VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( I )
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 8 của 10 trang, bài viết từ 106 đến 120 trên tổng số 136 bài trong đề mục
tamvanvov 13.01.2022 15:33:06 (permalink)
Ơi cái thời chị đẹp
Truyện ngắn
Bẵng đi hàng mấy năm trời, tôi mới lại có dịp về thăm quê. Tôi tranh thủ đi hỏi thăm hàng xóm láng giềng và bà con họ hàng. Một buổi tối đến chơi nhà chú họ, tôi ngồi uống nước chè với cậu con trưởng của người chú. Cậu ta đang chăm chú nghe tôi nói chuyện thủ đô, chuyện thời sự quốc tế, chợt quát hỏi thằng em khi ấy vừa đi từ trong buồng ra:   - Này, tay mày cầm cái gì thế kia? Thằng em lúng túng, một tay giấu đằng sau lưng. - Có gì đâu, em… - Gạo phải không? Mày lấy trộm gạo để đi đến ổ Luyến à? Nói rồi anh xông ngay đến tước lấy cái bọc mà cậu em đang giấu đằng sau. Cái gói bung ra làm gạo bắn tung tóe. Khi cậu em đi rồi, thấy tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, cậu anh giải thích:  - Anh có hiểu là nó mang gạo đi đâu không? - Chắc là… bán lấy tiền tiêu hoặc cùng lắm tích tiền mua sắm quần áo, tệ hơn nữa là cờ bạc, rượu chè. - Không, anh nhầm rồi - Cậu ấy cười khẩy - để chơi gái đấy.  - Chơi gái? Tôi hỏi lại bởi ngạc nhiên thật sự. Lúc trước nghe cậu anh nói đến “ổ Luyến” thì tôi nghĩ ngay đến một ổ rượu chè, cờ bạc nào đó, chứ không thể nghĩ đến là “ổ điếm”. Ở nông thôn, đi với gái điếm lại trả công bằng gạo, thật là một chuyện lạ. Điều đó kích thích lòng tò mò nghề nghiệp của tôi. Một suy nghĩ chợt xuất hiện, có thể viết một bài báo, hoặc một phóng sự chẳng hạn. Tôi bèn xoay vào cậu anh: - Này, thế chủ ổ điếm đó tên Luyến à? - Chủ gì đâu. Có độc mình mụ Luyến, con riêng của bà cả Ái.  - Chị Luyến à? Thế là chẳng còn đợi tôi hỏi, cậu anh thông thốc kể cho tôi nghe hàng loạt chuyện xung quanh ổ điếm làng này…
*
     *         *
Tình họ hàng, chị Luyến có họ xa với tôi, kiểu họ bắc cầu “bắn đại bác không tới”. Tuy nhiên, ngày nhỏ chị khá gần gũi với gia đình nhà tôi và tôi luôn kính trọng chị. Ngày ấy, những năm sáu mươi, tôi còn đang học cấp một, chị ấy đã hết cấp hai. Chị học cùng lớp với chị Thúy của tôi. Lúc ấy, tuy còn bé nhưng tôi cũng biết được rằng chị Luyến rất đẹp. Có thể nói, ngày đó, không những chị đẹp nhất làng mà còn nhất xã, thậm chí nhất huyện không chừng. Chị Thúy tôi cũng đẹp nhưng là vẻ đẹp thùy mị, nết na, còn chị Luyến thì ngược lại, đẹp một cách quyến rũ, lẳng lơ. Tôi nhớ, lúc bấy giờ là những năm chiến tranh phá hoại của Mỹ rất dữ dội. Làng tôi cách Hà Nội chỉ vài chục cây số lại làng quê cổ nên có rất nhiều trường đại học sơ tán về. Các chàng sinh viên phát hiện ngay ra những cô gái quê có nhan sắc để bâu quanh tán tỉnh. Chị Luyến được các chàng chú ý nhất và xoay quanh như chong chóng. Chàng tặng thơ, chàng tặng sách, chàng rủ đi xem… Chị nhận lời với tất cả. Có lần, tôi được nghe một chàng trong số đó, từng bị chị Luyến cho ra rìa, đến tán tỉnh chị Thúy tôi và kể lại rằng chị Luyến đã chơi trội bằng cách xin theo học ngoại ngữ cùng với lớp sinh viên và đã từng diện chiếc áo len đỏ chói đi từ cửa lớp phía gần bục giảng với dáng vẻ kiêu hãnh xuống hàng ghế cuối lớp trước hàng trăm con mắt nửa thèm muốn thán phục, nửa chê trách khích bác của đám sinh viên. Chị Luyến không những đẹp mà học cũng rất giỏi. Cánh thanh niên trong thôn và cả đám sinh viên đều cho là chị hâm hâm. Chị có hâm hay không thì chẳng biết song rõ ràng chị là đối tượng khao khát của đám con trai và đàm tiếu của nữ giới, kể cả các nàng sinh viên vốn được tiếng là cao giá… Bây giờ tôi mới hiểu rõ là người ta muốn, người ta giành giật không được, hoặc người ta kém hơn thì sinh dèm pha, chứ thực ra chị cũng không đến nỗi nào. Có chăng bởi chị đẹp quá, đẹp một cách khêu gợi làm ngứa ngáy và gai mắt mọi người.   Thế rồi, đùng một cái, chị Luyến lấy chồng. Chồng chị không phải là một trong số những người mê chị mà là một anh chàng hiền lành người làng nhưng đi thoát ly. Những năm bấy giờ, thoát ly là niềm mơ ước của biết bao trai gái nông thôn. Anh ta tên Ngọc. Chẳng hiểu vì tật bẩm sinh hay bệnh ngoài da mà cứ đến độ hanh hao thì da anh lại mốc lên, cho nên ở làng, anh ta có biệt hiệu là Ngọc “mốc”. Ngọc là con độc nhất của một bần nông. Bố Ngọc là cốt cán trong năm giảm tô cải cách. Gia đình được chia quả thực. Bố mẹ Ngọc lại căn cơ nên lúc đó nhà Ngọc được tiếng là khá giả nhất làng. Cũng không hiểu vì sao chị Luyến lấy Ngọc “mốc”. Lấy Ngọc, chị Luyến được tiếng là có chồng làm cán bộ thoát ly, bố mẹ chồng lại thuộc diện nhà ngói, sân gạch, cây mít. Đối với đám con gái làng, có lẽ được như vậy là toại nguyện lắm rồi, song với chị Luyến thì tôi nghĩ là không. Về chuyện chị Luyến lấy Ngọc “mốc” thì người làng có đồn rằng, bà cả Ái, mẹ chị - một người đàn bà có nhan sắc sớm lận đận chuyện tình duyên, góa chồng, đi bước nữa với ông làng Triển, vì cuộc đời quá long đong nên ngẫm mình tủi thân mà bắt con gái sớm lấy chồng cho yên phận. Cũng nghe đâu là chị Luyến định cự tuyệt thì bà Ái đe tự tử, thế là chị đành cam lòng. Ngọc “mốc” công tác xa, tháng đảo qua nhà một vài lần, song chị Luyến nào được sống tự do, mà luôn phải ghép mình trong vòng kiềm tỏa chặt chẽ khắt khe của bố mẹ chồng. Thế rồi chị Luyến xin đi học lớp sơ cấp sư phạm của tỉnh. Mãn khóa học, chị Luyến nhận nhiệm sở trường cấp một của xã và cũng là ngày chị ở cữ đứa con trai đầu lòng. Thằng bé chẳng có nét gì của bố. Cánh giáo viên ở trường xì xào rằng đứa bé không phải là con của Ngọc “mốc” mà của một ông thầy dạy ở trường sư phạm tỉnh. Tuy vậy, mọi chuyện vẫn bình thường bởi Ngọc “mốc” rất quí đứa bé. Cuộc đời chị có lẽ như thế trôi đi, nếu như không có chuyện một buổi người ta ấn vào tay chị bức điện tín báo tin chồng chị bị cảm và mất đột ngột ở cơ quan. Chồng chị được đưa về chôn cất ở quê. Nhìn cảnh chị khóc lóc thảm thiết trước linh cữu chồng, ai dám bảo là chị không yêu chồng. Chẳng biết người làng nghĩ gì, song riêng tôi thì nghĩ có lẽ chị cám cảnh thân phận mình thì nhiều hơn. Mãn tang chồng, chị Luyến trở về với vẻ cởi mở vốn có của mình. Chị cười đùa nhiều hơn, mắt nhìn đong đưa hơn. Gái một con đầy đặn, mặn mà. Lại khối kẻ nhòm ngó, tán tỉnh… Một thời gian, người làng đồn đại về mối quan hệ kỳ quái giữa chị với ông bố chồng. Người ta bảo là ông bố chồng chị “giữ gian cho con trai ở dưới suối vàng”. Còn ở trường học, mọi người lại thì thầm về việc ông hiệu trưởng “chỉ quí có mỗi mình cô Luyến”. Thật chẳng biết tin vào đâu. Mà thực ra, người ta cần gì phải tin hay không. Miệng thế gian ngoan miễn có chuyện để nói là được.  Chị Luyến lại gây ra một chuyện bất ngờ nữa. Chị xin thôi việc ở cơ quan, mang con bỏ lên mạn ngược với người chị gái. Thế là làng hết chuyện để mà đàm tiếu. Hơn một năm sau, chị Luyến về thăm quê, đi kèm là một chàng trai cao to mang sắp phục công an. Theo lời giới thiệu của chị, người ta biết được ở trên đó, chị xin vào dạy một trường cấp một và chàng trai đi cùng là chồng mới cưới của chị. Anh ta người dân tộc thiểu số, là trai tơ, gặp chị là si mê ngay và đòi cưới bằng được mặc dù biết chị đã qua một đời chồng và có con riêng. Đợt về thăm quê ấy chính là tuần trăng mật của đôi uyên ương. Trời lạnh, chị Luyến diện quần âu, mặc chiếc áo len cổ lọ màu hoàng yến, tay dắt con, đi cùng chồng từ đầu làng đến cuối làng thăm thú hết nhà nọ đến nhà kia. Vẻ hãnh diện và vẻ đẹp rực rỡ kết hợp hài hòa trên con người chị. Người làng chứng kiến cảnh ấy, kẻ khen thực lòng “cô Luyến thế mà may. Dạo này cô ấy trẻ đẹp quá”; kẻ lại dè bỉu “Đồ đĩ thõa. Rồi xem được mấy nả”… Riêng mình, khi ấy đang học cấp hai nói theo kiểu ngươi lớn là “hỉ mũi còn chưa sạch”, tôi thấy chị đẹp quá chừng và tôi vừa mừng, vừa thương cho chị, xen chút ghen tỵ, ước ao sau này mình cũng lấy được một người vợ xinh đẹp và quyến rũ như vậy.  Cuộc đời thật lắm điều chẳng ngờ. Tưởng vợ chồng chị sẽ yên ấm. Ai dè, mấy năm sau lần về quê thăm ấy, chị Luyến lại dắt con về làng. Lần này không có anh chồng đi cùng. Dù cố tình che đi nhưng chị Luyến không sao dấu nổi những vết thâm tím trên khuôn mặt mình, chắc là dấu vết của những trận đòn. Theo bà Ái rêu rao trong làng thì anh chồng chị vốn tính hay ghen, lại cục, hễ bắt gặp vợ mình đi cùng hoặc nói chuyện với người đàn ông nào là xông đến gây sự, rồi về nhà đè vợ ra mà thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Không chịu nổi những trận đòn ghen, chị Luyến đã mang con bỏ về làng và cũng chằng buồn ra tòa ly dị. Bà Ái ví thân phận con gái mình như nàng Kiều.  Chị Luyến ở hẳn quê. Chị xin đi dạy cấp một nhưng người ta không nhận lại nữa. Làng cũng đã chia xong ruộng khoáng nên chị không xin được ruộng để làm. Bà cả Ái thương con bèn xẻ bớt vài sào ruộng trong định suất của mình cho con sinh sống.  Một thời gian dài sau khi tốt nghiệp đại học, tôi nhận công tác xa, lâu lâu mới có dịp về quê. Hỏi thăm, tôi được biết chị Luyến không lấy ai nữa. Mà có lẽ cũng không ai dám lấy mặc dù vẫn không ít kẻ thèm muốn thân xác chị. Chị xin xã được mấy chục thước đất dựng một căn nhà nhỏ ở góc sân kho hợp tác xã lâu ngày bỏ không để rêu mọc và làm ruộng nuôi con. Chị có mua thêm ít nước mắm, dầu thắp bán lẻ cho mọi người những lúc nhỡ nhàng. Thôi thế cũng được, tôi thầm nghĩ. Nào ngờ, nay lại đến bước đường này…!
*
     *         *
Một buổi trước kỳ nghỉ kết thúc, tôi gọi thằng con thứ của ông chú để hỏi thêm về chuyện chị Luyến. Nghe xong, nó cười và bảo tôi: - Anh cứ đùa dai. Ở ngoài đó thiếu gì gái đẹp mà phải tìm đến mụ gái già nhà quê này làm gì? - Dào ơi, ông anh lại khéo che đậy. Thôi được, để viết báo hay để làm gì thì cũng mặc, thằng em xin chiều. Nó kể và bày cách cho tôi tiếp cận. Rồi nó bông đùa một cách đểu giả:  - Bọn trai làng từ trung tuần đến choai choai bất cứ ai mụ ta cũng đều tiếp cả. Mụ ta dễ dãi lắm mà. Có tiền thì trả tiền không có tiền thì trả bằng gạo thóc. Hiện vật là được. Không có thì chịu đến lần sau trả một thể. Anh có tin rằng đã có đứa sau khi hành sự, trả mụ bằng bọc mắm tôm không? Ha, ha… - Nó cười - Mụ Luyến mà vớ được anh, dân thủ đô, phóng Cub vèo vèo, bẫm phải biết. Chúc anh một buổi tối sung sướng. Ôkê! Theo chỉ dẫn, tôi tìm đến ổ Luyến. Căn nhà gạch bé nhỏ xây vữa không trát, nép dưới bụi tre bên góc sân kho lở lói. Tôi gõ cửa rụt rè. Tiếng chị Luyến uể oải nhưng tôi vẫn nhận rõ: - Cứ đẩy cửa mà vào.  Tôi lách mình vào nhà và vội vã khép ngay cửa lại. Chị Luyến mặc bộ đò hoa mỏng, nằm chân co chân duỗi trên giường xem tiểu thuyết. Thấy tôi, chị buông sách hỏi: - Anh cần gì? Hình như anh không phải là người ở đây? - Vâng. Tôi… tôi gặp chị. - Gặp tôi à? Vậy thì anh uống nước đi. Có chè pha sẵn rồi đấy. Nếu không muốn uống thì nằm ngay xuống đây với tôi.  Chao ơi, trơ tráo và chai lỳ đến thế là cùng, tôi cay đắng nghĩ. Thấy tôi cúi đầu, chị khiêu khích: - Hay anh không mang tiền? Nếu không sĩ thì chịu cũng được. Anh nằm xuống đây đi, tôi đang mệt, không muốn ngồi dậy đâu.  - Chị Luyến, chị không nhận ra tôi sao? Tôi cố kìm mình để không quát lên. Chị Luyến nhỏm dậy, nhìn tôi trân trân rồi nhếch mép, cái nhếch mép nửa cười khẩy, nửa như mếu: - Đã đến thế này, thì quen biết làm gì… Nhưng thôi, cậu là Nguyên. Cậu tưởng cậu đi xa mà tôi không còn nhận ra nữa sao? Chắc nghe nói về tôi rồi chứ gì? Thảo nào cậu cũng biết đường đến đây! Tôi hiểu ra rồi… Mọi thằng đàn ông đến đây đều xông ngay vào tôi mà cấu xé, còn cậu… Tôi biết cậu đến không vì lý do đực cái mà để lý thuyết, dạy đạo đức, chứ gì? Tôi thêm phần lúng túng bởi sự đáo để đến quyết liệt và tàn nhẫn của chị, song dù sao cũng còn dễ chịu hơn.  - Tôi là nhà báo, chị hiểu cho… - A, thế thì còn tệ hơn! Cậu viết bài đăng báo lấy nhuận bút. Cậu kiếm tiền bằng cách phỉ báng tôi. Cậu cút đi! Tôi không tiếp những người đạo đức giả như cậu. Bọn đàn ông trong làng đến đây, tuy toàn một lũ cục mịch, ngu ngốc, háo sắc và đểu giả ra mặt, nhưng như thế còn hơn bởi dù sao họ cũng thành thực, chứ không như loại lắm chữ như cậu! Chị Luyến rít lên. Tự nhiên, tôi không còn cảm thấy lúng túng nữa mà trong người tôi bừng lên một sự giận dữ. Rồi tôi chùng người xuống. Tự ngồi xuống bàn, tôi rót nước cho mình và đưa cho chị một chén. Châm thuốc hút. Chị Luyến cầm chén nước trên tay, không uống mà cũng không đặt xuống. Im lặng hồi lâu, tôi nhìn sang thì thấy đầu chị cúi gục xuống, vai khẽ rung từng đợt. Chị khóc. Tôi định chào chị và ra về thì chị Luyến lên tiếng: - Cậu đến đây mà không sợ xấu hổ với người làng à? Ngộ nhỡ bây giờ có ai đến, người ta sẽ biết mặt cậu… - Không. Nhưng chị đối xử với tôi còn tệ hơn với đám khách làng chơi của chị, vậy tôi đành về thôi.  - Cậu Nguyên - tôi tự giận mình đấy thôi. Tôi đâu có ngờ mình lại đến nông nỗi này. Lúc tôi mới về làng, còn khó khăn, mấy tay cán bộ xã bốc giàu lên, học đòi thiên hạ, thèm của chua tìm đến tán tỉnh tôi. Tôi cự tuyệt thì họ dọa sẽ gây khó khăn mà đuổi tôi ra khỏi làng. Còn như, tôi chấp nhận thì họ sẽ tạo điều kiện cấp đất làm nhà cho tôi và mấy sào ruộng khoán. Cực chẳng đã, cậu ơi. Lâu thành quen, tôi nghĩ thế cũng nhàn. Bây giờ thì cả làng khinh bỉ tôi, cả mẹ tôi, con tôi… Cái đám đàn ông cũng vậy, họ vừa thèm khát, lại vừa khinh bỉ tôi. Đến nước này, cuộc đời quăng vật, còn gì để mà danh giá, gìn giữ nữa cậu! Đã điều tiếng thì dù mình có thế nào cũng vẫn điều tiếng. Nhiều lúc mệt mỏi, chán nản, tôi muốn chết quách cho xong. Nhưng rồi lại nghĩ đến con… Muốn bỏ nghề, từ chối thì họ lại chửi “Đĩ còn giữ giá”. Thôi thì mặc thây cái cuộc đời này, cũng đáng bỏ đi lâu rồi… - Thế con trai chị đâu? - Cứ tối đến thì nó bỏ đi. Đến nửa đêm mới về, thậm chí cũng không về, bởi nó biết tôi thường có khách. Hồi nhỏ, nó còn chịu được, sau lớn lên một chút, nó hầm hè với khách. Lớn lên nữa nó hiểu, và nhất là sau mấy lần bị tôi mắng, nó bèn nghĩ ra cách ấy. Có khi đến mấy ngày nó chẳng nói với tôi một câu nào.  Ngắm kỹ chị Luyến, tôi thấy chị phai tàn đi nhiều. Chị đã ngoài bốn mươi rồi, qua hai lần đò, bây giờ lại thế này thì còn gì là người nữa. Tôi nén tiếng thở dài. Chợt chị hỏi: - Nghe đâu, Thúy cũng sống ở ngoài đó? - Vâng, gia đình chị ấy cũng tạm ổn.  - Tôi có một đề nghị thế này. Ra ngoài ấy, cậu muốn viết gì thì tùy cậu nhưng không được để đúng tên tôi. Và nhất là, không được nói bất cứ điều gì cậu biết về tôi với Thúy. Chị Luyến lại tức tưởi. Tôi lặng nhìn. Rồi móc túi tiền đặt khẽ lên bàn, lách cửa ra ngoài. Trời đêm đầy vẻ rầu rĩ. Tôi đi giữa những tiếng chó sủa rấm rẳng. Mà tôi để tiền lại làm gì nhỉ. Tiền bạc nghĩa lý gì? Lại một sự ngu ngốc. Nào có ai cần tôi thương vay khóc mướn đâu!... Tháng 9/1992
tamvanvov 20.02.2022 11:24:55 (permalink)

MƯA XUÂN
( Tản văn )

