VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I )
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 10 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 136 bài trong đề mục
tamvanvov 19.07.2011 15:04:58 (permalink)
            Miên man tháng bảy


                                    Tạp văn
1.

Tôi chưa có một ngày quân ngũ. Viết về người lính và sự hy sinh của người lính trong chiến tranh với tôi thật khó. Cùng lứa tuổi với tôi, anh em họ hàng với tôi, bạn bè tôi, nhiều người đã nhập ngũ, và rất nhiều người trong số đó đã nằm lại rải rác khắp ngả chiến trường nam bắc, đông tây...
Cuối năm 1964, khi đó, chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc, ta thực hiện cuộc vận động giảm dân số ở thủ đô, gia đình tôi rời Hà Nội về quê Hưng Yên sinh sống. Ở quê, tôi học lớp một với lũ trẻ làng, toàn họ hàng gần, xa với nhau. So với tôi, một cậu bé còn từ thành phố về, đi đường sợ dẫm phải gai, sợ chó cắn, sợ bóng đêm, chúng khỏe mạnh và bạo dạn. Tuy cùng học, song tôi biết, chúng đều lớn hơn tôi một vài tuổi, bởi trẻ quê thường đi học muộn. Chúng tôi theo nhau lên đến hết cấp 2 ( hệ 10/10 ). Ấy là vào mùa hè năm 1972. Tốt nghiệp cấp 2 xong là một loạt con trai khám tuyển và nhập ngũ liền. Khi ấy chiến trường Nam Bắc đều thiếu quân cần người. Cùng lớp với tôi có đến dăm ba đứa, những Bỏng, Tác, Dự ... vào lính cùng một đợt, chúng đều họ hàng anh em với tôi cả. Trước đó, là mấy người chú họ tôi nhập ngũ. Tôi học cấp 3 ở trường sơ tán toàn phòng học tường đất lợp rạ. Rồi là 12 ngày đêm tháng Chạp 72 khói lửa chiến đấu và chiến thắng B52. Làng quê vừa mừng vui với việc Mỹ phải ký hiệp định ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, thì ngay đó, lần lượt nhận giấy báo tử. Mấy người chú họ, anh em họ tôi hy sinh gần hết, ở mặt trận Quảng Trị và phía Nam. Tôi đều đã có mặt trong lễ truy điệu mấy đứa bạn học tôi được tổ chức ngay tại sân đình làng. Không thể diễn tả nổi cảm xúc dâng trào khi ấy. Làng mạc lại chìm trong đau thương quặn thắt. Lác đác, vẫn có người lên đường nhập ngũ. Làng xóm cứ dần vắng bóng nam thanh niên, song một khi chiến trường vẫn đang khát người, thì không thể không có ai đó phải ra đi...
Đầu năm 1974, lần đầu tiên tôi tham gia khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Mắt tinh, tai thính, các cơ quan đoàn thể bình thường, chỉ mỗi cái nhẹ cân. Cân cả dép chỉ được có 37 kg. Anh cán bộ khám tuyển, bảo tôi “ Chú em thế này thì làm sao vác nổi ba lô, nói chi đến súng đạn. Thôi nhé, hẹn sang năm “. Đầu năm 1975, lại khám tuyển lần thứ hai, vẫn anh cán bộ huyện đội cũ . Anh nhận ra tôi, đùa “Ồ, năm nay nom phổng phao hơn. May ra đủ “. Nhưng khi nhìn cân, kim chỉ đúng con số 38, anh bảo : “ Chán quá, chú em. Chiến trường có cần người đến mấy thì cũng không thể gọi chú em được. Thôi không đi, thì ở nhà cố gắng mà học cho giỏi, vào đại học. Chiến thắng rồi thì cũng cần phải có người xây dựng đất nước chứ “. Tôi về nhà, gặp mẹ tôi đang quét lá cây ngoài cổng. Mẹ dừng tay chút rồi cúi người lặng lẽ quét lá. Tôi báo tin. Mẹ mới nhìn tôi đăm đăm, không nói gì. Tôi đọc được cái nhìn của mẹ. Mẹ yên lòng, có lẽ bởi tôi không phải xông pha nơi hòn tên mũi đạn; còn buồn, là bởi, bầu không khí sôi sục của cuộc chiến tranh chống Mỹ Nguỵ khi đó, như vậy, xem như nhà tôi chưa có đóng góp gì đáng kể, hơn thế, ở làng quê, với những gia đình có người thân nhập ngũ, hoặc hy sinh, thì mình giống như là người ngoài cuộc, như người có lỗi... Vâng, đúng là có lỗi. Ở hậu phương, tôi cũng đã thấy được sự hy sinh mất mát to lớn của chiến tranh; thấy được sự đau thương của những gia đình có người hy sinh nơi chiến trận; thấy những người thương binh nặng trở về với thân thể không còn nguyên vẹn; tôi cũng đã thấy cả sự ê chề của một số ít người đào ngũ về quê... Vâng, dù còn rất trẻ, nhưng tôi ý thức được những gì mình sẽ phải đối mặt một khi mình trở thành người lính trận, dù báo chí, phim ảnh lúc ấy chưa phản ánh đầy đủ...
Hẳn sẽ có người muốn biết cảm giác của chính tôi khi đó. Thật sự là, với những gì biết được sự tàn khốc của chiến tranh qua dư âm vọng về hậu phương, làng quê, tuy không còn bầu không khí hào hứng sôi sục chung của hồi đầu, mặc dù biết sẽ phải gian khổ hy sinh, song tôi sẵn sàng ra đi, sẵn sàng chấp nhận và đối mặt với nó,  nếu cuộc chiến chọn mình... như lớp lớp người đã ra đi, như cả dân tộc này đã nhập cuộc với sự quyết tâm quả cảm để giành chiến thắng!...
Sau này, nhiều khi tôi tự vấn, nếu ngày ấy mình đủ sức khỏe và nhập ngũ, thì không biết mình sẽ chiến đấu như thế nào, và số phận sau này mình sẽ ra sao ? Biết đâu, cũng nằm lại đâu đó nơi cánh rừng hay ven suối của Trường Sơn như biết bao người lính khác...
Ngay sau kỳ khám tuyển quân, tôi tham dự kỳ thi thi học sinh giỏi môn Văn và được gọi vào đội tuyển học sinh giỏi văn lớp 10 của Hải Hưng chuẩn bị kỳ thi học sinh giỏi toàn miền Bắc. Đây là kỳ thi học sinh giỏi cấp 3 cuối cùng của thời kỳ phân miền, trùng đúng vào thời gian Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam. Tôi và Trần Đăng Khoa, Trịnh Bá Ninh ( hiện là Phó Tổng biên tập báo Nông nghiệp Việt nam ), và Việt An cùng đội tuyển với nhau, luyện thi mấy tháng tại Trường cấp 3 Hồng Quang ( thị xã Hải Dương ). Sau cuộc thi, ngày 15 tháng 4 năm 1975, chúng tôi chia tay nhau ai về trường nấy. Trần Đăng Khoa xung phong và đủ sức khỏe nhập ngũ ngay trước kỳ thi tốt nghiệp phổ thông; và như thế, có thể nói, anh là một trong những người lính cuối cùng nhập ngũ của cuộc chiến tranh chống Mỹ Nguỵ. Cũng nhờ là lính, mà sau này, Trần Đăng Khoa mới có Đảo Chìm và chùm thơ hay về chiến tranh biên giới Tây Nam, về Trường Sa và những người lính biển...
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.07.2011 15:06:09 bởi tamvanvov >
#16
    tamvanvov 25.07.2011 15:46:01 (permalink)
    Miên man tháng bảy ( II )
    2.
    Vào dịp kỷ niệm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 2009, có một sự kiện đáng nhớ, đó là Lễ kỷ niệm 50 năm mở đường Trường Sơn huyền thoại tại Quảng Bình. Đường dây 559 ( Đoàn 559 ) của cuộc chiến tranh chống Mỹ Ngụy đã nổi tiếng đến mức đã trở thành huyền thoại. Nhiều thế hệ chúng ta còn nhớ, nhằm thiết lập tuyến chi viện miền Bắc cho miền Nam, Bộ Chính trị đã quyết định cho thành lập Đường dây 559 vào đúng ngày sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh ( 19/5/1959 ). Con đường máu lửa, con đường huyền thoại ấy không chỉ mang một sức sống mãnh liệt trong suốt cuộc chiến tranh mà đi vào sử sách để sống mãi với mai sau ...

    Văn phòng VOV Miền Trung chúng tôi được giao nhiệm vụ phản ánh mọi hoạt động kỷ niệm, đặc biệt là tổ chức tường thuật trực tiếp Lễ kỷ niệm chính thức được diễn ra vào ngày 16/5/2009 tại Đường 20 Quyết thắng, thuộc địa phận Bố Trạch, Quảng Bình. Tôi trực Văn phòng cơ quan tại Đà Nẵng, công việc tường thuật được giao cho kíp phóng viên, kỹ thuật viên do một Phó Giám đốc cơ quan phụ trách ra Quảng Bính. Tại đây, kíp thực hiện tường thuật được sự hỗ trợ từ đồng nghiệp ở Đài Phát thanh &Truyền hình Quảng Bình, rồi từ VOV Hà Nội vào. Trước hôm tường thuật, kíp PV-KTV chuẩn bị địa điểm, kỹ thuật đường truyền, có tranh thủ thời gian đến viếng thăm Hang Tám Cô nằm trên đường 20 Quyết thắng thuộc địa phận Khu bảo tồn Phong Nhà Kẻ Bàng ( huyện Bố Trạch ). Lễ kỷ niệm diễn ra trang trọng và hết sức cảm động, được VTV và VOV cùng tường thuật trực tiếp. Nhờ thế mà người dân cả nước được hiểu rõ thêm về đường Trường Sơn huyền thoại.

