NGHIỆP BÁO: Khái niệm tổng quát
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 24 bài trong đề mục
tueuyen 19.03.2010 20:20:49 (permalink)
0
NGHIỆP BÁO VÀ TÁI SINH: NHỮNG CÂU HỎI CĂN BẢN

Tác giả: Alexander Berzin / 10-08-1988

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / 11-03-2010


--***--




1 – HỎI: Có phải lý thuyết nghiệp báo theo lối kinh nghiệm và khoa học, hay có phải nó được chấp nhận trên niềm tin?



ĐÁP: Ý tưởng về nghiệp báo có ý nghĩa trong nhiều cách, nhưng có một số thấu hiểu sai lạc về nghiệp báo là gì. Một số người nghĩ nghiệp báo có nghĩa là số mệnh hay tiền định. Nếu ai đấy bị đụng bởi một chiếc xe hay mất nhiều tiền trong thương trường, họ nói, “Ô, may mắn lớn, đó là nghiệp báo của họ.” Đó không phải là ý tưởng của Phật giáo về nghiệp báo. Thực tế, đó là ý tưởng về ý chí của Thượng Đế hơn - điều gì ấy mà chúng ta không hiểu hay không có bất cứ sự kiểm soát nào trên ấy.

Trong Đạo Phật, nghiệp báo liên hệ đến những sự thúc đẩy. Căn cứ trên những hành động trước đây mà chúng ta đã làm, những sự thôi thúc sinh khởi trong chúng ta để hành động trong những cách nào đấy hiện tại. Nghiệp báo liên hệ đến những thúc đẩy mà nó hình thành trong tâm thức một người để truyền cho một năng lượng vào ngày trước khi nó bùng nổ hay trước khi nó hiện lên hiệu năng của nó. Hay, ai đấy có thể có sự thúc đẩy để băng qua đường chỉ ngay thời điểm khi người ấy sẽ bị một chiếc xe đụng phải, không phải năm sớm hơn hay năm phút trể hơn. Việc sinh khởi sự thúc đẩy ngay thời khắc ấy là kết quả của một hành vi nào trước đấy hay những hành động mà người đó đã làm. Trong kiếp trước, thí dụ thế, người ấy có thể đã từng tra tấn hay giết ai đấy. Thái độ tàn hại như thế cũng kết quả trong thủ phạm trãi qua một tuổi thọ ngắn ngủi thường là trong một kiếp sống khác. Vì thế, sự thúc đẩy để băng qua đường đã sinh khởi ngay thời khắc để bị đụng bởi một chiếc xe.

Một người có thể có sự thúc đẩy để la lên hay làm bị thương ai đấy khác. Sự thúc đẩy đến từ những thói quen xây đắp bởi thái độ tương tự trước đây. La lối hay làm bị thương người khác xây dựng một khả năng, khuynh hướng, và thói quen cho loại thái độ này, vì thế trong tương lai, chúng ta làm lại nó một cách dễ dàng. La lối với sân hận xây dựng nên thậm chí một khả năng, khuynh hướng, và thái độ để làm nên một cảnh giận dữ hơn một lần nữa.

Hút thuốc là một thí dụ khác. Hút một điếu thuốc hành động như một khả năng cho sự hút một điếu thuốc khác. Nó cũng xây dựng nên một khuynh hướng và thái độ để hút thuốc. Như một kết quả, khi những hoàn cảnh là đúng lúc – hoặc là trong kiếp sống này khi ai đấy trao cho chúng ta một điếu thuốc hay trong đời sống tương lai khi như một đứa bé, chúng ta thấy người lớn hút thuốc – sự thúc đẩy đến trong tâm thức chúng ta để hút thuốc và chúng ta làm thế. Hút thuốc tạo thành không chỉ sự thúc đẩy tinh thần để lập lại hành động, mà cũng ảnh hưởng sự thúc đẩy vật lý với thân thể, thí dụ, mắc phải chứng ung thư vì hút thuốc. Ý tưởng về nghiệp báo làm nên nhiều ý nghĩa, vì nó giải thích những sự thúc đẩy của chúng ta đến từ nơi nào.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.04.2010 04:33:47 bởi tueuyen >
#1
    tueuyen 20.03.2010 10:35:31 (permalink)
    0
    2 – HỎI: Sự tiếp thu dễ dàng và sự thấu hiểu về Phật Pháp của một người có thể được quyết định trước bởi nghiệp báo hay không?

    ĐÁP: Có một sự khác biệt lớn lao giữa điều gì đấy được quyết định trước và điều gì ấy có thể giải thích được. Sự tiếp thu dễ dàng và thấu hiểu Phật Pháp của chúng ta có thể được giải thích bằng nghiệp quả. Đấy là, như một kết quả của sự học hỏi và thực tập trong những đời sống trước, thế nên chúng ta tiếp thu đễ dàng hơn những giáo huấn bây giờ. Nếu chúng ta có một sự thông hiểu tốt về giáo huấn trong quá khứ thế thì, theo bản năng tự động, chúng ta sẽ có một sự thông hiểu tốt một lần nữa trong kiếp sống này. Hay, nếu chúng ta có nhiều sự bối rối trong đời sống trước, sự mê mờ ấy sẽ mang theo đến kiếp sống này.

    Tuy nhiên, theo Đạo Phật, những việc không phải được quyết định trước. Không có định mệnh hay số phận. Khi nghiệp báo được giải thích như những sự thúc đẩy, nó hàm ý rằng những sự thúc đẩy là những thứ mà chúng ta có thể chọn lựa để hành động hay không. Căn cứ trên những hành vi chúng đã làm trong kiếp này và những đời trước, chúng ta có thể giải thích hay dự đoán những gì có thể xảy ra trong tương lai. Chúng ta biết rằng những hành vi xây dựng đem đến những kết quả an lạc hạnh phúc và những thứ tàn phá mang lại những hậu quả không mong muốn. Tuy thế, làm thế nào một hành vi nghiệp báo đặc thù chín muồi sẽ tùy thuộc trên nhiều nhân tố, và vì thế, nhiều thứ có thể ảnh hưởng nó. Một sự tương tự sẽ là: nếu chúng ta tung một quả bóng lên trên không, chúng ta có thể tiên đoán rằng nó sẽ rơi xuống. Giống như thế, căn cứ trên những hành vi trước đây, chúng ta có thể dự đoán những gì sẽ xãy ra trong tương lai. Tuy vậy, nếu chúng ta có thể bắt quả bóng, nó sẽ không rơi xuống. Tương tự vậy, trong khi chúng ta có thể dự đoán từ những hành vi trước đây và những gì sẽ đến trong tương lai, nó không tuyệt đối là, định mệnh, và được khắc trên đá để là biểu hiện sẽ xãy ra. Những khuynh hướng khác, hành vi khác, trường hợp khác và v.v… có thể ảnh hưởng sự chín muồi của nghiệp báo.

    Khi một sự thúc đẩy đến trong tâm thức chúng ta để làm một hành động, chúng ta có một sự lựa chọn. Chúng ta không giống như những đứa con nít thể hiện bất cứ những sự thúc đẩy nào đến trong đầu của chúng. Xét cho cùng, chúng ta thật học hỏi được rèn luyện phục sức; chúng ta không hành động ngay lập tức bất cứ điều gì thúc giục. Điều ấy cũng đúng cho sự thúc đẩy nói điều gì ấy mà có thể tổn thương người khác, hay làm điều gì ấy độc hại. Khi một sự thúc giục như vậy đến trong tâm thức chúng ta, chúng ta có thể chọn lựa, “Tôi nên hành động điều ấy ra hay kiềm chế không làm theo điều đó?” Đây là khả năng để phản chiếu và phân biệt giữa những hành vi xây dựng và tàn phá là những gì phân loại giữa con người với con thú. Đây là một sự tiến bộ vĩ đại của sự biểu hiện của một con người.

    Vì thế, chúng ta có thể chọn lựa những gì chúng ta sẽ hành động căn cứ trên việc có đủ không gian trong tâm thức chúng ta để chính niệm rằng những sự thúc đẩy đang sinh khởi. Nhiều sự rèn luyện của Đạo Phật được liên hệ với sự phát triển chính niệm. Khi chúng ta chậm lại, chúng ta trở nên tỉnh thức hơn về những gì chúng ta đang suy nghĩ và những gì chúng ta sắp nói hay hành động. Thiền tập trên hơi thở, là điều mà trong ấy chúng ta quán sát hơi thở vào và ra, cho chúng ta không gian để có thể chú ý những thúc đẩy khi chúng sinh khởi. Chúng ta bắt đầu quán chiếu, “Tôi có sự thúc đẩy này để nói điều gì đấy mà nó sẽ tổn thương người khác. Nếu tôi nói nó, nó sẽ làm nên những khó khăn. Vì thế, tôi sẽ không nói nó.” Chúng ta có thể chọn lựa. Nếu chúng ta không chính niệm, chúng ta có một sự vội vả của những tư tưởng và những thúc đẩymà chúng ta sẽ không có cơ hội để lựa chọn một cách thông tuệ. Chúng ta chỉ hành động những gì thúc giục và điều này thường mang đến những rắc rối trong đời sống của chúng ta.

