hai dành cho dã thú. Nhưng cách thứ nhất trong nhiều trường hợp vẫn chưa đủ nên phải cần đến cách thứ hai. Bậc quân vương cần phải vận dụng thật khôn ngoan những bản tính của người và của dã thú. Các tác gia cổ đại đã khéo léo dạy cho các bậc quân vương điều đó qua câu chuyện về việc Achilles và nhiều vương hầu thời xưa đã được gửi cho Chiron the Centaur75 [75 Chiron the Centaur: Theo thần thoại Hy Lạp, đây là loài thú nửa người, nửa ngựa] nuôi dưỡng và giáo dục theo các nguyên tắc riêng. Có nghĩa rằng, với một thầy giáo nửa người nửa thú, bậc quân vương phải biết cách vận dụng bản năng của cả hai phần đó, và người nào thiếu một trong hai sẽ không thể trụ được.
                        Bậc quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo76 [76 Machiavelli đã tìm thấy ý tưởng cáo và sư tử nhanh chóng nổi tiếng này trong tác phẩm De officiis của Cicero, nhưng ông sửa đổi hoàn toàn luận điểm của Cicero. Cicero cho rằng cả bạo lực lẫn xảo trá là phi nhân tính và bởi vậy là những biện pháp đáng khinh]. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy, còn cáo thì không thể chống lại sói. Vì thế, cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẫy và là sư tử để dọa sói. Những người chỉ học theo sư tử sẽ không hiểu được điều này. Do vậy, một người cai trị khôn ngoan không thể và không nên giữ lời khi sự trung tín này đem lại bất lợi cho ông và khi những lý do của lời hứa đã không còn nữa. Nếu tất cả mọi người đều tốt thì nguyên tắc này vô dụng, nhưng bản tính con người lại đáng chê trách và chẳng biết giữ lời nên ngài cũng không cần phải giữ lời với họ.
                        Bậc quân vương chẳng bao giờ thiếu lý do chính đáng để phá vỡ một giao ước. Về điều này, bất kỳ ai cũng có thể dẫn ra vô số ví dụ rằng gần đây có biết bao hiệp ước, giao ước đã trở thành vô hiệu vì sự bội tín của các quân vương. Ai biết cách sử dụng tốt nhất bản tính của con cáo sẽ có một tương lai tốt hơn. Nhưng điều cần thiết là phải biết ngụy trang, phải làm một kẻ đạo đức giả và một kẻ dối trá. Con người thường suy nghĩ đơn giản và bị chi phối bởi nhu cầu trước mắt đến mức một kẻ dối trá luôn có thể tìm ra người tự cho phép mình bị lừa dối.
                        Tôi không thể không nói về một trong những ví dụ gần đây. Giáo hoàng Alexander VI không làm gì, nghĩ gì ngoại trừ việc lừa dối người khác và ông luôn tìm được cơ hội để làm điều đó. Người ta sẽ chẳng bao giờ tìm được người nào hùng hồn hơn ông khi tuyên thệ, quả quyết một việc với nhiều hứa hẹn hơn nhưng cũng hay nuốt lời hứa hơn ông. Tuy nhiên, những thủ đoạn của ông luôn thành công một cách hoàn hảo vì ông đã quá thành thạo.
                        Bậc quân vương không cần phải có tất cả những phẩm chất kể trên, nhưng phải làm ra vẻ như có tất cả. Hình như tôi quá táo bạo khi khẳng định rằng: có tất cả những phẩm chất đó và lúc nào cũng sống đúng như thế thì thật là nguy hại, còn chỉ làm ra vẻ như có chúng thôi thì lại rất hữu ích. Chẳng hạn như nên làm ra vẻ bao dung, trung thành, nhân từ, đáng tin cậy, sùng đạo và đại khái thế nhưng đầu óc lại phải luôn hành động ngược lại nếu cần.
                        Nguyên tắc cơ bản phải hiểu được là: Bậc quân vương, đặc biệt là quân vương mới giành được ngôi báu, không thể làm tất cả những điều mà con người vẫn cho là tốt, bởi để cai trị đất nước, ông thường phải hành động ngược lại với lời hứa của mình, ngược với tính nhân đạo, lòng nhân từ và trái với đạo giáo. Chính vì thế, ông cần phải có một trí tuệ luôn sẵn sàng tùy cơ ứng biến theo vận mệnh và sự biến đổi của thời thế. Và như tôi đã đề cập ở trên, chừng nào còn có thể thì quân vương nên là người tốt, nhưng ông phải biết cách thực hiện những điều xấu xa khi hoàn cảnh đòi hỏi.
                        Bậc quân vương phải luôn cẩn trọng để mọi người đều thấy rằng, tất cả lời nói của ông đều chứa đựng đầy đủ năm phẩm chất đã nói: bao dung, trung thành, nhân từ, đáng tin cậy và sùng đạo. Và điều cần thiết nhất là phải ra vẻ như có đức tính cuối cùng. Con người thì thường phán xử bằng mắt nhiều hơn là bằng tay, vì ai cũng có thể nhìn nhưng rất ít người có thể cảm nhận. Mọi người thấy điều mà ngài có vẻ là có, rất ít người hiểu được ngài thực chất là người thế nào, và thiểu số đó không dám đi ngược lại quan điểm của số đông những người được quân vương bảo vệ và che chở. Không có ai phán xử công bằng hành động của con người, nhất là của bậc quân vương nên chỉ kết quả cuối cùng mới là đáng phải quan tâm đến.
                        Vậy, hãy để bậc quân vương được tự do hành động để chinh phạt và cai trị đất nước. Các phương cách của ông sẽ luôn được kính trọng và toàn thể dân chúng ngợi ca. Vì những người bình thường luôn bị lừa dối bởi vẻ bề ngoài và kết quả của sự việc, mà trên thế giới này còn có ai ngoài những người bình thường.
                        Không có chỗ cho thiểu số khi mà số đông đã có nơi để đặt lòng tin. Một vị quân vương thời nay77 [77 Có thể là Ferdinand II của Aragon]*, tôi xin không nhắc tên, không rao giảng điều gì khác ngoài hòa bình và lòng trung thành nhưng ông hoàn toàn bác bỏ cả hai điều này. Nếu như ông đã từng thực hiện cả hai điều này thì hẳn đã rất nhiều lần chúng khiến ông trả giá bằng danh tiếng hoặc vương quốc của mình.







              * Chú thích của Sun Ming: có sách cho là Maximilien I, Hoàng đế của Thánh chế La Mã.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.09.2009 08:42:06 bởi Sun Ming >
              #22
                Sun Ming 12.09.2009 11:41:20 (permalink)
                19
                TRÁNH BỊ KHINH MIỆT VÀ THÙ GHÉT
                 

                           Cho đến giờ, tôi đã nói về những phẩm chất quan trọng nhất trong số các phẩm chất được đề cập ở phần trên. Tôi muốn bàn về các phẩm chất khác một cách ngắn gọn. Như đã lưu ý, bậc quân vương nên chú trọng vào việc tránh những gì khiến ông bị thù ghét và khinh miệt và khi tránh được điều đó, ông sẽ thực hiện được các công việc của mình mà không gặp bất kỳ nguy hiểm nào dù phạm những lỗi còn lại. Như tôi đã nói, điều khiến bậc quân vương bị thù ghét nhất là lòng tham lam và việc chiếm đoạt tài sản, vợ con của thần dân. Vì thế, bậc quân vương phải tránh xa những điều đó.
                            Trong hầu hết các trường hợp, chừng nào còn chưa bị tước đoạt tài sản hoặc thanh danh thì đa số sẽ sống hạnh phúc, nên ngài chỉ phải đối phó với tham vọng của một số người, những kẻ có thể bị kiềm chế không mấy khó khăn và bằng nhiều cách. Quân vương thường bị khinh miệt vì tính khí thất thường, phù phiếm, yếu mềm, hèn nhát và thiếu quyết đoán. Bậc quân vương phải tránh những điều này như thể thuyền phải tránh đá ngầm, và ông phải cố làm cho mọi người nhận thấy sự vĩ đại, nghị lực, sự tôn nghiêm và sức mạnh trong các hành động của mình. Đối với các vấn đề cá nhân của thần dân, ông phải chứng tỏ được rằng các quyết định của mình không thể đảo ngược, và ông phải giữ mình sao cho không kẻ nào có thể ảo tưởng sẽ lừa phỉnh hay dắt mũi ông.
                          Quân vương nào tạo được tiếng tăm như vậy sẽ giành được sự kính trọng rất lớn; và khó có thể mưu hại hay tấn công một người có danh tiếng lớn khi người đó lại có những phẩm chất vĩ đại và được thần dân kính yêu.
                           Bậc quân vương chỉ có hai nỗi sợ hãi: một, về đối nội, là các thần dân; hai, về đối ngoại, là những lực lượng ngoại bang. Để bảo vệ mình chống lại lực lượng ngoại bang, ông cần đồng minh và binh sĩ giỏi, và ông luôn có đồng minh tốt nếu ông có binh sĩ giỏi. Việc đối nội sẽ luôn ổn định khi đối ngoại ổn định, trừ khi có những âm mưu phản nghịch.
                           Ngay cả khi các điều kiện bên ngoài biến đổi, nếu quân vương có sự chuẩn bị tốt và hành xử như vừa nói, đồng thời giữ được sự tự chủ của mình thì ông sẽ luôn chống chọi được mọi cuộc tấn công như vua Nabis xứ Sparta đã làm. Nhưng đối với thần dân của mình, khi tình hình đối ngoại không có gì biến đổi, ông cần đề phòng những âm mưu bí mật. Quân vương bảo vệ mình tránh bị mưu hại bằng cách tránh bị thù ghét hoặc khinh miệt và đảm bảo rằng, dân chúng hài lòng với ông. Điều này là vô cùng cần thiết.
                           Trên đây, tôi đã trình bày khá cụ thể về vấn đề này. Một trong những biện pháp mạnh mẽ nhất để chống lại những âm mưu là đừng để bị dân chúng thù ghét, vì kẻ bày mưu luôn tin rằng hắn sẽ làm dân chúng hài lòng khi giết vua. Nhưng khi thấy việc làm này có thể khiến dân chúng tức giận, hắn sẽ không có đủ bản lĩnh để làm một việc như thế vì có vô số rắc rối đối với những kẻ bày mưu. Kinh nghiệm cho thấy, âm mưu có nhiều nhưng thành công thì rất ít, bởi vì âm mưu không thể chỉ hành động đơn thương độc mã và cũng không thể tìm đồng bọn ở đâu ngoài số những kẻ hắn tin là cũng đang bất mãn.
                           Khi hắn bộc lộ ý định của mình với một kẻ bất mãn tức là hắn đã trao cho kẻ đó phương tiện để được thỏa mãn, bởi kẻ đó sẽ có mọi thứ hằng thèm khát bằng cách tố giác âm mưu của hắn. Thật quá rõ ràng, một bên là lợi ích chắc chắn, bên kia không những bấp bênh mà còn đầy hiểm nguy. Nếu kẻ đó trung thành với kẻ bày mưu thì chắc đây hẳn phải là một người bạn tốt đặc biệt hoặc một kẻ thù không đội trời chung của quân vương. Nói một cách ngắn gọn, về phía những kẻ âm mưu thì chẳng có gì ngoài nỗi sợ hãi, ghen ghét và lo lắng về sự trừng phạt đang bóp nghẹt trái tim hắn.