Tiết xuân,
Đêm trước, ngủ mơ vàng tiếng mưa nhè nhẹ, rơi rơi, ru rín, rả rich… Sáng dậy, mở cửa nhìn ra thấy mái hiên nhỏ giọt, lối vào ngõ nhà ướt át…
Đi đường, cân nhắc rồi thây kệ, chẳng áo mưa gì. Trời mờ hơi mưa, xuyên màn mưa bụi, lúc đầu không sao nhưng chỉ một chút là bụi nước mờ mắt kính, vạt trước áo khoác ngoài cũng nhếnh nháng… Ấy là chút lộc sớm của mùa xuân...
Lâu rồi, mới thấy đây. Tự nhiên, nhớ mấy câu thơ rất chi tinh tế của Lưu Trường Khanh, một thi nhân đời Đường (Trung Quốc), trong bài thơ Biệt Nghiêm Sĩ Nguyên, đã viết “Tế vũ thấp y khan bất kiến/Nhàn hoa lạc địa thính vô thanh”, dịch nghĩa tiếng Việt là “Mùa phùn làm ướt áo, nhìn mà chẳng thấy/ Hoa nhẹ nhàng rơi xuống đất, nghe không thành tiếng”. Quả là hay và tinh tế làm sao. Được biết, hai câu thơ này từng được sử dụng làm đề thi cho học sinh toàn Trung Quốc trong một kỳ thi tốt nghiệp bậc Trung học phổ thông. Một người bạn thơ của tôi, blogger Hoa Mai đã dịch là “Mưa phùn áo ướt nhìn chẳng rõ/ Hoa rơi từng cánh bẫng như không”. Thế cũng là hay.
Tiết mưa phùn, mưa xuân, hơn ngàn năm nay vẫn vậy. Thời ấy, thi nhân Lưu Trường Khanh, đi thuyền dọc sông, gặp tiết mưa xuân đã cảm thán mà viết vậy… Đến thời nay, nhà thơ xứ Việt mình, Trần Đăng Khoa, cũng tài tình lắm thay khi tả cảnh mưa phùn, mưa xuân, trong bài thơ Mưa xuân, đã hạ bút: “Mưa bay như khói qua chiều/ Vòm cây như nhỏ giọt đều qua đêm/ Tiếng mưa vang nhẹ khắp miền/ Lòng rung như chiếc lá mềm, khẽ sa/ Sáng ra, mở cửa nhìn ra/ Vẫn mưa mà đất trước nhà vẫn khô”…
Nhưng tiết mưa phùn, với người thành phố, có thể làm người ta khó chịu, bởi sự ướt át, nhớp nháp, ẩm thấp, nhưng với nhà quê, mưa phùn có cái duyên và sự thú vị của nó. Sống ở quê lâu, nhìn đâu cũng thấy sự chuyển biến của vạn vật theo tiết trời… Ngoài cánh đồng, sau nhưng ngày rét khan khô hạn, mưa phùn đất ẩm, những chân ruộng chưa vỡ, rau khúc miên man màu xanh non, còn chân ruộng mạ, mỗi ngày nhìn cũng đổi khác. Cây vụ đông như su hào, bắp cải, cải cúc mỡ màng hơn. Trong làng ngoài ngõ, ướt át lầy bẩn bùn đất có đấy, nhưng ta sẽ thấy thú vị khi thấy vạt bèo trên ao cạn đã xanh hơn, hàng rào cúc tần, xương rồng thì tươi roi rói… Trong vườn, những vạt cải sót, cải giống lên ngồng rung rinh hoa vàng ngậm nước mưa như nạm ngọc. Và, những cây bười, cây chanh hoa đâm nụ sớm hương lan dìu dịu… Bày gà mẹ, gà con túc túc dắt nhau tìm bới, bắt sâu bọ, côn trùng trong đất ẩm… Mọi vạn vật đều cựa quậy, sống động hẳn lên, chờ tiết xuân sang,… Mưa phùn là tín hiệu đầu tiên của mùa xuân đấy…
Ấn tượng làm sao, trong màn mưa bụi giăng mờ ngõ xóm, là những loài hoa màu đỏ. Và nữa, màu áo đỏ, khăn choàng đỏ của các chị, các cô gái quê cũng ấn tượng và có sức khơi dậy trong ta niềm hứng khởi xuân !...


tamvanvov 12.03.2022 10:03:49 (permalink)

LÊN MIỀN HOA BAN TRẮNG
(Tản văn)

@@@
Đi Tây Bắc, lần nào cũng vậy, dù nhàn tản thăm thú hay vội vàng công việc, đều có cái thú riêng của nó. Thường là chuyến đi vào dịp cuối năm, hay bị vội vàng hơn những chuyến đầu xuân.
Nhớ là, có lần, đã giáp tết, công việc bề bộn, cứ bị cuốn theo cái sự gấp gáp, náo nức của không khí tết, nên ngoài việc ngó nghiêng tìm mua lấy một cành đào rừng, thì chẳng còn thời gian đâu mà thăm thú... Lần vào dầu xuân, đã chủ định, rảnh rang hơn. Chẳng gì thì cũng vừa mới hết tháng ăn chơi, vả lại mùa xuân hãy đang còn kia mà. Nhớ dạo thu năm ngoái, anh bạn đồng nghiệp, là chủ tịch Hội nhà báo tỉnh Điện Biên nhắn nhe bằng lời mời hấp dẫn : “ Mong được đón anh ở Điện Biên, nhưng hẹn anh vào mùa ban xuân tới “. Vậy mà mùa ban đến, định theo lời mới mà lên, thì anh chàng lại bay vào Nam, chờ theo tàu Hải quân ra thăm Trường Sa. Thôi kệ, mùa ban đâu có đợi người . Thích thì cứ đi thôi.
Đúng hôm lên đường thì một đợt gió mùa mạnh tràn về. Suốt dọc đường, từ Hòa Bình, Mai Châu, Mộc Châu, Yên Châu, Hát Lót lên Sơn La, mưa rét tầm tã, rả rích một điệu ru rín buồn buồn của trời đất, trong khi ấy, thì cập nhật thông tin toàn là tuyết rơi dày gây khó khăn cho công tác cứu hộ động đất, sóng thần ; chuyện phun nước làm mát lò phản ứng hạt nhân ở Nhật Bản ; tin chuẩn bị đánh nhau to ở Libya... Lởn vởn trong đầu, ý nghĩ về một đợt lũ tiểu mãn có thể giảm nguy cơ cháy rừng, và cung cấp một lượng nước đáng kể cho cây cối và tích thêm nước cho thủy điện, khiến cho lòng người có cái để mà vui ...Những cung đường Tây Bắc, mấy năm qua đi lại, đã thành quen thuộc, khúc nào quanh co nguy hiểm, mùa nào hay sương mù dày đặc, chỗ nào có bản Mông, bản Thái, mùa nào có hoa gì nở ... Ấy vậy, trời mưa rét, cũng mất hết cả phương hướng. Lúc nghỉ chân tìm chén trà nóng ở gần thị trấn nông trường Mộc Châu, lạnh run người, thì ra nhiệt độ xuống tới 4 độ C. Xe cứ lầm lụi trong mưa, chốc chốc một cây gạo hoa trổ đỏ ối cả cây trơ vơ bên sườn dốc hiện ra trong màn mưa. Xe đông người, vậy mà một cảm giác cô đơn len lén dâng lên.. Mấy ngày, ngoài sự hứng khởi trong thực thi công việc, chút thăng hoa xen lẫn cảm giác trống rỗng khi nghiêng ngả trong các cuộc rượu tại bản Thái, vẫn còn sự chờ đợi về màu hoa ban trắng rừng núi Tây Bắc. Lại Thuận Châu, rồi vượt đèo Pha Đin sang Tuần Giáo. Đã thấy lác đác những cây ban hoa trắng, nhưng ủ rũ trong mưa rét và sương giá. Cả thành phố Điện Biên chìm trong mưa rét. Đêm, nằm bẹp trong phòng kín Nhà khách tỉnh, nghe mưa rơi đều đều ngoài trời, loáng nhoáng màn hình ti vi là những cảnh tuyết dày ở Sa pa cùng các gương mặt hớn hở của người lần đầu thấy tuyết, cảnh người dân Nhật Bản đang vật lộn với giá rét tuyết phủ kín trong đống đổ nát khổng lồ của động đất và sóng thần. Có gì đó hơi bất nhẫn...
Ngủ vùi trong hơi men và những xúc cảm đan xen, chộn rộn. Lại mơ màng về một màu hoa ban trắng ...
Vâng, đấy là cảm xúc về một miền hoa ban trắng của những năm trước, nó đã thuộc về ký ức, dù chưa xa. Đến mùa ban này, tôi cầm trong tay cái giấy mời của Ban tổ chúc Lễ hội hoa ban Điện Biên. Có gì đó háo hức. Ngay như Sơn La, mặc dù không phải là xứ sở của hoa ban, thì ở thành phố đó đây, cũng đã bắt gặp những băng-rôn quảng bá về Lễ hội hoa ban, và ngẫu hứng thay, tôi đã chộp được mấy bức ảnh hoa ban khá ưng ý từ vài ba cây ban cô lẻ mình đầy hoa trắng tinh trong nắng chiều xuân óng ả. Lại vượt đòe Pha Đin, giờ đã hạ cốt thấp hơn nhiều so với tuyến đường trên cao xưa kia “ ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” của những chiến binh Tây Tiến. Khi băng ngang quê hương của người anh hùng thiếu niên Vừ A Dính thời chống Pháp, hoa ban ven đường, và trên những vạt đồi đã nhiều hơn. Càng gần thành phố Điện Biên, thủ phủ của miền hoa ban trắng, dọc đường vào, bắt gặp những cây ban mới trồng theo hàng lối quy củ. Hẳn là địa phương chủ động phát triển loài cây hoa này nhằm củng cố thương hiệu miền hoa ban cho mình nhằm phục vụ cho mục đích du lịch sau này.
Thành phố Điện Biên, đang xuân mà nóng như mùa hè. Cảm thấy hơi vị khó chịu đặc trưng của gió lào trong không khí. Tuy không ngập trong màu trắng hoa ban thì đó đây, trên đường phố, các điểm tham quan như Đồi A1, Nghĩa trang Điện Biên, khu di tích Hầm Đơ-cát, và bờ sông, khe suối, màu ban trắng đã dày hơn. Ai đó, lý giải cho việc đúng vào dịp lễ hội hoa ban mà ban nở lại không nhiều, rằng trước đó mấy ngày, một trận giông lốc mưa lớn khi gió mùa đông bắc tràn về đã làm phàn lớn số cây ban nở hoa bị rụng hết, rằng sau trận giông lốc, đường phố ngõ xóm đầy xác hoa và canh cây gãy. Nghĩ mà xót mà thương cho lễ hội thưa vắng sắc trắng tinh khôi của hoa ban. Song rồi, bù lại, đêm lễ hội, các tiết mục dân ca, dân vũ được trình diến khá kỳ công và đặc sắc văn hóa phong tục vùng miền, với kết thúc là vòng xòe lớn kết nối niềm vui của con người từ mọi vùng miền...
Chẳng hề hấn gì, trong tôi, những câu thơ lấp ló:
... Ban đang mùa mở hội
Ta lại tìm xa xôi,
ước một bàu tĩnh lặng
chỉ còn màu hoa thôi...

###
Lại nhớ miền hoa ban trắng
chừng này người có chờ ta
Tây bắc xuân đang độ chín
tưng bừng đua sắc chen hoa,

Thương một màu ban tinh khiết
tích xưa kể chuyện nàng Ban
đất trời xiêu lòng cảm động
cáy trổ lên giữa ngút ngàn,

Từ ấy mỗi mùa xuân chín
riêng mình ban trắng tinh khôi
biết bao nhiêu nàng thiếu nữ
lời yêu ngập ngừng trên môi,

Ta riêng nặng lòng Tây bắc
người còn ngóng đợi hay thôi?...

Mùa hoa ban 2018.


tamvanvov 03.04.2022 12:16:43 (permalink)
Giêng hai trời giăng mưa phùn,
Tản văn
 
Giêng hai trời giăng mưa phùn
Muốn du xuân, ngại, lại chùn bước chân...

Năm rồi, mùa đông không mấy rét. Những ngày tết nguyên đán tuy không thật rét như mong muốn của nhiều người, song cũng đủ lạnh khô mỗi khi về đêm và buổi sáng, dù ban trưa ít nhiều có nắng ấm. Đến cuối tháng giêng, trời đã dày sương lúc chiều chạng vạng và buổi sớm mai, kiểu trời báo hiệu sắp có mưa phùn. Theo tự nhiên, kiểu này, sang tháng hai âm lịch, tiết trời sẽ âm u, mù sương, mưa phùn mưa bụi lây phây cả ngày, đến mấy ngày, thậm chí suốt cả tuần. Ai nấy, cũng kêu trời nồm ẩm khó chịu, nhất là những người mắc chứng hô hấp, hoặc xương khớp. Người khỏe thì cũng thấy ỉu xìu, ươn ươn, khó ngủ. Ấy vậy, kêu ca mà làm gì !...
Lâu rồi, tôi mới thấy tiết trời vùng Bắc bộ điển hình nồm ẩm giêng hai đến vậy. Kiểu tiết trời này, ngày xưa là thường, hầu như năm nào cũng na ná vậy. Có lẽ, tiết trời bất thường, không còn tuân theo hai mươi bốn tiểu tiết, trên cơ sở phân đoạn lịch âm điển hình, đã trở thành phố biến, và là sản phẩm của biến đổi khí hậu chăng? Ngày xưa, cũng có năm thất thường, có hiện tượng thời tiết cực đoan, quá nóng, quá rét, song cơ bản là hài hòa, tiết thuận, nghĩa là điển hình mùa nào ra mùa nấy. Chính vì thế, thiên nhiên theo mùa, vạn vật, cỏ cây hoa lá thuận theo tiết, con người lâu thành quen, nó ăn sâu bám rễ vào tiềm thức, trạng thái, tình cảm, tâm lý, cảm xúc...; rồi qua đó mà ảnh hưởng đến phong tục, văn hóa, nghệ thuật, xã hội nữa... Giờ thì thất thường và bất thường, thật là đáng lo ngại đấy chứ !...
Vâng, lại ngày xưa, tiết giêng hai nồm ẩm, với biểu hiện đặc trưng là dầy mây, sương mù, mưa bụi mưa phùn lây nhây... Nhưng đấy là mùa của hoa xoan tím ngát, mùa của hoa chanh, hoa cam thơm dìu dịu tinh khiết, mùa của hoa bưởi sực nức vườn quê; rồi nữa hoa mơ hoa mận, hoa lê trắng xóa sườn đồi... Nữa là, cỏ non tơ mơn mởn khắp chốn cùng quê. Lại nhớ câu thơ Nguyễn Du: "Cỏ non xanh rợn chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa/ Thanh minh trong tiêt tháng ba/ Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh...", rồi câu thơ cổ Việt là "Xuân du phương thảo địa...".
Tiết trời này, rau khúc đồng cũng lên xanh mỡ, tha hồ mà thu hái để làm món bánh khúc thơm ngon. Mùa thu cũng có rau khúc, nhưng khúc thu già và cỗi hơn khúc xuân.
Cho đến khi, chợt trời nổi cơn giông, bầu trời thấp thoàng lóe sáng lằng ngoằng những tia chớp mảnh, rồi thoảng đâu đó từ xa xôi ì ầm tiếng sấm, ấy là đã qua tiết tháng hai nồm ẩm, báo hiệu mùa hạ sắp đến. Cho đến khi, chớp chới vài ba bông gạo đỏ đầu làng, cuối xóm, đầu non sườn núi, và vườn nhà ai, hoa lựu đâm bông...

Cuối xuân bàng đã lá xanh,
Sót đôi chiếc đỏ trên cành ngẩn ngơ,
Thôi đừng, mùa đợi tháng chờ
Kìa bông hoa lựu thập  thò lửa nhen,...

 
( 18/02/2020 )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.04.2022 12:19:01 bởi tamvanvov >
tamvanvov 03.05.2022 11:17:41 (permalink)

NGHÈ TIẾN SĨ LÀNG ( hỌ NGUYỄN )
(Thanh Khê, Minh Hải, Văn Lâm, Hưng Yên)
@@@
Tiến sĩ Nguyễn Huy Quân thuộc Họ Nguyễn làng tôi. là 1 trong số 15 vị đỗ tiến sĩ khoa thi Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40 (1779)
Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779) tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Hà Nội. Đây cũng là bia tiến sĩ cuối cùng trong số 82 bia được lưu giữ ở Văn Miếu
Cụ nghè Nguyễn Huy Quân (1744-?) người xã Thanh Khê huyện Văn Giang (nay thuộc huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên). Ông làm quan Hàn lâm viện Đãi chế, Thự Hiến sát sứ.
Trong số 15 vị đỗ tiến sĩ khoa thi Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40 (1779) được nêu tên tuổi trong văn bia, có tiến sĩ Nguyễn Huy Quân thuộc Họ Nguyễn làng tôi...

Nguyên văn Văn bia được dịch như sau:

Năm Kỷ Hợi, Hoàng đế ở ngôi chẵn 40 năm, long thể an khang vui mạnh, hằng chính đạo thường. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Thượng sư Tĩnh vương] sửa sang trị giáo, đào tạo nhân tài. Mùa đông năm ấy, đặc biệt mở khoa thi Hội cho các Cống sĩ trong nước tại lầu Ngũ Long. Sai Quốc cữu Phó Thủ hiệu Hậu uy cơ Phó cai quan Đề đốc Viêm Quận công Nguyễn Trọng Viêm làm Đề điệu, Nhập thị hành Tham tụng Hình bộ Tả Thị lang Thự Lại bộ Hữu Thị lang kiêm Quốc tử giám Tư nghiệp Tứ Xuyên hầu Phan Trọng Phiên làm Tri Cống cử, Thiêm sai Phủ liêu Tri Công phiên Hàn lâm viện Thị giảng Nguyễn Duy Hoành, Thiêm sai Phủ liêu Tri Hộ phiên Hàn lâm viện Hiệu lý Dương Trọng Khiêm làm Giám thí. Lấy trúng cách tứ trường là bọn Phạm Nguyễn Du 15 người.
Mùa xuân năm Canh Tý vào Điện thí. Ngày hôm sau, Vương thượng ngự tới phủ đường đích thân ra đề thi văn sách. Sai nhập thị hành Tham tụng Binh bộ Tả Thị lang Thự Lại bộ Tả Thị lang kiêm Quốc tử giám Tế tửu Liên Khê hầu Vũ Miên giữ quyển, bề tôi là Phiên duyệt quyển. Ban cho bọn Lê Huy Trâm, Phạm Nguyễn Du đều đỗ Tiến sĩ xuất thân, đồng Tiến sĩ xuất thân có thứ bậc khác nhau. Lại sai Bộ Công khắc đá đề tên dựng tại nhà Thái học, sai từ thần soạn văn bia.
Thần là (Phan Trọng) Phiên cúi đầu cầm bút, ngước trông Hoàng thượng, Vương thượng cùng chung một đức, thịnh tâm rộng mở, đặc cách lựa chọn nhân tài, xưa nay chưa từng có tiền lệ. Những người trúng tuyển khoa này cũng xứng đáng được khen là đắc nhân. Kính cẩn cúi đầu rập đầu ghi chép sự việc để nêu rõ thịnh sự thánh triều chọn lựa được nhiều nhân tài, lưu truyền đến vô cùng.
Thần kính cẩn làm bài ký.
Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 2 người:
LÊ HUY TRÂM 黎輝簪1 người xã Bối Khê huyện Thanh Oai phủ Ứng Thiên trấn Sơn Nam, Nho sinh trúng thức, đỗ năm 38 tuổi.
PHẠM NGUYỄN DU 范阮攸2 người xã Đặng Điền huyện Chân Phúc phủ Đức Quang Nghệ An, Đầu xứ, Văn chức, đỗ kỳ thi Tứ trọng, các bài thi do vua ra bài đều đỗ đầu, được vào hầu giảng hàng ngày, từng được bổ chức Huyện Tự viên lang, Thiêm phó tiến triều, Cai đạo, Thiêm sai Tri Hình phiên, Hàn lâm viện Hiệu thảo, kiêm Quốc sử Toản tu, thi đỗ năm 40 tuổi. Trường hai, trường bốn và ứng chế đều đỗ đầu.
Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 13 người:
PHẠM QUÝ THÍCH 范貴適3 người phường Báo Thiên huyện Thọ Xương phủ Phụng Thiên, nguyên quán xã Hoa Đường huyện Đường An phủ Thượng Hồng, Thiếu tuấn, đỗ thứ 2, Bộ Lễ, đỗ năm 20 tuổi.
HOÀNG QUỐC TRÂN 黃國珍4 người xã Nam Chân huyện Nam Chân phủ Thiên Trường trấn Sơn Nam, Giám sinh, thi ở Bộ Lễ và thi Chế đều đỗ thứ 3, đỗ năm 29 tuổi.
NGUYỄN HUY QUÂN 阮輝鈞5 người xã Thanh Khê huyện Văn Giang phủ Thuận An trấn Kinh Bắc, Giám sinh, đỗ năm 26 tuổi.
NGUYỄN HÀN 阮翰6 người xã Phú Thị huyện Gia Lâm phủ Thuận An trấn Kinh Bắc, Huấn đạo, đỗ năm 33 tuổi.
NGUYỄN ĐÌNH THIỀU 阮廷韶7 người xã Phù Cảo huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn trấn Kinh Bắc, Nho sinh trúng thức, đỗ năm 33 tuổi.
NGUYỄN ĐÌNH THẠC 阮廷碩8 người xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây, Nho sinh trúng thức, Đầu xứ, đỗ năm 26 tuổi.
LÊ ĐĂNG CỬ 黎登舉9 người xã La Khê huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây, Giám sinh, đỗ năm 40 tuổi.
NGUYỄN KIÊM 阮兼10 người xã Tây Đam huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây, Giám sinh, đỗ năm 29 tuổi, sau đổi tên Huy Đảng.
VŨ DI LƯỢNG 武夤亮11 người xã Yên Thái huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên, Huấn đạo, đỗ năm 34 tuổi, thi Hội đỗ thứ 3.
TRẦN HUY LIỄN 陳輝璉12 người xã Phú Thị huyện Gia Lâm phủ Thuận An trấn Kinh Bắc, Huấn đạo, đỗ năm 45 tuổi, Khoa trưởng.
NGÔ TIÊM 吳暹13 người xã Cát Đằng huyện Vọng Doanh phủ Nghĩa Hưng trấn Sơn Nam, Sinh đồ, đỗ năm 31 tuổi.
NGUYỄN ĐƯỜNG 阮堂14 người xã Trung Cần huyện Thanh Chương phủ Đức Quang trấn Nghệ An, đỗ Tứ trọng, Huấn đạo, Ứng chế đỗ thứ 2, Thế khoa, chú cháu đồng triều, thi đỗ năm 34 tuổi.
PHAN HUY ÔN 潘輝溫15 người xã Thu Hoạch huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang trấn Nghệ An, Nho sinh trúng thức, Đầu xứ, cha con anh em đồng triều, thi đỗ năm 26 tuổi.
Bia dựng ngày tốt tháng giữa đông năm Canh Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ 41 (1780).
Đinh Sửu khoa đồng Tiến sĩ xuất thân Thiếu tuấn Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Nhập thị Kinh diên Tri Quốc tử giám, Tri Đông các Tri Hàn lâm viện phụng quản Thị hậu nghiêm hậu đội Hộ bộ Tả Thị lang Tứ Xuyên hầu Phan Trọng Phiên vâng sắc soạn.

