3 – HỎI: Có phải những người của những tôn giáo tín ngưỡng khác cũng trãi qua kinh nghiệm nghiệp báo?
ĐÁP: Vâng,. Ai đấy không phải tin tưởng trong nghiệp báo nhằm đề trãi qua với chúng. Nếu chúng ta nện mạnh chân chúng ta, chúng ta không phải tin tưởng trong nhân quả để kinh nghiệm sự đau đớn. Thậm chí nếu chúng ta nghĩ rằng thuốc độc là một loại nước uống ngon lành, khi chúng ta uống vào, chúng ta mắc bệnh. Tương tự thế, nếu chúng ta hành động trong một cách nào đấy, kết quả của hành động ấy sẽ đến, cho dù chúng ta tin tưởng trong nhân quả hay không.
4 – HỎI: Có phải tôi là sự tiếp tục của ai khác đấy người đã sống trước đây? Có phải giáo lý Đạo Phật về tái sinh là là một lý thuyết siêu hinh hay là một loại khoa học? Giáo sư nói rằng Phật giáo là dựa trên lý trí và khoa học. Điều này cũng có thể áp dụng vào sự tái sinh không?
ĐÁP: Có vài điểm ở đây. Một là: làm thế nào chúng ta chứng tỏ điều gì ấy một cách khoa học? Điều này đưa lên một chủ đề: làm thế nào chúng ta biết những sự việc một cách có giá trị? Theo giáo huấn của Phật giáo, mọi vật có thể được biết một cách có giá trị trong hai cách: bằng nhận thức trực tiếp và bằng sự suy luận. Bằng một cuộc thí nghiệm trong phòng chuyên môn, chúng ta có thể đánh giá sự hiện hữu của điều gì ấy qua nhận thức thẳng thắn. Chúng ta phải dựa vào sự hợp lý logic, lý trí và suy luận. Tái sinh là rất khó để minh chứng bằng những phương tiện của nhận thức thẳng thắn ý nghĩa, mặc dù có một câu chuyện về một vị thầy Phật giáo lâu xưa ở Ấn Độ, người đã chết, tái sinh và sau đó nói, “Đây là tôi một lần nữa.” Nhầm đề chứng minh đến vị vua rằng tái sinh hiện hữu. Có nhiều thí dụ về những người nhớ lại những đời trước của họ và những người có thể xác định rõ ràng những vật tùy thân của họ hoặc là những người họ biết trước đây.
Đề qua một bên những chuyện đó, cũng có sự hợp lý tuyệt đối của tái sinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói rằng nếu những điểm nào đấy không phù hợp với thực tế, ngài sẽ quyết để cho chúng bị loại ra khỏi Phật giáo. Điều này cũng áp dụng vào tái sinh. Thực tế, ngài tuyên bố lời này một cách độc đáo trong hoàn cảnh ấy. Nếu khoa học có thể chứng minh rằng tái sinh không hiện hữu, sau đấy chúng ta phải buông bỏ sự tin tưởng điều ấy là sự thật. Tuy thế, nếu khoa học không thể minh chứng rằng nó sai, thế thì bởi vì họ tuân theo sự hợp lý của những phương pháp khoa học, là điều cởi mở với sự thông hiểu về những điều mới mẻ, họ phải kháo sát nó có hiện hữu hay không. Để chứng minh tái sinh là không hiện hữu, họ sẽ phải tìm ra sự không tồn tại của nó. Chỉ nói là, “Tái sinh không hiện hữu bởi vì tôi không thấy nó với đôi mắt của tôi” là không tìm ra sự không tồn tại của tái sinh. Nhiều việc hiện hữu mà chúng ta không thể thấy bằng đôi mắt của chúng ta.
Nếu những nhà khoa học không thể chứng tỏ sư không tồn tại của tái sinh, thế thì họ cần phải có nhiệm vụ để khảo sát nếu tái sinh thật tự hiện hữu trong thực tế. Phương pháp khoa học là đặt thành định đề trên những dữ liệu nào đấy và rồi thì kiểm nghiệm coi nó có giá trị hay không. Do vậy, chúng ta nhìn vào dữ liệu. Thí dụ, chúng ta chú ý rằng những đứa bé không được sinh ra như một băng thu âm hoàn toàn trống rỗng. Chúng có những thói quen và những đặc trưng cá nhân nào đấy có thể quán sát ngay cả khi chúng rất trẻ. Những thứ này đến từ chốn nào?
