Dong thơ cũ
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 44 bài trong đề mục
Anh Nguyên 16.11.2010 01:06:50 (permalink)
DÒNG THƠ CŨ
                 
       1801-1900



NGÔ THẾ VINH
       1803-1856

Quê Bái-Dương, Nam-Trực, Nam-Định, hiệu
Trúc-Đường, đậu Tiến Sĩ, làm quan đến Lang
Trung bộ Lễ, sau về nhà dạy học, đào tạo được
nhiều nhân tài. Tác phẩm của ông là một phần
quan trọng của di sả văn hóa dân tộc.


GIÓ MÁT TRĂNG THANH

Giang tâm thu nguyệt
Năo nùng thay khi gió mát, lúc trăng thanh
Bóng thiềm soi đáy nước long lanh
Quang cảnh ấy cũng thanh mà cũng lịch
Vạn lại tịch nhiên thu dạ vĩnh
Nhất hồn oánh nhĩ, nguyệt minh cô
Đàn năm cung, thơ một túi, cờ một cuộc rượu một bầu
Tiếng ca quản một vài câu khiển hứng
Chào mấy mái thuyền lan lững thững
Bạn mấy người tài tử ngao du
Non mấy tầng đá mọc lô nhô
Cầu mấy nhịp bắc ngang sông Vị Thuỷ
Hội Xích Bích nọ năm Tuất nhỉ
Thú phong lưu há để một Tô Công?
Trăng trong gió mát kho chung
~Ngô-Thế-Vinh~


BẾN TẦM DƯƠNG

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Duyên nước bèo gặp gỡ những chơi vơi
Giữa dòng sông nước chảy trăng soi
Dắt díu cả sắc tài vào một cuộc
Giai nhân tâm sự quy cầm trục
Tài tử phong lưu nhập tửu bôi
Nghe tiếng đàn bà rát ruột đòi thôi
Nghĩ mình luống thương vay cho kẻ khác
Hồng nhan tự cổ đa luân lạc
Thái bút như kim bán lục trầm
Người trăm năm ngoảnh lại cơi trăm năm
Tài với sắc, tính ra là ngộ cả
Quá ngán nhẽ người nằm thiên tải hạ
Cùng với lên chung một gánh sầu
Lệ tình há một giang châu.
~Ngô-Thế-Vinh~



BUI HUU NGHIA
     1807-1872

Sinh tại Rạch Bà Đồ, Long Tuyền, Vĩnh Định,
Vĩnh Thanh (Long Tuyền, Bình Thủy, Cần Thơ),
nổi tiếng thơ hay miền lục tỉnh, đỗ Giải Nguyên
1835, Tri Huyện Phước Long, Biên Hòa, sau
chuyển về Trà Vang, bị quan trên sàm tấu, nhờ
vợ ra tân triều đình khiếu kiện mới thoát chết.


QUA HÀ ÂM CẢM TÁC

Mịt mịt mây đen kéo tối sầm
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm
Đống xương vô định sương phau trắng
Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm
Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy,
Đèn trời leo lét dặm u lâm
Nghĩ thương con tạo sao dời đổi
Dắng dỏi (vang động) đêm trường tiếng dế ngâm.
~Bùi-Hữu-Nghĩa~


BÀI VĂN TẾ VỢ 

Hỡi ôi!
Gió Nữ phất phơ;
Mưa Ngâu lác đác.

Duyên bình thuỷ sum vầy đà tan rã, ngạt ngào bọt nước sóng xao;
Đuốc loan phòng tỏ rạng phút khêu lờ, sảng sốt ngọn đèn gió tạt.

Nhớ linh xưa:
Tánh đúc son vàng;
Tình không đen bạc.

Chen với nguyệt tròn hơn nguyệt, phòng khuê đà rực rỡ gương trong;
Ở trên trần mà chẳng nhuốm trần, vườn dâu khỏi lắm nhơ bụi cát.

Trong vấy màu bùn chẳng đục, những dự sang giàu, của trăm xe đưa rước vào màng;
Nghèo manh khố chuối mà thanh, phải duyên đằm thắm, cầu mấy nhịp xa xôi gánh vác.

Ở với mẹ đã trọn niềm hiếu hạnh, chìu lòng theo lân lý với anh em;
Lúc theo chồng vui biết chữ xướng tuỳ, đẹp đẽ với xóm giềng chú bác.

Ưa mùi đạo khuyên chồng nấu sử, nam tử may nợ nước đền bồi;
Thảo nhờ thân vẹn phận chưng lê, nữ công trọn giềng nhà gánh vác.

Trường khoa mục qua nong chí cả, ít nhiều đà rỡ mặt với non sông;
Nhà hàn vi hậu dốc tay nâng, may mắn đặng cất đầu cùng bạn tác.

Chồng vợ thảm đều không cha mẹ, em luống than phận lẻ loi;
Câu cô hoà một cửa anh em, tình vui thuận lời không chích mác.

Công danh lỡ vì mang bệnh quỉ, em chẳng phải vợ Mãi Thần ngày trước, thời chưa nên làm thói dể duôi;
Khó hèn cam nào dám trách trời, bậu chẳng như vợ Tô Tần ngày nọ, vận chưa đạt mà đem lòng khi bạc.

Phận khó khăn yếu đuối, vóc liễu bồ dầu dãi nắng mưa;
Con nhỏ dại thơ ngây, tay chủ quỉ không rời thước tấc.

Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần sấm đất tan bia;
Bay kịp chúng, nhảy kịp thời mới đặng hưởng gió thần đưa các.

Nghiệp tiên thế anh lo gây dựng, mừng thầm đà mở mặt với hương lân;
Đạo thánh hiền bậu dốc khuyến dương, gắn bó đã nên gương cùng hậu giác.

Ăn cần ở kiệm, giàu không khoe, khó cũng không đua;
Mua nghĩa chác nhơn, trước chẳng phai sau chẳng lạt.

Chữ thê tùng phu quý em nan than chẳng nhờ của cũng nhờ công;
Câu phụ tác tử thừa bậu nong nả chưa nên vai đà nên vác.

Ốc đà hết lúc gian truân;
Hay chưa tới chừng hanh đạt.

Bỗng đâu khiến gió day mưa tạt, non hoa hạc lánh trầm trầm;
Nào hay nỗi vật đổi sao dời, cửa sổ ngựa qua thoát thoát.

Ôi!
Sông Lệ vàng chìm;
Non Côn ngọc nát.

Cảnh giai lão trách lòng trời đất, khó có nhau giàu cũng có nhau;
Quỉ vô thường làm cuộc bể dâu, vật tráo chác người sao tráo chác.

Con cháu tuổi thơ ngây một bóng, em bào đành nhắm mắt tầm tiên;
Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nỡ sấp lưng cưỡi hạc.

Ai mượn lão Diêm phù rước khách, mẹ lìa con vì gã ức oan;
Ai mượn ngươi Quỷ bá đưa người, chồng xa vợ ở ngươi nên bạc ác.

Chữ "đại đức tất đắc kỳ thọ" đọc tới phát buồn;
Câu "tích phước tất hữu dư khương" nghe càng thêm lạt.

Qua bể bậu chẳng bằng tiền đũa, phận phân gương chẳng kịp nửa giờ;
Trời giết người chi sá gươm đao, chứng nghèo ngặt không đầy một lát.

Đêm khuya hãy nâng niu một trẻ, nghĩ từ cơn, ruột tợ kim châm;
Ngày ra nào vắng vẻ không em, nhớ từ chặn, gan dường muối xát.

Cuộc long hổ lấp rồi ba tấc đất, ôi thôi rồi má phấn hồng nhan;
Bạn phụng loan phân rẽ một phương trời, lo đáo để duyên đơn phận bạc.

Đã biết kiếp thác là kiếp mất, tấm lòng thành đủ bảy tuần chay;
Cho hay người mất mà nghĩa còn, thô lễ tế vài mâm mặn lạt.

Hỡi ôi, tiếc thay!
Hỡi ôi, tiếc thay!
~Bù-Hữu-Nghĩa~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2011 08:04:20 bởi Anh Nguyên >
#1
    Anh Nguyên 01.12.2010 09:54:03 (permalink)


    HUỲNH-MẪN-ĐẠT

           
    1807-1883

    Sinh Tân Hội, Tân Long, Gia Định, đậu
    cử nhân 1831, Án sát Định Tường, Tuần
    Phủ Hà Tiên, Châu Đốc. Thanh liêm, vì
    Dân vì nước. Giỏi thơ nôm.


    BÀI THƠ NÔM TIẾP Ô. TƯỜNG
    Ở NGOÀI ĐƯỜNG

    Cừu mã năm ba dạo cặp kè
    Duyên sao giải cấu khéo đè ne.
    Đã cam bít mặt cùng trời đất,
    Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe.
    Hớn hở trẻ dong đường dặm liễu.
    Lơ thơ già núp cội cây hoè.
    Sự đời thấy vậy thời hay vậy.
    Thà ẩn non cao chẳng biết nghe.

    Ông Tường đáp rằng:

    Tình cờ xảy gặp bạn tiền liêu
    Thơ phú ngâm nga hứng gió chiều.
    Thế cuộc đổi đời càng lắm lắm.
    Thiên cơ mầu nhiệm hãy nhiều nhiều
    Nước non dường ấy, tình chứng ấy,
    Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu.
    Hăm hở nhạc Tây hơi trổi mạnh
    Nghe qua ngùi nhớ giọng tiêu thiều.
    ~Huỳnh-Mẫn-Đạt~

    Vài bài khác của ông:


    CHÓ GIÀ

    Tuy rằng muông cẩu có ân ba,
    Răng rụng lâu năm nó phải già.
    Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối,
    Vì lo khỉ Sở mới dun da.
    Không ai trấn Bắc ngăn bầy cáo,
    Ít kẻ ngừa Tây giữ đứa tà.
    Mạnh mẽ như xưa còn hớn hở,
    Bây giờ yếu đuối hết xông pha.
    ~Huỳnh-Mẫn-Đạt~

    (Hươu Tần : đời Tần Nhị Thế, chính sự mục nát,
    giặc nổi lên tứ tung.Có người bảo: “ Nhà Tần để
    sổng con hươu, ai đuổi bắt được thì người ấy được
    thiên hạ.Khỉ Sở: Lưu Bang chế giễu Hạng Võ là
    con khỉ đội mão)

     
    CÂY DỪA

    Ba xuân đào lý phải duyên ưa,
    Cây trái liền năm chẳng kịp dừa
    Đuôi phượng vẻ vang che nắng gió,
    Mình rồng chan chứa gọi mây mưa
    Dãi dầu giúp kẻ khi xơi tối,
    Giúp nước vui người buổi khát trưa.
    Rường cột miếu đường không xứng mặt,
    Chống ngăn bờ cõi cũng bưa bưa.
    ~Huỳnh-Mẫn-Đạt~

    (Bưa bưa: tiếng địa phương, có nghĩa: vừa vừa, không phải giỏi)


    ĐIẾU NGUYỄN TRUNG TRỰC

    Thắng phụ nhung trường bất túc luân
    Ðồi ba chỉ trụ ức ngư dân
    Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
    Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần
    Nhất đán phi thường tiêu tiết nghĩa
    Lưỡng toàn vô uý báo quân thân
    Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
    Tu sát đê đầu vị tử nhân

    Bài dịch:

    Thắng bại chi bàn việc tướng quân
    Người chài trụ đá khúc gian truân
    Lửa bừng Nhật Tảo rêm trời đất
    Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần
    Một sớm nhẹ mình nêu tiết nghĩa
    Ðôi đường trọn chữ báo quân thân
    Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
    Lũ sống khom lưng chết thẹn dần.
    ~Huỳnh-Mẫn-Đạt~

    #2
      Anh Nguyên 07.12.2010 08:12:32 (permalink)


      CAO-BÁ-QUÁT

          
      1809-1854
      Sinh Phú Thị, Gia Lâm, Bắc Ninh
      (Hà-Nội). Làm Quốc sư cho Lê-Duy-Cự,
      ông này nổi lên chống triều Nguyễn, nên ông
      bị xử chém và vua Tự-Đức cho chu di tam tộc dòng họ Cao.



      THÔN CƯ VÃN CẢNH

      Li ngoại nhân yên, trúc ngoại âm,
      Thung ca thanh yết, trạo ca thâm.
      Truy du khách chí phân thư khán,
      Tức sự thi thành bão tất ngâm.
      Hương thủy mộ trào sinh thiển lại,
      Trản sơn hồi chiếu đạm không lâm.
      Huân phong đa dữ nhàn phương tiện,
      Xuy khởi cô liêm nhất bán tâm.
      ~Cao-Bá-Quát~

      Dịch:

      Cảnh chiều thôn quê

      Ngoài rào khói lạt trúc thưa,
      Nhịp chày vừa dứt, điệu hò vang lên.
      Khách chơi chia sách cùng xem,
      Thơ xong bó gối ngồi ngâm thẫn thờ.
      Sông Hương triều xuống bãi trơ,
      Khu rừng Hòn Chén đã mờ bóng hôm.
      Chiều nay có trận gió nồm,
      Rèm thưa nửa cuốn, tâm hồn thảnh thơi..
      ~Hóa-Dân~


      ĐỘC DẠ

      Thành thị huyên ti địa,
      Kiền khôn lão bệnh phu.
      Tê cung thành nhũng thặng,
      Bích tích thả nê đồ.
      Hàn lạo nãi liên phát,
      Tai lê huống vị tô.
      Thái bình vô nhất lược,
      Lộc lộc sỷ vi nho.
      ~Cao-Bá-Quát~

      Dịch:

      Đêm ngồi một mình

      Thị thành nơi ở thấp, ồn,
      Một anh già ốm trong khuôn đất trời.
      Mang thân thừa thãi ở đời,
      Nín hơi lánh gót lẩn nơi bùn lầy.
      Liên miên lụt rét gần đây,
      Dân đen tai nạn bấy nay không lành.
      Thái bình một chước chưa thành,
      Tầm thường nghĩ thẹn cho mình nhà nho.
      ~Vũ-Mộng-Hùng~


      ĐỐI VŨ

      Bạn vũ khuynh thiên lậu,
      Phi đào táp địa lai.
      Thế liên giang sắc tráng.
      Thanh nhập dạ phong ai.
      Xích nhập hành hạ đạo?
      Thương sinh tháng kỷ hồi?
      Khánh tình ngâm vọng viễn,
      Thu khí chính tương thôi.
      ~Cao-Bá-Quát~

      Dịch:

      Nhìn mưa

      Nghiêng trời mưa giội gấp,
      Chuyển đất sóng bay tung.
      Nước cả sông man mác,
      Đêm khuya gió não nùng!
      Vầng hồng đâu khuất mãi,
      Dân chúng bao chờ mong!
      Tình khách thơ trông ngóng,
      Hơi thu rộn rã lòng!
      ~Hóa-Dân~


      TỰ QUÂN CHI XUẤT HỸ

      Tự quân chi xuất hỹ,
      Dạ dạ thủ không sàng.
      Hải nguyệt chiếu cô mộng,
      Giang phong sinh mộ lương.
      Tiểu kính ký viễn khiếp,
      Hàn y lưu cố phường.
      Trì thử các tự úy,
      Bất khiển lưỡng tương vương!
      ~Cao-Bá-Quát~