Chú thích
1. Lê Huy Trâm (1742-?) người xã Bối Khê huyện Thanh Oai (nay thuộc xã Tam Hưng huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây). Thời Lê, ông làm quan Hàn lâm viện Thị độc. Thời Nguyễn, được bổ chức Học sĩ và Đốc đồng xứ Kinh Bắc.
2. Phạm Nguyễn Du (1740-1786) hiệu Thạch Động , tự là Hiếu Đức và Dưỡng Hiên , người xã Đặng Điền huyện Chân Phúc (nay thuộc xã Nghi Thạch huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An). Ông giữ các chức Huyện Tự viên lang, Thiêm phó tiến triều, Cai đạo, Thiêm sai Tri Hình phiên, Hàn lâm viện Hiệu thảo kiêm Quốc sử Toản tu, Đốc đồng Nghệ An. Thời Tây Sơn, ông đến vùng núi huyện Thanh Chương ở. Ông còn có tên là Phạm Vĩ Khiêm.
3. Phạm Quý Thích (1759-1825) hiệu là Lập Trai Thảo Đường Hoa Đường và tự là Dữ Đạo , người xã Hoa Đường huyện Đường An (nay thuộc xã Thúc Kháng huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương), trú quán ở phường Báo Thiên huyện Thọ Xương (nay thuộc quận Hoàn Kiếm Tp. Hà Nội). Thời Lê, ông làm quan Thiêm sai Tri Công phiên, Đông các Hiệu thư. Thời Tây Sơn, ông đi ở ẩn. Thời Gia Long, ông được bổ chức Thị trung học sĩ, tước Thích An hầu. Sau ông cáo quan về quê nghỉ.
4. Hoàng Quốc Trân (1751-?) người xã Nam Chân huyện Nam Chân (nay thuộc xã Nam Đồng huyện Nam Trực tỉnh Nam Định). Ông làm quan Hàn lâm viện Đãi chế, Thự Hiến sát sứ Kinh Bắc.
5. Nguyễn Huy Quân (1744-?) người xã Thanh Khê huyện Văn Giang (nay thuộc huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên). Ông làm quan Hàn lâm viện Đãi chế, Thự Hiến sát sứ.
6. Nguyễn Hàn (1747-?) người xã Phú Thị huyện Gia Lâm (nay là xã Phú Thị huyện Gia Lâm Tp. Hà Nội). Ông làm quan Hàn lâm Đãi chế, Đốc đồng Cao Bằng. Có tài liệu ghi ông là Nguyễn Hấp.
7. Nguyễn Đình Thiều (1747-?) người xã Phù Cảo huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Phù Chẩn huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Hàn lâm viện Thị chế, Đốc đồng Sơn Tây. Khi nhà Lê mất, ông về quê ở ẩn.
8. Nguyễn Đình Thạc (1754-?) người xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm (nay xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm Tp. Hà Nội). Ông làm quan Hàn lâm Thị giảng. Khi nhà Lê mất, ông đi đâu không rõ tung tích. Có tài liệu ghi ông là Nguyễn Công Thạc.
9. Lê Đăng Cử (1740-?) người xã La Khê huyện Từ Liêm (nay thuộc xã Văn Khê thị xã Hà Đông tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Đông các Hiệu thư, Đốc đồng Thái Nguyên.
10. Nguyễn Kiêm (1751-1817) người xã Tây Thiềm huyện Từ Liêm (nay thuộc xã Tây Tựu huyện Từ Liêm Tp. Hà Nội). Ông giữ các chức quan, như Đông các Hiệu thư, Đốc đồng Tuyên Quang, Học sĩ, tước hầu, rồi thăng Đốc học Sơn Nam. Sau ông đổi tên là Nguyễn Huy Đảng.
11. Vũ Di Lượng (1746-?) người phường Yên Thái huyện Quảng Đức (nay thuộc phường Bưởi quận Ba Đình Tp. Hà Nội). Ông làm quan Hàn lâm viện Hiệu thảo, Đốc đồng Sơn Tây. Có tài liệu ghi ông là Vũ Dần Lượng.
12. Trần Huy Liễn (1735-?) người xã Phú Thị huyện Gia Lâm (nay là xã Phú Thị huyện Gia Lâm Tp. Hà Nội). Ông làm quan Đông các Đại học sĩ, Thự Tham chính Hải Dương.
13. Ngô Tiêm (1749-1818) người xã Cát Đằng huyện Vọng Doanh (nay thuộc xã Yên Tiến huyện Ý Yên tỉnh Nam Định). Ông giữ các chức quan, như Đông các Hiệu thư, Đốc đồng kiêm Đốc trấn Lạng Sơn, Thái Hòa điện Học sĩ, tước Mỹ Phái hầu. Sau về quê dạy học.
14. Nguyễn Đường (1746-?) người xã Trung Cần huyện Thanh Chương (nay thuộc xã Nam Trung huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An). Ông giữ các chức quan, như Hàn lâm viện Hiệu thảo, Thị chế, Đốc trấn Lạng Sơn, tước Chi Phong bá và được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc).
15. Phan Huy Ôn (1755-1786) hiệu là Chỉ Am, Nhã Hiên và tự là Hoà Phủ, Trọng Dương, người xã Thu Hoạch huyện Thiên Lộc (nay thuộc xã Thạch Châu huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con của Phan Cận (tức Phan Huy Áng), em Phan Huy Ích. Ông giữ các chức quan, như quan Đốc đồng Sơn Tây, Hàn lâm Thị chế, Tham đồng đê lĩnh, Thiêm sai Tri Công phiên, tước Mỹ Xuyên bá. Sau khi mất, ông được tặng chức Hàn lâm Thị giảng, tước Mỹ Xuyên hầu.

@ Bàn thêm:
1. Hiện nay, tên Thanh Khê được giữ làm tên làng tôi. Do thời thế thay đổi mấy trăm năm, nên các làng xã được phiên chế lại. Nay làng Thanh Khê quê tôi thuộc xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Hơn trăm năm trước, huyện Văn Lâm mới được thành lập trên cơ sở một phần đất đai làng xã của 2 huyện cắt ra để thành lập huyện mới (Văn Giang, và Gia Lâm, Kinh Bắc. Sau này, huyện Văn Lâm lại phiên chế thuộc về tỉnh Hưng Yên cho đến tận bây giờ).
2. Vài chục năm trở lại đây, để tôn vinh bậc danh nhân là người làng và khuyến học khuyến tài, họ Nguyễn làng tôi đã đứng ra quyên góp để dựng Nghè tiến sĩ, thờ bài vị của Tiến sĩ Nguyễn Huy Quân, nơi dòng họ và người làng hương khói tuần rằm, mồng một, lúc tết nhất, khi hội làng...
3. Duyên số, tôi thuộc dòng họ Tiến sĩ Nguyễn Huy Quân, khi lập gia đình, vợ tôi quê gốc Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Tây cũ, và mẹ vợ tôi thuộc dòng họ của Tiến sĩ Lê Huy Trâm, người đứng đầu khoa thi Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779) này, nghĩa là cùng khoa với cụ Nghè Quân họ bên nhà tôi.
4. Về chức danh Hiến sát sứ mà cụ Nghè Quân đảm nhiệm, tôi đã tra cứu và được biết "Hiến sát sứ là chức vụ trưởng quan của Hiến sát sứ ty, còn được gọi tắt là Hiến ty. Theo quan chế thời Hồng Đức, chức Hiến sát sứ, Hiến sát phó sứ chức vụ là đàn hặc, xét hỏi, khám đoán, hội đồng kiểm soát, khảo khoá, tuần hành… Thời Bảo Thái, Hiến sát sứ hàm chánh lục phẩm"
5. về chức danh Hàn lâm viện Đãi chế của cụ Nghè Quân sau khi đỗ đạt, được giải thích như sau: "Hàn lâm viện (翰林院, Hanlin Academy) là một tổ chức trong các triều đại quân chủ Á Đông xưa gồm các học sĩ uyên thâm Nho học, văn hay chữ tốt, chuyên trách việc soạn thảo văn kiện triều đình như chiếu, chỉ, sắc, dụ, chế.
Quan viên của Hàn lâm viện cũng là nguồn nhân lực cung cấp cho Quốc sử quán trong việc biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ. Ngoài ra, Hàn lâm viện cùng với các cơ quan học thuật khác đảm nhiệm trọng trách nghiên cứu, giảng dạy kinh truyện, phụ trách việc khoa cử, thị tùng văn học, và khi cần, đảm nhận trách nhiệm Khâm sai. Hàn lâm viện và Quốc tử giám (tức trung tâm giáo dục giữ trọng trách đào tạo nhân tài cho quốc gia) là hai cơ quan học thuật rất được trọng vọng trong quan chế triều đình xưa
". Còn Hàn lâm viện Đãi chế là một cấp bậc xếp gần cuối của thang bảng chức danh trong Hàn lâm viện.

Hiến sát sứ (chữ Hán: 憲察使) là một chức vụ quan chức trong lịch sử Việt Nam. Hiến sát sứ là chức vụ trưởng quan của Hiến sát sứ ty, còn được gọi tắt là Hiến ty. Theo quan chế thời Hồng Đức, chức Hiến sát sứ, Hiến sát phó sứ chức vụ là đàn hặc, xét hỏi, khám đoán, hội đồng kiểm soát, khảo khoá, tuần hành… Thời Bảo Thái, Hiến sát sứ hàm chánh lục phẩm.
6. Tôi đã mượn hình tượng quan nghè Nguyễn Huy Quân để xây dựng nhân vật trong một số sáng tác của minh (như các truyện Ngày xưa ấy. Thấm thoát tháng ngày, Giải thoát...),..Tôi sưu tầm, viết ra đây chỉ với mục đích lưu giữ về dòng tộc hai bên mà thôi,...


<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.05.2022 11:21:07 bởi tamvanvov >
tamvanvov 21.05.2022 11:14:14 (permalink)

OI NƯỚC LÊN
( Tản văn )
@@@

Mùa hè Hà Nội, trời oi nồng. Mỗi khi nghe ai đó ta thán rằng trời oi bức khó chịu quá, tôi lại buột miệng giải thích " Oi nước lên ấy mà ". Thực ra, tôi chỉ lặp lại câu nói mà cha mẹ tôi hay nói ngày trước. Ngày ấy, còn ở độ tuổi đi học, tôi đã từng được nghe cha mẹ tôi nói về oi nước lên. Khi đó, làng quê chưa có điện, để giải nhiệt những cơn nắng nóng oi nồng, người dân quê chỉ biết trông chờ vào những chiếc quạt nan, quạt mo, những cơn gió đồng tươi nguyên lúc chiều hôm, rồi những gàu nước giếng trong mát, những phút giây đắm mình bơi lội dưới dòng sông quê, và cả bằng những món ăn dân dã như canh cua mồng tơi mướp hương, canh rau tập tàng, rau dền luộc...
Cứ nghe người lớn ta thán những ngày oi nước lên, có lần tôi đã hỏi cha mẹ, oi nước lên là oi như thế nào. Mẹ tôi bảo, là do mưa nhiều ở thượng nguồn nhưng đồng bằng mình lại không mưa nên nồng oi khó chịu. Còn cha tôi thì giải thích cặn kẽ hơn, rằng những ngày ấy trời mưa nhiều ở thượng nguồn, mãi từ vùng cao nguyên Tây tạng, nơi khởi nguồn của những con sống chảy trên đất Việt mình, thêm nữa cùng lúc đó, ngoài khơi biển Đông thường hay có các cơn bão lớn nhỏ, thế là hai vùng không khí ấy chèn ép gây nên sự oi bức ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Còn nước lên ư ? Là do mưa nhiều nơi đầu nguồn nên nước đổ về hạ lưu rất lớn, mực nước các con sông ở Bắc và Trung Bộ lên nhanh và cao ở mức báo động, đe doạ vỡ đê, trong khi ở đồng bằng vẫn không có hoặc ít mưa. Ấy là oi nước lên đấy. Cha tôi còn chỉ tay ra con sông quê nước dâng ngầu đỏ bảo, quê mình ở xa sông Cái và các con sông lớn khác mà nước đổ về còn thế nữa là... Rồi cha tôi hồi tưởng và kể rằng, ngày xưa nữa, những ngày oi nước lên thế này, những làng xóm dọc triền các đê lớn trống từ điếm canh đê giục thì thùm suốt ngày đêm, chùm sự lo âu phấp phỏng lên đầu người dân, nhất là đám dân nghèo nỗi sợ vỡ đê mất mùa mà sinh đói kém bệnh dịch.
Nghe người lớn nói thì biết vậy, chứ tuổi học trò có nghĩ xa xôi gì đâu. Đám trẻ chúng tôi chỉ thấy toàn những vui thú, vui vì nước sông về to đem lại bao nhiều là trò vè. Nào là chiều hè tắm sông, lũ trẻ tha hồ leo lên cành đa, cành vối ven bờ xòa trên mặt nước thi nhau bông nhông từ trên cao xuống sông bơi lội thoả sức. Rồi là nước to tràn vào các cừ nước nhỏ, mương máng, rạch ao đầy ăm ắp và cá mú từ sông Cài cũng theo nước mà về . Lũ trẻ chúng tôi chỉ cần buông câu nơi rạch nước là có thể câu được những chú cá ngão kếch xù , những chú cá trôi, hoặc chép nhỡ. Thêm nữa, cá vào đồng sinh sôi nảy nở, khi nước còn xăm xắp thì đánh rọ rô, đến cuối thu đầu đông, gặp vụ mùa xong rồi, tha hồ tìm vũng nước, ổ nước trong đồng cỏ rối lẫn gốc rạ mà bắt cá. Còn thú nữa là săn tìm nấm. Thường là sau mỗi đợt oi nồng trời mưa dấm dẳng, thế rồi nơi góc vườn, vùng đất ẩm chân đống rơm đống rạ, nấm rơm đội đất nhú lên trắng mởm từng vạt. Tha hồ hái về nấu canh hoặc xào tái rất ngon. Rồi dọc các triền mương, bờ sông, nấm cỏ lác đác lên từng ổ lổn nhổn như quả trứng, nắm tay, nhặt về bóc đi lớp vỏ mỏng xắt ra kho mỡ ăn khá ngon, thêm vào bữa ăn hằng ngày đỡ phần đơn điệu mà lại bổ dưỡng.
Dịp oi nước lên năm nay, tôi có chuyến đi Tây Bắc. Mới đến Kỳ Sơn men bờ sông Đà cuồn cuộn đỏ đã hình dung ra sức nước nơi thượng nguồn sẽ đến cỡ nào. Rồi ngược dốc Cun sang Cao Phong, Tân Lạc, Mai Châu, lên tiếp Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn đến Sơn La. Suốt chặng đường núi, trời chợt nắng chợt mưa, những cơn mưa bất ngờ mù trời sầm sập nước. Mưa tạnh song những thác nước vẫn không ngừng từ trên cao dội xuống vách núi đá trắng xóa. Thác xuống khe, nhiều khe nhỏ thành ngòi, rồi trăm ngàn ngòi dồn hết vào sông vào hồ thì làm gì mà nước chẳng cả. Nhiều ruộng vườn nơi thung sâu ngập trắng. May mà còn nương rẫy cao, nhà ở của bà con người Thái, người Mường, người Dao toàn nhà sàn, và nhà bà con người Mông thì chênh vênh trên vách núi nên cũng không mấy phương hại. Bà con cũng nương theo đó mà tìm kế sinh nhai, xuống suối săn bắt cá, lên rừng kiếm măng tươi, hái rau bò khai đem bán, thôi thì tùng tiệm thêm thắt ít đồng... Song vẫn còn đấy nỗi lo sạt đất, lở núi và lũ ống, lũ bùn khi mà rừng đã bị tàn phá nhiều. Dọc đường đi, lại liên tục nghe cập nhật tin bão ngoài biển Đông. Bão cứ rình rập trườn dọc bờ biển từ Nam ngược ra Bắc như trêu ngươi, và mới có vậy mà mưa lũ đã vượt đỉnh lũ lịch sử ở các sông vùng Trung Bộ, gây bao lo âu phiền toái và cả thiệt hại nữa.
Người xưa bảo, trời nào cảnh ấy, mùa nào thức ấy. Cuộc sống nơi thôn dã, chốn sơn lâm thời điểm oi nước lên có khó chịu đấy song cũng đầy thú vị riêng .


tamvanvov 10.06.2022 17:53:04 (permalink)
Nguyễn Huấn, kịch sĩ giữa dời,...
 
