Các dàn nhạc cổ truyền Việt Nam
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 20 bài trong đề mục
mickey 02.07.2005 02:01:41 (permalink)
Các dàn nhạc cổ truyền Việt Nam


  • Cồng và một số dàn cồng ở Tây Nguyên
  • Dàn nhạc Thính Phòng Huế
  • Dàn cồng sắc bùa Mường
  • Dàn nhạc đám cưới người Dao
  • Dàn nhạc ả Đào (Dân tộc Việt)
  • Dàn nhạc Chèo (Dân tộc Việt)
  • Dàn Đại nhạc Cung Đình
  • Dàn nhạc Huyền Cung Đình
  • Dàn nhạc Sư Tử (Dân tộc Tày-Nùng)
  • Dàn nhạc Đám tang (Các dân tộc thiểu số phía Bắc)
  • Dàn nhạc Chăm Ninh Thuận
  • Dàn nhạc sân khấu Rôbăm
  • Dàn chinh chiêng
  • Dàn nhạc Sắc bùa người Việt
  • Dàn nhạc Hầu Bóng
  • Dàn nhạc Tuồng
#1
    mickey 02.07.2005 02:03:46 (permalink)
    Cồng và một số dàn cồng ở Tây Nguyên

    Cồng là một nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, chi gõ, có cao độ xác định hoặc không xác định. Cồng được chế tác bằng phương pháp đúc, đổ khuôn một hỗn hợp kim loại. Cồng có nhiều kích cỡ to nhỏ khác nhau và có 4 dạng sau:
    - Cồng bẹt (tam tam)

    - Cồng có dạng hình cơi trầu có nắp, ở giữa nắp có núm. Về phát âm, thực ra nó thuộc vào nguyên lý của trống hơn là cồng chiêng nên đôi khi còn được gọi là trống kim loại.
    - Cồng mặt phẳng có viền cạnh gập xuống chiêng bằng). Các dân tộc ở Tây Nguyên thường gọi loại này là ?chinh? hay ?ching?. Người Việt thì dùng phổ biến từ Chiêng.
    - Cồng lồi ở phần giữa và có viền cạnh gập xuống (chiêng núm). Các dân tộc ở Tây Nguyên thường gọi loại này là ?chêng?, ?chênh? (người Giarai, Bahnar, R?mǎm...) hoặc ?Guông? , Goong? ?Gôông (người Sêd?ra, M?nâm, Stiêng...). Người Việt thì thường gọi là cồng.
    ở Tây Nguyên Việt Nam rất phổ biến hai dạng cuối. Trong phần viết này, chúng tôi sử dụng hai thuật ngữ cồng (để chỉ chiêng núm), chiêng (để chỉ chiêng bằng), như người Việt thường dùng để tiện theo dõi. Các dân tộc ở Tây Nguyên sử dụng cồng theo dàn, không đánh riêng lẻ từng chiếc. Và mỗi một dân tộc có một cách tổ chức dàn cồng, cách diễn tấu riêng theo phong tục tập quán của mình.

    Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số dàn cồng ở Tây Nguyên.

    1. Dàn ?Chinh Soang? [1]: phổ biến ở các dân tộc Bahnar, Giơ rai, rơ ngao, Rơ mǎm, Hà lǎng, Sơ dra, Mơ nâm[2]... ở mỗi dân tộc dàn cồng còn có những tên gọi riêng. Thí dụ người Giơ rai gọi là chinh Arap. Người Bahnar gọi là chinh chêng, ching Honh. Người Hà Lǎng gọi là Ktum goong chinh... Cơ cấu thông thường của dàn gồm 5 cồng, 8 chiêng, 1 trống cái, 1 vài cặp chũm choẹ nhỏ. Diễn tấu cùng dàn cồng còn có một dàn múa nữ và 3 hoặc 4 diễn viên hề. Số lượng cồng, chiêng có thể thay đổi nhưng tối thiểu phải có 3 cồng, 5 chiêng; tối đa là 7 cồng, 8 chiêng. Số diễn viên múa không cố định, có thể từ 10 đến 30 hoặc 40 người. Cồng lớn nhất đường kính khoảng 65 cm; đường kính chiêng nhỏ nhất khoảng 20 cm. Cao độ âm thanh của các cồng là: Rề - La - Rê - La - Rế1
    Cao độ âm thanh của nhóm chiêng là:
    Đô1 - Rê1 - Fa1 - Sol1 - La1 - Đô2 - Rê2 - Mi2.
    Tương quan cao độ của các cồng, chiêng trong dàn luôn luôn ổn định. Sự khác nhau giữa các dàn cồng loại này có chǎng cũng chỉ là sự di chuyển vị trí cao độ của từng chiếc trong dàn cùng lên hoặc cùng xuống một quãng nhất định mà thôi.
    Người diễn tấu cồng, chiêng bao giờ cũng là con trai. Họ có thể ở các lứa tuổi khác nhau. Khi chơi mỗi người một chiếc. Tay trái xách chiêng, cồng, quay mặt cồng chiêng hướng về bên phải, thành cồng hướng vào bụng, tay phải cầm dùi. Các diễn viên múa là gái chưa chồng, còn các vai hề do đàn ông đóng. Dàn nhạc bố trí theo đội hình hàng một, người nọ cách người kia khoảng một mét đi thẳng, đi vòng tròn hoặc đứng yên tuỳ theo nghi thức của môi trường sử dụng. Trống bao giờ cũng dẫn đầu, tiếp đến cồng, chiêng, sau cồng chiêng đến chũm choẹ, cuối cùng đến dàn múa. Hề đứng ở các vị trí tự do.
    Âm nhạc của dàn ?chinh soang? trữ tình, uyển chuyển.
    Dàn ?ching soang? chỉ được sử dụng trong các lễ hội cổ truyền. như lễ ǎn cơm mới, lễ dựng nhà, lễ cưới, lễ tang, lễ bỏ mả... Trong lễ hội đâm trâu phần nghi thức, dàn chiêng không kết hợp với đội múa nữ (soang) mà kết hợp với điệu múa khiên của các nam chiến binh. Âm nhạc cồng lúc này thôi thúc, dồn dập, hừng hực, tốc độ nhanh và cường độ lớn.