    Chỉ ít ngày sau buổi lễ ấy, cuối tháng 5/2009, VOV Miền Trung phối hợp với Đài Phát thanh & Truyền hình Quảng Bình tổ chức Hội nghị cộng tác viên ( CTV ) trong 9 tỉnh khu vực ( từ Quảng Bình đến Khánh Hòa ). Hơn một trăm các CTV là PV thuộc các Đài PT&TH và một số báo trong khu vực, rồi đại biểu từ VOV Hà Nội tập trung về thành phố Đồng Hới. Bên lề Hội nghị, và hội thảo nghiệp vụ, VOV Miền Trung tổ chức mấy chuyến dã ngoại. Qua lời kể và đề nghị của kíp tường thuật trước, chúng tôi quyết định tổ chức cho cả đoàn đi thăm viếng Tượng đài TPXP, di tích Hang Tám Cô, bến phà Xuân Sơn anh hùng trên dòng sông Son và động Phong Nha...
    Sau khi thăm Tượng đài TNXP nằm kề bên Đường Trường Sơn công nghiệp, Đoàn họ hàng nhà VOV chúng tôi cắt rừng Phong Nha Kẻ Bàng để đến Đường 20 Quyết thắng, thăm viếng Hang Tám Cô. Dọc đường, câu chuyện bi tráng về Hang Tám Cô mà tôi được biết qua báo chí lâu nay hiện lên theo trí tưởng của mình. Hẳn là, sau khi chiến tranh kết thúc, mọi người hân hoan với niềm vui chiến thắng, và liền đó là sự hối hả tất bật của công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, kiến thiết đất nước, nên cái sự kiện bi phẫn xảy ra tại Hang Tám Cô vào ngày 14/11/1972 ấy cũng nhanh chóng bị khỏa lấp bởi thời gian, như cây rừng nhanh chóng xanh trở lại đặng khỏa lấp những hố bom đạn ngày nào. Có chăng, nó chỉ hằn sâu trong tâm khảm của những người trong cuộc, ấy là những đồng đội của họ, ấy là những người lái xe, những người lính Trường Sơn qua lại cung đường ngày đó, ấy là những thân nhân và bạn bè họ...
    Song như một quy luật của cuộc sống, những gì thuộc về sự bi tráng và thiêng liêng thì luôn bất tử. Và rồi, sự kiện ở Hang Tám Cô bùng sống lại, khi Bộ LĐ-TB&XH và tỉnh Quảng Bình quyết định mở cửa hang, làm công tác quy tập hài cốt liệt sĩ. Cả nước xôn xao, và Hang Tám Cô nhanh chóng trở thành huyền thoại, như huyền thoại về những chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị, như huyền thoại về những cô gái TNXP Ngã ba Đồng Lộc, và biết bao huyền thoại khác từ chiến tranh sống giữa đời thường hôm nay ...
    Đi trong rừng, miên man suy nghĩ. Dòng người, dòng người nối nhau vào ra. Nghe đâu đó người ta rì rầm kể cho nhau về sự linh thiêng của các cô, cả chuyện các cô đã từng “quở” người này kẻ nọ khi thăm viếng chốn này với thái độ thiếu nghiêm túc mà nói những câu bông đùa không phải... Cụm di tích Hang Tám Cô hiện ra trong nghi ngút khói hương, đền thờ trên cao, lối mòn men sườn núi dẫn đến cửa hang. Đoàn chúng tôi chỉnh đốn hàng ngũ, lặng lẽ xếp vòng trước sân đền nghe người hướng dẫn giới thiệu vắn tắt sự tích, rồi lần lượt dâng hương. Theo đường mòn đến hang. Cửa hang hút sâu, ít nhiều bị cây lá và cỏ gianh che khuất. Ai đó cắm cả bó hoa cúc vàng vào kẽ đá đặng thắp hương. Bên ngoài là tấm bia ghi lại sự kiện ngày 14/11/1972 và xa hơn một chút là cây Rao Ráng cao lớn, nơi mà ngày trước các cô treo chiếc kẻng từ mảnh bom để gõ báo động mỗi khi máy bay địch đến oanh tạc. Tôi nhẩm đọc danh sách ghi trên tấm bia, thấy tên 4 nữ, 4 nam. Mang chút thắc mắc, tôi hỏi một đồng nghiệp ở Quảng Bình. Người đồng nghiệp này bảo, theo anh biết, thì nơi đây, ngày ấy, có một tiểu đội nữ TNXP đóng chốt, chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ đoạn đường 20 và hướng dẫn xe qua... Số lượng cụ thể bao nhiêu chẳng rõ, bởi lúc thêm lúc bớt người vì điều động đi chốt khác, vì bị thương hay hy sinh gì đó, song có thời điểm, có tới 8 nữ TNXP đóng ở đây. Đường 20 cách xa hơn một chút phía dưới, vách đá và hang động này là nơi họ dựng lán trại sinh hoạt hàng ngày, và còn là nơi mọi người trú ẩn tránh bom đạn máy bay hoặc khi trời mưa to gió lớn. Vì vậy, nên không hiểu, hồi đó, chính dân TNXP hay cánh lính xế qua lại dặt tên là Hang Tám Cô. Ngay chính cái ngày 14/11 ấy, cũng có vài người trong số họ ra mặt đường 20 làm nhiệm vụ, chỉ 4 cô ở lại đấy, đón tiếp khách quý là 4 chàng lính lái xe đồng hương Thanh Hóa đến thăm. Rồi máy bay ập đến, rồi bom như trút, rồi đá lở đất nhào dẫn đến việc tảng đá khổng lồ lăn xuống bịt kín chặt cửa hang mà 8 người đang trú ở trong... Chẳng rõ mức độ chính xác ra sao, song nghe vậy biết vậy...
    Đông người, mà bầu không khí tĩnh lặng lạ thường. Không một ai nói to, chỉ thấy rì rầm tiếng người, tiếng gió trong xanh rì cây lá, bảng lảng khói hương sương núi, rưng rưng cả bầu không ! ... Ai cũng trầm mặc suy tưởng với nỗi niềm của riêng mình, song hẳn thâm tâm mọi người đều hướng đến cõi tâm linh-hương hồn các liệt sĩ bất diệt, và cầu mong cho một cuộc sống yên hàn, tốt lành hiện tại !...
    Rời di tích Hang Tám Cô, đoàn VOV chúng tôi hướng đến bến phà Xuân Sơn anh hùng của thời chiến tranh. Dòng sông Son bây giờ tàu thuyền tấp nập từ mờ sáng đến tối, quanh năm suốt tháng đưa đón khách du lịch đi thăm động Phong Nha, khác hẳn với sự tàn khốc khi xưa, nơi các chuyến phà phải tranh thủ từng giây từng phút giữa hai đợt oanh tạc của máy bay để đưa quân và vũ khí qua sông vào chiến trường miền Nam. Trong dòng người đợi thuyền trên bến, tôi để ý thấy một người đàn ông đứng tuổi, vóc dáng và nét mặt khắc khổ, mái tóc bạc quá nửa. Anh tách ra khỏi chỗ đông đi ngược lên phía trên một chút, lặng ngắm dòng sông. Tôi lặng lẽ theo đến bên anh, nói bâng quơ: “ Nghe nói hồi chiến tranh bến phà này bị bắn phá ác liệt lắm. “. Anh ngoảnh nhìn tôi chia sẻ, rồi nói như nói với mình : “ Ừ. Bom đạn khủng khiếp... Tôi là lính, ngày ấy đã từng qua bến phà này mấy bận... Sống chết chỉ trong gang tấc...”. Như gợi đúng nỗi lòng, anh kể thêm về sự ác liệt của bến phà và con đường 20 ngày đó... Anh bảo, đoàn CCB địa phương anh cũng vừa thăm viếng Tượng đài TNXP và di tích Hang Tám Cô, giờ đi thăm động Phong Nha. Tôi hỏi anh đã đến Phong Nha mấy lần rồi. Anh bảo, đây là lần đầu, ngày trước qua lại đây nhiều song chỉ nhăm nhăm việc tránh bom mà đi, chứ có lúc nào thảnh thơi, có lúc nào ngửa mặt lên mà ngắm trời đất phong cảnh đâu, nói chi là thăm động Phong Nha. Ừ nhỉ. Để có chút thảnh thơi đi thăm thú non xanh nước biếc ngay trên chính đất nước mình bây giờ, có nhiều người đã đi mải miết gần cả cuộc đời để đấu tranh và gìn giữ; thậm chí, có biết bao người không còn có cơ hội nhìn ngắm ngày hôm nay, bởi đã ngã xuống nửa chừng !...
    Chúng tôi chào nhau, xuống thuyền theo đoàn của mình. Dòng sông Son nước trong, cảnh sắc đôi bờ làng mạc bình dị, thật thư thái, thanh bình. Cửa động Phong Nha đã hiện ra kia rồi...
    ( còn nữa )
    #17
      tamvanvov 27.07.2011 10:01:43 (permalink)
      Miên man tháng bảy ( III )

       
      3.
      Đầu tháng 7 năm 2010, khi ấy tôi không còn phụ trách VOV Miền Trung nữa, mà đã ra VP VOV Hà Nội. Việc tổ chức Hội nghị cộng tác viên hàng năm đã trở thành thường xuyên, thành thương hiệu của VOV MT trong họ hàng nhà VOV chúng tôi. Năm trước, chúng tôi tổ chức ở Đồng Hới ( Quảng Bình ) nên mới có dịp để mọi người đi thăm viếng Tượng đài TNXP và Di tích Hang Tám Cô. Năm 2010, VOV MT phối hợp với Đài PT&TH Quảng Trị tổ chức hội nghị tại Tp. Đông Hà. Bên lề hội nghị, Đoàn họ hàng nhà VOV đông tới khoảng 150 người đi dã ngoại, thăm viếng Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn, thăm di tích Khe Sanh và Đường Chín.
      Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn, một công trình kiến trúc tâm linh, biểu tượng của sự đền ơn đáp nghĩa, với tổng diện tích 140 nghìn mét vuông, quy tập hơn 10 nghìn mộ chí, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh, kề bên đường 15, cách Đông Hà gần 40 km. Sau khi hoàn thành vào năm 1977, Nghĩa trang Trường Sơn không chỉ mang ý nghĩa đạo lý đền ơn đáp nghĩa của dân tộc, để các gia đình thân nhân liệt sĩ nằm lại nơi đây đến viếng, mà còn là điểm du lịch tâm linh, thu hút các cá nhân, tổ chức, trường học trong và ngoài nước tìm đến viếng thăm, giáo dục truyền thống, nhất là mỗi dịp ngày Thương binh liệt sĩ 27/7 hằng năm...
      Sau hội nghị, tôi cùng một số cán bộ, đồng nghiệp VOV vào Huế, theo lời mời của Lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, tham dự Lễ cầu siêu cho các hương hồn liệt sỹ cách mạng hy sinh ở Khu biệt giam Chín Hầm từ thời chính quyền Ngô Đình Diệm. Từng biết đến Địa ngục trần gian Chín Hầm nhiều qua sách báo, phim ảnh, đây là lần đầu tiên tôi đặt chân đến khu dich tích lịch sử này.

      Vắn tắt về di tích Chín Hầm. 08 căn hầm và 01 nhà gác ở đây được thực dân Pháp xây dựng từ năm 1941, làm kho chứa vũ khí đạn dược cho chúng trong chiến tranh thế giới thứ 2. Đến năm 1954, Ngô Đình Cẩn, bạo chúa miền Trung, đã biến chúng thành khu biệt giam, đặng giam cầm những chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước khác đấu tranh hoặc có thái độ chống đối chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm. Với diện tích và kết cấu, tường bê tông dày 40 phân, căn hẹp nhất 41 m2, căn rộng nhất 82 m2, hầu hết được chia thành 2 dãy xà lim hết sức chật hẹp. Cách thức đầy đọa hạ các tù nhân được Ngô Đình Cẩn và đám thủ hạ nghĩ ra đủ trò, miễn sao để tra tấn về về thể xác hòng nung lạc tinh thần các chiến sỹ cách mạng.
      Trước hôm tổ chức lễ cầu siêu, Huế mưa xối xả từ sớm. Mưa từ Quảng Trị mưa vào, mưa từ Hải Vân mưa ra. Rồi mưa tầm tã cả chiều và đến đêm vẫn còn rả rích. Tôi đã biết thế nào là mưa Huế, song từ cửa sổ phòng khách sạn bên bờ sông Hương, ngó ra mặt sông, thấy đôi ba con thuyền vẫn sáng đèn lầm lũi trong màn mưa phục vụ du khách, thấp thoáng mặt sông những ngọn hoa đăng thả trôi chập chờn sáng rồi nhanh chóng tắt lụi vì mưa, nghe vang vọng giọng ca Huế buồn buồn, mới càng thấm cái thần tình câu thơ tả mưa Huế của nhà thơ Tố Hữu ngày trước “ Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên “...
      Sáng hôm sau, trời hửng, tuy chưa có nắng song báo hiệu một ngày thời tiết đẹp, phù hợp cho một buổi hành lễ. Chúng tôi đến khu Chín Hầm, thuộc địa phận làng An Cựu, xã Thủy An, ngay dưới chân núi Thiên Thai, cách trung tâm thành phố Huế không xa. Khu Chín Hầm, cùng với ngôi biệt thự của Ngô Đình Cẩn cũ cách đó chừng cây số, từ năm 1993 đã được xếp hạng Di tích lịch sử. Lễ cầu siêu được các nhà sư từ các chùa của Huế tiến hành từ sớm. Sau lễ cầu siêu mang nghi thức Phật giáo, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức Lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh tại Chín Hầm. Buổi lễ diễn ra trang nghiêm và xúc động. Đặc biệt, cảm động và bất ngờ, đó là sự xuất hiện và đăng đàn của ông Nguyễn Minh Vân, một nhân chứng sống về sự dã man thâm độc của Ngô Đình Cẩn đối với tù nhân cộng sản tại Chín Hầm. Ông tên thật là Nguyễn Đình Quảng, là con trai của cụ Phó bảng Nguyễn Đình Hiến, người Quảng Nam, nguyên là đại tá tình báo của ta, từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt và giam 2 năm ở địa ngục trần gian Chín Hầm ( từ 11/1961 – 11/1963 ). Trong những ngày bị giam cầm, hành hạ tại ngục số 8, ông đã sáng tác và thuộc lòng 3 nghìn câu thơ, diễn tả sự dã man của bạo chúa Ngô Đình Cẩn và tay chân, sức chịu đựng đau đớn về thể xác và tinh thần bất khuất của các tù nhân cộng sản khi bị chúng tra khảo cực hình tại đây... Sau này, khi được thoát ra khỏi Chín Hầm, những câu thơ ông sáng tác đã được lưu giữ, chuyển ra miền Bắc và năm 1973, được xuất bản thành truyện thơ “ Sống trong mồ “ mang bút danh Trần Dân Trung, rồi được dịch ra nhiều thứ tiếng Âu Mỹ, đã gây tiếng vang trên thế giới, có sức tố cáo mãnh liệt tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm...
      Tuy tuổi đã cao, sức đã yếu, song ông rất minh mẫn. Với giọng trầm lắng, rõ ràng, ông chậm rãi kể về những gì ông và đồng chí của mình đã trải qua, khi bị chúng đọa đầy... Rồi ông đọc một vài khúc trong tác phẩm “ Sống trong mồ “ của mình. Mọi người lặng đi vì xúc động. Người ông như lút đi trong không gian hương hoa. Chỉ còn những âm thanh lay động lòng người như vừa thoát ra khỏi những hầm mồ bức bối vút lên và lan tỏa khắp vòm trời !...

      #18
        tamvanvov 23.08.2011 09:24:53 (permalink)
        Miên man tháng bảy ( IV )

        4.