Vậy là. Nghệ sĩ Ưu tú Nguyễn Huấn đã diễn nốt vai diễn cuối cùng của mình trên sân khấu cuộc đời, ấy là sự ra đi vĩnh viễn của anh sau cơn đột quỵ tịtại Huế vào một ngày đầu tháng 9 năm 2021, giữa lúc dịch Covid 19 mù trời....
O tuổi 66, không phải là trẻ nhưng cũng chưa là cao, nếu biết chăm sóc sức khỏe, hoàn toàn có thể thêm mươi, mười lăm nắm nữa, Nghe nói, Nguyễn Huấn đang ;ang thang đâu đó ở Huếm rồi đột ngột ngột bị đột quỵ, đưa về quê Vụ Bản, Nam Định rồi mất vào chiều ngày mồng một tháng chín. Với bạn bè và anh em cơ quan thì là đột ngột, song thực ra, Nguyễn Huấn đã sắp đặt cho sũ ra đi vình viễn của mình từ mấy năm trước, kh anh bỏ nhà lang bạt kỳ hồ,... Sống như thế, nghĩa là anh đã chọn cho mình cách sống những năm còn lại của mình, kể cả cái chết, có điều, ngày giờ sớm muộn thế nào là chuyện thiên cơ huyền bí mà thôi,...
1. Cách đây khoảng 25 năm, đọ năm 1996, khi mấy chúng tôi làm việc chung phòng với nhau, tôi và Nguyễn Huấn, cùng Phamj Duy Hưng, Trần Nhật Minh. Nguyễn Thị Thu Liên là  phings viên chương trình Tạp chí  truyền thanh & Du ;ịch do nhà báo Thanh  Lịch phụ trách. Gần gũi. hay nghe Nguyễn Huấn kể chuyện đời mình, nhất là các cuộc phiêu lưu tình ái của anh,  tôi đã lấy chuyện tình của anh với một cố gái xứ dùa Bến Tre làm nguyên mẫu cho truyện ngắn “Bức tranh để lại”. Truyện in báo rồi vái sách, mọi người biết lấy ra trêu Nguyễn Huấn, anh vờ trách và còn khoái trí bịa thêm chi tiết cho ly kỳ. Cái kết của truyện ngắn ấy, nhân vật chính nôi máu giang hồ, bỏ việc đi biệt  tăm và nghe đâu bỏ mạng vì tai nạn ở một tỉnh miền Trumg.  Nguyễn Huần cười khì bảo :”Mày rủa tao nhá... cứ đợi đấy, tao sống nhăn răng cho chúng mày hay,...”. Quả là Nguyễn Huấn đã sống thêm một tứ thế kỷ, mặc dù qua mấy cơn bạo bệnh, để nối dài vai diễn cuộc đời mình. Lần này, thì anh diễn cố cho xong!...
Nguyễn Huấn quê Kim Thái, Vụ bản, Nam Định, sinh naw,1956 tuổi Bính Thân. Anh hay vui miệng khie, tuổi Con Khỉ nên theo nghiệp diễn là đúng vai đúng số. Nghe đâu, sơ sinh, Nguyễn Huấn nặng tới 4,3 kg,, là chuyện hiếm hồi ấy. Bố là công an, mẹ là cán bộ phụ nữ, thuộc thành pjaan cơ bản, nhưng anh không theo nghiệp hpcj hành mà sớm trở thành công nhaa, vì bố mất sớm. Nguyễn Huấn làm công nhân ở Khu gang thép Thái Nguyên với nghề chính là láo xe goòng chở than và quảng. Sau này, những cuộc rượy vui, anh hay đùa về thời kỳ ấy, rằng hàng ngày cứ phải cầm lái điều khiển cái đầu tàu  kép dăm toa  xe chờ đầy than, quặng chạy đi chạy lại trên một đoạn đường cố dịnh faii vài ytwm mét, không khác gì phải diên một vai kịch phụ khô cứng và nhạtphèo. Có lẽ vì chán nghề, không cam chịu, Nguyễn Huấn tìm niềm vui trong hoạt động văn nghệ quần chúng. Anh có khiếu kẻ vẽ, cắt giấy, hát hò, diễn kịch nên trờ thành hạt nhân văn nghệ quần chúng ở Khu gang thép Thép Tháo Nguyên.  Và tôi cớ hội đến, Nguyễn Huấn được đơn vị mình cử đi dự tuyển đào tạo ở Trường Sân khấu Điện ảnh trung ương. Được đào tạp chính quy ở ngôi trường danh giá tạo thủ đii, Nguyễn Huấn bắt đầu làm quen và giao di với nhiều nhân vật có tiếng trong giối nghệ thuật biểu diễn ở trung ương, nên khi  tốt nghiệp, anh không muốn quay về chốn cũ, vì như thế, nghĩa là anh chấp nhận vau diễn nhỏ, chẩng biết đến bao giờ mặt mũi mới suit tăm lên được. Nhưng không quay về cơ quan cũ, cũng đòng nghĩa với bỏ vieecjm chấp nhận cuộc sống tự do, tự lo công ăn việc làm, cơm áo gạo tiền, mà thời bao cấp, những việc ấy còn quan trọng hơn cả sự nghiệp. Thế nhung, Nguyễn Huấn vẫn dẵn sàngchấp nhận, để đi tìm vai diễn lớn cho cuộc đời mình.  Ạm bước chân vào ngưởng cửa Nhà hát Tuổi trẻ khi đó có các tên tuổi lớn là Thùy Chi, Phạm Thị Thành, Đức Trung và cùng với lứa diễn viên trẻ đầy tài năng như Lan Hương, Chí Trung, Ngọc Huyền, Minh Hằng, Anh Tú, Lê Khanhv...
Dương như, vận may chưa mìm cười với Nguyễn Huấn khi anh chỉ được giao thỉ các vai phụ, vao quần chúng, thậm chí không  có vai mà chỉ làm casv việc khiêng vác, bưng bê, kê dọn phông cảnh, kéo phông màn,..  Vài năm như thế. Nguyễn Huấn bỏ việc tời Nhà hát Tuổi trẻ, sống dặt dẹo, tá túc nhà bạn bè, người quen, ở Hà Nội,. Quãng thời gian này, Nguyễn Huấn may mắn bám được vào Đài TNBN (VOV) để theo nghiệp diễn bằng cách viết kịch bản, diễn xuất, đạo diễn kịch truyền thanh. Những năm ấy, ngoài các chương trình như Sân khấu truyền thanh, Văn nghệ quân đội sáng chủ nhật, kể chuyện cảnh giác tối thứ bày, thì nhiều chương trình khác của Đài TNVN có chủ trương sân khấu hóa bằng các tiết mục câu chuyện truyền thanh, như Công nghiệp, Nông nghiệp, Thanh niên, Phụ nữ, Đại gia đình các dân tộc  Việt Nam,.. Cứ loanh quanh, đeo đuổi  với ngần ấy, nhuận bút còm nhưng đó là nguồn sống và động lực để Nguyễn Huấn theo nghiệp diễn, vingf bới đó. Nguyễn Huấn còn tham nhập vào nhóm kịch sĩ nghiệp dư công tác ở Viện Kiểm sát nhân dân tối cao gồm Phạm Huỳnh Công, Nguyễn Tùng Lâm, Phạm Xuân Chiến,...lấy chỗ tá túc và niềm vui làm nghề,
Tôi lần đầu biết Nguyễn Huấn vào năm 1988 lại là một kỷ niệm và ấn tượng xấu Tôi lần đầu biết Nguyễn Huấn vào năm 1988 lại là một kỷ niệm và ấn tượng xấu Khi ấy ttooi làm việc ở Phòng Tiếp dân và sử lú đơn thu của Ban Thình giả Đài TNVN do nhà báo Hoàng Đồng phụ trách và nhà văn Đặng Quang Tình làm trưởng ban,Nột  Phòng làm biệc của thuộc dãy nhà cấp 4 trong khu trụ sở 58 Quán Sứ, ngay phóa dưới tòa biệt thự  kiến trúc Pháp, mơi làm việc của Ban Băn nghệ với các phòng Văn học, Sân khấuVăn học thiếu nhi. Một chiều, nghe tiếng ồn ào bên ngoài, rồi tiếng chân người chạy, Tôi và nhà báo Hoàng Đồng ngó ra thì thấy một người to béo,mặt đỏ bự, tay cầm chiếc kéo đuổi theo một người già hơn có mái tóc bạc. Miệng anh chàng to béo lảm nha,r đe ddaanhs người kia. Nhà báo Hoàng Đồng nhận ra người đầu bạc là đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà, bèn xồ ra chặn ngay trước mặt anh chàng béo. Người này khuengj kại, bằn mắt quát nhà báo Hoàng Đông bằng tiếng Nga: Kto? *Mày là ai?. MIệng hỏi tay lăm lăm chiếc kéo nhọn. May sao, vừa lúc ấy, biên taapj viên Hồ Nhật Quang chạy đến ki[j vòng tay ôm ngang ngươi chàng béo, vừa quát  vừa dỗ dành, ngăn được vụ ấu đả có thể đổ máu. Sàu đó, tôi biết được chàng béo say rượu quạy phá gây rồi hôm ấy là Nguyễn Huấn.Bữa đó, Nguyễn Huấn đến Đài lấy nhuận bít, rồi vui miệng rut Bũ hà và Hồ Nhật Quang đi nhậu. Quá chén rủ nhau về cơ quan, chuyện nọ dọ chuyên kia thành cãi nhau và thế là xảy ra xô xát. Cái tật say rượu hoặc mượn rượu để quậy ăn vào máu thịt Nguyễn Huần thành tính, mà sau này tôi hay phải chứng kiếm, thậm chí là nạn nhân của Nguyễn Huấn khi về chung phòng lam việc với nhau. Được cái, Nguyễn Huấn là người phũ thiện, khi tỉnh rượu, tĩnh tró, biết xin lỗi bạn bè nên mọi chuyện cũng qua.
Lân la rồi chầng hiểu sao, Nguyễn Huấn xin được vào hpjc việc ở một phòng phát thanh mới thành lập là Nhà nước và Pháp luật di nhà báo Lê Thông phụ trách, cùng với mấy phóng viên mới là Đàm Hoa và Nguyễn Sĩ Lý. Nhà báo Lê Thông bản tính thân thiện, ôn hòa và bao dung nên ông dung nạp được con ngựa bất kham Nguyễn Huấn mà không để xảy ra chuyện gì đáng tiếng cả. Khi ấy, Đài dã bắt đầu tổ chức tuyển dụng theo hình thức thi tuyển và Nguyễn Huấn đã vượt qua được kỳ thi để trở thành phóng viên chính thức của nhà đài. Dau này, Nguyễn Huấn vui miệng kể, thực ra anh còn nợ miin ngoại ngữ (đăng ký thi tiếng Nga) nhưng không đạt điểm tuyển. Nhà báo Trần Quang Khải khi đó là Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ của Đài bảo, vì tiếc chất giọng vàng của Nguyễn Huấn mà chọ nợ ngoại ngữ. Quả là, vào Đài, Nguyễn Huấn đã phát huy được chất giong tốt trời phú và khả năng diễn xuất của mình cho làn sóng của Đàim không những thế đây còn là chiếc cần câu cơm khi anh làm thêm, diễn thuê, đọc quảng cáo thuê. Nguyễn Huấn vào Đài nọe môn tiếng Nga là thế, nhưng đã có kần, tôi chưng kiến, trong một chuyến công tấc, khi cần giao lưu với cơ sở, anh ngà ngà say, đã ông ghi ta hát bài Đôi Bờ vằng riếng Nga khá chuẩn xác, hay và đầt cảm xúc. Anh có khả năng bắt chước của một kịch sĩ và nhở khả năng này Nguyễn Huấn hóa giải nhiều chuyện không hat do anh gây nên để thoát hiểm. Tiiu và nhiều bạn bè đều biết vậy, bực đấy nhưng khó giận lâu được. THực ra, ẩn trong khả năng sự diễn của một kịch sĩ, là sự phục thiện của Nguyễn Huấn. Thời còn ở chung phòng với Nguyễn Huấn, cungf Phạm Duy Hưng và Trần Nhật Minh, mỗi khi tháy Nguyễn Huấn giả là nói cười cầu tài sau khi anh gây chuyện, mấy chúng tôi lại nháy mắt nhau hàm ý “lại diễn đấy”, tồi thì bỏ qua chi nhau cả.
 
Kể chuyện Nguyễn Huấn mà quên không nhắc chuyện “liên kết mậm giềng” của anh thì thật thiếu sót. Đây là câu chuyện đời thực nhưng đầy yếu tố hài hước như chuyện ở một dân khấu hài kịch.chuyện này lý giải đời Nguyenx Huấn chins thức ba đời vowej và mỗi thị sinh cho anh một công chúa, hay như cách nói dân dã của anh là vịt giời hoặc chữ nghĩa là hoàng tử đái ngồi. Cứ như lời Nguyễn Huấn kể, tôi chấp nối lại thì toàn cảnh thế thiếp của Nguyễn Huấn nhứ sau: Thời còn là công nhân lãi tài goòng ở Gang thép Thái Nguyên, anh sớm lấy vợ và có con gái đầu lòng.  Cô vợ này sau đi lao động ở Nga và vợ chồng ly hôn. Tiếp theo, lang bạt về quê, Nguyễn Huấn tán đổ một cô công nhân ngành dệt thì phải và kết cục của cuộc hôn nhân thứ hai này cũng là một con gái. Mãi sau này, khi đã là phóng viên nhà Đài, trong một chuyến công tác lên Đoan Hùng, Phú Thọ, Nguyễn Huấn tình cờ làm quen với một cô giáo dạy mầm non người dân tộc Tày, lấy làm vợ rồi đưa theo về hà Nội. Rốt cuộc, lại thêm một cố con gái nữa ra đời. Vậy là, liên doanh mậm diềng của Nguyễn Huấn thất bại hoàn toàn. Ba đời vợ, mỗi nàng sinh hạ cho Nguyễn Huấn một công chúa. Nguyễn Huấn vẫn hậm hực, tim cách liên doanh tiếp với hy vọng cho ra một mậm diềng (con trai) đặng có người nối dõi tông đường. Thế nhưng, trời đâu có chiều lòng người. người muốn song trời chẳng gật. Trước tuổi nghỉ hưu vài ba năm, Nguyễn Huấn bị một cơn tai biến nhẹ, nằm nhà cả năm trời. Dẫu không méo miệng, bại tay, thọt chân, hay bán thân bất toại thì cơ thể cũng chậm chạp, chỉ đi nhẹ nói khẽ, loanh quanh trong nhà mà thôi. Đành nghỉ hưu trước tuổi mầy năm, song Nguyễn Huấn cũng không đến nỗi thiệt thòi lắm. Về chức vụ, hàm phó vụ trưởng, về nghề nghiệp, phóng viên chính, nghệ sĩ ưu tú chuyên ngành kịch phát thanh, huân chương Lao động hạng 3.
 
2. Nguyễn Huấn là người yêu thơ, là tác giả của hàng trăm bài thơ, ...song chẳng mấy quan tâm. Hình như, ờ vào thời kỳ chiến tranh gian khó và thời bao cấp khổ ải, nhiều người lấy thơ ca làm chỗ fuwaj tinh thần, nuôi dưỡng tâm hồn thì phải. Nguyễn Huẫn cũng là người như vậy. Sau này hình như Nguyễn Huấn có tập hợp in thành tập, nhưng cũng làng nhàng nên chỉ bạn bè, đồng nghiệp biết anh dính dáng thi ca. Là người thực tế, Nguyễn Huấn sớm nhận thtuwsc, thi ca không nuôi soongss bản thân nên anh chọn nghề kịch. Sáng tác kịch, diễn kịch phất thanh, rồi công tác tham gia các hội diễn văn nghệ q2uaanf chúng ngành nghề. Miễn là có tiền tuowi thóc thật để lấy cái ăn cho vào miệng, và thi thoảng góp tiền nuôi con cho các bà vợ đã mất công sinh ra các tiểu thư, công chúa cho mình.
Tôi nhớ, trong nhiều chuyến công tác đi các địa phương với tôi, lúc trà dư tửu hậu, Nguyễn Huấn cao hứng đọc thơ anh, thơ tôi và một số bài thơ tình khác mà anh thuộc. Mục đích làm gia vị cho các cuộc nhậu thêm màu sắc mà thôi. Đã có lần, lucd ngà ngà say, Nguyễn Huấn mượn rượu, viện dẫn người này kẻ nọ, dính vào thơ, đam mê thơ,  tôn thờ thơ và cũng thân tàn ma dại về thơ. Nguyên Huấn nửa đùa nửa thật khuyên tôi: “ Ông chớ dấn vào thơ mà khốn đấy nhé. Ông là dân văn xuôi thì cuwss văn xuôi mà tẩn. Thơ phú đôi câu để tán gái và làm duyên với đời chút đỉnh thôi...”. Ngẫm ra, thấy Nguyễn Huân cũng có lý. Nhưng mà, cái gì chót thích rồi thì đâu dễ bỏ. Tôi vẫn văn xuôi là chính, song thơ túc tắc, cũng dăm bảy tập rồi. CÒn với Nguyễn Huấn, nói vậy thôi, chứ từ khi nghỉ hưu, nằm khoèo một chỗ, nhất là khi khỏe lại, lang thang trên đường, dường như chỉ có thơ (sau miếng ăn, cuộc nhâu) là giúp anh chuyên chở sự hưng phấn hay nôi cô đơn cơ nhỡ,... Trang cá nhân trên mạng xã hội của mình, Nguyễn Huấn trải lòng bằng những bài thơ... Ví nhuw “SócTrăng nhớ” làm vào cuối naem 2018 nơi từng ghi dấu một thời trai trẻ lang bạt kỳ hồ đây những lỗi lầm:  “Anh sẽ đưa em về/ Bến Nguyệt Giang vắng gió/ Chiều Sóc Trăng đò nhỏ/ Chở lời thề sang sông/ Dù đục và dù trong/ Thì muôn đời vẫn thế/ Câu dân ca dâu bể/ Mãi day dứt khôn cùng/ Người ơi !/ Và Sông ơi!/ Đừng vô tình như thể/ Nhớ không chiều cửa bể/ Mây nước buồn nghiêng em/ Bãi bờ rưng rưng mắt/ Phù sa xanh tóc dừa/ Người xưa !/ Và sông xưa !/ Chở ta về ký ức/ Mùa Ghe Ngo háo hức/ Rực rỡ hồn Khmer/ Sông Trăng buồn sắt se/ Chiều nhớ nhung hoang hoải/ Thế mà người đi mãi/ Cô đơn một bóng thuyền/ Thế mà người đi mãi// Sóc Trăng vẫn nặng duyên tính”.  
          Dường như, cái nghiệp diễn kịch thấm vào con người Nguyễn Huấn, ảnh hưởng đến cách ứng xử hằng ngày, cũng như trong nghề báo của anh. Và với thơ phú cũng vậy. Ý tứ có chút tính kịch, câu chữ lại càng rõ, chất hội họa thêm chút khoa trương kiêu diễn viên thoại sân khấu vậy. Thôi không sao, mỗi người mỗi vẻ, chẳng mấy quan trọng. Miễn sao Nguyễn Huân thấy vui, hay yên lòng mình là được,  bởi nhiều nhà thơ lớn con ối bài ngô nghê, ối câu khờ khạo nữa là,... Thơ tình đã vậy, thơ thế sự của Nguyễn Huấn còn đạm chất khoa trương hơn. Ví như bài thơ tặng người cha nguyên là bộ đội Điện Biên của mình, bài Cha tôi và Điện Biên nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên: “Thấp thoáng gương mặt cha tôi/ Ào ào đi trong câu hát/ Diệu kỳ Điện Biên mở trang cổ tích/ Người lính trẻ trung theo đồng đội tìm về/ Cuộc chiến xưa băm nát ngực làng quê/ Súng bom thù xé ngang trời Tây Bắc/ Mẹ kể rằng: đêm trùng trùng câu hát/ Phía “ Vừng đông hửng sáng”* người đI/ Hiền lành như bông lúa rễ tre / Trong như giọt chuông/ chiều trong trẻo / Lành hiền câu dân ca cò lả / Từ biệt quê hương / son sắt lời thề / Điện Biên ơi hãy nói nhỏ tôi nghe/ Căn hầm nào đồng đội cùng cha thức/ Giọt mưa dầm lạnh giữa lòng cơm vắt/ Nòng súng đăm đăm phía quân thù/ Chiến hào Him Lam/ nhành ban nở ngày xưa/ 50 năm Xuân này thao thiết quá/ Có phải không cha: cánh hoa ban ấy/ Trắng ngút ngàn phút lấp lánh Điện Biên/ Giữa rợp trời mầu cờ đỏ thần tiên/ Bản mường vang khúc reo hò chiến thắng/ Cha về nhé - sớm nay - cùng nắng/ Hòa vào đoàn quân giữ nước kiêu hùng/ Bài ca hóa lửa vừng đông/Bóng cha xanh mướt cánh đồng Điện Biên”...
          Thơ ca làng nhàng vậy thôi, nhưng trong nghề kịch truyền thanh, Nguyễn Huấn là một người làm nghê hết sywsc nghiêm túc. Cùng với các nghệ sĩ, đạo diên sân khấu truyền thanh Vũ Hà, Nghi Xuyên, Nguyễn Huấn có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực sân khấu truyền thanh không những trên làng sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) mà còn hệ thống phát thanh cả nước. Gjui nhận cuối đời về nghệ thuật của Nguyễn Huấn-danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú (NSUT) trong lĩnh vực Kịch truyền thaf thanh hoàn toàn xúng đáng. Không nghững vậy, Nguyễn Huấn còn mang chất kịch, đặc biệt nghệ thuật sử dụng âm thanh, tiếng động trong nghè báo phát mthanh và lịch vực quang cáo khá thành công.... Thời kỳ Nguyễn Huấn làm việc ở Chương trình Tạp chí truyền thanh cùng với tôi và các phóng viên Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh... là những năm tháng Nguyễn Huấn say nghề nhất. Nguyễn Huấn đã phát huy hết khả năng chất kịch trong con người và kiến thức của mình để sáng taojm từ khâu kịch bản đến đạo diễn, diễn xuất của mình, để tạo nên những sản phẩm phát thanh chất lượng cao,...