                           Trong khi đó, về phía Quân vương lại là sự tôn nghiêm, là quyền uy, là luật pháp, là sự bảo vệ của bè bạn và cả đất nước. Cho nên, nếu dân chúng mến phục quân vương thì âm mưu chống lại ông là điều không thể và hết sức ngu xuẩn. Thường là kẻ bày mưu phải sợ hãi trước khi thực hiện tội ác nhưng trong trường hợp này thì ngay cả khi tội ác đã được thực hiện, hắn sẽ vẫn phải sợ hãi, vì hắn là kẻ thù của dân chúng nên hắn cũng chẳng hy vọng gì tìm được một nơi nương tựa.
                           Có vô số ví dụ về những trường hợp như thế nhưng tôi cho rằng, chỉ cần trích dẫn một trường hợp ở thế hệ trước là đủ. Annibale Bentivogli78, Quận công xứ Bologna và là ông nội của Annibale hiện thời, bị gia tộc Canneschi mưu sát. Lúc đó, ông không có ai kế vị ngoài Giovanni còn thơ dại. Ngay khi vụ mưu sát xảy ra, dân chúng đã nổi dậy giết cả gia tộc Canneschi. [78 Annibale Bentivogli bị kẻ thù giết năm 1445, con trai ông là Giovanni nắm quyền ở Bologna năm 1462. Giovanni chết năm 1508, con trai là Annibale (1469-1540) kế vị.]
                           Lý do chính là nhờ thời đó mà gia tộc Bentivogli đã giành được cảm tình của họ. Lòng yêu mến lớn đến mức khi Annibale Bentivogli chết, do dòng họ không còn người nào trong thành phố để nắm vương quyền, nên khi nghe đồn rằng, ở Florence có một người mang dòng máu Bentivogli, người mà đến tận giờ, vẫn được cho là con người thợ rèn, người dân Bologna đã tới tận Florence để tìm và trao cho anh ta quyền cai trị thành phố. Người này đã cai trị Bologna cho tới khi Giovanni đến tuổi trưởng thành.
                           Có thể kết luận rằng, khi được dân chúng yêu mến thì quân vương không việc gì phải sợ những âm mưu. Nhưng khi dân chúng có thái độ thù địch và căm ghét thì ông phải dè chừng tất cả mọi thứ và tất cả mọi người. Điều quan trọng nhất mà quân vương cần lưu tâm là phải có một quốc gia được tổ chức tốt và phải là một quân vương khôn ngoan, không gây thù oán với giới quý tộc, làm hài lòng dân thường và giúp họ luôn được mãn nguyện.
                           Trong số các vương quốc ở thời đại chúng ta thì Pháp là nước được tổ chức và cai trị tốt. Tại quốc gia này, ta có thể tìm thấy vô số những thiết chế tốt đẹp làm chỗ dựa cho sự tự do và an toàn của đức vua. Trong số đó, đầu tiên phải kể đến nghị viện và thẩm quyền  của nghị viện. Đức vua ý thức được tham vọng và sự ngạo mạn của giới quý tộc, hiểu được rằng cần phải có mồi nhử để giữ bọn chúng lại với mình nhưng cũng phải hiểu được sự thù ghét do nỗi sợ hãi của dân chúng  đối với giới quý tộc và việc cần phải vỗ về dân chúng sẽ không để điều đó thành trách nhiệm của riêng đức vua. Để giải thoát mình khỏi sự phẫn nộ của giới quý tộc nếu ông ủng hộ dân chúng và sự phẫn nộ của dân chúng nếu ông ủng hộ giới quý tộc, ông đã lập ra một cơ quan tư pháp có vai trò trung gian để kiềm chế giới quý tộc và che chở dân lành mà không tạo ra áp lực đối với đức vua.
                           Không thể có một thiết chế nào tốt đẹp và an toàn hơn hình thức này, và cũng không thể có biện pháp nào an toàn hơn cho đức vua và cho cả vương quốc. Từ minh họa trên, ta cũng có thể rút ra được một bài học quý giá. Bậc quân vương phải giao những nhiệm vụ đáng ghét cho người khác và giữ cho mình những nghĩa vụ nhẹ nhàng. Tôi xin được nhắc lại, bậc quân vương cần tôn trọng giới quý tộc nhưng không được để dân chúng thù ghét.
                           Có thể những người từng nghiên cứu về cuộc đời và cái chết của các hoàng đế La Mã sẽ đưa ra những ví dụ trái ngược với quan điểm của tôi; vì chúng ta thấy rằng một số vị hoàng đế đã luôn sống cao quý, thể hiện tính cách mạnh mẽ tuyệt vời nhưng vẫn bị lật đổ và bị chính thần dân của mình mưu hại. Để đáp lại, tôi xin phân tích các tính cách tiêu biểu của một số hoàng đế để làm rõ những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của họ, những nguyên nhân cũng không khác mấy so với những gì tôi đã nói, và tôi cũng xin chỉ ra những điểm đáng để những người đọc về lịch sử thời này cần lưu ý. Để đề cập đầy đủ, tôi sẽ chọn tất cả các hoàng đế đã trị vì từ thời Marcus tới thời Maximinus: đó là Marcus, Commodus (con trai của Marcus), Pertinax, Julian, Severus, Antonius Caracalla (con trai của Severus), Macrinus, Heliogabalus, Alexander và Maximinus79. [79 Machiavelli liệt kê những người kế vị ngôi hoàng đế La Mã từ năm 161 đến 238: Marcus Aurelius (121-180); con trai là Commodus (180-193); Pertinax (193); Julian (193); Severus (193-211); con trai là Caracalla (211-217); Macrinus (217-218); Heliogabalus (218-222); Alexander (222-235) và Maximius (235-238)]
                           Truớc tiên, cần phải lưu ý là, trong khi ở những vương quốc khác, các bậc quân vương chỉ phải làm hài lòng tham vọng của giới quý tộc và sự kiêu ngạo của dân chúng thì các hoàng đế La Mã còn có một việc thứ ba: họ phải chịu đựng sự tàn bạo và tham lam của binh lính. Điều này đã khiến nhiều hoàng đế phải mất ngôi. Hoàng đế khó có thể làm hài lòng cả binh lính lẫn dân thường, khi dân chúng yêu sự thanh bình và yêu những vị hoàng đế giản dị, còn binh lính thì thích những vị hoàng đế quân phiệt, ngạo mạn, tàn bạo và tham lam.
                           Chúng muốn hoàng đế tham lam và tàn bạo với dân thường để chúng nhân đôi các khoản bổng lộc. Kết quả là mâu thuẫn này thường dẫn tới sự sụp đổ của những vị hoàng đế mà bản tính hoặc mưu mô không đủ tạo danh tiếng lớn để kiềm chế được cả dân chúng lẫn binh lính. Hầu hết các hoàng đế, nhất là những người mới lên ngôi, khi nhận thấy những rắc rối nảy sinh  giữa hai phe này đã quay ra nhân nhượng binh lính mà không hiểu rằng mình đã làm tổn thương dân thường.
                           Quyết định này là cần thiết vì các hoàng đế không thể tránh khỏi việc có kẻ thù ghét nên trước tiên, họ phải tránh bị dân chúng ghét. Nếu không thể thực hiện được thì phải bằng mọi cách để không bị nhóm có thế lực nhất thù ghét mình. Chính bởi vậy, những vị hoàng đế đó, những người cần sự hỗ trợ lớn lao do mới cầm quyền, phải đứng về phía binh lính chứ không phải dân thường. Tuy nhiên, điều này có phát huy tác dụng hay không lại phụ thuộc vào việc vị hoàng đế đó có biết cách duy trì uy tín của mình trước binh lính hay không.
                           Marcus, Pertinax và Alexander đều là những người khiêm tốn, yêu công bằng, ghét sự tàn bạo, tốt bụng, nhân từ nhưng tất cả các hoàng đế này, ngoại trừ Marcus, đều có một kết cục đáng buồn. Chỉ có Marcus là cả cuộc sống và cái chết đều được tôn vinh tuyệt đối, bởi vì ông kế vị ngôi hoàng đế của dòng họ nên không mắc nợ ai, cả binh lính hay dân chúng. Với  rất nhiều phẩm chất đáng kính, khi còn sống, ông luôn kiềm giữ cả hai phe ở trong giới hạn của họ, và ông chưa bao giờ bị thù ghét hay khinh thường. Nhưng Pertinax lại được đưa lên ngôi hoàng đế trái với nguyện vọng của binh lính, những kẻ quen sống phóng túng dưới thời Commodus. Chúng không thể sống cuộc sống lương thiện mà Perinax muốn ép buộc. Khiến mình bị thù ghét khi tuổi tác đã cao, ông đã bị lật đổ ngay khi mới lên cầm quyền.
                           Và giờ đây, người ta phải hiểu được rằng các hành động tốt đem lại nhiều sự thù ghét chẳng kém gì những hành động xấu. Do vậy,  như tôi đã nói ở trên, để cai trị vương quốc của mình, bậc quân vương thường bắt buộc phải làm người không tốt. Khi nhóm người mà ngài tin rằng cần ở họ sự hỗ trợ thì cho dù đó là dân thường, binh lính hay giới quý tộc, thì vì lợi ích của chính mình, ngài nên nghiêng về phía họ để làm họ hài lòng, và khi đó, những việc tốt chính là kẻ thù của ngài.
                           Chúng ta hãy thử xem trường hợp của hoàng đế Alexander. Ông là người tốt bụng đến mức trong những việc làm đáng ca ngợi của ông phải kể đến việc khi cai trị ở tuổi mười bốn, ông chưa hề ra lệnh giết ai mà không xét xử. Tuy nhiên, ông bị cho là yếu mềm và bị người mẹ điều khiển. Chính vì thế, người ta coi thường ông và quân đội đã bày mưu chống lại ông, cuối cùng đã hạ sát ông.
                           Bây giờ chúng ta lại xem xét trường hợp ngược lại. Hãy xét tính cách của Commodus, Severus, Antoninus Caracalla và Maximinus. Ngài sẽ thấy tất cả các hoàng đế này đều vô cùng tàn bạo và tham lam. Để thỏa mãn những đội quân của mình, họ không ngần ngại gây ra cho dân chúng mọi nỗi mất mát, và tất cả họ ngoại trừ Severus đều phải chịu kết cục bi thảm. Trong con người Severus có quá nhiều phẩm chất khiến ông luôn giành được tình cảm của binh lính và mặc dù bị áp chế, dân chúng vẫn yên ổn dưới sự cai trị khôn khéo của ông. Những phẩm chất đó khiến ông trở nên vô cùng đáng kính trọng trong mắt của cả binh lính lẫn dân thường, khiến binh lính thì khiếp sợ ông, còn dân chúng thì hài lòng và tôn kính ông.
                           Do các hành động của con người này thật vĩ đại, đáng để vị quân vương mới giành được quyền lực phải lưu tâm, tôi rất muốn trình bày ngắn gọn về sự khéo léo của ông trong việc kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo, những bản năng mà bậc quân vương nên bắt chước. Ngay khi nhận thấy sự thiếu quyết đoán của hoàng đế Julian, Severus đã thuyết phục quân đội do ông thống lĩnh tại Slavonia rằng cần phải kéo quân đến thành Rome để báo thù cho cái chết của Pertinax, người đã bị cận vệ hoàng đế sát hại. Dưới chiêu bài này và giấu đi tham vọng đoạt ngôi hoàng đế, Severus bất thần đưa quân tới thành Rome. Khi ông tới thành Rome, nghị viện quá khiếp sợ đã bầu ông làm hoàng đế và Julian bị giết.
                           Sau sự khởi đầu đó, còn hai trở ngại đối với Severus nếu ông muốn trở thành người thống trị toàn bộ vương quốc. Thứ nhất là ở châu Á, nơi Pescennius Niger, người thống lĩnh các đạo quân châu Á, (và thứ hai là ở phía Tây?) nơi Albinus cũng có tham vọng trở thành hoàng đế. Nhận thấy rằng nếu để lộ mình là kẻ thù của cả hai người này thì quả là nguy hiểm nên ông quyết định tấn công Niger và lừa phỉnh Albinus.