    2. Dàn ?Guông?: Phổ biến ở vùng người Sêd?ra (huyện Sa thầy tỉnh Kontum) và M?nâm (huyện Kon plông tỉnh Kontum) Đây là hòa tấu nhạc gồm 4 cồng núm (đường kính chiếc to nhất khoảng 50 cm, chiếc nhỏ nhất khoảng 20 cm), 1 đàn ?Khinh Khung?, 1 kèn ?Kvôh?, 1 trống cái và 1 người hát.
    Đàn ?Khi khung? là loại nhạc cụ tự thân vang, chi gõ, làm bằng nứa, gồm 2 ống: ống dài khoảng 50 cm, ống ngắn dài khoảng 30 cm. Mỗi ống đều có một đầu rỗng, một đầu kín. ?Khi khung? được làm theo nguyên tắc của đàn T?rưng. Tức là người ta gọt vạt từ điểm giữa của ống cho thuôn hẳn nhọn dần xuống phía đầu rỗng. Hai ống nối với nhau bằng dây mây. Hai ống ?Khi khung? cho hai âm cách nhau một quãng 4 (La - Rê). Khi chơi tay trái cầm đàn, tay phải cầm dùi gõ đều đặn vào 2 ống.
    Kèn ?Kvôh? là loại sáo ngắn, thổi ngang, làm bằng 1 ống nứa rỗng hai đầu. Chiều dài ống khoảng 20 cm, đường kính ống khoảng 2,5 cm. ở giữa ống khoét 1 lỗ hình vuông gắn lưỡi gà (một miếng kim loại mỏng) để thổi. Khi thổi dùng 2 tay bịt 2 đầu ống và điều khiển đóng, mở sao cho có được những âm thanh khác nhau theo ý muốn.
    Dàn ?Guông? chỉ chơi trong nhà. Tất cả cồng và trống đều được treo lơ lửng ở gian phòng khách. Nhạc công chơi cồng thường là phụ nữ và bao giờ cũng diễn tấu ở tư thế ngồi gõ cồng. Mỗi người đảm nhận 1 chiếc. Cao độ âm thanh của các cồng trong dàn ?Guông? định âm theo tương quan quãng 5 - quãng 4 - quãng 8 (Rê - La - Rê1 - Rê2) hoặc tương quan quãng 5 - quãng 4 - quãng 5 ( Rê - La - Rê1 - La1). Đôi khi còn có dàn ?Guông? có cao độ các cồng quan hệ theo tương quan quãng 4 - quãng 2 - quãng 4 (Rê - Sol - La - Rê1).
    Trong dàn Guông âm thanh của cồng đĩnh đạc, trầm ấm. Âm thanh cồng cùng với ?Khi khung? tạo nên một bè nền trì tục đệm cho người hát và giai điệu của kèn ?Kvôh?.
    Dàn Guông được diễn tấu trong những ngày lễ cổ truyền như: Lễ trỉa lúa thiêng, lễ ǎn cốm mới, lễ đâm trâu tạ thần cầu an, lễ dựng nhà, lễ cưới... Dàn Guông không diễn tấu trong lễ tang.


    3. Dàn ?Chinh goong? của dân tộc Hơrê (huyện Sơn trà tỉnh Nghiã bình). Dàn gồm 3 chiếc chiêng bằng và 1 chiếc trống nhỏ hình trụ. 3 chiếc chiêng này có tên gọi là Vơng chinh, Tôm chinh, Tôôk chinh và kích thước của chúng xấp xỉ bǎng nhau với đường kính khoảng từ 37 đến 39 cm. Cao độ âm thanh của ?Chinh goong? Hơrê không định âm. Tuy vậy ?Vơng chinh? có có cao độ thấp hơn ?Tôôk chinh?, nhưng tương tương quan này cụ thể bao nhiêu thì người Hơrê không đặt ra. ?Tôm chinh? có âm phát ra nghe ở gần như một tiếng động khô khốc, cao độ không rõ ràng và là âm cao nhất trong dàn. Khi diễn tấu mọi người đều ngồi và không dùng dùi để chơi cồng. Cách trình diễn ?chinh goong? Hơrê rất độc đáo. Nhạc công đều là đàn ông, họ chơi cồng bằng tay và trên mỗi chiếc chiêng đều có một lối diễn tấu riêng. Chiếc ?Tôôk chinh? được treo lên, người chơi quấn một chiếc khǎn vào bàn tay phải rồi nắm chặt đánh nảy từ tâm mặt chiêng lệch sang cạnh mặt chiêng, còn tay trái ngắt âm ở mặt sau. Người chơi ?Vơng chinh? cầm chiêng đứng dọc theo bụng, tay phải nắm chặt đánh vào gần tâm điểm mặt chiêng cho vang đủ một trường độ qui định thì cả 2 tay cùng làm động tác ngắt tiếng. Người diễn tấu ?Tôm chinh? để chiêng nằm úp trên đùi, ngồi xếp chân vòng tròn. Tay trái xoè bàn tay đặt sẵn trên mặt chiêng. Khi tay phải nắm lại vừa đánh vào tâm điểm mặt chiêng thì ngay lập tức tay trái nhấc lên rồi đặt xuống ngay, đồng thời tay phải cũng làm động tác ngắt tiêng luôn, không cho âm ngân nga. Âm nhạc của dàn ?chinh goong? có tiết tấu sôi động. Người chơi càng diễn tấu với tốc độ nhanh càng được coi là tài nghệ.
    Dàn ?chinh goong? Hơrê chỉ trình diễn trong những dịp vui, lễ hội với vai trò độc tấu hoặc làm nhạc nền cho điệu hát ?Ka choi? cổ truyển. Trong lễ tang người Hrê không tấu ?chinh goong?.