        Cho đến thời điểm này, Tượng Đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng, đang được gấp rút thi công, tại địa điểm Núi Cấm, xã Tam Phú, Tp. Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Tượng đài có chiều cao 18.5m, dài 85m ( chiều dài theo đường cong là 117m ), và bề dày chỗ rộng nhất là 24m, bằng chất liệu sa thạch, theo mẫu thiết kế của KTS-Họa sĩ Đinh Gia Thắng. Bên trong khối tượng rỗng, được thiết kế thành Nhà tưởng niệm Mẹ VNAH, có bia ghi danh gần 50 nghìn Mẹ VNAH trong cả nước với lời giới thiệu, hình ảnh về cuộc đời và sự cống hiến của các mẹ cho đất nước. Không gian Tượng đài, còn có hồ nước, thảm cỏ, thảm hoa, cùng với những trang trí họa tiết thể hiện sắc thái của 54 dân tộc VN; đặc biệt, có 08 trụ huyền thoại ( 08 biểu tượng về Mẹ Bắc bộ, Mẹ Tây nguyên, mẹ Nam bộ, nữ TNXP Trường Sơn, những cô gái ngã ba Đồng Lộc, huyền thoại về lời ru xủa Mẹ, huyền thoại về suối nguồn .)...
        Để thành vóc dáng Tượng đài Mẹ VNAH ( lấy nguyên mẫu Mẹ VNAH Nguyễn Thị Thứ ở Điện Bàn, Quảng Nam ) như ngày hôm nay, nhiều người hẳn còn nhớ, Đài TNVN ( VOV ) là cơ quan khởi xướng, mà ý tưởng về một tượng đài bà mẹ Việt Nam anh hùng lại xuất phát từ VOV Miền Trung ...
        Theo ông Bùi Huy Toàn, nguyên GĐ VOV Miền Trung, thì vào dịp tháng 7/2003, trong một chuyến công tác về Điện Bàn ( Quảng Nam ), các PV của VOV MT đã đến thăm nhà Mẹ VNAH Nguyễn Thị Thứ ở xã Điện Thắng. Gia đình mẹ Nguyễn Thị Thứ có cả thảy 11 người ( 09 con+01con rể+01 cháu ) là liệt sĩ, hy sinh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ Ngụy. Khi ấy, mẹ đã bước vào tuổi 101. Trong câu chuyện, mẹ Thứ bảo, các con cháu của mẹ không chết, vẫn quanh quất đâu đây, thế nên, mẹ vẫn nấu cơm cho chúng ăn, hằng năm, vào dịp này, mẹ nấu cơm để trên bàn thờ, bày bát đũa, để các con cháu của mẹ về thì có miếng mà ăn...
        Câu chuyện cảm động từ người mẹ hôm ấy, đã khiến cán bộ, phóng viên của VOV MT suy nghĩ, và thế là, hình thành ý tưởng về một tượng đài nhằm biểu tượng cho sự cống hiến, hy sinh của các bà mẹ VN anh hùng trong cả nước. Đề xuất của VOV MT được Lãnh đạo VOV nhiệt tình ủng hộ, và rồi sau đó, một buổi giao lưu, buổi lễ phát động quyên góp ủng hộ quỹ xây dựng tượng đài Mẹ VNAH được VOV và chính quyền tỉnh Quảng Nam phối hợp tổ chức ngay tại quê hương Mẹ VNAH Nguyễn Thị Thứ ( xã Điện Thắng. huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ). Mấy năm vận động quỹ, có xiết bao chuyện cảm động được anh em nhà VOV chúng tôi chứng kiến, ghi nhận... Rồi đó, còn có sự vào cuộc của Hội Phụ nữ VN, Bộ Quốc phòng, Mặt trận tổ quốc VN và rất nhiều các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp cùng tham gia. Số tiền quyên góp dù có nhiều thì cũng không thể đủ, song lớn tiền bạc, là tình cảm và trách nhiệm của người dân cả nước với các Mẹ VNAH, là cách để chúng ta giáo dục truyền thống dân tộc, yêu nước, nhân nghĩa, thuỷ chung, chia sẻ ...
        Mấy năm rồi, khi phụ trách VOV MT, tôi đã có dịp đến thăm Mẹ VNAH Nguyễn Thị Thứ ( khi đó mẹ sống cùng với người con trai còn lại tại Tp.Đà Nẵng ); được dự lễ khởi công xây dựng Tượng đài Mẹ VNAH vào tháng dịp 27/7/2009 ; và nhiều lần gặp gỡ trao đổi công việc với ông Đinh Gia Thắng, Kts-họa sĩ thiết kế và tổ chức thi công Tượng đài Mẹ VNAH... Mỗi biết, mỗi cảm nhận, mỗi thấu hiểu về sự hy sinh vô cùng lớn lao của các Mẹ VNAH, về đạo lý truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc.
        VOV MT còn gắn với một người mẹ nữa, ấy là Mẹ VNAH Thi thị Kiểu. Từ năm 2007, VOV nhận phụng dưỡng Mẹ VNAH Thi thị Kiểu, và công việc chăm sóc mẹ Kiểu thường xuyên được giao cho VOV MT. Mẹ VNAH Thi thị Kiểu ở xã Bình Trị, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Mẹ Kiểu có 03 người con và 01 con rể hy sinh cho sự nghiệp giải phóng đất nước; còn bản thân mẹ Kiểu, góa chồng sớm, năm 1969 mẹ bị thương khi làm giao liên cho cách mạng. Sau này, mẹ sống ở quê với người cháu mồ côi, trong ngôi nhà tình nghĩa. Khi VOV nhận phụng dưỡng mẹ Kiểu, mẹ cũng đã yếu lắm rồi, đi lại hàng ngày bằng chiếc xe đẩy. Những cán bộ, phóng viên của VOV MT thường xuyên qua lại, động viên, thăm hỏi, tặng quà, nhất là các dịp lễ tết. Các lãnh đạo VOV ở Hà Nội, tổ chức công đoàn, mỗi khi vào công tác miền Trung đều đến thăm hỏi, tặng quà. Rồi sửa sang nhà cửa, bếp núc, tường rào ngôi nhà cho khang trang, sạch sẽ. Thật cảm động, là mỗi khi có người của VOV MT đến thăm, bao giờ mẹ Kiểu cũng nhắc người cháu gái chuẩn bị chút quà quê của gia đình như sắn luộc, bánh ít gửi về làm quà cho mọi người trong cơ quan ...
        Người già như trái chín cây, rồi theo quy luật, các mẹ đều rủ nhau ra đi vào cõi vình hằng, dịp cuối năm 2010. Mẹ Kiểu đi trước, sau đó ít bữa là Mẹ Thứ ( thọ 107 tuổi ). Đám tang của các mẹ được chính quyền địa phương tổ chức trang trọng, VOV và VOVMT đều tham gia tổ chức tang lễ các mẹ hết sức tận tình, chu đáo. Giờ thì các mẹ đã về với đất đai, về sum vầy cùng với các cháu của mình đã hy sinh từ ngày nào... Và chắc hẳn, các mẹ hài lòng với hết thảy những gì cuộc sống đã đền đáp, dù rằng, chẳng có gì có thể bù đắp nổi sự hy sinh mất mát của các mẹ... Các mẹ đã hóa thân vào hình tượng, hóa thân vào tượng đài Mẹ VNAH, biểu tượng cho những đức tính quý báu của người phụ nữ Việt Nam : Anh hùng-Bất khuất-Trung hậu-Đảm đang-Thủy chung-Son sắt...
        Nay mai, Tượng đài Mẹ VNAH sẽ sừng sững với non sông đất nước, tạc vào lòng người các thế hệ mai sau về sự biết ơn của đạo lý truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam !...

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.08.2011 08:20:10 bởi tamvanvov >
        #19
          tamvanvov 28.08.2011 08:19:31 (permalink)
          Miên man tháng bảy ( V )


          5.
          Đến nay, có hai việc liên quan đến công tác thương binh liệt sĩ, có người nhờ tôi giúp, mặc dù tôi đã cố, song vẫn chưa đạt kết quả. Vậy nên đành bỏ cho trôi qua.
          Quả thật, hồi đầu, không giúp gì được, tôi thấy áy náy trong lòng, song lâu ngày, biết là có cố thì cũng khó được việc, nên cũng tự nhủ với lòng mình, rằng mình đâu có bỏ bê, nhưng gì không có duyên được việc mới thành ra vậy thôi...

          Việc thứ nhất, là nhắn tìm phần mộ cho người em họ của tôi.
          Như trong phần đầu bài viết " Miên man tháng bảy ", tôi có nói đến chuyện rời Hà Nội về quê Hưng Yên sinh sống khi chiến tranh chống Mỹ bắt đầu. Giai đoạn khoảng từ năm 1966 đến 1970, rất nhiều nam thanh niên ở quê tôi vào lính, ra trận. Trong số đó, tôi có hai người chú họ là Nguyễn Văn Thúc, Nguyễn Văn Thiết, và một người em họ là Nguyễn Văn Tắc( cùng chi họ nội tộc mà hiện tôi là Trưởng chi ) vào lính. Chú Thúc, chú Thiết là lính đặc công, còn Tắc lính bộ binh. Mấy năm sau, cả ba đều có giấy báo tử. Mọi chuyện cứ như vậy cho đến hòa bình, yên hàn sau này. Cách đây khoảng chục năm, phong trào tìm mộ liệt sĩ để đưa về quê rộ lên. Báo chí, trong đó có VOV đều có mục, có chương trình thông tin đi tìm đồng đội, tìm mộ liệt sĩ.
          Một lần về quê giỗ tổ chi họ, thằng cu cháu tôi ( con trai độc nhất của người em liệt sĩ Nguyễn Văn Tắc ), nó nay đã là bố của 3 cô công chúa, có nhờ tôi việc nhắn tin tìm mộ bố nó. Khi tôi hỏi có thông tin gì để nhắn, thì nó chỉ bảo chỉ nhớ là giấy báo tử ghi năm hy sinh 70 hay 71 gì đấy ở Mặt trận phía Nam. Quả thật, với thông tin như vậy thì khó mà tìm nổi. Khi ấy, tôi đang phụ trách một Ban biên tập của VOV ( nơi sản xuất chương trình phát thanh " Thông tin về những người con hy sinh vì tổ quốc" ). Tôi có cho biên tập
          thông tin này ( Nguyễn Văn Tắc, quê quán thôn Thanh Khê, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, nhập ngũ ... hy sinh năm 1970 ( hay 1971 ) tại Mặt trận phía Nam ... ). Dù đã thông tin nhiều lần nhưng không có hồi âm. Lâu lâu, về quê, gặp thằng cu cháu, lại thấy như có lỗi với nó. Nó cũng biết vậy, nên bảo: " Thôi ông trẻ ạ. Cháu cũng biết thông tin như vậy thì khó tìm lắm... Nhưng cũng cứ làm, biết đâu đấy... với lại, dù sao cũng còn hơn không...". Biết cháu nó nói vậy, là cho mình đỡ áy náy thôi...