      Dịch:

      Từ ngày anh ra đi

      Từ ngày anh ra đi,
      Đêm đêm giường quạnh hiu.
      Trăng khơi soi mộng lẻ,
      Gió bến lạnh hơi chiều.
      Áo rét em cất giữ,
      Gương nhỏ anh mang theo.
      Tạm để cùng yên ủi,
      Không lạt tình thương yêu.
      ~Hóa-Dân~


      ĐĂNG HOÀNH SƠN

      Sơn ngại thanh sơn vạn lý trình,
      Sơn biên dã thảo tống nhân hành.
      Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc,
      Chinh chiến không tồn nhất lũy danh.
      Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ,
      Nam trang sơ hiểu đái tân tình,
      Há sơn phản giác đăng sơn khổ,
      Tự thán du du ủy tục tình!
      ~Cao-Bá-Quát~

      Dịch:

      Lên núi Hoành-Sơn

      Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi,
      Bên non cỏ nội tiễn đưa người.
      Ai tài kéo nước nghìn năm lại?
      Trăm trận còn tên một lũy thôi.
      Ải bắc mây tan mưa dứt hạt,
      Thôn nam nắng hửng sớm quang trời.
      Xuống đèèo mới biết lên đèo khổ,
      Trần lụy, sao đành để cuốn lôi?
      ~Nguyễn-Quý-Liêm~


      ĐỘC DẠ HOÀI CẢM

      Tân trướng sinh tàn dạ,
      Sơ hàn tống miểu thu.
      Tuế thời song bệnh nhãn,
      Thiên địa nhất thi tù.
      Ỷ chẩm khan trường kiếm,
      Hô đăng kiểm tệ cừu.
      Cưỡng liên tâm lực tại,
      Cơ ngọa bất câm sầu.
      ~Cao-Bá-Quát~

      Dịch:

      Đêm một mình cảm nghĩ

      Con nước mới, giục đêm tàn,
      Rét đầu mùa, tiễn muộn màng cảnh thu.
      Tháng ngày đôi mắt mịt mù,
      Giữa đất trời, một anh tù làm thơ.
      Trông gươm tựa gối bơ phờ,
      Gọi đèn xem lại xác cơ áo cừu.
      Xót mình tâm lực cạn đâu,
      Mà thân giam hãm mối sầu khôn nguôi!
      ~Hoàng-Trung-Thông~


      TÀI TỬ... GIAI NHÂN

      Tài tử với giai nhân sẵn nợ,
      Giải cấu nan là chữ làm sao.
      Trải xưa nay chừng đã biết bao,
      Kia tan hợp, nọ khửu lưu, đâu dám chắc.
      Giai nhân khứ khứ hành hành sắc,
      Tài tử triêu triêu mộ mộ tình (1)
      Uẩy kia ai, như mây tuôn như nước chảy,
      Như gió mát như trăng thanh.
      Lơ lửng khéo trêu người chi mãi mãi.
      Trời đất có san đi mà sẻ lại,
      Hội tương phùng còn lắm lúc về sau.
      Yêu nhau xin nhớ lời nhau.
      Thương những kẻ giai nhân tài tử,
      Chót đa mang vì một chữ tình.
      Nghĩ nguồn cơn thẹn với trời xanh,
      Tưởng nông nổi giận cùng trăng bạc.
      Tương tiếu nhất thanh song lệ lạc,
      Khả liên bán điềm thấp châu huyển (2)
      Trách vì phận, giận vì duyên
      Duyên phận những vì tình nên nông nỗi.
      Dẫu dạ sắt gan vàng cũng rối,
      Vẫn ruột tằm lắm mối càng đau.
      Tương tư ai để cho nhau.
      ~Cao-Bá-Quát~

      (1) Vẻ đẹp giai nhân đi đi lại lại. Tình
      riêng tài tử sớm sớm chiều chiều (2)
      Cùng cười một tiếng hai hàng lệ rơi.
      Đáng thương nửa giọt ướt dây tơ đỏ.


      UỐNG RƯỢU TIÊU SẦU

      Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy
      Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười
      Thôi công đâu chuốc lấy sư đời
      Tiêu khiển một vài chung lếu láo
      Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu (1)
      Trầm tư bách kế bất như nhàn (2)
      Dưới thiều quang thấp thoáng bóng nam quan
      Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ
      Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ
      Mảnh hình hài không có, có không
      Lọ là thiên tứ, vạn chung
      ~Cao-Bá-Quát~

      (1) Dứt bỏ một đời, chỉ có rượu
      (2) Suy tư trăm lối, không bằng nhàn


      ĐẾN LÀNG ĐÔNG DU, ĐÊM NGỦ ĐỖ

      Đầu sông đứng ngóng quê hương
      Quê hương đâu phải dặm trường xa xôi,
      Cớ sao mãi chẳng tới nơi,
      Vừa đi vừa đứng bồi hồi làm sao?
      Thiếu người cáng võng, phải đâu
      Cũng không chờ đợi bạn bầu những ai.
      Từ khi vướng lấy lụy đời
      Nửa bầu máu nóng nhường vơi vơi dần.

      Đường đời biển ảo phong vân
      Việc đời ấm lạnh bao giờ đổi thay
      Mũ treo còn chửa hẹn ngày,
      Cỗng sài nào biết sau này nơi nao!

      Nghiệp xưa vườn ruộng dăm sào
      Rêu hoang cỏ dại ai nào ngó coi!
      Họ hàng người cũng thưa rồi
      Bữa cơm dưa muối thết mời vẫn chưa.

      Biệt ly biết đến bao giờ!
      Thà im im bắt, nói ra ngại lời
      Trời tây bóng đã xế rồi
      Vẫn còn nấn ná quê người một thân.
      ~Cao-Bá-Quát~


      NHỚ NGƯỜI

      Giai nhân nan tái đắc (1)
      Trót yêu hoa nên dan díu với tình
      Mái Tây hiên (2) nguyệt gác chênh chênh
      Rầu rĩ bấy xuân về, oanh nhớ

      Phong lưu công tử đa xuân tứ
      Trường đoạn tiêu nương nhất chỉ thư (3)

      Nước sông Tương (4) một dải nông sờ
      Cho kẻ đấy, người đây mong mỏi !
      Bứt rứt nhẽ trăm đường nghìn nỗi !
      Chữ chung tình biết nói cùng ai ?
      Trót vì gắn bó một hai ....!
      ~Cao-Bá-Quát~

      (1)Khó gặp người đẹp
      (2)Trong truyện Tây Sương Ký, chàng Trương
      Quân Thụy gặp nàng Thôi Oanh Oanh ở mái
      hiên phía Tây
      (3)Người tài tử phong lưu có nhiều ý nghiã về
      xuân về tình, Đau khổ vì một lá thư của nàng.
      (4)Tên một con sông bên Tàu


      ĐỜI NGƯỜI THẤM THOÁT

      Nhân sinh thiên địa gian nhất nghịch lữ (1)
      Có bao lăm ba vạn sáu nghìn ngày
      Như thoi đưa, như bóng sổ, như gang tay
      Sực nhớ chữ 'Cổ nhân bỉnh chúc' (2)
      Cao sơn, lưu thủy, thi thiên trục (3)
      Minh nguyệt, thanh phong tửu nhất thuyền (4)
      Dang tay người tài tử khách thuyền quyên
      Chén rượu thánh, câu thơ tiên thích chí
      Thành thị ấy, mà giang sơn ấy
      Ðâu chẳng là tuyết, nguyệt, phong, hoa
      Bốn mùa xuân lại, thu qua
      ~Cao-Bá-Quát~

      (1) Người sinh trong đất trời như đến nhà trọ (ngắn ngủi)
      (2) Người xưa cầm đuốc đi chơi đêm ... thơ Lý Bạch
      (3) Có núi cao, nước chảy nên thơ ra ngàn bài
      (4) Nhờ trăng thanh, gió mát mà uống một thuyền đầy


      THÚ NHÀN
       
      Thế sự thăng trầm quân mạc vấn (1)
      Yên ba thâm xứ hữu ngư châu (2)
      Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
      Ðem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt
      Duy giang thượng chi thanh phong,
      dữ sơn gian chi minh nguyệt (3)
      Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng
      Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
      Kẻ thành thị kẻ vui miền lâm tẩu
      Gõ nhịp lấy, đọc câu 'Tương Tiến Tửu' (4)
      "Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy
      thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi" (5)
      Làm chi cho mệt một đời.

                        Cao-Bá-Quát

      (1) Cuộc đời lên xuống, bạn đừng hỏi
      (2) Chốn sâu khói sóng, buông thuyền câu
      (3) Chỉ ở trên sông có gió mát, chỉ trong khoảng
      núi có trăng sáng, Trích trong bài tiền Xích Bích
      của Tô Ðông Pha một danh sỹ đời Tống
      (4) Ðầu đề của một bài ca của Lý Bạch
      (5) Bạn chưa thấy nước sông Hoàng Hà,
      từ trời xuống chảy tuôn xuống biển không hề
      quay lui. Ý nói đời sống, thời gian một đi không trở lại

       
       
      THANH TRÌ PHÀM CHU NAM HẠ ?
       
      清池汎舟南下

      清潭催別袂
      珥水濺行襟
      沙闊黄雲暮
      天低白日沈
      客舟寒汎汎
      江色晚陰陰
      不見波濤壯
      安知萬里心


      Phiên âm:

      Thanh Trì phiếm chu nam hạ

      Thanh Đàm thôi biệt duệ
      Nhị Thủy tiễn hành khâm
      Sa khoát hoàng vân mộ
      Thiên đê bạch nhật trầm
      Khách chu hàn phiếm phiếm
      Giang sắc vãn âm âm
      Bất kiến ba đào tráng
      An tri vạn lý tâm.
      ~Cao-Bá-Quát~

      Dịch nghĩa:

      Từ Thanh Trì đưa thuyền xuôi nam

      Vừa giục giã chia tay ở Thanh Ðàm
      Mà giờ đây nước sông Nhị đã vấy áo người đi
      Cát rộng mây vàng chiều tà
      Trời thấp, mặt trời xuống
      Thuyền khách lạnh trôi chậm chậm
      Màu sông chiều âm u
      Không thấy sóng lớn mạnh
      Sao biết chí lớn muôn dặm

      Dịch thơ:

      Thanh Trì, thuyền xuôi nam

      Thanh Ðàm vội chia tay,
      Sông Nhị áo ướt đầy.
      Mây vàng chiều cát lộng,
      Vòm thấp mặt trời xoay.
      Sông chiều màu u ám,
      Khách lạnh thuyền day day.
      Không thấy sóng lớn mạnh,
      Sao biết chí cao dày.
      ~Đặng-Thế-Kiệt~
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.12.2010 01:06:34 bởi Anh Nguyên >
      #3
        Anh Nguyên 16.12.2010 01:33:05 (permalink)


        ĐINH-NHẬT-THÂN

               
        1815-1866
        Quê Thanh-Liêu, Thanh-Chương, Nghệ-An, đậu Tiến Sĩ, làm
        Tri Phủ, tính cương trực, chẳng bao lâu bị cách chức, được
        phục chức lại cáo bệnh, cổ động dân chúng khai quang lập ấp,
        mở trường học, làm thuốc ở quê nhà, giao du với Cao-Bá-Quát,
        bị kết tội tử hình, được ân xá, bị lưu giữ ở Huế để dạy học trong
        Hoàng tộc, mất mới 51 tuổi.


        (Trích Đoạn mở đầu khúc Thu dạ lữ hoài:)

        Thu dạ tĩnh thiên quang ẩn ước,
        Cách sơ liêm đạm chước kim bôi,
        Thiên thời nhân sự tương thôi,
        Phù sinh nhược mộng kỉ hồi vi loan?
        Nhân đối cảnh hoa gian nguyệt chiếu,
        Cảnh liêu nhân thọ điếu phong xuy,
        Giá ban liệu thiểu nhân tri.
        Nhàn lai phong nguyệt dữ thùy vi thu?
        ~Đinh-Nhật-Thân~

        Bản dịch:

        Đêm thu lặng bóng trời thấp thoáng,
        Cách rèm thưa chuốc chén kim bôi,
        Gẫm xem thời sự ngậm ngùi,
        Cõi phù mấy thuở làm vui với đời?
        Người đối cảnh trăng soi hoa nở,
        Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
        Nỗi niềm tâm sự kể hay,
        Cùng ai trăng gió đêm ngày thưởng thu...
        (Tương truyền tác giả tự dịch ra quốc âm)


        LÊ-NGÔ-CÁT &
         
        1827-1875
        Quê Hương-Lang, Chương-Đức, Hà-Tây, đậu
        Cử Nhân,Giáo Thọ phủ Kinh-Môn (Hải-Dương),
        Tri Huyện Thất-Khê (Lạng-Sơn), Án Sát Cao-Bằng,
        hiệu đính Đại-Nam Quốc-Sữ diễn ca.

        PHẠM-ĐÌNH-TOÁI
              
        1817-1901
        Hiệu đính Đại-Nam Quốc-Sử diễn ca.

        ĐẠI NAM QUỐC SỬ DIỄN CA

        I. Thời-kỳ mở nước (Thế-kỷ 29 - thế-kỷ 2 trước TL)

        i. Nhà Hồng Bàng (2879-256 trước TL)

        1. Mở Đầu

        Nghìn thu gặp hội thăng-bình,
        Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời.
        Lan-đài dừng bút thảnh thơi,
        Vâng đem quốc-ngữ diễn lời sử xanh.
        Nam-giao là cõi ly-minh,
        Thiên-thư định phận rành rành từ xưa.
        Phế-hưng đổi mấy cuộc cờ,
        Thị-phi chép để đến giờ làm gương.

        2. Kinh Dương-Vương

        Kể từ trời mở viêm-bang,
        Sơ đầu có họ Hồng-bàng mới ra.
        Cháu đời Viêm-đế thứ ba,
        Nối dòng Hỏa-đức gọi là Đế-minh.
        Quan-phong khi giá Nam-hành,
        Hay đâu Mai-lĩnh duyên sinh Lam-kiều,
        Vụ-tiên vừa thuở đào yêu,
        Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên.
        Dòng thần sánh vời người tiên,
        Tin-anh nhóm lại, thánh hiền nối ra,
        Phong làm quân-trưởng nước ta,
        Tên là Lộc-tục, hiệu là Kinh-dương.
        Hóa-cơ dựng mối luân-thường.
        Động-đình sớm kết với nàng Thần-long.
        Bến hoa ứng vẻ lưu-hồng
        Sinh con là hiệu Lạc-long trị-vì.

        3. Lạc-Long-Quân và Âu-Cơ

        Lạc-long lại sánh Âu-ky.
        Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.
        Noãn-bào dù chuyện hoang-đường,
        Ví-xem huyền-điểu sinh Thương khác gì?
        Đến điều tan-hợp cũng kỳ,
        Há vì thủy hỏa sinh-ly như lời,
        Chia con sự cũng lạ đời,
        Qui sơn, qui hải khác người biệt-ly.
        Lạc-long về chốn Nam-thùy,
        Âu-cơ sang nẻo Ba-vì Tản-viên.
        Chủ-trương chọn một con hiền,
        Sửa-sang việc nước nối lên ngôi rồng.

