VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I )
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 10 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 136 bài trong đề mục
tamvanvov 02.01.2013 20:39:27 (permalink)
Châu Âu du ký:
I. Trở lại xứ Gà trống Gô-loa ( 3 )

3. Một Paris cổ kính & hoa lệ...

Paris, kinh đô Ánh sáng ( Ville lumière ). Người ta đã mệnh danh cho Paris là thế, hẳn phải có lý do của nó. Trước hết, Paris có một lịch sử lâu đời.

“Paris có một lịch sử lâu đời, gắn liền với lịch sử Pháp và cả châu Âu. Từ một thành trì của người Parisii thuộc bộ tộc Gaulois, nơi đây trở thành một thành phố La Mã vào thế kỷ 1. Tới thế kỷ 6, vua Clovis I lấy Paris làm thủ đô cho vương quốc Franc. Trải qua nhiều thế kỷ biến động, mặc dù không liên lục, Paris vẫn là thủ đô của Pháp. Tới thế kỷ 16, thành phố là nơi nổ ra Cách mạng Pháp, rồi sau đó trở thành thủ đô của Đệ nhất đế chế thời Napoléon Bonaparte. Vào thế kỷ 17, Paris bắt đầu có những phát triển vượt bậc và được quy hoạch lại dưới thời Napoléon III. Sau Công xã Paris, thành phố bước vào thời kỳ Belle Époque và trở thành trung tâm văn hóa của cả châu Âu. Qua hai cuộc chiến tranh thế giới, Paris ít bị hủy hoại và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn hậu chiến. Ngày nay, thành phố tiếp tục là một trung tâm văn hóa, kinh tế của cả thế giới “. Đấy là những dòng tư liệu tóm tắt về lịch sử của Paris.
Vậy sao thế giới lại gọi Paris là Thành phố Ánh sáng? Người ta lý giải rằng: Tên gọi này được bắt đầu từ nghĩa đen của nó, ấy là từ cuối thế kỷ 17, viên tướng cảnh sát đầu tiên của Paris là Gabriel Nicolas de La Reynie đã ra lệnh thắp sáng những khu vực công cộng vốn là tụ điểm có nhiều tệ nạn của thành phố và xem đây là một biện pháp phòng chống tệ nạn xã hội hữu hiệu. Song, bởi Paris nổi tiếng với vị trí trung tâm văn hóa, tri thức của cả thế giới, nên tên gọi này thường được người ta hiểu theo nghĩa bóng. Và thực tế cho thấy, Paris hội đủ và xứng đáng với hàng loạt các cụm từ: Trung tâm Chính trị-Kinh tế-Văn hóa-Du lịch của châu Âu và thế giới. Nếu chỉ đem riêng cụm từ “ Văn hóa” mà chẻ nhỏ ra, ta thấy thành bao nhiêu mảnh : văn học nghệ thuật, âm nhạc, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, bảo tàng, thời trang,...
Trở về với thực tại, cảm nhận của mình về một Paris hoa lệ. Quả là tôi không dám động chạm đến bất cứ một thứ gì, loại hình cụ thể nào trong những liệt kê trên, đơn giản, bởi nó quá phong phú đến mức có viết bao nhiêu cũng vẫn là không đủ. Song, mỗi phút giây sống ở đây, có hai loại cảm giác thường trực trong tôi, ấy là, thời gian trôi chậm vậy và sao thời gian trôi nhanh thế!... Có gì mâu thuẫn chăng ?
Mỗi buổi sáng thức dậy, vừa nấu ăn sáng vừa nhâm nhi tách café, tranh thủ gọi điện về Việt Nam, ở nhà khi ấy đã đang trưa, lòng tự nhủ, ở bên này, hôm hay ta còn cả một ngày để tìm hiểu và khám phá Paris kia mà. Để rồi đến tối, sau bữa ăn, lúc đó, ở bên nhà thời gian đã qua ngày hôm sau, mới tự nhủ, cả ngày hôm nay, mình vẫn chưa kịp tìm hiểu thêm gì về Paris cả. Cứ thế này thì mấy đã đến ngày chia tay phải Paris mà mình vẫn chưa khám phá gì nhiều về thành phố đầy bí ẩn này... Với những người mới đến Paris lần đầu, có lẽ họ sẽ có cảm giác khác, ấy là sự lạ lẫm và biết được bao nhiêu hay chừng ấy. Còn với tôi, từ 16 năm về trước, đã có gần hai tháng trời học tập ở đây, biết cũng nhiều mà chưa biết còn gấp bội. Vậy mới sinh cái cảm giác thèm khát được khám phá hết thảy những gì mình mới biết sơ sơ, hoặc mới chỉ biết qua sách vở, phim ảnh...
Thế nên, mỗi khi ngang qua một cây cầu bắc qua sông Xen ( Seine ), mỗi khi nhìn thấy ngọn tháp Eiffel, hay chóp nhà thờ Đức Bà ( Notre-Dame de Paris ), hay xe chạy ngang qua Khải Hoàn Môn trên đại lộ Champs- Élyssées, ngang quảng trường Concorde, hoặc những phút tha thẩn trong vườn Luxembourg, nhẩn nha trên đồi Montmartre dưới bóng nhà thờ Sacré-Coeur phóng tầm mắt ra xa bao quát toàn bộ thành phố, hoặc phút bồi hồi trước bức họa Monna Lisa trong bảo tàng Luvre, ... tất thẩy, đều khiến mình cố căng hết mọi giác quan để mà thấy, mà cảm nhận...
Rồi nữa, những cửa hàng sang trọng trên đại lộ Champs- Élyssées, đại lộ Montaigne nơi có nhiều cửa hiệu thời trang cao cấp, khu mua sắm Galeries Lafayette, Printemps... cho ta thấy một Paris cổ kính và hoa lệ...
Lẽ dĩ nhiên, không phải chỉ duy nhất một Paris thành Paradis, có nghĩa là thiên đường, mà còn có một Paris đời thường...

( còn nữa )
#31
    tamvanvov 27.01.2013 07:58:17 (permalink)
    Châu Âu du ký::