    Vì vậy, chúng ta không thể nói rằng mọi thứ - như sự hiểu biết hay sự lĩnh hội của chúng ta về Giáo Pháp – là được định trước. Chúng ta có thể dự đoán nó, nhưng chúng ta cũng có một không gian mở rộng có thể thay đổi.
    #2
      tueuyen 22.03.2010 07:29:54 (permalink)
      0
      3 – HỎI: Có phải những người của những tôn giáo tín ngưỡng khác cũng trãi qua kinh nghiệm nghiệp báo?

      ĐÁP: Vâng,. Ai đấy không phải tin tưởng trong nghiệp báo nhằm đề trãi qua với chúng. Nếu chúng ta nện mạnh chân chúng ta, chúng ta không phải tin tưởng trong nhân quả để kinh nghiệm sự đau đớn. Thậm chí nếu chúng ta nghĩ rằng thuốc độc là một loại nước uống ngon lành, khi chúng ta uống vào, chúng ta mắc bệnh. Tương tự thế, nếu chúng ta hành động trong một cách nào đấy, kết quả của hành động ấy sẽ đến, cho dù chúng ta tin tưởng trong nhân quả hay không.

      4 – HỎI: Có phải tôi là sự tiếp tục của ai khác đấy người đã sống trước đây? Có phải giáo lý Đạo Phật về tái sinh là là một lý thuyết siêu hinh hay là một loại khoa học? Giáo sư nói rằng Phật giáo là dựa trên lý trí và khoa học. Điều này cũng có thể áp dụng vào sự tái sinh không?

      ĐÁP: Có vài điểm ở đây. Một là: làm thế nào chúng ta chứng tỏ điều gì ấy một cách khoa học? Điều này đưa lên một chủ đề: làm thế nào chúng ta biết những sự việc một cách có giá trị? Theo giáo huấn của Phật giáo, mọi vật có thể được biết một cách có giá trị trong hai cách: bằng nhận thức trực tiếp và bằng sự suy luận. Bằng một cuộc thí nghiệm trong phòng chuyên môn, chúng ta có thể đánh giá sự hiện hữu của điều gì ấy qua nhận thức thẳng thắn. Chúng ta phải dựa vào sự hợp lý logic, lý trí và suy luận. Tái sinh là rất khó để minh chứng bằng những phương tiện của nhận thức thẳng thắn ý nghĩa, mặc dù có một câu chuyện về một vị thầy Phật giáo lâu xưa ở Ấn Độ, người đã chết, tái sinh và sau đó nói, “Đây là tôi một lần nữa.” Nhầm đề chứng minh đến vị vua rằng tái sinh hiện hữu. Có nhiều thí dụ về những người nhớ lại những đời trước của họ và những người có thể xác định rõ ràng những vật tùy thân của họ hoặc là những người họ biết trước đây.

      Đề qua một bên những chuyện đó, cũng có sự hợp lý tuyệt đối của tái sinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói rằng nếu những điểm nào đấy không phù hợp với thực tế, ngài sẽ quyết để cho chúng bị loại ra khỏi Phật giáo. Điều này cũng áp dụng vào tái sinh. Thực tế, ngài tuyên bố lời này một cách độc đáo trong hoàn cảnh ấy. Nếu khoa học có thể chứng minh rằng tái sinh không hiện hữu, sau đấy chúng ta phải buông bỏ sự tin tưởng điều ấy là sự thật. Tuy thế, nếu khoa học không thể minh chứng rằng nó sai, thế thì bởi vì họ tuân theo sự hợp lý của những phương pháp khoa học, là điều cởi mở với sự thông hiểu về những điều mới mẻ, họ phải kháo sát nó có hiện hữu hay không. Để chứng minh tái sinh là không hiện hữu, họ sẽ phải tìm ra sự không tồn tại của nó. Chỉ nói là, “Tái sinh không hiện hữu bởi vì tôi không thấy nó với đôi mắt của tôi” là không tìm ra sự không tồn tại của tái sinh. Nhiều việc hiện hữu mà chúng ta không thể thấy bằng đôi mắt của chúng ta.

      Nếu những nhà khoa học không thể chứng tỏ sư không tồn tại của tái sinh, thế thì họ cần phải có nhiệm vụ để khảo sát nếu tái sinh thật tự hiện hữu trong thực tế. Phương pháp khoa học là đặt thành định đề trên những dữ liệu nào đấy và rồi thì kiểm nghiệm coi nó có giá trị hay không. Do vậy, chúng ta nhìn vào dữ liệu. Thí dụ, chúng ta chú ý rằng những đứa bé không được sinh ra như một băng thu âm hoàn toàn trống rỗng. Chúng có những thói quen và những đặc trưng cá nhân nào đấy có thể quán sát ngay cả khi chúng rất trẻ. Những thứ này đến từ chốn nào?

      Thật vô lý nếu nói rầng những thứ ấy chỉ đến từ những sự tiếp diễn của những thứ vật chất vật lý cuẩ cha mẹ chúng, từ tinh trùng và noãn châu. Không phải mọi tinh trùng và noãn châu đến cùng với nhau thâm nhập vào tử cung để lớn lên thành bào thai. Điều gì làm nên sự khác biệt giữa việc khi chúng thật sự trở thành một đứa bé và khi chúng không hình thành bào thai? Điều gì thật sự làm nên những thói quen và những thiên hướng khác nhau trong đứa trẻ? Chúng ta có thể nói nó là DNA và những gien. Đây là phía vật lý. Không ai có thể phủ nhận rằng đây là khía cạnh vật lý của việc làm thế nào một đứa bé hình thành nên sự hiện hữu. Tuy thế, những gì về phía kinh nghiệm thì thế nào? Làm thế nào chúng ta giải thích cho tâm thức?
      Từ Anh ngữ ‘mind’ dịch là ‘tâm thức’ không có cùng ý nghĩa như trong thuật ngữ của tiếng Phạn hay Tạng mà nó đáng lẻ được dịch. Trong ngôn ngữ nguyên thủy, ‘tâm thức’ hay ‘mind’ liên hệ đến hành vi tinh thần hay sự tinh thần, hơn là điều gì đấy đang làm hành động ấy. Hành động hay sự kiện là sự khởi sinh nhận thức của những thứ nào đấy – tư tưởng, hình sắc, âm thinh, cảm xúc, cảm giác và v.v…- và sự nhận thức liên hệ với chúng – thấy chúng, nghe chúng, hiểu chúng, và ngay cả không hiểu chúng. Hai đặc trưng này của tâm thức thông thường được dịch như “sự trong sáng” và “tỉnh thức”, nhưng những từ ngữ tiếng Anh này cũng không không hẳn đúng.

      Hành vi tinh thần của sự sinh khởi và sự liên quan với đối tượng nhận thức trong một cá nhân đến từ nơi nào? Ở đây, chúng ta không nói về điều thân thể đến từ đâu, vì điều đó rõ ràng đến từ cha mẹ. Chúng ta không nói về sự thông minh và v.v…, bởi vì chúng ta cũng có thể đưa đến một sự tranh luận rằng có một cơ sở di truyền cho điều ấy. Tuy thế, đề nói rằng sự ưa thích của ai đấy về kem sô cô la đến từ gien của một người là sự mở rộng quá xa.

      Chúng ta có thể nói rằng một số sự hứng thú của chúng ta có thể bị ảnh hưởng với gia đình chúng ta hay bởi những tình trạng kinh tế hay xã hội mà chúng ta đang liên hệ trong ấy. Đây là những yếu tố có một sự ảnh hưởng rõ ràng, nhưng khó khăn để giải thích một cách chắc chắn mọi thứ mà chúng ta hành động trong cách ấy. Thí dụ, tại sao tôi trở nên thích thú với yoga như một đứa con nít? Không ai trong gia đình tôi hay trong xã hội chung quanh tôi có thói quen ấy. Có một số sách sẳn sàng trong vùng mà tôi đang sống, vì thế bạn có thể nói có một số ảnh hưởng nào đấy từ xã hội, nhưng tại sao tôi thích thú trong loại sách đặc thù ấy về hatha yoga? Tại sao tôi cầm nó lên? Đây là một câu hỏi khác.

      Hãy đặt những thứ này qua một bên, chúng ta hãy trở lại câu hỏi chính: hành vi sinh khởi những đối tượng nhận thức và một liên hệ nhận thức trong chúng đến từ nơi nào? Khả năng lĩnh hội này đến từ chốn nào? Sự sống bừng chớp lên từ chốn nào? Điều gì làm nên sự phối hợp của tinh trùng và noãn châu có một sự sống thật sự? Điều gì làm nó trở nên một con người? Điều gì cho phép sự sinh khởi của những thứ như tư tưởng và cái thấy và điều gì làm nên sự liên hệ nhận thức với chúng, cái nào là phía kinh nghiệm của hoạt động hóa học và vật lý của bộ não?

      Khó khăn để nói rằng hành vi tinh thần của một đứa bé sơ sinh đến từ cha mẹ bởi vì nếu là như thế, nó đến từ cha mẹ như thế nào? Phải có một cơ cấu nào đấy liên hệ. Có phải tia chớp của đời sống – được đặc trưng bởi sự tỉnh thức của mọi thứ - đến từ cha mẹ cùng cách của tinh trùng và noãn châu đã làm hay không? Có phải nó với kích thích cực điểm? Với sinh học? Có phải là tinh trùng? Noãn châu? Nếu chúng ta có thể không thể nêu lên với sự biểu lộ hợp lý, khoa học của việc nó đến từ cha mẹ khi nào, thế thì chúng ta phải tìm một giải pháp khác.