          Việc thứ hai, là tìm cách minh oan cho một liệt sĩ, báo tử nhiều năm, bỗng nhiên trở về...
          Nguyên là, năm 1975, tôi về thị xã Hải Dương, tâp trung đội tuyển học sinh giỏi môn văn tỉnh Hải Hưng, để dự kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc lớp 10, hệ 10/10 ( có Trần Đăng Khoa, Trịnh Bá Ninh, Việt An ...).Chúng tôi được chia ra, một hoặc hai đứa về ở nhờ gia đình của học sinh trường cấp 3 Hồng Quang. Tôi và một người khác, ở nhờ gia đình của học sinh Nguyễn Văn Toàn. Gia đình nhà Toàn, có 5 anh chị em, 3 trai, 2 gái. Hai anh trai của Toàn là Nguyễn Quang Dịp và Nguyễn Văn Toán đều nhập ngũ. Khi đó, anh Nguyễn Quang Dịp đã hy sinh, báo tử không lâu. Hàng ngày, nhìn vào tấm ảnh anh Nguyễn Quang Dịp, một sĩ quan trẻ trung, đẹp trai, tôi cứ thầm tiếc là anh đã sớm hy sinh...
          Sau này, tôi đi lại nhà Toàn như một người thân của gia đình. Bà cụ mẹ và chị gái, em gái của Toàn cũng quý chúng tôi lắm ( tôi và Trịnh Bá Ninh )... Tôi vào đại học, rồi ra trường đi vào Nam công tác, miệt mài sáu bảy năm sau mới về VOV làm báo. Vẫn giữ liên lạc và thỉnh thoảng qua lại nhà Toàn. Cho đến tận năm 90,91, tôi bỗng nhận được tin báo, liệt sĩ Nguyễn Quang Dịp, sau nhiều năm báo tử, đột ngột trở về gia đình. Ít lâu sau, nhân chuyến công tác về thị xã Hải Dương, tôi ghé thăm nhà Toàn. Tại đây, tôi có gặp và trò chuyện với anh Dịp. Lẽ dĩ nhiên, so với người trong ảnh, anh Dịp già và ít nhiều phôi pha tiều tuỵ, song nét mặt thì không mấy khác. Qua câu chuyện,anh có viết gửi tôi một cái đơn trình bày câu chuyện của anh. Xin tóm tắt lại như sau :
          Anh là sĩ quan pháo binh, khoảng cuối năm 1973 đầu 1974 đơn vị của anh qua đường biên giới Lào và Cam-pu-chia, tập kết về khu vực biên giới Tây Ninh, chuẩn bị cho chiến dịch đánh vào Sài Gòn. Một lần, đơn vị anh bị địch phát hiện, chúng tập kích đột ngột, nên bị thương vong rất nhiều. Khi ấy, anh đang bị sốt rét, mê man bất tỉnh nằm trong lán trại thương bệnh binh. Đơn vị của anh phải rút khỏi đó, địch chiếm trận địa, chúng dồn xác thì thấy anh còn sống, nên bắt làm tù binh. Anh bị chúng tra hỏi nhiều phen và bị giam giữ cho đến ngày giải phóng miền Nam. Ra khỏi trại giam, anh tìm đến Ban quân quản trình báo toàn bộ sự việc, nhưng rồi, mọi chuyện phức tạp hơn anh tưởng. Mãi không kết quả gì. Khi ấy, anh hoang mang, mất phương hướng, không biết mình là người như thế nào nữa, phải gặp ai, hỏi ai ?... Lang thang ở Sài Gòn mãi cũng không ổn, về quê ngoài Bắc cũng không dám, nên đành trở lại khu vực biên giới Tây Ninh cũ, tìm người quen, tá túc, sinh sống qua ngày. Và sau gần hai chục năm như vậy, không gia đình, không nên cơm cháo gì, anh mới quyết định về quê... Còn gia đình anh ngoài này, nhiều năm thương nhớ, hưởng chế độ tuất liệt sĩ của anh, vì đương nhiên, anh là liệt sĩ... Vấn đề, là khi trở về quê, chính quyền địa phương xác nhận anh thế nào, anh sẽ làm ăn sinh sống ra sao ?...
          Cầm tờ đơn của anh, tôi có nhờ hỏi bên bộ Tư lệnh Phòng không Không quân, rồi ướm hỏi bên Bộ LĐ,TB&XH. Song người tra nói rằng, để giải quyết tận gốc cũng khá phức tạp. Vấn đề là phải xác mình xem có đúng ạnh bị địch bắt không, rồi khi bị bắt thì có khai báo gì không? ... Thêm nữa, nếu bình thường ra, để công nhận anh không phải là liệt sĩ, thì liệu giải quyết khoản tiền tuất nhiều năm qua như thế nào v.v... Có gì đó bất nhẫn đấy, song chính sách là chính sách...
          Rồi mọi việc cũng ổn. Địa phương chấp nhận anh. Và quan trọng hơn, sau mấy năm hòa nhập cuộc sống, anh về quê, chăn nuôi vịt đàn và lấy một cô gái quê làm vợ. Có gia đình, yên ấm, với anh, có lẽ vậy là đủ ?...
          Mới đây, lục lại đống giấy tờ cũ, tôi thấy lá đơn của anh. Nhẩm đọc lại, buồn vui chộn rộn...
          #20
            tamvanvov 05.12.2011 20:32:29 (permalink)
            Trường xưa, thày & bạn cũ... 


            Vào đúng ngày Hiến chương nhà giáo ( 20.11 ) năm nay, Trường THPT Mỹ Hào ( tức Trường cấp 3 Bần yên nhânHưng Yên ), nơi tôi học ngày xưa, làm lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập... Trước đó, chẳng hiểu ai mách thế nào, cô giáo Xuân ( Phó Hiệu trưởng ) nhà trường gọi điện thoại cho tôi, đặt vấn đề, nhờ tôi biên tập giùm các bài viết trong tập san kỷ yếu của trường số kỷ niệm 50 năm ngày thành lập. 


            Là học sinh cũ của trường, lại cộng thêm trách nhiệm, nên chẳng có lý do gì để vắng mặt tại buổi lễ. Từ nhiều năm nay, Hội học sinh cùng khóa ( 1972-1975 ) chúng tôi hằng năm đều họp mặt vào dịp nghỉ lễ 1/5. Bạn bè cũ gặp nhau, chia sẻ buồn vui chuyện cũ chuyện mới, để rồi sau đó, trong công việc và cuộc sống, chúng tôi giúp đỡ nhau nhiều. Hội trường lần này, đông vui lắm. Hội khóa chúng tôi cũng có mặt vài ba chục người... Trong cái vui chung ấy, có cái vui, cái bồi hồi riêng của cả thày và trò, chuyện của gần 40 năm về trước... Thầy cô thời chúng tôi đã về hưu hết cả rồi, người còn người mất. Và trò thì cũng vậy, bạc mái đầu cả rồi... Thày Nguyễn Ngọc Quảng, dạy Sinh vật, làm thơ viết văn, là hội viên Hội VHNT tỉnh, người đã từng đọc và góp ý những bài thơ đầu tiên của tôi, giờ gặp lại vẫn nhớ tên học trò cũ, và còn hỏi thăm trò viết lách nhiều không... Một học sinh cũ ( niên khóa 1975-1978 ), Nguyễn Đức Hải-UVTƯ Đảng, Bí thư tỉnh uỷ Quảng Nam, đang dự kỳ họp Quốc hội, biết tin cũng về dự. Với Ng. Đức Hải, tôi có vài ba kỷ niệm. Ấy là khi tôi còn làm GĐ văn phòng VOV Miền Trung ( tại Đà nẵng )có lần, tôi tháp tùng TGĐ VOV đến làm việc ở Hội An, lãnh đạo tỉnh Quảng Nam đón tiếp, sau cái bắt tay chào lễ nghi, đ/c Bí thư tỉnh ủy, cứ nhìn tôi chằm chằm bảo : " Anh là Nguyễn Chu Nhạc?... Anh có nhận ra em không ? Em là Nguyễn Đức Hải, học sinh cũ của Trường cấp 3 Bần Yên nhân đây.". Khi thấy tôi vẫn còn ngỡ ngàng chưa nhận ra, Hải bảo :" Em là em họ của Vương Văn A, cháu họ của anh. A đã từng đưa em đến thăm nhà anh ở xã Minh Hải, gặp cả bà cụ mẹ anh... Này nhé, em còn được anh cho đọc bản thảo truyện ngắn đầu tay, anh viết trên giấy học trò... Anh có tin không, em còn nhớ cả tên truyện và nội dung, tên các nhân vật chính trong truyện ". Tôi a lên vui mừng. Lúc ấy, thì tôi đã nhớ ra, cậu học sinh trắng trẻo, khuôn mặt bầu bĩnh ngày nào được được Vương Văn A đưa đến nhà tôi chơi. Cha của Hải, người Quảng Nam, tập kết ra Bắc, làm việc ở Xí nghiệp bao bì gần quê tôi, ông lấy vợ Bắc, là cô của A. Sau giải phóng miền Nam ít năm, đưa gia đình về quê Quảng Nam. Hải về quê, học Đại học rồi làm cán bộ ở Quảng Nam, nhanh chóng tiến bộ, rồi lên đến UVTƯ Đảng, Bí thư tỉnh ủy...Nhìn cậu học trò cũ, thành đạt, nay hòa nhã, bộc lộ tính cách " rất chi là học sinh " giữa bạn bè cũng lớp và các thày cô giáo cũ, tôi nghĩ nhiều về đạo lý thày trò phương Đông và xứ Việt mình... Tôi gặp lại ở đây, cô bạn học cũng lớp tên Hà Thu. Ngày ấy, khi đa phần học sinh chúng tôi tính vẫn nhí nháu trẻ con, thì Hà Thu đã tỏ ra rất người lớn, hát hay, vẽ giỏi, song kín đáo, ít nói... Sau này, nghe nói Hà Thu học Trường cao đẳng sư phạm nhạc họa... Biền biệt từng ấy năm, gặp lại, chúng tôi vẫn nhận ngay ra Hà Thu. Dáng người và khuôn mặt không mấy thay đổi. Hỏi ra, được biết Hà Thu, lên Lạng Sơn dạy học vài ba năm, rồi chán ngán bỏ về xuôi, lập gia đình, có một cô con gái và hôn nhân đổ vỡ. Hà Thu trở về quê gốc là làng gốm sứ Bát Tràng, sống bằng nghề vẽ mẫu gốm sứ, sau khá giả thì mở một shop gốm sứ ngay tại chợ Gốm sứ Bát Tràng... Vương Văn A, người cháu họ tôi cũng là một trường hợp đặc biệt. Học sau tôi 2 khóa, tốt nghiệp thì vào bộ đội, ra quân, làm bảo vệ cơ quan, rồi bỏ đi Quảng Ninh làm thợ mỏ. Thời than thổ phỉ, A lao vào làm ăn và nhanh chóng khá giả. Có tiền thì cũng chơi bời đủ kiểu, hai lần lấy vợ, có với mỗi người một đứa con, song giờ đây lại sống độc thân, và nghề ngỗng cũng lông bông... A được cái tính bộc trực, trung thực và nhiệt tình, song lại cả thèm chóng chán với tất cả mọi việc. Lạ cái, lòng yêu văn chương thơ phú thì không bao giờ nguội. Ngay từ thời học trò, đến bay giờ ngoài năm chục tuổi vẫn giữ nguyên. Thật bất ngờ, A thuộc lòng và đọc vanh vách hàng chục bài thơ của tôi làm từ thời học sinh...Điều này khiến tôi cảm động. A bảo tôi: " Chú có biết không, đời cháu lên voi xuống chó, ấy vậy, cháu không quên thơ chú. Mỗi khi vui buồn, cháu đều đọc thơ chú... Có thể nói, cuộc đời sự nghiệp cháu dang dở, nhưng cháu không là kẻ hư hỏng, bỏ đi... là nhờ cháu yêu văn chương, thích thơ chú đó...". Tôi chỉ còn biết rơm rớm nước mắt, gật đầu, khi A đọc thong thả và diễn cảm từng chữ, từng câu, hết bài nọ sang bài kia thơ tôi, mà chính tôi đã lãng quên mất, đã bỏ rơi... 
            Giờ thì tôi nhớ rồi ...
            #21
              tamvanvov 31.05.2012 21:39:16 (permalink)
              Myanmar du ký ( I )