    I. Trở lại xứ Gà trống Gô-loa ( 4 )
    4.... Và một Paris đời thường...


    Ai đó, đã từng ra nước ngoài, từng đến những đô thị, trung tâm văn minh của thế giới, nếu muốn biết nhịp sống nhanh của nó, chỉ cần bước chân xuống ga metro ( tàu điện ngầm ) thì sẽ thấy ngay.
    Mặc dù, vào giờ cao điểm của giao thông, nếu bị nhỡ tàu, bạn chỉ mất tối đa là 3 phút để đáp chuyến sau đó. Song, dường như không ai muốn phải chờ thêm, dù chỉ là một phút, thế nên, hễ bước chân xuống ga metro là người ta rảo bước, chen vai huých cánh mà chạy gằn vì không muốn bị lỡ tàu. Đơn giản, bởi không ai muốn phải chờ đợi trong dòng chảy xiết của cuộc sống thường nhật, dù biết, có nhanh hơn một chút cũng chẳng để làm gì, ngoài việc chứng minh, mình không bị bỏ tụt lại phía sau...
    Và cũng ngay tại nơi đây, đâu đó nơi góc vườn hoa, bên hàng rào hè phố xá, dưới chân cầu, trong những chiếc xe hơi cũ hỏng... có những con người sống với nhịp sống thật chậm. Chậm đến mức, dường như thời gian ngưng đọng, bởi với họ, thời gian trôi hay không, đều không nghĩa lý chi... 
    Paris, từ những thế kỷ trước, vốn được mệnh danh là Kinh đô Ánh sáng, nên các triết gia, nhà hoạt động xã hội, cách mạng, văn nghệ sĩ, nhà khoa học, muốn được nổi tiếng, được thế giới công nhận, họ đều tìm đến Paris... Cùng với đó, kéo theo làn sóng người nghèo nhập cư vào đây từ Châu Phi, châu Á, Đông Âu... Hiện tại, Paris có khoảng 1 vạn người vô gia cư ( không kể số người sống ở mức nghèo chiếm khoảng 12 % ). 
    Với người vô gia cư, người nghèo nói chung, họ sống bằng đủ các thứ nghề; lương thiện, là làm lao công theo giờ, bán hàng rong hè phố, lập ban nhạc biểu diễn quyên tiền nơi công cộng, giả trang xin tiền, cho chụp ảnh đòi tiền...; còn bất thiện, thôi thì trộm cắp, đĩ điếm, lừa đảo đủ kiểu, khôn lường... Bản thân, tôi đã tận mắt chứng kiến đám ma-cà-bông dắt díu dăm bảy đứa quây hội đồng bức khách du lịch nơi chân tháp Eiffel, bên ngoài Nhà hát Opera, và tôi cũng đã bị kéo khóa ba-lô xuýt bị móc túi, khi đi mua sắm trên phố cạnh quảng trường Concorde...
    Lẽ dĩ nhiên, người dân bình thường, người giàu có sang trọng của Paris, cũng có cuộc sống đời thường, có nhịp sống chậm của họ. Nhưng với lớp người này, họ thư giãn, sống chậm khi thả bộ ngắm phố xá, hay tập thể dục thể thao nơi góc vườn hoa yên tĩnh, khi ngồi nhâm nhi và tán gẫu ở các quán café, hay tha thẩn mua sắm nơi cửa hàng cao cấp...
    Dẫu biết, Paris đời thường còn nhiều ngang trái, khốn khó, nhếch nhác... nhưng ấy mới là cuộc sống xã hội. Từ thế kỷ trước, các nhà văn O.Balzac, V.Hugo... đã chẳng từng khắc họa một Paris đời thường với những kẻ đạo chích, đám ma-ca-bông nơi hè phố La-tinh, nơi chân cầu Pon Neuf, nơi góc vườn Luxembourg, nơi xó tối hôi hám ngập ngụa cống rãnh ...
    Hiểu thêm một Paris đời thường, biết quý thêm một Paris cổ kính và hoa lệ... Để rồi, đắm vào một Paris với những vỉa tầng lịch sử, văn hóa còn lẩn khuất, chìm ẩn...
    ( còn nữa )
    #32
      tamvanvov 27.07.2013 17:29:40 (permalink)
      Thăm Hòn Đất

      Địa danh này, tôi đã biết từ hồi còn đi học. Là biết trên giấy tờ qua văn học thôi. Ngày ấy, chiến tranh phân miền Bắc-Nam đang ở thời kỳ ác liệt. Phần lớn thế hệ thanh niên, học sinh chúng tôi, ai cũng biết đến tác phẩm Hòn Đấtcủa nhà văn Anh Đức ( Bùi Đức Ái ). Tác phẩm nổi tiếng bởi mang chủ đề về đấu tranh giải phóng đất nước và được đưa vào sách giáo khoa văn học giảng dạy trong nhà trường...
      Những nhân vật chính là chị Sứ, anh Hai Thép, thằng Xăm, mẹ con Cà Sợi, Cà Mị thì ai cũng nhớ. Để viết tiểu thuyết này, nhà văn Anh Đức đã lấy cảm hứng và nguyên mẫu từ thực tế cuộc đấu tranh chống Mỹ Ngụy của người dân vùng Hòn Đất ( Kiên Giang ), vùng đất An Giang ( quê hương của nhà văn ) và rộng ra là cả miền Tây Nam Bộ ở vào thời kỳ chiến tranh đặc biệt, đầu những năm sáu mươi của thế kỷ 20.


      Cách đây gần ba chục năm, khi vào công tác tại huyện Tri Tôn ( An Giang ), tôi đã có đôi lần sang Hà Tiên theo đường thủy, từ kinh Tám Ngàn, thông sang Kiên Lương, đi ngang qua Hòn Đất, song vẫn chưa một lần ghé thăm khu Ba Hòn. Sống và làm việc ở Tri Tôn những 7 năm, tôi nhiều lần đi công tác đến xã Lương Phi, vốn là quê hương anh hùng liệt sĩ Phan Thị Ràng, nguyên mẫu để nhà văn Anh Đức xây dựng nhân vật chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn Đất của mình. Rồi tôi cũng nghe mọi người nói rằng, ông Sáu Mì ( tức Phan Văn Mì ) khi ấy đương chức Phó bí thư huyện ủy Tri Tôn là em trai ruột chị Phan Thị Ràng. Và cùng với đó, còn có những câu chuyện truyền miệng trong dân gian như một huyền thoại về cuộc đời hoạt động cách mạng của chị Sứ ( anh hùng liệt sĩ Phan Thị Ràng ).
      Cuối tháng bảy, lần đầu tiên tôi đặt chân đến Hòn Đất. Khu mộ và nhà tưởng niệm anh hùng liệt sỹ Phan Thị Ràng, nằm ngay dưới chân Hòn Me. Tôi và những đồng nghiệp của mình vào thắp hương thăm viếng. 
      Trên mộ chí chị Phan Thị Ràng có bia ghi :
      Phan Thị Ràng sinh năm 1937, quê quán xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
      Năm 1950, chị bắt đầu tham gia cách mạng. Năm 1958, chị được giao công tác trinh sát tại xã Xà Tón (thuộc An Giang), sau chuyển về xã Trí Đạo thuộc chi khu Kiên Giang, phụ trách thanh vận, giao liên. Năm 1960, chị bị bắt trên đường làm nhiệm vụ. Dù bị tra tấn, chị vẫn một lòng trung kiên với cách mạng và đã hy sinh khi vừa bước sang tuổi 25 (1962). Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Phan Thị Ràng được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu” Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân...

      Không gian của khu tưởng niệm này thật lý tưởng. Dưới chân Hòn Me, tựa lưng vào núi, hóng gió biển. Cùng với khu mộ, nhà bia anh hùng liệt sĩ Phan Thị Ràng, còn có khóm tượng đá lớn, biểu tượng cho khí thế vùng lên đấu tranh và đức hy sinh lớn lao vì sự nghiệp thống nhất đất nước của quân và dân Hòn Đất, Kiên Giang ...
      Tôi cùng với các đồng nghiệp, thắp hương tưởng nhớ trước mộ chị Sứ. Giây phút ngắn ngủi thôi, mà biết bao hình ảnh, chi tiết về chị Sứ và đồng đội trong cuộc đấu tranh của nhân dân Hòn Đất được diễn tả trong cuốn tiểu thuyết của Anh Đức ngày nào, sống dậy, ùa về từ ký ức... Ai đó, nhắc nhỏ với nhau về một vài chi tiết trong cuốn tiểu thuyết Hòn Đất... 
      Những năm tháng đó, những nhân vật văn học có nguyên mẫu từ cuộc đời thật như anh hùng Núp, anh Trỗi, chị Sứ, chị Út Tịch... đã tiếp lửa cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng, có sức mạnh tinh thần lớn lao, cổ vũ ý chí cho toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Ấy là sức mạnh của con người, kết hợp với sức mạnh của văn học... 
      Trên đỉnh Hòn Me, Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh Kiên Giang đã dày công dựng một không gian trưng bày các vũ khí và chứng tích về hai cuộc chiến tranh trên vùng đất Ba Hòn. Những gì thô sơ từ vũ khí của ta và hiện đại trong vũ khí của Mỹ Ngụy, cho thấy sự không cân sức về sức mạnh vũ khí. Song cuối cùng, sức mạnh về tinh thần và ý chí đấu tranh mới là yếu tố quyết định làm nên chiến thắng. 
      Và chính những gì mà giờ đây ta thấy về sự không cân đối trong sức mạnh vũ khí, lại càng minh chứng cho sự gian khổ, hiểm nguy mà chị Ràng và các đội của mình phải đối mặt hàng ngày trong những tháng năm đó...
      Với những đất nước phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc như Việt Nam mình, đức hy sinh vì sự nghiệp của người dân, thật chẳng có gì đo được cả !...
       