      Nhìn với sự hợp lý (logic) tuyệt đối, chúng ta thấy rằng tất cả những hiện tượng của chức năng hoạt động đến từ chính sự liên tục tâm linh của chính họ, từ những khuynh hướng mô-men (moment) trước của điều gì đấy trong những hiện tượng cùng đặc trưng. Thí dụ, một hiện tượng vật lý, nó là vật chất hay năng lượng, đến từ những khuynh hướng quán tính trước của vật chất hay năng lượng ấy. Nó là sự tiếp diễn.

      Hãy lấy sân hận như một thí dụ. Chúng ta có thể nói về năng lượng vật lý chúng ta cảm nhận khi chúng ta giận dữ, đấy là một thứ. Tuy thế, hãy lưu tâm hành vi tinh thần của sự sân hận trãi qua – kinh nghiệm sự sinh khởi của cảm xúc và sự tỉnh thức có ý hay vô ý của nó. Một kinh nghiệm cá nhân của sân hận có khuynh hướng mô-men trước của chính nó về sự liên tục trong kiếp sống này, nhưng nó đã đến từ nơi nào trước đấy? Hoặ là nó đến từ cha mẹ, và ở đấy dường như nó không có cơ cấu để diễn tả nó xãy ra như thế nào, hay nó đến từ một Thượng đế tạo hóa. Nhưng rồi thì chúng ta cần giải thích tại sao một Thượng đế bác ái nhân từ lại tạo nên sự sân hận trong chúng ta , và có phải một đấng tạo hóa nhân ái cần phải giận dữ nhằm để tạo nên sự sân hận trong những tạo vật của Ngài? Điều này khó khăn để thấu hiểu. Một cách lựa chọn, chúng ta phải nói nó đến từ khuynh quán tính trước của sự tiếp diễn của chính nó. Học thuyết về tái sinh giải thích giống như thế này.

      Chúng ta có thể cố gắng để thấu hiểu tái sinh với sự tương tự của một bộ phim. Giống như một bộ phim là một sự tiếp diễn của những tấm ảnh của phim, sự tiếp diễn của tinh thần hay dòng suối tâm là những sự tiếp diễn của những thời khắc thay đổi không ngừng của tỉnh thức của những hiện tượng trong một kiếp sống và từ đời sống này đến đời sống tới. Không có một thực thể cững nhắc, có thể tìm thấy như “tôi” hay “tâm thức của tôi”, điều ấy chịu sự tái sinh. Tái sinh không giống sự tương tự của một bức tượng nho nhỏ ngồi trên một băng tải, đi từ đời sống này đến đời sống kế. Đúng hơn, nó giống như một bộ phim, điều gì ấy liên tục thay đổi. Mỗi hình ảnh là khác nhau nhưng có sự tiếp tục trong nó. Mỗi hình ảnh liên hệ đến hình ảnh kế tiếp. Tương tự, có một sự tương tục chuyển biến liên tục của những thời khắc của tỉnh thức của những hiện tượng, ngay cả nếu một số thời khắc ấy là vô ý thức. Xa hơn nữa, giống như những bộ phim không giống nhau, mặc dù chúng là tất cả những bộ phim, giống như thế tất cả những sự tương tục tinh thần hay “những tâm thức” không là một tâm thức. Có vô số những dòng suối cá nhân của sự tương tục tỉnh thức của những hiện tượng.

      Đây là những tranh luận mà chúng ta bắt đầu khảo sát từ quan điểm khoa học và có lý trí. Nếu lý thuyết có ý nghĩa một cách hợp lý (logic), thế thì chúng ta có thể quan tâm một cách nghiêm chỉnh hơn ở sự kiện rằng có những người nhớ những đời sống quá khứ của họ. Trong cách này, chúng ta có thể thẩm tra sự hiện hữu của tái sinh từ sự tiếp cận của khoa học.
      #3
        tueuyen 23.03.2010 07:01:34 (permalink)
        0

        5 – HỎI: Đạo Phật nói rằng không có linh hồn và tự ngã. Thế thì điều gì tái sinh ?

        ĐÁP: Một lần nữa, sự tương tự của tái sinh không là một linh hồn nào đấy, giống như một bức tượng cứng nhắc nho nhỏ hay một người, du hành trên một băng tải từ đời này đến đời khác. Băng tải đại diện thời gian và hình ảnh bao hàm là một vật gì đấy cứng nhắc, một cá thể cố định hay linh hồn gọi là “tôi” đi qua thời gian: “Bây giờ tôi trẻ, bây giờ tôi già; bây giờ tôi trong kiếp sống này, bây giờ tôi ở trong đời sống ấy.” Đây không là quan điểm của Phật giáo về tái sinh. Đúng hơn, sự tương tự giống như một bộ phim. Có một sự tương tục với một bộ phim; những hình ảnh hình thành một sự tiếp diễn.
        Đạo Phật cũng không nói rằng tôi thành bạn, hay chúng ta là một. Nếu chúng ta là một, và tôi là bạn, thế thì chúng ta cùng đói bụng, bạn có thể chờ đợi trong xe trong khi tôi đi ăn. Nó không giống như thế. Mỗi chúng ta có một dòng suối cá nhân tương tục. Cảnh trong phim của tôi sẽ không biến thành phim của bạn, nhưng những đời sống của chúng ta tiến triển như những bộ phim trong ý nghĩa rằng chúng không cứng nhắc và cố định. Đời sống tiếp diễn từ một khung ảnh này đến một khung ảnh khác. Nó tuân theo một sự tiến triển, tùy theo nghiệp quả, và vì thế hình thành một sự tương tục.
        #4
          tueuyen 24.03.2010 11:24:32 (permalink)
          0
          6 – HỎI: Những sự thúc đẩy khác nhau cất chứa trong tâm thức như thế nào và chúng trổi dậy như thế nào?

          ĐÁP: Điều này có hơi phức tạp. Chúng ta hành động trong một cung cách nào đấy, thí dụ, chúng ta hút một điếu thuốc. Do vì có một năng lượng nào đấy liên hệ trong sự hút một điếu thuốc, hành động ấy thể hiện như một khả năng hay một năng lực để hút một điếu thuốc khác. Có một tổng năng lượng, mà nó chấm hết khi một hành động chấm dứt, nhưng cũng có một năng lượng vi tế tiềm ẩn, mà nó là năng lượng khả dĩ để lập lại hành động. Năng lượng vi tế tiềm ẩn ấy của khả năng hút thuốc được mang theo với chính năng lượng vi tế nhất mà nó cùng với chính tâm thức vi tế nhất thích ứng đến trình độ vi tế của hành vi của nhận thức và tỉnh giác, trong khi năng lượng vi tế nhất thích ứng đến chính sự sống vi tế - năng lượng hổ trợ giúp cho hành động này. Cùng với nhau, chúng cấu thành điều mà chúng ta gọi là “tia chớp của sự sống”. Chúng là điều đi từ đời sống này đến đời sống khác. Những khả năng của nghiệp báo được mang theo cùng với tia chớp của sự sống.

          Những khuynh hướng và những thói quen cũng dược mang theo, nhưng chúng không phải là vật lý tính. Thói quen là gì? Thí dụ, chúng ta có một thói quen uống trà. Chúng ta uống trà sáng nay và sáng hôm qua và những ngày trước đó. Thói quen không là một tách trà vật lý; nó không là tâm thức chúng ta nói, “Uống trà.” Nó chỉ là một sự tiếp triển của những sự kiện tương tự - uống trà nhiều lần. Căn cứ trên sự tiến triển ấy, như một cử chỉ nói năng, chúng ta nói hay “quy cho” rằng có một thói quen về uống trà. Chúng ta đặt tên cho sự tiến triển là “thói quen uống trà.” Một thói quen không là điều gì vật lý, nhưng đúng hơn nó là một khái niệm trừu tượng xây dựng nên từ lối nói năng về một sự tiến triển của những sự kiện tương tự. Căn cứ trên điều ấy, chúng ta có thể tiên đoán rằng điều tương tự gì đấy sẽ xãy ra trong tương lai.

          Nó tương tự như khi chúng ta nói về những thói quen, bản năng hay khuynh hướng được mang đến tương lai. Không có tính vật lý được mang theo. Tuy nhiên, trên căn bản của những khuynh hướng quán tính của sự tương tục tinh thần, chúng ta có thể nói có những thí dụ tương tự tại lúc này và lúc kia, và vì thế sẽ có những thí dụ tương tự trong tương lai.
          #5
            tueuyen 25.03.2010 07:25:30 (permalink)
            0
            7 – HỎI: Nếu sự sống liên hệ sự di chuyển của tâm thức, vậy có bất cứ sự bắt đầu nào không?

            ĐÁP: Đạo Phật dạy rằng không có sự bắt đầu (vô thủy). Một sự bắt đầu là không hợp lý (không logic). Sự tương tục của vật chât, năng lượng, và những tâm thức con người là không có sự bắt đầu. Nếu chúng có một sự bắt đầu sự bắt đầu này đến từ chốn nào? Điều gì trước sự bắt đầu?