    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/F5A3ABF70A684890A977ACEED07EFF97.jpg[/image]
    dàn cồng dân tộc Giẻ Triêng
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.07.2005 02:05:02 bởi mickey >
    Attached Image(s)
    #2
      mickey 02.07.2005 02:06:32 (permalink)
      4. Dàn chiêng ?Knǎh? của dân tộc Êđê (vùng Buôn Ma Thuột, Krông Pǎk, Kpông Buk, Ea Sup, Mad?rak thuộc tỉnh Đǎk lǎk)
      Dàn gồm có 2 cồng núm, 7 chiêng bằng và 1 trống. Trong đó chiếc to nhất có đường kính khoảng 75 cm, chiếc nhỏ nhất có đường kính khoảng 30 cm.
      Cao độ âm thanh của các dàn chiêng ?Knǎh? không đồng nhất, mỗi dàn có một thang âm riêng. Mỗi chiếc trong dàn đảm nhận một dạng tiết tấu qui định nên khi hòa tấu tạo ra hiệu quả âm nhạc đa tiết tấu rất sinh động, dồn dập, thôi thúc.
      Dàn ?Knǎh? chỉ được chơi ở trong nhà và do đàn ông diễn tấu. Tất cả nhạc cồng đều ngồi trên ghế dài (Kban) để đánh cồng, mặt quay về hướng mặt trời mọc. Cách bố trí dàn cồng trong nhà theo một qui định chặt chẽ: 1 chiếc cồng núm lớn nhất và một chiếc chiêng bằng lớn nhất được treo lên về phía trái nhà; tiếp đến 6 chiêng bằng còn lại xếp cạnh nhau, cái to trước, cái nhỏ sau, người chơi đặt chiêng nằm trên đùi và dùng dùi gỗ gõ vào mặt trong của chiêng. Sau 6 chiếc chiêng bằng là chiếc cồng thứ hai, người chơi đặt chiếc cồng này nằm trên mặt sàn nhà, dưới lót đệm vải hoặc đệm bông gòn và dùng dùi có bọc vải ở đầu để gõ. Trống xếp ở vị trí cuối sau dàn chiêng.
      Dàn chiêng ?Knǎh? là một thành phần không thể thiếu trong các ngày lễ hội cổ truyền của người Êđê.


      5. Dàn chiêng ?Hnìh? của dân tộc Giẻ Triêng (vùng Đaklây tỉnh Kontum) Dàn ?Hnih? gồm 3 chiếc chiêng bằng và 1 chiếc ?đuk dik?. Đây là dàn nhậc có định âm. ?Đuk dik? là nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ, đượclàm từ một ống nứa có một đầu rỗng, một đầu kín. ?Đuk dik? được làm theo nguyên tắc của đàn T?rưng, tức là người ta gọt vát từ điểm giữa ống cho thuôn hẳn và nhọn dần xuống phía đầu rỗng.
      Ba chiêng bằng có đường kính chiếc to nhất khoảng 55 cm, cái nhỏ nhất đường kính khoảng 35 cm. Tương quan cao độ của các chiêng là: Quãng 8 - quãng 8 (La - La - La1). Đuk dik có cao độ tương quan với chiêng cao nhất một quãng 5 (Rê1).
      Người diễn tấu chiêng ?Hnih? bao giờ cũng là con trai. Khi chơi mỗi người một chiếc, tay trái xách chiêng, tay phải cầm dùi gõ. Dàn chiêng xếp theo hàng một, chiêng đi trước, ?Đuk dik? theo sau. Người diễn tấu ở tư thế hơi khom lưng, vừa đi vừa múa lắc lư theo nhịp chiêng. ứng với mỗi nghi thức của từng hội lễ dàn Hnih còn có thể diễn tấu kết hợp với múa, hát và các trò diễn dân gian khác nhau.
      Dàn Hnìh diễn tấu trong các ngày lễ đâm trâu, ǎn tết, mừng nhà mới, lễ ǎn cốm mới.


      ---------------------------------------------------------

      [1] Tên dân gian ?chinh? là chiêng; ?soang? là múa.

      [2] Bahnar (huyện An Khê tỉnh Gia lai), Jơ rai (huyện Ayunpa, Chưpǎh tỉnh Gia lai và Kontum), R?mǎm, Hà lǎng, Sêd?ra (huyện Sa thầy tỉnh Kontum), M?nâm (huyện Kon plông tỉnh Kon tum) v.v...

      dàn cồng dân tộc Êđê

      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/47B1571C19CA457880C7219AEBF6D358.jpg[/image]
      Attached Image(s)
      #3
        mickey 02.07.2005 02:08:30 (permalink)
        Dàn nhạc Thính Phòng Huế

        Xứ Huế - Kinh đô của Việt Nam suốt hơn 150 nǎm. Ngày nay, bên cạnh những kiến trúc, đền đài, lǎng tẩm độc đáo, hiển hiện hài hòa giữa cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng của sông Hương, núi Ngự, xứ Huế còn lưu lại một loại hình ca nhạc đặc trưng cho vùng đất cố đô này. Đó là Ca nhạc Thính Phòng Huế thường được gọi là Ca Huế với hình thức âm nhạc bao gồm cả nhạc hát và nhạc đàn.