        4. Hùng-Vương và nước Văn-Lang

        Hùng-vương đô ở châu Phong,
        Ấy nơi Bạch-hạc hợp dòng Thao-giang.
        Đặt tên là nước Văn-lang,
        Chia mười lăm bộ, bản-chương cũng liền.
        Phong-châu, Phúc-lộc, Chu-diên,
        Nhận trong địa-chí về miền Sơn-tây;
        Định-yên, Hà-nội đổi thay,
        Ấy châu Giao-chỉ xưa nay còn truyền.
        Tân-hưng là cõi Hưng, Tuyên,
        Vũ-ninh tỉnh Bắc, Dương-tuyền tỉnh Đông;
        Thái, Cao hai tỉnh hỗn-đồng,
        Ấy là Vũ-định tiếp cùng biên-manh;
        Hoài-hoan: Nghệ; Cửu-chân: Thanh;
        Việt-thường là cõi Trị, Bình trung-châu.
        Lạng là Lục-hải thượng-du
        Xa khơi Ninh-hải thuộc vào Quảng-yên.
        Bình-văn, Cửu-đức còn tên,
        Mà trong cương-giới sơn xuyên chưa tường.
        Trước sau đều gọi Hùng-vương,
        Vua thường nối hiệu, quan thường nối tên.
        Lạc-hầu là tướng điều-nguyên,
        Vũ là Lạc-tướng giữ quyền quân-cơ;
        Đặt quan Bồ-chinh hữu-tư
        Chức-danh một bực, đẳng-uy một loài.

        5. Giao-thiệp với Trung-Hoa

        Vừa khi phong-khí sơ-khai,
        Trinh-nguyên xẩy đã gặp đời Đế-Nghiêu.
        Bình-dương nhật nguyệt rạng kiêu,
        Tấm lòng quì, hoắc cũng đều hướng-dương.
        Thần-quy đem tiến Đào-đường,
        Bắc Nam từ ấy giao-bang là đầu.
        Man-dân ở chốn thượng-lưu,
        Lấy nghề chài lưới làm điều trị-sinh.
        Thánh-nhân soi xét vật-tình,
        Đem loài thủy-quái vẽ mình thổ-nhân.
        Từ sau tục mới văn-thân,
        Lợi dân đã dấy, hại dân cũng trừ.
        Dõi truyền một mối xa-thư,
        Nước non đầm-ấm, mây mưa thái-binh.
        Vừa đời ngang với Chu Thành,
        Bốn phương biển lặng, trời thanh một mầu.
        Thử thăm Trung-quớc thể nào,
        Lại đem bạch-trĩ dâng vào Chu-vương.
        Ba trùng dịch-lộ chưa tường,
        Ban xe tí-ngọ chỉ đường Nam-quy.

        6. Chuyện Phù-Đổng Thiên-Vương

        Sáu đời Hùng vận vừa suy,
        Vũ-ninh có giặc mới đi cầu tài,
        Làng Phù-đổng có một người,
        Sinh ra chẳng nói,chẳng cười trơ-trơ.
        Những ngờ oan trái bao giờ.
        Nào hay thần-tướng đợi chờ phong-vân.
        Nghe vua cầu tướng ra quân,
        Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích-ngang.
        Lời thưa mẹ, dạ cần vương.
        Lấy trung làm hiếu một đường phân-minh.
        Sứ về tâu trước thiên-đình,
        Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
        Trận mây theo ngọn cờ đào,
        Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
        Áo nhung cởi lại Linh-san,
        Thoắt đà thoát nợ trần-hoàn lên tiên.
        Miếu-đình còn dầu cố-viên,
        Chẳng hay chuyện cũ lưu-truyền có không?

        7. Chuyện Sơn-Tinh và Thủy-Tinh

        Lại nghe trong thủa Lạc-Hùng
        Mị-châu có ả tư-phong khác thường,
        Gần xa nức tiếng cung-trang.
        Thừa-long ai kẻ đông-sàng sánh vai?
        Bỗng đàu vừa thấy hai người,
        Một Sơn-tinh với một loài Thủy-tinh,
        Cầu hôn đều gửi tấc thành,
        Hùng-vương mới phán sự tình một hai.
        Sính nghi ước kịp ngày mai,
        Ai mau chân trước, định lời hứa-anh.
        Trống lầu vừa mới tan canh,
        Kiệu-hoa đã thấy Sơn-tinh chực ngoài.
        Ước sao lại cứ như lời,
        Xe loan trăm cỗ đưa người nghi-gia.
        Cung đàn tiếng địch xa-xa,
        Vui về non Tản, oán ra bể Tần.
        Thủy-tinh lỡ bưởc chậm chân,
        Đùng-đùng nổi giận, đem ân làm thù.
        Mưa tuôn gió thổi mịt-mù,
        Ào-ào rừng nọ, ù-ù núi kia,
        Sơn thần hỏa phép cũng ghê,
        Lưới giăng dòng Nhị, phen che ngàn Đoài.
        Núi cao sông cũng còn dài,
        Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.

        8. Chuyện Chử-Đồng-Tử và Tiên-Dung

        Bổ-di còn chuyện trích-tiên,
        Có người họ Chử ở miền Khoái-châu.
        Ra vào nương-náu hà-châu.
        Phong-trần đã trải mấy thâu cùng người.
        Tiên-dung gặp buổi đi chơi,
        Giỏ đưa Đằng-các, buồm xuôi Nhị-hà,
        Chử-đồng ẩn chốn bình-sa
        Biết đâu gặp-gỡ lại là túc-duyên.
        Thừa-lương nàng mới dừng thuyền,
        Vây màn tắm mát kề liền bên sông.
        Người thục-nữ, kẻ tiên đồng,
        Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa.
        Giận con ra thói mây mưa,
        Hùng-vương truyền lịnh thuyền đưa bắt về.
        Non sông đã trót lời thề,
        Hai người một phút hóa về Bồng-châu,
        Đông-an, Dạ-trạch đâu đâu,
        Khói hương nghi-ngút truyền sau muôn đời.

        9. Hết đời Hồng-Bàng

        Bể dâu biến đổi cơ trời,
        Mà so Hồng-Lạc lâu dài ai hơn?
        Kể vua mười tám đời truyền,
        Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lay.
        Một dòng phụ-đạo xưa nay,
        Trước ngang Đường-đế sau tầy Noãn-vương

        ii. Nhà Thục (258-207 trước TL)

        1. Thần Kim Quy giúp vua Thục

        Thục từ dứt nước Văn-lang
        Đổi tên Âu-lạc, mới sang Loa-thành.
        Phong-khê là đất Vũ-ninh,
        Xây thôi lại lở, công-trình biết bao
        Thục-vương thành-ý khẩn cầu,
        Bỗng đâu giang-sứ hiện vào kim-qui.
        Hóa ra thưa nói cũng kỳ,
        Lại tường cơn-cớ bởi vì yêu tinh.
        Lại hay phù phép cũng linh,
        Vào rừng sát quỉ, đào thành trừ hung.
        Thành xây nửa tháng mà xong.
        Thục-vương cảm tạ tấm lòng hiệu-linh.
        Lại bàn đến sự chiến-tranh,
        Vuốt thiêng để lại tạ-tình quân-vương.
        Dặn sau làm máy Linh-quang,
        Chế ra thần-nỏ, dự phòng việc quân.
        2. Trung quốc đánh Âu-Lạc

        Bấy giờ gặp hội cường-Tần,
        Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam.
        Châu-cơ muốn nặng túi tham,
        Đồ-Thư, Sử-Lộc sai làm hai chi.
        Lĩnh-nam mấy chốn bièn-thùy,
        Quế-lâm, Tượng-quận thu về bản-chương.
        Đặt ra úy, lịnh rõ-ràng,
        Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ-gìn.
        Hai người thống-thuộc đã quen,
        Long-xuyên, Nam-hải đôi bên lấn dần.
        Chia nhau thủy bộ hai quân,
        Tiên-du ruổi ngựa, Đông-tân đỗ thuyền.
        Thục-vương có nỏ thần truyền,
        Muôn quân buông một lượt tên còn gì?
        Nhâm Hiêu mắc bệnh trở về,
        Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hòa.
        Bình giang rạch nửa sơn-hà
        Bắc là Triệu-úy. Nam là Thục-vương.

        3. Trọng-Thủy và Mị-Châu

        Mặt ngoài hai nước phân cương,
        Mà trong Triệu là mượn đường thông-gia,
        Nghĩ rẳng: Nam Bắc một nhà;
        Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.
        Thục cơ tên gọi Mị-Châu
        Gả cho Trọng-Thủy, con đầu Triệu-vương.
        Trăm năm đã tạc đá vàng,
        Ai ngờ thế-tử ra đàng phụ ân.
        Tóc tơ tỏ hết xa gần.
        Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
        Tỉnh-thân giả tiếng Bắc-qui.
        Đinh-ninh dặn hết mọi bề thủy-chung
        Rằng: " Khi đôi nước tranh-hùng,"
        " Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?"
        " Trùng-lai dù họa có ngày,"
        " Nga-mao xin nhận dấu này thấy nhau"
        Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
        Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xa.

        4. Triệu-Đà diệt Thục

        Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
        Về cùng Triệu úy, kéo ra ải Tần,
        An dương cậy có nỏ thần.
        Vi-kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
        Triệu quân ruổi đến tận nơi.
        Máy thiêng đã mất, thế người cũng suy.
        Vội vàng đến lúc lưu-li,
        Còn đem ái-nữ đề-huề sau yên
        Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
        Để cho quân Triệu theo liền bông tinh.
        Kim-qui đâu lại hiện linh;
        Mới hay giặc ở bên mình không xa,
        Bây giờ Thục-chúa tỉnh ra,
        Dứt tình, phó lưỡi Thái-a cho nàng,
        Bể Nam đến bước cùng đường,
        Văn-tê theo ngọn suối vàng cho xuôi.
        Tính ra nước Thục một đời,
        Ở ngôi vừa được năm mươi năm trỏn.
        Nghe thần rồi lại tin con;
        Cơ-mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ai?

        iii. Nhà Triệu (207-111 trước TL)

        1. Triệu Vũ Vương thần phục nhà Hán

        Triệu Vương thay nối ngôi trời,
        Định đô cứ-hiểm đóng ngoài Phiên-ngu .
        Loạn Tần gặp lúc Ngư-Hồ ,
        Trời nam riêng mở dư-đồ một phương.
        Rồng Lưu bay cõi Phiếm-dương ,
        Mới sai Lục-Giả đem sang ấn phù .
        Cõi nam lại cứ phong cho,
        Biên thùy gìn giữ cơ đồ vững an.
        ~Lê-Ngô-Cát - Phạm-Đình-Toái~



        <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.12.2010 01:35:49 bởi Anh Nguyên >
        #4
          Anh Nguyên 17.12.2010 19:26:02 (permalink)


          HOÀNG-PHAN-THÁI

                
          1819-1865

          Quê Cổ-Đan, Nghi-Lộc, Nghệ-An, nổi tiếng thong
          minh từ nhỏ, sống dưới triều Tự-Đức, nhìn xa thời
          cuộc, ý muốn canh tân, đưa nước nhà tới chỗ văn
          minh, tự xưng Đông Hải Đại Tướng, bị triều đình
          cho là đại nghịch và bị giết. Lúc lâm hình ông khẩu
          chiếm 4 câu thơ:

          Ba hồi trống giục thây cha kiếp,

          Một lát gươm đưa đéo mẹ đời!
          Sống làm tướng mạnh ba phương đất.
          Thác xuống thần thiêng bốn phía trời.
          ~Hoàng-Phan-Thái~



          TÙNG-THIỆN-VƯƠNG
                
          1819-1870

          Tức Nguyễn Phúc Miên Thẩm, là con
          thứ 10 của vua Minh Mạng, em vua Thiệu Trị.
          Ông sinh tại cung Thanh Hòa trong cấm thành
          Huế. Xin trích một số bài dịch thơ của ông:



          MẠI TRÚC DAO

          Trong vườn tre tựa núi gò
          Vác ra, tiền chẳng trả cho đồng nào
          Nín thinh thì khổ xiết bao
          Nói ra, roi sẽ vụt vào chú thôi
          Ôi, than ôi!
          Bước chân về nước mắt rơi đầm đìa...
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          KIM HỘ HÁN

          Núi cao, vị nước độc
          Chó sói, cọp rình rập hai bên đường
          Áo rách không che được ống chân
          Mặt vàng, da thịt khô héo
          Chỉ cầu đủ nộp thuế...
          Cay đắng thay thuế thường khó nộp đủ
          Đành chịu làm tàn tật tấm thân hèn...
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          BỘ HỔ TỪ

          Thôn Nam có cọp về nhiễu hại
          Dân làm đơn cáo với quan trên
          Một đàn lính phủ kéo lên...
          Toàn dân gạo rượu để dành lính xơi
          Hôm sau cọp tới lui trong núi
          Dân Bắc thôn đều phải nín thinh
          Cam tâm để cọp hoành hành
          Dẫu người có chết, gia đình còn no...  
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          NAM-ĐỊNH HẢI DẬT

          Vì đâu nước biển tràn lên
          Để dân ven biển chết chìm trên khô
          Muôn nhà, sóng bạc cuốn xô
          Lử ma tan giữa mịt mù khí âm...
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          THU Ý

          Nước ngập sâu nối liền đồng nội
          Mây từng lớp lấp chìm ánh trời ban mai
          Thấy mà buồn cảnh không thể cứu người đang chìm
          Tự tai nghe có tiếng kêu đói
          Nghĩ thế nào đành lòng riêng sống ấm no
          Ngậm mối tình thương, gạt đôi dòng lệ
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          LƯU THÁN

          Làng cũ có ruộng thì bị lụt, bị hạn
          Lúa xanh hoá thành lúa lép khắp đồng
          Người chết bị đẩy ra, lấp chìm trong gai cỏ
          Người sống bò gấp lên, kêu rên với nhau
          Ngẩn lên trời, van trời kêu dân khổ...
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          TỐNG LƯƠNG TỪ

          Quảng Nam giờ đất chiến trường
          Dầm sâu ruộng tốt chẳng còn như xưa...
          Xương khô chồn gậm đứng đầy
          Quạ tha từng khúc ruột bay thành đàn
          Đồng Đông xiết nỗi lầm than
          Kẻ về sau buổi ly hoàn, ai thương?...
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          MẠI CHỈ Y

          Năm kia giặc Tây đánh Quảng Nam
          Quân ta thua trận máu thành đầm
          Cúng tế cầu hồn khắp mọi xứ
          Giá giấy (dùng cùng người chết) đắt gấp ba
          Năm nay dùng binh khắp Nam Bắc
          Muôn đội cấm quân ra đánh giặc
          Đêm qua hịch báo về Cam Tuyền
          Hơn nửa người chết bỏ thây xác...
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          KHIỂN SẦU

          Yết Hồ thực hiện mưu ma
          Các quan tướng soái thiệt là phụ ơn
          Tàu chiền chìm chỉ còn tàn lửa,
          Tiếng oan hồn nức nở sóng trôi...
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          THƯƠNG TÂM

          Lòng đau cầm nước mắt
          Muốn nói chẳng thành lời...         
          Khen Nguỵ Giáng hoà nghị,
          Bàn như vậy rất sai!
          ~Tùng-Thiện-Vương~


          NHẠC PHI

          Nhà vua đã muốn hoà cùng giặc
          Còn thuyết làm chi việc phục thù...