            Một số người nói, “Chúng ta cần một sự bắt đầu. Do thế, Thượng đế tạo nên mọi thứ.” Họ thừa nhận một Thượng đế tạo hóa, kẻ được ban cho nhiều tên gọi trong những tôn giáo khác nhau. Vấn đề mà một Phật tử sẽ hỏi là, “Thượng đế đến từ chốn nào? Thượng đế có sự bắt đầu không? “Hoặc là họ sẽ trả lời rằng Thượng đế là không có bắt đầu, tại điểm mà người Phật tử tranh luận sẽ nói, “A ha, không có sự bắt đầu,” hay họ sẽ phải chỉ ra điều gì đấy hay ai đấy tạo nên Thượng đế, mà điều này mâu thuẩn với chính triết lý của họ.

            Một người vô thần nói, “Không có Thượng đế. Mọi thứ đã đến từ sự không có. Vũ trụ hình thành từ số không. Sự tiếp diễn của tinh thần chúng ta đến từ sự không tồn tại.” Thế thì chúng ta hỏi, “Số không ấy đến từ chốn nào?” Họ nói, “Không có gì ấy luôn luôn chung quanh. Luôn luôn có không có gì. Không có gì không có sự bắt đầu.” Thế là một lần nữa, chúng ta trở lại sự không có bắt đầu (vô thủy). Bất chấp trả lời được đưa ra là gì chúng ta trở lại không có bắt đầu.

            Nếu không có bắt đầu là kết luận duy nhất hợp lý chúng ta có thể đến, sau đó chúng ta thẩm tra: “Có thể cho điều gì đấy mà thực hiện chức năng đến từ không có gì hay không? Làm thế nào không có gì có thể sản sinh điều gì đấy?” Điều đó không làm nên trò trống gì; mọi thứ cần phải có nguyên nhân. Sự giải thích kia, rằng có một đấng tạo hóa, có làm nên ý nghĩa gì không? Chúng ta cần thẩm tra, sự thừa nhận càng gần hơn. Thí dụ, nếu có một thần linh quyền năng vô hạn hay ngay cả nếu một sự kiện hoàn toàn vật lý Big Bang tạo nên mọi thứ, thế thì có phải sự tạo hóa xãy ra tại một thời điểm nào đấy do bởi sự ảnh hưởng của một động cơ, khuynh hướng, hay một hoàn cảnh? Nếu nó làm thế, thế thì điều ảnh hưởng sự sáng tạo mọi thứ đã tồn tại trước khi sự sáng tạo nên mọi thứ, và điều đó vô nghĩa. Nếu một đấng sáng tạo là cả từ bi và vô thủy, thế thì đấng tạo hóa ấy tạo nên từ bi như thế nào? Từ bi đã tồn tại rồi.

            Sự lựa chọn thứ ba được quan tâm là có phải mọi thứ tiếp tục với vô thủy? Điều này là sự tiếp cận khoa học hơn mà tùy thuộc với ý tưởng rằng vật chất không được tạo nên cũng không bị hủy diệt, chỉ chuyển hóa. Nó giống với sự tương tục tinh thần của con người. Không có sự bắt đầu, và mọi thứ chuyển biến một cách phụ thuộc, do bởi nguyên nhân và hoàn cảnh.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.03.2010 21:28:13 bởi tueuyen >
            #6
              tueuyen 27.03.2010 00:46:20 (permalink)
              0
              8 – HỎI: Đức Phật đã nói với môn đồ rằng Ngài không phải là Thượng đế. Nếu đúng như thế, vậy thì vai trò của nguyện cầu trong Đạo Phật là gì?

              ĐÁP: Vấn đề chính quan tâm đến cầu nguyện là câu hỏi ‘Ai đấy khác có thể tiêu trừ những khổ đau và những rắc rối của chúng ta hay không? Đức Phật nói rằng không ai có thể giải trừ tất cả những vấn đề rắc rối của chúng ta trong một cách giống như chúng ta nắm lỗ tai của con thỏ và kéo nó ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn. Điều đó là không thể được. Chúng ta tiếp nhận trách nhiệm của chính mình cho những gì xãy ra đến chúng ta. Do thế, nếu chúng ta ước nguyện tạo nên những nguyên nhân cho an lạc hạnh phúc và để tránh những nguyên nhân cho rắc rối, thì chúng ta cần phải tuân theo những đạo đức và hạnh kiểm trong sạch. Nếu chúng ta muốn đời sống của chúng ta cải thiện, nó tùy thuộc chúng ta thay đổi cách cử xử và những thái độ nhằm để tác động những gì sẽ xảy ra trong tương lai.

              Chúng ta nguyện cầu trong Đạo Phật, chúng ta không đòi hỏi: “Lạy Phật, nguyện cầu Ngài cho con một chiếc Mercedes!” Không ai trên bầu trời có thể ban nó cho chúng ta. Đúng hơn, bằng sự nguyện cầu chúng ta đang thiết lập một ước nguyện mạnh mẽ cho điều gì đấy xãy ra. Những thái độ và hành động của chúng ta làm nó xãy ra; nhưng, tuy thế, chư Phật và chư Bồ tát có thể truyền cảm hứng cho chúng ta.

              Đôi khi, trong thuật ngữ cho “truyền cảm hứng” được diễn dịch như “gia hộ”, nhưng đây là sự chuyển tải rất nghèo nàn. Chư Phật và Bồ tát có thể truyền cảm hứng cho chúng ta bằng những mẫu mực của các Ngài. Các ngài có thể truyền dạy hay chỉ cho chúng ta phương pháp, nhưng chúng ta phải tự mình hành động. Như lời nói là, “Bạn có thể đưa con ngựa đến nguồn nước nhưng bạn không thể uống thay cho nó.” Con ngựa phải tự nó uống nước. Giống như thế, chúng ta cần tự mình đi theo con đường và đạt đến sự thực chứng tự mình và làm những vấn đề rắc rối của chúng ta dừng lại. Chúng ta không thể đẩy trách nhiệm ấy vào một thần linh toàn năng ngoại tại, nghĩ rằng, “Ngài là năng lực vô cùng, ngài làm việc đó cho con. Con giao phó thân mạng con trong tay ngài.” Đúng hơn, trong Phật giáo, chúng ta nhìn chư Phật cho sự truyền năng lực, truyền cảm hứng để nâng đở chúng ta bằng những tấm gương của các ngài. Qua sự truyền cảm hứng của các ngài và những sự dạy bảo của các ngài, các ngài hổ trợ chúng ta và hướng dẫn chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta cần phát triển tiềm năng từ chính phía chúng ta để tiếp nhận sự truyền năng lực của các ngài. Hành động căn bản chúng ta phải tự tiến hành.

              Nhiều sự hiểu sai lạc về Đạo Phật sinh khởi do bởi sự chuyển dịch nghèo nàn những thuật ngữ và những khái niệm Phật giáo sang Anh ngữ và những ngoại ngữ khác. Thí dụ, nhiều thuật ngữ chuyển dịch dùng để chuyển ngữ Phật giáo sang Anh ngữ được tạo ra bởi những người biên soạn từ điển Phật giáo từ thế kỷ trước, hay thậm chí sớm hơn. Những học giả sớm sủa này thường đến từ những đoàn truyền giáo hay thời nữ hoàng Victoria và họ chọn lựa những thuật ngữ mà chúng đến từ sự giáo dục của chính họ. Nhiều từ ngữ họ chọn, tuy thế, không truyền tãi một cách chính xác ý nghĩa nhằm tới trong Phật giáo. Khi chúng ta đọc những chữ này, chúng ta nghĩ chúng có nghĩa giống như chúng có trong Ki Tô giáo hay thời kỳ nữ hoàng Victoria thiết lập, trong thực tế, chúng không phải như thế.

              Thí dụ những chữ như: bless – gia hộ, sin – tội lỗi, virtuous – đạo đức, nonvictuous – phi đạo đức, confession – xưng tội, sám hối, và v.v… Trong Ki Tô giáo, chúng có sự hàm ý của một loại phán xét đạo đức, tưởng thưởng và trừng phạt. Tuy thế, khái niệm Phật giáo hoàn toàn không là những điều này. Nó tương tự với chữ “blessing – gia hộ , phù hộ”. Những từ ngữ này đến từ một truyền thống văn hóa khác biệt. Do thế, trong nghiên cứu Phật giáo, điều rất quan trọng là phải dọn dẹp càng nhiều càng tốt màn sương văn hóa phủ trên những từ ngữ mà những dịch giả trước đây đã dùng. Họ là những nhà khai phá lớn về nghiên cứu Phật giáo và chúng ta phải cảm ơn cho những nổ lực vô giá của họ. Tuy thế, bây giờ chúng ta cần phải trở lại một lần nữa những ngôn ngữ nguyên thủy của kinh luận và thông hiểu những khái niệm Phật giáo bằng những sự định nghĩa của chúng trong những ngôn ngữ ấy và đặt chúng vào trong những từ ngữ tiếng Anh hay thành ngữ mà phù hợp với những ý nghĩa của chúng.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.03.2010 00:50:34 bởi tueuyen >
              #7
                tueuyen 27.03.2010 21:21:05 (permalink)
                0
                9 – HỎI: Phật giáo nói gì về thuyết tiến hóa của Darwin?