        Ca nhạc Huế có một lịch sử lâu đời. Nhưng cho đến ngày nay chưa có tư liệu đích xác nào nêu rõ được thời điểm ra đời, ai đã tổ chức và sáng tác những bản nhạc đàn Huế. Đến thế kỷ XIX, khi nhà Nguyễn đã thống nhất giang sơn, thực hiện trị quốc an dân, cũng là lúc ca nhạc Huế có điều kiện phát triển. Các nhạc công là những người rất giỏi đàn chơi trong đội nhạc ngự ở triều đình. Ngoài những công việc trong triều, họ cùng với học trò của mình lập nên những nhạc mục và dựa vào các ngón đàn của nhạc triều để sáng tác những bản hòa tấu và độc tấu. Âm nhạc của họ được các ông hoàng, bà chúa và các quan trong triều rất yêu thích. Nên các ông hoàng bà chúa thường xuyên mời ban nhạc đến tư dinh để dạy đàn, đồng thời cùng nhau đàn hát, thưởng thức âm nhạc. Vào đầu thế kỷ XX, ca nhạc Huế đã phát triển cực thịnh, nhưng từ sau nǎm 1945 đã dần dần bị mai một. Ngày nay ca nhạc Huế trở thành di sản âm nhạc quí giá, được nhà nước bảo tồn và tạo điều kiện khôi phục lại.

        Dàn nhạc Thính phòng Huế sử dụng các nhạc cụ: Nguyệt, Nhị, Tranh, Tỳ Bà, Bầu, Sáo với nhiều hình thức hòa tấu và đệm cho hát. Những hình thức thường gặp hiện nay là:

        - Hoà tấu song thanh của 2 nhạc cụ: Tranh, Nguyệt; Tranh, Bầu; Nhị, Bầu; Nhị, Tỳ Bà hoặc Bầu, Nguyệt.

        - Hoà tấu tam thanh của 3 nhạc cụ: Nguyệt, Nhị, Tranh; Bầu, Nhị, Tranh hoặc Tỳ Bà, Nguyệt, Tranh.

        - Hòa tấu tứ tuyệt của 4 nhạc cụ: Bầu, Nhị, Tranh, Nguyệt hoặc Nhị, Tỳ Bà, Nguyệt, Sáo.

        - Hoà tấu ngũ tuyệt của 5 nhạc cụ: Nhị, Nguyệt, Tranh, Tỳ bà, Sáo.

        Đặc biệt khi đệm cho hát, người hát thường có 1 đôi phách nhỏ để gõ nhịp. Tiếng phách vang lên hòa với dàn nhạc càng tạo ra âm hưởng độc đáo cho ca Huế.

        Tính nǎng của các nhạc cụ được sử dụng trong ca nhạc Huế:

        1. Đàn tranh (thập lục) là nhạc khí dây gẩy, có 16 dây. Cấu tạo của đàn hình hộp dài khoảng 110 cm. Một đầu rộng khoảng 22 cm, đầu kia hẹp hơn khoảng 15 cm. Mặt đáy phẳng và có lỗ khoét thoát âm hình chữ nhật. Mặt trên đàn làm bằng gỗ nhẹ xốp, uốn cong, để mộc. Hai bên thành cao 7 đến 8 cm. Trên mặt đàn ở đầu rộng có một cầu đàn bằng kim loại uốn nằm ngang theo mặt đàn, trên đó có 16 lỗ nhỏ, ở đầu hẹp xếp chéo 16 trục. Các dây đàn được mắc từ các lỗ trên cầu đàn đến các trục. ở giữa mặt đàn có 16 ngựa đàn (gọi là con nhạn) bằng gỗ, xương hoặc ngà, hình tam giác, trên đỉnh tam giác của ngựa đàn có bịt đồng để đặt dây, di chuyển điểu chỉnh độ cao của dây. Các ngựa đàn điều chỉnh lên dây theo thang âm ngũ cung, ví dụ: Điệu Bắc: Đô - Rê - Fa - Sol - La - Đô, hay Điệu Nam: Đô - Mib - Fa - Sol - Sib - Đô. Đây là hai điệu cơ bản trong ca Huế. Nhạc công ngồi chơi đàn, tay phải gẩy đàn, tay trái nhấn nháy trên dây. Đàn tranh có âm cao, trong sáng, vui tươi.

        2. Đàn Nguyệt (đàn kìm) là nhạc khí dây gẩy, có 2 dây. Cấu tạo của đàn gồm hộp đàn hình trụ dẹt và một cần đàn dài. Mặt đàn và dây đàn bằng nhau, tròn đều ví như trǎng rằm nên gọi là Đàn Nguyệt. Đường kính mặt đàn khoảng 36 cm, thành đàn khoảng 6 cm. Trên mặt đàn có gắn ngựa đàn để mắc dây. Cần đàn làm bằng gỗ cứng dài khoảng 100 cm. Trên cần gắn 7 phím nối tiếp với 3 phím gắn trên mặt đàn để bấm. Các phím đàn gắn trên những khoảng cách không đều nhau. ở đầu trên của cần đàn có 4 trục gỗ, trong đó có 2 trục dùng để mắc dây, còn 2 trục dùng để trang trí cho cân đối, đẹp mắt. Dây đàn xưa kia làm bằng tơ se, nay được thay bằng dây ni lông, một dây to, một dây nhỏ. Hai dây đàn được lên theo tương quan quãng 5 và các phím đàn đặt theo điệu thức 5 âm.

        Ví dụ: Trên dây Đô là: Đô, Rê, Fa, Sol, La, Đô, Rê, Fa, Sol, La
        Dây Sol là: Sol, La, Đô, Rê, Mi, Sol, La, Đô, Rê, Mi,

        Nhạc công ngồi chơi đàn, tay phải gẩy đàn bằng móng tay để dài của mình hoặc bằng một miếng nhựa, tay trái bấm phím, luyến láy, nhấn rung. Âm thanh của đàn nguyệt ấm áp, tươi sáng, rộn ràng.