           3. Một sáng chủ nhật (tháng 9/2018) , sau khi nhâm nhi tách cafe đen không đường, thưởng chút hơi thu mát mẻ, bật máy, định viết một cái stt. Lưỡng lự chưa biết viết gì thì điện thoại reo, Nhìn số máy lạ, nhưng vẫn nghe. Một giọng đàn ông ấm, hỏi tôi có biết anh ta là ai không, Tôi nghe quen quen, nhưng không đoán ra là ai. Sau một hồi chất vấn với hàng loạt câu hỏi, không cho tôi trả lời, anh ta bảo "Huấn đây. Nguyễn Huấn đây". Nguyễn Huấn thật sao? Thực lòng, khi nghe máy, đầu óc tôi không hề nghĩ đến Nguyễn Huấn, bởi anh bị bệnh, "lặn không sủi tăm" những dăm, bảy năm nay rồi. Giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Cả hai vui quá, tranh nhau nói... Một hồi, Nguyễn Huấn trách:"Ông vào Fb chưa? Tôi gửi yêu cầu kết bạn với ông rồi đấy". Quả là, lúc vừa vào mạng, tôi thấy mục xin kết bạn nổi cái nick Nguyen Huan Hue, có ngó qua, nhưng avatar nhỏ quá, tôi nhìn không rõ, nên chưa vội ok. Thói quen của tôi, hễ ai yêu cầu kết bạn, nếu không phải là người quen cũ, thì tôi cũng phải vào trang đó xem họ là ai, viết thế nào, rồi mới chấp nhận... Thì ra, anh bạn già lại kèm thêm cái tên của vợ vào, nên tôi không nhận ra... Vậy là hai thằng í ới đến gần nữa tiếng... Sau hôm đó, gần như ngày nào tôi và Nguyễn Huân cùng alo cho nha, này nọ. Tôi biết anh khỏe lại được mấy tháng nay, là nhờ gặp thầy gặp thuốc, chữa căn bệnh "thần kinh chập mạch" từ gần chục năm nay, khiến anh phải nghỉ hưu sớm khi đang đương chức Phó trưởng ban Ban Kiểm tra và UVTV-thường trực LCH Nhà báo VOV... An ủi, khi đó, anh đã xong cái danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú...
Nói căn bệnh "thần kinh chập mạch" là nói vui, nhưng cũng là thật. Năm 2011, Nguyễn Huấn bị tai biến nhẹ. Anh nghỉ chữa bệnh, tưởng chừng dăm tháng là có thể đi làm lại. Ai cũng nghĩ vậy, bởi nhìn vẻ ngoài, chân tay bình thường, mặt mũi cũng vậy, nhưng cái khác là ở độ nhanh chậm. Ví dụ, trước đấy, anh nhanh mười thì sau chỉ còn ba, bốn phần. Rồi anh đành phải nghỉ hưu sớm. An phận vậy đã hơn dăm năm nay. Cách đây 2 năm. bà cụ thân sinh Nguyễn Huấn mất, tôi cùng một số anh em cơ quan đi viếng ỡ mãi Nam Định. gặp anh, Nguyễn Huấn vẫn chậm chạp vậy... Ai ngờ đâu... Lý giải việc này, Nguyễn Huấn giải thích,anh được các bác sĩ Viện Quân đội 103 chẩn trị, châm cứu để chữa căn bệnh các dây thần kinh bị bó lại, chập nhau, tác động đến một số chức năng... Nay anh khỏi bệnh, nhanh nhẹn như hồi nào. Tôi được biết, anh đã tự phóng xe máy đi gặp gỡ anh em bạn bè, và mới đầu tuần, anh đã lên VOV, đóng kịch truyền thanh cho VOV6 được rồi... Thật mừng!
Đúng hẹn, Nguyễn Huấn ghé thăm tôi ở nơi làm việc... Dồn nén bao chuyện, cả hai đều muốn bung ra... Vui nhiều, song vẫn đúng là tính chất Nguyễn Huấn xưa,có vui đến mấy, nhưng hẹn ai, làm gì, đúng giờ là dứt ra, để không sai hẹn với người khác. Tôi có chút quà, sách tặng bạn.
Nói theo cách nói thông dụng. NSUT Nguyễn Huấn đã trở lại... và mọi người mong anh, lợi hại hơn xưa !...
Nhưng lợi hại chẳng thấy đâu, Nguyễn Huân trở lại cuộc sống nguyên tính cách xưa, ăn to nói lớn, đi phăm phăm, làm linh tinh, thậm chí còn dữ hơn xưa. Hinh như, Nguyễn Huân sống bù cho gần chục năm tròi bệnh tật ru rú xó nhà, đi nhẹ nói khẽ. Có cảm giác, Nguyễn Huấn hung hổ tận hưởng cuộc sống. Sau liên tiếp gặp gơ lại các bạn bè đồng nghiệp làng báo, bạn học sân khấu cũ, Nguyễn Huấn rời Hà Nội, lang thang đâu đó mãi miền Tây Nam bộ, rồi lên Tây Nguyên,...bỏ lại sau lưng người vợ thứ ba, người đã sinh cho anh cô công chúa út.
Lần gặp cuối cùng của tôi với Nguyễn Huấn, ấy là vào cuối năm 2018, khi anh theo tôi về quê dịp tôi xây lại phần mộ cha mẹ. Mấy ngày ở quê tôi, anh dôc chuyện, nhậu tưng bừng và quậy  cũng ra trò. Tôi nhớ, đêm oqr quê, Nguyễn Huấn không ngủ mặc dù anh uống khá nhiều. Rặng sáng, anh bổ chửng dậy, bật máy tính, cập nhật trang cá nhân trên Facebook, rồi làm thơ tặng người cha xưa là chiến sĩ Điện Biên, vì hôm ấy đúng ngày Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12.  Anh dánh thức, dựng tôi dậy khi trời còn chưa sáng, để đọc cho tôi sang bài thơ anh vừa sáng tác (tôi đã trích ở phần trước bài viết này)....
Sau lần ấy, tôi chỉ con thấy bóng dáng Nguyễn Huân thấp thoáng qua Facebook của anh, hoặc dòng tin nhắn trên điện thoại, khi hỏi thăm này nọ, khi tỏ ý muốn được giúp đõ chút đỉnh về tài chính,... Làn theo dấu vết, bạn bè và người thân biết là Nguyễn Huân vẫn lang bạt đâu đó khi thì miền Cửu Long sóng nước, lúc lại miền Trung nắng gió hay Tây Nguyên bạt ngàn rứng núi. Cả thời kỳ dịch Covid19 mù trời, Nguyễn Huấn vân đâu đó trên đường. Hẳn là ông giời bắt tội đầy anh phải đi. Thế thôi, biết giải thích sao đây,...?
Và cho đến một ngày (kỳ nghỉ lễ Quốc khaanhs 2021), Ông Giời bảo Nguyễn Huấn dừng lại thôi, vì biết anh quá mỏi chân rồi!...? Sân khấu cuộc đời anh, cánh màn nhung đã khép lại rồi, chẳng cần anh phải diễn thêm nữa,... Khi sống, thi thoảng sau những cơn say, Nguyễn Huấn nhập đồng diến, làm phiền không ít người. Giờ thì bạn bè ai đó có muốn được Nguyễn Huấn làm phiền cũng không được nữa rồi,
Nguyễn Huấn, chàng kịch sĩ giang hồ lãng tử ơi, bạn bè, đông nghiệp làng báo, chẳng quên anh đâu !...
 
tamvanvov 26.06.2022 17:48:18 (permalink)
THŨNG THẴNG LƯU QUỐC HÒA
 
Mỗi lúc gặp nhau, hay khi giao tiếp trên mạng xã hội, tôi thường gọi đùa Lưu Quốc Hòa là Hòa đại nhân. Ông vui vẻ chấp nhận cách gọi ấy. Sở dĩ tôi gọi ông như vậy, là muốn nhằm tới lỗi nói năng thủng thẳng, dí dóm và khá sâu cay của Lưu Quốc Hòa, khi đem so sánh với nhân vật Hòa Thân, một vị quan đại thần Triều Thanh xứ Trung Hoa. Đương nhiên về tầm vóc và sự cơ mưu, ông còn thua xa nhân vật được tôi mang ra ví von.
Tôi biết đến Lưu Quốc Hoa từ cuối năm 2009 khi tham gia mạng xã hội Blog Tieng Việt (blogtiengviet.net). Lưu Quốc Hòa chuyên viết chuyện xã hội, làng xã, đặc biệt về những tàn dư cũ còn sót lại, hoặc các mẫu thuẫn mới này sinh trong quá trình chuyển đổi xã hội sang thời kỳ hiện đại. Viết tự nhiên, như mang chuyện thật mắt thấy tai nghe ra kể lại. Giọng văn nhẩn nha, dí dỏm, hai hước pha chút chua ngoa, đanh đá kiểu “hàng tôm, hàng cá” làm nên bản sắc Lưu Quốc Hòa. Tôi sẽ nói thêm về bản sắc văn chương Lưu Quốc Hòa sau, vì con người ông mới là điều đáng nói,...
Nói Lưu Quốc Hòa “thũng thẵng”, đúng với ông về cách xứng xử với văn chương và với cả cuộc đời. Chí ít, kể từ khi tôi biếết ông cho đến lúc ông từ giã cồi đời theo cõi hạc, Lưu Quốc Hòa vẫn thũng thẵng như vậy. Sống thũng thẵng và viết cũng thũng thẵng. Chẳng hiểu trước đây Lưu Quốc Hòa làm nghề gì, nhưng khi tôi biết ông thì Lưu Quốc Hòa làm nghề tự do. Chỉ thấy vợ con ông tần tảo làm lụng gì đó, còn bản thân ông thì chỉ viết lách là chính. Thi thoảng tham gia nhóm văn nghẹ đàn ca sáo nhị í a hát chèo, vui là chính chứ có ra tiền bạc không thì tôi chẳng rõ. Cứ nhìn giaa cảnh, bảo Lưu Quốc Hòa dư dả, không phải, song cho là túng thiếu thì không hẳn. Chắc tùng tiệm đủ ăn thôi. Ấy vậy mà, căn nhà tuềnh toàng của Lưu Quốc Hoa trên mảnh đất vườn khá rộng có ao chuôm lũy tre nằm rìa thị xã Phủ Lý (Hà Nam) luôn rộng mở vỡi bạn bè văn chương xa gần. Chẳng thế mà, trong vòng mấy năm liền, cánh bạn văn chương thi họa Hà Nội chúng tôi mỗi lần về Phủ Lý theo lời nhắn mời của Lưu Quốc Hòa đến nhà ông dùng bữa, khi ít cũng mươi người con khi đông cả huyện người. Vợ chồng con cái căng ra lo chuyện cơm nước mệt bã mà mặt vẫn tươi tỉnh, đủ biết Luu Quốc Hòa khéo và cái uy của ông với vợ con như thế nào rồi.
Có một dạo, đâu khoảng năm 2011 đến 2014, nhóm văn nghệ sĩ, báo chí Hà Nội tham gia Blog Tiếng Việt hay tổ chức giao lưu, thưởng là vào mỗi xuân, dự lễ Tịch Điền ở Duy Tiên, mồng bảy tháng giêng, rồi men theo bờ sông Châu về Phủ Lý, chơi nhà Lưu Quốc Hòa. Kế đến, hội thơ Nguyên Tiêu Văn Miếu, cả nhóm lại hội quân ở Văn Miếu. Những ngày tháng đó, tháp thoáng bóng dáng Lưu Quốc Hòa, ăn diện bảnh bao, sơ mi veston, quân âu giày bóng lộn, nụ cười thường trực tươi rói. Tôi nghĩ, có lẽ những năm tháng đó là những ngày hạnh phúc, vui tười nhất cuộc đời văn chương Lưu Quốc Hòa. Những ngày tháng ấy, chí ít Lưu Quốc Hòa được tắm mình trong bầu không khí bạn bè thương mến, thi nhau viết đặng để khoe ra các sáng tác mjới hất của mình, chờ đón những lời bình phảm khen chê của bạn đọc. Đương nhiên, khên chê chẳng màng và cũng cẳng ra tiền bạc gì đâu song con người ta như được do-ping, cảm thấy hứng khởi, thăng hoa và luôn được tôn trọng. Đành rằng, Lưu Quốc Hòa là người viết tự do, không sống bám vào một cơ quan đơn vị nào để lấy lương kiếm sống, những các tác phẩm của ông thời ấy cũng đã góp phần làm nên tên tuổi Lưu Quốc Hòa, để từ đó, ông nương minh mà theo đuổi cái nghề cầm bút bạc bẽo, khắc nghiệt này với đời,...Song thực lòng mà nói, chỉ khi sống cô đơn, thoát khỏi trạng thái đám dông bày đàn, thấm nỗi khốn khó của việc mưu sinh, dồng tiền bát gạo, manh áo, của căn nhà tuềnh toàng, mảnh vườn xác xơ, Lưu Quốc Hòa viết mới thật hay, mới thấm nỗi đau mình, đau đời..
Về tác phẩm văn học, báo chí, chủ yếu văn xuôi, truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, ký ự, có thể kể tên các tác phẩm chính của Lưu Quốc Hoa như: Cung đàn xưa ngân mãi, Câu đồng dao làng Vòi, Vĩnh biệt làng Ô Hợp, Người thức với mùa đông, tuyển truyện ngắn và bút ký, tản văn, và trường ca Những vì sao không tắt,...
Sở dĩ, tôi phác thảo chân dung con người Lưu Quốc Hòa trước, đơn giản bởi với ông, điển hình đời sao văn vậy. Với Lưu Quốc Hòa, dáng dấp, điệu bộ ra anh chàng văn chương tỉnh lẻ, khôn dại –dại khôn, chút ma lanh láu cá đấy nhưng mà cũng dại khờ ngay đấy. Thế nên, các nhân vật trọng câu chuyện của Lưu Quốc Hòa, dù ở truyện ngắn, hoặc trong tiểu thuyết hay ký sự thì cũng ná ná con người Lưu Quốc Hòa, bởi ông lấy mình ra làm nhân nhân, hoặc tính cách hành xử theo hệ qui chiếu Lưu Quốc Hòa. Trong một đôi lần đàm đạo văn chương với nhà nhà văn Nguyễn Hiếu, người từng dự trại viết và chuyện trò với Lưu Quốc Hòa, ông khen văn Hòa này nọ, nhưng có ý chê rằng truyện của Hòa yếu về kết cấu. Tôi thì không nghĩ vậy. Tôi cho rằng, Lưu Quốc Hòa không có khả năng hư cấu chăng? Truyện của Hòa thật như cuộc sống vậy. Hay phải chăng, Hòa viết bịa mà như thật. Vậy thì tài tình chứ ao? Gì thì gì, chứ văn Hòa có giọng điệu riêng, hóm hỉnh, hài hước, láu cá, tung tảy, nghĩ sao viết vậy, không câu nệ, chất văn nói, nhiều chi tiết, dễ đánh lạc hướng bạn đọc... Nói chung, có gì đó tự nhiên chủ nghĩa,. Có lẽ thế mà Nguyễn Hiếu có ý Lưu Quốc Hòa yếu về kết cấu sao? Tôi vẫn không nghi thế,...và đi tìm cách lý giải khác ,...
 
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, Lưu Quốc Hòa dôc gan ruột. Ông thổ lộ một cách hình tượng là muốn được “đổ bóng buồn vui” qua các trang viết vào những thất thái thân phận của người dân, mà mỗi thân phận con người ấy làm nên thân phận làng quê, và thân phận làng quê ra số phận vùng đất, qua đó thấy bóng dáng thân phận đất nước... Có vẻ gì to tát nhỉ? Không. Tôi nghĩ vậy. Lưu ý ở đây, Lưu Quốc Hòa dùng từ ”thất thái” để chỉ thân phận con người, Mặc dù không giải thích, song tôi hiểu hàm ý, ông muốn nhân mạnh, hay ám chỉ những cái mất của con người (hơn là cái được) trong quá trình chuyển đổi này,... Với quan niệm, hay mong muốn vậy, nên Lưu Quốc Hoa chẳng quan tâm đến thể loại hay kết cấu mà làm gì, ông chỉ muốn viết ra, viết ngay những cái ông thấy, ông nghĩ, ông nhắm tới và ông ám chỉ, gửi gắm thông điệp, triết lý về cuộc sống. Thế nên, kết cấu chẳng là gì với Lưu Quốc Hòa. Quan trọng, là chi tiết và giọng điệu thì điều này ông có thừa,... thậm chí còn là thế mạnh của Lưu Quốc Hòa,... Thú thật, mỗi khi đọc tác phẩm của Lưu Quốc Hòa, dù ngắn dài, dù truyện ngắn, bút ký, phóng sự hay mẩu chuyện thôi, tôi đều tủm tỉm cười vì thích thú vì sự dí dỏm, giàu chất uy-mua, và cả sự tinh quái, láu cá của tác giả. Đọc rồi mường tượng khuôn mặt tỉnh bơ, cái cười nhẹ trên khóe miệng của Lưu Quốc Hòa mà thêm phần thú vị. Ấy là cái tài của Lưu Quốc Hòa và cũng là sự thành công của ông. Song có lẽ, sự khiêm nhường, vẻ rụt rè tỉnh lẻ của ông đã phần nào hạn chế sự vươn lên, lớn dậy để trở thành một cây bút thành danh, thậm chí nổi tiếng,...? Với Lưu Quốc Hòa thì cũng chẳng sao, nhưng là tôi cứ cả nghĩ vậy?... Lưu Quốc Hòa đã chọn làng quê, chọn nông thôn để viết sau khi đã có ngót hai chục năm từng trải đây đó khắp đất nước. Chỉ có ở quê, mảnh đất thân quen mà ông hăng yêu mến, chỉ những con người mà ông thấy thân thuộc, chỉ công việc nhà nông mà ông thông thao, hiểu biết, Luu Quốc Hòa tháy tự tin mà viết, mà tung tẩy ý tưởng, mà bông lơn hay sắc lẻm câu chữ. Ông đã tìm thấy ở đấy vùng sáng tác của mình sau khi đã mất già nửa đời người đi tìm kiếm ở đẩu đâu,...
Tuy không lớn, chẳng nổi danh này nọ, nhưng dường như, trong con người và văn chương của Lưu Quốc Hòa có chút dấu vết, bóng dáng của những cây bút tiền bối nổi tiếng vùng Sơn Nan xưa cũ như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nam Cao,... Nhặt nhạnh chuyện nhân tình thế thái, cũng thấm nỗi đau đời mà nên châm biếm, chua chát, sâu cay,...
Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, có những huyền thoại về sự hy sinh của nữ nhân như Ngà Ba Đồng Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) với nữ thanh niên xung phong, Hang Tám Cô (Bố Trạch, Quảng Bình), thì đất Hà Nam quê của Lưu Quốc Hòa có chuyện 10 nữ pháo thủ Lam Hạ (Phủ Lý). Có thể nói, Lưu Quốc Hòa góp chút phần nhỏ bé công sức của mình, thông qu các bài báo, câu chuyện, vận động này nọ,... để sự hy sinh oanh liết của 10 nữ pháo thủ Lam Hạ (trong đó có cô giáo dạy Lưu Quốc Hòa hồi cấp 1) không bị chìm vào quên lãng,... Đương nhiên, để mộ sự kiện lịch sử và sự hy sinh của con người cho độc lập dân tộc trở thành huyện thoại, thành di tích lịch sử là công sức của biết bao người, của nhiều cấp chính quyền, của ngành văn hóa,... Song không vì thế mà không kể đến công sức của riêng Lưu Quốc Hòa. Tôi đã đôi ba lần cùng đám bạn bè văn nghệ sĩ, báo chí về thăm nhà Lưu Quóc Hòa và được nghe ông kể chuyện, đưa đến viếng ngôi thờ tự (sau thành đền thờ, thành cụm di tích) 10 nữ pháo thủ Lam Hạ,... Ấy là chút công sức bé nhỏ của Lưu Quốc Hòa cho quê hương, là sự tri ân của ông với những nữ anh hùng đã khuất, song hành cùng những trang văn thơ của mình,...
Bằng đi mày năm, cuộc sống xã hội có những bước chuyển mới, bạn bè văn chương mootju thời ít gặp nhau. Vẫn thấy đâu đó bóng dang của nhau qua từng tác phẩm in ấn, trên báo, mạng xã hội. Lưu Quốc Hòa vẫn thung thẵng như vậy. Thi thoảng có bạn bè gặp ông ở đâu đó, hoặc về Phủ Lý đáo nhà Lưu Quốc Hòa thăm ông. Thị xã Phủ Lý phát triển lên thành phố, cái làng ngoại ô quê ông cũng mở mang đường sá phong quang, Nghe đâu, người ta mở đường ngang qua mảnh vườn nhà ông, láy đát đền bù, có tiền ông xây nhà mới khang trang lắm, Khi không thiếu thốn thì lại buòn vì thưa bạn bè. Chỉ mong có bạn đến chơi nhà để to nhỏ, dốc bầu tâm sự, để khoe nhau những tác phẩm mới. Ngắm cái ảnh chụp Lưu Quốc Hòa ngồi tựa của ngôi nhà mới khang trang, hút thuốc lào vặt, như ngóng khách với gương mặt thất thần mà buồn đến nao lòng. Phải chăng đây là thất thái của riêng ông?
Mấy năm dịch Covid 19 mờ mịt nên chẳng ai đến thăm ai được. Bạn bè đã xa lai càng xa. Rồi một ngày đọc tin buồn gia đình và bạn bè thông báo Lưu Quốc Hòa rời cõi tạm. Mọi người hỏi nhau Lưu Quốc Hòa mất vì bệnh gì. Thực ra, Lưu Quốc Hòa bệnh trọng nhiều năm nay, nhưng ông cứ gắng gỏi, cứ vui bạn bầu đẻ sống và viết. Còn vì gia đình ông nữa, nơi có người vợ hiền thục tảo tần, những đứa con ngoan, nơi ông có thể yên tâm, lấy làm chỗ dựa đặng cầm bút ngao du với đời,...
Giờ bạn bè mới giật mình, tự hỏi, những năm chơi với nhau, mình có làm điều gì thất thố, có làm buồn lòng bạn văn Lưu Quốc Hòa của mình không nhỉ? Và nếu có, Lưu Quốc Hòa sẽ mỉm cười độ lương. Tôi tin là thế. Khi mà, tôi và bạn cảm thấy trống vắng nơi Lưu Quốc Hòa bỏ lại!...
Chợt nhớ lúc trà dư tửu hậu, một nhà văn đàn anh vui miệng bảo “Lưu Quốc Hòa có tài nhưng mà vẫn chưa lớn lên được...” Tôi nghĩ, Lưu Quốc Hòa chẳng quan xiêm chuyện lớn nhỏ. Ông cứ tủm tỉm, thẵng thẵng với đời , cùng văn chương vậy thôi. Chỉ biết, giờ đây đọc những trang văn của ông, thấy đau, muốn bật ười mà lại ứa nước mắt !...
 