              1. Cố đô Yangon

              Chiếc Fokker của Vietnam Airlines số hiệu chuyến bay VN 957 sau 1h45 phút hành trình, hạ cánh xuống sân bay quốc tế Yangon đúng giờ quy định ( 18h30 h địa phương, chậm hơn giờ VN 30 phút ). Đón đoàn VOV là 2 cán bộ ngoại vụ của Đài FT&TH Myanmar ( MR ), một nam một nữ, đều mặc váy. Thoáng chút ngạc nhiên, song tôi nhanh chóng hiểu, họ ăn mặc trang phục dân tộc truyền thống. Ngạc nhiên hơn, chờ sẵn bên ngoài là 2 phóng viên Truyền hình Myanmar ( MR.TV ) chĩa chiếc camera cổ lỗ sĩ quay hình đoàn chúng tôi để đưa tin. Quả nhiên, tối hôm ấy, tôi đã xem được tin này trên Kênh MRTV4 . 15 phút ô tô thì đến khách sạn 3 * Yangon Hotel. Trên đường về khách sạn, điều đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là đường mườn mượp xe hơi, và tuyệt nhiên không thấy bóng dáng chiếc xe gắn máy nào. Hỏi bạn thì được biết, thành phố Yangon cấm xe gắn máy lưu thông. Khác hẳn Việt Nam mình, giao thông đô thị khốn khổ vì xe máy.
              Sở dĩ gọi Yangon là cố đô, bởi vào ngày 26 tháng 3 năm 2006, nhằm né tránh nguy cơ chiến tranh với phương Tây từ phía vịnh Martaban trên Ấn Độ dương, đồng thời tìm vùng đất mới để xây dựng và phát triển thủ đô, Chính phủ Myanmar quyết định dời thủ đô đến Nay Pyi Taw thuộc tỉnh Mandalay, cách Yangon hơn 300 km về phía đồng bắc.
              Căn phòng tôi ở là phòng loại VIP trên tầng 9 của khách sạn cao 12 tầng, nên có điều kiện quan sát khoảng không rộng lớn của cố đô Yangon. Tên cũ của thành phố là Rangoon, sau đổi thành Yangon. Anh U Myint Wai, người đưa đón đoàn VOV giải thích, cái tên Yangon theo tiếng Myanmar có nghĩa là “ sạch bóng quân thù “, và anh còn nhấn mạnh “ ý nghĩa hòa bình “ của cái tên thành phố. Yangon hiện có hơn 4 triệu dân ( trong tổng số 56 triệu dân cả nước ) là thủ đô của MR từ lâu đời, tọa lạc nơi ngã ba hai con sông lớn là Yangon và Bago, cách vịnh biển Martaban chừng 30 cây số. Từ trước năm 1948, MR là thuộc địa của Anh, nên ở trung tâm thành phố có nhiều kiến trúc châu Âu như Tòa thị chính, Tòa án tối cao, Nhà ga xe lửa ( nay là Bảo tàng xe lửa )... Ngay từ chiều tối hôm mới đến, chúng tôi có vài ấn tượng về Yangon.
              Thứ nhất, chúng tôi rủ nhau đi dạo mấy khu phố gần khách sạn. Chừng hơn 9 giờ đêm đường phố đã thưa thớt xe. Đây là thời điểm, các xe chở khách, taxi được dịp thả phanh. Yangon cho phép cả hai loại xe tay lái thuận và tay lái nghịch đều được phép lưu thông, thế nên mới có sự, từng cặp xe ( 1 tay lái thuận, 1 tay lái nghịch ) bám sát cạnh nhau cùng chạy song song rất nhanh trên phố, trong khi các lái xe và khách đi xe hai bên trò chuyện sang nhau ầm ĩ cả phố xá.
              Thứ hai, đó là chuyện massage. Nếu ai mỏi mệt, chỉ sau một giờ massage MR sẽ thấy khoan khoái ngay. Nói vậy, bởi tôi cùng vài đồng nghiệp nam đã tò mò đi tìm hiểu massage MR nó như thế nào, ngay tại khách sạn mình ở. Xin nói ngay, massage MR rất chi là khoa học và “ nghiêm văn chỉnh”. Phòng massage tập thể, từ 2-3 người cùng, khách được massage phải thay quần áo của mình để mặc một bộ pizama mềm và rộng rãi. Các nữ nhân viên massage trẻ trung khỏe mạnh, mặc trang phục truyền thống kín đáo song vẫn đủ độ gợi của thân hình. Họ massage bài bản, cố đến mức cao nhất có thể để không va chạm xác thịt, và rất chi mềm mại điệu nghệ, đủ cho những ai giàu trí tưởng thư giãn tâm trí. Trong khi massage, giữa khách với nhau, hoặc giữa khách với nhân viên thoải mái trò chuyện giao tiếp vui đùa qua ngôn ngữ hay cử chỉ, song không vượt ngưỡng lịch sự, và nhân viên không đòi hỏi tiền “ bo”. Quả là khoan khoái sau đúng 1 giờ đồng hồ với mức phí là 12 USD.
              Thứ ba, đường phố Yangon, trừ khu phố cũ ( kiểu như khu phố cũ với các “ hàng “ ở Hà Nội ) thì kiến trúc phần lớn theo kiểu khuôn viên, khá thoáng đãng. Người dân di chuyển bằng xe bus, xe chở khách kiểu xe lam, xe đạp kéo 3 bánh và đi bộ. Nhìn chung, các phương tiện xe cộ đều chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, song với người đi bộ thì hiện tượng băng cắt qua đường giữa dòng xe vẫn phổ biến như ở bên ta.
              Thứ tư, thành phố Yangon có thể coi là xứ sở của hoa phượng ( đủ các màu như đỏ, vàng, nâu ngà ); và xứ sở của chim, nhất là loài quạ đen. Quạ nhởn nhơ trong vườn, đậu kín trên cây và giăng hàng trên dây điện. Hình như, đất nước Phật giáo này, họ kiêng cữ việc “ sát sinh”...
              Thứ năm, vì là đất nước Phật giáo nên hệ thống chùa chiền và tăng lữ có ở khắp đất nước Myanmar. Thế nên, ở Yangon, sáng sáng, sư sãi từ các chùa đổ về các ngả đường, phố đông dân cư để khất thực.
              Thứ sáu, tiền tệ Myanmar là đồng “ kyat “, giá quy đổi khoảng từ 700-820 kyat/1 USD, và nhìn chung, hệ thống thương mại, kể cả bán lẻ của Myanmar, và Yangon khá quen với việc tiêu đồng USD lẫn với đồng kyat.

              ( còn nữa )
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.05.2012 21:41:35 bởi tamvanvov >
              #22
                tamvanvov 01.07.2012 09:29:24 (permalink)
                Myanmar du ký ( II )

                2. Shwedagon- Chùa Vàng.

                Chùa Vàng ở cố đô Yangon được xây dựng từ gần 2.600 năm trước, ông U Maung Maung Og, trưởng ban quản lý chùa cho biết vậy. Đấy là theo tương truyền, chứ thực ra, chùa được xây dựng vào thế kỷ thứ 6, thêm nữa vào thế kỷ thứ 10, và sau đó trải suốt chiều dài lịch sử đã có rất nhiều lần chùa được tu bổ, xây dựng thêm bởi lâm vào tình trạng đổ nát vì thiên tai và chiến tranh. Chùa nằm trên đồi Singuttara, có chiều cao 105 m ( không kể phần ăng-ten ), riêng phần vòm tháp dát vàng cao 98 m.

                Vì được coi là khách VIP, nên chính ông trưởng ban quản lý đích thân dẫn và giới thiệu đoàn thăm viếng chùa. Đoàn chụp ảnh lưu niệm dưới bóng cây bồ đề gần 50 tuổi do Ấn Độ trồng tặng. Việc thăm viếng chùa được tiến hành thông lệ đi theo chiều kim đồng hồ, và đương nhiên, như tất thảy mọi người, chúng tôi phải bỏ giày dép đi chân đất.
                Lần theo các cụm kiến trúc, mới thấy được sự cổ kính và vĩ đại của ngôi chùa. Còn thấy cả sự sùng kính của người dân MR qua nhiều đời, công đức đóng góp cho việc bảo tồn, tu bổ công trình. Theo ông trưởng bản quản lý chùa, thì đã tốn nhiều tấn vàng nguyên chất cho việc dát tòa tháp chính và một số điểm trọng yếu của ngôi chùa. Hiện chùa Vàng còn bảo tồn được bốn báu vật thiêng liêng với các tín đồ Phật giáo, đó là 8 sợi tóc của Đức Phật Thích Ca, cái lọc nước của Phật Câu Na Hàm, cây gậy của Phật Câu Lưu Tôn và mảnh áo của Phật Ca Diếp. Chính sự lâu đời và kỳ vĩ, cùng các báu vật được lưu giữ trong chùa, nên không riêng gì các tín đồ Phật giáo ở MR và các nước khác, mà nhìn chung, mọi người trên khắp thế giới đều mong muốn ít nhất một lần được thăm viếng ngôi chùa này.
                Nếu có thời gian, khách phải mất cả ngày, thậm chí cả tuần để thăm viếng và thực hiện các nghi lễ Phật giáo. Tuy nhiên, với chúng tôi, chỉ có thời gian hơn một giờ đồng hồ nên đành “ cưỡi ngựa xem hoa “ vậy. Song vì có ông trưởng ban đưa dẫn, nên chúng tôi chỉ dừng chân ở những điểm quan trọng để nghe giới thiệu hoặc hành lễ, như : bảo tháp, phật vàng, phật ngọc, phật nằm, chuông Singu Min...Mặc dù người dân MR rất hiền lành và sùng đạo, song nhằm đảm bảo an toàn cho những tượng tháp quý, nhà chùa đều đặt trong các lồng khung sắt vững chắc, có khóa bảo vệ. Được sự đồng ý của ông trưởng ban, ở mỗi tượng tháp này, nhân viên bảo vệ mở khóa cho đoàn chúng tôi vào bên trong, nên có thể “ sờ tận tay“ và hành lễ ngay cạnh. Ở tượng Phật ngọc, ông trưởng ban khuyến khích mọi người trong đoàn hành lễ và bảo rằng, theo quan niệm của tín đồ Phật giáo MR, thì cầu nguyện điều gì đó trước bức tượng này sẽ được linh ứng. Cầu được ước thấy đây. Thôi thì đã đến được nơi đây, lại thêm lời khuyên vậy, nên ai cũng hành lễ và thầm cầu nguyện một điều gì đó cho riêng mình. Khi đến tượng Phật nằm, chúng tôi bắt gặp 2 người thợ thủ công đang dát vàng nguyên chất bồi bổ thêm cho bức tượng. Ông trưởng ban quản lý cho hay, các thợ được tuyển chọn vào thực hiện việc dát vàng tháp tượng chùa, ngoài tay nghề điêu luyện, họ phải có tính chân thật và lòng sùng kính Phật giáo.
                May mắn, chúng tôi bắt gặp các nhà sư đang thực hiện một buổi cầu kinh. Các sư hành lễ đồng thanh tụng kinh theo lời tụng kinh dẫn dắt của vị sư chủ trì buổi lễ. Tiếng cầu kinh trầm buồn vang lên đều đều lan tỏa khắp không gian chùa, hòa lẫn trong mớ tạp âm của khách thập phương, tạo nên một cảm giác về sự pha trộn của hai thế giới tâm linh và đời thường...
                Ông trưởng ban dẫn chúng tôi đến nơi treo một quả chuông cổ khổng lồ, vừa đi ông vừa hào hứng kể lai lịch quả chuông này. Quả chuông có tên gọi là Maha Gandha ( có nghĩa là “ âm thanh tuyệt diệu “ ), được nhà vua Singu Min cho đúc năm 1779 và tặng nhà chùa. Vì thế, nên ngày nay người ta quen gọi là chuông Singu Min. Có chuyện kể rằng, vào năm 1824, khi quân Anh xâm lược MR, chúng đã lấy quả chuông này đưa xuống thuyền định chở về Calcuta ( Ấn Độ ), song do chuông quá nặng nên đã bị lật thuyền chìm tận đáy sông. Quân Anh không biết làm sao. Các tín đồ Phật giáo MR đề nghị xin vớt chuông với điều kiện nếu vớt được thì sẽ phải trả chuông về lại chùa. Nghĩ rằng họ không vớt được nên quân Anh đồng ý. Họ đã thay nhau lặn xuống sông buộc xung quanh chuông rất nhiều cây tre bương, nên khi bè tre nổi đã kéo được quả chuông khổng lồ nổi theo.
                Chúng tôi lần lượt mỗi người thỉnh 3 tiếng chuông, song do quá chú ý nghi lễ nên chưa ai đủ để thấu “ âm thanh tuyệt diệu “ của chuông Singu Min ra sao. Vậy cũng là mãn nguyện rồi.
                Số tiền chúng tôi công đức cho chùa được họ ghi nhận vào tấm bằng có in hình tháp chùa Vàng lồng khung kính mang về. Đoàn chúng tôi cũng tặng lại mấy vị trong ban quản lý chùa mỗi người một món quà dân tộc mang theo từ Việt Nam.
                Rời chùa Vàng mà lòng ngẩn ngơ. Sau đó, tôi còn được chiêm ngưỡng ngọn tháp chùa Vàng nhiều lần nữa, từ tầng cao Yangon Hotel hoặc từ công viên hồ nước Inya ( Inya Lake )...
                ( còn nữa )
                #23
                  tamvanvov 28.07.2012 09:31:14 (permalink)
                  Myanmar du ký ( III )

                  Nay Pi Taw, thủ đô hoang vu.

                  Băng qua khoảng cách 350 km về phía đông bắc của cố đô Yangon với thời gian 3 giờ đồng hồ trên đường cao tốc Yangon-Mandalay, chúng tôi rẽ ngang để vào thủ đô mới Nay Pyi Taw.