        3. Đàn Nhị (đàn Cò) là nhạc khí dây kéo, có 2 dây. Cấu tạo của đàn Nhị gồm có cần đàn và bầu đàn. Cần đàn làm bằng gỗ cứng, không có phím, dài khoảng 70 - 80 cm đầu dưới xuyên qua bầu đàn, đầu trên hơi ngửa ra phía sau và có 2 trục để lên dây. Bầu đàn hình ống tròn được làm bằng gỗ cứng, hơi thắt ở phía đáy, phía kia bịt da trǎn hoặc da rắn làm mặt đàn. Đường kính mặt đàn khoảng 15 cm, trên mặt đàn có ngựa đàn. Dây đàn xưa kia làm bằng tơ se, ngày nay thay bằng dây kim loại. Cung vĩ kéo đàn làm bằng cành tre cong hoặc bằng thanh gỗ dài có đầu cong mắc lông đuôi ngựa. Lông đuôi ngựa của cung vĩ đặt lồng giữa hai dây đàn. Nhạc công lên dây đàn nhị theo quãng 5, ví dụ: Đô - Sol hoặc Fa - Đô

        Nhạc công ngồi kéo đàn, tay phải cầm cung vĩ kéo, tay trái bấm dây với những ngón rung, nhấn, láy, vuốt.

        Âm sắc đàn nhị da diết, tha thiết, đẹp, giàu khả nǎng diễn cảm.

        4. Đàn Tỳ Bà: Là nhạc khí dây gẩy, có 4 dây. Cấu tạo của đàn gồm hộp đàn và cần đàn. Hộp đàn hình nửa quả lê bổ dọc làm đôi. Mặt đàn phẳng làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Lưng đàn khum, làm bằng gỗ cứng. Trên mặt đàn có gắn một bộ phận để mắc dây đàn và 8 phím bấm phía trên. Cần đàn ngắn, gắn liền với hộp đàn, xưa kia không có phím, nay có gắn 4 phím. Phần trên cần đàn có 4 trục gỗ để lên dây. Xưa kia dây đàn làm bằng tơ se, nay thay bằng dây ni lông. Đàn Tỳ bà lên theo tương quan các quãng: Quãng 4 - quãng 2 - quãng 4, ví dụ: Đô - Fa - Sol - Đô

        Nhạc công ngồi chơi đàn, tay phải gẩy đàn bằng miếng nhựa hoặc bằng móng tay, tay trái bấm phím với các ngón nhấn, vuốt, rung... Âm sắc của đàn tỳ bà ấm, đục.

        5. Đàn Bầu: Còn gọi là đàn Độc huyền. Đàn Bầu thuộc họ dây gẩy, chỉ có một dây. Cấu tạo của Đàn Bầu độc đáo. Thân đàn hình hộp dài, đầu nhỏ hơn cuối. Thành đàn làm bằng gỗ cứng. Đáy đàn và mặt đàn làm bằng gỗ nhẹ. Mặt đàn hơi uốn cong phồng lên. Đáy đàn có 2 lỗ thoát âm. Bầu đàn làm bằng quả bầu khô cắt đáy hoặc bằng gỗ tiện theo hình bầu ở đầu đàn. Vòi đàn làm bằng tre hoặc bằng sừng cắm xuyên qua bầu đàn xuống thân đàn. Cuối đàn có 1 trục lên dây bằng gỗ hoặc bằng kim loại. Dây đàn được buộc vào vòi đàn, đi qua miệng loe của bầu đàn kéo chếch xuống cuối thân đàn. Dây đàn trước đây làm bằng tơ se, nay làm bằng kim loại. Que gẩy đàn làm bằng tre hoặc song vót nhọn.

        Khi chơi nhạc công ngồi gẩy đàn. Tay phải cầm que gẩy, tay trái cầm vòi đàn. Nếu dây Đàn Bầu ở thế dây buông thì gẩy ở bất cứ vị trí nào trên dây cũng đều phát ra một cao độ, đó là âm thực. Vì vậy trên mặt đàn nhạc công đánh dấu những điểm nút (hoặc những điểm gẩy). Khi chơi đàn nhạc công dùng cạnh bàn tay phải tì nhẹ vào những điểm nút trên dây và khi gảy xong thì nhấc tay lên ngay (nếu đánh dấu vào những điểm gẩy thì tay phải chặn ở khoảng cách phù hợp với điểm gẩy), dây đàn sẽ phát ra những âm thanh có cao độ khác nhau tùy theo vị trí của bàn tay chặn đúng những điểm nút khác nhau, những âm này là âm bội. Kết hợp với tay phải gẩy, tay trái cầm và điều khiển vòi đàn khiến dây đàn hồi khi cǎng, khi chùng để tạo ra những âm thanh cao hơn hay thấp hơn theo ý muốn. Âm sắc của đàn bầu mượt mà, ngân nga, ngọt ngào gần với giọng nói người Việt.

        6. Sáo: Thuộc nhạc khí họ hơi. Sáo dùng để thổi ngang, làm bằng một ống trúc hoặc một ống nứa nhỏ, đường kính từ 1,5 - 2 cm, chiều dài từ 30 - 40 cm. Một đầu có mấu hoặc được nút kín. Sáo ngang có 1 lỗ để thổi hình bầu dục ở phía trái ống. Phía phải ống có 6 lỗ bấm hình tròn. Ngày nay người ta có thể khoét 10 lỗ bấm để có thể thổi được nhiều giọng.

        Khi diễn tấu, nhạc công dùng 2 ngón tay cái đỡ sáo, các ngón còn lại đặt lên lỗ bấm, đưa sáo ngang lên môi thổi, hướng sáo về phía tay phải. Kỹ thuật thổi có: vuốt hơi, nhấn hơi, rung hơi ... Kỹ thuật bấm có vuốt, lướt, láy... Sáo ngang có âm sắc mượt mà, khoẻ, trong sáng và linh hoạt .