 
tamvanvov 24.07.2022 18:20:00 (permalink)
THẤP THOÁNG TRÚC THÔNG
 
Mùa thu năm 1987, tôi bước chân vào ngôi nhà 58 Quán Sứ Hà Nội, bắt đầu cuộc đời làm báo chuyên nghiệp của mình. Khi ấy. Ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam chiếm trọn ngôi biệt thự trong cùng, một trong ba ngôi biệt thự kiến trúc Pháp ở khu vực trụ sở Đài. Phòng làm việc của tôi thuộc Ban Thính giả, là vài căn phòng cấp 4 ngay bên dưới tòa biệt thự của Ban Văn nghệ. Hằng ngày, nhìn các anh chị của Ban Văn nghệ đi lại ngang qua, và nghe tiếng các vị từ tầng cao vọng xuống, mà ngưỡng mộ. Nhiều lần tôi đứng dưới ngước nhìn lên ô của sổ tầng trên biệt thự với những cánh cửa chơp mở ra, của kính khép hờ mà ước ao một ngày nào đó, mình được là biên tập viên văn học làm việc ở đấy. Thú thực, ngày ấy, với gia tài vỏn vẻn một bài thơ đăng báo Văn Nghệ từ năm 1978 lúc là sinh viên đại học năm thứ ba, thì ước vọng trở thành biên tập viên văn học nhà Đài thật viển vông...
Thế rồi, dịp tết năm ấy, biên tập viên Thu Liên, người cùng phòng với tôi, con gái của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, bảo : "Em nghe bố em nói, chương trình Tiếng thơ đêm ba mười tết này anh có một bài thơ được phát sóng đấy". Quả tình, tôi nghe mà không tin, Quả nhiên, bài thơ của tôi được đứng chung với các bài thơ của các tên tuổi làng thơ Việt trong chương trình Tiếng Thơ tết ăm ấy. Nghe mà sướng run người vì không tin vào tai mình. Sở dĩ, tôi nhắc lại sự việc này là để nói tới một ban biên tập văn học thời  ấy của Đài Tiếng nói Việt Nam với các nhà thơ nhà văn, biên tập viên kỳ cựu. Cùng với nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, còn có nhà thơ Trần Nhật Lam và vợ ông-biên tập viên Nông Thị Nhuận (một trong những biên tập viên thế hệ đầu của chương trình phát thanh Tiếng Thơ nổi tiếng), nhà thơ Trần Nguyên Vấn, nhà thơ Trần Mạnh Thường, nhà thơ Trúc Thông, nhà văn Tuấn Vinh, nhà thơ Lâm Huy Nhuận,...Để lọt qua các con mắt xanh, nhất là Trúc Thôing thật không phải dễ.  Và đấy cũng là cái cớ để sau đó tôi lân la làm quen với các “nhà”, các “cây” của Ban Văn nghệ. Cùng với việc,năm 1978 khi còn là sinh viên, đã có thơ đăng báo Văn nghệ,  nay lại có thơ phát trong chương trình Tiếng Thơ  tết, tôi thêm phần tự tin để theo đòi mộng văn chương.
Thú thực ngày đó, dù yêu văn học nghệ thuật đến mấy, bảnthân đã có thơ và có truyện ngắn đăng báo Văn Nghệ, những tôi ngại bén mảng đến Phong phát thanh Văn học, mà chỉ hay ghé Phòng phát thanh Văn học thiếu nhi, nơi nhà thơ Lê Đình Cánh và Trường Hữu Lợi phụ trách.
Khi ấy, Ban Văn học nghệ thuạt  (Đài TNVN)  cùng với Báo Văn nghệ, (Hội Nhà văn Việt Nam) Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (Bộ Quốc phòng) và Tạp chí Văn học (Viện Văn hiọc thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam) thực sự là Tứ trụ về lĩnh vực Văn học Việt Nam.  Có thể nói, ở đấy, chủ trương, quan điểm , sự chỉ đạo về văn  học nói riêng và văn hóa văn nghệ mói chung được thể hiện rõ nhất. Đó cũng chính là yếu tố cơ bản làm nên cái uy của những cơ quan này trong làng văn học nghệ thuật ở nước ta. Cũng vì lẽ ấy, các văn nghệ sĩ, nahf thơ nhà văn, các biên tập viên làm việc ở đấy được hưởng lây cái uy .
Với những ai đó oai thế nào thì tôi không rõ, song với văn nghệ sĩ người nhà Đài thì không. Trúc Thông không giống các đồng nghiệp như nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Nguyên Vấn, Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh ở sự giản dị, dễ gần, mà cũng không thỏa mãi, cởi mở như nhà thơ Trường Hữu Lợi, Lâm Huy Nhuận,,, Ông nhẹ nhàng, lịch  thiệp đấy song không dễ gần. Thế nên, mỗi khi gặp hoặc tiếp xúc gần với ông, tôi đều giữ sự kiêng nể, cẩn trọng trong thái đọ và lời ăn tiếng nói. Tôi cảm nhận từ ông, gần đấy mà xa ngay đấy, dễ chịu dấy nhưng khó tính ngay đấy,...
Với tư cách nhà thơ, Trúc Thông  có xuất bản vài tập tiểu luận phê bình văn học và bình thơ, song tôi nghĩ, sự nghiệp chính của ông vẫn ở thi ca. Mà chủ yếu là những tập thơ: Chầm chậm tới mình (1985), Maraton (1993), Một ngọn đèn xanh  (2000) và Vừa đi vừa ở (2005). Năm 2017, nhà thơ Trúc Thông được Giả thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, là sự hgi nhận xứng đáng cho những đóng góp của ông trong lĩnh vực thi ca. nhất là sự tìm tòi không mệt mỏi trên hành trình đổi mới thơ Việt  thời kỳ hiện đại,...
Trước hết, Trúc Thông thuộc số các  nhà thơ theo đuổi chủ trương đổi mới thơ Việt. Ông cẩn trọng, kỹ lương và có gì đó cầu kỳ trong từng câu chữ, đến tít bài thơ và cả trong việc  đặt tên tập thơ. Tôi nghe một nhà thơ kể rằng, một nhà thơ đàn anh và là đồng nghiệp của Trúc Thông từng nhận xét về thơ ông, “Trúc Thông là người đau chữ đau câu,...”.  Không rõ thực hư sao, nhưng cứ lẽ mà suy thấy cod lý. Trở lại với việc nhà thơ Trúc Thông đặt tít bài, têt sách thì biết. Nghe đâu, cũng như việc ông đặt tên cho con, các ái nữ của mình....
Nói có lý, còn bởi, đã có lần, trong lúc đàm đạo văn chương ở Ban Văn học nghệ thuật nhà đài, tôi nghe Trúc Thông cao hứng bày tỏ quan điểm của mình, rằng “Thơ khi in, trên báo hay vào sacsgh, nên in khổ chữa to, để câu chữ nào p không có chỗ ẩn nấp”. Thế này thì rõ là “đau chữ đâu câu” chứ đâu? Cứ theo quan điểm này của nhà thơ Trúc Thông, tôi thử suy luận, ông coi mỗi bài thơ như một bông lúa. DĨ nhiên, hiếm có bông lúa nào toàn bộ hạt đều căng mẩy cả, thế nào chẳng có dăm ba hạt lép, thậm chí rất nhiều hạt léo. Thế nên, mỗi bài thơ, những câu chữ hay là nhưng hạt mẩy, còn câu chữ độn, câu như văn nói, hoặc ngô nghê là những hạt lép. Nhìn cả bông khó thấy hạt lép, cũng như đọc cả bài thơ, câu chữ dở, lép lẩn trong cả bài. Vậy mới phải tìm cách để câu chữ dở, lép không có nơi ẩn nấp, lộ diện ra,... Quả là ý tưởng đọc đáo, khác người. nhưng cũng không dễ làm chút nào.
Trở lại thơ Trúc Thông. Sau Chầm chậm tới mình (hẳn là nhà thơ tìm đường hướng,giọng điệu?), Ông tự tin,bắt đầu tăng tốc với Ma-ra-tông, rồi giữ nhịp ở Một ngọn đèn  xanh.  Và sau đó, có chút lắng lại, thoáng băn khoăn ở Vừa đi vừa ở. Khác với nhiều nhà thơ, lấy tên sách như một cách sáng tác, Trúc Thông chọn tên sách với nhãn quan phê bình, thể hiện quan điểm sáng tác của mình. Bao quát, thơ Trúc Thông, du vần điệu hay không, đều hàm súc, suy ngẫm, hình ảnh và giàu sức liên tưởng.
Ngày trước, khi tôi còn tham gia giữ mục cho một tờ báo nọ, tôi từng chon bài thơ “Lát sông quê” và “Nho nhỏ mùa thu “của Trúc Thông để bình. Liên tưởng đến minh triết “Chhẳng một aai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”, bài “Lát sông quê,” cùng cảnh tượng trước mắt, tác giả sống lại ký ức xa xưa với hỉnh  bóng bà cụ già, hình bóng người mẹ và câu bé cùng lũ trẻ suốt nửa thế kỷ trôi qua,... như nhau mà lại khác thế, để ngộ ra một sự thật đơn giản “vẫn sông Châu yên lặng thế thôi mà”. Nhưng bà cụ giờ đây rất có thể là con của bà cụ ngày xưa, còn cậu bé “tim loạn nhịp” ngày xưa là tác giả, nhà thơ đứng tuổi lịch lãm phong trần và người mẹ vội chợ ngày ấy giờ đã năm lại ở bờ sông lẫn với đám ngô mà “bờ sông vẫn gió  người không thấy về”.Tim quy luận vận hành của cuộc sống luôn đau đáu và chẳng dễ dễ với Trúc Thông. Tính ông vốn thế mà.
Ở  bài thơ “Nho nhỏ mùa thu”, ngôn ngữ thơ văn xuôi, Trúc Thông tô màu bức tranh: “Đôi chim câu chân son mỏ đỏ, bên bờ con sông Sa Lung/ chim đi đâu đây?/ cúc cù cu chúng tôi kiếm mồi. Cúc cù cu chúng tôi rong chơi? Rồi chim bay vù.Một quãng đáp xuống. Chim lại đi đôi trong cỏ gật gù/ cỏ mùa thu xanh ngả đượm chút vàng. Sông Sa Lung tháng bảy nước chảy phù sa. Trời thu rộng rãi, gió nhè nhẹ trải/ vợ chồng chim như hai anh em như hai bè bạn. Áp trắng ,mắt xườm, chân son, mỏ đỏ. Gật gù đi trong cỏ pha thu.” Nguyên bài thơ như vậy, đầy ắp sắc màu, hình ảnh, sống động, làm nên một bức  tranh thu thật đẹp. Sự cầu kỳ cũng đáng giá đấy chứ?
Bản chất của sự vật và hiện tượng cùng mối liên kết sâu xa của nó mới là mối quan tâm và làm ông bận lòng. Điều này có thể tháy ở một  số bài thơ, như; Cảnh quan, Múa cổ. Qua tháp Dương Long, Vũ nữ Trà Kiệu bước ra từ sa thạch, . Dặn bức tranh năm cô gái, Bài ca các em bé theo công trường,... Ví như, bài Múa cổEm múa điệu rông đô thời cổ/ bàn chân chắc nịch sau làn váy/ da đồng quê/ khăn mận chín vùng vẫy/ ngực căng/yếm sồi/ rông đô/ chân trần tiếp đất/ làng ta thế kỷ mười/ đất âm thầm tự do trong cầm giữ/ rông đô/ trống vỗ/ rông đô/ vai trần/ rông đô/ không biết mệt...”  Cảm giác, Trúc Thông mải miết, không mệt mỏi đi tìm cách diễn đạt mới.
Nhưng thấp thoáng đó đây, lại thấy một Trúc Thông rất đỗi thật thà, chẳng hạn như bài thơ “Cao Bằng”:  “Sau khi qua đèo Gió/ Ta lại vượt đèo Giang/ Lại vượt đèo Cao Bắc/ Thì ta tới Cao Bằng... Rồi đến chị rất thương/ Rồi đến em rất thảo/ Ông  lành như hạt gạo/ bà hiền như suối trong.../ Bạn ơi có thấy đâu/ Cao Bằng xa xa ấy’ Vì ta mà giữ lấy/ Một dải dài biên cương”. Lời thơ giản dị những tình cảm dạt dào. Có lẽ vậy mà các nhà giáo dục đã chọn đưa vào sách giáo khoa Tiềng Việt để giảng dạy cho học sinh bậc tiểu học.
Hay đâu, có một Trúc Thông nhuần nhị, thấm đã tình người, tình mẫu tử trong bài thơ “Bờ sông vẫn gió.” Theo tôi, đây không những là bài thơ toàn bích của Trúc Thông, mà còn là một trong những bài lục bát hayở xứ ta. Hay về mọi nhẽ., ý tứ, ngôn từ, vần điệu,... Cùng câu mở rất gợi, lời thơ ra tựa lời cửa miệng nhẹ bẫng như không mà đằm nặng nghĩa tình ;“Xin người hãy trở về quê/ Một lần cuối... một lần về cuối thôi,Về thương lại bến sông trôi/ Về buồn lại đã một thời tóc xanh/ Lệ xin giọt cuối để dành/ Trên phần mộ mẹ vương hình bóng cha/ Cây cau cũ, giại hiên nhà/ Còn nghe gió thổi sông xa một lần/ Con xin ngắn lại đường gần/ Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi.
Còn  có một Trúc Thông thẩm thơ bằng “con mắt xanh”. Gần bốm chục năm làm biên tập thơ của chương trình Tiếng thơ, Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam, ông đã đọc, đã chọn lựa, bình luận, phê bình hàng vạn bài thơ để giới thiệu cũng thình giả, công chúng. Đây là sự đòng ghóp khồng  nhỏ của Trúc Thông cho sự phát triển của thi ca Việt hiện đại. Cũng nhớ vốn tích luy và kinh nghiệm của ngần ấy năm mà nhà thơ Trúc Thông đã thêm vào gia tình tác phẩm của mình dày dặn.
Với riêng tôi, mấy chục năm công tác cùng cơ quan với nhà thơ Trúc Thông, gặp mặt khi mau khi thưa, ông vẫn cứ thấp thoáng đâu đó, gần gũi đấy mà xa cách đấy, thân thiện đấy mà lành lạnh cách nhỡ đấy,... Về phần mình, tôi luôn kính nể ông, mỗi khi tiếp xuc mạn đàm về văn chương hay cuộc sống, tôi thường nghe ông nói, hơn là chia sẻ, giãi bày,...
Tiếc là, sau nhiều năm năm bệnh sau đột quỵ, hoạt đông văn học của ông phần nào hạn chế. Song với những gì Trúc Thông để lại khi ông rời cõi tạm, bạn bè văn chương và người yêu thơ đát Việt chắc chắn sẽ nhớ đến ông không riêng chỉ “Bờ sông vẫn gió” và tên những tập thơ khác lạ !...
 
 
 
tamvanvov 07.08.2022 17:28:45 (permalink)
 
 
Một người  là “bà đỡ văn chương”,...
 