      #33
        tamvanvov 25.08.2013 11:28:18 (permalink)
        Châu Âu ký sự : 
        I.Trở lại xứ Gà trống Gô-loa ( 5 )

        5. Paris từ café hè phố...
        Nói đến nước Pháp, nhất là Paris, mà không đả động gì đến những quán café thì sẽ là một thiếu sót. Lại càng đáng trách hơn, nếu bỏ quên café hè phố...
        Lẽ dĩ nhiên, café Paris, thượng thặng vẫn là quán Le Procop được thành lập từ năm 1686, lâu đời nhất châu Âu, là nơi lui tới thường xuyên của các bậc danh nhân nổi tiếng thế giới ( tôi đã nêu ở phần 1 ký sự này ); rồi đó, là các quán café nổi tiếng khác như “Le Chat Noir”, nằm trong khu đồi Monmartre, quán “Café de Flore” và quán “Les Deux Magots”...


        Vâng, đấy là những quán café lâu đời và nổi tiếng của Paris, dành cho giới thượng lưu, quan chức, văn nghệ sĩ, du khách khắp thế giới tò mò muốn biết... Còn với phần đông người dân Paris, café hè phố mỗi sáng, ngày ngày, từ lâu đã thành một thói quen, thành phong cách, và cao hơn là thành văn hóa đời thường...
        Từ thế kỷ 17, ở Pháp, đặc biệt là Paris, các bậc vua chúa, giới quý tộc thượng lưu, các văn nghệ sĩ, triết gia và các nhà cách mạng đều có cái thú nhâm nhi café, tán gẫu, tranh luận, ngồi viết sách, hoặc bàn bạc việc tổ chức biểu tình, làm cách mạng tại các quán café... Cái thú ấy lan dần sang giới bình dân, và nhiều năm sau, dần trở thành thói quen, thành phong cách sống. 
        Người ta cho biết, hiện trên toàn nước Pháp có khoảng 70 ngàn quán café để phục vụ cho 5 triệu lượt người uống café mỗi ngày. Điều đó, cho thấy người Pháp coi café như là một nhu cầu thiết yếu, dùng café đến cỡ nào, sành café ra sao ?...
        Loại café được người dân Paris lựa chọn là loại café thượng hạng, café Arabica ( cà phê chè ), phần lớn được nhập từ Brésile; còn loại café Robusta ( cà phê vối ) có nguồn gốc châu Phi, châu Á ( trong đó có Việt Nam ) ít được dùng hơn. 
        Nước Pháp, cụ thể là Paris, có chủ chương và chính sách ưu tiên cho nhu cầu hưởng thụ café của người dân. Chính vì vậy, các quán café được phép lấn ra đến một nửa hè phố, tạo nên café hè phố, thành phong cách, văn hóa café độc đáo của riêng mình.
        Chuyện râu ria của văn hóa café Paris, ấy là chuyện “ thăm viếng ngài Uy-li-am Cường “ hàng ngày của mọi người. Thường ra, Paris có hệ thống nhà vệ sinh công cộng ( toilet, WC ) trên phố xá khá tiện lợi. Khi cần, người ta chỉ cần bỏ tiền kim loại ( trước đây là 2 franc, nay là 2 eur thì phải ) là được thoải mái xả thải rồi. Song, không hiểu từ bao giờ, người dân Paris, nhất là dân nghiền café, đã biết kết hợp hai nhu cầu ấy với nhau. Khi có nhu cầu đi toilet, thay vì tìm đến cái Toilet công cộng, người ta lại tìm vào quán café hè phố, đơn giản, bởi cũng chỉ phải bỏ ra số tiền tương đương ( hoặc nhỉnh hơn một chút ), thì cùng một lúc, được hưởng thụ cả hai thứ nhu cầu, ấy là được uống một tách café, và có thể đi toilet nhờ của nhà quán. 
        Ôi, thật là một sáng kiến tuyệt diệu, nhất cử lưỡng tiện!... Mười sáu năm trước, khi học ở Paris, chúng tôi đã được một Việt kiều cao tuổi ( khi đó ông đã có hơn 50 năm sống ở nước Pháp ) bày cách cho. Giờ trở lại Paris, hỏi ra, người ta vẫn cứ “ nhất cử lưỡng tiện “ như vậy...

        ( còn nữa )
         
        #34
          tamvanvov 22.09.2013 16:38:29 (permalink)
          Châu Âu ký sự: I. Trở lại xứ Gà trống Gô-loa ( 6 )

          6... Đến bảo tàng Louvre...
          “ Louvre là một viện bảo tàng nghệ thuật và lịch sử. Có vị trí ở trung tâm lịch sử thành phố, bên bờ sông Seine. Louvre vốn là một pháo đài được vua Philippe Auguste cho xây dựng vào năm 1190. Cuối thế kỷ 14, dưới thời Charles V, Louvre trở thành cung điện hoàng gia và sau đó tiếp tục được mở rộng qua các triều đại. Từ năm 1672, khi triều đình Pháp chuyển về lâu đài Versailles, bộ sưu tập hoàng gia được lưu trữ tại Louvre. Thời kỳ Cách mạng Pháp, cung điện trở thành bảo tàng, mở cửa ngày 10 tháng 8 năm 1793... Louvre là một trong những viện bảo tàng nổi tiếng nhất thế giới, nơi trưng bày các hiện vật về những nền văn minh cổ, nghệ thuật Hồi giáo và nghệ thuật châu Âu từ thế kỷ 13 cho tới giữa thế kỷ 19. Với diện tích 210 ngàn mét vuông, Louvre trưng bày 35.000 trên tổng số 380.000 hiện vật. Trong bộ sưu tập của bảo tàng Louvre hiện nay có những tác phẩm nổi tiếng bậc nhất của lịch sử nghệ thuật, như Tượng thần Vệ Nữ, Tượng thần chiến thắng Samothrace, Mona Lisa, Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân, cùng các hiện vật giá trị về những nền văn minh cổ, như phiến đá ghi bộ luật Hammurabi, tấm bia Mesha... “.