        Lều Kim Thanh

        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/FAA3B54F140B455C993845C6F8D11F90.jpg[/image]
        Attached Image(s)
        #4
          mickey 02.07.2005 02:10:41 (permalink)
          Dàn cồng sắc bùa Mường

          Dàn cồng sắc bùa Mường gồm nhiều chiếc cồng. Dựa vào chức nǎng âm nhạc người ta đặt riêng cho từng chiếc cồng hoặc từng nhóm cồng như:

          - Chiêng Cái hoặc chiêng Gọi là chiếc cồng đánh mở đầu bài nhạc cồng.

          - Chiêng Boòng Beng là một đôi cồng cỡ nhỏ có âm vang cao nhất.

          - Chiêng Đủm là đôi cồng trung.

          Chiêng Boòng Beng và chiêng Đủm diễn tấu giai điệu. Có nơi gọi 4 chiếc này là chiêng Đom hoặc chiêng Dóng.

          - Chiêng Dàm là chiếc cồng to có âm trầm nhất.

          - Chiêng Khộ là nhóm cồng to, có âm trầm, tham gia diễn tấu chùm âm bè nền.

          Cồng Mường Hòa Bình là loại nhạc cụ tự thân vang, bằng đồng. ở thành cồng có hai lỗ để luồn dây quai. Kích cỡ các ống to nhỏ khác nhau. Loại nhỏ có đường kính khoảng 20 cm, nặng 0,7 - 0,8kg. Loại to có đường kính 50 - 60 cm, nặng 5 - 6 kg. Số lượng đầy đủ của dàn cồng xưa là 12 chiếc. Ngày nay ta thường gặp những dàn cồng có số lượng ít hơn.

          Hàng âm của các dàn cồng Mường không đồng nhất, tổ chức cao độ trong hàng âm giữa các dàn không cố định. Có nghĩa là mỗi dàn cồng có một hàng âm riêng. Những chiếc cồng trầm (chiêng Dàm) là những chiếc cồng không định âm. Còn những chiếc cồng cao (chiêng Dóng) có độ cao tương đối, cách nhau từ quãng 2 đến quãng 4.



          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/0954FC2EE28F477EA5DF60CA63BF0069.jpg[/image]
          Attached Image(s)
          #5
            mickey 02.07.2005 02:11:52 (permalink)
            Âm chất của cồng có mầu sắc kim khí, ngân nga, vang xa. Với cường độ lớn, âm thanh cồng nổi rõ bồi âm, cồng càng trầm bồi âm càng rõ. Những cồng đánh giai điệu (chiêng Dóng) có âm thanh thánh thót, tươi sáng. những chiêng Dàm đánh bè đệm có âm thanh ấm, nặng nề, hùng tráng, ngân xa.

            Dàn cồng sắc bùa Mường do các nữ cồng đánh và một người đàn ông (gọi là thầy Thường) tham gia hát. Khi diễn tấu mỗi người xách một cồng xếp theo hàng một vừa đi vừa đánh cồng. Thầy Thường đi trước, cuối hàng là một người đi theo để nhận quà tặng. Có thể đứng tại chỗ hoặc ngồi đánh cồng, tùy theo tục lệ của từng lễ thức.


            Dàn cồng được người Mường quí trọng, coi như vật gia bảo trong nhà và đem ra trình diễn vào những ngày tết đón xuân với phong tục sắc bùa. Ngoài ra trong ngày lễ cưới, lễ làm nhà mới, đón khách quí v,v... cũng không thể thiếu âm thanh của dàn cồng.


            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/0802C41F02B24ED1B3BD8796E22FE8AC.jpg[/image]
            Attached Image(s)
            #6
              mickey 02.07.2005 02:13:33 (permalink)
              Dàn nhạc đám cưới người Dao

              Dàn nhạc đám cưới của người Dao gồm có 3 loại nhạc cụ là 2 chiếc Nom Dặt (người Tày, Nùng, Thái gọi là Pí lè), một chiếc Nom Đủ (trống dẹt) và một cái Nom Lò (chiêng).

              Nom Dặt là nhạc cụ họ hơi chi dǎm kép, gồm các bộ phận:

              - ống kèn là một thân gỗ rỗng lòng, dài khoảng 25 - 30 cm, một đầu nhỏ, đầu kia to dần. Trên thân ống có 7 lỗ bấm thẳng hàng gần như đều nhau ở mặt trước và 1 lỗ phía sau gần đầu ống.

              - Loa kèn làm bằng đồng, đường kính khoảng 13 cm gắn vào phần đầu to phía dưới của ống kèn. - Cọc dǎm và dǎm kèn, phía trên ống kèn (đầu nhỏ) cắm một ống kim loại nhỏ làm cọc dǎm, trên cọc dǎm cắm một cái dǎm làm bằng tổ sâu bóp bẹp để thổi.

              Âm vực của Nom dặt trải 2 quãng tám. Khi chơi người thổi hai tay cầm dọc kèn thổi, các ngón tay đặt vào các lỗ bấm.

              Nom Đủ là nhạc cụ họ màng rung chi gõ hình tròn dẹt. Thân trống làm bằng khúc gỗ ngắn khoét rỗng bên trong, cao khoảng 14,5 cm, đường kính khoảng 25 cm. Hai mặt trống đều bịt da, ghim vào thân trống bằng những chiếc đinh tre. Dùi trống cũng làm bằng tre. Người chơi có thể đánh vào cả hai mặt trống thay đổi nhau.

              Nom Lò là nhạc cụ tự thân vang chi gõ, chất liệu đồng thau kích thước trung bình, đường kính khoảng 30 - 40 cm, thành cao 12 - 14 cm. Dùi làm bằng gỗ để trần hoặc bọc vải ở một đầu. Khi chơi người chơi cầm dùi gõ vào mặt trên của Nom lò.