          NHỊ NGUYỆT NHỊ THẬP

          Giữa đất Nam Kỳ, một mồi lửa cháy, gió thổi khói lên cao
          Đốt rụi lầu giặc cùng thuyền giặc...
          Bọn Hồ kêu la gầm trời
          Tám năm mới thật sự thấy đánh dẹp giặc Tây
          Trước ngựa, các phụ lão mang giỏ cơm, bầu rượu ra đón
          Anh hùng sáu trấn dốc hết sức mình...
          ~Tùng-Thiện-Vương~



          TUY-LÝ-VƯƠNG
              1820-1897

          Con thứ 11 vua Minh-Mạng, em Tùng-thiện-Vương,
          thông minh, hiếu học, có khiếu về thơ. Nhân Nguyễn
          Văn Siêu về Bắc. Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương
          tổ chức tiễn đưa trên thuyền ở sông Phân Giang phía
          đông nam Vỹ Dạ và mời Đẩu Nương ở An Cựu xuống
          thuyền gảy đàn Nam Cầm. Đẩu Nương là một thiếu nữ
          tài sắc vẹn toàn. Đàn Nam Cầm là tổng hợp đàn Tranh,
          đàn Sắt, và đàn Tỳ Bà. Tiếng đàn Nam Cầm rất thanh,
          hơn cả đàn Tranh. Chồng nàng mất sớm, sống cuộc đời
          hiu quạnh. Nay vì quá nể Tùng Thiện Vương nên góp
          tiếng lòng mình trong buổi tiễn đưa. Sau khi nghe tiếng
          đàn ai oán, Tuy Lý Vương cảm xúc, ví mình như Bạch
          Cư Dị và về nhà cảm hứng làm bài Nam Cầm Khúc bằng
          chữ Hán ngay đêm ấy. Sau đây là đoạn trích bài dịch bài thơ này: 

          Bốn dây to nhỏ cung sa
          Thoắt như trời đổ một vài giọt mưa
          Lạnh nghe hạc nói năm xưa
          Thảm nghe Thục Đế khóc đưa xuân về
          Muỗng sen giọt nước đầy ve

          Thú vàng lửa đốt khói che hơi trầm
          Gió mai bờ quạnh ve ngâm
          Còn phơi bông trắng, lau dầm màu sương ...
          ~Tuy-Lý-Vương~

          Dịch:

          Dùng dằng nổi tiếng biệt ly
          Sầu riêng chẳng rõ việc gì gì đây?
          Lầu tiên đã lỡ kiếp này
          Cầu Ô để nợ còn chầy về sau
          Trước sau lắm kiếp tình sâu
          Tơ tầm một mốt buộc sầu không lơi
          Lục Triều Tam Sở đổi đời
          Nước non, hoa cỏ xót lời tao nhân
          ~Hồng-Sâm~


          NGHĨ ĐIỀN GIA

          Kê minh bị thần xan,
          Đạo phạn lục hà bao.
          Tàn nguyệt tại trúc phi,
          U khê thụ ảnh giao.
          Hành hành đạp sương lộ,
          Thiên mạch nhuận như cao.
          Đại ngưu thực đạivu,
          Tiểu ngưu ngọa giang cao.
          Thâm điền ký sáp chủng,
          Cao điền tư cát cao.
          Tân cần nhật bất túc,
          Chung lã bất tri lao.
          Hoàn dục tương thử ý,
          Do cập miễn nhi tào.
          ~Tuy-Lý-Vương~

          Tạm dịch:

          Nói về nhà nông

          Gà gáy lo ăn sáng,
          Lá sen đùm nắm trao.
          Trăng tà ngang cửa trúc,
          Ngõ xóm bóng cây giao.
          Bước bước dẫm sương móc,
          Lối mòn như mỡ chao
          Trâu to ăn cỏ bãi
          Trâu nhỏ nẹp bờ ao.
          Mạ cấy dưới đồng trũng,
          Nước chuyền lên ruộng cao.
          Suốt ngày gian khổ thế,
          Già cả nhọc làm sao.
          Nhắn bảo đàn con cháu,
          Điều này chớ lảng xao.


          TÀM PHỤ TỪ
          (Trích)
          ...
          Ninh sử thiếp phúc nội,
          Mạc sử tàm thực khuyết.
          Thiếp nỗi nhất thân khổ,
          Tàm bão bát khẩu hoạt.
          Ty thành vị thượng trữ,
          An đắc thành quyên thất?
          Môn tiền lý chính lai,
          Thôi tô khi hà liệt.
          Chỉ nguyện cung quan thuế,
          Lam lũ bất túc thuyết...
          Tuy-Lý-Vương~

          Dịch:

          Lời người đàn bà nuôi tằm

          “Thà bụng em chịu đói,
          Chứ không để tằm ăn không no.
          Em đói, chỉ khổ một mình em,
          Nhưng tằm no thì nuôi sống cả nhà tám miệng ăn”
          Tơ ươm chưa lên khung cửi,
          Thì làm sao thành tấm lụa được?
          Thế mà ngoài cửa lý dịch đã đến,
          Thôi thúc nạp thuế mau.
          Chỉ muốn nộp đủ thuế cho quan,
          Áo quần lam lũ không kể...


          THU VỌNG

          Hồi thủ Nam châu kết trận vân
          Vị Ương tiền điện vũ thư văn.
          Ba Xuyên thành bắc nhân yên đoạn,
          Nông Nại giang đầu chiến lũy phân.

          Dịch:

          Miền Nam quay ngó thấy mây đùn
          Cung khuyết tin thư đến dặm dồn.
          Bắc đất Ba Xuyên người vắng bóng,
          Đầu sông Nông Nại lũy ken đồn.


          TUẾ MỘ
              
          Bắc vọng lư diêm không trữ trục
          Nam lai bích lũy thượng can qua.
          Cổn y nhục thực chung vô bổ,
          Quí nhĩ xan anh đái nữ la.
          ~Tuy-Lý-Vương~

          Dịch:

          Cuối năm

          Xóm làng cõi Bắc trơ khung cửi
          Đồn lũy miền Nam rộn lửa binh.
          Áo gấm thịt quay nào bổ ích,
          Thẹn phường tu luyện phép trường sinh.


          XUÂN THÀNH KHÚC

          Liễu ám hoa minh xứ xứ lâu
          Phiên phiên vũ yến hiểu phong nhu.
          Thiến sam nhân ỷ châu lan khúc,
          Mang sát Vương tôn tử mạch sầu.
          ~Tuy-Lý-Vương~

          Dịch:

          Bên lầu liễu thắm với hoa tươi
          Én múa quanh quanh gió sớm lơi.
          Áo đỏ bên hiên ai tựa đứng?
          Vương tôn đường tía dạ bời bời.


          CHU TRUNG MẠN HỨNG

          Tàn xuân thảo bích duyên đê hợp
          Cách ngạn vân đê độ thủy trì.
          Sơn tự chung xao quy điểu tận,
          Cô yên khởi xứ nhận tiều xuy.
          ~Tuy-Lý-Vương~

          Dịch:

          Xuân tàn cỏ biếc ven đê phủ
          Mây tỏa bên bờ nước lặng trôi.
          Chùa núi chuông đưa, chim vắng bóng,
          Tiều đâu khói bếp bốc bên đồi.


          ĐỀ HỌA MAI

          Hương phong xuy cổ bích
          Lão ốc ám sinh xuân.
          Họa bút tri tiền đại,
          Thanh tài quýnh tuyệt trần.
          Không sơn cao cách điệu,
          Lưu thủy đạm tinh thần.
          Chính ức Giang Nam tín,
          Phong đề dục ký nhân.
          ~Tuy-Lý-Vương~

          Dịch:

          Gió thơm vờn vách cổ
          Nhà cũ thắm xuân tươi.
          Nét bút đâu đời trước,
          Tài hoa thật tót vời.
          Tinh thần làn nước lặng,
          Cách điệu đỉnh non phơi.
          Tin tức Giang Nam nhớ,
          Đề thư muốn gửi người.


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2010 08:51:37 bởi Anh Nguyên >
          #5
            Anh Nguyên 20.12.2010 09:33:35 (permalink)


            CÔNG CHÚA LIỄU-HẠNH


            Theo truyền thuyết, vào năm Thiên Hựu đời Hậu Lê
            (1557), ở thôn An Thái, làng Vân Cát, huyện Vụ Bản,
            tỉnh Nam Định, có phu nhân Lê Thái Công sinh được
            một bé gái mà theo giấc mơ của Tái công thì đây chính
            là công chúa đã lỡ tay làm rơi chén ngọc và bị
            Ngọc Hoàng đày xuống trần gian...


            THU TỪ

            Thủy diện phù lam, sơn tước ngọc,
            Kim phong tiểu tiễn, khao hàn trúc.
            Lư hoa vạn lý bạch y y,
            Thụ sắc hương ngưng, hồng nhiễm lục.
            Oanh vũ thiềm cung nga phi ttúc,
            Dạo hài độc bộ thu hoài súc.
            Bất như kinh lai ly hạ cúc,
            Hoa hương nhàn tọa đàn nhất khúc.
            ~Liễu-Hạnh Công Chúa~

            Dịch:

            Từ khúc mùa Thu

            Núi như mgọc, nước xanh xanh
            Gió vàng hiu hắt khua cành trúc thưa
            Hoa lau muôn dặm trắng phơ
            Hồng sen điểm lục, sương mờ cỏ cây
            Cung Hằng oanh múa lượn bay
            Thềm hoa dạo bước gót hài thu sang
            Thú sao bên khóm trúc vàng
            Ngón tiên nhẹ lướt cung đàn ngắm hoa.
            ~Trần-Nhất~Lang~



            NGUYỄN-ĐÌNH-CHIỂU

            CHẠY GIẶC

            Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
            Một bàn cờ thế phút sa tay
            Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
            Mất ổ bầy chim dáo dác bay
            Bến Nghé của tiền tan bọt nước
            Ưồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây
            Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng?
            Nỡ để dân đen mắc nạn này!
            ~Nguyễn-Đình-Chiểu~


            VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

            Hỡi ơi !
            Súng giặc đất rền,
            Lòng dân trời tỏ.
            Mười năm công vỡ ruộng, xưa ắt còn danh nổi như phao,
            Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.

            Nhớ linh xưa
            Côi cút làm ăn,
            Riêng lo nghèo khổ,
            Chưa quen cung ngựa đưa tới trường nhung
            Chỉ biết ruộng trâu ở theo làng hộ;
            Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn làm quen;
            Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
            Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như nắng hạn trông mưa.
            Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
            Đêm thấy bòng bong che trắng lớp, những muốn ăn gan;
            Ngày xem ống khói chạy đen xì, toan ra cắn cổ.
            Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hưu;
            Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
            Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.
            Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

            Khá thương thay

            Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo giòng ở lính diễn binh;
            Chẳng qua là dân ấp, dân làng, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
            Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
            Chín chục trận binh thư, không chờ bài bố.
            Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bao ngòi,
            Trong tay dùng một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỗ.
            Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
            Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém đặng đầu quan hai nọ
            Chi nhọc quan Quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không.
            Mặc kệ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
            Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mả tà, mả ái hồn kinh.
            Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
            Những lăm lòng nghĩa sau dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ.
            Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
            Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mộ
            Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
            Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm.
            Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.

            Nhưng nghĩ rằng

            Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta
            Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó?
            Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương?
            Vì ai xui hào lũy tan hoang, xiêu mưa ngà gió?
            Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc nghĩ lại thêm buồn;
            Sống làm chi ở lính mả tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
            Thà thác mà đặng câu dịch khái, về sau tổ phụ cũng vinh,
            Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

            Ôi thôi thôi

            Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
            Đồn Tây Dương một khắc đặng rửa hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
            Đau đớn mấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều,
            Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế vật vờ trước ngõ.

            Ôi!

            Một trận khói tan,
            Nghìn năm tiết rỡ.
            Binh tướng nó hày đóng sông Bến Nghé, còn làm cho bốn phía mây đen.
            Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
            Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh cũng đều khen;
            Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ

            Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh muôn kiếp nguyện được trả thù kia
            Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành một chữ ấm đủ đền công đó.
            Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên dân.
            Cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.

            Hỡi ơi!
            Có linh xin hưởng.
            ~Nguyễn-Đình-Chiểu~


            CÔNG CHÚA MAI-AM
                      
            1826-1904

            Tên thật Nguyễn-Phúc-Trinh-Thận, con
            gái thứ 25 vua Minh-Mạng.


            ỨC MAI

            Lâm đường tạc dạ sóc phong xuy,
            Tiểu các thanh hàn độc toạ trì.
            Địch lí quan san sầu cựu khúc,
            Thuỷ biên li lạc nhận tiền kì.
            Hương nam tuyết bắc vô hương cấn,
            Nguyệt địa vân giai hữu mộng tư.
            Dục hả tân từ viễn tương tặng,
            Mỹ nhân uyển tại thuỷ chi mi.
            ~Công chúa Mai-Am~

            Dịch:

            Nhớ mai

            Đêm nao gió bấc lướt qua hồ
            Gác phấn canh khuya quạnh bóng mờ
            Tiếng địch ngàn trùng, buồn khúc cũ
            Cành mai ngày trươc tựa rào thưa.
            Hương nam tuyết bắc đôi phương biệt
            Trăng giải mây thang một nỗi chờ
            Thơ mới trời xa mong gửi tặng
            Mỹ nhân cạnh nước hẳn như xưa.
            ~Thanh-Vân~



            #6
              Anh Nguyên 21.12.2010 09:59:51 (permalink)



              VUA TỰ-ĐỨC
                 
              (1829-1883)
               
              KHÓC BẰNG PHI

              Ới Thị Bằng ơi! Đã mất rồi,
              Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ơi!
              Mưa hè nắng chái oanh ăn nói,
              Sớm ngõ trưa sân liễu đứng ngồị
              Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
              Xếp tàn y để nhớ mùi hơị
              Mối tình muốn dứt càng thêm bận,
              Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôị.
              ~Vua-Tự-Đức



              BÙI-DỊ

              Tức Bùi-Văn-Dị đời vua Tự-Đức, quê Châu-
              Cầu, Kim-Bảng, Hà-Nam, đỗ Phó bảng,làm
              quan đến bậc Đại-Thần, sang sứ nhà Thanh,
              văn chương được danh sĩ TQ tán thưởng
              truyền tụng.