          Đây là những dòng tóm tắt nhất về Louvre, khi nó là bảo tàng thu hút nhất thế giới. 
          Năm 1996, khi học ở Paris, tôi đã ghé thăm Louvre đôi lần, chủ yếu là vào dịp cuối tuần được miễn phí theo quy định. Khi ấy, đi quáng quàng, xem vội vàng, và hiểu biết về nó qua tài liệu cũng chưa nhiều. Tôi nhớ, lúc ấy tôi quá mất thời gian xem ngắm khu vực trưng bày hội họa, và thấy thích theo cảm tính song không mấy hiểu. Chụp ảnh thì cả đoàn 5 người có mỗi chiếc máy cơ chụp phim, nên rất chi là dè xẻn, đắn đo lâu lâu mới dám bấm một kiểu. Thế nên, cả một tháng rưỡi học ở Paris, cộng thêm mấy ngày đi hội nghị mãi tận miền Nam nước Pháp, mà giờ đây tôi chỉ còn lưu giữ được mấy chục tấm ảnh in tráng. Loanh quanh trong Louvre, mà chỉ còn giữ ấn tượng về căn phòng ở của vua Naponeon III và chiếc giường nằm của hoàng hậu. Khi về Việt Nam rồi, bạn bè hỏi, vào Louvre có đến ngắm bức tranh Mona Lisa của danh họa Leonar de Vinci không; có chiêm ngưỡng tượng Vệ nữ Milo không ?... Lúc ấy mới ngớ người ra chưa biết. 
          Lần này, thì tôi phục thù. Bước chân vào Louvre là nhăm nhăm theo hướng dẫn tìm đến thẳng phòng trưng bày bức họa nổi tiếng Mona Lisa, rồi mò tiếp đến điểm trưng bày tượng Vệ nữ Milo. Mặc dù thời gian không nhiều, chỉ khoảng 3 giờ đồng hồ, tôi cũng cố gắng lướt như bay, gắng đi gắng nhìn được càng nhiều, càng tốt, máy ảnh kỹ thuật số bấm lia lịa. Khác với lần trước, lần này tôi có cảm giác, Louvre đầy bí ẩn. Sở dĩ có cảm giác vậy, là bởi, đã đọc tiểu thuyết “ Mật mã Da Vinci “ và xem bộ phim chuyển thể cùng tên. Với mỗi bức tranh, mỗi công trình nghệ thuật, điêu khắc, mỗi hiện vật trưng bày, mình đều có cảm giác ở đó dương như ẩn chứa những ký hiệu, mật mã bí hiểm nào đó. Rờn rợn và thú vị lắm. Rồi nữa, ngắm mấy bức tượng cổ Vệ nữ, lại khiến tôi liên tưởng đến một truyện ngắn tôi không tên chính xác của ông nhà văn người Pháp là Prôxpe Mêrimê ( ông nhà văn này là tác giả của truyện ngắn Carmen nổi tiếng ). Truyện kể về một anh chàng cưới vợ, do giận nhau nhất thời đã tháo chiếc nhẫn cưới của mình đeo vào ngón tay bức tượng vệ nữ cổ mà dân làng mới vô tình đào được, và ngay đêm tân hôn, bức tượng vệ nữ đã làm thay cô dâu cái việc động phòng, đè chết chú rể. Dĩ nhiên, tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường làm cho câu chuyện thêm kỳ quái, song rõ ràng, ở đây, nội hàm của nó là sắc đẹp có thể giết chết một con người, giết chết một sự nghiệp ...; và dù, ý thức được là vậy, song nhiều khi con người ta cũng không từ bỏ khi có cơ hội được chiêm ngưỡng và hưởng thụ sắc đẹp !...
          Xin không kể nhiều về Louve nữa, bởi có nói thêm bao nhiêu thì cũng chẳng thấm tháp gì. Chỉ ước mong, một ngày nào đó, nếu được trở lại Paris, thì điểm đến hấp dẫn tôi, vẫn cứ là Louvre...
          ( còn nữa )
           
          #35
            tamvanvov 05.10.2013 11:05:03 (permalink)
            Châu Âu du ký: I.Trở lại xứ Gà trống Gô-loa ( 7 )

            7. Và nhà hát Opera Paris...
            Nói đến nước Pháp, và riêng cho Paris, chi có 3 công trình được coi là biểu tượng, ấy là : Tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn ( Cổng Chiến thắng ) và Nhà hát Opera.
            Tên gọi Nhà hát Opera, là cách gọi tắt, nôm na cửa miệng, chứ thực ra, tên chính thức là : Academie Nationale du Musique ( Viện Hàn lâm âm nhạc quốc gia ). Và đầy đủ hơn là : Academie Nationale du Musique- Théâtre de l'Opéra. Trong bài viết này, tôi chỉ nhấn mạnh mấy điểm chú ý về Nhà hát Opera mà thôi.


            Thứ nhất, về người thiết kế xây dựng Nhà hát Opera. 
            Ấy là Charles Garnier ( 1825-1898 ) đã thiết kế nhà hát này theo phong cách Tân Baroque. Khi được chọn làm người thiết kế, Charles Garnier mới 33 tuổi, tốt nghiệp trường École des Beaux-Arts và Viện hàn lâm Pháp ở Rome. Công trình được khởi công xây dựng năm 1861, dưới thời trị vì của Napoléon III. Đến khi khánh thành vào năm 1875, khi đó, Đế chế Pháp thứ hai của Louis-Napoléon ( tức Napoléon III ) bị hất cẳng sau khi đại bại trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870 và bị thay thế bởi nền Cộng hòa thứ ba. Vậy nên, mới có câu chuyện khôi hài, Chính phủ của nền Cộng hòa thứ hai, coi Charles Garnier là người của Đế chế thứ hai, đã không cho mời nhà thiết kế đến dự lễ khánh thành của Nhà hát Opera. Người ta kể rằng, mỗi khi có biểu diễn ở Nhà hát, Charles Garnier thường đến, nhưng ông không vào xem, chỉ chọn cho mình một chỗ ngồi kín đáo ở sảnh và lặng im hàng giờ nhìn ngắm, chiêm ngưỡng công trình do mình sáng tạo nên. Sau này, để ghi công và tưởng nhớ ông, người ta cho dựng tượng ông ngay trong Nhà hát và gọi nó là Palais Garnier, hay Opéra Garnier ...
            Thứ hai, câu chuyện về Bóng ma trong nhà hát ( Fantôme de L’Opera, Phantom of the Opera ).
            Phantom of the Opera được coi là vở nhạc kịch thành công nhất mọi thời đại, chúng ta đều biết là vậy. Song cội nguồn của nó từ đâu ? Vở nhạc kịch Phantom of the Opera được nhà soạn nhạc Andrew Llyod Webber dàn dựng từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn người Pháp-Gaston Leroux, lần đầu xuất bản vào năm 1911. Opera ở đây chính là nhà hát Opera là kinh đô Paris, nước Pháp, cho đến lúc đó (năm 1911) vẫn được coi là nhà hát Opera lớn nhất trên thế giới. Tuy nhân vật Phantom của Gaston Leroux được xây dựng từ một truyền thuyết về một bóng ma ẩn hiện trong Opera de Paris, nhưng cuốn tiểu thuyết vẫn bị lãng quên, cho đến khi nó được dựng thành phim vào năm 1925 thì trở thành nổi tiếng. Và đặc biệt nổi tiếng, khi được nhà soạn nhạc người Anh là Andrew Llyod Webber soạn thành vở nhạc kịch. Giờ đây, đến Opera Paris, ta có thể thấy, người ta đã dành riêng lô số 5 ( ngay cạnh lô của Hoàng gia, lô 1-3 ) là lô của Fantôme. 
            Thứ ba, câu chuyện về con số 13. 
            Theo người thuyết minh kể, sở dĩ bây giờ người ta kiêng con số 13 cũng lại được khởi nguồn từ Opera Paris. Ấy là, đã từng có một vị khán giả ngồi xem ở hàng ghế 13 đã bị chùm đèn trên vòm trần rơi xuống sát hại; rồi đã từng có một nữ diễn viên đã vấp ngã chết ở bậc thềm số 13 của Nhà hát này; và nữa, khi người ta đã bị ám ảnh bởi con số 13, mới thử thống kê xem thì Opera Paris là nhà hát thứ 13 được xây dựng ở Pháp...
            Thứ tư, phòng Mặt Trời và phòng Mặt Trăng.
            Ấy là, theo thiết kế, có hai phòng ở bên hành lang được xem là phòng Mặt trời và phòng Mặt trăng. Hai phòng này chỉ khác nhau ở hình vẽ trên vòm trần là hình bầu trời ban ngày với mặt trời và bầu trời ban đêm với trăng sao. Còn giống nhau ở chỗ, chỉ với việc thiết kế bố trí các tấm gương xung quanh, mà khi ta nhìn vào bất kỳ một tấm gương nào, cũng thấy chùm đèn chính nhân ảnh ảo lên đến vô cùng...
            Thứ năm, câu chuyện về các khách VIP của Nhà hát thời xa xưa. 
            Ngày trước, Nhà Vua và Hoàng hậu khi đến xem ở Nhà hát, hai người không ngồi cùng nhau, mà mỗi người một bên trong lô dành riêng cho Hoàng gia ở bên trên. Góc trần Nhà hát đối diện với lô của Vua, các hình ảnh điêu khắc mỹ nữ thật khêu gợi, còn phía bên đối diện với Hoàng hậu thì hình ảnh mỹ nữ tuy tuyệt đẹp song ăn mặc kín đáo hơn. 
            Thời ấy, khán giả đến xem, không phải để xem, thậm chí có người còn quay lưng lại sân khấu,( vì vở kịch thường được diễn đi diễn lại đến mức khán giả thuộc lòng , mà người ta đến đến để khẳng định đẳng cấp của mình, là để ngắm nhau, xưng tụng nhau và còn để bình phẩm, chê bai người này kẻ nọ. Và nữa, là để hò hét, quậy phá. Chính vì thế, thời ấy, khán giả vào xem bị cấm mang các vật dụng có thể gây sát thương, kể cả ô ( dù ), bởi đã có nhiều lần khán giả sử dụng ô dù có đầu nhọn làm vũ khí chiến đấu với nhau...Xem ra, cái "sân khấu" của các khách VIP và khán giả phía sau còn bi hài hơn sân khấu biểu diễn...
            Còn nhiều chuyện nữa về Nhà hát Opera...
            ( còn nữa )
            #36
              tamvanvov 26.10.2013 17:19:18 (permalink)
              Châu Âu ký sự 
              I. Trở lại xứ Gà trống Gô-loa ( 8 )