                           Ông viết thư cho Albinus nói rằng mình đã được nghị viện bầu làm hoàng đế và muốn được chia sẻ niềm vinh dự đó với Albinus, ông gửi tới Albinus ngôi vị hoàng đế và bằng một sắc lệnh của nghị viện, đưa Albinus lên ngang hàng với ông. Albinus đã tin vào những điều đó. Nhưng sau khi tiêu diệt được Niger, bình định được phía Đông, lúc trở về thành Rome, ông đã lớn tiếng tố cáo với nghị viện rằng Albinus không những không cảm kích trước những gì ông đã ban cho mà còn âm mưu ám hại ông, và bởi vậy, ông buộc phải trừng phạt Albinus vì sự vô ơn đó. Rồi ông bắt sống Albinus ở Pháp và lấy đi cả mạng sống lẫn vương quốc của Albinus.
                           Bất kỳ ai khi xem xét kỹ các việc làm của Severus đều nhận thấy ở ông là một con sư tử hung dữ và một con cáo khôn ngoan. Ai cũng kính sợ ông và binh lính không thù ghét ông. Và chẳng ai phải ngạc nhiên về việc một vị tân vương như ông lại có thể trị vì một cách đầy quyền uy như thế. Tiếng tăm lừng lẫy của ông luôn bảo vệ ông khỏi sự thù ghét của những người dân thường đối với sự cướp phá của ông.
                           Hoàng đế Antoninus, con trai của Severus, cũng là người có những khả năng tuyệt vời khiến ông vô cùng được ngưỡng mộ trong mắt dân thường và được binh lính yêu mến. Ông là một nhà quân sự có khả năng chịu đựng mọi gian khổ, coi thường cuộc sống an nhàn với những bữa ăn ngon; điều khiến binh lính yêu mến ông. Nhưng sự tàn bạo, man rợ của ông thật kinh khủng và quá ác độc. Sau vô số những vụ giết người, ông đã xử tử hầu hết dân thành Rome và tất cả dân Alexandria nên đã trở thành kẻ bị toàn thế giới ghê tởm.
                           Ông khiến ngay cả những người thân cận cũng phải khiếp sợ đến mức bị một viên tướng giết ngay giữa ba quân. Ta có thể thấy rằng những cái chết như vừa nêu được thực hiện dựa trên ý chí của một người, là không thể tránh khỏi đối với các quân vương, vì bất kỳ ai không sợ chết đều có thể ám hại họ. Tuy nhiên, bậc quân vương không nên quá sợ những kẻ như thế vì họ rất hiếm. Quân vương chỉ cần tránh đừng gây những thương tổn nghiêm trọng lên những người phụng sự ông và những người được chọn tham gia điều hành vương quốc Antoninus lại dẫm vào chính vết chân đó. Ông đã giết anh trai của viên tướng nói trên một cách hèn hạ và hàng ngày còn đe dọa hắn nhưng vẫn giữ hắn làm cận vệ. Đấy là một quyết định thiếu suy nghĩ và điều gì phải đến đã đến.
                           Bây giờ ta hãy bàn về hoàng đế Commodus, người (đáng ra đã) đã cai trị vô cùng dễ dàng do được kế thừa ngôi hoàng đế với tư cách là con trai của Marcus. Ông chỉ cần noi gương cha làm hài lòng binh lính và dân chúng là đủ. Nhưng với bản chất tàn bạo và dâm loạn, để thoả mãn lòng tham của mình, ông quay sang nuông chiều binh lính, biến chúng thành một lũ vô kỷ luật. Mặt khác, không giữ gìn sự tôn nghiêm của mình, ông thường thượng đài tỉ thí với các đấu sĩ và làm nhiều việc hèn hạ khác không xứng đáng với một bậc đế vương, nên ông trở nên tầm thường trong mắt của binh lính. Vừa bị khinh miệt vừa bị thù ghét, ông đã bị người ta bày mưu sát hại.
                           Cũng cần phải miêu tả đôi chút về tính cách của hoàng đế Maximinus. Ông là người hiếu chiến và do quân đội đã chán ghét sự yếu đuối của hoàng đế Alexander, như tôi đã trình bày, nên sau khi Alexander chết, ông được họ chọn làm hoàng đế. Ông cũng chẳng ở ngôi cao được lâu, vì có hai điều khiến ông bị thù ghét và khinh bỉ. Trước tiên là do nguồn gốc thấp hèn của ông. Ông đã từng là một tên chăn cừu ở Thrace (ai cũng biết điều này và nó khiến ông mất đi sự tôn nghiêm cần thiết trong mắt mọi người); thứ hai là do khi mới lên ngôi, ông đã trì hoãn không tới đăng quang tại thành Rome. Ông khét tiếng là kẻ tàn bạo và thông qua các viên thống sứ của mình tại thành Rome và các vùng trên toàn đế chế, ông đã có nhiều hành động tàn ác.
                           Kết quả là đâu đâu người ta cũng coi khinh nguồn gốc xuất thân ti tiện của ông và căm ghét ông do e sợ sự tàn bạo. Đầu tiên là châu Phi nổi loạn, sau đó là nghị viện và toàn thể dân chúng thành Rome và cuối cùng là cả Italia chống lại ông. Thêm vào đó là quân đội của chính ông. Khi bao vây Aquileia, binh lính thấy rằng rất khó chiếm thành, lại bị sự tàn bạo của ông làm họ tức giận nhiều hơn là sợ hãi, và nhận thấy ông có nhiều kẻ thù, nên họ đã ám sát ông.
                           Tôi không bàn về Heliogabalus hoặc Macrinus hay Julian, những vị hoàng đế do bị tất cả mọi người khinh miệt nên đã sớm bị tiêu diệt. Tôi xin được đưa ra lời kết cho phần bàn luận này. Các quân vương thời đại chúng ta gặp ít rắc rối hơn khi làm thỏa mãn binh lính bằng những biện pháp khác thường. Mặc dù vẫn phải trông chừng bọn chúng nhưng các quân vương này đều nhanh chóng giải quyết vấn đề, bởi không quân vương nào lại giữ quân thường trú lâu dài song song với chính quyền tại các vùng đất bị thống trị như cách các triều đại La Mã thường làm. Bởi vậy, nếu cần phải thỏa mãn binh lính hơn là thoả mãn dân chúng thì chẳng qua là binh lính được việc hơn dân chúng. Giờ đây, đối với tất cả các quân vương, ngoại trừ hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ và quốc vương Ai Cập80, thì điều cần thiết là phải làm hài lòng dân chúng chứ không phải binh lính vì dân chúng đang được việc hơn binh lính. [80 Tức là hoàng đế Ottoman Selim I đang cai trị Thổ Nhĩ Kỳ và quốc vương Mamluk của Ai Cập, người được lựa chọn từ các chỉ huy đội quân nô lệ. Hoàng đế Selim I đã lật đổ triều đại Mamluk vào năm 1517. ]
                            Tôi coi hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ là một ngoại lệ vì ông luôn duy trì bên mình mười hai nghìn lính bộ binh và mười lăm nghìn kỵ binh và dựa vào  những đội quân này để đảm bảo sự an toàn và sự hùng mạnh của đế chế. Và điều cần làm, đối với ông là gạt bỏ mọi mối quan tâm khác, ông phải thân thiện với binh lính của mình. Cũng như vậy, vương quốc của Quốc vương Ai Cập hoàn toàn nằm trong tay quân đội và đối với ông thì điều cần thiết cũng là duy trì sự thân thiện của binh lính mà không cần phải đếm xỉa đến dân chúng.
                          Ngài cũng cần lưu ý rằng chính thể của quốc vương Ai Cập không giống với các chính thể khác, mặc dù có một số đặc điểm tương tự như hình thức Giáo hoàng của Cơ Đốc giáo nên không thể gọi đó là một nền quân chủ thế tập hay một nền quân chủ mới. Con trai của quốc vương cũ không phải là người nối ngôi mà chỉ là vương tôn, còn người nối ngôi sẽ được những người có thẩm quyền lựa chọn. Và do hệ thống này lại tuân theo những truyền thống cổ xưa nên không thể gọi nó là vương quốc mới, ở đây không tồn tại những khó khăn kiểu vẫn xảy ra ở các vương quốc mới. Mặc dù quốc vương hoàn toàn mới nhưng các thiết chế lại vẫn là những thiết chế cũ và chỉ được tổ chức lại để đón nhận quốc vương mới như thể vị quốc vương mới là người trị vì được truyền ngôi.
                           Bây giờ, hãy quay lại chủ đề của chúng ta. Bất kỳ ai quan tâm đến phần thảo luận trên đây đều nhận thấy sự thù ghét và khinh miệt gây ra sự sụp đổ của những hoàng đế đời trước như thế nào, và hẳn phải nhận thấy rằng mặc dù một số người hành động thế này, còn số khác cư xử hoàn toàn ngược lại thì ở mỗi nhóm, bao giờ cũng có những người có kết cục tốt và những người phải chịu kết cục xấu.
                           Đối với những vị tân vương như Pertinax và Alexander thì thật nguy hại và vô ích nếu muốn bắt chước Marcus, người có được đất nước nhờ quyền thế tập. Tương tự như vậy, đối với Caracalla, Commodus và Maximinus thì việc bắt chước Severus là tai họa, bởi những vị hoàng đế này không đủ năng lực để hành động theo cách của Severus. Thế nên, vị tân vương ở một vương quốc mới không thể học theo những hành động của Marcus nhưng cũng không thể theo bước Severus. Thay vào đó, tân vương cần học ở Severus những điều cần thiết để lập quốc và ở Marcus những điều phù hợp và vẻ vang để bảo vệ vương quốc đã được thành lập và đang ổn định.
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.09.2009 04:54:42 bởi Sun Ming >
                #23
                  Sun Ming 12.09.2009 11:49:37 (permalink)
                  20
                   PHÁO ĐÀI VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC PHÒNG THỦ KHÁC :
                   CÓ ÍCH HAY CÓ HẠI

                   
                   
                   
                              Một số bậc quân vương không vũ trang cho dân chúng nhằm đảm bảo cho đất nước được an toàn, một số bậc quân vương chia nhỏ những vùng đất chinh phục được, còn một số bậc quân vương lại kích động sự chống đối. Một số quân vương khác lại cố giành được sự ủng hộ của những người trước đây không tin tưởng vào sự trị vì của họ. Một số quân vương xây các pháo đài trong khi số khác lại phá bỏ. Không thể đưa ra một nguyên tắc bất di bất dịch mà không tính đến những đặc điểm riêng biệt của từng quốc gia nơi người ta đã đưa ra những quyết định khác nhau. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn đề cập khái quát về vấn đề này.
                               Chưa từng có vị tân vương nào lại tước vũ khí của các thần dân mà trái lại, khi thấy thần dân không được vũ trang, quân vương còn trao vũ khí cho họ. Khi được vũ trang, lực lượng đó sẽ thuộc về ngài, cả những người trung thành lẫn những người ngài hy vọng sẽ trở nên trung thành. Khi ấy, họ không còn là dân thường mà đã là người thuộc phe của ngài. Vũ khí không thể trang bị cho tất cả mọi người nên những người được trang bị là những người được hưởng ân sủng, còn ngài sẽ dễ đối phó hơn với những người không được vũ trang.