 
        Người ấy là nhà báo Trịnh Bá Ninh, nguyên Phó Tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam.
          Tôi từng có bài viết về ông, bài“P16 Thụy Khê có một căn phòng” in trong tập bút ký, ký sự “Nơi tận cùng xứ sở” (NXB Hội Nhà văn, 2018). Ở bài viết đó, tôi đã kể tên hàng loạt nhà văn, nhà thơ, cây bút, có cả những người rất nổi tiếng, một thời  bao cấp khốn khó từng lui tới, ta túc tại căn phòng rộng 9 m2 của nhà báo Trịnh Bá Ninh tại khu tập thể Bộ Nông nghiệp ở P16 phố Thụy Khuê, Hà Nội. Giờ xin phép không nhắc lại chuyện cũ đó, tuy nhiên, theo thiển nghĩ của tôi, việc đó chứng tỏ một điều, nhà báo Trịnh Bá Ninh và vợ ông (bà Trần Thị Mai) không khác gì việc đỡ đầu cho nhiều tác phẩm văn học của các nhà ấy thai nghén và ra đời,...
          Thực ra, cách ví này chưa chuẩn. Khi ấy, nhà báo TRịnh Bá Ninh chỉ là phóng viên đơn thuần, mà đời sống xã hội lại cực kỳ thiếu thốn, làm được  như vậy cũng  thật đáng nể trọng bởi không dễ mấy ai làm nổi. Về sau, khi nhà báo Trịnh Bá Ninh giữ cượng vị Phó Tổng biên tập báo Nông nghiệp Việt Nam chuyên trách mảng nội dunng, ông đã làm  người thúc đẩy và  có thể nói là đỡ đầu cho nhiều tác phẩm văn học có giá trị của một số nhà văn ra đời,  đến với công chúng . ...
          Trước hết, với nhà thơ Trần Đăng Khoa. Với thần đồng thơ nổi tiếng này, lại là bạn học cùng trường phổ thông ở quê, sau cùng đội tuyển học sinh giỏi văn tỉnh Hải Hưng, ở thời điểm đầu những năm chín mươi của thế kỷ trước, gia tài văn chương, ngoài tập thơ Góc sân và khoảng trời, cùng một số bài thơ sáng tác thời tham gia chiến tranh biên giới Tây Nam và bộ đội Hải quân ra Trường Sa, thì Trần Đăng Khoa vẫn chưa có gì nhiều đẻ làm dày dặn thêm gia  tài của mình. Chỉ đến khi, xuất bản tập phê bình văn học, Chân dung và đối thoại, thêm làn nừa nữa tên tuổi Trần Đăng Khoa nổi như cồn. Tập sách này, cùng một số chân dung văn học được Trần Đăng Khoa viết khi làm việc ở Tạp chí Văn Nghệ quân đội, giữ chuyên mục Đối thoại tháng, thì nhiều bài viết khác do Trịnh Bá Ninh gợi ý và đặt hàng, chẳng hạn như những bài viết về các nhà văn Phù Thăng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường...  Đây thực sự là những chân dung văn học hay, trước hết là về người được khắc họa, tính cách và sự đóng góp của người đó cho văn học. Thứ đến, là bút pháp, phong cách, giọng điệu “rất Trần Đăng Khoa” về thể loại chân dung văn học. Theo tôi, những chân dung văn học của Trần Đăng Khoa mà Trịnh Bá Ninh gợi ý đặt hàng là những bài viết hay, góp phần làm nên thành công cho tập Chân dung và đối thoại,  tiêu biểu về thể loại chân dung văn học trong tiến trình phát riển văn học Việt Nam  hiện đại.
          Riêng với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, trước hết, nhà báo Trịnh Bá Ninh biết đến với tư cách là một đọc giả yêu thích truyện ngắn của tác giả này. Tôi nhớ, hồi Nguuyễn Huy Thiệp mới nổi sau những truyện ngắn xuất sắc đăng trên Báo Văn Nghệ, đã có lần, Trịnh Bá Ninh rủ tôi tìm đến nhà ông này ở Khương Hạ, Thanh Trì, Hà Nội. Hôm ấy, Nguyễn Huy THiệp vắng nhà nên chúng tôi chỉ ngó nghiêng quanh quất khu nhà vườn tuềnh toàng và chuyện xã giao dăm ba câu với người vợ của ông. Quan trọng là, từ sự yêu thích văn chương và ngưỡng mộ con người nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, sau này, khi có cơ hội, Trịnh Bá Ninh đã dám làm và có công trong việc đăng các truyện ngắn của ông.
          Ngày Nguyễn Huy Thiệp  mất (tháng 4.2021), trong một bài viết ngắn vĩnh biệt nhà văn đăng trên trang cá nhân, nhà báo Trịnh Bá Ninh đã kể lại  chuyện ông và các đồng nghiệp ở Báo Nông nghiệp Việt Nam tìm cách cho xuất hiện lại truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Số là sau khi đăng hàng loạt truyện ngắn lấy đề tài lịch sử, người ta cho rằng ông “hạ bệ thần tượng”, rồi cơ quan quản lý sờ đến, cho ý kiến nọ kia,... Thế là, các tờ bao9s ngán ngẩm, engaij, thậm chí từ chối đăng truyện của ông. Cứ thế, mấy năm liền văn đài vắng bóng truyện Nguyễn Hu Thiệp, như ông “mất tích” đâu đó.
          Rồi đến một mùa xuân, trong vô vàn báo tết báo xuân, bạn đọc bỗng thấy truyện ngắn Thiên văn của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện trên số tết báo Nông nghiệp Việt Nam. Chuyện là, trước tết năm ấy, Trịnh Bá Ninh với cương vị Phó Tổng biên tập, cùng phong viên-nhà văn Văn Chinh tìm đến tận nhà ông đặt bài xin truyện.  Chính Nguyễn Huy Thiệp cũng không tin cũng không tin là tờ báo này dám phợt lờ lệnh trên mà đăng truyện của mình. Trịnh Bá Ninh kể rằng, ông và đồng nghiệp cũng dè chừng, rất có thể sẽ có chuyện chẳng lành và nghĩ cách phòng thủ, bóc bài khi cần thiết.  Ấy là việc in  truyện của Nguyễn Huy Thiệp thành một tay báo riêng, để khi có biến là gỡ bỏ thày truyện khác vào vẫn kịp phát hành trước tết. May mà, mọi sự êm xuôi, lãnh đạo Bộ chủ quản còn khen báo tết  hay, truyện cảu Nguyễn Huy Thiệp hay. Nghe ngóng dư luaajun chung, cũng không thấy ban này bộ kia nhắc nhở  chuyện ấy. Tòa soạn thở phào, nhưng có lẽ mừng nhất, chẳng kém gì tác giả truyện, là Trịnh Bá Ninh, người đề xuất và sẵn sàng nhận trách nhiệm  nếu bị cho là sai sót từ việc ấy. Kể từ đấy, nhiều tờ báo khác bắt đầu cho đăng các sáng tác mới của Nguyễn Huy Thiệp. Đương nhiên, hầu như tết nào, Nguyễn Huy Thiệp cũng dành riêng một tryện ngắn cho báo Nông nghiệp Việt Nam., tờ báo ông  quý trọng từ nội dung đến nhân cách người làm báo. Cũng  vì thế, lúc còn sống, nhiều lúc Nguyễn Huy Thiệp cà phê Hàng Hành hay bát phố cổ thi thoảng ghé Tòa soạn báo Nông nghiệp Việt Nam uống trà chuyện phiếm cùng Trịnh Bá Ninh...
          Nâng niu, chăm nhà cây bút  thượng thặng là Trần Đăng Khoa và Nguyễn Huy Thiệp, Trịnh Bá Ninh cùng các đồng nghiệp của mình ở báo Nông nghiệp Việt Nạ cũng rất biết cách chiêu dung nhân tài, vì thế mà nhiều cây bút nổi tiêng xứ ta như Mà Văn Kháng, Bảo Ninh, hay những cây bút nổi tiếng gai góc như Tạ Duy Anh, Trần Huy Quang, Dạ Ngân ... đều góp mặt ở đây. Thời kỳ Trinhju Bá Ninh quản lý nội dung tờ báo cùng là thời kỳ có nhiều nhà văn đầu quân làm phong viên bản báo như Văn Chinh, Đỗ Bảo Châu, Vũ Hữu Sự, Thái Sinh,...
Báo  Nông nghiệp Việt Nam là một tờ nhật báo chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp, nội dung chính chủ yếu các vấn đề về Tam nông (Nông nghiệp, nông thôn, nông dân) nên Trịnh Bá Ninh và ban biên tập tờ báo chủ trương bám sát các vấn đề thời sự về Tam  nông, lấy tiêu chí phục vụ cho các lợi ích của nông dân la hàng đầu, tuy nhiên, khi ra các số báo nhân dịp lễ te4ets, kỷ niệm này nọ, có điều kiện làm văn thì hàm lượng và chất lượng văn chương ở đây không kém một số tờ báo chuyên về văn chương, thậm chí chất lượng bài còn cao hơn, theo đánh giá của bạn đọc, bởi có nhiều bài viết hay, rất hay của các cây bút và nhà văn hàng đầu của Việt Nam. Có một điều quan trọng nữa là, phong cách làm báo của ông, tôi tạm gọi là là “phong cách báo Trịnh Bá Ninh” làn truyền sang thế hệ đàn em và để lại dấu ấn đậm nét đến giờ, kể cả  thái độ ứng xử, sự tôn trọng và độ tinh tế văn chương.
Là dân làm báo với nhau, biết nhau, hiểu nhau cả, Làm được như Trịnh Bá Ninh không dễ chút nào. Giờ nghỉ hưu, ông vẫn được một  số kênh truyền thông mời tham gia tư vấn trực tiếp về tam nông và nhiều vấn đề văn hóa xã hội khác.
Riêng về văn chương, không còn  là những khát khao cháy bỏng thuở nào, mà là độ đằm sâu đầy trách nhiệm.
Cùng với những bút ký đoạt giải các cuộc thi bút ký văn hijc từ những năm 80-90 thế kỷ trước, nhà báo Trịnh Bá Ninh còa hàng trăm bài thơ. Song đưa thơ mình ra với công chúng thế nào, là quyền của riêng ông ,..../.
 
 
tamvanvov 10.09.2022 11:03:02 (permalink)
Người xưa cảnh cũ giờ đâu nhỉ?

Ngồi nhà, rỗi hơi thì hay nở máy vào mạng xã hội. Định viết này nọ, nhưng đâu có dễ. Ngay bài đang viết dở chừng, tiếp nối, cũng cạn ý từ, cảm xúc. Mỗi khi vậy, tôi thường giở xem lại trang riêng của mình trên nền tảng Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.net)...
Vậy là, tính đến xuân này (Tân Sửu), tôi đã lập ngôi nhà trên mảnh vườn nhỏ có tên Ngẫm & Viết sang năm thứ 12 rồi đấy. Cái Xóm Lá thân thương, mà cư dân ở đây quen gọi nôm na, trên nền tảng mạng xã hội blogtiengvieet.net, cũng có nhiều phen thăng trầm. Thăng trầm, bởi nền tàng kỹ thuật còn yếu, nên lâu lâu lại "rớt mạng", thậm chí, mất bài, nhất là dạo mùa hè năm 2016. Khi ấy, bà con Xóm Lá kêu trời vì bị mất bài viết, có người trắng tay. Riêng mình, vì dân làm báo chuyên nghiệp, từng có kinh nghiệm qua những vụ mất bài này nọ, nên biết cách lưu trữ bài bằng USB, ổ cứng riêng lẻ, file mềm và trên các nền tảng vũng hơn, vì thế hầu như chẳng mất bài nào. Chính vì vậy, chuyên mục Thơ Đường của tôi vẫn nguyên vẹn, đủ tư liệu để tôi tập hợp, đề dẫn, chú giải, biên soạn thành cuốn sách Rong chơi miền Đường thi. Tuy vậy, với việc bị mất một năm bài đăng (tương đương 100 bài viết), tôi bị mất toàn bộ phần cảm nhận ở đó, mà thực sự, nhiều cảm nhận hay, rất hay, như những bình luận, tiểu luận văn chương thú vị... Sau vụ rớt mạng, làm mất bài của bloggers, nhà mạng có nỗ lực cứu vãn, nhưng không thành công, bản thân nền tảng kỹ thuật cũng trục trắc dài dài. Giờ khá hơn thì cư dân cũng bỏ đi vãn cả rồi. Nhiều trang blog, chủ nhân bỏ bê dăm năm nay không hề lai vãng. Làng Phây (Facebook) nền tảng kỹ thuật vững chắc (con nhà giàu mà), lại thêm nhiều tính năng, trò chơi, tính phổ cập cao, không phân biệt giới tính, tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, quốc gia, nên có sức hấp dẫn cực kỳ. Dân Xóm Lá rầm rầm kéo sang lập nhà tại Chợ Giời - Phây... Rồi đó, ở Xóm Lá cũng có những phiền hà, phần nhiều xuất phát từ sự hiểu nhầm, tranh luận hơi quá lời mà gây nên những xích mích này nọ, nhưng làng xóm cũng nhanh chóng giải tỏa, yên hàn trờ lại...
Tôi cũng thế, có mành vườn con con trong làng Phây, ngày ngày cuốc xới, rau cỏ...
Nhưng khác nhiều cư dân cũ của Xóm Lá, tôi vẫn mở cửa ngôi nhà, chăm bón mảnh vườn nhỏ của riêng mình nơi xóm cũ đìu hiu. Thực lòng, tôi yêu mến mảnh đất này, bởi nơi đây, lần đầu tôi biết đến mạng xã hội, cũng chính nơi đây đã tạo cho tôi cảm hứng sáng tác, để chục năm qua, tôi viết và xuất bản hàng chục đầu sách, thơ văn, tiểu luận, chân dung văn học đủ cả. Và quan trọng hơn, từ sự giao lưu trong không gian ảo, tôi đã làm quen với nhiều blogger trong đời thực, phần đông họ là những người tử tế, giỏi giang. Thậm chí, nhiều người trong số đó đã trờ thành những người bạn tâm giao, thân thiết, giúp đỡ lẫn nhau như ruột thịt...
Trở lại câu chuyện cảm xúc sáng tác. Quả là, mỗi lúc "tắc tị" trên bàn phím, tôi giở lại, đọc những bài viết cũ cùng các cảm nhận của mọi người ngày xưa, lòng những dâng đầy cảm xúc, điều đó làm đầu óc tôi như được khơi thông, để rồi, vững lòng mà gõ tiếp...
Đọc lại, xem lại những hình ảnh của dăm bảy năm về trước, buâng khuâng nhớ những người đã đi xa... Hình ảnh, những dòng cảm nhận vẫn còn đây, như tươi mới, vậy mà người đã khuất nẻo xa xăm... Các anh Trương Hữu Lợi, Trần Khẩu, Trần Bài (Hương đất bãi), Phạm Duy Đức, Nguyễn Vinh Dũng (Phẫu-Phauthuattk), đã hóa thân thành những cánh hạc về trời... Từng có ý tưởng, các anh em Xóm Lá cùng gia đình người đã khuất làm sách cho các anh (Nguyễn Vinh Dũng, Phạm Duy Đức) song tiếc là, chưa thành hiện thực,...
Vậy nên:
Người xưa cảnh cũ giờ đâu nhỉ
Xóm Lá địu hiu, hỏi mấy ai,
cái thời đàm ấm thương mến ấy
về lại vườn xưa chẳng nguôi ngoai ...

tamvanvov 14.10.2022 17:22:40 (permalink)

MÙA NƯỚC NỔI
(Tản văn)

Ngày ấy, mùa mưa lũ năm 1981, tôi-chàng kỹ sư nông nghiệp trẻ mới tốt nghiệp, nhận quyết định vào công tác ở An Giang. Cùng đi với tôi vào thành phố Hồ Chí Minh, có Hoàng Gia Trình, bạn cùng lớp và hai người nữa, một nam một nữ, học trước tôi một khóa. Ba người vào vào An Giang, riêng Hoàng Gia Trình vào Minh Hải (khi ấy nhập Bạc Liêu và Cà Mau). Lo ăn đường, mẹ tôi gói ít bánh chưng cho tôi và Trình mang theo. Dọc đường vào, gặp áp thấp gây mưa, ngập úng và sạt lở đèo Cù Mông (Nghĩa Bình) và đèo Cả (Phú Khánh). Hành khách đi tàu hỏa Thống Nhất phải dặt dẹo ngủ trên tàu, ngủ nhà ga, đi bộ, tăng-bo mấy đoạn, ngót một tuần mới vào được thành phố Hổ Chí Minh. Ai nấy, quần áo nhàu nát lấm lem, lại bị đám xe lam Sài Gòn lừa, loanh quanh mãi mới ra được bến xe Miền Tây.
Xe rời thành phố từ mờ sương, lút vào miền Tây Nam bộ. Qua cửa kính xe, lần đầu tôi thấy đồng ruộng bao la đến thế, quanh cảnh mà tôi chưa từng thấy ở đồng bằng Bắc Bộ. Tôi nghĩ về cuốn sách của nhà báo Phan Quang viết về đồng bằng sông Cửu Long mà tôi mới đọc, thầm đồng tình với ông khi đưa ra nhận định, vùng đất này là vựa lúa khổng lồ của nước ta, nó không những thừa nuôi dân ta, còn dư để mang bán ra nước ngoài, Ngày ấy, nghĩ thế là đúng, song thực ra, không chỉ đơn giản là vậy?!...
Xe đến Bắc Mỹ Thuận, xe nối đuôi rồng rắn, chờ xuống phà. Sông Hậu mênh mông nước ngầu đục vì đang mùa mưa, đôi bờ bên này thuộc Tiền Giang, bên kia là Vĩnh Long. Lần đầu thấy sông Hậu, lại biết thêm người Nam gọi Phà là Bắc. Những chiếc phà 2 tầng như tòa nhà di động, nghe nói được sử dụng từ thời Mỹ Ngụy, xen kẽ đưa thoi đôi bờ. Qua được Bắc Mỹ Thuận mất hơn tiếng đồng hồ. Quang cảnh đôi bờ tấp nập hàng quán ăn nhậu, những người bán hàng rong rao ời ợi đến sốt ruột; có một món hàng nghe đến quen tai vậy mà không luận ra được, mãi sau này tôi mới hiểu đúng là nem Lai Vung.
Xe cứ chầm chậm miên man mãi như chẳng bao giờ tới đích. Đồng thì mênh mông, chỉ những nước là nước, cỏ đồng năn nác ngập đầu, sen súng lênh bềnh, khiến con đường cảm giác như sợi dây thừng dải ngoằn ngoèo trên biển nước vô tận. Tôi nhẩm đọc các biển tên địa danh hai bên đường, thấy nôm na, ngồ ngộ, buồn cười. Tôi nhớ lắm, khi ấy, cái tên Lấp Vò như ám vào đầu, và tôi rẩm riu nghĩ mãi, tại sao người ta lại gọi tên như vậy? Rồi cũng chẳng hỏi ai, cứ tự mình xét đoán, cả những khi sau này, mỗi lần nghỉ phép ra Bắc, xe lên thành phố lại ngang qua Lấp Vò. Lại hình như có một thời gian người ta đổi tên thành Thanh Bình thì phải? Khi ấy, tôi chỉ nghĩ, cái tên mới này chữ nghĩa quá, chẳng ấn tượng bằng Lấp Vò được. May mà, đã trở lại với cái tên gốc.
Trở lại chuyện cũ. Ngày ấy, sau một thời gian ngắn ở thị xã Long Xuyên, tôi được điều về Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, đóng tại xã An Lạc, giáp ranh thị trấn huyện lỵ. Đây là vùng đất Bảy Núi cũ, được chia tách làm hai, Tri Tôn và Tịnh Biên. Đây cũng là vùng đất duy nhất ở miền Tây Nam bộ có đất cao, gò đồi. Những gò đồi lổn nhổn rải rác kéo sang Hòn Đất, Hà Tiên, Rạch Giá. Với địa thế đặc biệt, vùng đất này trở thành huyền thoại trong quá trình khai mở của các đời chúa Nguyễn trong mấy trăm năm qua. Trong số mấy người cùng tôi gồng gánh ba lô, hòm xiểng vào Nam ngày ấy, duy nhất một bạn nữ ở thị trấn Tịnh Biên (An Giang) lập gia đình với một sĩ quan biên phòng sở tại và định cư hằn ở đó, còn lại, tôi cùng anh bạn Hoàng Gia Trình và một người nữa, kẻ trước người sau trở lại Bắc cả. Sau ngót bảy năm lăn lộn ở Tri Tôn, tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam làm báo chuyên nghiệp. Chính nhờ nghề làm báo, nên sau này tôi thường xuyên trở lại miền Tây Nam bộ, kể cả mảnh đất Tri Tôn, và khi ấy, mới có thời gian để mà ngẫm nghĩ về lẽ thiệt hơn của hệ sinh thái ngập nước ở đây vốn tồn tại từ hàng ngang năm trước.
Với người dân miền Tây Nam bộ, mùa nước nổi bao giờ cũng là nỗi mong chờ của người dân. Nước về mênh mang, rửa chua, thau phèn, và đặc biệt đem về một nguồn lợi thủy sản dồi dào, phong phú, không dám nói là vô tận. Sinh thái ngập nước nhiều trăm năm nay đã là một đặc trưng phong thổ của cả vùng đất này. Ngưới dân Việt Miên sinh sống ở đây cũng đã dần thích nghi đến quen thuộc và trở thành tập quán, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống vật chất, tâm sinh lý và cộng đồng, xã hội. Cũng từ đây, các hình thức ca hát, diễn xướng dân gian, nghệ thuật mang đặc trưng thổ ngơi hình thành và phát triển. Những điệu lý, vọng cổ, cải lương ra đời và mãi lưu truyền, trở thành tài sản phi vật thể quý giá của vùng đất...
Đã có một thời gian, chúng ta thiếu suy xét, cho xây dựng hàng loạt những nông trường bộ tại vùng đất phèn nặng của tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, dẫn đến thất bại, rồi tan rã. Kế đó, chúng ta lại ào ạt với chủ trương “vựa lúa khổng lồ”, làm thủy nông nội đồng, thoát nước biển Tây, miễn sao có được thật nhiều diện tích trồng lúa hai vụ, giống ngắn ngày, tăng năng suất. Công bằng mà nói, miền Tây Nam bộ đã thực sự trờ thành vựa lúa, không những dân ta đủ gạo ăn, còn dư thừa để xuất khẩu hạng nhất nhì thế giới.
Nhưng, khi đã no đủ rồi, lúc ấy mới ngẫm nghĩ, thấy tiêng tiếc nền tàng vật chất và xã hội xưa cũ, quen thuộc, ấy là sinh thái ngập nước. Càng ngẫm, càng thấy cái lý, cái cơ sở khoa học và lợi ích to lớn và toàn diện của hệ sinh thái này. Đó là sự cân bằng và sắp xếp của tự nhiên. Rồi nữa, lại nghĩ, giá như mình đừng nóng vội, bình tĩnh mà nhìn nhận, đánh giá, so sánh, để rồi chỉ quy hoạch vùng lúa đến mức nào đó, trên nền tảng của sinh thái ngập nước... thì có phải bây giờ, ta sẽ thế này, thế kia... lợi ích đôi đường ?...
Mấy năm gần đây, những năm ít mưa, thêm nạn thủy điện nơi thượng và trung lưu sông Mê-kông, dẫn đến mất mùa nước nổi, rồi nạn xâm mặn, sâu bọ, chuột phá v.v... lợi bất cập hại. Khi ấy, ta mới thấy tiếc, thấy thèm, thấy khao khát mùa sa mưa, nước nổi đến chừng nào !?...
Gần đây, trong một chuyến về Đồng Tháp, Bí thư Tỉnh ủy Lê Minh Hoan (ông nay hiện được điều ra trung ương là Bộ trưởng Bộ NN&PTNT), trong lúc làm việc và cả khi tiếp cơm đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam, ông say sưa nói về chương trình, mỗi thôn ấp, mỗi vùng đất-một sản phẩm hàng hóa,... Để ý, tôi thấy ông luôn miệng nói về sinh thái ngập nước với những lợi ích của nó. Có một câu, hình như đã thành câu cửa miệng của ông “mình đã sai, thấy sai, thì mình sửa thôi”. Lê Minh Hoan cũng nổi tiếng là một người yêu sen. Loài hoa đặc trưng và nổi tiếng của vùng Đồng Tháp Mười.
Bữa cơm khách, Bí thư Tỉnh ủy Lê Minh Hoan chăm chút đến từng chi tiết, món ăn, như rượu dừa, các món chế biến từ sen và cá đồng, cá sông, loại chỉ có ở Đồng Tháp và miền Tây, rồi cả chuột đồng mà ông gọi chệch là sóc tràm; rồi nữa, tặng phẩm là khăn rằn làm bằng tay, khăn rằn làm thành ca-vát... Tôi bày tỏ sự đồng cảm với ông về sinh thái ngập nước, và sự cần thiết hồi phục hệ sinh thái này ở vùng đất Đồng Tháp, và hơn thế là vùng Tây Nam bộ, chỉ cần giữ một diện tích vừa đủ để trồng lúa mà thôi.
Bằng hiểu biết của mình, có thể ít nhiều hạn hẹp, với cả tấm lòng, tôi yêu và tâm đắc hệ sinh thái ngập nước, cũng yêu và thèm khát mùa nước nổi !... Ở đó, có kỷ niệm về một thời gian khó nhưng giàu mơ ước; ở đó, có tình yêu, nỗi xa cách, cùng sự thất bại và nỗi thất vọng; ở đấy, còn có sự tìm tòi và tự nhận thức, để rồi đi đến sự minh triết !...