              Hà Bắc thủy thang thang,
              Đông phong tảo chiến trường
              Tiên thanh hàn tặc lỗ,
              Sát khí bạc khung thương.
              Hận bất thừa kì hậu,
              Thủy vận mạc khả tương?
              Xuất sư kinh phất tái,
              Lưỡng thí diệc sai cường.
              ~Bùi-Dị~

              Bản dịch:

              Bên bờ Bắc nước sông cuồn cuộn
              Trận gió đông, bụi cuốn sa trường
              Tiếng vang lũ giặc kinh hoàng,
              Ngút trời sát khí đằng đằng bốc cao.
              Giận chẳng được lao vào chặn hậu.
              Lũ giặc kia ai bảo khôn ngăn?
              Một năm vừa mới ra quân,
              Hai lần đọ sức hai lần giỏi giang.
               


              HỒ-HUÂN-NGHIÊP
                       
              1829-1864

              Quê An-Định, Bình-Dương, Gia-Định, nổi tiếng
              Thơ văn, tham gia cuộc kháng chiến của Trương-
              Định, làm Tri phủ Tân-Bình, điều đông binh sĩ và
              tiếp tế lương thực cho nghĩa quân, bị Pháp bắt và
              giết mới 36 tuổi. Ông để lại bài thơ tuyệt mạng:

              Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi,
              Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi.
              Thử thân sinh tử hà tu luận,
              Duy luyến cao đường bạch huyết thùy.

              Bản dịch:

              Thấy nghĩa không làm dũng để chi,
              Hiếu trung là phận của nam nhi
              Tử sinh sá kể thân này đã,
              Riêng nhớ nhà huyên nỗi tuyết ti”.



              TÚ-QUÝ
              1828-1926

              Tức Huỳnh-Quỳ, quê giảng-Hòa, Đại-Lộc,
              Quảng-Nam, đậu Tú Tài 19 tuổi, từ quan, suốt
              đời lãng du, dạy học và sáng tác đủ loại thể văn
              nhất là thơ phúng thích.


              VỊNH HÁT BỘI

              “Nhỏ mà không học, lớn làm ngang
              Trống đánh ba hồi đã thấy quan.
              Ra rạp, ngồi trên ba đứa hiệu,
              Vô buồng, đứng dưới mấy ông làng.
              Còn màu son phấn: ông kia nọ,
              Cởi lốt cân đai: chú điếm đàng.
              Tuy chẳng vinh chi, nhưng cũng sướng,
              Đã từng trợn mắt, lại phùng mang”.
              ~Tú-Quý~


              NƯỚC LỤT

              “Mưa từng chặp, gió từng hồi,
              Ngoảnh lại giang san ngập cả rồi!
              Lũ kiến bất tài đeo ngọn cỏ,
              Chòm rêu vô lực đóng bèo trôi.
              Linh lang vườn rộng nghe chim hót,
              Lỏng khỏng giường cao thấy chó ngồi.
              Thương bấy hạ dân sao xiết kể,
              Nào ông Hạ, Vũ ở đâu rồi!...
              ~Tú-Quý~


              #7
                Anh Nguyên 23.12.2010 09:27:09 (permalink)


                ÔNG-ÍCH-KHIÊM

                       
                1829-1884

                Quê Phong-Lệ, Hòa-Thọ, Hòa-Vang, Quảng-Nam,
                đỗ Cử-Nhân, làm việc tại Nội Các, Tri huyện Kim-
                Thành, Hải-Dương, dẹp tan giặc cướp ở Cao-Bằng,
                thăng chức Tham tri bộ Binh, ông Tường và Thuyết
                thán phục nhưng ghen ghét thầm, tìm cách hại ông,
                khi bị cách chức đưa đi an trí tại Bình-Thuận, ông
                uống thuốc độc tự tử, mới 55 tuổi, trên đường đi,
                ông ứng khẩu bài thơ:


                Mình ốc mang rêu rửa sạch ai?
                Quen thói rung cây nhát khỉ hoài!
                Mèo quào phên đất chi khờn sức,
                Sứa nhảy qua đăng mới gọi tài!
                Khó nỗi đem tơ ràng vô ngựa.
                Dễ đâu lấy thúng úp mình voi!
                Truông qua chưa khỏi đừng khinh khái (cọp),
                Chim sẩy lồng ra để đó coi!
                ~Ông-Ích-Khiêm~



                THỦ-KHOA HUÂN
                       
                1830-1875

                Tức Nguyễn Hữu Huân được ghi nhận là “một
                hiện tượng đặc sắc của văn học yêu nước thế kỷ
                19 của Việt Nam: hiện tượng nhà thơ - chiến sĩ.
                Bài thơ chữ Hán dưới đây, ông làm trước khi bị
                chém, nay được tạc nơi bia mộ ông. Sau đây là
                bản dịch của Phan Bội Châu:


                Ruổi dong vó ngựa trả thù chung
                Binh bại cho nên mạng phải cùng.
                Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ,
                Hơn thua xá kể với anh hùng.
                Nổi xung mất vía quân Hồ lỗ.
                Quyết thác không hàng, rạng núi sông.
                Tho thủy ngày rày pha máu đỏ,
                Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong.

                (Quân Hồ lỗ ý nói quân mọi rợ, ám chỉ giặc
                ngoại xâm. Tho thủy: Sông Mỹ Tho. Đảo Rồng:
                là nơi Thủ Khoa Huân bị chết chém)


                Hai bên thiên hạ thấy hay không?
                Một gánh cương thường, há phải gông.
                Oằn oại hai vai quân tử trúc,
                Long lay một cổ trượng phu tòng.
                Sống về đất Bắc, danh còn rạng
                Thác ở thành Nam, tiếng bỏ không
                Thắng bại, doanh thâu trời khiến chịu
                Phản thần,“đéo ỏa” đứa cười ông!

                (Đéo ỏa: tiếng chửi ở miền Nam, sách ''Nguyễn
                Hữu Huân'' của NXB Trẻ ghi: ''mẹ'')

                Bài thơ ông làm nghe tin vợ dám đi kiện quan
                đầu tỉnh An Giang, và đòi Pháp thả chồng:

                Xem qua thư gửi rất kinh hoàng
                Nhi nữ chà chà cũng lớn gan
                Đơn bẩm cuối lòn loài bạch quỷ,
                Sân quỳ vất vả phận hồng nhan
                Bán mình đâu nệ phiền lòng sắt,
                Chuộc tội thà xin trọn nghĩa vàng
                Tiết khí dưới trần coi ít mặt,
                Cang thường càng chuộng gánh giang san.

                Ông làm trước khi bị đày ra đảo Cayenne
                ở Nam Mỹ:


                Muôn việc cho hay số bởi trời
                Chiếc thân chìm nổi biết bao nơi
                Mấy hồi tên đạn ra tay thử,
                Ngàn dặm non sông dạo gót chơi.
                Chén rượu Tân đình nào luận tiệc
                Vần thơ cố quốc chẳng ra lời.
                Cương thường bởi biết mang nên nặng,
                Hễ đứng làm trai trả nợ đời.

                Nhân nhà Tổng đốc Phương có tiệc, ông
                làm bài này để đọc cho mọi người nghe:

                Nghĩ thẹn râu mày với nước non
                Nhìn nay tùng, cúc bạn xưa còn.
                Miếu đường cách trở niềm tôi chúa,
                Gia thất riêng buồn nỗi vợ con.
                Áo Hán nhiều phen thay vẻ lạ,
                Rượu Hồ một mặt đắm mùi ngon
                Giang Đông nổi tiếng nhiều tay giỏi,
                Cuốn đất kìa ai, dám hỏi đon!

                Qua hình ảnh “cây bắp”, để tỏ bày tấm
                lòng cùng khát vọng của ông:


                Luống chịu ba trăng trấn cõi bờ,
                Hiềm vì thương chút chúng dân thơ.
                Nương oai tích lịch ôm con đỏ,
                Vâng lịnh nam phong phất ngọn cờ.
                Miễn đặng an nhà cùng lợi nước
                Chỉ nài dãi gió với dầm mưa.
                Biển hồ dầu lặng, tằm kình bặt
                Giải giáp một phen chúng thảy nhờ.
                ~Nguyễn-Hữu-Huân~


                #8
                  Anh Nguyên 23.12.2010 09:44:39 (permalink)


                  NGUYỄN-KHUYẾN

                         
                  (1835-1909)

                  Quê ngoại Văn-Khế, Hoàng-Xá, Ý-Yên,
                  Nam-Định. Quê nội làng Và, Yên-Đổ,
                  Bình-Lục, Nam-Hà.


                  THU ĐIẾU*

                  Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
                  Một chiếc thuyền con bé tẻo teo.
                  Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
                  Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
                  Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
                  Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
                  Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
                  Cá đâu đớp động dưới chân bèo...
                  ~Nguyễn-Khuyến~


                  BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ

                  Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
                  Trẻ thì đi vắng, chợ thời xa.
                  Ao sâu, sóng cả, khôn chài cá,
                  Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
                  Cải chửa ra hoa, cà chửa nụ,
                  Bàu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
                  Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
                  Bác đến chơi đây, ta với ta.
                  ~Nguyễn-Khuyến~


                  KHÓC BẠN

                  Bác Dương thôi đã thôi rồi,
                  Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

                  Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
                  Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.
                  Kính yêu từ trước đến sau:
                  Trong khi gặp gỡ, khác đâu duyên trời.

                  Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
                  Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo.
                  Có khì từng gác cheo leo,
                  Khúc vui con hát lựa chiều cầm xoang.

                  Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
                  Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
                  Có khi bàn soạn câu văn,
                  Biết bao đông bích điển phần trước sau.

                  Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
                  Miếng đảu thăng chẳng dám than trời.
                  Tôi già, bác cũng già rồi:
                  Biết thôi, thôi thế thời thôi mới là.

                  Đường đi lại, tuổi già thêm nhác,
                  Trước ba năm gặp bác một lần.
                  Cầm tay hỏi hết xa gần,
                  Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.

                  Tuổi tôi kể còn hơn tuổi bác,
                  Tôi lại đau trước bác mấy ngày.
                  Làm sao bác vội về ngay,
                  Chợt nghe tôi những chân tay rụng rời!

                  Ai chẳng biết chán đời là phải,
                  Vội vàng chi đã mải lên tiên.
                  Rượu ngon không có bạn hiền,
                  Không mua không phải không tiền không mua.

                  Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
                  Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
                  Giường kia treo những hững hờ,
                  Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn!

                  Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,
                  Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương.
                  Tuổi già hạt lệ như sương,
                  Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
                  ~Nguyễn-Khuyến~


                  VĂN TẾ NGẠC-NHI

                  Than ôi!

                  Một phút sa cơ
                  Ra người thiên cổ

                  Nhớ ông xưa:

                  Cái mắt ông xanh,
                  Cái da ông đỏ,
                  Cái tóc ông quăn,
                  Cái mũi ông lõ,
                  Đít ông cưỡi lừa
                  Miệng ông huýt chó.
                  Lưng ông đeo súng lục liên,
                  Chân ông đi giầy có mỏ.
                  Ông ở bên Tây,
                  Ông sang đô hộ.
                  Đánh giặc Cờ Đen,
                  Để yên con đỏ.

                  Nào ngờ:

                  Nó bắt được ông,
                  Nó chặt mất sỏ.
                  Cái đầu ông đây
                  Cái mình ông đó.
                  Khốn nạn thân ông,
                  Đù cha mẹ nó!

                  Tôi :

                  Vâng lệnh quan trên,
                  Cúng ông một cỗ,
                  Này chuối một buồng
                  Này rượu một hũ,
                  Này xôi một mâm,
                  Này trứng một rổ,
                  Ông có linh thiêng,
                  Mời ông xơi hộ,
                  ăn uống no say,
                  Nằm yên một chỗ.
                  ối ông Ngạc Nhi ôi!
                  Nói càng thêm khổ.
                  ~Nguyễn-Khuyến~



                  DƯƠNG-KHUÊ
                      (1839-1902)

                  Quê Vân-Đình, Sơn-Lãng, Ứng-Hòa, Hà-Đông
                  đậu cử nhân ngoài 20 tuổi, tiến sĩ 29 tuổi, tri phủ
                  Bình-Giang, Hải-Dương, Án sát Hải-Phòng, đốc
                  học Nam-Định, rồ Tổng đốc Nam-Định và Ninh-
                  Bình.


                  GẶP NGƯỜI CŨ

                  Hốt ức lục thất niên tiền sự(1)
                  Nợ phong lưu chưa trả hương nguyền
                  Ưến bây giờ gặp lại người quen
                  Nỗi lưu lạc, sự ghét ghen là thế thế
                  Thiếp tự thân khinh lang vị khí(2)
                  Thần tuy trọng tội đế do liên(3)
                  Can chi mà tủi phận hờn duyên
                  Ưể son phấn đàn em sau khúc khích
                  Ý trung nhân chí khả tình tương bạch(4)
                  Thôi bút nghiên, sênh phách cũng đều sai
                  Trông nhau nói nói cười cười.
                  ~Dương-Khuê~

                  1-Chợt nhớ chuyện sáu bảy năm trước
                  2-Thân em dù khinh chàng chưa nỡ bỏ
                  3-Tội thần tuy nặng vua vẫn còn thương
                  4-Với người thương, tình thực có thể bày tỏ



                  GẶP CÔ ĐẦU CŨ

                  Hồng, Hồng, Tuyết, Tuyết
                  Mới ngày nào còn chửa biết chi chi
                  Mười lăm năm thấm thoát có xa gì !
                  Chợt ngoảnh lại, đã đến kỳ tơ liễụ
                  Ngã lãng du thời khanh thượng thiếu;
                  Khanh kim hứa giá, ngã thành ông (1)

                  Cười cười nói nói thẹn thùng,
                  Mà bách phát (2) với hồng nhan chừng ái ngại
                  Riêng một thú Thanh Sơn (3) đi lại,
                  Khéo ngây ngây dại dại với tình,
                  Đàn ai một khúc dương tranh ?
                  ~Dương-Khuê~


                  (1) Khi ta còn là một thanh niên lãng tử đi chơi khắp
                  mọi nơi thì em cưng còn bé. Đến nay, em cưng lớn lên,
                  vừa tuổi lấy chồng thì ta đã thành ông già rồi (lời chú
                  thích của Lam Giang)
                  (2) Bạch phát: tóc bạc trắng
                  (3) Thanh Sơn thuộc huyện Sơn Lãng, nay thuộc tỉnh
                  phủ Thoanh Oai, tỉnh Hà Đông, quê của tác giả.


                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.12.2010 07:23:23 bởi Anh Nguyên >
                  #9
                    Anh Nguyên 27.12.2010 07:34:20 (permalink)


                    PHẠM NHƯ-XƯƠNG

                              1844-1883

                    Sống dưới thời Tự-Đức, quê Ngân-Thanh (Ngân-Câu),
                    Thanh-Quýt, Duyên-Phúc (Điện-Bàn), Quảng-Nam,
                    đậu Cử-Nhân, Bố-Chánh Phú-Yên, tham gia chống Pháp,
                    bị cách chức, Tri-Phủ Anh-Sơn, xin từ chức về quê ở ẩn,
                    tác giả nhiều thơ văn nhưng đã bị thất lạc.