                                Sự phân biệt đối xử mà ngài dành cho họ sẽ khiến họ mắc nợ ngài. Những người không được trang bị vũ khí sẽ miễn thứ cho ngài với ý nghĩ rằng những người chịu nhiều hiểm nguy hơn, gánh nhiều trách nhiệm hơn thì xứng đáng với nhiều sự ban thưởng hơn. Nhưng khi ngài tước vũ khí của họ thì ngài đã bắt đầu xúc phạm họ. Ngài thể hiện sự không tin tưởng vào họ vì họ hèn nhát hay vì thiếu tin tưởng.
                                 Cả hai điều đó đều khiến người ta căm ghét ngài. Và bởi vì không thể không có quân đội nên ngài sẽ phải thuê lính đánh thuê với những tính xấu đã được bàn ở các phần trước. Và cho dù chúng là những binh lính tốt đi nữa thì cũng không đủ mạnh để bảo vệ ngài trước những kẻ địch hùng mạnh và những thần dân thiếu trung thành. Bởi vậy, như tôi đã nói, một quân vương mới giành được ngôi báu ở một vương quốc mới luôn xây dựng quân đội và trong lịch sử có rất nhiều những ví dụ như vậy.
                                Nhưng khi một quân vương giành được một vương quốc mới và sáp nhập vào vương quốc cũ của mình thì cần phải tước vũ khí của những thần dân bị chinh phục, trừ những kẻ đã đứng về phía ngài trong cuộc chiến. Tuy nhiên, cùng với thời gian và khi có cơ hội, ngài cũng cần phải làm cho bọn họ suy yếu và khiếp nhược dần. Ngài phải tổ chức mọi việc sao cho sức mạnh vũ trang của toàn bộ đất nước tập trung ở chính binh lính của ngài - những người sống bên cạnh ngài tại vương quốc cũ.
                               Tổ tiên chúng ta là những người thông thái, từng nói rằng phải giữ Pistoia bằng những phe phái và phải giữ Pisa bằng các pháo đài. Chính vì thế, những xung đột phe phái được kích động ở một số thị trấn phụ thuộc nhằm kiểm soát những vùng này dễ dàng hơn. Mặc dù, vào thời điểm hiện nay, khi Italia đang ở trạng thái cân bằng quyền lực, lời khuyên này có thể là một chính sách tốt nhưng tôi không cho rằng nên coi đó là một nguyên tắc. Theo tôi, các phe phái không đem lại điều gì tốt đẹp cả mà ngược lại, khi kẻ thù đến, các thành phố bị chia rẽ luôn thất thủ, vì những phe yếu hơn luôn liên kết với các lực lượng bên ngoài và những phe còn lại sẽ không kháng cự nổi.
                               Tôi cho rằng người Venice, với những lý do nêu trên, đã kích động phe Guelf và phe Ghibelline81 tại các thành phố phụ thuộc. [81 Trong cuộc xung đột giữa hoàng đế La Mã và Giáo hoàng tại Italia thời Trung cổ, những người theo phe Guelf ủng hộ Giáo hoàng. Trong khi đó, những người theo phe Ghibelline hậu thuẫn hoàng đế. Tuy nhiên, những tranh đoạt giữa các nước đã hoà lẫn với các mâu thuẫn cục bộ nên một phe sẽ tấn công với sự ủng hộ của Giáo hoàng nếu đối thủ của họ nhận sự giúp đỡ của hoàng đế, và ngược lại.] Mặc dù không bao giờ để xảy ra đổ máu nhưng họ nuôi dưỡng xung đột giữa các phe phái sao cho những thành phố này, do bận bịu với các tranh chấp của chính mình sẽ không thể đoàn kết chống lại họ. Điều này, như chúng ta thấy, không đem lại kết quả.
                               Khi người Venice bị đánh bại tại Vailà, một phe đã ngay lập tức lấy lại dũng khí và chiếm lại toàn bộ lãnh thổ. Hơn nữa, những biện pháp kiểu này chỉ thể hiện yếu ớt của quân vương. Tại những vương quốc vững mạnh, người ta không bao giờ cho phép tồn tại những phe nhóm bởi điều này chỉ có lợi  trong thời bình khi giúp cho việc cai trị các thần dân trở nên dễ dàng hơn, nhưng khi chiến tranh đến thì chính sách kiểu này sẽ bộc lộ tác hại.
                               Rõ ràng là các quân vương chỉ trở nên vĩ đại khi họ vượt qua được những trở ngại trên con đường họ đi. Bởi vậy, với mong muốn tăng thêm danh tiếng cho vị tân vương – người cần  giành được sự tôn kính nhiều hơn là một quân vương được thừa kế ngôi báu, thần số mệnh đã tạo ra những kẻ thù và xui khiến chúng chống lại ông  để ông có cơ hội tiêu diệt chúng  và leo lên những bậc cao hơn trong chiếc thang mà kẻ thù đã đem lại cho ông. Chính vì thế, nhiều người cho rằng, một quân vương khôn ngoan khi có cơ hội phải khéo léo nuôi dưỡng sự chống đối để khi nghiền nát nó, ông sẽ giành thêm những vinh quang cho mình.
                               Các quân vương, nhất là những tân vương vừa giành được ngôi báu, thường nhận thấy những kẻ mà họ nghi ngại khi mới lên ngôi thường tỏ ra trung thành và hữu ích hơn những kẻ được tin cậy ngay từ đầu. Pandolfo Petrucci82 vua xứ Siena, đã cai trị đất nước với sự giúp đỡ của những người từng bị ngờ vực nhiều hơn bất kỳ ai khác. [82 Pandolfo Petrucci: Cai trị Siena từ cuối thế kỷ 15 cho tới khi chết năm 1512. Machiavelli đã tới lâu đài của Pandolfo Petrucci nhiều lần khi thực hiện các sứ mệnh ngoại giao.]
                               Tuy nhiên, ở trường hợp này, khó có thể nói một cách tổng quát vì các quốc gia có tình hình khác nhau. Tôi chỉ có thể nói rằng, quân vương có thể dễ dàng giành được sự hỗ trợ của những kẻ đã từng là kẻ thù của ông vào buổi đầu lên ngôi. Chúng giúp ông để bảo vệ mạng sống của chính bọn chúng. Và thậm chí chúng còn có nhiều trách nhiệm hơn trong việc phụng sự ông, phụng sự một cách trung thành vì chúng thấy cần phải thể hiện qua các hành động của mình để xóa bỏ mối nghi ngờ vốn có trong lòng quân vương. Sử dụng chúng sẽ đem lại nhiều ích lợi hơn so với những kẻ quá cẩn trọng mà thành ra không hết lòng đối với công việc của ông.
                               Do đòi hỏi của chủ đề đang bàn luận, tôi không thể không nhắc nhở quân vương vừa chinh phục được một vương quốc bằng sự giúp đỡ của dân bản xứ rằng, ông cần phải thật cẩn trọng xem xét nguyên nhân đã khiến những người này giúp đỡ ông. Nếu không phải do cảm tình vốn dĩ của họ đối với ông mà là do bất mãn với chính quyền trước thì việc duy trì những đồng minh đó sẽ là một gánh nặng rất khó khăn, bởi ông không thể nào làm hài lòng họ.
                               Khi xem xét kỹ nguyên nhân của vấn đề, ta có thể thấy các ví dụ thời xưa cũng như thời nay cho thấy tân vương có thể dễ dàng giành được nhiều cảm tình của những người vẫn hài lòng với chế độ cũ, và bởi vậy, từng là kẻ thù của ông hơn là từ những người do bất mãn với chế độ cũ mà trở thành đồng minh và giúp ông chiếm được vương quốc của họ.
                               Để bảo vệ vương quốc một cách an toàn hơn, các quân vương thường xây các pháo đài và coi đây như là phương tiện chế ngự những kẻ muốn tấn công họ, và cũng là nơi trú ẩn an toàn trước một cuộc bạo loạn bất ngờ. Tôi ngợi ca phương pháp này, vì nó được áp dụng  từ cổ xưa tới nay. Tuy nhiên, ngay trong thời đại ngày nay, Niccolò Vitelli83  đã phá hủy hai pháo đài ở Città di Castello nhằm giữ được vương quốc này. Khi giành lại được quyền cai trị xứ Urbino mà Cesare Borgia đã đoạt của mình, Guido Ubaldo84, công tước xứ Urbino, đã phá hủy hoàn toàn các pháo đài của xứ này.
                               [83 Niccolò Vitelli: Người bị Giáo hoàng Sixtus IV đuổi khỏi Città di Castello năm 1474. Vitelli đã giành lại quyền lực vào năm 1482 nhờ sự giúp đỡ của người Florence và ông đã phá hủy hai pháo đài do Giáo hoàng xây dựng .
                                 84 Guido Ubaldo: Guidobaldo da Montefeltro, Công tước Urbino (1472-1508) bị Cesare Borgia tống khỏi Urbino năm 1502, chỉ sau một thời gian ngắn đã trở lại phá hủy các pháo đài của thành phố này. Triều đình của ông là nguồn cảm hứng cho cuốn Câu chuyện triều thần của Castiglione.]
                               Ông đã quyết định rằng khi không có các pháo đài này, việc tái chiếm xứ này sẽ khó hơn nhiều. Gia tộc Bentivogli85 [85 Gia tộc Bentivogli: bị Giáo hoàng Julius II đuổi khỏi Bologna năm 1506, quay lại nắm quyền năm 1511 ] cũng áp dụng các biện pháp đó khi trở lại nắm quyền ở Bologna. Bởi vậy, các pháo đài hữu dụng hay không đều tùy vào hoàn cảnh. Pháo đài đem lại lợi ích cho ngài theo cách này nhưng lại làm hại ngài theo cách khác.
                               Vấn đề này có thể được giải quyết như sau: Vị quân vương nào e sợ thần dân của mình hơn là quân ngoại bang thì nên dựng lên pháo đài, còn vị quân vương nào sợ quân ngoại bang hơn là thần dân của mình thì đừng bận tâm đến việc xây dựng pháo đài. Lâu đài ở Milan mà Francesco Sforza xây đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh chống lại gia tộc Sforza hơn bất kỳ một sự rối loạn nào ở đó. Dù sao đi nữa thì pháo đài vững chãi nhất đó là không bị thần dân thù ghét.
                               Cho dù ngài có thể có các pháo đài nhưng chúng cũng không thể bảo vệ được ngài nếu dân chúng căm thù ngài, vì khi dân chúng đã cầm vũ khí nổi dậy thì không bao giờ thiếu những kẻ ngoại bang sẵn sàng hỗ trợ họ.
                               Ngày nay, có thể thấy các pháo đài chẳng đem lợi ích cho ai ngoài nữ bá tước Forlì86 sau khi đức ông chồng là bá tước Girolamo bị giết hại. Nhờ có lâu đài của mình, bà mới trốn thoát khỏi cuộc nổi dậy của dân chúng và trông chờ sự giúp đỡ từ Milan để giành lại vương quốc. Cũng may mắn là tại thời điểm đó, không một kẻ ngoại bang nào có thể giúp các thần dân của bà. [86 Nữ bá tước Forlì: tên thật là Caterina Sforza Riaro, cháu gái của Ludovico Sforza II Moro, đã trốn tại pháo đài Forlì sau khi chồng bà là Girolamo bị ám sát năm 1498 cho đến khi người anh em họ tới cứu. Cesare Borgia chiếm Forlì và Imola từ tay bà năm 1500.]
                               Nhưng rồi các pháo đài cũng chẳng giúp bà được nhiều khi bị Cesare Borgia tấn công và khi các thần dân thù địch bắt tay với ngoại bang. Bởi vậy, lần này cũng như lần trước, bà hẳn đã an toàn hơn nếu không bị thần dân ghét bỏ chứ không phải là chỉ nhờ vào những pháo đài.