                ĐÁP: Học thuyết của Darwin trình bày sự tiến hóa có thể có của thân thể vào trong điều mà sự tương tục tinh thần có thể phải tái sinh trong nhiều kỷ nguyên của lịch sử của trái đất. Nó không diễn tả sự tiến hóa của thân thể mà một sự tương tục tinh thần của cá thể sẽ phải tiếp nhận trong những đời sống sau. Có một sự khác biệt lớn lao giữa những hình thái thật sự của sự sống vật lý trên hành tinh này và sự tương tục của dòng suối tâm linh được tái sinh trong chúng.

                Một số giải thích về sự tiến hóa trong kinh luận Phật giáo có thể dường như hơi lạ đối với chúng ta. Chúng nói về những chúng sinh đã ở trong những hoàn cảnh tốt hơn chúng ta trong quá khứ và rồi thì bị làm cho xấu đi. Cho dù điều này là đúng hay không đi nữa cần phải khảo sát. Không phải tất cả mọi thứ mà Đức Phật và hàng môn đồ của ngài đã dạy có thể được chứng thực bởi khoa học, và những thứ không thể, Đức Đạt Lai Lạt Ma đang tự nguyện để nó qua một bên. Những đạo sư có thể đã đưa ra những giảng giải dường như lạ lùng vì những lý do đặc thù và không có ý định để chúng được tượng trưng đúng theo nghĩa đen như vậy. Chúng có thể biểu hiện cho những sự thật đa dạng của xã hội hay tâm lý.

                Tuy nhiên, trong phạm vi của thuyết tiến hóa, đã có một thời với những con khủng long và bây giờ chúng bị tiệt chủng. Không còn có nghiệp báo hay những thúc đẩy rơi rớt lại để cho chúng sinh phải tái sinh như những con khủng long trên hành tình hiện nay. Có những căn bản thân thể vật lý khác biệt sẳn sàng cho những dòng suối tâm linh tiếp nhận như một thân thể bây giờ. Nó không mâu thuẩn với những sự giải thích của Đạo Phật cho những cơ sở thân thể sẳn sàng cho tái sinh thay đổi theo thời gian.

                Trong một cuộc thảo luận mà Đức Đạt Lai Lạt Ma có với những nhà khoa học, ngài đã được hỏi những máy điện toán có thể trở thành những chúng sinh hay không: Những máy điện toán có thể một ngày nào đấy có tâm thức hay không? Ngài đã trả lời trong một cung cách hấp dẫn, nói rằng nếu một máy điện toán hay một rô bô đạt tời một điểm mà nó có thể phức tạp đủ để phục vụ như một căn bản cho một sự tương tục tinh thần, không có lý do nào tại sao mà một dòng suối tâm không thể nối kết với một máy móc hoàn toàn vô cơ như một căn bản thân thể vật lý cho một chúng sinh sống với sự sống của nó. Điều này quả là vượt xa hơn Darwin!

                Điều này không nói rằng một máy điện toán là một tâm thức. Nó không nói rằng chúng ta có thể tạo nên một tâm thức nhân tạo trong một máy điện toán. Tuy nhiên, nếu một máy điện toán phức tạp đúng mức, một dòng suối tâm thức có thể nối kết với nó và nhận nó như căn bản vật lý hay thân thể.

                Tư tưởng tiếp cận xa xôi như thế làm cho con người của kỷ nguyên hiện đại thích thú và hấp dẫn với Đạo Phật. Người Phật tử mạnh dạn và sẳn sàng tiến vào những thảo luận này với những nhà khoa học và để đối diện với những vấn đề phổ biến trong thế giới hiện đại. Phật giáo sống động và sôi nổi trong cung cách này. Đạo Phật không chỉ có tuệ trí cổ đại từ những sự trao truyền không đứt đoạn của Đức Phật, mà cũng đầy khí lực và đối diện với những vấn đề của hiện tại và tương lai.
                #8
                  tueuyen 28.03.2010 10:14:18 (permalink)
                  0
                  10 – HỎI: Điều gì xãy ra đến dòng suối tâm khi một người trở thành một vị Phật?

                  ĐÁP: Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng tôi phải trả lời rằng Đức Phật dạy cho nhiều người. Không phải mọi người đều giống nhau. Chúng ta có những thiên hướng và khả năng khác nhau. Đức Phật thiện xảo vô vàn và ban cho những giáo huấn đa dạng vì thế mỗi người có thể tìm thấy một sự tiếp cận thích ứng cho đặc trưng hay khuynh hướng của người ấy. Do thế, những truyền thống quan trọng của giáo lý Đạo Phật là Tiểu thừa cho những hành giả có đầu óc bình thường và Đại thừa cho những hành giả có đầu óc rộng rãi. Trong mười tám bộ phái Phật giáo Tiểu thừa hiện hữu trong thời xưa, Thượng tọa bộ hay Theravada là bộ phái duy nhất còn hiện diện đến ngày nay.

                  Nếu Đức Phật muốn nói đến ai đấy, người bình thường trong sự cảm hứng và mục tiêu, rằng dòng suối tâm của mọi người tồn tại mãi mãi, người ấy có thể trở nên mất can đảm. Một số người bị tràn ngập với những vấn đề rắc rối của chính họ, và vì thế, đối với họ Đức Phật nói, “Con có thể xa rời những vấn đề rắc rối của con, trở thành một vị giải thoát – một bậc a la hớn – và đạt đến niết bàn. Khi con lìa đời con thể chứng bát niết nàn (parinirvana). Vào lúc ấy, dòng suối tâm của con chấm dứt, giống như một cây nến vụt tắt khi dòng sáp của nó cạn tận.” Đối với người ấy, một giải thích như thế sẽ là lời cổ vũ rất mạnh mẽ, đối với người nguyện ước thoát ly khỏi vòng tuần hoàn tái diễn liên tục của những rắc rối và tái sinh, và không phải bị quấy rầy nữa. Do vậy, nó có hiệu lực với loại người ấy. Tuy nhiên, nên chú ý rằng, Đức Phật không dạy rằng cuối cùng, tất cả những dòng suối tâm trở thành một như những dòng suối nước hòa hiệp trong đại dương. Đấy là sự giải thích của Ấn Độ giáo.

                  Đối với người có đầu óc rộng rãi hơn, Đức Phật sẽ nói, “Ta đưa ra lời giải thích trước để làm lợi ích cho những ai bình thường. Tuy thế, nhưng không có nghĩa rằng những gì ta giải thích thật là như vậy bởi vì, thực tế, dòng suối tâm sẽ tiếp diễn mãi mãi. Sau khi con đã loại bỏ những vấn đề rắc rối của con và thể chứng niết bàn, phẩm chất của tâm con thay đổi. Tâm con không tiếp tục trong hình thức rắc rối giống như trước đây.” Vì vậy, đến những người có khuynh hướng tâm tư rộng lớn để đạt đến giác ngộ, Đức Phật giải thích rằng thực tế dòng suối tâm tồn tại mãi mãi – không có bắt đầu, không có chấm dứt (vô thủy, vô chung). Khi những bậc giác ngộ rời thân thể hiện tại, dòng suối tâm của các ngài vẫn tiếp tục.

                  Có một sự khác nhau giữa những vị a la hớn, những vị giải thoát, đạt đến niết bàn, và những Đức Phật, bậc hoàn toàn giác ngộ. Trong khi a la hớn tự do với những rắc rối của họ, khổ đau và nguyên nhân của nó; những Đức Phật đã vượt thắng tất cả những sự giới hạn và thể chứng tất cả những khả năng nhằm để lợi ích mọi người trong những phương tiện hiệu quả nhất.
                  #9
                    tueuyen 28.03.2010 10:17:04 (permalink)
                    0
                    11 – HỎI: Có phải thể trạng niết bàn là thường trú? Khi chúng ta đạt đến giác ngộ, chúng ta đạt được một thể trạng bình đẳng của xả, là điều không phải vui cũng chăng phải buồn. Điều ấy đúng hơn không phải là vô tri vô giác hay chậm hiểu chứ?

                    ĐÁP: Chúng ta phải cần thận về việc chúng ta dùng từ ngữ thường trụ (permanent) như thế nào. Đôi khi nó có nghĩa là tĩnh lặng hay chẳng bao giờ thay đổi. Một ý nghĩa khác của thường trụ (permanent) là tồn tại mãi mãi. Khi chúng ta thể chứng niết bàn, chúng ta xa lìa tất cả mọi vấn đề rắc rối của chúng ta. Thể trạng ấy tồn tại mãi mãi – một khi những rắc rối đã biến đi, chúng đi luôn vĩnh viễn và không trở lại; thể trạng sẽ luôn luôn là như thế. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ nên hiểu với ý tưởng rằng niết bàn là thường trụ vì thế nó vững chắc và cụ thể và chúng ta không phải làm gì trong ấy. Nó cũng không phải thế. Khi chúng ta thể chứng niết bàn, chúng ta có thể tiếp tục hổ trợ người khác và hoạt động mọi thứ. Niết bàn là không thường trụ trong ý nghĩa tất cả mọi hành vi ngừng dứt và không có bất cứ điều gì xãy ra. Chúng ta phải hơi chính xác hơn về việc sử dụng từ ngữ thường trụ (permanent) và phải cảnh giác về ý nghĩa rộng rãi của nó. Thể trạng của niết bàn tự nó không thay đổi; nó tồn tại mãi mãi. Tuy nhiên, cá nhân thể chứng thể trạng như thế tiếp tục hành hoạt.