              Các nhạc công chơi trong dàn nhạc đám cưới của người Dao đều là nam giới. Trong đám cưới người Dao không có hát mà chỉ tấu dàn nhạc. Dàn nhạc không chỉ tấu lên để gây không khí vui nhộn, tưng bừng mà còn giữ vai trò quan trọng trong các diễn biến nghi thức phong tục truyền thống. Có thể kể một số bài nhạc chính chơi trong các nghi lễ đám cưới của người Dao như sau:

              - Bài nhạc đón dâu

              - Bài nhạc mời khách ngồi

              - Bài nhạc mời dâu, mời rể ngồi

              - Bài nhạc mời ǎn cơm, mời uống rượu

              - Bài nhạc tiễn khách v,v...

              Trong dàn nhạc có sự phân công chức nǎng: Hai chiếc Nom Dặt chơi đồng âm, đảm nhận phần giai điệu. Nom Đủ (trống dẹt) chơi giữ nhịp và chuyển tiết tấu. Còn Nom Lò (chiêng) điểm dẫn tiết tấu, điểm mầu sắc tiết tấu khi đảo phách, khi đơn lẻ, khi dồn dập, độc đáo làm tǎng sự hấp dẫn cho dàn nhạc.

              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/5E1D5B8C645443999E85F32B47E5AD0A.jpg[/image]
              Attached Image(s)
              #7
                mickey 03.07.2005 02:11:28 (permalink)
                Dàn nhạc ả Đào (Dân tộc Việt)

                Đào - một loại hình nghệ thuật cổ truyền chuyên nghiệp hình thành từ thời Lý (1010 -1225), thịnh hành ở các triều Lê (1533 -1788) và rất phát triển ở miền Bắc Việt Nam vào thời Nguyễn (1778 - 1945).

                Dàn nhạc gồm ba nhạc cụ: thứ nhất cỗ phách 3 lá - nhạc cụ được coi như xương sống của lối hát do chính người hát sử dụng, góp phần tạo nên tính nhất quán bởi sự nhắc lại của các khổ phách; thứ hai đàn đáy - loại đàn gẩy độc đáo của Việt Nam giữ chức nǎng đệm, phối hợp với giọng hát và tiết tấu phách một cách hài hòa, nhuần nhuyễn; thứ ba Trống chầu - loại trống nhỏ do một người có trình độ thẩm mỹ cao về vǎn thơ, âm nhạc và có óc sáng tạo linh hoạt dùng để chấm ngắt câu vǎn và khen chê giọng hát, tiếng đàn.


                [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/1F047A5F73E84A62890554A2C802C501.jpg[/image]
                Attached Image(s)
                #8
                  mickey 03.07.2005 02:12:19 (permalink)
                  Dàn nhạc Chèo (Dân tộc Việt)

                  Chèo là loại hình sân khấu dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nǎm thành tố quan trọng cấu tạo thành Chèo gồm: Trò chèo, hát chèo, nhạc chèo, múa chèo và diễn chèo.

                  Dàn nhạc chèo đóng vai trò quan trọng cho biểu diễn và ca hát của diễn viên. Vì vậy thành phần các nhạc cụ dàn nhạc tương đối phong phú. Dàn nhạc chèo gồm có các nhạc cụ gõ và các nhạc cụ ti, trúc như sau: Nhạc gõ có trống đế, trống cơm, trống ban, trống bộc, trống cái, mõ, thanh la, chuông, tiu, cảnh, não bạt, sinh tiền. Nhạc ti trúc có: Nhị, hồ, nguyệt, tam, bầu, tam thập lục, tiêu, sáo. Tuỳ vào các tình huống của câu chuyện kịch mà người ta sử dụng nhạc cụ khác nhau cho phù hợp.



                  [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/EE3FC23A2B9E4D08BB1E7DF44AE6C4CE.jpg[/image]
                  Attached Image(s)
                  #9
                    mickey 03.07.2005 02:13:08 (permalink)
                    Dàn Đại nhạc Cung đình

                    Là dàn nhạc có quy mô lớn của dân tộc Việt, chỉ được dùng khi có sự hiện diện của Vua trong các Đại lễ: lễ Đại triều, lễ Vạn thọ (sinh nhật Vua), lễ tế Nam giao (khi vua vào bái vị), lễ tiếp sứ thần nước ngoài... và lễ tế có tính quốc gia trọng đại: lễ tế Giao (tế Trời, Đất), lễ Tịch điền (lúc nhà Vua tự mình cày ruộng)...

                    Biên chế dàn nhạc gồm: 20 trống lớn; 8 kèn; 4 tù và bằng sừng trâu; 2 tù và bằng vỏ ốc biển. Với âm lượng lớn, mạnh mẽ của bộ gõ và bộ hơi cùng quy mô biên chế đồ sộ của dàn nhạc đủ để tạo sự tôn nghiêm, trang trọng trong các nghi lễ cung đình.


                    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/ABA8AE79BBC041709D24129CD8A84370.jpg[/image]
                    Attached Image(s)
                    #10
                      mickey 03.07.2005 02:13:58 (permalink)
                      Dàn nhạc Huyền Cung Đình

                      Xuất hiện vào nǎm Minh mạng thứ 19 (1838), dàn nhạc huyền thường được sử dụng trong tế lễ như: Lễ Thánh Thọ, Vạn Thọ, Thiên Xuân, tế Nam Giao (lúc nhà vua mới xuất hiện, bước lên đàn). Biên chế dàn nhạc gồm: 1 khánh lớn, 1 biên khánh (gồm 12 khánh nhỏ), 1 bác chung (chuông lớn), 1 biên chung (gồm 12 chuông nhỏ), 1 trống lớn, 1 trống nhỏ, 1 cái phục phụ (trống hai mặt da), 1 cái chúc, 1 cái ngữ, 2 cái phách, 2 đàn cầm, 2 đàn sắt, 2 bài tiêu, 2 tiêu, 2 địch (sáo ngang), 2 huân (1 nhã huân và 1 tụng huân), 2 trì, 2 sinh (nhạc cụ thổi).