                               Do vậy, xét tới tất cả những điều vừa bàn tới, tôi xin được ngợi ca cả những vị quân vương dựng lên các pháo đài, cả những vị quân vương không làm như vậy và tôi dành lời chỉ trích cho những vị quân vương tin tưởng vào các pháo đài mà xem thường sự thù ghét của dân chúng.
                  #24
                    Sun Ming 12.09.2009 12:00:28 (permalink)
                    21
                     ĐỂ GIÀNH ĐƯỢC LÒNG KÍNH TRỌNG
                     
                     
                                Không gì có thể khiến quân vương được kính trọng hơn là những hành động cao cả và những biểu hiện về tài năng siêu việt. Trong thời đại của chúng ta, người xứng đáng với điều đó là Ferdinand xứ Aragon, đức vua hiện nay của Tây Ban Nha. Có thể coi ông gần như một vị tân vương mới, vì ông từ một người cai trị yếu ớt, đã trở thành vị vua đầu tiên của một vương quốc Cơ đốc giáo một cách vinh quang và danh tiếng, và khi xem xét, ta có thể thấy các hành động của ông rất vĩ đại và phi thường.
                                Buổi đầu nắm quyền, ông đã tấn công Granada, hành động này đã tạo cơ sở cho danh tiếng của ông. Đầu tiên, ông hành động khi thiên hạ đang yên bình và khi đó, ông không sợ bị chống đối. Ông khiến tâm trí các lãnh chúa xứ Castile lúc nào cũng lo lắng không yên, và do mải mê tập trung vào cuộc chiến, các lãnh chúa này chẳng quan tâm gì đến những thay đổi ngay dưới mái nhà của mình. Bằng biện pháp này, ông đã giành được danh tiếng và quyền lực vượt xa họ mà họ không hề hay biết.
                                Ông duy trì quân đội bằng tiền của Giáo hội và dân chúng. Với cuộc chiến tranh dai dẳng này ông từng bước thiết lập nền tảng quân đội của chính mình, và đây chính là điều đã đem lại vinh quang cho ông. Bên cạnh đó, để có thể thực hiện những công cuộc vĩ đại hơn, ông luôn sử dụng tôn giáo cho những mục đích riêng của mình, ông trở thành một người sùng đạo tàn bạo, ông xua đuổi người Moor khỏi đất nước họ và không có trường hợp nào thê thảm và quái dị hơn.
                                Đội lốt tôn giáo, ông tấn công châu Phi, xâm chiếm Italia, và cuối cùng là tấn công nước Pháp. Với cách hành động như vậy, ông luôn thực hiện và chuẩn bị cho những chiến công vĩ đại khiến cho tâm trí các thần dân của ông luôn ở trong trạng thái lo lắng, kinh ngạc và choáng ngợp bởi thắng lợi mà họ đạt được. Một hành động của ông được nảy sinh từ một hành động khác và thời gian chuyển từ hành động này sang hành động kia không bao giờ đủ dài cho kẻ khác kịp bình tĩnh chống đối ông.
                                 Đối với bậc quân vương, việc thể hiện sự khôn khéo của mình trong các quan hệ đối nội là rất hữu ích, ta có thể thấy điều đó qua các câu chuyện về Bernabò Visconti87 của Milan. [87 Bernabò Visconti: Cai trị Milan từ 1354 đến 1385, nổi tiếng là tàn bạo nhưng rất khôn khéo]. Khi bất kỳ ai trong xã hội thể hiện những hành động khác thường, tốt hoặc xấu, thì quân vương cần phải tìm ra cách khen thưởng hoặc trừng phạt để tạo một dư luận rộng lớn. Trên hết, quân vương phải luôn thể hiện ấn tượng của một người vĩ đại với trí tuệ siêu việt trong mọi hành động của mình.
                                 Quân vương chỉ được kính trọng khi là một người bạn thực sự hoặc một kẻ thù đúng nghĩa. Đó là khi ông không hề do dự tuyên bố ủng hộ vô điều kiện một ông vua này chống lại một ông vua khác.  Một chính sách như vậy luôn hữu ích hơn sự trung lập bởi khi hai nước láng giềng hùng mạnh của ngài xung đột với nhau thì kết cục là khi một bên thắng trận, ngài sẽ ở một trong hai trường hợp: có hoặc không có lý do để e sợ người chiến thắng.
                                 Trong bất cứ trường hợp nào thì việc ngài tự mình tuyên bố ủng hộ và công khai tham chiến cũng đều tốt hơn, bởi nếu ngài không tuyên bố ý định của mình thì ngài sẽ trở thành nạn nhân của kẻ thắng trận trong khi kẻ bại trận hả hê, và khi đó, ngài thừa hiểu tại sao không có ai cứu giúp mình. Người chiến thắng không ưa những đồng minh miễn cưỡng, những kẻ không hề giúp họ lúc hoạn nạn. Còn kẻ bại trận cũng không bao giờ cho ngài nương tựa bởi ngài đã không sẵn lòng chấp nhận rủi ro để giúp đỡ họ.
                                 Khi được ngươi Aetolia cử tới Hy Lạp để đánh đuổi người La Mã, Antiochus đã cử sứ thần tới gặp người Achaea vốn thân thiện với người La Mã để thuyết phục họ giữ chính sách trung lập; còn người La mã thúc giục họ cầm vũ khí đứng về phía La Mã. Vấn đề này đã gây ra một cuộc tranh cãi tại hội đồng của người Achaea, khi đại diện của Antiochus thuyết phục họ giữ thái độ trung lập, còn đại diện của La Mã đã bác lại rằng: “Lời những người này khuyên các bạn đừng tham chiến hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của chính các bạn; không có lòng tự trọng cũng như phẩm giá của mình, các bạn sẽ trở thành nạn nhân của kẻ thắng trận”.
                                 Một điều thường thấy là kẻ không phải là bạn ngài luôn yêu cầu ở ngài sự trung lập, còn bạn của ngài sẽ yêu cầu ngài cầm vũ khí. Để tránh những hiểm nguy trước mắt, những quân vương thiếu quyết đoán sẽ theo đuổi chính sách trung lập và rốt cuộc cũng sẽ bị hủy diệt. Khi tuyên bố rõ ràng ủng hộ một bên nào đó, nếu bên đó chiến thắng, thì cho dù họ có trở nên hùng mạnh và số phận của ngài hoàn toàn do họ định đoạt thì họ vẫn cảm thấy có nghĩa vụ với ngài và tình hữu nghị sẽ khăng khít.
                                 Con người không bao giờ lại bất lương đến mức nỡ hạ gục ngài bằng sự vô ơn. Hơn nữa, chiến thắng lại không bao giờ tuyệt đối đến mức người thắng trận không còn gì phải lo lắng cả, đặc biệt là khi người ta cũng phải lưu tâm đến sự công bằng. Nhưng nếu người mà ngài ủng hộ bại trận, ngài sẽ được họ cưu mang và chừng nào còn có khả năng, người đó sẽ giúp đỡ ngài và ngài sẽ là bạn hữu của một cơ đồ có thể sẽ được gây dựng lại.
                                 Trường hợp thứ hai, khi hai bên đánh nhau và ngài không có lý do gì để e sợ kẻ nào giành chiến thắng thì việc đứng về phía một bên dẫu sao vẫn là một hành động an toàn. Khi ấy, ngài tiêu diệt ông vua này với sự giúp đỡ của ông vua kia -  người mà nếu khôn ngoan hơn đã có thể tự cứu lấy mình. Nên khi chiến thắng, ông ta sẽ phải chịu sự định đoạt của ngài vì nếu không được ngài trợ giúp hẳn ông ta không thể là người thắng trận.
                                    Cũng cần lưu ý rằng, quân vương nên tránh liên minh với một người mạnh hơn mình chống lại những người khác, trừ phi buộc phải làm vậy, vì ông sẽ tiếp tục chịu sự định đoạt của người đó nếu ngài thắng trận, mà bậc quân vương thì lại nên hết sức tránh phải phụ thuiộc vào lòng bao dung của người khác. Người Venice liên minh với nước Pháp chống lại công tước xứ Milan; trong khi lẽ ra họ đã có thể khước từ sự liên minh này, điều đã dẫn tới sự sụp đổ của chính họ.
                                 Nhưng khi một liên minh như vậy là điều không thể tránh khỏi (như xảy ra với người Florence khi Giáo hoàng và Tây Ban Nha đem quân tấn công xứ Lombardy) thì quân vương nên tham gia với những lý do đã nói. Không một quốc gia nào có thể đi theo một con đường hoàn toàn an toàn. Nhưng ngược lại, quân vương phải đối mặt và tận dụng mọi nghi ngại và bất trắc. Vì chúng ta đều thấy rằng, khi cố gắng tránh một bất lợi này, chúng ta lại đương đầu với một thế bất lợi khác. Sự khôn ngoan chính là ở chỗ nhận biết được bản chất của những bất lợi và lựa chọn bất lợi nhỏ nhất như là một giải pháp tốt nhất.
                                 Quân vương cũng nên thể hiện là người mến chuộng tài năng bằng cách công nhận những người có năng lực và vinh danh cho những người xuất sắc trong các lĩnh vực cụ thể. Hơn nữa, ông phải khuyến khích các thần dân tự do và bình yên theo đuổi các ngành nghề, cho dù là thương mại, nông nghiệp hay bất kỳ ngành nghề nào khác.
                                 Và ông phải hành động sao cho người dân kiếm tiền mà không bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ bị tước đoạt, những người làm thương nghiệp không phải lo sợ thuế má, mà ông phải thưởng cho những ai có các nguyện vọng đó, và cho bất kỳ ai tìm được cách làm giàu cho thành phố và đất nước của ông. Vào những dịp thích hợp trong năm, ông phải tổ chức các cuộc hội hè, các buổi trình diễn cho dân chúng.
                                 Do mỗi thành phố thường được chia thành các phường hội hoặc thị tộc, nên ông cũng cần quan tâm đến những nhóm người này. Thỉnh thoảng ông cần gặp gỡ họ, thể hiện mình là tấm gương về lòng nhân từ và hào phóng. Nhưng trong mọi trường hợp, ông phải giữ được sự tôn nghiêm của đấng quân vương, vì đây là điều không thể thiếu.
                    #25
                      Sun Ming 12.09.2009 12:21:58 (permalink)
                      22
                      CÁC VỊ QUÂN SƯ
                       
                       
                                   Việc chọn các quân sư cũng không kém phần quan trọng đối với quân vương. Các quân sư này hữu dụng hay không là phụ thuộc vào sự sáng suốt của vị quân vương đó.
                                   Để đánh giá sự sáng suốt của người cai trị thì điều đầu tiên là phải xem xét những người thân cận của ông, và khi những cận thần là những người có năng lực và trung thành thì có thể coi quân vương đó là người khôn ngoan, vì ông biết cách nhận ra năng lực của họ và giữ được lòng trung thành của họ. Nhưng khi các cận thần là những kẻ có tính xấu xa và phản trắc thì người ta có thể coi thường quân vương, bởi lỗi lầm đầu tiên mà ông có thể phạm phải chính là sự lựa chọn những cận thần.
                                   Những ai đã từng biết đến Antonio da Venafro88, quân sư của Pandolfo Petrucci, vua xứ Siena, thì đều ca ngợi Pandolfo vì đã có một cận thần tài năng. Thường có ba loại trí tuệ: loại thứ nhất có thể tự mình hiểu được sự việc, loại thứ hai nhận thức được những gì người khác hiểu, loại thứ ba thì dù nhờ người khác hay tự mình thì cũng chẳng hiểu được gì. [88 Antonio da Venafro: Antonio Giordani tới từ Vanefro (sinh năm 1459) là một trong những quân sư được tin cẩn nhất của Petrucci.]