                    “Bình đẳng tính” (equanimity) cũng có vài ý nghĩa rộng rãi là thư thái hay xả. Nó có thể có nghĩa là một cảm giác trung tính của sự thể hiện không vui cũng không buồn, nhưng đấy không phải là điều chư Phật trãi qua. Một số chư thiên tầng cao miệt mài sâu trong những tầng thiền định vượt ngoài những cảm giác vui hay buồn; họ kinh nghiệm một cảm giác hoàn toàn trung tính trong những sự nhập định này. Đức Phật cũng từ bỏ những cảm giác như thế, vì chúng liên quan đến mê muội. Khi chúng ta xa lìa tất cả những rắc rối và những giới hạn, chúng ta phóng ra một khối năng lượng to lớn mà trước đây nó kết chặc với những chứng rối loạn thần kinh, băn khoăn và lo lắng. Chúng ta kinh nghiệm sự giải thoát tất cả năng lượng không kết hợp với bất cứ sự mê mờ nào đấy là như sự đại an lạc. Điều này là hoàn toàn khác biệt với niềm hạnh phúc thông thường phối kết với mê muội hay si ám, và nó khác biệt hẳn với trung tính hay tối dạ hay vô tri giác.

                    Một cách sử dụng khác của từ ngữ ‘bình đẳng’ (equanimity) liên hệ với chư Phật có lòng bình đẳng đối với mọi người. Ở đây ‘bình đẳng’ không có nghĩa là dửng dưng, mà có một thái độ bình đẳng quan tâm chăm sóc đối với tất cả. Chư Phật không thương mến số người này và quên lãng số người nọ.


                    --***--
                    Basic Questions on Karma and Rebirth
                    Singapore, August 10, 1988

                    Revised excerpt from
                    Berzin, Alexander and Chodron, Thubten. Glimpse of Reality.
                    Singapore: Amitabha Buddhist Centre, 1999.
                    TUỆ UYỂN
                    Ngày 16-03-2010
                    http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/general_introductory_material/basic_question_karma_rebirth.html
                    #10
                      tueuyen 06.04.2010 04:36:31 (permalink)
                      0
                      NGHIỆP BÁO:
                      Giới Thiệu Tổng Quát

                      Tác giả: Alexander Berzin
                      Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 15/03/2010

                      ---

                      1 – BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ TRONG NGÔN NGỮ HẰNG NGÀY

                      Chúng tôi rất vui mừng hiện diện nơi đây một lần nữa tại Xalapa, và chủ đề mà tôi đã từng được yêu cầu để nói tối nay là nghiệp báo. Dĩ nhiên, khi chúng ta nghiên cứu về một chủ đề nào đấy trong Phật giáo, điều quan trọng để có một ý tưởng nào đấy về việc tại sao chúng ta muốn tìm hiểu về nó, điều quan trọng của nó là gì, và tại sao nó phù hợp trong toàn bộ phạm vi của Phật giáo. Một cách căn bản Đức Phật nói về kinh nghiệm của mỗi người, những điều chúng ta kinh nghiệm trong đời sống, những gì sẽ xãy ra. Nền tảng căn bản quan trọng nhất của điều mà tất cả chúng ta kinh nghiệm, mọi người kinh nghiệm là gì? Đôi khi chúng ta buồn rầu, và thỉnh thoảng chúng ta vui vẻ. Đây là cung cách mà kinh nghiệm chúng ta trãi qua trong đời sống của chúng ta, có phải không?

                      Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy. Khi chúng ta không vui, rõ ràng, đó là khổ não. Không ai thích u sầu, có phải thế không? Chúng ta có thể không vui trong việc nhìn thấy mọi việc, giống như một người bạn đi xa, hay nghe về những việc, những ngôn ngữ khó chịu, và chúng ta cũng có thể không vui khi nghĩ về nhiều việc khác nhau với nhiều loại cảm xúc khác nhau. Nhưng thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy không vui và dường như không có bất cứ một liên hệ với bất cứ những gì chúng ta thật sự nghe và thấy, hay những gì đang xãy ra chung quanh chúng ta. Đây là một vấn đề, có phải không?

                      Nhưng về niềm vui thì thế nào? Đôi khi chúng ta cảm thấy vui vẻ, có phải không? Chúng ta cảm thấy vui nghĩ về điều gì đấy, như nhớ lại một thời điểm tuyệt vời mà chúng ta có với ai đấy. Nhưng khi chúng ta nhìn sâu xa hơn, chúng ta thấy rằng niềm vui này mà chúng ta trãi qua có một vài vấn đề liên hệ với nó. Trước tiên nhất, nó không bao giờ kéo dài, và chúng ta không biết nó sẽ kéo dài bao lâu. Và dường như nó chẳng bao giờ đủ. Chúng ta có thể vui khi ăn một muỗng thức ăn, nhưng điều ấy không đủ - chúng ta muốn ăn thêm và thêm và ăn thêm nữa. Thật sự, đấy là một câu hỏi rất thú vị - khối lượng là bao nhiêu của vật gì đấy mà chúng ta phải ăn nhằm đề thật sự hưởng thụ một cách thích thú với nó? Hãy nghĩ về điều ấy là vấn đề đầu tiên. Một điều sai lầm khác, một thoáng khác của niềm vui này là chúng ta không biết điều gì sẽ xãy ra tiếp theo. Chúng ta có thể tiếp tục vui trong giây phút tiếp theo, hay chúng ta có thể buồn. Nó có thể thay đổi, vì thế không có gì bảo đảm trong niềm vui này.

                      Thật sự đối với Phật giáo loại quán chiếu hay phân tích này vào trong niềm vui và nổi buồn không phải là điều gì đặc biệt; nhiều đại tư tưởng gia trên thế giới đã từng quán chiếu điều này và giảng dạy về điều này. Nhưng những gì Đức Phật dạy, những gì Đức Phật thấu hiểu là sâu xa hơn về vấn đề này hay khổ đau. Ngài nhìn một cách sâu sắc hơn vào sự thăng trầm trong hoàn cảnh đời sống của mỗi người, và những gì Ngài thấu hiểu là nguyên nhân cho niềm vui ấy thật sự là bộ phận của mỗi thời khắc mà kinh nghiệm của chúng ta trãi qua. Nói cách khác, cung cách mà chúng ta kinh nghiệm mọi việc với sự lên và xuống của vui và buồn không ngừng đấy là hoàn cảnh không hài lòng.

                      Thế nên, sau đó, Đức Phật nhìn và thấy nguyên nhân nào ở tại đấy trong mỗi thời khắc và điều gì tiếp diễn liên tục trong hoàn cảnh không hài lòng này, và Ngài thấy rằng nó là sự mê mờ về thực tại, sự rối rắm về hiện thực, hay sự bất giác về hoàn cảnh. Nói cách khác, mê mờ về việc chúng ta hiện hữu như thế nào, mỗi người chung quanh chúng ta tồn tại như thế nào, về thế giới hiển hiện như thế nào.

                      Điều này là hoàn toàn khác biệt với những gì nhiều người khác đã từng nói. Thí dụ, một số những người khác đã từng nói, sự lên và xuống của vui và buồn mà kinh nghiệm chúng ta trãi qua một cách căn bản do bởi tưởng thưởng và trừng phạt: từ việc tuân thủ luật pháp hay từ việc không tuân theo luật lệ. Vấn đề căn bản cho việc cảm thấy vui vẻ hay buồn rầu là ‘vâng lời’, theo ý kiến của nhiều vị thầy. Nhưng Đức Phật nói rằng: không, không phải trường hợp ấy. Nguyên nhân thật sự của sự mê mờ của chúng ta, không là vấn đề của vâng lời hay không vâng lời; nó là sự biểu hiện mê mờ về đời sống. Sau đó, Đức Phật tiếp tục nói rằng sự mê mờ rối rắm ấy không nhất thiết là toàn bộ sự sống, của việc chúng ta nếm mùi hay kinh nghiệm mọi việc như thế nào. Nó không phải ở đó: nó là điều gì đấy mà có thể di chuyển được, và nó có thể cởi bỏ được một cách hoàn toàn, để nó không bao giờ trở lại. Rồi thì Ngài nói rằng cách thật sự để làm thế là hãy thay đổi cung cách kinh nghiệm mọi thứ của chúng ta.

                      Từ bỏ sự mê mờ ấy không phải là vấn đề yêu cầu người nào khác để tháo bỏ nó cho chúng ta, nhưng một cách căn bản đấy là vân đề thay đổi chính thái độ của chúng ta, sự thấu hiểu của chúng ta về thực tại. Nếu chúng ta có thể thay thế sự không hiểu biết với sự thông hiểu và sau đó sở hữu sự thông hiểu này trong mọi lúc, rồi thì chúng ta khám phá ra rằng chúng ta không có sự lên và xuống liên tục của vui và buồn này, và chúng ta không ghi nhớ mãi sự lên và xuống của vui và buồn. Vì thế, đấy là một giáo huấn vô cùng căn bản của Đức Phật, đặt nó vào trong chính ngôn ngữ hằng ngày.