                    HỊCH CẦN VƯƠNG
                       (Ở Quảng Nam)

                    Tưởng thuở thái bình tại võ, bề khuông tương để mặc khách thiên chung.
                    Đến nay di địch loạn Ba, lòng tiết ngãi phải xướng bài lục quán.
                    Nhà hầu ngã con còn biết chống, nỡ để cha chờ kẻ Tôn, Ngô.
                    Nước đương loàn tôi phải toan ngăn, dễ phiên chúa nhờ người Pha, Mục.
                    Xưa cũng có Hồ nhi kiệt ngạo.
                    Đời lại sanh quân tử kinh luân.
                    Lỗ Trọng Liên ngãi bất đế Tờn, phận nho giả mà lòng lo võ trụ.
                    Văn thừa tướng trung phò chúa Tống, bước lưu li mà vai gánh cang thường.
                    Người còn hay tòng bá lúc hàn đông.
                    Ta há để chiên cứu khi khốc hạ.
                    Trước đã có ba ngàn hùm lạy, giúp rồng bay còn để sói lang.
                    Nay lại thêm hai cõi tằm ăn, đoái nhạn trạch đành dời dấu thỏ.
                    Câu “Kiến ngãi bất vi vô dõng”
                    Chữ “tội nhơn giai đắc nhi tru”.
                    Giận Tây di đem thói cừu Châu.
                    Ghét Tả đạo bày mưu trợ Kiệt.
                    Vả Tả đạo cưu nhờ tổ thước, ơn chưa đền chấu lại chống xe.
                    Mà Tây di cáo giả oai hùm, lớn chi lắm rắn toan nuốt tượng.
                    Nhà Chung đạo làm cùng cả nước, khuyển phệ Nghiêu không sợ phép Cao Dao.
                    Đất Nam trào chiếm khắp hai phương, Miêu nghịch Thuấn chẳng kinh sư Bá Võ.
                    Trước đã tuốt gươm thiêng hỏi tội, ai cũng mầng Hoàng đế chinh Vưu.
                    Sau lại đem ngọc bạch cầu hoà, người tưởng có Bạch thư thoái lỗ.
                    Hay đâu ngự nhung vô thượng sách.
                    Còn chưa thanh trọc loạn trung ba.
                    Vì liên miên cõi Bắc can qua, trên chúa quyết hoà Ngô đánh Ngụy.
                    Nên thử thứ chinh Tây thoái lữ, dưới tôi đành phạt Quắc giả Ngư.
                    Phụng thế ngô chi sá lũ muông Tây, mà nỡ để Đồng Nai làm U, Kế?
                    Rồng hưng Bái há sợ loài khỉ Sở, mà đành nơi Bình Thuận hạn Hồng Câu.
                    Chẳng qua là thánh trí chi tư, chước đã liệu Thiền Vu phụ Hớn.
                    Nên tạm kết côn di chi hảo, dạ nào quên Câu Tiễn thù Ngô.
                    Liều sáu tỉnh cho Võ Quan trung, ấy là chước lấy đầu Cai Hạ;
                    Dong một cõi để Tờn Hàm Cốc, ấy là mưu cột cổ đạo bàng.
                    Gẫm cửu trùng toán lượng đã cao;
                    Nhưng trăm họ lòng còn hãy tủi!
                    Tủi là tủi cơ nghiệp thần tôn thánh tổ, lúc trung hưng, khi sáng nghiệp, xưa gian truân mới có cõi bờ này;
                    Thương là thương dân nơi xích huyện thần châu, đạo đã lấn, mọi lại giành, cương luân hãm đâu còn trời đất cũ:
                    Trong Nam cảnh trông tin điếu phạt, mười sáu năm bức tức, ôm tấm lòng Tô Võ chăn dê;
                    Ngoài Bắc thành gặp lúc nhiễu nhương, mười ba tỉnh bồi hồi, toan những dạ Dương Hương đánh cọp:
                    Vả sức cọp trăm người khó địch, phận hiếu nhi còn xá nhứt sanh;
                    Huống đánh Tây tám cõi đều ưng, lòng ngãi sĩ chi từ vạn tử.
                    Người trong nước phải đền nợ nước, lựa là đợi ngàn chung muôn tứ, mới đành lòng Trương tử trả ơn Hàn;
                    Phận dưới trời thời giúp con trời, lựa là nhờ tấc đất ngọn rau, mới đẹp dạ thơ sanh đền ngãi Hớn.
                    Miễn cho đặng giang sơn y cựu, ngõ nhà vàng thong thả bức xiêm Nghiêu;
                    Bằng để cho di tịch tung hoành, khiến con đỏ nhộn nhàng trong cõi Thuấn.
                    Nghĩ từ hoàng thượng lên ngôi nhĩn lại, thuế cũng tha, khoa cũng mở, rưới hồng ơn đã khắp dưới lê dân;
                    Nghĩ dân ta từ Tây lại đến nay, nơi thời khổ, chốn thời nghèo, vì quốc vận dám trách trên lượng thánh.
                    Trách những kẻ toan lòng mại quốc, xui mã tà, ma ní, loạn mấy năm túng tượng một ngà;
                    Giận những người bày mối giả danh, dối rằng Lý, rằng Lê, báo thiên hạ ngỡ rồng năm vẻ.
                    Tội đáng đánh miếu đường đâu có bỏ;
                    Lẽ không dong, thảo dã quyết nào tha!
                    Nghe Nam dân lòng trung ngãi đỏ như son, tả đản vì Lưu, thề chẳng để Cần Giờ còn Phú lãng;
                    Mầng Bắc hạt dạ văn thân cương quá sắt, đầu tiên phá Lỗ, quyết không dong Kẻ Chợ có Ba Lan!
                    Hai phương trời đã ban gươm;
                    Một mối đất chưa dậy sấm.
                    Hay là tưởng ngọc lành đợi giá, làm tiên sanh bảo đạo mà tự cao;
                    Hay là toan trí giả thiện tàng, để đầu dược thành công khi bệnh dũ.
                    Hay là nghĩ ngôi chẳng ở, việc nhương di chi đến phận thảo lai?
                    Hay là rằng vua đã trị, đường kinh quốc để mặc nơi lang miếu?
                    Nếu như vậy thu hương xuân hội, lòng trạng ngươn còn quyết làm chi;
                    Gặp lúc nay Tây nhiễu Bắc nhương, tai Sào Phủ đành toan rửa sạch!
                    Như búa sắt chờ nơi thác tiết;
                    Gẫm lòng son chi sá ngãi thanh!
                    Vả nước nhà nuôi sĩ lâu năm, cốt là để nhờ nhau khi túng thế;
                    Huống mưa móc gội nhuần lắm kỉ, tua ra mà vẹt màn khí ấm tan.
                    Trước là đền nợ nước nga quan, cho trên biết đầu đen mà dạ đỏ;
                    Sau cho khỏi phận mình tả nhẫm, đặng mũi ghê mặt trắng mà gan vàng.
                    Sá chi bề thân phận mất còn;
                    Lo vì nỗi văn chương u ám.
                    Kẻo để Tây di đắc chánh, thời ngũ kinh chi khỏi lửa Tờn;
                    Bằng cho Tả đạo trưởng dân, ắt thập ác lại treo cửa Khổng!
                    Nghĩ mấy lúc đính lời hương hỏa, mà hai phương khói lửa còn hừng;
                    Bằng đến nay bác việc can qua, e thất nhựt Bạch đăng chi khỏi?
                    Miệng cọp phun độc, khoe rân binh giáo Chúa Trời;
                    Cáo giả tăm hơi, ó lác quân reo khắp tỉnh.
                    Kẻo để vậy tất sanh hậu hoạn;
                    Chi cho bằng tảo xướng tiên thanh.
                    Dẫu thời quai sau Tống có Kim, cũng ra sức Nhạc Phi bắc thượng;
                    Mà thế lỡ rốt Đường loạn Xích, dễ nhường ai Nhơn Quí tây chinh?
                    Chớ đổ cho vị tận nhơn mưu;
                    Mà ngồi đợi tất nhiên thiên số.
                    Thức thời vụ tại nơi tuấn kiệt, đừng sợ Tây mà hổ với Bắc phương cường.
                    Hãi nhơn tâm vì kể tiểu nhơn, chớ sợ đạo mà hư danh Nam khái tráng.
                    Nó dầu có tàu đồng neo cứng;
                    Ta há không lòng sắt dạ đanh!
                    Vả nước nhà ngàn bạn ngãi dân, Bắc xướng Nam tùy, hiếm chi chước “thiên quân yểm noãn”;
                    Kìa vương thổ đủ tài tuấn kiệt, Đông giương Tây kích, thiếu chi mưu “tuấn bổn tẩu hườn”!
                    Nó dầu khoe Tờn phú Hạng cường, câu “nghịch đức giả vong”, lẽ không thoát lưới trời trong Nam Việt;
                    Ta cũng có Châu nhơn Hớn ngãi, chữ “đắc dân vi bổn”, sợ chi đành cắt đất nhượng Tây di?
                    Lòng dân nghe trời nọ cũng nghe;
                    Dạ ta quyết ai mà chẳng quyết?
                    Việc binh cách dầu mà có thác, thác thời theo Trương, Hàn, Lưu, Nhạc cũng thơm danh;
                    Hàng Tây di may lại đặng toàn, toàn cũng lũ Lăng, Luật, Dự, Xương còn nhơ tiết.
                    Khuyên các liệt thân, biển, sắc, mục, liệu hà mưu cho Tề có Di Ngô;
                    Khuyên các trang hào kiệt anh hùng, liệu hà kế cho Lỗ nhiều quân tử.
                    Khuyên những kẻ sống còn nợ Hớn, ra mà chinh Mạnh Hoạch lúc thất cầm;
                    Khuyên những người thác vẫn theo Châu, linh thời độ Thương dân khi bát đảo.
                    Khuyên những kẻ hung tàng binh giáp, ra mà ngăn sức ngựa lúc bon chưn;
                    Khuyên những người phúc uẩn kinh luân, ra mà giúp cuộc cờ khi túng nước.
                    Binh thời chốn làng đông xã cả, một kẻ theo ngàn kẻ đều theo;
                    Lương thời nơi phú hộ đại điền, một người nghĩ muôn người cũng nghĩ.
                    Oai trời đã dậy, nỏ phát ngàn cân;
                    Ngãi thanh đã xướng, đá vàng trăm luyện.
                    Ai không tảo ứng, đã sẵn câu “sài lang nghịch đạo khởi dong từ”.
                    Ai chẳng thuận lai, thời có chữ “bửu giám tạo hình nan ẩn phát”.
                    Trên dẫu có nghiêm trừng phép nước, dễ mà đem ngọc lụa đổi can qua;
                    Dưới cũng nguyền sống thác cùng vua, quyết một dạ đá vàng thâu thổ võ!
                    ~Phạm-Như-Xương~

                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2010 06:43:22 bởi Anh Nguyên >
                    #10
                      Anh Nguyên 30.12.2010 09:08:04 (permalink)



                      NGUYỄN-DUY-HIỆU

                                    1847-1887

                      Quê Thanh-Hà, Duyên-Phúc, Quảng-Nam, đậu Cử-
                      Nhân, Phó Bảng, Pháp xâm lược, từ quan, hưởng
                      ứng phong trào Cần Vương, lập nghĩa hội chuẩn bị
                      kháng chiến, bịi giết năm 40 tuổi, lúc lâm hình có
                      bài thơ tỏ ý chí:
                       
                      Tây nam vô địch xích đồng tri.
                      Tảo cập kim thời thế khả vi.
                      Nhược sử gian phong vô áo điện,
                      Hà nan trung đính thát cường di.
                      Hàn sơn kỉ đắc cô tùng cán,
                      Đại hạ yên năng nhất mộc chi.
                      Hảo bả đan tâm triều liệt thánh,
                      Trung thu minh nguyệt bạn ngô qui
                      ~Nguyễn-Duy-Hiệu~
                       
                      Bản dịch:
                       
                      Vô địch Tây Nam biết đã thừa,
                      Thời cơ như thế lẽ ngồi trơ.
                      Dáo như không trở tay giàn kín,
                      Giặc khó gì hơn gộp lưỡi bừa.
                      Núi lạnh, tùng côi xơ xác đứng,
                      Nhà to, cột một khó khăn ngừa.
                      Về chầu liệt thánh lòng son đấy,
                      Tháng tám trăng rằm sẵn nhịp đưa.


                       
                      PHAN-ĐÌNH-PHÙNG
                                  1844-1895


                      Sinh tại Đông-Thái, La-Sơn, Hà-Tĩnh, đậu Tiến-Sĩ,
                      Tri huyện Yên- Khánh, Ninh-Bình, Ngự-sử Đô-sát
                      viện. Năm 1885 hưởng ứng chiếu Cần vương, đứng
                      ra chiêu tập lực lượng chống Pháp, lập căn cứ ở Hà-
                      Tĩnh, dùng tướng trẻ Cao-Thắng, lập xưởng chế tạo
                      vũ khí, thắng nhiều trận, sau 10 năm kháng chiến,
                      ông bị bệnh và mất trong trong chiến hhu .


                       
                      MẬU-TÝ NGUYÊN-ĐÁN CẢM TÁC

                      Lưu oanh đình ngoại ngữ hoa chi,
                      Hoa báo xuân quy nhân vị quy,
                      Bình lĩnh bách niên tư nhật nhiễu,
                      Hồng Sơn vạn lý vọng vân phi .
                      Ngô gia hữu giáo căn trung hiếu,
                      Khách địa vô tâm oán biệt ly .
                      Giai tiết thị nhân hành lạc xứ
                      Ngã phùng giai tiết bất thăng bi!
                      ~Phan-Đình-Phùng~

                      Dịch:

                      Mồng một Tết Mậu-Tí cảm tác

                      Ngoài sân oanh hót hoa chào,
                      Nhắn ai xuân tới rằng sao chưa về?
                      Ô quành đỉnh Ngự tái tê
                      Hồng Sơn vạn dặm ngóng bè mây trôi .
                      Nhà ta trung hiếu truyền đời
                      Há thân đất khách đau lời biệt ly!
                      Rộn ràng đón Tết người đi,
                      Lòng ta, ta có vui gì với xuân!

                      ~Nguyễn-Tấn-Hưng~


                       
                      THẮNG TRẬN HẬU CẢM TÁC
                       
                      Tài phái binh hành hốt phỉ lai,
                      Dư âm vị đính chính bồi hồi
                      Trường niên thỉnh chiến hà nhân giả
                      Quả bế thời gian báo tiệp hồi
                       
                      Sơn cái cao hề thủy cái thanh!
                      Mỗi ư mặc tướng hiển anh linh
                      Bất nhiên chúng quả tương huyền thậm,
                      Hồ đáo khê tiền dĩ thất kinh.
                      ~Phan-Đình-Phùng~
                       
                      Bản dịch:
                       
                      Cảm xúc sau khi thắng trận.
                       
                      Vừa phái quân đi giặc đến nơi,
                      Lòng ta lui tới luống bồi hồi.
                      Người xin quyết đánh là ai đó?
                      Chớp mắt mà ra đã thắng rồi!
                       