                                   Loại thứ nhất siêu việt hơn cả, loại thứ hai cũng tuyệt vời, còn loại thứ ba thì vô dụng. Có thể thấy trí tuệ của Pandolfo nếu không thuộc loại thứ nhất thì cũng thuộc loại thứ hai; bởi khi một quân vương đủ khôn ngoan để nhận ra cái xấu và cái tốt trong hành động, lời nói của người khác thì cho dù ông có thể tự mình không có ý tưởng, nhưng ông vẫn có thể hiểu được những việc tốt và việc xấu của vị quân sư. Khi ấy, ông có thể ca ngợi cái tốt, chấn chỉnh cái xấu, còn vị quân sư không hy vọng gì vào việc lừa dối thì tất sẽ phải giữ thái độ tốt.
                                   Có một cách luôn luôn đúng để bậc quân vương có thể thấu hiểu người quân sư của mình. Khi ngài thấy người quân sư nghĩ cho bản thân mình nhiều hơn cho ngài, và thấy rằng trong tất cả các hành động, ông ta chỉ tìm kiếm lợi ích riêng thì một người như thế không bao giờ là một quân sư tốt,  nên ngài đừng bao giờ tin tưởng hắn. Một người nắm trong tay giang sơn của quân vương thì không bao giờ được nghĩ đến bản thân mình mà phải luôn nghĩ cho quân vương, và không bao giờ được bận tâm đến bất kỳ điều gì không phải là mối bận tâm của quân vương.
                                   Trong khi đó, quân vương cũng phải quan tâm đến quân sư của mình nhằm duy trì những điều tốt trong con người đó. Quân vương phải tôn trọng, phải ban phát danh vọng, tiền bạc cho người đó, để khiến ông ta chịu ơn huệ trong việc chia sẻ với ngài những vinh quang và trách nhiệm - sao cho người quân sư thấy được rằng mình không thể tồn tại nếu không có ngài, và sự giàu sang sẽ khiến ông ta không thèm khát tiền bạc, và nhiều bổn phận sẽ khiến ông ta e sợ những thay đổi.
                                   Do đó, khi cả quân sư và quân vương đều cần đến nhau trong mối tương quan như vậy, họ có thể tin cậy được nhau; còn nếu không, kết quả sẽ chẳng tốt đẹp gì cho cả hai bên.
                      #26
                        Sun Ming 12.09.2009 12:25:11 (permalink)
                        23
                        LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRÁNH NHỮNG KẺ XU NỊNH
                         
                         
                                     Tôi không muốn bỏ sót một vấn đề quan trọng, và một sai lầm mà các quân vương nếu không thật sự khôn ngoan và sáng suốt thì khó có thể tránh khỏi. Đó là nơi triều đình đầy rẫy những kẻ xu nịnh. Con người thường chỉ quan tâm đến bản thân, tự phỉnh nịnh mình nên khó tránh khỏi căn bệnh đó. Và mong muốn tự vệ thoát khỏi căn bệnh này có thể khiến họ bị khinh thường. Bởi vì không có cách nào khác để tránh những lời xu nịnh ngoài cách bày tỏ cho mọi người hiểu rằng nói cho ngài sự thật không phải là xúc phạm ngài. Thế nhưng khi một người nào dám nói với ngài sự thật thì ngài sẽ đánh mất sự tôn kính của họ đối với ngài.
                                     Bởi vậy, bậc quân vương khôn ngoan nên chọn một cách thứ ba, chọn những người khôn ngoan đảm nhiệm việc đó. Chỉ trao cho những người này quyền được nói sự thật với ông và chỉ về những vấn đề ông yêu cầu chứ không về bất kỳ vấn đề nào khác. Nhưng nên hỏi họ về mọi thứ và lắng nghe quan điểm của họ để sau đó, ông có thể tự mình quyết định theo cách riêng. Đối với những lời khuyên này và đối với mỗi quân sư, quân vương phải hành động sao cho tất cả họ hiểu rằng họ càng trình bày một cách thoải mái bao nhiêu, họ càng được ông tán thưởng bấy nhiêu.
                                     Ngoài ra, ông phải kiên quyết không nghe bất kỳ ai khác, phải tuân thủ chính sách đã đề ra và vững vàng trong các quyết định. Nếu không hành xử như vậy, quân vương sẽ trở thành con mồi của những kẻ xu nịnh hoặc thành kẻ “đẽo cày giữa đường”, và như thế, lòng kính trọng của mọi người đối với ông sẽ không còn nữa.
                                     Tôi muốn đưa ra một ví dụ thời nay. Cha Luca89 [89 Cha Luca: Machiavelli đã chạm trán với Luca Rainaldi, một trong những bộ trưởng chủ chốt của hoàng đế Maximilian I (1459-1519) khi ông thực hiện sứ mạng ngoại giao tại nước ngoài] đại diện của hoàng đế Maximilian hiện nay, khi nói về hoàng đế của mình đã bình phẩm việc vị hoàng đế này không bao giờ tìm kiếm lời khuyên của bất kỳ ai cũng như không làm bất kỳ cái gì theo cách riêng của ông. Đó là do bản chất kín đáo của ông, một chính sách trái ngược với chính sách nói trên.
                                     Ông không cho ai biết dự định của mình và cũng không chấp nhận bất kỳ lời khuyên nào đối với những dự định đó. Chỉ khi nào những dự định của ông bắt đầu được thực hiện thì người ta mới biết đến và nhận ra, và những người xung quanh hoàng đế bắt đầu bình luận, chỉ trích. Vì là người dễ bị tác động, ông đã nhanh chóng từ bỏ các kế hoạch của mình. Kết cục là ông đã thiêu đốt tất cả những gì ông đã đạt được của ngày hôm qua, và chẳng ai có thể hiểu được là ông muốn hay định làm gì, và cũng chẳng ai có thể tin được vào các quyết định của ông.
                                     Do vậy, quân vương luôn luôn nên tìm kiếm lời khuyên nhưng chỉ khi ông muốn chứ không phải khi người khác muốn. Trái lại, quân vương cũng phải hạn chế người ta khuyên bảo cho mình trừ phi chính quân vương yêu cầu. Ông phải là người giỏi về dò hỏi, và đối với những vấn đề đang được hỏi ý kiến, ông phải kiên nhẫn lắng nghe sự thật. Hơn nữa, ông phải học cách nổi giận khi bất kỳ ai, vì bất cứ lý do gì, đã không nói với ông sự thật.
                                     Nhiều người thấy những quân vương khôn ngoan thường được nổi danh nhờ những quân sư xung quanh hơn là nhờ những đức tính riêng của ông, nhưng họ hoàn toàn nhầm lẫn. Có một nguyên tắc chung không bao giờ sai: vị quân vương nào mà tự bản thân không khôn ngoan thì không thể biết lắng nghe một cách khôn ngoan những lời khuyên, trừ phi nhờ may mắn, ông thân thiết với vị quân sư, một người khôn ngoan và thao túng ông trong mọi việc.
                                     Trong trường hợp này, ông có thể nhận được những lời khuyên tốt, nhưng điều đó không thể kéo dài vì người quân sư sẽ nhanh chóng đoạt mất vương quốc của ông. Nhưng nếu quân vương không khôn ngoan tìm kiếm lời khuyên từ nhiều người, thì ông sẽ không bao giờ có được những ý kiến thống nhất hoặc ông cũng không biết cách vận dụng những ý kiến đó một cách thống nhất.
                                     Mỗi một vị quân sư đều chỉ nghĩ đến lợi ích riêng, còn quân vương khó lòng uốn nắn và hiểu thấu lòng họ hay điều khiển được họ. Không thể tìm được những quân sư khôn ngoan hơn, bởi họ luôn trở mặt nếu không có điều gì buộc họ phải đối xử tốt.
                                     Do vậy, có thể kết luận rằng, sự khôn ngoan của quân vương mang lại những lời khuyên tốt chứ không phải lời khuyên tốt mang lại sự khôn ngoan của quân vương.
                        #27
                          Sun Ming 12.09.2009 12:28:36 (permalink)
                          24
                           LÝ DO CÁC QUÂN VƯƠNG ITALIA
                          ĐÁNH MẤT VƯƠNG QUỐC

                           
                           
                                       Nếu những nguyên tắc đã nói được tuân thủ một cách cẩn trọng thì các vị quân vương mới giành được ngôi báu sẽ thấy địa vị của mình được thiết lập vững càng và an toàn hơn so với những quân vương được truyền ngôi. Mặc dù tân vương mới giành được ngôi báu thường bị xét nét nhiều hơn so với quân vương được truyền ngôi, nhưng khi các việc làm của tân vương được thừa nhận là những hành động tốt thì dân chúng sẽ bị lôi cuốn mạnh mẽ hơn và ràng buộc chặt chẽ hơn vào vị quân vương này.
                                       Vì con người thường bị chi phối bởi những mối bận tâm hiện thời hơn là những lo lắng của quá khứ, nên khi thực tại làm họ hài lòng thì họ tận hưởng sự hài lòng này mà không mưu cầu gì hơn. Trên thực tế, họ sẽ hết mình bảo vệ vị tân vương miễn là ông đừng sao nhãng các trách nhiệm của mình. Chính bởi vậy, vị tân vương sẽ giành được  hai lần vinh quang, khai sinh ra một vương quốc mới và xây dựng, củng cố vương quốc đó bằng những luật lệ tốt, quân đội tốt và những tấm gương sáng. Còn người nào sinh ra đã là một quân vương nhưng lại để mất đi vương quốc của mình do thiếu khôn ngoan thì sẽ bị hai lần hổ nhục.
                                       Và khi nhìn lại những quân vương Italia để mất vương quốc của mình trong thời đại của chúng ta, như vua xứ Naples, công tước xứ Milan và những vương hầu khác, ta sẽ thấy họ đều mắc sai lầm giống nhau trong việc sử dụng quân đội với những nguyên nhân chúng ta đã bàn đến khá nhiều ở phần đầu cuốn sách này. Còn có thể thấy rằng một số quân vương bị dân chúng thù ghét, số khác được dân chúng ủng hộ nhưng giới quý tộc lại không ưa.
                                       Nếu không mắc những sai lầm trên, những vương quốc đó hẳn đã đủ mạnh để đương đầu với kẻ thù và hẳn đã không rơi vào tay người khác. Vua Philip xứ Macedonia90 [90 Ở đây chỉ vua Philip V của xứ Macedonia (221-179 TCN) bị đánh bại tại trận chiến Cynoscephalate (197 TCN)]  – người bị Titus Quinctius đánh bại chứ không phải vua Philip- cha của Alexander Đại đế, không có nhiều đất đai như đế chế La Mã và đế chế Hy Lạp, là những nước tấn công ông nhưng bằng tài quân sự cũng như bằng sự hiểu biết về cách tổ chức dân chúng và cách tự bảo vệ trước giới quý tộc, ông đã đủ sức theo đuổi chiến tranh chống lại những đế chế này trong nhiều năm. Cho dù bị mất một số thành, nhưng cuối cùng, ông vẫn bảo toàn được vương quốc.
                                       Bởi vậy, những quân vương của Italia, những người trị vì nhiều năm nhưng lại để mất vương quốc mình, không nên đổ lỗi cho số phận mà phải tự trách mình ngu dốt. Trong thời bình, họ chẳng bao giờ nghĩ đến việc thời thế đổi thay (lỗi thường thấy ở con người là khi trời yên gió lặng, thì không nghĩ tới bão dông), nên cuối cùng khi khó khăn tới, họ chỉ nghĩ tới việc bỏ chạy chứ không lo tìm cách tự vệ.