              8. Nhà thờ Đức Bà Paris & điểm số O ( Point zero )
              Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) nằm ở bờ trái sông Seine, thuộc đảo Île de la Cité, trên nền cũ của tu viện Saint-Germain-des-Prés. Về lịch sử hình thành, có thể tóm tắt như sau : 
              Nhà thờ Đức Bà Paris được khởi công xây dựng vào năm 1163, bởi quyết định của vị Giám mục Paris là Maurice de Sully. Viên đá đầu tiên được đặt có sự chứng giám của Giáo hoàng Alessandro III và Vua Louis VII. Trải qua 4 giai đoạn xây dựng chính từ khi khởi công đến năm 1250, song mãi cho đến năm 1350 mới chính thức xây dựng xong. Những người sáng tạo nên Nhà thờ Đức Bà Paris là các kiến trúc sư được lưu danh: Jean de Chelles, Pierre de Montreuil, Pierre de Chelles, Jean Ravy và Jean le Bouteiller.


              Nhà thờ Đức Bà Paris sẽ như biết bao nhà thờ Thiên chúa giáo khác của Paris, của Roma, của nước Pháp, của Italia v.v... nếu như nó không được lấy làm bối cảnh chính cho cuốn tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên của nhà văn Victor Hugo. 
              Quả là, tiểu thuyết Notre-Dame de Paris ( Nhà thờ Đức Bà Paris ) của Victor Hugo ra đời năm 1828, đã đem vinh quang không riêng cho tác giả mà cao hơn là cho Paris và cả nước Pháp đến ngày nay và mai sau. Ba nhân vật chính là thằng gù kéo chuông Quasimodo, cô gái Bohémiens xinh đẹp Esméralda và phó giám mục khắc kỷ Claude Frollo, gần hai thế kỷ nay đã đi vào lòng bạn đọc trên khắp thế giới ... Nhờ đó, Nhà thờ Đức Bà Paris và cả Paris, cùng nước Pháp được hưởng lợi du lịch .
              Có một điểm quan trọng nữa, quảng trường trước Nhà thờ Đức Bà Paris là Điểm số O của Paris và nước Pháp ( Point zero ), như Tháp Rùa Hồ Gươm của Việt Nam mình. 
              Lần trở lại Pháp này, dĩ nhiên, tôi không thể không đến thăm viếng Nhà thờ Đức Bà Paris. Lần trước, mùa đông năm 1996, khi ấy, Nhà thờ đang có sửa chữa lớn, 2 toà tháp chính diện bị che phủ bởi tấm bạt khổng lồ, nên khi chụp ảnh lưu niệm, chúng tôi phải vòng ra phía sau ghi dấu ấn của chóp nhọn nhà thờ. Cũng hay là phát hiện phía sau có một cửa hàng giải khát và bán đồ lưu niệm mang tên cô gái Bohémiens xinh đẹp Esméralda. Hôm tôi đến vào sáng thứ bảy, nên nhà thờ đang có buổi lễ. Vì lần đầu bước chân vào nhà thờ, cảm giác thành kính pha chút khép lép, tò mò, nên chỉ ròn rén bước, nghiêng nghé nhìn ngắm thôi. 
              Nay trở lại, cũng đúng vào buổi lễ nhà thờ của kỳ nghỉ cuối tuần, khách trong ngoài đông nghịt. Nhà thờ không sửa chữa, song quảng trường trước nhà thờ lại bị khoanh kín thành công trường dựng toà nhà tạm nhằm phục vụ cho lễ kỷ niệm 800 năm. Vào bên trong, sẵn máy ảnh, tha hồ chọn góc chụp (ở đây không cấm chụp ảnh ). Lần này, còn được biết việc đổi đồng 2 euro lấy “đồng tiền may mắn mạ vàng” của nhà thờ, và tha thẩn ngắm các bức tranh thánh, kiến trúc tuyệt vời bên trong...
              Thêm một phát hiện với riêng tôi, ấy là cậu phóng viên nhà VOV tại Paris mách bảo, ngay trên quảng trường trước Nhà thờ có Điểm số O ( Point zero ), và người Pháp cho rằng, bất cứ ai từ nơi khác đến, nếu đứng một chân vào tâm điểm, quay người, cứ được một vòng thì tương đương với một lần trở lại Paris. Muốn vào quay thì người gác công trường không cho vào. May mà cậu PV nhà VOV thạo tiếng Pháp và khá dẻo mỏ nên người gác cười và đồng ý cho vào. Cả ba người chúng tôi đều quay được gần vòng rưỡi, thế là anh em vui bảo nhau, thế nào bọn mình cũng được trở lại Paris 1 lần nghiêm chỉnh, và 1 lần transis ghé ngang nữa...
              ( còn nữa )
              #37
                tamvanvov 16.11.2013 17:27:04 (permalink)
                Châu Âu ký sự
                I. Trở lại xứ Gà trống Gô-loa ( 9 )

                Cầu qua sông Seine

                Đến Paris, nếu không đi dọc đôi bờ sông Seine, không ngồi du thuyền trên sông Seine để ngắm các công trình kiến trúc hai bên bờ, nhất là chiêm ngưỡng các cây cầu bắc qua sông Seine thì thật đáng tiếc.
                Có cả thẩy 37 cây cầu nối đôi bờ sông Seine, song nổi tiếng nhất là Cầu Mới (Pont Neuf) được xây dựng năm 1607. Cổ nhất là Pont au Change ( 872 ), và mới nhất là cầu Simone de Beauvoir ( 2006 ). Mỗi cây cầu, một kiểu kiến trúc, một số phận riêng...

                Thật khó thành phố nào lại có được diễm phúc như vậy. Những cây cầu, từ cổ xưa đến hiện đại nhất, đều gắn với lịch sử của Paris và nước Pháp, gắn với sở thích của người dân và khách du lịch xuyên suốt chiều dài lịch sử đến ngày nay.
                Lần trở lại Paris này, tôi may mắn được đi lại hằng ngày dọc đôi bờ sông Seine, và hơn thế, ngồi du thuyền trên sông Seine, để mà chiêm ngưỡng những cây cầu có kiến trúc độc đáo và gắn với lịch sử Paris, cùng nước Pháp...