Thật vô lý nếu nói rầng những thứ ấy chỉ đến từ những sự tiếp diễn của những thứ vật chất vật lý cuẩ cha mẹ chúng, từ tinh trùng và noãn châu. Không phải mọi tinh trùng và noãn châu đến cùng với nhau thâm nhập vào tử cung để lớn lên thành bào thai. Điều gì làm nên sự khác biệt giữa việc khi chúng thật sự trở thành một đứa bé và khi chúng không hình thành bào thai? Điều gì thật sự làm nên những thói quen và những thiên hướng khác nhau trong đứa trẻ? Chúng ta có thể nói nó là DNA và những gien. Đây là phía vật lý. Không ai có thể phủ nhận rằng đây là khía cạnh vật lý của việc làm thế nào một đứa bé hình thành nên sự hiện hữu. Tuy thế, những gì về phía kinh nghiệm thì thế nào? Làm thế nào chúng ta giải thích cho tâm thức?
Từ Anh ngữ ‘mind’ dịch là ‘tâm thức’ không có cùng ý nghĩa như trong thuật ngữ của tiếng Phạn hay Tạng mà nó đáng lẻ được dịch. Trong ngôn ngữ nguyên thủy, ‘tâm thức’ hay ‘mind’ liên hệ đến hành vi tinh thần hay sự tinh thần, hơn là điều gì đấy đang làm hành động ấy. Hành động hay sự kiện là sự khởi sinh nhận thức của những thứ nào đấy – tư tưởng, hình sắc, âm thinh, cảm xúc, cảm giác và v.v…- và sự nhận thức liên hệ với chúng – thấy chúng, nghe chúng, hiểu chúng, và ngay cả không hiểu chúng. Hai đặc trưng này của tâm thức thông thường được dịch như “sự trong sáng” và “tỉnh thức”, nhưng những từ ngữ tiếng Anh này cũng không không hẳn đúng.
Hành vi tinh thần của sự sinh khởi và sự liên quan với đối tượng nhận thức trong một cá nhân đến từ nơi nào? Ở đây, chúng ta không nói về điều thân thể đến từ đâu, vì điều đó rõ ràng đến từ cha mẹ. Chúng ta không nói về sự thông minh và v.v…, bởi vì chúng ta cũng có thể đưa đến một sự tranh luận rằng có một cơ sở di truyền cho điều ấy. Tuy thế, đề nói rằng sự ưa thích của ai đấy về kem sô cô la đến từ gien của một người là sự mở rộng quá xa.
Chúng ta có thể nói rằng một số sự hứng thú của chúng ta có thể bị ảnh hưởng với gia đình chúng ta hay bởi những tình trạng kinh tế hay xã hội mà chúng ta đang liên hệ trong ấy. Đây là những yếu tố có một sự ảnh hưởng rõ ràng, nhưng khó khăn để giải thích một cách chắc chắn mọi thứ mà chúng ta hành động trong cách ấy. Thí dụ, tại sao tôi trở nên thích thú với yoga như một đứa con nít? Không ai trong gia đình tôi hay trong xã hội chung quanh tôi có thói quen ấy. Có một số sách sẳn sàng trong vùng mà tôi đang sống, vì thế bạn có thể nói có một số ảnh hưởng nào đấy từ xã hội, nhưng tại sao tôi thích thú trong loại sách đặc thù ấy về hatha yoga? Tại sao tôi cầm nó lên? Đây là một câu hỏi khác.
Hãy đặt những thứ này qua một bên, chúng ta hãy trở lại câu hỏi chính: hành vi sinh khởi những đối tượng nhận thức và một liên hệ nhận thức trong chúng đến từ nơi nào? Khả năng lĩnh hội này đến từ chốn nào? Sự sống bừng chớp lên từ chốn nào? Điều gì làm nên sự phối hợp của tinh trùng và noãn châu có một sự sống thật sự? Điều gì làm nó trở nên một con người? Điều gì cho phép sự sinh khởi của những thứ như tư tưởng và cái thấy và điều gì làm nên sự liên hệ nhận thức với chúng, cái nào là phía kinh nghiệm của hoạt động hóa học và vật lý của bộ não?