                                       Họ hy vọng dân chúng rốt cuộc sẽ mời họ trở lại do căm ghét sự tàn bạo của kẻ chiến thắng. Khi không còn giải pháp nào khác thì đây là một chính sách tốt. Nhưng nếu chỉ nghĩ đến chính sách này mà không đếm xỉa đến bất kỳ cách nào khác thì đây là giải pháp tồi tệ. Vì ngài không bao giờ muốn bị thất bại nên ngài luôn tin rằng sẽ tìm được ai đó cứu giúp mình.
                                       Nhưng dù cho điều đó có xảy ra hay không thì cũng không giúp ngài được an toàn. Biện pháp bảo vệ hèn nhát này chứng tỏ rằng ngài không thể tự bảo vệ mình. Nhưng biện pháp tốt, vững chắc và lâu dài chính là dựa vào bản thân, vào sự khôn khéo của chính ngài.
                          #28
                            Sun Ming 12.09.2009 12:36:07 (permalink)
                            25
                            VAI TRÒ CỦA SỐ PHẬN
                            VÀ CÁCH ĐƯƠNG ĐẦU VỚI SỐ PHẬN

                             
                             
                                        Tôi không biết có bao nhiêu người đã và vẫn cho rằng mọi sự việc trên thế giới này đều do Chúa và số phận định đoạt, còn con người với trí tuệ của mình không những không thể kiểm soát số phận mà thậm chí còn không thể đối phó được với số phận. Vịn vào lý do này, họ cho rằng hãy để mặc số mệnh quyết định tương lai.
                                        Quan điểm này thậm chí còn có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn trong thời đại của chúng ta do những biến động lớn lao xảy ra hàng ngày đã vượt quá sự suy đoán của con người. Đôi lúc, khi nghĩ đến những điều này, tôi cũng phần nào nghiêng về ý kiến đó. Tuy nhiên, quyền tự định đoạt của chúng ta sẽ không mất đi, tôi xét thấy sự thật là số phận chỉ chi phối một nửa những hành động  của chúng ta, một nửa hoặc gần một nửa còn lại là do chính chúng ta quyết định. Và tôi xin được so sánh số phận với những dòng sông mang theo sự tàn phá, khi nổi giận chúng tràn ngập đồng bằng, quật đổ cây cối và nhà cửa, cuốn trôi đất cát, ai ai cũng phải tháo chạy, ai ai cũng phải chịu sự thịnh nộ của chúng mà không có cách gì chống đỡ được.
                                        Nhưng cho dù thiên nhiên có như vậy cũng không có nghĩa là khi trời quang mây tạnh, chúng ta lại không phòng bị trước bằng cách đắp đê và khơi mương để khi nước lại dâng lên thì dòng nước có thể bị dẫn đi nơi khác hoặc bớt phần ghê gớm. Số phận cũng vậy thôi, sẽ thể hiện sức mạnh tàn bạo khi không gặp sự kháng cự, và số phận sẽ tấn công những nơi nó biết không hề đắp đê hay đào kênh.
                                        Và khi ngài xem kỹ nước Italia, cội nguồn của vô vàn biến động cũng như của dân tộc đã tạo nên những biến động đó, ngài sẽ thấy đây là một đất nước không hề có đê bao và chẳng có lấy một thành lũy. Nếu như nước Italia được bảo vệ bằng những lực lượng cần thiết, giống như Đức, Tây Ban Nha và Pháp, thì nước lũ đã không thể gây ra những đổi thay ghê gớm hay thậm chí cũng đã không có nước lũ tràn về. Tôi cho rằng thế là khá đủ khi nói một cách tổng quát về số phận.
                                        Đề cập sâu hơn vào những vấn đề cụ thể, tôi nói rằng người ta chứng kiến một quân vương thành công ngày hôm nay nhưng ngày mai lại lụi tàn mà không hề có thay đổi nào về tính cách hay bất kỳ nguyên nhân nào đã thảo luận ở phần trước.
                                        Nghĩa là vị quân vương nào hoàn toàn dựa vào số phận sẽ thất bại ngay khi số phận đổi thay. Tôi cũng tin rằng ai biết lựa theo thời thế mà hành động sẽ là người thành công và tương tự như vậy, người nào hành động không hợp thời sẽ chuốc lấy tai họa.
                                        Ta có thể thấy khi con người hành động với cái đích mưu cầu là vinh quang và của cải đều dùng nhiều cách thức khác nhau. Người thì thận trọng, kẻ thì táo bạo, người dùng bạo lực, kẻ dùng thủ đoạn, người này kiên nhẫn, kẻ kia nóng nảy, và mỗi người với các biện pháp khác nhau đều đạt được mục đích của mình. Ta cũng thấy rằng, ngay khi cả hai cùng thận trọng thì vẫn có kẻ thắng người thua, và tương tự, hai người thành công như nhau vẫn có thể sử dụng hai phương pháp khác nhau, mà nguyên nhân ở đây chính là hành động của họ có phù hợp với thời thế hay không.
                                        Như tôi vừa đề cập, hai người hành động trái ngược nhau có thể cùng thu được kết quả như nhau trong khi hai người hành động giống nhau vẫn có kẻ được người mất. Sự khác biệt về quan niệm “cái gì là tốt” cũng tùy thuộc vào thời thế, bởi nếu một quân vương thận trọng và kiên nhẫn, và thời thế biến đổi theo chiều hướng phù hợp với sách lược của ông thì ông sẽ thành công, nhưng nếu thời thế thay đổi theo chiều hướng ngược lại, ông sẽ thất bại do không chịu thay đổi phương pháp hành động.
                                        Nhưng chúng ta cũng không thể tìm được một người thận trọng đến mức có thể tự điều chỉnh bản thân phù hợp với thời thế, bởi ông không thể đi chệch khỏi thiên hướng bẩm sinh cũng như không thể bị thuyết phục rời bỏ con đường vẫn luôn đem lại danh vọng và của cải. Và bởi vậy, người cẩn trọng, khi thời cơ đòi hỏi phải hành động một cách táo bạo mà không dám quyết đoán, tất yếu sẽ bị hủy diệt, nhưng nếu ông thay đổi theo thời thế thì số phận cũng sẽ chẳng đổi thay.
                                        Giáo hoàng Julius II hành động rất táo bạo trong mọi việc làm của ngài. Ngài nhận thấy thời thế và bối cảnh rất phù hợp với cách hành động này nên ngài luôn giành được những thành công phi thường. Hãy xét tới cuộc chiến tranh đầu tiên ngài tiến hành chống lại xứ Bologna khi Giovanni Bentivogli còn sống. Lúc này, người xứ Venice và vua Tây Ban Nha đều bất bình và Giáo hoàng Julius II vẫn còn đang đàm phán với nước Pháp.
                                        Tuy vậy, ngài vẫn tự mình tiến hành cuộc chinh phạt với sự tàn bạo và liều lĩnh quen thuộc. Những hành động này dồn người Tây Ban Nha và người Venice vào thế bí, người Venice thì hoảng sợ, người Tây Ban Nha thì thèm khát giành lại toàn bộ vương quốc Naples, và vào cùng thời điểm đó, vua nước Pháp bị lôi kéo vào cuộc chiến bởi ông ta muốn giành được sự ủng hộ của Giáo hoàng để đánh bại người Venice. Khi biết Giáo hoàng tiến hành chiến tranh, ông ta không thể từ chối việc ngài sử dụng quân đội của ông ta vì điều đó sẽ gây tổn hại cho ngài.
                                        Nhờ vậy, bằng sự táo bạo của mình, Giáo hoàng Julius II đã giành được điều mà không giáo hoàng nào đạt được với trí tuệ siêu việt nhất. Nếu ngài đợi đến khi rời thành Rome với những thỏa thuận và mọi việc được sắp đặt trật tự như bất kỳ một giáo hoàng nào khác có thể đã làm, thì ngài đã không thể thành công, bởi vì vua nước Pháp sẽ tìm được cả ngàn lời cáo lỗi và những kẻ khác sẽ đe dọa ngài với hàng ngàn mối lo ngại.
                                        Tôi không bàn đến những chiến công khác của ngài bởi tất cả chúng đều như vậy và đều thành công. Nhưng sự ngắn ngủi của cuộc đời ngài91  đã không để ngài phải nếm trải những thất bại. Khi thời thế đòi phải cẩn trọng thì sự bại vong của ngài chắc không thể tránh khỏi bởi ngài sẽ không thể hành động khác với bản chất của ngài. [91 Một lần nữa, cũng như khi bàn về Giáo hoàng Alexander VI (chương 7), Machiavelli ám chỉ tới sự ngắn ngủi của thời gian nắm quyền Giáo hoàng của Julius II chứ không phải tuổi thọ ngắn ngủi của ngài.]
                                        Tóm lại, tôi xin kết luận rằng, do số phận thì mang tính thay đổi còn con người thường không chịu thay đổi nên người ta sẽ thành công khi hai yếu tố trên hòa hợp, và thất bại khi chúng không thuận nhau. Tôi cũng tin rằng táo bạo thì hơn là cẩn trọng, vì số phận cũng giống như người đàn bà92, để chế ngự nàng thì cần phải nặng tay và cương quyết với nàng. [92 Ở đây Machiavelli làm phép so sánh giữa sức mạnh cho một cuộc giao hoan thô bạo với sức mạnh xác định động cơ quyền lực chính trị.]
                                        Có thể thấy rằng nàng thường dành cho người đàn ông táo bạo chứ không phải người vẫn tán tỉnh nàng một cách cứng nhắc. Hơn nữa, là đàn bà, nàng luôn thân thiện với bọn thanh niên vì chúng ít thận trọng hơn, hung hăng hơn và đòi hỏi nàng với nhiều sự táo bạo hơn.
                            #29
                              Sun Ming 12.09.2009 12:43:32 (permalink)
                              26
                              LỜI KÊU GỌI GIẢI PHÓNG ITALIA
                               
                               
                                          Xét tất cả những điều đã bàn đến và cân nhắc xem liệu thời điểm hiện nay có phù hợp để tôn vinh một vị tân vương ở Italia không, liệu đã có cơ hội nào cho vị tân vương tài trí và khôn ngoan xác lập một chính quyền có thể đem vinh quang đến cho ông và những điều tốt đẹp đến cho người dân Italia hay không, tôi thấy dường như có quá nhiều điều thuận lợi cho vị tân vương mới, đến mức tôi không còn thấy thời điểm nào thích hợp hơn.
                                          Và như tôi đã nói, nếu dân Israel cần phải chịu cảnh làm nô lệ ở Ai Cập để nhận ra tài năng phi thường của Moses, người Ba Tư phải bị người Medes áp bức mới thấy được tinh thần vĩ đại của Cyrus, và người Athens phải bị chia ly mới thấy được tài năng kiệt xuất của Theseus thì cũng vậy, ngày nay, để tìm ra một tài năng  và trí tuệ siêu việt của Italia, đất nước Italia cần phải bị chìm đắm và phải tủi nhục hơn cả người Do Thái, bị áp bức hơn người Ba Tư, bị ly tán hơn người Athens, không lãnh tụ, không tổ chức, bị đánh đập, bị cướp đoạt, bị xé lẻ, bị giày xéo và trở thành nạn nhân của bất kỳ tai họa nào.
                                          Mặc dù vậy, trước đây cũng đã có vài tia sáng le lói trong một cá nhân đơn lẻ93 [93 Có thể Machiavelli ám chỉ Cesare Borgia, nhưng cũng có thể ám chỉ Giuliano de Medici, công tước xứ Nemours, cái chết đột ngột của ông năm 1516 đã khiến Machiavelli phải thay đổi lời đề tặng cuốn Quân vương], khiến cho người ta từng tin rằng Chúa đã trao cho ông bổn phận cứu vớt cho Italia nhưng thực tế lại phải chứng kiến vận may rời bỏ ông ngay đỉnh cao của sự nghiệp. Giờ đây, đất nước Italia vẫn tồn tại vô vọng chờ đợi một con người sẽ hàn gắn những vết thương, sẽ chấm dứt tình trạng cướp bóc xứ Lombardy, các khoản cống nạp của vương quốc Naples và xứ Tuscany và sẽ chữa lành những vết thương đã mưng mủ quá lâu.