                 
                 



                #38
                  tamvanvov 29.01.2014 19:16:51 (permalink)
                  Lữ tức, nỗi tha hương của Đỗ Mục

                  Chủ bút:
                  Thời trẻ, khi chưa làm báo, tôi đã phải xa nhà, biền biệt gần chục năm trời nơi đồng đất Tây Nam Bộ. Đến khi làm nghề báo, tháng đôi lần công tác. Thôi thì, gặp đâu ngủ trọ đó. Thời bao cấp khó khăn, đi cơ sở, đêm ngủ lại nhà kho HTX, trụ sở UBND xã, nhà khách Ủy ban, thôi thì đủ kiểu... Sau này, kinh tế xã hội phát triển, mới có khách sạn... Đi công tác xa cũng đỡ vất vả. Thường là đi nhiều, cũng dễ ngủ. Mệt, đặt lưng xuống là ngủ. Bữa cơm tối, có chén rượu mời, hay anh em đi cùng, gọi chút cay đưa cơm, ngà ngà một chút, lại càng dễ ngủ. Nói vậy thôi, chuyện thao thức canh khuya nơi đất khách quê người, nằm nhớ nhà, điểm việc chung riêng cũng là chuyện thường thấy... Lại nhớ câu "Hàn đăng tư cựu sự,/Đoạn nhạn cảnh sầu miên", giống như Đỗ Mục xưa, thi thoảng cũng từng...

                  Đỗ Mục là người Vạn Niên, quận Kinh Triệu (nay là thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây). Nội ông là Tể tướng Đỗ Hựu, từng là một viên quan giỏi về lý tài (coi về tiền bạc), và là một sử gia biên soạn sách Thông điển. Anh ông là Phò mã Đỗ Sùng, từng trải đến chức Tiết độ sứ, rồi Tể tướng. Theo tài liệu, Đỗ Mục có dáng thanh tú, tính thích ca vũ, và có tài văn ngay từ lúc nhỏ. Năm 828 đời Đường Văn Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ lúc 25 tuổi, lại đỗ luôn khoa Hiền lương phương chính, được bổ chức Hiệu thư lang ở Sùng văn quán, rồi lần lược trải các chức: Đoàn luyện tại Giang Tây, Thư ký cho Tiết độ sứ Ngưu Tăng Nhụ ở Hoài Nam, Giám sát ngự sử ở Lạc Dương. Sau đó, ông lần lượt giữ chức Thứ sử tại Hoàng Châu, Từ Châu và Mục Châu. Về sau, ông được triệu về triều làm chức Khảo công lang, Tri chế cáo, rồi làm Trung thư xá nhân. Năm 853 đời Đường Tuyên Tông, Đỗ Mục lâm bệnh mất lúc 50 tuổi. Đỗ Mục được đánh giá là người tài hoa, lãng mạn, nhưng cương trực có khí tiết, không hay để ý chuyện nhỏ nhặt, và xem thường lễ giáo. Trong thư gửi cho Lý Trung Thừa, ông đã nói về mình như sau: "thích rượu, thích ngủ, đã thành cố tật, thường đóng của hàng chục ngày, việc thăm viếng mời mọc cũng nhiều thiếu sót"...
                  Sau đây là bài Lữ tức :
                  * Nguyên bản chữ Hán :
                  旅宿
                  旅館無良伴,
                  凝情自悄然。
                  寒燈思舊事,
                  斷雁警愁眠。
                  遠夢歸侵曉,
                  家書到隔年。
                  滄江好煙月,
                  門系釣魚船。
                  *Bản âm Hán Việt:
                  Lữ quán vô lương bạn,
                  Ngưng tình tự tiễu nhiên.
                  Hàn đăng tư cựu sự,
                  Đoạn nhạn cảnh sầu miên.
                  Viễn mộng quy xâm hiểu,
                  Gia thư đáo cách niên.
                  Thương giang hảo yên nguyệt,
                  Môn hệ điếu ngư thuyền.

                  *Dịch nghĩa :
                  Nơi quán trọ không bầu bạn
                  Tự lòng buồn ( mà ) sinh ngẩn ngơ
                  Trước ngọn đèn lạnh nhớ hoài chuyện cũ
                  Tiếng nhạn động giấc sầu
                  Cứ mộng đi xa về cho đến sáng
                  Thư nhà ( thì) mất một năm mới đến
                  Sông biêng biếc trăng khói tỏa 
                  Cửa ngoài buộc chiếc thuyền câu.
                  *Dịch thơ :
                  Quán trọ không bầu bạn
                  Ngẩn ngơ lòng quặn đau
                  Đèn lạnh nhớ chuyện cũ
                  Nhạn bay tỉnh giấc sầu
                  Mơ xa về tận sáng
                  Thư đến một năm sau
                  Sông biếc đẹp trăng khói
                  Trước nhà, buộc thuyền câu
                  ( Ngô Văn Phú ).
                  Bạn bè lữ quán có đâu
                  Nỗi lòng tự biết, nỗi sầu ngẩn ngơ
                  Ngọn đèn lạnh, nhớ việc xưa
                  Lo đêm không ngủ, nhạn thưa đó mà
                  Cách năm mới được thư nhà,
                  Sáng ngày thấy mộng đi xa trở về
                  Sông xanh trăng khói mọi bề,
                  Mé ngoài trước cửa buộc kề thuyền câu
                  ( Trần Trọng Kim )
                  Anh em, bạn bè, nhất là những ai hay phải đi xa, nếu có nhã hứng, xin mời dịch thơ cùng...
                  #39
                    tamvanvov 09.03.2014 08:33:01 (permalink)
                    Mộc Châu mùa hoa cải trắng

                    Cao nguyên Mộc Châu nằm chắn ngang nẻo đường lên Tây Bắc. Vượt Thung khe quanh năm mù sương, ngang qua thung lũng Mai Châu huyền ảo, chạm Hang Kia-Pà Cò đầy bí ẩn, rồi ta đến với cao nguyên Châu Mộc. Vùng đất này có khí hậu lý tưởng, quanh năm mát mẻ, vạn vật tốt tươi, con người hiền hòa... Riêng về thảo dược, hoa quả, Châu Mộc thật đa dạng và hết sức quyến rũ. Mùa đông đây là xứ sở của hoa đào, sang xuân thì bạt ngàn hoa mận, hoa mơ, rồi khi vắt mình sang hạ với hoa nhãn, hoa xoài; thêm đó, là muôn loài hoa dại có tên và không tên... Hoa cải trắng, là thứ Châu Mộc giữ riêng cho mình...Mấy năm nay, năm nào cũng vào mùa Mộc Châu hoa cải trắng, tôi đều ngang qua xứ sở này... Lòng lại thầm nhớ về một thuở. Rằng hơn ba mươi năm trước, khi còn là sinh viên ĐH Nông nghiệp I, tôi và chúng bạn cùng khóa, đã lên đây thực tập những ba tháng trời...
                    #40
                      tamvanvov 06.07.2014 11:37:00 (permalink)
                      Nhịp chậm
                       