                  Không riêng tôi, mọi người trong đoàn đều sốt ruột cất tiếng hỏi xem đã tới thủ đô chưa. Anh U Myint Wai, cán bộ ngoại vụ khẳng định như đinh đóng cột rằng xe đang chạy trên đường phố thủ đô rồi đấy. Sở dĩ vậy, là bởi, chẳng thấy phố phường đâu cả, chỉ thấy đất hoang dại khô cằn cây cối lúp xúp trống không, đây đó là các khuôn viên nhà cửa dáng dấp biệt thự và chốc chốc lại một ngả đường bê tông rộng rãi rẽ phải, trái, rồi lại bùng binh trang hoàng hiện ra trước mặt. Mọi người có vẻ thất vọng khi tận mắt thấy một thủ đô không phố, không nhà mặt phố, không cửa hàng cửa hiệu và người qua lại sầm uất, trái lại rất hoang vu huếch hoác ( so với VN hay các nước khác, ngay cả khi so với Yangon ). Rồi tôi cũng hiểu ra, cái thủ đô mới này mới có lịch sử độ 5 năm ( từ năm 2006 khi Chính phủ MR quyết định dời đô từ Yangon về đây ), một vùng đất bình nguyên khô cằn thuộc tỉnh Madalay, lấy cái tên làng Nay Pyi Taw nguyên thuỷ làm tên thủ đô mới. Rút kinh nghiệm từ một Yangon chật chội, đông đúc, cao thấp lô nhô phát triển tự do theo kiểu phình to, thủ đô mới được quy hoạch quy củ ngay từ đầu. Thoạt đầu là quy hoạch tổng thể, phân khu rõ ràng, làm đường xá, chia lô, rồi mới xây dựng công trình. Giờ mới nên nhà còn thưa thớt, tạo ra cảm giác trống trải, độ mươi mười lăm năm nữa, nhà cửa và công trình chêm vào chỗ trống, sẽ ra dáng một đô thị ngay ngắn chỉnh tề. Có một nét định hình rõ, ấy là nhà cửa và công trình ở đây không được phép xây cao, đều phải theo khuôn phép của khuôn viên biệt thự để phù hợp với khí hậu vùng đất cao và khô nóng này. Hiện thủ đô có một đặc điểm nữa về dân cư, ấy là sự thuần khiết về dân cư, hay nói một cách khác, là chưa có dân cư. Thật ra, nói vậy chưa thật chuẩn, bởi hằng ngày, người qua lại sinh hoạt tại đây chỉ có mấy loại như thế này : công chức thuộc các cơ quan của Chính phủ, công nhân lao động ở các công trình đang được xây dựng tại đây, và người từ các tỉnh các vùng đến thủ đô liên hệ giải quyết các công việc rồi về... Chính vì thế mà người ở thủ đô cực kỳ thưa thớt, các hoạt động thương mại chủ yếu phục vụ cho số ít cư dân này, mà cũng chỉ diễn ra tại các siêu thị, trung tâm thương mại mới xây, không có thị trường tiểu thương. Sáng sớm, thả bộ trên đường phố, có khi nửa tiếng đồng hồ chẳng gặp ai. Cảm giác của một thành phố không người.

                  Juntion Hotel, nơi chúng tôi ở khá gần trung tâm thành phố, và đã từng có khách người Việt Nam đến ở trước đó, nên khi chúng tôi tới đây đã thấy lá cờ Việt Nam phấp phớp nơi cột cao trước cửa Reception. Có một điều ngạc nhiên nữa, khi ăn tại khách sạn này, chúng tôi đòi nước mắm nguyên chất, bồi bàn hiểu ngay và họ mang ra phục vụ nước mắm xịn hẳn hoi, trong khi không hề có ở khách sạn tại Yangon...

                  Ở Nay Pyi Taw, chúng tôi được bạn đưa đi thăm viếng chùa Uppatasanti ( Uppatasanti Pagoda ). Đây là ngôi chùa mới, được Chính phủ MR cho xây dựng vào năm 2006 và khánh thành vào năm 2009, mô phỏng theo chùa Vàng tại Yangon, nhằm làm nơi hành lễ Phật giáo cho quan chức Chính phủ và cư dân của thủ đô mới. Ngoài ra, chúng tôi còn đến xem voi trắng được nuôi giữ gần ngôi chùa này. Theo phía bạn cho biết thì voi trắng là động vật quý hiếm, hiện trên toàn lãnh thổ MR chỉ còn độ chục con...
                  #24
                    tamvanvov 05.08.2012 10:19:15 (permalink)
                    Myanmar du ký ( IV )
                    4. Xứ sở của đá quý, châu ngọc



                    Có thể nói, MR là vương quốc, là xứ sở của đá quý và châu ngọc. Các mỏ đá quý chủ yếu nằm ở phía Bắc của MR, như thung lũng Ruby hoặc khu vực Mogok, cách Yangon gần ngàn cây số. Đây là những mỏ đá quý nổi tiếng thế giới và có trữ lượng khổng lồ ( ngọc bích, hồng ngọc ), vốn được khai thác từ thế kỳ 19.
                    Phần lớn, đá quý của MR đều được khai thác rồi mang bán sang thị trường Trung Quốc, Thái Lan... và sau khi được chế tác ở đấy thành sản phẩm châu ngọc, đồ trang sức quý giá, lại được bán quay trở lại MR và sang các nước khác với giá cao gấp bội.
                    Ở thủ đô Nay Pyi Taw còn hoang sơ ấy, chính phủ MR đã nhanh chóng cho xây dựng một bảo tàng đá quý & châu ngọc, bởi đây là nguồn tài nguyên vô giá, là niềm tự hào và trở thành biểu tượng cho đất nước Phật giáo này. Đoàn chúng tôi được phía bạn bố trí một buổi đi thăm và mua sắm tại bảo tàng này. Vào đây, ngay từ tiền sảnh, mọi người đã choáng ngợp trước một không gian miên man là đá quý và châu ngọc ( thô có, đã chế tác có ). Rất đáng tiếc, ở đây treo biển cấm quay phim chụp ảnh, và trước khi vào đây, nhân viên bảo vệ cũng nhắc nhở khách tham quan điều đó. Tuy nhiên, với chiếc Canon G11 đeo lủng lẳng trước ngực, để ở chế độ no flash, mặc dù hệ thống camera giăng mắc khắp nơi, tôi cũng “bắn” lén tọa độ được mấy kiểu, đặng có cái mà khoe với mọi ngườ chứ. Nhiều cửa hiệu chuyên bán trang sức châu ngọc ở MR cũng cấm quay phim chụp ảnh.
                    Trong bảo tàng châu ngọc, các loại châu ngọc và trang sức đã chế tác đều được trưng bày trong tủ kính bảo vệ, còn đá quý nguyên liệu thô thì không cần. Đồ trưng bày được xếp đặt theo chủ đề, theo dạng thức, lớp lang, quy củ. Đặc biệt và gây ấn tượng nhất, ấy là mô hình vòm tháp của chùa Vàng được chế tác từ ngọc bích nguyên khối, và nữa là viên ngọc trai khổng lồ ( hiện giữ kỷ lục lớn nhất về độ lớn ở MR ). La cà, thăm thú, ngắm nghía, cánh đàn ông chúng tôi vốn ít quan tâm đến lĩnh vực này, nên cũng chỉ để thỏa chí tò mò, hơn là để hiểu về vẻ đẹp và độ quý giá của chúng. Còn với 2 thành viên nữ trong đoàn, thôi thì, mê mẩm, đắm đuối khôn cùng...
                    Bên dưới bảo tàng là một khu vực quầy hàng đá quý châu ngọc cho tư nhân thuê bán hàng. Khách không đông lắm, chủ yếu là người đến thăm quan, rồi nhân tiện mua sắm. Song với chúng tôi cũng là đủ, để mua ít quà souvernir. Hôm sau, chúng tôi còn được bạn đưa đến thăm thú mua sắm ở mấy cửa hàng châu ngọc sang trọng thuộc diện có thương hiệu ở MR, rồi la cà cả khu vực hàng tầm tầm tại trung tâm phố cổ của Yangon. Nói chung, với những chế tác đơn giản ( như vòng tay, tranh đá, dây móc... ) bằng đá quý không mấy đắt, đủ thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng mua sắm của phần đông người bình dân và khách du lịch, tây ba lô ... Và với người MR, vạy cũng là đủ, bởi đây là một nghề kinh doanh kiếm sống khá phổ biến của người dân bản địa ở các trung tâm thương mại như Yangon, Madalay, Mogok...

                    Tôi nhớ, vào năm 2008, khi tôi học ở Trường Đảng trung ương Trung Quốc 2 tháng, kết thúc lớp học, chúng tôi có đi thực tế tại Thượng Hải, Tây An, Vân Nam. Khi về đến Côn Minh ( Vân Nam ), chúng tôi được đưa đi thực tế tại Châu tự trị Đức Hồng, nơi giáp ranh với biên giới phía bắc của MR ( nếu ai quan tâm đến lịch sử, thì đây chính là khu vực chiến trường xưa của quân đội Nhà Thục Hán-Lưu Bị thời Tam Quốc, đánh nhau với Mạnh Hoạch - Khổng Minh Gia Cát Lượng từng “ thất cầm Mạnh Hoạch “- 7 lần bắt 7 lần tha ). Tại đây, tôi đã tham quan thành phố Thụy Lệ, thành phố châu ngọc của Trung Quốc, nơi có hàng chục chợ đá quý, hàng trăm cửa hàng bán đồ trang sức châu ngọc, mà toàn bộ nguyên liệu đều được đưa sang từ MR. Tôi đã từng đứng phía bên này đầu cầu biên giới, đặng chụp ảnh người dân MR mỗi sáng gùi đá quý trên lưng, hệt như bà con dân tộc thiểu số ở ta gùi ngô sắn sang bán bên chợ đá quý Thụy Lệ ... Tôi mang điều này hỏi anh U Myint Wai, thì anh bảo, chính phủ MR cũng quản lý khá chặt chẽ, nhưng cũng không thể ngăn nổi tình trạng bán lậu nguyên liệu đá quý qua biên giới...

                    Dẫu gì, MR vẫn luôn xứng đáng là xứ sở của đá quý và châu ngọc của thế giới ...
                    #25
                      tamvanvov 24.08.2012 21:30:16 (permalink)


                      Myanmar du ký ( IV )

                      4. Xứ sở của đá quý, châu ngọc



                      Có thể nói, MR là vương quốc, là xứ sở của đá quý và châu ngọc. Các mỏ đá quý chủ yếu nằm ở phía Bắc của MR, như thung lũng Ruby hoặc khu vực Mogok, cách Yangon gần ngàn cây số. Đây là những mỏ đá quý nổi tiếng thế giới và có trữ lượng khổng lồ ( ngọc bích, hồng ngọc ), vốn được khai thác từ thế kỳ 19.
                      Phần lớn, đá quý của MR đều được khai thác rồi mang bán sang thị trường Trung Quốc, Thái Lan... và sau khi được chế tác ở đấy thành sản phẩm châu ngọc, đồ trang sức quý giá, lại được bán quay trở lại MR và sang các nước khác với giá cao gấp bội.
                      Ở thủ đô Nay Pyi Taw còn hoang sơ ấy, chính phủ MR đã nhanh chóng cho xây dựng một bảo tàng đá quý & châu ngọc, bởi đây là nguồn tài nguyên vô giá, là niềm tự hào và trở thành biểu tượng cho đất nước Phật giáo này. Đoàn chúng tôi được phía bạn bố trí một buổi đi thăm và mua sắm tại bảo tàng này. Vào đây, ngay từ tiền sảnh, mọi người đã choáng ngợp trước một không gian miên man là đá quý và châu ngọc ( thô có, đã chế tác có ). Rất đáng tiếc, ở đây treo biển cấm quay phim chụp ảnh, và trước khi vào đây, nhân viên bảo vệ cũng nhắc nhở khách tham quan điều đó. Tuy nhiên, với chiếc Canon G11 đeo lủng lẳng trước ngực, để ở chế độ no flash, mặc dù hệ thống camera giăng mắc khắp nơi, tôi cũng “bắn” lén tọa độ được mấy kiểu, đặng có cái mà khoe với mọi ngườ chứ. Nhiều cửa hiệu chuyên bán trang sức châu ngọc ở MR cũng cấm quay phim chụp ảnh.
                      Trong bảo tàng châu ngọc, các loại châu ngọc và trang sức đã chế tác đều được trưng bày trong tủ kính bảo vệ, còn đá quý nguyên liệu thô thì không cần. Đồ trưng bày được xếp đặt theo chủ đề, theo dạng thức, lớp lang, quy củ. Đặc biệt và gây ấn tượng nhất, ấy là mô hình vòm tháp của chùa Vàng được chế tác từ ngọc bích nguyên khối, và nữa là viên ngọc trai khổng lồ ( hiện giữ kỷ lục lớn nhất về độ lớn ở MR ). La cà, thăm thú, ngắm nghía, cánh đàn ông chúng tôi vốn ít quan tâm đến lĩnh vực này, nên cũng chỉ để thỏa chí tò mò, hơn là để hiểu về vẻ đẹp và độ quý giá của chúng. Còn với 2 thành viên nữ trong đoàn, thôi thì, mê mẩm, đắm đuối khôn cùng...
                      Bên dưới bảo tàng là một khu vực quầy hàng đá quý châu ngọc cho tư nhân thuê bán hàng. Khách không đông lắm, chủ yếu là người đến thăm quan, rồi nhân tiện mua sắm. Song với chúng tôi cũng là đủ, để mua ít quà souvernir. Hôm sau, chúng tôi còn được bạn đưa đến thăm thú mua sắm ở mấy cửa hàng châu ngọc sang trọng thuộc diện có thương hiệu ở MR, rồi la cà cả khu vực hàng tầm tầm tại trung tâm phố cổ của Yangon. Nói chung, với những chế tác đơn giản ( như vòng tay, tranh đá, dây móc... ) bằng đá quý không mấy đắt, đủ thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng mua sắm của phần đông người bình dân và khách du lịch, tây ba lô ... Và với người MR, vạy cũng là đủ, bởi đây là một nghề kinh doanh kiếm sống khá phổ biến của người dân bản địa ở các trung tâm thương mại như Yangon, Madalay, Mogok...