                                          Hãy xem, đất nước Italia đang cầu xin Chúa gởi đến một con người cứu vớt cả dân tộc khỏi sự tàn bạo và láo xược man rợ. Hãy xem, Italia vẫn sẵn sàng và hăng hái bước theo ngọn cờ khi có người chủ xướng phất lên. Giờ đây, liệu còn có ai mà đất nước Italia có thể đặt vào nhiều hy vọng hơn là dòng họ huy hoàng của ngài, dòng họ với thời vận và tài năng của mình được Chúa và Giáo hội che chở, dòng họ đang có bậc quân vương thời nay có thể lãnh đạo cuộc cứu rỗi này.
                                          Điều đó cũng không quá khó nếu ngài luôn noi theo những hành động và cuộc đời của những bậc anh hùng được nhắc đến trong cuốn sách này. Mặc dù đều tài ba xuất chúng, những nhân vật nổi tiếng này cũng chỉ là con người và không ai trong số họ gặp được thời cơ tốt đẹp như ngài đang có bởi sự nghiệp của ngài chính đáng hơn nên dễ dàng hơn94 .
                                          [94 Vào năm 1516, thời gian giả định của lời đề tặng cuốn Quân vương, các thành viên dòng họ Medici nắm giữ chức Giáo hoàng (Giáo hoàng Leo X), và Lorenzo de Medici được Giáo hoàng Leo chỉ định làm công tước xứ Urbino trong năm đó, tương lai có dự kiến trở thành người cai trị của Florence. Khi Machiavelli viết Quân vương năm 1513, đầu tiên ông mường tượng sự tập trung quyền lực của dòng họ Medici vào Giuliano de Medici, công tước xứ Nemours, và Giáo hoàng Leo. Sau cái chết của Giuliano vào năm 1516, khả năng này vẫn tồn tại với sự xuất hiện ngắn ngủi của Lorenzo de Medici. Cơ hội này cũng giống như cơ hội từng có với Giáo hoàng Borgia, Alexander VI, và con trai là Cesare, cho đến khi Giáo hoàng đột ngột qua đời năm 1503. Với cái chết của cả Giuliano và Lorenzo năm 1519, hy vọng của dòng họ Medici lụi tắt và điều này giải thích lý do khi còn sống, Machiavelli đã không xuất bản cuốn Quân vương, bởi sau năm 1519 mục đích ban đầu của cuốn sách này không còn thực hiện nữa.]
                                          Hơn nữa, ngài lại được Chúa che chở nhiều hơn. Ở đây, công lý là toàn năng: “Chỉ những cuộc chiến tranh nào là không thể tránh khỏi mới là những cuộc chiến tranh chính đáng và vũ khí trở nên thiêng liêng khi không còn gì ngoài vũ khí95.[95 Machiavelli trích nguyên văn từ bản gốc bằng chữ Latin của nhà sử gia vĩ đại Livy].
                                          Đó là một ý nguyện vĩ đại và khi đã có một ý nguyện vĩ đại thì mọi khó khăn đều có thể vượt qua nếu ngài noi theo tấm gương của những bậc tiền nhân mà tôi đã lưu ý.
                                          Hơn thế nữa,  giờ đây, chúng ta đang chứng kiến những dấu hiệu lạ thường chưa từng có mà Chúa đã mang lại: thủy triều rút cạn, mây mù dẫn lối, đá tuôn nước mát, lộc thánh như mưa, mọi thứ đều quy tụ để tạo nên sự vĩ đại của ngài. Phần còn lại ngài phải tự mình làm. Chúa không làm mọi việc vì không muốn lấy đi ý chí tự do của chúng ta và vinh quang đó là của chúng ta.
                                          Chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu người ta hy vọng dòng họ huy hoàng của ngài làm được điều mà bao nhiêu người Italia đã không thể làm được và cũng chẳng ngạc nhiên  nếu trong những cuộc nổi loạn và chiến tranh, dường như tinh thần thượng võ của Italia đã cạn kiệt. Đó là vì trên thực tế, các thiết chế cổ xưa của Italia không còn hợp lý nữa và không ai biết cách tìm ra những thiết chế mới.
                                          Đối với một quân vương mới nổi lên, không gí có thể đem lại vinh dự cho ông hơn là những luật lệ và thiết chế mới do chính ông đề ra. Khi có nền móng vững vàng và chứa đựng những điều lớn lao, các luật lệ và thiết chế này sẽ đem lại cho ông sự kính trọng và ngưỡng mộ. Đất nước Italia có đầy đủ mọi điều kiện để ước vọng đó biến thành hiện thực. Người dân Italia có khả năng vô bờ bến và chỉ còn thiếu các lãnh tụ mà thôi.
                                          Trong những cuộc đấu tay đôi và những cuộc giao tranh nhỏ chỉ liên quan đến một số ít người, thì các binh lính Italia luôn vượt trội về sự mạnh mẽ, sự khéo léo và khôn ngoan. Thế nhưng, trong một đạo quân, họ lại không phối hợp được với nhau. Tất cả là do sự bất tài vô dụng của những người lãnh đạo. Những kẻ có chút năng lực thì không đủ để thiên hạ phục tùng.
                                          Cho tới nay, vẫn chưa tìm được ai biết cách vượt lên những người khác nhờ vận may hay tài trí để thiên hạ phải qui phục. Vì thế, trong suốt hai mươi năm qua với biết bao cuộc chiến, những đội quân gồm toàn người Italia đều chiến đấu vô cùng kém cỏi. Bằng chứng của điều đó trước tiên là Taro, sau đó là Alexandria, Capua, Genoa, Vailà, Bologna và Mestri 96.
                                          [96 Machiavelli liệt kê danh sách các thất bại quân sự của Italia: Chales VIII đánh bại quân Italia tại Fornovo (1495) gần sông Taro; Louis VII chiếm Alexandria (1499), Capua (1501), Genoa (1507), Vailà (1509) và Bologna (1511). Năm 1513, người Venice bị ngoại bang đánh bại ở gần Vicenza khiến Mestri bị cuớp phá.]
                                          Bởi vậy, nếu dòng họ huy hoàng của ngài ước vọng noi theo những con người kiệt xuất, những bậc anh hùng đã cứu vớt tổ quốc mình, thì điều  cần thiết trước tiên, nền tảng thực sự cho bất kỳ hành động nào, là thiết lập đội quân của chính tổ quốc ngài vì không thể có được đội quân nào thiện chiến hơn, trung thành hơn, kiên định hơn. Từng người lính riêng lẻ đều là người dũng cảm và khi tập hợp lại, họ sẽ còn dũng cảm hơn khi thấy mình được chỉ huy, được tôn trọng, được đối xử thân ái bởi vị quân vương của chính họ. Do vậy, ngài cần phải tự thành lập những đội quân như vậy, để ngài có đủ khả năng bảo vệ trước những quân đội ngoại bang, bằng chính sức mạnh của người Italia.
                                          Mặc dù bộ binh Thụy Sỹ và Tây Ban Nha nổi tiếng là đáng sợ, cả hai đều có những nhược điểm mà một đội quân thứ ba có thể tận dụng không chỉ để chống lại mà còn có thể tự tin là đánh bại được họ. Bởi bộ binh Tây Ban Nha thì không thể chống chọi được kỵ binh, còn lính Thụy Sỹ lại sợ chiến đấu với những người lính bộ binh cũng dũng cảm như họ.
                                          Do vậy, người ta đã và sẽ còn thấy lính Tây Ban Nha không thể chống cự kỵ binh Pháp và lính Thụy Sỹ thì bị bộ binh Tây Ban Nha tiêu diệt. Cho dù điểm cuối cùng này không được thực tế chiến trường khẳng định chắc chắn, nhưng ta cũng có thể thấy dấu hiệu của nó tại trận chiến Ravenna97. Tại đây, bộ binh Tây Ban Nha đã chiến đấu với những đạo quân Đức, những đạo quân được tổ chức giống như quân Thụy Sỹ. [97 Trận chiến Ravenna: Ngày 11 tháng 4 năm 1512, kỵ binh Pháp dưới sự chỉ huy của Gasron de Foix đã truy đuổi bộ binh Tây Ban Nha.]
                                          Với những thân hình nhanh nhẹn và được bảo vệ bằng các tấm khiên gai, lính Tây Ban Nha đã tả xung hữu đột giữa rừng giáo mác của lính Đức mà vẫn bình an  vô sự, và nếu không có kỵ binh kịp thời phá vỡ thì chắc hẳn lính Tây Ban Nha đã tàn sát toàn bộ quân Đức. Do vậy, khi đã xác định  được những yếu điểm của cả hai loại  quân này thì có thể xây dựng một loại quân mới để đương đầu với kỵ binh và cũng không phải e sợ bộ binh. Điều đó có thể thực hiện thông qua việc lập nên những đạo quân mới và thay đổi cách dàn quân. Và trong số những hành động tổ chức lại đất nước, đây cũng sẽ là những việc đem lại vinh quang và danh tiếng cho vị tân vương.
                                          Cơ hội này, xin đừng bỏ lỡ. Đất nước Italia sau đêm dài đen tối đã lại có thể nhìn thấy vị cứu tinh. Không một lời nào có thể diễn tả hết được sự yêu mến mà vị cứu tinh đó sẽ nhận được từ tất cả những miền đất đã phải chịu đựng sự xâm lấn của ngoại bang, với khát vọng báo thù nung nấu. Với lòng trung thành bền bỉ bấy lâu, với biết bao đau thương và nước mắt!
                                          Có cánh cửa nào lại không rộng mở? có người dân nào lại từ chối phục tùng? kẻ nào dám ghen tị và chống đối ngài? Người Italia nào dám không tôn kính? Đối với toàn dân, sự thống trị của lũ man rợ kia thật là nhức nhối! Bởi vậy, dòng họ huy hoàng của ngài hãy nhận lấy sứ mạng này với tinh thần và niềm hy vọng là nơi khởi đầu những sự nghiệp chính nghĩa, để đất nước này lại được vinh quang dưới ngọn cờ của ngài và, dưới sự lãnh đạo của ngài, để những câu thơ của Petrarch98 sẽ trở thành sự thật .
                                          Khôn ngoan thắng bạo tàn
                                          Hãy lại cầm vũ khí, trận chiến sẽ ngắn thôi
                                          Lòng dũng cảm ngàn xưa
                                          Trong trái tim người Italia, sẽ không bao giờ chết.99
                                          [98 Petrarch (1304-1374), tên thật của ông là Francesco Petrarca, nhà thơ và nhà nhân văn người Italia. Ông được coi là nhà thơ hiện đại đầu tiên của thế giới.
                                           99 Lời trích từ đoản khúc của Petrarch, “Italia mia”. Bằng việc trích dẫn bài thơ yêu nước của Petrarch, Machiavelli hướng sự chú ý của chúng ta vào sự so sánh tương phản của Petrarch về Virtù và Furore. Qua đó khẳng định Virtù, như cách hiểu của riêng ông (sự khôn ngoan, một sức mạnh có kỷ luật), sẽ chiến thắng những sức mạnh bạo tàn vô lối trong công cuộc thống nhất đất nước Italia do một ông hoàng gia tộc Medici khởi xướng..]
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 32 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9