                      Vào FB, thấy cô bạn đồng nghiệp, cấp phó một ban biên tập nhà VOV than thở rằng : Những ngày qua bận rộn tối tăm mặt mũi, chờ mấy ngày nghỉ lễ định đi du hí xả trét, khi rủ con thì thằng lớn bảo còn bận đồ án tốt nghiệp đại học, còn cô con gái út ( sinh viên năm đầu khoa báo ảnh ) thì bảo " Tội gì mà đi chơi đâu xa tốn kém, Hà Nội mấy ngày này vắng hiu như mồng một tết, cứ chơi ngay ở Hà Nội có sướng hơn không ". Vậy là cô bạn đồng nghiệp đành ở nhà, ngủ và ăn cho thỏa thích, nên vốn đã màu mỡ riêu cua lại thêm mỡ màng hơn...
                      Ngẫm thấy mình cũng vậy. Thằng cu lớn cũng đang bận đồ án tốt nghiệp, cô gái út học THPT thì đang thi học kỳ... nên bà xã có muốn đi lại không có đồng minh, thêm nữa cũng bận chợ búa cơm nước phục vụ thi cho hai đứa con... 
                      Kỳ nghỉ này năm ngoái, mình cũng mấy đồng nghiệp đi Hải Phòng, Móng Cái, có ghé thăm họa sĩ Đặng Đình Nguyễn ở Quảng Yên, viếng Đền Cửa Ông và thăm các nhà văn Trần Tâm, Trần Chiểu, Lê Phúc và Trần Ngọc Dương ở thị xã Cảm Phả...
                      Mình vốn dĩ kéo va li quanh năm suốt tháng công tác xa nhà. Có mấy ngày nghỉ, thực lòng chẳng muốn chơi đâu xa. Nếu vợ con có háo hức đi thì mình cũng chiều thôi. Song vợ con lại bận, thế là mình được nghỉ ngơi.
                      Mấy ngày này, đường phố Hà Nội vắng hiu. Năm nay, không khí lạnh cuối mùa còn rơi rớt, đã sang hè rồi mà trời vẫn se se lạnh như tiết vào thu. Vài cơn mưa to theo chân không khí lạnh, rửa bụi bậm cho đường phố và bầu không khí ngột ngạt vốn có của thủ đô. Lại thêm, những "bụi" người và phương tiện thi nhau đổ về quê và đi du lịch hết cả rồi. Trời đất trong lành, tinh khiết hơn. Thật hiếm có năm nào như vậy... Thấy cô bé nọ nói có lý. Đất trời trong lành như vậy, cần chi phải đi đâu xa. 
                      Nhịp sống chậm. Thật chậm. Với riêng mình, gần một tuần qua công tác ở Đà Lạt, dần quen với không gian và khí hậu trong lành ở đó, nay được tiếp sức bởi " một Đà Lạt " ngay giữa lòng Hà Nội, chẳng thú vị lắm sao ?!...
                      Vẫn biết, vài ba ngày nữa thôi, lại là một Hà Nội ồn ào, náo nhiệt, bụi bậm những người và phương tiện...
                      Ấy mới là Hà Nội, một bản nhạc cung đô trưởng, hiếm hoi có một khoảng lặng, và một vài nốt hoa mỹ...
                      #41
                        tamvanvov 21.09.2014 18:06:20 (permalink)
                        Trở lại cao nguyên đá ( I )
                         
                        1. Thực ra, tôi trở đi trở lại với vùng đất Hà Giang bao nhiêu lần rồi tôi chẳng nhớ. Đơn giản, tôi yêu vùng đất cao nguyên địa đầu này, bởi đá, bởi cảnh sắc, bởi thời tiết thổ ngơi, hay bởi con người... thì cũng chẳng rõ. Chỉ có thể nói, tôi yêu tất cả không gian, quang cảnh của vùng đất này mà thôi...
                        Sở dĩ nói trở lại cao nguyên đá Hà Giang, là so sánh thời gian với lần trở lại Hà Giang gần đây nhất, cuối thu năm 2012, cùng với nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Trương Hữu Lợi và nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền.
                        Chuyến ấy, chúng tôi không ngược lên vùng núi đá phia Bắc với mấy huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc, mà xuyên chếch vùng núi đất phía tây là Hoàng Su Phì, Xín Mần, rồi vòng về qua Quang Bình... Huyện lỵ của Hoàng Su Phì thì gập ghềnh, quanh co như mê cung, còn thị trấn Cốc-pài ( huyện lỵ Xín Mần ) lại chênh vênh trên núi cao, mỗi nơi đẹp và hấp dẫn một kiểu. Song miền núi, nhất là vùng núi biên giới Tây bắc, Việt bắc nói chung và Hà Giang nói riêng, đến đấy mà ta không đi chợ phiên thì thật là hoài phí, bởi chỉ có chợ, mới là nơi hội tụ đầy đủ, phong phú và đậm nét nhất sản vật, văn hóa cộng đồng các sắc tộc nơi đây. Cũng nhờ chuyến chơi chợ Cốc-pài buổi sớm khi sương mù còn bao phủ, mà sau đó khi đã về xuôi, tôi mới sáng tác được bài thơ " Đi chợ Cốc-pài ", để rồi nhạc sĩ Doãn Nguyên đồng cảm mà viết nên một ca khúc cùng tên khá hay...
                        Thực lòng, năm nào tôi cũng mong muốn và đều cố gắng thu xếp công việc để lên với vùng cao nguyên đá này ít nhất một lần, nhất là mỗi độ thu sang, đông về, hoặc dịp cuối năm, sắp tết... Năm 2013, rập rình mãi rồi đành lỡ hẹn với Hà Giang, cho đến hè này...
                        Xong công việc ở huyện lỵ Bắc Quang, tôi và nhà nhà thơ Trần Đăng Khoa cùng một vài đồng nghiệp VOV lên thành phố Hà Giang để sáng hôm sau leo tuyến Quản Bạ-Yên Minh-Đồng Văn. Biết tin chúng tôi lên, anh chàng Vạn Lý đã í ới gọi điện, nhắn tin chờ đón từ mấy hôm trước. Với nhà thơ Trần Đăng Khoa, đây là lần đầu anh lên Đồng Văn nên ít nhiều háo hức, thắc thỏm. Dọc chặng đường leo núi, chốc chốc bắt gặp những khúc quanh ngoạn mục, những cảnh núi đá cheo leo, hùng vĩ bắt mắt, anh lại dừng xe, chọn cảnh, lựa góc để giương chiếc máy ảnh ống kính xịn lên bấm xì xạch tác nghiệp. Vì thế, khi lên tới thị trấn Quản Bạ, sương cũng đã tan trên Cổng Trời, cặp núi đôi nắng rọi và chợ huyện cũng đã dần vãn. Nghỉ chân làm chén nước trà, nhâm nhi vài món bánh trái sản vật địa phương, hỏi thăm và người quen, ngó nghiêng cái phố huyện này cũng thấy thu thú. Được biết, thầy giáo Phạm Văn Tình, hiệu trưởng trường THCS Tam Sơn, nhà thơ địa phương của vùng đất Quản Bạ và ngành giáo dục Hà Giang, một người quen cũ của tôi từ gần chục năm trước khi lần đầu tôi lên Hà Giang, cũng đã nghỉ hưu mấy năm rồi. Tự nhiên lại nhớ mấy câu thơ trong bài thơ "Nỗi niềm cô giáo vùng cao" của Phạm Văn Tình :" Bao lần rồi lại bao lần/ Đá tai mèo cứng dưới chân đá mềm/ Thế mà chẳng mảnh tình riêng/ Có bao cô gái lỡ duyên đất này...". Tiếc là chẳng đủ thời gian để ghé thăm anh. Thôi đành hẹn anh dịp khác vậy... Sốt ruột, chốc chốc Vạn Lý lại gọi điện hỏi xem đoàn đã tới đâu rồi. Anh chàng luôn luôn nhắc là mình đang đợi mọi người ở Sủng Là, nơi có nhà Paonổi tiếng. Với mảnh đất Hà Giang, chỉ có nhà Vương ( dinh thự của cha con Vua Mèo-Vương Chính Đức và Vương Chi Sình thời Pháp thuộc )là đáng kể, chứ đâu có nhà Pao nào nhỉ ? Tôi cứ rẩm riu nghỉ vậy, song chưa tiện hỏi Vạn Lý...
                        Lên tới Sủng Là thì trời đã đứng bóng. Anh chàng Vạn Lý đã chấp chới bên lề đường giơ tay làm hiệu vẫy đón chúng tôi. Gặp nhau, tay bắt mặt mừng. Đã từng biết văn thơ, thấy hình bóng nhau thấp thoáng trên Blog Tiếng Việt, rồi cũng đã từng í ới với nhau qua điện thoại bấy lâu, nay gặp nhau là nhận ra ngay chẳng cần phải giới thiệu. Những cái xiết tay thật chặt, những cái nhìn hồ hởi toát nên sự chân thành. Ôi, cái anh chàng một thời gian dài lấy cái nick " muahoaomoinomuon" ( mùa hoa ô môi nở muộn ) rất chi là điệu đà này, không ngờ lại là một người khá to con và dáng vẻ bên ngoài có gì đó " bụi bặm ", lãng tử. Nay với cái nick mới là Vạn Lý thì có vẻ hợp đây. Nhưng còn để xem đã...
                        Trong căn nhà đơn sơ, vợ chồng Vạn Lý tiếp chúng tôi bằng những ly nước mía đá ngon ngọt, thanh khiết, sản vật của người dân nơi đây. Tôi chợt nhận ra, thời tiết nơi đây thật dễ chịu. Trưa đứng bóng, nắng vẫn hong vàng mà cảm giác lại se se lạnh, khi mà vừa chiều tối qua, nơi huyện lỵ Bắc Quang và thành phố Hà Giang trời vẫn còn nóng hầm hập. Ôi, có gì đó báo hiệu sự thú vị cho chuyến trở lại cao nguyên đá lần này...
                         