                      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/8DB3370F034D427E8C4BE47B7531948B.jpg[/image]
                      Attached Image(s)
                      #11
                        mickey 03.07.2005 02:14:51 (permalink)
                        Dàn nhạc Sư Tử (Dân tộc Tày-Nùng)

                        Múa sư tử - một sinh hoạt vui chơi trong ngày hội và chúc tết các gia đình nhân dịp nǎm mới.

                        Múa sư tử của người Tày - Nùng là hình thức múa trò gồm các trò: bái lạy, chào nhau, sư tử đẻ con, nhảy bàn, múa võ, câu cá... Dàn nhạc đệm cho múa sư tử là các nhạc cụ gõ có cường độ lớn như trống, thanh la, xập xoả. Để phục vụ các trò diễn thì sự ngẫu hứng của dàn nhạc khi diễn tấu là vô cùng quan trọng. Người đánh trống phải nắm bắt nhanh sự chuyển động của động tác múa để sáng tạo kịp thời những tiết tấu phù hợp. Người đánh trống càng giỏi, sự hoà theo của thanh la, xập xoả càng nhịp nhàng thì trò múa càng hấp dẫn.


                        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/4BA2030ED6CB4C879AFF8F34ACB1D623.jpg[/image]
                        Attached Image(s)
                        #12
                          mickey 03.07.2005 02:15:40 (permalink)
                          Dàn nhạc Đám tang (Các dân tộc thiểu số phía Bắc)

                          Trong đám tang của các dân tộc thiểu số phía Bắc, dàn nhạc giữ một vai trò quan trọng. Dưới sự điều khiển của thầy mo, tào, dàn nhạc thực hiện các thủ tục hành lễ từ đầu đến cuối đám tang. Dàn nhạc này do đàn ông diễn tấu, biên chế dàn nhạc gồm các nhạc cụ: chuông, trống, thanh la (hoặc chiêng); dàn nhạc của người Tày, Nùng, Thái có thêm chũm chọe, pí lè, sáo, tù và; người Mường có thêm sáo, nhị. Việc sử dụng và số lượng nhạc cụ của mỗi dân tộc có khác nhau, nhưng về đại thể vẫn giống nhau cả mục đích lẫn cách thể hiện. Mở đầu phần tế lễ hoặc những đoạn linh thiêng, thầy mo, tào cúng chỉ dùng chuông, những đoạn cần cường độ âm thanh lớn để đánh thức linh hồn, múa, đưa tang... thì cả dàn nhạc cùng tấu.


                          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/6D4581A7658F4BE0A5EFBEE77A589024.jpg[/image]
                          Attached Image(s)
                          #13
                            mickey 03.07.2005 02:16:30 (permalink)
                            Dàn nhạc Chăm Ninh Thuận

                            Kèn Xaranai, đàn vĩ kéo Ka Nhi, trống vỗ Paranưng, trống gõ vỗ Ghì nằng là những nhạc cụ dùng rất phổ biến ở người Chǎm Ninh Thuận. Những nhạc cụ này có lúc dùng đơn lẻ đệm cho hát lễ, hát sinh hoạt; có lúc kết hợp các nhạc cụ thành một dàn nhạc dùng trong các cuộc hành lễ lớn diễn ra hàng nǎm. Vào thời điểm ấy dàn nhạc đã bộc lộ rất rõ chức nǎng quan trọng của nó trong lễ hội như tham gia vào quá trình hành lễ, tham gia đệm cho hát, múa nghi thức và tham gia vào các trò vui trong hội.

                            Nhạc cụ Chǎm, dàn nhạc Chǎm là dàn nhạc và nhạc cụ có tính chuyên nghiệp cao, muốn chơi được những nhạc cụ ấy, người ta phải mất nhiều nǎm khổ luyện và khi đã được chấp nhận là người chơi thành thạo, thì họ được mang tên gọi riêng như ông Dú (người thổi Kèn), ông Mưtuồn (người đánh trống Paranưng), ông Toong người đánh trống Ghì nằng.


                            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/0985F7D2017D4CED85B988CF303510A8.jpg[/image]
                            Attached Image(s)
                            #14
                              mickey 03.07.2005 02:17:34 (permalink)
                              Dàn nhạc sân khấu Rôbăm

                              Dàn nhạc sân khấu Rôbǎm của người Khơme Nam Bộ chỉ có hai họ nhạc cụ là nhạc cụ hơi và nhạc cụ gõ. Nhạc cụ hơi có kèn Scơlai hay còn gọi là kèn Payo hoặc Pâyê; nhạc cụ gõ có trống Scor Chớt, Cuông (cồng), Cráp (thanh la). Đây là những nhạc cụ có cường độ âm thanh lớn, có kịch tính cao, rất phù hợp với lối diễn của sân khấu Rôbǎm - một sân khấu diễn tích truyện bằng múa, hát, nhân vật ǎn mặc phục trang hết sức lộng lẫy.

                              Hầu hết các vở diễn đều dựa vào các truyện dân gian hoặc sử thi ấn độ. Các nhân vật trong chuyện bao giờ cũng được chia thành hai tuyến rõ rệt là tuyến nhân vật chính nghĩa và tuyến nhân vật phi nghĩa. Tuyến nhân vật chính nghĩa là những ông Hoàng bà Chúa khi diễn không đeo mặt nạ. Tuyến nhân vật phi nghĩa là ma quỷ độc ác khi diễn đeo mặt nạ. Hai tuyễn nhân vật luôn mâu thuẫn nhau, xung đột nhau gây ra những tình huống kịch cǎng thẳng được biểu diễn chủ yếu bằng nghệ thuật múa và hát. Và cũng chính vì vậy sân khấu này phải dùng tới những nhạc cụ có đủ khả nǎng tham gia vào các xung đột kịch - nhạc cụ hơi và nhạc cụ gõ như đã trình bày ở trên.


                              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/1578/941F9816E3AB44CF80155C5CE8B55978.jpg[/image]
                              Attached Image(s)
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 20 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9