                      #11
                        tueuyen 20.04.2010 09:47:57 (permalink)
                        0
                        2 – NGHIỆP BÁO ĐỐI DIỆN VỚI NHÂN QUẢ HÀNH TRẠNG

                        Khi chúng ta nói về nghiệp báo, nghiệp báo là giải thích căn bản của việc làm thế nào và tại sao những kinh nghiệm của vui và buồn của chúng ta lên và xuống – đấy là tất cả về nghiệp báo. Nói cách khác, chúng ta rối rắm hay mê mờ về việc sản sinh sự thăng trẩm vui buồn,kinh nghiệm dễ chịu và khó chịu như thế nào ? Nói cách khác, nó đối diện với nhân và quả, và nhân quả là một chủ đề vô cùng phức tạp. Như Đức Phật đã nói, một chậu nước không đổ đầy bởi giọt nước đầu tiên và nó cũng không phải được rót đầy bởi giọt nước cuối cùng; mà nó được làm đầy bởi sự tích lũy toàn bộ những giọt nước. Tương tự thế, những gì chúng ta kinh nghiệm trong đời sống là kết quả của không chỉ một nguyên nhân – nguyên nhân chỉ là một thứ mà chúng ta chỉ mới làm ngay lập tưc trước hiện tại hay những gì chúng ta đã làm hàng niên kỷ về trước. Nó là kết quả của một khối lượng khổng lồ của những nhân tố nguyên nhân và những điều kiện (nhân duyên).

                        Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của khoa học, bởi vì những gì đang nói là những sự kiện không xãy ra trong cô lập, mà thật sự mọi thứ liên kết với nhau. Chỉ dùng một thí dụ rất đơn giản, tất cả chúng ta không thể hiện diện nơi đây trong phòng này để nghe bài thuyết trình này nếu người Tây Ban Nha đã không đến Mỹ châu, có phải thế không? Đó chỉ là một nguyên nhân để chúng ta hiện diện ở đây. Giống như thế, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, trực tiếp và gián tiếp, chúng cống hiến đến điều mà chúng ta kinh nghiệm ngay bây giờ hay bất cứ thời khắc nào.

                        Tuy nhiên, nghiệp báo đang giải thích những nguyên nhân liên hệ một cách đặc biệt với tâm thức của chính chúng ta. Nhưng có nhiều nguyên nhân cung ứng đến những gì chúng ta kinh nghiệm hay trãi qua – nguyên nhân vật lý, thí dụ, thời tiết, và v.v… Nhiều thứ tác động chúng ta đang đến không chỉ từ tâm thức chính chúng ta, mà cũng từ tâm thức của những người khác. Hãy nói về những chính trị gia, những người quyết định những chính sách khác nhau mà chúng tác dộng đến chúng ta, và những điều ấy cũng có thể bị pha lẫn với sự mê mờ rối rắm nào đấy, có phải không?

                        Nghiệp báo không nói về niềm tin hay tín ngưỡng, nó không nói về định mệnh hay tiền định và những thứ như thế, mà đúng hơn nó nói về việc chúng ta kinh nghiệm mọi thứ như thế nào và thái độ chúng ta tác động như thế nào đến những gì chúng ta kinh nghiệm trong đời sống. Từ ngữ ‘karma’ hay ‘nghiệp báo’ hay nghiệp quả’được dùng trong một ý nghĩa rất phổ biến để liên hệ đến mọi thứ liên hệ ở đây trong thuật ngữ “nhân quả hành trạng’, (nhân thế nào sẽ cho ra quả thế nào); nói cách khác, sự liên hệ nhân quả đến từ thái độ và cung cách cư xử của chúng ta. “Nghiệp báo” có thể đang liên hệ đến toàn bộ chủ đề ‘nhân quả hành trạng’ trong tổng quát, hay nó có thể liên hệ một cách rất đặc biệt đến một khía cạnh của toàn bộ tiến trình ấy. Do vậy, nếu chúng ta muốn thấu hiểu cơ chế của nghiệp báo, chúng ta phải nhìn vào nó với một ít chính xác hơn, trong một chi tiết nào đấy.
                        #12
                          tueuyen 22.04.2010 06:02:12 (permalink)
                          0
                          3 – MỘT VÀI HỆ THỐNG GIẢI THÍCH NGHIỆP BÁO

                          Khi chúng ta bắt đầu nhìn vào những giải thích chính xác hơn trong Phật giáo, chúng ta khám phá một cách rất nhanh chóng rằng không phải chỉ có một giải thích. Một có người Tây phương thấy điều ấy hơi không thoãi mái. Như nếu chúng ta có một rắc rối hay một hoàn cảnh, chúng ta có thể giải thích trong một vài cách khác nhau, tùy theo quan điểm của chúng ta. Ở phương Tây chúng ta làm như thế, chúng ta có thể giải thích những việc từ quan điểm xã hội, từ quan niệm tâm lý, từ khái niệm kinh tế - điều ấy không có gì ngạc nhiên. Những sự giải thích đa dạng giúp chúng ta thấu hiểu trong một cung cách đầy đủ những gì đang tiếp diễn. Và mỗi cách giải thích về những gì đang diễn ra căn cứ trên một hệ thống nào đấy của tư tưởng – hệ thống của tâm lý học, hệ thống của chính trị học, kinh tế học và v.v… Chúng ta có đôi điều tương tự ở đây trong Phật giáo, và vì thế chúng thấy rằng có vài giải thích từ những hệ thống giáo lý triết học khác nhau về vấn đề nghiệp báo hoạt động như thế nào. Chúng ta cũng có điều ấy ở phương Tây ngay cả trong một hệ thống, như tâm lý học – có thể có có một sự giải thích từ quan điểm của phái Freudian, và sự giải thích theo quan niệm của phái Jungian; một người có thể giải thích mọi việc theo lối xã hội chủ nghĩa, hay trong cung cách tư bản. Chúng ta thấy điều ấy trong Phật giáo, và nó rất hữu ích, thật sự, hãy nhìn vào một vài hệ thống này, do vì chúng cho chúng ta những sự thấu hiểu khác nhau trong vấn đề nghiệp báo hoạt động như thế nào. Vì mục tiêu của chúng ta không cần thiết để đi vào những chi tiết về những sự khác nhau của những hệ thống, nhưng nó hữu ích để cảnh giác rằng có vài hệ thống.

                          Điều ấy dĩ nhiên có nghĩa, một cách ẩn tàng, rằng chúng ta cũng có những hệ thống Tây phương giải thích những gì đang xãy ra với những gì chúng ta đang kinh nghiêm hay đang trãi qua. Điều ấy không nhất thiết mâu thuẩn với những gì chúng ta nói với nghiệp báo.
                          #13
                            tueuyen 22.04.2010 19:42:54 (permalink)
                            0
                            4 – NGHIỆP BÁO NHƯ MỘT NHÂN TỐ TINH THẦN
                            CỦA MỘT SỰ THÔI THÚC

                            Khi chúng ta nói về nghiệp báo như một thứ đặc biệt, một vấn đề đặc thù, nghiệp báo tự nó đang liên hệ đến một nhân tố tinh thần – nếu chúng ta theo một hệ thống giải thích. Chúng ta muốn nói gì với “nhân tố tinh thần?” Một nhân tố tinh thần là một phương thức nhận biết về điều gì đấy. Hãy lấy một thí dụ: chúng ta thấy ai đấy và chúng ta bước tới họ. Có nhiều nhân tố tinh thần liên hệ ở đây trong kinh nghiệm ấy. Có nhiều khía cạnh khác nhau đối với việc chúng ta nhận biết về người này như thế nào. Một số rất căn bản, như phân biệt người này với ai đấy khác, và với bức tường. Thích thú – đấy là một cách thể hiện để nhận biết về con người và niềm thích thú ấy sẽ đi cùng để thấy họ. Tập trung có thể ở đấy, những cảm xúc khác nhau có thể ở đấy. Tất cả những thứ này là nhân tố tinh thần, và chúng tập họp với nhau trong thời khắc ấy để thấy người ấy và bước tới họ.

                            Nhân tố tinh thần nào là nghiệp báo? Nghiệp báo là nhân tố tinh thần đang đưa chúng ta đến người ấy; đấy là sự thúc đẩy sẽ đi theo để thấy người ấy và sau đó đi tới họ. Đấy là tại sao trong một số lý thuyết nghiệp báo được giải thích hầu như một năng lực vật lý. Dĩ nhiên có thể có những nhân tố tinh thần khác, như ý định. Chúng ta định làm gì với người này? Chúng ta có thể có ý muốn ôm họ hay chúng ta có ý định đấm vào mặt họ. Có nhiều nhân tố khác liên hệ, nhưng nghiệp báo đơn giản là nhân tố tinh thần thúc đẩy này đang đưa chúng ta vào hành động ôm hay đấm khi chúng ta thấy họ và khi chúng ta đang đi tới họ. Cũng thế, hãy nhớ rằng những sự thúc đẩy tinh thần không chỉ là những hành động vật lý chẳng hạn như ôm hay đấm. Cũng có thể có một sự thúc đẩy tinh thần mà chúng ta nghĩ về điều gì ấy; nó không chỉ trong dạng thức nói về điều gì ấy hay làm điều gì ấy một cách vật lý. Cho dù chúng ta đang nghĩ về điều gì đấy, cho dù chúng ta đang nói về điều gì đấy, cho dù chúng ta đang làm điều gì ấy – tất cả những thứ này liên hệ với một loại thúc đẩy tinh thần nào đấy.
                            #14
                              tueuyen 24.04.2010 07:03:41 (permalink)
                              0
                              5 – NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA THÁI ĐỘ NGHIỆP BÁO