                        ( còn nữa )
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.10.2014 16:32:29 bởi tamvanvov >
                        #42
                          tamvanvov 11.10.2014 16:29:45 (permalink)
                          Trở lại cao nguyên đá ( II ) 
                           
                          2. Để kiếm kế sinh nhai, anh chàng Vạn Lý mở cửa hàng ngay tại nhà mình chuyên về điện thoại di động. Nhìn quầy hàng đơn giản, có thể đồ đoán là anh chàng này kiêm luôn cả mấy việc bán máy, bán sim, sửa chữa điện thoại di động, và có vẻ như chủ quán cũng không mấy chuyên tâm...

                          Thời gian lưu lại nhà Vạn Lý chỉ chốc nhát, song tôi cũng biết được anh có vợ và hai cậu con trai. Vợ anh nguyên là cầu thủ bóng chuyền nữ của Hà Tây cũ. Những người có chiều cao khiêm tốn như nhà thơ Trần Đăng Khoa và tôi thì đều phải ngước mắt nhìn lên mà ngưỡng mộ chiều cao của cô. Nhanh nhẹn, hoạt bát trong tiếp khách của chồng, nhưng cô luôn chủ động né tránh việc chụp ảnh kỷ niệm với đoàn chúng tôi...
                          Vì cho kịp kế hoạch thăm nhà Vương trước khi dùng bữa trưa đã đặt sẵn ở một nhà hàng thuộc chân núi cột cờ Lũng Cú, đành tạm biệt gia đình Vạn Lý. Chúng tôi lên đường đến nhà Vương ở thung lũng Sà Phìn, với sự dẫn đường của Vạn Lý. Giờ mới biết tên thật của Vạn Lý là Tuấn Nghĩa. Còn cái nichk trên mạng thì chắc là anh chàng lấy theo cái tên của nhân vật Vạn Lý Độc hành Điền Bá Quang, một nhân vật lãng tử thái hoa nổi tiếng giang hồ trong tiểu thuyết chưởng " Tiếu ngạo giang hồ " của Kim Dung đây.
                          Với riêng tôi, đã từng thăm nhà Vương và Cột cờ Lũng Cú ( cũ ) từ chục năm trước trong lần lên Hà Giang đầu tiên. Tuy không xa lạ, song mỗi thăm mỗi nhận biết thêm những điều mới mẻ, hoặc hiểu sâu hơn những ẩn ý bên trong, mà qua đó thấm hiểu lịch sử một thời của vùng đất gian khó này...
                          Cái thú của chuyến lên cao nguyên đá lần nảy, là sự gặp gỡ, quen biết với anh chàng Vạn Lý-Tuấn Nghĩa. Trong cái lắc lư, nghiêng ngả mỗi khi xe băng qua đoạn đường gập nghềnh, khúc cua quanh co, con người Vạn Lý lại hiện ra rõ lên một chút, hoặc qua câu chuyện anh chàng tự kể, hoặc qua những mẩu hội thoại mà nhận ra...Vạn Lý quê Lập Thạch ( Phú Thọ ), từng là lính thuộc Bộ Tư lệnh binh chủng Tăng Thiết giáp. Xuất ngũ, trải qua một số công việc, rồi trôi dạt lên vùng cao nguyên đá Đồng Văn nay. Cái mầm cây " bụi bặm" và chất lãng tử giang hồ khi gieo xuống mặt đất những đá là đá nơi đây, mọc ngay lên thành cây, loài cây trên đá. Rồi đó, trời xe duyên cho anh chàng lãng tử với nữ cầu thủ bóng chuyền gốc quê lụa nhỉnh hơn anh chàng một cái đầu. Hai thằng cu trứng gà trừng vịt theo nhau ra đời. Cái gia đình này, khi đã có một mái nhà trú ngụ, mua lại của một gia đình người dân tộc, để che sương che nắng, thì xem như đã là một thực thể đủ tư cách, điều kiện đứng chân trên bề mặt địa cầu rồi. Cũng chưa rõ, vợ Vạn Lý làm công việc gì, còn riêng với anh chàng, thì ngoài cái cửa hàng điện thoại tại gia ấy, anh làm đủ thứ công việc để có thu nhập, đại loại như lái xe thuê, hướng dẫn khách du lịch lữ hành v.v... Đã sẵn máu lãng tử, lại thêm nghề du lịch lữ hành, Vạn Lý làm thơ, viết báo, nhiếp ảnh nghiệp dư, và ít nhiều mon men vào lãnh địa chơi ô-tô, mô-tô cũ...Những lúc thấy Vạn Lý cao hứng về mấy thú chơi này, tôi cảnh tỉnh ngay: " Làm gì thì làm, chơi gì thì chơi, song không được phép xao nhãng việc nhà, không thể để cho vợ con thiếu thốn, thất học...". Vạn Lý vâng dạ và cười thật sảng khoái. Quả là anh chàng này có cái cười khá đặc biệt, có lẽ tôi chưa từng thấy ở ai, chưa từng nghe ở đâu thì phải...Tiếng cười, thoạt đầu nhỏ rồi rộ lên thoải mái hết mình và nhỏ lại thành một chuỗi thanh âm đều và dài dường như không dứt, nhưng khi dứt lại đột ngột bặt luôn. Có gì đó ám ảnh tôi...
                          ( còn nữa )
                           
                          #43
                            Ct.Ly 16.10.2014 03:36:35 (permalink)
                            #44
                              tamvanvov 28.11.2014 10:49:58 (permalink)
                              Gửi Ct.Ly
                               
                              Cảm ơn Ct.Ly-Hiệp sĩ Hòa hoa đã quan tâm, hỏi thăm về chuyến đi Pháp. Mình có may mắn, 4 lần đặt chân đến xứ sở gà trống Gô-loa ( lần ở lâu nhất là khoảng 2 tháng ). Có nhiều chuyện muốn viết, song hiềm vì ít thời gian quá. Hy vọng sẽ lần lần viết ra sau.
                              Rất mong Hiệp sĩ Hào hoa để mắt, chuyển một số bài viết. văn xuôi. tiểu luận của mình vào Thư viện.
                              Chân thành cảm ơn !
                               
                              #45
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 10 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 136 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9