                      Tôi nhớ, vào năm 2008, khi tôi học ở Trường Đảng trung ương Trung Quốc 2 tháng, kết thúc lớp học, chúng tôi có đi thực tế tại Thượng Hải, Tây An, Vân Nam. Khi về đến Côn Minh ( Vân Nam ), chúng tôi được đưa đi thực tế tại Châu tự trị Đức Hồng, nơi giáp ranh với biên giới phía bắc của MR ( nếu ai quan tâm đến lịch sử, thì đây chính là khu vực chiến trường xưa của quân đội Nhà Thục Hán-Lưu Bị thời Tam Quốc, đánh nhau với Mạnh Hoạch - Khổng Minh Gia Cát Lượng từng “ thất cầm Mạnh Hoạch “- 7 lần bắt 7 lần tha ). Tại đây, tôi đã tham quan thành phố Thụy Lệ, thành phố châu ngọc của Trung Quốc, nơi có hàng chục chợ đá quý, hàng trăm cửa hàng bán đồ trang sức châu ngọc, mà toàn bộ nguyên liệu đều được đưa sang từ MR. Tôi đã từng đứng phía bên này đầu cầu biên giới, đặng chụp ảnh người dân MR mỗi sáng gùi đá quý trên lưng, hệt như bà con dân tộc thiểu số ở ta gùi ngô sắn sang bán bên chợ đá quý Thụy Lệ ... Tôi mang điều này hỏi anh U Myint Wai, thì anh bảo, chính phủ MR cũng quản lý khá chặt chẽ, nhưng cũng không thể ngăn nổi tình trạng bán lậu nguyên liệu đá quý qua biên giới...

                      Dẫu gì, MR vẫn luôn xứng đáng là xứ sở của đá quý và châu ngọc của thế giới ...

                      nmar du ký VI

                      6. Hệ thống Phát thanh & truyền hình
                      Hiện nay, hệ thống Phát thanh & truyền hình của MR còn chưa mấy phát triển. Sở dĩ vậy, là do sau nhiều năm duy trì chính quyền quân sự, bị Phương Tây cấm vận nên kinh tế đất nước kém phát triển; thêm nữa, chính sách đóng cửa khép kín của quốc gia Phật giáo này ít nhiều tạo ra một xa hội tương đối thuần phác. Có thể coi đó là nguyên nhân chính khiến cho toàn bộ hệ thống thông tin báo chí nói chung ( trong đó có PT&TH ) kém đa dạng, phát triển. Đài PT&TH của MR trực thuộc Bộ Thông tin, có trụ sở chính đóng tại Yangon. Năm 2006, khi thủ đô rời đến Nay Pyi Taw, chính phủ MR cho xây dựng trụ sở mới của Đài PT&TH quốc gia ở ng

                      oại vi thuộc một vùng quê, cách trung tâm thủ đô chừng 1 giờ xe chạy.

                      Tòa nhà của Đài PT&TH mới có cấu trúc thấp tầng, khá hài hòa và thiết bị máy móc công nghệ tương đối hiện đại. Nếu máy móc thiết bị kỹ thuật PTTH của Đài tại Yangon chủ yếu là kỹ thuật analog, trên băng từ, thì ở trụ sở mới, toàn bộ sử dung kỹ thuật số ( digital ), song vẫn có dự phòng bằng kỹ thuật analog trong những trường hợp bất trắc. Hiện tại, phần lớn các chương trình phát thanh và truyền hình của MR vẫn được sản xuất ở Văn phòng tại Yangon, bởi đây tuy là cố đô, song vẫn là một trung tâm chính trị, ngoại giao, sản xuất, thương mại của MR. Nhiều đại sứ quán ( trong đó có Đại sứ quán Vịêt Nam ) vẫn đóng ở Yangon. Hiện tại, MR có 2 kênh Phát thanh ( 1 bằng tiếng phổ thông MR, 1 phát chung đối ngoại quốc tế và tiếng dân tộc thiểu số ). MR là quốc gia đa dân tộc ( 153 dân tộc ), song ngoài tiếng phổ thông MR thì chỉ vài ba thứ tiếng dân tộc khác được phát sóng ( VOV của ta phát 12 thứ tiêng dân tộc thiểu số ). Còn lĩnh vực truyền hình, MR có 2 kênh tự sản xuất, đó kênh MRTV3, MRTV4. Số kênh truyền hình nước ngoài được phát trên TV của MR rất ít. Chính vì vậy, người dân MR không có nhiều sự lựa chọn trong lĩnh vực Phát thanh & truyền hình nói chung. 5 ngày ở MR, theo dõi TV của họ thấy chương trình còn khá nghèo nàn. Hôm chúng tôi thăm trụ sở ở Yangon, phía bạn có đưa chúng tôi thăm dàn nhạc dân tộc và dàn nhạc hiện đại của Đài, nếu so với Nhà hát VOV của Việt nam thì họ còn thua xa. Ngay phương tiện tác nghiệp ( máy ghi âm, camera ) thì vẫn cũ kỹ, lạc hậu ( như thời kỳ bao cấp ở ta ). Có một điểm đáng chú ý, các vị lãnh đạo của Đài PT&TH quốc gia MR phần đông từ quân đội chuyển sang. Điều này hoàn toàn hợp lý, khi mà chính quyền MR vốn là chính quyền quân sự dưới sự lãnh đạo của Thống chế Than-Suề ( nay ông này là Tổng thống ), mới chuyển sang dân sự, nên theo đó, các vị lãnh đạo quân sự các cấp của họ cũng được “ dân sự hóa “ chuyển sang giữ các cương vị chủ chốt. Các cấp của Đài PT&TH MR sử dụng tiếng Anh khá tốt ( MR vốn là thuộc địa của Anh, đến năm 1948 mới thoát khỏi ách thuộc địa, trở thành quốc gia độc lập, dưới sự lãnh đạo của Tướng Aung San, người được suy tôn là anh hùng dân tộc giải phóng MR, là thân phụ của bà Aung San Suu Kiu, lãnh đạo của phe đối lập chính trị ở MR hiện nay ). Với đà cải cách mở cửa, dân chủ hóa hiện nay, có thể MR đang phải đối mặt trước những bất ổn chính trị, song chắc chắn, nền báo chí truyền thông nói chung, lĩnh vực PH&TH nói riêng của MR sẽ có đất sống...
                      #26
                        tamvanvov 16.09.2012 10:12:54 (permalink)
                        Myanmar du ký ( V )

                        5. Đá quý & châu ngọc MR ở châu Đức Hồng.

                        Châu Đức Hồng là một đơn vị hành chính tự trị thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, có đường biên giới chung với Myanmar. Như tôi đã nói ở phần trước, mảnh đất này vốn là chiến trường xưa thời Tam Quốc ( TK thứ 2 sau CN ), nơi Gia Cát Khổng Minh lãnh đạo đội quân nhà Thục Hán ( Lưu Bị ) đánh nhau với một số bộ lạc ở khu vực Tây Nam Trung Hoa, do Mạnh Hoạch cầm đầu ( MR có 153 dân tộc, trong đó, nhiều dân khu vực phía Bắc của MR thờ Mạnh Hoạch làm Tổ ). Châu Đức Hồng có mấy thành phố, trong đó đáng kể là Mang Thị ( châu lỵ ) và Thụy Lệ ( có cửa khẩu quốc tế với MR ). Châu Đức Hồng có sân bay, hằng ngày có mấy chuyến bay đi Côn Minh và vài ba thành phố lớn thuộc duyên hải phía đông Trung Quốc. Sở dĩ vậy, bởi đây là khu vực chế tác và trung chuyển đá quý, châu ngọc theo đường dây ( MR - Đức Hồng - Côn Minh, Quảng Châu, Thượng Hải, Hồng Kông ...). Mùa thu năm 2008, tôi có chuyến đi đến Đức Hồng 3 ngày. Tại đây, tôi đã được tận mắt chứng kiến các hoạt động mua bán đá quý, châu ngọc từ MR sang...
                        #27
                          tamvanvov 18.11.2012 18:05:47 (permalink)
                          Myanmar du ký VI

                          6. Hệ thống Phát thanh & truyền hình

                          Hiện nay, hệ thống Phát thanh & truyền hình của MR còn chưa mấy phát triển. Sở dĩ vậy, là do sau nhiều năm duy trì chính quyền quân sự, bị Phương Tây cấm vận nên kinh tế đất nước kém phát triển; thêm nữa, chính sách đóng cửa khép kín của quốc gia Phật giáo này ít nhiều tạo ra một xa hội tương đối thuần phác. Có thể coi đó là nguyên nhân chính khiến cho toàn bộ hệ thống thông tin báo chí nói chung ( trong đó có PT&TH ) kém đa dạng, phát triển. Đài PT&TH của MR trực thuộc Bộ Thông tin, có trụ sở chính đóng tại Yangon. Năm 2006, khi thủ đô rời đến Nay Pyi Taw, chính phủ MR cho xây dựng trụ sở mới của Đài PT&TH quốc gia ở ngoại vi thuộc một vùng quê, cách trung tâm thủ đô chừng 1 giờ xe chạy.

                          Tòa nhà của Đài PT&TH mới có cấu trúc thấp tầng, khá hài hòa và thiết bị máy móc công nghệ tương đối hiện đại. Nếu máy móc thiết bị kỹ thuật PTTH của Đài tại Yangon chủ yếu là kỹ thuật analog, trên băng từ, thì ở trụ sở mới, toàn bộ sử dung kỹ thuật số ( digital ), song vẫn có dự phòng bằng kỹ thuật analog trong những trường hợp bất trắc. Hiện tại, phần lớn các chương trình phát thanh và truyền hình của MR vẫn được sản xuất ở Văn phòng tại Yangon, bởi đây tuy là cố đô, song vẫn là một trung tâm chính trị, ngoại giao, sản xuất, thương mại của MR. Nhiều đại sứ quán ( trong đó có Đại sứ quán Vịêt Nam ) vẫn đóng ở Yangon. Hiện tại, MR có 2 kênh Phát thanh ( 1 bằng tiếng phổ thông MR, 1 phát chung đối ngoại quốc tế và tiếng dân tộc thiểu số ). MR là quốc gia đa dân tộc ( 153 dân tộc ), song ngoài tiếng phổ thông MR thì chỉ vài ba thứ tiếng dân tộc khác được phát sóng ( VOV của ta phát 12 thứ tiêng dân tộc thiểu số ). Còn lĩnh vực truyền hình, MR có 2 kênh tự sản xuất, đó kênh MRTV3, MRTV4. Số kênh truyền hình nước ngoài được phát trên TV của MR rất ít. Chính vì vậy, người dân MR không có nhiều sự lựa chọn trong lĩnh vực Phát thanh & truyền hình nói chung. 5 ngày ở MR, theo dõi TV của họ thấy chương trình còn khá nghèo nàn. Hôm chúng tôi thăm trụ sở ở Yangon, phía bạn có đưa chúng tôi thăm dàn nhạc dân tộc và dàn nhạc hiện đại của Đài, nếu so với Nhà hát VOV của Việt nam thì họ còn thua xa. Ngay phương tiện tác nghiệp ( máy ghi âm, camera ) thì vẫn cũ kỹ, lạc hậu ( như thời kỳ bao cấp ở ta ). Có một điểm đáng chú ý, các vị lãnh đạo của Đài PT&TH quốc gia MR phần đông từ quân đội chuyển sang. Điều này hoàn toàn hợp lý, khi mà chính quyền MR vốn là chính quyền quân sự dưới sự lãnh đạo của Thống chế Than-Suề ( nay ông này là Tổng thống ), mới chuyển sang dân sự, nên theo đó, các vị lãnh đạo quân sự các cấp của họ cũng được “ dân sự hóa “ chuyển sang giữ các cương vị chủ chốt. Các cấp của Đài PT&TH MR sử dụng tiếng Anh khá tốt ( MR vốn là thuộc địa của Anh, đến năm 1948 mới thoát khỏi ách thuộc địa, trở thành quốc gia độc lập, dưới sự lãnh đạo của Tướng Aung San, người được suy tôn là anh hùng dân tộc giải phóng MR, là thân phụ của bà Aung San Suu Kiu, lãnh đạo của phe đối lập chính trị ở MR hiện nay ). Với đà cải cách mở cửa, dân chủ hóa hiện nay, có thể MR đang phải đối mặt trước những bất ổn chính trị, song chắc chắn, nền báo chí truyền thông nói chung, lĩnh vực PH&TH nói riêng của MR sẽ có đất sống...
                          #28
                            tamvanvov 09.12.2012 10:41:02 (permalink)
                            I.Trở lại xứ Gà trống Gô-loa ( I )