tamvanvov 11.11.2022 16:21:44 (permalink)

CHỚM ĐÔNG
@@@

Năm nay rét muộn. Mãi cuối tháng Mười âm lịch mới có những cơn gió bấc đầu mùa. Ngoài chút mưa lắc cắc, đủ để ướt lá, thấm mặt đường và chút xao động khi gió về, còn lại chưa đủ để xua đi cái nắng nóng kéo dài từ hè sang tận cuối thu...
Mấy nhà thơ sốt ruột, thi nhau làm thơ ca ngợi mùa thu đến, nào những lá thu vàng, những heo may ngọt vào mía, mọng nước vào bưởi, vào hồng, se lạnh vào đêm khuya, sương mù buổi sớm, thì mùa thu vẫn trốn ở nơi đâu... Rồi bão, rồi mưa ầm ào đâu đó, ngập lụt, lũ dâng ở đâu đó, xứ Bắc vẫn nóng nực như hè... Thời tiết thay đổi đến lạ, như chẳng màng gì đến quy luật muôn thuở... Thiên nhiên là vậy, đầy sự bất thường, xã hội con người cũng dường như cộng hưởng... Nóng chuyện biển khơi, nóng chuyện người di cư, nóng chuyện EU tan rã trước sự ly khai của quốc đảo Anh, nóng chuyện tranh cử tổng thống ở Mỹ... Có lẽ, từ người mà ra cả. Thực ra, thiên nhiên luôn vô sự, việc đúng sai, được thua, thuận nghịch là ở con người?...
Rồi thì gió mùa đông bắc cũng về. Chỉ những ai thức khuya dậy sớm mới nhận thấy sự thay đổi của thời tiết. Ngày xưa, Lưu Vũ Tích, một thi nhân đời Đường, cảm thu mà viết trong bài thơ Thu phong dẫn: "Triêu lai nhập đình thụ/ Cô khách tối tiên văn" ( có nghĩa là: Gió sớm se lạnh lùa vào cổ thụ trước sân/ ( Ta ) khách cô đơn là người biết đầu tiên, ). Tinh tế thay và nhậy cảm đến nhường nào.
Sớm gió mùa, chớm rét. Trở dậy, trong nhà chỉ thấy se se. Lúc ra đường mới thấy gió, thấy lạnh. Mùa đông đã về thật rồi.
Cánh phụ nữ, mới hôm trước còn váy ngắn, tay trần, hôm sau trang phục đã "kín cổng cao tường". Nhưng rồi, chớm rét thôi, đâu đến mức lạnh co người. Quen quen một chút, lại muốn váy áo nõn nường, tung tẩy, dường như định níu thu ...
Ừ, chớm rét thôi mà, ngại chi đâu " Người tay trần áo mỏng/ Vờ như chưa có đông " !...
(Lập đông 2016)


tamvanvov 29.11.2022 09:23:30 (permalink)

GIẬU CÚC TẦN
(Tản văn)
"Về quê, ... ngơ ngác bờ ao/ cúc tần tơ dại bờ rào cũngđâu?..."
###
Một lần đến chơi nhà người bạn thời đại học, anh bảo tôi: “Đọc tập truyện ông tặng, thú thật, tôi chỉ thích những chuyện ông viết về làng quê thôi… Mà này, trong truyện, để ý tôi thấy ông hay nhắc đến giậu cúc tần. Quê tôi người ta cũng hay trồng làm hàng rào nhưng lại gọi là khúc tần cơ. Vậy thế nào là đúng?”. Nghe thế, tôi cười, bảo bạn: “Ngôn ngữ dân gian mình quen dùng theo thổ ngơi từng vùng. Tôi nghĩ, muốn biết thế nào cho chính xác thì cứ tra Từ điển Tiếng Việt… nhưng mà ông ơi, căn vặn cái gì. Cúc tần hay Khúc tần thì cũng thế cả thôi, nó đều là một thứ cây ở quê chuyên trồng làm bờ giậu. Gọi thế nào thì người ta cũng không thể nhầm thành cây hoa cúc hoặc rau bánh khúc là được chứ gì?”. Anh bạn tôi tán đồng và sau đó chúng tôi còn bốc hứng nói hàng thôi hàng hồi về cái giậu cúc tần ở quê mình, cứ như là ở trên đời này không có thứ cây nào hơn.

Quả thật, hình bóng giậu cúc tần ở quê mãi in đậm trong tâm khảm tôi. Làng quê tôi những năm đó, hai bên con đường làng và những ngõ xóm chính lát gạch nghiêng xưa cũ rặt một màu xanh cúc tần bờ giậu. Thi thoảng là những bụi tre, trúc, hoặc những khóm mây gai xem kẽ. Sau tiết mưa xuân, rồi kế đến mưa rào tháng ba, đất ẩm, cúc tần được thể lên xanh bời, xanh suốt mùa hè, ngay cả dưới cái nắng tháng sáu chó già le lưỡi. Nắng xiên khoai buổi chiều làm cúc tần héo lá rũ xuống, trông đến xót ruột, nhưng sáng hôm sau tất cả lại tươi nguyên. Sương đêm, hơi đất ẩm là thứ thuốc hồi sinh. Mùi lá cúc tần hăng hắc nồng nồng thật dễ nhận và không thể không nhầm lẫn với bất cứ mùi gì khác. Giản dị vậy. Như người nông dân quê tôi, ngày lao động vất vả, sau bữa cơm tối, ngồi uống nước ối vủ, xỉa răng, nói đôi ba câu chuyện phiếm, bấm đốt ngón tay nhẩm tính công việc ngày mai rồi đánh một giấc rõ thật nồng, sớm hôm sau tỉnh dậy là khỏe khoắn ngay, và lại một ngày mới, một vòng tuần hoàn mới không mấy khác trước bắt đầu.

Nhớ cách đây nhiều năm, tôi gặp một người đồng hương Hưng Yên ở Paris. Ông ta đã ngót tám chục tuổi, bị Pháp bắt vào lính thợ ONS từ cuối những năm ba mươi khi đang trai trẻ, đưa sang châu Phi rồi lại về Pháp, lấy vợ đầm, và chưa hề một lần về thăm quê. Vợ mất, mấy đứa con Tây lập gia đình riêng, bỏ ông bố sống cô đơn trong một căn hộ những bảy buồng trên tầng chín chung cư. Ông bị bệnh tim mạch phải đeo máy trợ tim dưới lần da ngực trái. Người như thế, lại sống một mình, có thể tắc tử bất cứ lúc nào, tôi rẩm riu mà ái ngại thay. Ông viết văn, khi biết tôi cũng viết văn, ông bảo: ”Này em, không biết ở quê mình có giậu cúc tần không nhỉ?”. “Còn chứ, bác…”. “Vậy à!...”. Ông mơ màng: “Giậu cúc tần… Ngày ấy… Nàng mười lăm, còn tôi mười bảy… Hai nhà đối diện nhau… Tôi và nàng cách trở một con ngõ nhỏ và những hai… giậu cúc tần cơ…”. Ông cười khe khẽ, rồi ngâm: “Cúc tần, ơi giậu cúc tần/ Để ai thương nhớ, lòng gần trời xa/ Xanh mơ một nỗi niềm ta/ Người em năm ấy quê nhà có hay?...”. Ông dừng bài thơ nửa chừng từ lúc nào tôi cũng không biết nữa. Lâu lâu ông bảo tôi mà như nói với lòng mình: “Nàng giờ chắc đã già… Móm mém lắm rồi nhỉ… Mà chưa biết chừng… đã là người thiên cổ rồi cũng nên…”. Rồi ông còn lẩm nhẩm nói mãi về cái thằng ông thuở trai tơ, về nàng và đôi mắt nàng nhìn trộm ông sau kẽ lá mãi giậu cúc tần bên kia (tôi đồ là một cô gái quê nào đó người yêu ông ngày trước), về những dây tơ hồng sống tầm gửi vào cúc tần… và về một ngày nào đấy ông sẽ trở về quê nhà để được chạm tay vào những chiếc lá cúc tần giậu quê.

Nỗi niềm thương nhớ của người đàn ông già nua, cô đơn nọ có sức nặng lan truyền sang tôi. Trở về nước ít lâu, tôi về quê. Những bờ giậu cúc tần vẫn còn đấy song đã ít dần. Thay vào đó là những hàng rào ô rô và lác đác có nhà xây tường bao. Thêm vài năm nữa, cùng với phong trào “mái bằng hóa” thì tường bao vườn nhà gần như khắp lượt. Nhà nhà kín cổng cao tường. Đi trên đường làng nhìn lướt chỉ thấy những gạch là gạch, cảm giác như các dãy nhà kho san sát. Ao chuôm lấp hết thành thổ cư. Không còn cảnh người đi đường và người đứng trong vườn nhà chào hỏi nhau, nói chuyện với qua bờ giậu cúc tần như ngày trước nữa. Có lẽ thế mà sinh hoạt của các gia đình dần khép kín. Âu cũng là biến đổi tất yếu của xã hội nông thôn làng nửa phố, phố nửa làng đấy sao!. Có nhà dường như vẫn luyến tiếc giậu cúc tần xưa nên còn giữ lại chút ít, loi thoi phía bên trong tường gạch.

Rồi một lần, nhân ngày giỗ mẹ tôi, mấy người chị gái bảo tôi: “Cậu xem thế nào… mảnh đất vườn dưới quê của ông bà để lại cậu cũng nên tính xây bức tường bao đi, kẻo lợn gà và trẻ nhỏ phá tan hoang cả. Hôm nọ các chị về quê thắp hương mộ bố mẹ, ghé qua mảnh vườn cũ, nhìn mà xót xa. Cây cối xơ xác, trụi thùi lụi hết. Ngày trước xanh um là thế.. Mà giậu cúc tần thì xơ xác, dày đặc những dây tơ hồng… Khiếp quá”. Những điều các chị tôi nói, tôi đều biết cả. Song tôi cứ nấn ná mãi không quyết được. Dường như tôi muốn chờ… Nhưng mà chờ cái gì kia chứ? Tôi cũng không rõ nữa… Nếu nói là tôi muốn níu kéo tuổi thơ, giữ chân quá khứ, giữ nguyên hồn quê kiểng của một thời xưa cũ thì cũng là dở hơi mất rồi chăng ?... Song quả là nỗi niềm về quê hương bản quán và những câu thơ của ông già Việt ở Paris ngày nào cứ lảng bảng đâu đó trong tôi!
Giờ dây thì:
Về quê, ... ngơ ngác bờ ao
cúc tần tơ dại bờ rào cũng đâu ?..,.
may còn một chút bóng cau
để ta lưu dấu có nhau... một thời,


tamvanvov 18.12.2022 10:34:18 (permalink)
CHỢ PHIÊN
Tản văn 

Sau này, lớn lên, đi đó đây, yêu thơ, biết đến bài thơ Chợ Tết của thi sĩ Đoàn Văn Cừ, rồi tấm tắc phục ông tài tình, chứ ngày nhỏ, tuy nhút nhát và không thích nơi đông người, song tôi vẫn mong được túm áo mẹ theo đi chơi chợ tết.Cha tôi kể, ngày xưa chợ Lạng ở quê tôi to lắm, không kém gì các chợ ở trong vùng. Chợ họp trước sân đình Lạng, dưới hai cây bàng to và kéo dài đến cả nửa cây số, vắt cả về các ngã rẽ vào từng xóm, bán mua thượng vàng hạ cám. Khi tôi lớn, hai cây bàng cổ thụ vẫn còn đó, bóng tỏa rợp một vùng, nhưng chợ Lạng xưa thì không còn nữa và theo thời gian, hai cây bầng cũng bị chặt hạ. Cứ theo lời cha tôi thì chợ Lạng bị mất là do thời Pháp chiếm đóng lập đồn bốt vì thế dân các vùng không dám đi chợ Lạng nữa, mỗi phiên một vắng dần, lâu thưa thớt hóa ra chợ nội bộ của xã. Chợ Lạng bây giờ nhỏ, chỉ mấy thôn xóm mua bán với nhau và không họp theo phiên nữa, ngày nào cũng mở vài ba hàng xén và dăm hàng quà, mươi hàng thịt cá, đậu phụ, rau cỏ… Bù lại, dân quê tôi còn có ba chợ phiên đều cách đấy chừng vài ba cây số, đứng thế chân kiềng, đó là chợ Bần, chợ Dầm, chợ Nôm. Trong số đó, hai chợ Bần và Dầm trùng phiên ngày lẻ, chợ Nôm riêng phiên ngày chẵn, thế là người dân ngày nào cũng có chợ phiên để đi, thật là thuận tiện.Chợ Bần thuộc đất Bần với món tương cổ truyền tiến vua nổi tiếng từ xa xưa. Vì nằm rìa đường 5, giao thông thuận tiện nên hàng hóa chợ này rất phong phú, nhất là những mặt hàng công nghệ gia dụng. Dịp giáp tết, nếu bận bịu công việc nhà nông không có thời giờ để đi chơi các chợ thì chỉ cần đi một phiên chợ Bần là gần như mua được đủ thứ cần. Thế nhưng nhà nào muốn mua được giống gà tốt về nuôi thì chỉ có chợ Bần mới có giống gà Đông Tảo to cộ. Thêm nữa, chợ này dịp trước tết bán nhiều rau cải bẹ Đông Dư, hành và kiệu tươi, mua về nén ăn tết ngon. Chợ Dầm họp giữa vùng chiêm trũng. Các lều quán chợ chơ vơ trong gió đồng. Ai đó bảo, trước đây những ngày mưa dầm gió bấc, đường đi chợ Dầm bùn đất lầy lội, ngay trong nền chợ cũng bùn nước lõng bõng, người đi chợ phải dầm chân trong bùn đất, thế nên mới thành tên chợ. Chợ Dầm mang đặc trưng của vùng quê thuần nông, hàng công nghệ ít, bù lại hàng quà bánh và hàng đan lát gia dụng lại nhiều vô kể. Nhà nhà nuôi lợn đều thích đi chợ Dầm vì lợn ở đây rặt giống ỉ thuần nuôi dễ ngon thịt, lợn nái thì sai con, dễ gột lợn bột… Còn chợ Nôm, chân kiềng thứ ba, lại mang một sắc thái khác. Nếu hai chợ kia na ná giống nhau, cùng nằm giữa trục nối Phố Hiến với Thăng Long xưa, và cùng vùng văn hóa, thì chợ Nôm lại mang sắc thái văn hóa Kinh Bắc, pha chút hơi hướng vùng giáp trung du. Sản vật bày bán ở chợ này cũng có khác. Hàng ngày, người dân vùng quê tôi ít đi chợ Nôm. Song những ai muốn mua nồi, sanh, thau, mâm và đồ tế nhuyễn bằng đồng thì không thể không đi, bởi nơi đây là đất tổ sư nghề đúc đồng. Chợ Nôm gắn liền với câu ca hẳn nhiều người nhớ: “Đồng nát thì về cầu Nôm / Con gái nỏ mồm về ở với cha”. Đồ đồng bán ở chợ Nôm đủ loại, đủ cỡ và giá cả bao giờ cũng mềm hơn, lại là hàng chính hiệu. Tuyệt nhất, dịp Tết Nguyên Đán, đi phiên chợ Nôm thật no mắt nhìn. Cuốn thư, câu đối, tranh Đông Hồ như Chuột vinh quy, Lợn âm dương, Đàn gà, Tố nữ, Tứ mùa, Hứng dừa…thôi thì đủ loại tranh dân gian tươi rói sắc màu. Ngày tết, nhà nhà nhăm nhăm lo nồi bánh chưng vài chiếc giò, chút măng miến khô, mà có thêm tranh tết nữa thì thật không gì vui bằng, bởi vật chất, tinh thần đủ cả.Tôi không biết cái chợ ở làng quê ta có tự bao giờ. Cũng không dám so sánh nó với bất cứ thiết chế nào ở nông thôn, song nhất định nó phải là một cái gì đó quan trọng lắm với đời sống dân làng. Với nông thôn Việt Nam mình, tôi cứ mường tượng rằng đình, chùa và chợ là ba hòn trong cỗ đồ rau để làng quê tựa vào đó vững chắc.Ngày trước chợ phiên quê tôi là vậy, bây giờ thời kinh tế mở, các chợ này có thêm nhiều hàng hóa và mang hơi hướng của xã hội tiêu dùng hiện đại, song những nét cổ sơ thì vẫn còn. Những tiệm may thời trang, những nhà hàng cho thuê đồ đám cưới…góp phần tô điểm thêm cho sự sầm uất của chợ phiên. Lẽ dĩ nhiên, không thể tránh khỏi sự xô bồ của thời kinh tế mở, sự phai lạt nét văn hóa vùng riêng mỗi chợ phiên xưa cũ, và âu cũng là điều dễ hiểu. Người đi chợ ít ai kẽo kẹt đòn gánh quang thúng hai đầu như trước mà thay vào đó là xe đạp, xe máy. Sự pha tạp hiên đại ít nhiều làm phai nhạt nét đặc trưng của từng chợ xưa,...Song những dịp gần Tết Nguyên Đán, về quê giỗ chạp, dự cưới xin, thăm hỏi họ hàng làng xóm, tôi được vui lây với cảnh mẹ bìu con ríu đi chơi chợ tết, cảnh đám trẻ con ở nhà khấp khởi ngóng trông cha mẹ về chợ để rồi sau đó chí chóe tranh giành nhau quà chợ tết. Mỗi lần vậy, tự nhiên tôi thèm được như ngày nào nhỏ dại để theo mẹ đi chơi chợ tết,... Ơi những chợ Bần, chợ Dầm, chợ Nôm quê tôi!...   ./.
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 8 của 10 trang, bài viết từ 106 đến 120 trên tổng số 136 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9