Khó khăn để nói rằng hành vi tinh thần của một đứa bé sơ sinh đến từ cha mẹ bởi vì nếu là như thế, nó đến từ cha mẹ như thế nào? Phải có một cơ cấu nào đấy liên hệ. Có phải tia chớp của đời sống – được đặc trưng bởi sự tỉnh thức của mọi thứ - đến từ cha mẹ cùng cách của tinh trùng và noãn châu đã làm hay không? Có phải nó với kích thích cực điểm? Với sinh học? Có phải là tinh trùng? Noãn châu? Nếu chúng ta có thể không thể nêu lên với sự biểu lộ hợp lý, khoa học của việc nó đến từ cha mẹ khi nào, thế thì chúng ta phải tìm một giải pháp khác.
Nhìn với sự hợp lý (logic) tuyệt đối, chúng ta thấy rằng tất cả những hiện tượng của chức năng hoạt động đến từ chính sự liên tục tâm linh của chính họ, từ những khuynh hướng mô-men (moment) trước của điều gì đấy trong những hiện tượng cùng đặc trưng. Thí dụ, một hiện tượng vật lý, nó là vật chất hay năng lượng, đến từ những khuynh hướng quán tính trước của vật chất hay năng lượng ấy. Nó là sự tiếp diễn.
Hãy lấy sân hận như một thí dụ. Chúng ta có thể nói về năng lượng vật lý chúng ta cảm nhận khi chúng ta giận dữ, đấy là một thứ. Tuy thế, hãy lưu tâm hành vi tinh thần của sự sân hận trãi qua – kinh nghiệm sự sinh khởi của cảm xúc và sự tỉnh thức có ý hay vô ý của nó. Một kinh nghiệm cá nhân của sân hận có khuynh hướng mô-men trước của chính nó về sự liên tục trong kiếp sống này, nhưng nó đã đến từ nơi nào trước đấy? Hoặ là nó đến từ cha mẹ, và ở đấy dường như nó không có cơ cấu để diễn tả nó xãy ra như thế nào, hay nó đến từ một Thượng đế tạo hóa. Nhưng rồi thì chúng ta cần giải thích tại sao một Thượng đế bác ái nhân từ lại tạo nên sự sân hận trong chúng ta , và có phải một đấng tạo hóa nhân ái cần phải giận dữ nhằm để tạo nên sự sân hận trong những tạo vật của Ngài? Điều này khó khăn để thấu hiểu. Một cách lựa chọn, chúng ta phải nói nó đến từ khuynh quán tính trước của sự tiếp diễn của chính nó. Học thuyết về tái sinh giải thích giống như thế này.
Chúng ta có thể cố gắng để thấu hiểu tái sinh với sự tương tự của một bộ phim. Giống như một bộ phim là một sự tiếp diễn của những tấm ảnh của phim, sự tiếp diễn của tinh thần hay dòng suối tâm là những sự tiếp diễn của những thời khắc thay đổi không ngừng của tỉnh thức của những hiện tượng trong một kiếp sống và từ đời sống này đến đời sống tới. Không có một thực thể cững nhắc, có thể tìm thấy như “tôi” hay “tâm thức của tôi”, điều ấy chịu sự tái sinh. Tái sinh không giống sự tương tự của một bức tượng nho nhỏ ngồi trên một băng tải, đi từ đời sống này đến đời sống kế. Đúng hơn, nó giống như một bộ phim, điều gì ấy liên tục thay đổi. Mỗi hình ảnh là khác nhau nhưng có sự tiếp tục trong nó. Mỗi hình ảnh liên hệ đến hình ảnh kế tiếp. Tương tự, có một sự tương tục chuyển biến liên tục của những thời khắc của tỉnh thức của những hiện tượng, ngay cả nếu một số thời khắc ấy là vô ý thức. Xa hơn nữa, giống như những bộ phim không giống nhau, mặc dù chúng là tất cả những bộ phim, giống như thế tất cả những sự tương tục tinh thần hay “những tâm thức” không là một tâm thức. Có vô số những dòng suối cá nhân của sự tương tục tỉnh thức của những hiện tượng.
Đây là những tranh luận mà chúng ta bắt đầu khảo sát từ quan điểm khoa học và có lý trí. Nếu lý thuyết có ý nghĩa một cách hợp lý (logic), thế thì chúng ta có thể quan tâm một cách nghiêm chỉnh hơn ở sự kiện rằng có những người nhớ những đời sống quá khứ của họ. Trong cách này, chúng ta có thể thẩm tra sự hiện hữu của tái sinh từ sự tiếp cận của khoa học.