                            1. Le Procope, quán café lâu đời nhất châu Âu

                            Tôi xin bắt đầu ký sự “ Trở lại xứ Gà trống Gô-loa“ của mình bằng bữa tiệc chiêu đãi chia tay của phía bạn với đoàn cán bộ Việt Nam trong đợt học tập ngắn hạn ( 06.10 - 21.10.2012 ) tại Cộng hòa Pháp, trường L’ ENA ( Trường Hành chính quốc gia Pháp ).
                            Đơn giản, bởi bữa tiệc chiêu đãi này là hoạt động cuối cùng trước khi lên máy bay về nước của của Đoàn cán bộ Việt Nam sang tham dự khóa đào tạo về “ Cải cách hành chính công “ theo chương trình 165 của ta, tại một quán café-restaurant lâu đời nhất châu Âu. Thêm nữa, với riêng tôi, Le Procope gây ấn tượng mạnh mẽ hơn là những công trình văn hóa-tôn giáo lâu đời và nổi tiếng của Pháp mà ai cũng biết như : Tháp Eiffel, Khải hoàn môn, Bảo tàng Luvre, Nhà thờ Đức Bà, Nhà hát Opera... Tôi xin được nói ngay lý do vì sao Le Procope lại gây ấn tượng mạnh nhất với tôi trong chuyến trở lại nước Pháp, sau 16 năm...
                            Ấy là, những thông tin sau đây, có thể không mới với nhiều người, song với tôi, nó làm sống dậy cả một thời kỳ lâu dài của lịch sử nước Pháp, góp phần làm thay đổi châu Âu và thế giới :
                            Le Procope được thành lập từ năm 1686, bởi một người gốc Palermo, Italia có tên là Franceso Procopio Dei Coltelli, tại số 13 Rue de l’Ancienne- Comédie, Paris ( xưa là Rue des Fosses Saint- Germain ). Đây là quán café lâu đời nhất châu Âu, và không chừng, lâu đời nhất thế giới còn tồn tại đến ngày nay cũng nên ( tôi không dám chắc điều này, mặc dù người Pháp vẫn tự hào cho là vậy ).
                            Nơi đây, từng là chỗ lui tới thường xuyên của nhiều nhân vật lẫy lừng thế giới, đó là, các triết gia, văn sĩ, thi nhân: La Fontaine, Jean-Jacques Rousseau, Voltaire, Victor Hugo, A. Musset, P. Verlaine ,G. Flaubert, O.Balzac, Anatole France …; các nhà hoạt động cách mạng và anh hùng: Robespierre, Danton, Marat và Napoleon Bonaparte... Và người ta cho rằng, tại đây, nhà tư tưởng-nhà văn Diderot đã soạn cuốn “Từ điển bách khoa toàn thư”, chính trị gia Benjamin Franklin đã viết Hiến pháp Hoa Kỳ, còn thi sĩ Paul Verlaine thường nhâm nhi café và trí tưởng bay bổng cùng những vần thơ của tập La Bonne Chanson ( Bài hát hay ), và Napoleon Bonaparte thì đã từng vội vã bỏ quên chiếc mũ đội đầu khi vị anh hùng này mới là viên trung uý pháo binh...
                            Rồi đó, chiếc phin pha café được ông chủ quán đầu tiên sáng chế ra và áp dụng tại quán này, sau dần lan truyền khắp thế giới đến ngày nay; và nữa, là những kỷ vật, bút tích của những con người lỗi lạc còn được lưu giữ tại đây, ngay cả những khẩu hiệu cho cả loài người, được các vị lãnh tụ cách mạng tư sản Pháp đề xướng là Tự do-Bình đẳng-Bác ái ( Liberté, Egalité, Fraternité )...
                            Chừng ấy thôi, cũng đủ làm nên một Le Procope lừng danh thế giới. Thử hỏi, được ngồi ăn và nhâm nhi café trong một quán như vậy, làm sao không xúc động cơ chứ !?
                            Trở lại với bữa tiệc hôm ấy. Sau lễ trao giấy chứng nhận khóa học tại Trường L’ ENA, ông Chủ nhiệm khoa Quan hệ quốc tế của trường cùng các cộng sự cho hay là mời đoàn cán bộ Việt Nam đi dự tiệc bế mạc chia tay tại một nhà hàng nổi tiếng nhất Paris. Nghe vậy, tôi chỉ nghĩ là sẽ đến ăn tại một quán ăn đặt trên tầng chót vót của toà nhà Montparnasse- cao nhất Paris ( như khóa học của Việt Nam ngay trước chúng tôi đã dự ). Trên đường đi, ông Chủ nhiệm khoa tự nhận làm hướng dẫn viên du lịch bất đắc dĩ, khi ấy, mới tiết lộ là đang đưa đoàn Việt Nam đến ăn tiệc tại quán Le Procope.
                            Bữa tiệc ấy, trường L’ENA đã phải đặt chỗ trước cả tuần. Bên ngoài, cùng với biển tên quán, còn có tấm biển đá to hình tròn ghi danh các danh nhân từng là khách hàng của quán trong lịch sử tồn tại 326 năm đến nay của mình. Quán đã đông kín, trừ hai dãy bàn dành cho đoàn cán bộ chúng tôi. Tiệc khai vị bằng món khoai tây chiên và rượu mứt quả truyền thống của nhà hàng. Món ăn chính là sa-lát cá hồi và các sác-đin hầm khoai tây nhắm cùng vang Pháp, bánh mì đen. Bữa tiệc đầm ấm, mọi người rì rầm nói chuyện với nhau, chủ yếu là về văn hóa và ẩm thực của hai nước Việt-Pháp. Tráng miệng bằng nho và tách café Brésil trứ danh của quán. Phía bạn ngỏ ý muốn được thưởng thức dân ca Việt Nam, và đã được đáp ứng bằng mấy bài quan họ qua giọng ca nghiệp dư của hai thành viên trong đoàn vốn gốc Bắc Ninh, Bắc Giang.
                            Tàn tiệc, tôi còn nấn ná lại phía sau, cùng người phiên dịch tiếng Pháp, ngó nghiêng chụp ảnh một số kỷ vật lưu giữ ở quán.
                            Chụp pô ảnh kỷ niệm trước cửa quán, rồi chạy gằn cho theo kịp đoàn, tôi thầm nghĩ, một ngày nào đó, sẽ quay trở lại nơi đây...

                            ( còn nữa )
                            #29
                              tamvanvov 21.12.2012 16:13:18 (permalink)
                              I. Trở lại xứ Gà trống Gô-loa ( 2 )

                              2. Giao thông Paris

                              Đi đến bất cứ nơi nào, dù là trung tâm đô thị hoặc vùng xa xôi hẻo lánh, thì thứ người ta phải vập mặt đầu tiên là Giao thông.
                              Lần trở lại Pháp này, phải trải qua chuyến bay đêm kéo dài khoảng 12 giờ đồng hồ của Vietnam Airlines ( từ 11 rưỡi đêm giờ Việt Nam tại Nội Bài đến 6 rưỡi sáng hôm sau theo giờ Pháp tới sân bay Charle de Gaulle, lệch nhau 5 múi giờ ).

                              Lần trước sang Pháp vào cuối thu năm 1996, ấy là lần đầu tiên tôi đặt chân đến xứ sở Gà trống Gô-loa và đồng thời cũng là chuyến xuất ngoại đầu tiên của tôi. Khi ấy, tôi chưa có kinh nghiệm gì, lại thêm cảm giác lạ lẫm nên suy nghĩ, thức ngủ lộn xộn. Tôi nhớ, trên chuyến bay của Air France, từ Nội Bài qua Bangkok nghỉ 2 tiếng lấy thêm khách rồi bay một mạch khoảng hơn chục tiếng gì đấy và đến sân bay Charles de Gaulle vào lúc 4 giờ sáng. Trên máy bay, thứ âm thanh thường trực trong tai là tiếng động cơ máy bay và chen lẫn là tiếng trẻ con quấy khóc ( có mấy người ngoại quốc qua Việt Nam xin con nuôi, chúng còn quá nhỏ nên quấy khóc suốt chuyến bay ). Trong bữa ăn trên máy bay, tôi đã xin tiếp viên một ly cô-nhắc uống và ngà ngà để chợp mắt và quên thời gian.
                              Lần này, kinh nghiệm bay quốc tế của tôi đã dày dặn, thêm nữa đoàn đi những 21 người, lại được bố trí ngồi liền ghế, nên chuyện phiếm quên thời gian. Xin nói thêm, sân bay quốc tế Charles de Gaulle là sân bay bậc nhất châu Âu, xét về lượng khách thì nó xếp sau sân bay Heathrow của London ( Anh ), và hơi nhỉnh hơn sân bay Quốc tế Frankfurt ( Đức ), song nếu tính về lượng máy bay hoạt động, và lượng hàng hóa vận chuyển, sân bay Charles de Gaulle xếp hạng nhất. Trên đường từ sân bay về khách sạn, ấn tượng mạnh nhất đối với tôi là chiếc máy bay siêu thanh dân dụng Concorde sau khi ngừng bay vào năm 2003 được đưa vào nằm bệ tại một góc sân bay, trông vẫn rất ngạo nghễ, và sau đó là dòng xe cộ đông đặc suốt dọc đường.
                              Từ khách sạn nơi tôi ở thuộc ngoại ô phía Nam Paris kề bên sông Xen, đến nơi chúng tôi học là Trường Hành chính Quốc gia Pháp ( L’ ENA ) thuộc quận 6, kề bên Vườn Luxembourg, chỉ chừng 12 km, nhưng hàng ngày chúng tôi di chuyển bằng ô tô phải mất thời gian khoảng trên dưới 1 tiếng rưỡi đồng hồ. Paris không tắc đường, mà chỉ ùn xe, nhất là vào giờ cao điểm đi làm buổi sáng và tan công sở buổi chiều.
                              Dân số Paris hiện gần 12 triệu người, song khách du lịch thì vô kể, có thể nói là cao nhất thế giới, chính vì vậy mà hệ thống giao thông của Pr. luôn quá tải. Hiện tại, hệ thống giao thông đường bộ của Pr có 16 tuyến xe điện ngầm ( metro ), 5 tuyến RER ( xe lửa ngoại ô ), 2 tuyến tàu điện nổi và hơn hai trăm tuyến xe bus ngang dọc, lại thêm mạng lưới taxi, nhưng cũng không xuể. Mặc dù phương tiện giao thông công cộng tốt như vậy, song người dân Paris vẫn thích sở hữu xe hơi cá nhân, nhất là các gia đình từ trung lưu trở lên ( mỗi gia đình loại này có từ 2-3 chiếc ). Tuy vậy, di chuyển trên các phương tiện công cộng vẫn là sự lựa chọn tối ưu ở Paris. Khi đến tìm hiểu Công ty RATP, công ty điều hành các phương tiện giao thông công cộng đường bộ của Paris, Mr. Lionel Chaty, Trưởng dự án các nguồn nhân lực của RATP cho biết, toàn bộ hệ thống phương tiện công cộng của RATP vận chuyển thường xuyên 12 triệu lượt người / ngày/ toàn Paris. Thật là một con số ấn tượng.
                              Đường nội đô Paris hẹp, đặc biệt là những khu phố cổ, liên tiếp ngã tư ngã năm đèn đỏ, vậy là ùn xe ngay thôi. Vào giờ cao điểm, xe nhích từng chút, đến sốt ruột. Tuy nhiên, các phương tiện đều tuyệt đối tuân thủ luật và tín hiệu giao thông, không có tình trạng lộn xộn chen lấn, tranh đường, di chuyển kiểu “ dơi bay “ như ở xứ mình. Chính vì vậy, tai nạn giao thông ở Paris rất ít, phần lớn chỉ va quệt xước xe, móp vỏ mà thôi...
                              Nơi đỗ xe cũng là một vấn đề nan giải, đường phố mua sắm thì đỗ xe thế nào ? Paris cho phép đỗ xe bên cả hai mép đường ( nếu có thể ) và còn được phép để một nửa thân xe lên vỉa hè theo chiều chéo. Còn xe đỗ dưới mép đường, chiếc nọ nối chiếc kia, đầu đuôi cách nhau chỉ 15-30 cm. Ấy vậy, khi cần, họ vẫn lấy xe ra đi một cách ngon lành. Quả là toàn những tay lái tài tình, dĩ nhiên, đều phải 4 đến 5 “ đỏ “ mới lách ra nổi. Mấy năm gần đây, Paris học theo Amsterdam, tăng cường phương tiện xe đạp, nên có nhiều điểm cho thuê xe đạp công mọc lên trên hè phố.
                              Song với Paris-kinh đô Ánh sáng-thiên đường du lịch & mua sắm, những lúc ùn xe như vậy, nếu không có việc gì quá vội, ta sẽ không còn cảm giác sốt ruột nữa, mà thấy thích thú là khác, khi có điều kiện tận mắt quan sát, ngắm nghía đời sống Paris thường nhật, từ nhiều góc độ, và qua nhịp sống thật chậm...

                              ( còn nữa )
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 10 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 136 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9