                              Phật giáo, giống như khoa học, dạy rất nhiều trong những dạng thức nhân quả. Vì thế, nếu bị lèo lái bởi nghiệp báo – sự thúc đẩy này – chúng ta làm những việc, nói những điều, và suy nghĩ những thứ gì đấy, sau đó sẽ có một kết quả. Nghiệp báo không nói quá nhiều về ảnh hưởng của thái độ chúng ta đối với những người khác – mặc dù, dĩ nhiên, nó thật sự tác động trên những người khác. Đây là bởi vì, một cách thật sự, ảnh hưởng trên những người khác của những gì chúng ta thực hiện đối với họ là tùy trên người ấy, đến một sự phạm vi lớn. Một số ảnh hưởng trên người khác của những gì chúng ta thực hiện trên họ là qua những nhân tố vật lý mà thôi: bạn đấm ai đấy và làn da bị thâm tím. Đó chỉ là nhân quả vật lý thân thể; chúng ta không đang nói điều ấy với nghiệp báo. Nhưng ảnh hưởng có trên người kia trong những dạng thức họ trãi qua kinh nghiệm như thế nào đối với những gì chúng ta nói hay làm đối với họ, điều ấy tùy họ, có phải không? Chúng ta có thể nói điều gì đấy rất độc địa đến ai đấy, thí dụ thế, và cảm xúc mà họ nhận được có thể rất tổn thương; ho có thể rất khó chịu. Nhưng họ cũng có thể nghĩ rằng chúng ta hoàn toàn là những kẻ ngu ngơ ngốc nghếch, và vì thế họ không tin chúng ta và không tiếp nhận chúng ta một cách nghiêm chỉnh. Hay họ có thể không thậm chí không nghe chúng ta hay họ nghe chúng ta một cách sai lầm. Tâm tư họ có thể đã bị bận tâm với điều gì khác, thí dụ vậy. Do thế, thậm chí nếu chúng ta có những ý định dữ dội thật sự làm tổn thương cảm xúc của người ấy, không có gì bảo đảm rằng nó sẽ thật là gì – mặc dù rõ ràng giáo huấn Đạo Phật dạy rằng chúng ta cố gắng không làm tổn thương bất cứ ai. Nhưng điều ấy không liên hệ đến nghiệp báo ở đây.

                              Khi chúng ta nói về những kết quả nghiệp báo về điều gì ấy, nó là những kết quả nghiệp báo mà tự chúng ta sẽ nếm qua như một kết quả của hành vi trong sự đẩy mạnh này, một lối bắt buộc, với sự thôi thúc của nghiệp báo.

                              Những ảnh hưởng gì trong chính chúng ta? Một trong những ảnh hưởng – và điều này rất giống với những gì khoa học Tây phương nói – là chúng ta điều kiện hóa chính mình để suy nghĩ trong một cách nào đấy, nói một cách nào đấy, và hành động trong một cách nào đấy, vì thế nó bồi đắp một khuynh hướng để lập lại cung cách của thái độ ấy. Và như một kết quả của ý định ấy để lập lại cung cách của thái độ ấy và cũng là một khả năng để lập lại hành vi ấy- chúng ta cũng làm một sự khác biệt nào đấy giữa những khả năng và những khuynh hướng , mặc dù không nhất thiết để đi vào chi tiết về điều ấy – như một kết quả của chúng, chúng ta muốn lập lại hành vi kia.

                              Nó thật sự sản sinh ra điều gì, ý định kia hay khả năng nọ? Ý định sản sinh một cảm xúc – cảm giác muốn đi tới người ấy và ôm người ấy, thí dụ thế, hay cảm thấy muốn đi tới gần người nọ và nói một điều gì đấy bất tịnh. Và rồi thì, khi chúng ta cảm thấy muốn làm điều ấy, dĩ nhiên, chúng ta có sự lựa chọn thực hiện điều ấy hay không. Đấy là một điểm rất quan trọng, để nhận thấy rằng chúng ta có sự lựa chọn để thực hiện những gì chúng ta cảm thấy muốn hành động hay không. Nhưng nếu chúng ta quyết định rằng chúng ta sẽ làm việc ấy, hay nếu chúng ta ngay cả không quyết định sẽ làm điều ấy hay không, chúng ta chỉ thể hiện, thế thì cấp độ kế tiếp là nơi mà nghiệp báo biểu lộ. Nghiệp báo là sự thúc đẩy, sự lèo lái, sự cưỡng bách mà với nó chúng ta thật sự tiến hành việc ấy.

                              Trong trường hợp ấy, có nhiều thứ khác chín muồi từ những xu hướng này. Một thứ mà một cách căn bản cũng là nội dung của những gì chúng ta trãi qua hay kinh nghiệm. “Nội dung” (content) là một chữ hơi rộng; tôi nghĩ là chúng ta phải hơi rõ ràng hơn. Ở đây, thí dụ, điều phải làm là gặp gở người kia không gặp mặt người nọ. Nó cũng liên hệ cung cách mà người ta hành động đối với chúng ta. Chúng ta phải hết sức cẩn thận về việc chúng ta nói thế nào, nhằm để được chính xác hơn. Nghiệp lực của chúng ta không là nguyên nhân làm cho người kia la hét đến chúng ta – họ la hét với chúng ta như một kết quả của những khuynh hướng mà họ phải la hét đối với người ta. Nhưng nghiệp lực của chính chúng ta là chịu trách nhiệm để nếm mùi những người khác la hét đối với chúng ta.

                              Dĩ nhiên, điều ấy không phải là một vấn đề dễ dàng lắm để thấu hiểu, nhưng chúng ta nghĩ trong cung cách của việc tiếp cận một sự thấu hiểu về điều ấy với một thí dụ. Nếu một đứa bé đang mang những tấm tả và làm bẩn tấm tả, thế thì đứa bé phải sống trong hoàn cảnh; đứa bé phải sống với tình trạng bẩn thỉu mà nó làm ra. Hãy để qua một bên toàn bộ vấn đề là có ai đấy thay tả cho đứa bé, nhưng điểm ở đây là nếu bạn tạo nên một tình trạng bẩn thỉu, thì bạn phải nếm mùi hay lĩnh nhận nó hay phải trãi qua với sự bẩn thỉu ấy. Chúng ta tạo nên tình trạng hổn độn trong đời sống, và khi cuộc sống đi tới, chúng ta phải chịu càng nhiều lộn xộn bừa bộn hơn; một cách căn bản, nó hoạt động như thế. Một cách rõ ràng hơn, chúng ta hành động trong một cách nào đấy đối với những người khác, thì chúng ta sẽ lĩnh nhận hành vi của người khác trong một cung cách nào đấy đối với chúng ta. Nhưng một nguyên tắc khác rất quan trọng ở đây với nghiệp báo là điều này không hoạt động một cách lập tức. Chúng ta có thể nói với một cách rất thân ái và nhẹ nhàng đối với ai đấy, nhưng họ vẫn rất cuồng nộ, la lối đối với chúng ta với sân hận.

                              Điều này là tại sao phải thấu hiểu nghiệp báo một cách thật sự, chúng ta phải đem toàn bộ sự thảo luận về tái sinh, điều ấy phải cần một thời gian vô cùng lâu dài trước khi chúng sản sinh một ảnh hưởng, và chúng có thể không phát sinh một tác động trong đời sống hiện tại. Thực tế, hầu như chúng không bao giờ (có tác dụng trong hiện kiếp). Điều ấy thật không có gì khủng khiếp để chúng ta như những người Tây phương thừa nhận. Đối với một số người dường như Đạo Phật nói rằng, “Hãy hiền lương trong kiếp sống này và trong kiếp tới, bạn sẽ trãi qua những kết quả trên thiên đàng; nếu xấu xa và, kiếp sau, bạn sẽ phải nếm mùi những kết quả nơi địa ngục.”

                              Chúng ta phải thẩm tra điều này một cách thật sâu sát: Có phải Phật giáo nói cũng giống như thế, hay nó là khác? Đấy không phải là một chủ đề dễ dàng, nó là một đề mục rất phức tạp, bởi vì để thật sự hiểu về nhân quả nghiệp báo, chúng ta cần thấu hiểu tái sinh – khái niệm của Phật giáo về tái sinh, không phải quan điểm tái sinh phi Phật giáo. Ai liên lụy đến một nguyên nhân nghiệp báo và ai phải nếm mùi kết quả của nó? Có phải có một “cái tôi” được tưởng thưởng hay bị trừng phạt.

                              Nhưng hãy bỏ qua một bên vấn đề tái sinh và ai lĩnh nhận nó qua một bên, như chúng tôi đã đề cập lúc bắt đầu, Đạo Phật không nói về một hệ thống của thưởng phạt căn cứ trên sự vâng lời luật lệ. Phật giáo không nói về sự sống này là một loại thử thách hay kiểm nghiệm nào đấy, và chúng ta sẽ đón nhận những kết quả của kiểm nghiệm trong kiếp sống tới của chúng ta. Nó chỉ đơn giản nói rằng mọi thứ cần một thời gian dài để sản sinh tác động của chúng. Chúng ta có thể thấy điều ấy trong dạng thức của môi trường. Chúng ta hành động trong một cách nào đấy và nó sản sinh những ảnh hưởng trong đời sống của chúng ta, nhưng nó sẽ sinh sản những tác động ghê gớm nhiều hơn trong đời sống của những thế hệ tương lai. Nó là điều gì tương tự như thế.
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 24 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9