                      Chót vót non cao, nước một màu
                      Quỷ thần âu cũng giúp ngầm nhau.
                      Không dưng bên ít bên nhiều thế,
                      Mà đến đầu khe, đã chạy sao?
                       

                      Lúc sắp mất ở chiến khu, ông có bài
                      Thuật hoài tỏ chí mình:

                      THUẬT HOÀI

                      Nhung trường phụng mạng thập canh đông.
                      Võ lược y nhiên vị tấu công.
                      Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn,
                      Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong.
                      Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại,
                      Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung.
                      Trách vọng dũ long ưu dũ đại,
                      Tướng môn thâm tự quí anh hùng.
                      ~Phan-Đình-Phùng~
                       
                      Bản dịch:
                       
                      Nhung trường vâng mạng đã mười đông,
                      Việc võ lôi thôi vẫn chữa xong!
                      Dân đói vang trời kêu ổ nhạn,
                      Quân gian dậy đất rộn đàn ong.
                      Chín trùng lận đận miền quan tái,
                      Trăm họ phôi pha đám lửa nồng.
                      Trách vọng càng to càng nặng nhọc,
                      Tướng môn riêng hổ tiếng anh hùng.




                      HOÀNG-VĂN-HOÈ
                                 1848-1887

                      Quê Phù-Lưu, Từ-Sơn, Bắc-Ninh, đậu Tiến sĩ
                      năm 1880, Tri phũ Kiến-Xương, Thái-Bình, chiêu
                      mộ quân chống Pháp ở Nam-Định, Thái-Bình,
                      ông có bài thơ hô hào quân dân chống Pháp:
                       
                      Sơn mãng do tiềm thử,
                      Giang ba hốt phí kình.
                      Xích mi vị năng phá,
                      Bạch diện bất tri binh.
                      Tân đảm lao thần lự,
                      Yêu trần thảm cổ kinh.
                      Nhạc quân dương tảo phát,
                      Thống ẩm Hoàng Long thành
                      ~Hoàng-Văn-Hòe~
                       
                      Bản dịch:
                       
                      Chuột vẫn còn lẩn núi,
                      Kình chợt quẫy sóng sông.
                      Mi đỏ chưa bỏ chạy,
                      Mặt trắng đốt binh nhung.
                      Vua nước lo hôm sớm,
                      Kinh xưa khói mịt mùng.
                      Quân ta mau tiến phát,
                      Thẳng tới thành Hoàng Long.




                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2010 09:12:25 bởi Anh Nguyên >
                      #11
                        Anh Nguyên 03.01.2011 11:23:52 (permalink)



                        NGUYỄN-BÁ-HUÂN
                                 1853-1915


                        Quê Vân-Sơn, Nhơn-Hậu, An-Nhơn,Bình-
                        Định, anh Nguyễn-Trọng-Trì, thông minh,
                        đi thi chỉ mang theo rượu, mỗi khi đắc ý tự
                        thưởng một ly, thưởng mãi hóa say, chẳng
                        làm được bài, sau ở nhà dạy học viết văn. 



                        TÂY SƠN LƯƠNG TƯỚNG
                        NGOẠI ĐỀ TỪ

                        Nho giả không đàm lễ nhạc thâm,
                        Tây Sơn khí vận thuộc thuần dương.
                        Bất nhân gian nịnh ô thanh sử,
                        Na đắc hùng tư khởi lục lâm.
                        Báo quốc nhất thân đô thị đảm,
                        Giao tình thiên tải chỉ luân (luận) tâm.
                        Vô đoan hữu tục anh hùng phổ,
                        Tuy mạc lâm ly bất tự câm (cấm).
                        Nguyễn-Bá-Huân

                        Tạm dịch:

                        Lời đề tập ngoại truyện về các
                        tướng giỏi của nhà Tây Sơn.

                        Nho sĩ bàn sâu lễ nhạc thôi,
                        Tây Sơn khí thuận lẽ đương rồi.
                        Sử xanh, gian nịnh làm hoen bẩn,
                        Rừng biếc, anh hùng nổi khắp nơi.
                        Nợ nước một thân can đảm đúc,
                        Giao tình nghìn thưở dạ trao lời.
                        Không dưng ghi lại anh hùng truyện,
                        Mực đượm men say vạn thảo hồi.
                                

                        Ngòi bút thanh gươm quyết vẫy vùng.
                        Chỉ thắm tình dân thêu gấm nghĩa,
                        Đá gìn thế nước chất gan trung.
                        Trời Nam phất gió cờ Trương Định,
                        Ải Bắc ngời trăng kiếm Đặng Dung.
                        Linh Đỗng bá tùng muôn gốc dụm,
                        Mây tuôn anh khí, khí thêm hùng.
                        Nguyễn-Bá-Huân
                                 1885



                        NGUYỄN-TRỌNG-TRÌ
                                   1854-1922


                        Quê Vân-Sơn, Nhơn-Hậu, An-Nhơn,
                        Bình-Định, em Nguyễn- Bá-Huân.



                        BÙI PHU NHÂN CA

                        Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao,
                        Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào.
                        Hoàng hôn thành dốc bi già động,
                        Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều.
                        Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc,
                        Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc.
                        Thùy ngôn cân quắc bất như nhân?
                        Dĩ cổ phương kim tam đinh túc.
                        ~Nguyễn-Trọng-Trì~

                        Tạm dịch:

                        BÙI PHU NHÂN CA

                        Múa gươm lãnh khí ào ào
                        Gió đưa sương máu đẫm màu chiến y
                        Tù Và tiễn bóng chiều đi
                        Phù dung nữ tướng chẳng vì núng nao
                        Đánh trống Hồng Ngọc khác nào
                        Mộc Lan giữa chốn binh đao Hoàng Hà
                        Dám ai khinh thị đàn bà?
                        Vững vàng chân vạc lọ là đàn ông.
                        ~Nguyễn-Minh-Thanh~


                        Cổ kim bất phạp chân anh hùng,
                        Năng ngự ngoại hồi vi thượng công.
                        Tráng tai Thị Xuân kì nữ tử,
                        Thống suất tì hưu biến tây đông.
                        Tổ tông cương thổ bất dung vong,
                        Nam nhi tử tất tại sa trường.
                        Nam nhi bất hướng sa trường tử,
                        Cao ca nhất khúc khán Thị Xuân.
                        ~Nguyễn-Trọng-Trì~

                        Tạm dịch:

                        Xưa nay chẳng thiếu các bậc thật sự anh hùng,
                        Có thể ngăn giặc ngoài làm nên công lao.
                        Mạnh thay Bùi Thị Xuân, người con gái lạ lùng,
                        Cầm quân vùng vẫy khắp tây đông.
                        Đất đai tổ tông không thể để mất,
                        Nam nhi hẳn nhiên phải chết ở chốn sa trường.
                        Nếu nam nhi mà không dám hướng về sa trường để chết,
                        Hãy hát lớn một khúc ca mà xem gương Bùi Thị Xuân.
                        ~Bùi-Thụy-Đào-Nguyên~


                        BÙI NỮ TƯỚNG

                        Vận nước đang xoay chuyển
                        Quần thoa cũng vẫy vùng
                        Liều thân lo cứu chúa
                        Công trận quyết thay chồng
                        Khẳng khái khi lâm nạn!
                        Kiên trinh lúc khốn cùng
                        Ngàn thu gương nữ liệt
                        Gương sáng hãy soi chung.
                        (Khuyết danh)


                        KINH QUÁ TÂY SƠN
                        DI CHỈ CẢM HOÀI

                        Loạn thế anh hùng sản xuất đa
                        Bắc Nam dược mã dự huy   qua
                        Thập niên huyết chiến thành hà sự,
                        Không thính ngư tiều túy tửu ca.
                        ~Nguyễn-Trọng-Trì~

                        Tạm dịch:

                        Cảm xúc khi qua dấu tích Tây Sơn
                        Đất loạn anh hùng xuất hiện đông,
                        Bắc Nam giục ngựa, giáo gươm vung
                        Mười năm máu đổ đâu thành bại,
                        Nghe tiếng ca say khắp núi rừng.
                        ~Bùi Thụy Đào Nguyên~


                        GỞI CHỦ NHÂN QUÁN
                        CŨ BÊN ĐƯỜNG

                        Quán cũ đây he!
                        Cớ sao chẳng quạt chè?
                        Thềm hè leo cỏ ống
                        Chái bếp thả bầu ve.
                        Rằng: Ta còn nợ nước,
                        Rồi cũng trả cho nghe.
                        ~Nguyễn-Trọng-Trì~



                        MAI-XUÂN-THUỎNG
                                   1860-1887


                        Quê Phú-Lạc, Bình-Thành, Bình-Khê, Bình-
                        Định, đậu Cử-Nhân 24 tuổi, năm sau phát
                        động khởi nghĩa chống Pháp, mẹ bị chúng
                        tra tấn, dân quê bị tàn sát, ông nạp mình để
                        cứu mẹ và dân, bị chém, có thơ tuyệt mệnh:


                        Không tính làm chi việc mất còn,
                        Nợ trai lo trả ấy là khôn.
                        Gió đưa hồn nghĩa gươm ba thước,
                        Đá tạc lòng trung quí mấy hòn,
                        Tái ngắt mặt gian xương tợ giá.
                        Đỏ lòe bìa sách máu là son,
                        Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới.
                        Một nhánh MAI già trổ nụ non.
                        ~Mai-Xuân-Thưởng~



                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.01.2011 08:16:27 bởi Anh Nguyên >
                        #12
                          Anh Nguyên 04.01.2011 20:38:57 (permalink)



                          LÊ-TRUNG-ĐỊNH

                               1862-1885

                          Sinh tại Phú-Nhơn, Sơn-Tịnh, Quảng-Ngãi.
                          Thủ lãnh Nghĩa-Hội, bị Pháp xử chém.


                          BÀI THƠ TUYỆT MỆNH

                          Kim nhật lung trung điểu
                          Minh triêu trở thượng ngư
                          Thử thân hà túc tích
                          Xã tắc ai kỳ khu!
                          ~Lê-Trung-Đình~

                          Dịch:

                          Nay là chim trong lồng
                          Mai đã cá trên thớt
                          Thân này tiếc gì đâu
                          Gian nan tình đất nước!
                          ~Hoàng-Tạo~




                          CHU-MẠNH-TRINH
                                (1862-1905)

                          Quê Mễ-Sở, Vân-Giang, Hưng-Yên, tài
                          Hoa, lãng mạn, văn chương bay bướm,
                          được bổ nhiệm Tri-phủ, Án-Sát, rồi cáo
                          quan về nhà dưỡng bệnh, ông còn là một
                          nhà kiến trúc có tài, mất mới 43 tuổi.


                          HƯƠNG-SƠN PHONG CẢNH CA

                          Bầu trời cảnh Bụt,
                          Thú Hương-Sơn ao ước bấy lâu nay!
                          Kìa non, nước nước,mây mây,
                          Đệ nhất động, hỏi rằng đây có phải?
                          Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
                          Lững lờ khe Yến cá nghe kinh,
                          Thoảng bên tai một tiếng chầy kình,
                          Kháhc tang hải giật mình trong giấc mộng.
                          Này suối Giải-Oan, này chùa Cửa-Võng,
                          Này am Phật-Tích, này động Tuyết-Quynh,
                          Nhác trông lên ai khéo vẽ hình,
                          Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt,
                          Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
                          Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.
                          Chừng giang sơn còn đợi ai đây?
                          Hay Tạo-Hóa khéo ra tay xếp đặt.
                          Lần tràng hạt niệm nam mô Phật,
                          Cửa từ bi công đức biết bao,
                          Càng trông phong cảnh càng yêu!...
                          ~Chu-Mạnh-Trinh~


                          HÀM TỬ QUAN HOÀI CỔ

                          (Ca ngợi chiến công của Thượng tướng
                          Trần Quang Khải, đời nhà Trần)

                          Bãi dài, sông bỗng cắt ngang
                          Cửa quan Hàm Tử luênh loang bóng chiều
                          Khói mờ, cây rậm, bờ xiêu
                          Lầu hoang, thu lạnh, mây theo gió về...
                          Khoá then, nhờ đất hiểm kia
                          Non sông muôn thuở khôn nhoà chiến công.
                          Ngang ngọn giáo, khúc ca hùng
                          Hiên ngang nhớ thuở vẫy vùng tướng xưa...


                          BÀI ĐỀ THƠ TRÊN VÁCH
                          MIẾU MỴ CHÂU

                          Tình chồng vốn nặng, nghĩa cha sâu
                          Oan tỏ cùng ai, hận mãi đau
                          Móng chẳng còn thiêng, rùa đã tếch,
                          Ngọc lưu vết lệ, bạng chìm sâu.
                          Bia tàn cổ thụ, này sông núi,
                          Bể biếc trời xanh, nọ mối sầu...
                          Ngoài điện An-Dương, ngôi miếu lạnh
                          Trăng mờ, tiếng cuốc não canh thâu.
                          ~Chu-Mạnh-Trinh~




                          LƯƠNG-KHẮC-NINH
                                  1862-1943

                          Nguyên quán Quảng-Nam, sinh tại Bảo-Hựu,
                          Bảo-An, Bến-Tre, tốt nghiệp Trung-Học, làm
                          công chức, sau lên Sàigòn làm báo, cổ động
                          phong trào Duy-Tân, Gửi Thơ Khuyên vua
                          Khải-Định nên tiếp thu và thực thi chủ trương
                          của Phan-Chu-Trinh:



                          Phan Châu Trinh thơ hậu,
                          Vượt bực đôi lời nghị luận
                          Lợi dân vì nước một đoàn;
                          Giữa trần ai phải rõ hệ quan;
                          Vua vậy, quan vậy, dân vậy, cũng là người trong thiên hạ;
                          Lời xưa nói: Bỉ nhứt thời, thử nhứt thời dã
                          Sanh làm người, mà hiếu vậy mới rằng linh
                          Người cho rằng vạn vật tối linh
                          Biết nói, biết nghe, biết hiểu, ở trên muôn loài vật.
                          Theo thời thế, như nước nguồn thông thoát
                          Nghịch ý dân, chẳng khác nào như phong với thủy
                          Chẳng nương chìu (chiều) đang đời này, vạn quốc thảy phong trào
                          Vì dân nhờ nước, nước nhờ dân ấy nghĩa.
                          Nước bị gió, sóng trào vun (vung) bốn phía,
                          Hễ gió êm thì nước lặng cả năm phương.
                          (dân tánh như phong, quốc lịnh như thủy, vô vi như trị, tương y dã thông).
                          Lập quốc dân, xã hội nghị cộng đồng.
                          Vạn bang đã rõ thông chánh trị
                          Phương viên nghĩa, lập chiến bang hữu vị.
                          Dân chọn người thông đạt trị giùm dân.
                          Hễ mà người tư tham lựa bỏ dần dần,
                          Quyền thay mặt vì dân quyền đều rộng.
                          Dân hiệp ý quyết bỏ ngôi nhứt thống,
                          Ngôi ấy, thuở xưa dùng vì dân tánh hãy thuần lương.
                          Đời xuống dần, dân hóa rộng đo lường.
                          Nào như buổi: cửa không gài, đồ chẳng lượm.
                          Lời Phan thị có nhiều lời đáng dụng
                          Nhưng mà xát tạt thường làm vui ích xúi dậy nhiều.
                          Hễ lời êm thì ít ghẹo tai kiêu, tiếng xẫm (xẵng) mau khêu nộ khí
                          Ngài tuy giận, mà bựt (bực) cao minh hay tàng trí,
                          Xin trầm ngâm đặng độ lượng mỗi lời.
                          Cang bạo từ mà công trực cũng để đời.
                          Dầu xúc phạm, mà hữu ích chung xin bớt giận
                          Ngôi sao rộng, nếu một mình ô nam diện.
                          Có phải là toàn quốc dân mang điếm nhục chung chăng?
                          Chẳng khác nào như mặt trời cao, bị khóm mây giăng
                          Thì cả thiên hạ phải mang ám sắc
                          Mở lượng rộng, xin đừng chấp nhứt
                          Cần hộ bang, dùng Phan thị vi quân sư.
                          Đặng mà thử sức người cho rõ sức hữu dư.
                          Ví như cỗ dã (giả) dụng thiên kim mài khô cốt.
                          Lời luận biện khó xem cùng tột,
                          Kiến sở hành mới tắc đắc kì tài.
                          Một đôi năm mà ngôn quá ư hành,
                          Phục phủ việt đoạn đầu đài sẽ tái xử.
                          Nếu mà lẫn (hóa dại) ắt bỉ ngôn lưu trường dự
                          Hậu thế xưng Phan thị chánh ngôn.
                          Sau cho rằng:
                          Khải Định vương quả hữu bất nhân thọ thất trách nặc nhiên van biện
                          Hễ là: đạo đế vị khoan dung minh đoán, ngôn ắt dã vi sư.
                          Ví như: Tề Tuyên vương điển lập Lạc Tư,
                          Nạp Vô Diệm trực gián
                          Tam niên hậu Tề bang đánh Hãng
                          Có phải nhờ: thính trực ngôn, chung đắc trị bình chăng?
                          Lạc giữ dân chánh trị phân minh
                          Tư ích kỉ trường lưu ô nhụt (nhục)
                          Thừa biến cuộc, quân vương thi công ích
                          Minh giám hậu lưu danh
                          Nếu xu phụ, căm những điều Phan thị dĩ trách quân,
                          Mà chấp nhứt, tắc hà thù vĩ sĩ.
                          Khổ thủ khốc cao minh tái nghị
                          Đặng mà thừa bị trực tránh.
                          Nhứt là: thức dụng nhơnbất thất kỳ danh
                          Hải nội chân minh quân đại đức.
                          Đông Dương Dị Sử Thị khẩn
                          Khuyên phệ minh cầu miễn trách.
                          Nông canh sĩ luận khống thông danhỂ.
                          ~Lương-Khắc-Ninh~




                          TRẦN-CAO-VÂN
                              1866-1916

                          Tư-Phú, Điện-Bàn, Quảng-Nam.Tham
                          gia Quang-Phục-Hội do cụ Phan-Bội-
                          Châu lãnh đạo. Khởi nghĩa bị lộ, Bị
                          Pháp xử chém ngày 17-5-1916.


                          VỊNH TAM TÀI

                          Trời, Đất sinh Ta có ý không
                          Chưa sinh Trời, Đất có Ta trong
                          Ta cùng Trời, Đất ba ngôi sánh
                          Trời, Đất in Ta một chữ đồng
                          Đất nứt Ta ra, Trời chuyển động
                          Ta thay Trời mở Đất mênh mông
                          Trời che, Đất chở, Ta thong thả
                          Trời, Đất, Ta đây đủ hóa công.
                          ~Trần-Cao-Vân~


                          TUYỆT MỆNH

                          Trung lập kiền khôn bất ý thiên
                          Việt Nam văn vật cổ lai truyền
                          Quân dân cộng chủ tinh thần hội
                          Thần tử tôn châu nhật nguyệt huyền
                          Bách Việt sơn hà vô Bạch Sỹ
                          Nhất xan trung nghĩa hữu thanh thiên
                          Anh hùng để cục hưu thành bại
                          Công luận thiên thu khó sử biên
                          ~Trần-Cao-Vân~

                          Dịch:

                          Đứng giữa càn khôn thế chẳng dời
                          Việt Nam văn vật tự bao đời
                          Vua dân chung dạ tinh sao hội
                          Tôi tớ bền lòng nhật nguyệt soi
                          Đất Việt dẫu không còn Bạch Sĩ
                          Khí trung kia vẫn ngập bầu trời
                          Anh hùng sá kể cơn thành bại
                          Sử sách ngàn thu chép rạch ròi.
                          ~Nguyễn-Văn-Bính~

                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.12.2011 09:28:33 bởi Anh Nguyên >
                          #13
                            Anh Nguyên 21.01.2011 08:36:57 (permalink)



                            PHAN-BỘI-CHÂU

                                
                            (1867-1940)

                            Quê Đan-Nhiễm, Nam-Đàn, Nghệ-An, đậu Giải
                            Nguyên, lập Duy-Tân Hội, khởi xướng Đông du,
                            lập Việt Nam Quang-Phục Hội, sau lại đổi thành
                            Đảng Việt-Nam Quốc Dân, bị Pháp bắt ở Thượng-
                            Hải, kết án khổ sai chung thân, toàn quốc đòi ân
                            xá nên được thả và quản thúc tại Huế.



                            TUYỆT MỆNH THI TAM THỦ

                            Nhất lạc nhân hoàn lục thập niên
                            Hảo phùng kim nhật liễu trần duyên
                            Bình sinh kỳ khí vi hà tử?
                            Nguyệt tại ba tâm vân tại thiên

                            Sinh bất năng trừ thiên hạ loạn,
                            Na kham tử lụy hậu lai nhân
                            Hảo tòng hổ khẩu hoàn dư nguyện,
                            Khẳng nhượng Di, Tề nhất cá nhân

                            Thống khốc giang san dữ quốc dân
                            Ngu trung vô kế cực trầm luân
                            Thử tâm vị liễu thân tiên liễu
                            Tu hướng tuyền đài diện cố nhân
                            ~Phan-Bội-Châu~

                            Dịch:

                            Ba bài thơ tuyệt mệnh

                            Sáu chục năm nay ở cõi đời
                            Trần duyên giờ hẵn rũ xong rồi
                            Bình sinh chí lớn là đâu tá
                            Trăng rọi lòng sông mây ngất trời

                            Sống đã không xong trừ giặc nước
                            Chết đi há lụy đến người sau
                            Phen này miệng cọp âu đành dạ,
                            So với Di, Tề có kém đâu!

                            Thương khóc non sông với quốc dân
                            Tài hèn không vớt được trầm luân
                            Lòng này chưa hả thân đã chết,
                            Chín suối thẹn thùng gặp cố nhân.
                            ~Khuyết Danh~


                            ÁI QUỐC

                            Nay ta hát một thiên ái quốc,
                            Yêu gì hơn yêu nước nhà ta!
                            Trang nghiêm bốn mặt sơn hà,
                            Ông cha để lại cho ta lọ vàng.
                            Trải mấy lớp tiền vương dựng mở,
                            Bốn ngàn năm giãi gió dầm mưa
                            Biết bao công của người xưa,
                            Gang sông, tấc núi, dạ dưa, ruột tằm.
                            Hào Đại Hải âm thầm trước mặt,
                            Dải Cửu Long quanh quất miền Tây.
                            Một tòa san sát xinh thay,
                            Bên kia Vân, Quảng, bên này Côn Lôn!
                            Vẻ gấm vóc nước non thêm đẹp.
                            Rắp những mong cơ nghiệp dài lâu.
                            Giống khôn há phải đàn trâu,
                            Giang sơn nỡ để người đâu vẫy vùng!
                            Hai mươi triệu dân cùng, của hết,
                            Bốn mươi năm nước mất, quyền không.
                            Thương ôi! Công nghiệp tổ tông,
                            Nước tanh máu đỏ, non chồng thịt cao!
                            Non nước ấy biết bao máu mủ,
                            Nỡ nào đem nuôi lũ sài lang?
                            Cờ ba sắc xứ Đông Dương,
                            Trông càng thêm nhục, nói càng thêm đau!
                            Nhục vì nước, mà đau người trước,
                            Nông nỗi này, non nước cũng oan.
                            Hồn ơi! Về với giang sơn,
                            Muôn người muôn tiếng hát ran câu này:
                            "Hợp muôn sức ra tay quang phục,
                            Quyết có phen rửa nhục báo thù..."
                            Mấy câu ái quốc reo hò.
                            Chữ đồng tâm ấy phải cho một lòng.
                            ~Phan-Bội-Châu~
                                    1910


                            ÁI  QUẦN

                            Trời sinh ra một giống ta,
                            Non sông riêng một nước nhà Việt Nam.
                            Kể năm hơn bốn nghìn năm,
                            Ông cha một họ, anh em một nhà.
                            Giống vàng riêng một mầu da,
                            Đen răng, dài tóc ai mà khác ai?
                            Chỉ vì tan tác từng người,
                            Phen này đến nỗi lạc loài, xót xa.
                            Ai ơi! Nghĩ lại kẻo mà,
                            Kìa gương giống đỏ có xa đâu nào:
                            Chữ rằng: "Đồng chủng, đồng bào",
                            Anh em liệu tính làm sao bây giờ?
                            Sao cho nội ngoại tương phù[1],
                            Ba mươi sáu tỉnh cũng như một nhà.
                            Sao cho Nam Bắc hiệp hòa,
                            Hơn hai mươi triệu[2] mà ra một người.
                            Chớ cậy thế, chớ tham tài,
                            Bỏ điều lợi nhỏ, tính bài lợi chung.
                            Chớ ganh khí, chớ khoe công,
                            Dứt tình ghen ghét, bỏ lòng xai nghi[3].
                            Ai ơi, xin sửa mình đi,
                            Công tư đức ấy hai bề vẹn hai.
                            Những điều nát nước, tan loài,
                            Rước voi, cõng rắn thì thôi xin chừa.
                            May ra trời có chuyển cơ,
                            Anh em ta được như xưa sum vầy.
                            Họ hàng đông đủ cánh vây,
                            Chen vai ưu thắng, ra tay cạnh tồn.
                            Thể đoàn như đá chẳng mòn,
                            Như thành chẳng lở, như non chẳng dời.
                            Đừng như đàn quạ giữa trời,
                            Gặp cơn mưa gió vội rời nhau ra.
                            Có đàn thì mới có ta,
                            Đàn là rất trọng, ta là rất khinh.
                            Dù khi sóng gió bất bình,
                            Lợi đàn thì dẫu thiệt mình cũng cam.
                            Làm cho cố kết nghìn năm,
                            Mới hay rằng bọn người Nam anh hùng.
                            Làm cho nổi tiếng Lạc Hồng,
                            Vẻ vang dòng dõi con Rồng, cháu Tiên.
                            Nước nhà cơ nghiệp vẹn tuyền,
                            Chúng ta, ta giữ lợi quyền của ta.
                            Mấy câu thuận miệng ngâm nga,
                            Ai ơi xin nhớ bài ca hợp đoàn!
                            ~Phan-Bội-Châu~


                            GỬI PHƯỜNG HẬU TỬ

                            Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
                            Thiên hạ thùy nhân bất thức quân
                            Bảy mươi tư tuổi trải phong trần
                            Nay được bạn mới tinh thần hoạt hiện
                            Những ước anh em đầy bốn biển
                            Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian
                            Sống xác thừa mà chết cũng xương tan
                            Câu tâm sự gởi chim ngàn cá biển
                            Mừng được đọc bài văn ‘sinh vãn’
                            Chữ đá vàng in mầy đoạn tâm can
                            Tiếc mình nay sức mỏng trí thêm khan
                            Lấy gì đáp khúc đàn tri kỷ
                            Dương dương hồ chí tại lưu thủy
                            Nga nga hồ chí tại cao sơn
                            Ðàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm
                            Chung Kỳ chết, ném cầm không gẩy nữa
                            Nay đang lúc tử thấn chờ trước cửa
                            Có vài lời ghi nhớ về sau
                            Chúc phường hậu tử tiến mau.
                            ~Phan-Bội-Châu~


                            BÀI CA CHÚC TẾT THANH NIÊN

                            Dậy! Dậy! Dậy!
                            Bên án một tiếng gà vừa gáy,
                            Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.
                            Xuân ơi xuân, xuân có biết hay chăng?
                            Buồn cùng sông, thẹn cùng núi, tủi cùng trăng.
                            Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót,
                            Trời đất may còn thân sống sót,
                            Tháng ngày khuây khoả lũ đầu xanh.
                            Thưa các cô, các chị, lại các anh:
                            Đời đã mới, người càng nên đổi mới.
                            Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội,
                            Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn.
                            Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
                            Dây thành bại quyết ghe phen liên hiệp lại.
                            Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi,
                            Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần.
                            Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn,
                            Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa.
                            Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ,
                            Mới thế này là mới hỡi chư quân!
                            Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân...
                            ~Phan-Bội-Châu~
                                    1926


                            THIÊN VẤN PHÚ

                            Trời cao mênh mông,
                            Này tôi hỏi ông?
                            Nước Việt Nam tôi,
                            Một góc Á Đông .

                            Dân Việt vẫn con trời thảy, cỏ cây vẫn đội trời chung;
                            Ai vắt nên hình chử S, ai ban cho hiệu con rồng?
                            Chẳng Mường Mọi, sao kêu bằng Lạc?
                            Chẳng cánh lông, sao gọi bằng Hồng?
                            Sao dài dặc hơn bốn ngàn năm, sống chẳng sống, chết chẳng chết?
                            Sao so với năm châu muôn nước, có chẳng có, không chẳng không?
                            Mở pho dân tộc toàn cầu, họ dân tộc sao lộn xộn, chẳng vàng chẳng trắng:
                            Xem bức địa đồ thế giới, sắc nước tôi sao lem nhem, chẳng lục chẳng hồng?
                            Vẫn từng nghe thiên đạo chí công, há lẽ cường phù nhược ức?
                            Vẫn cũng biết thiên ân phổ biến, vì sao ỉ sắc tư phong?

                            Tôi quá nghi ông!
                            Này tôi xin kể
                            Sử cũ nước tôi
                            Nhiều trang sứt mẻ:

                            Thục An Dương Vương, có đức gì mà vương?
                            Triệu Úy Đà có công gì mà đế?
                            Sao lờ mờ sử Việt, hơn hai ngàn năm xưa,
                            Mà tên họ người Nam, không một trang điếm xỉa?
                            Tới Trưng Trắc bắt đầu dựng nước;
                            Thiệt tổ tiên tôi đó, sao ông quá ác không cho Bà vạn đại xưng vương?
                            Kìa Mã Viện thạo ngón cướp người;
                            Là thù địch của tôi,sao ông bất nhân đã giúp nó nhất thời đắc thế?
                            Núi Tản, sông Lô mây nghịt nghịt tức tối vì ai?
                            Cẩm Khê, Lãng Bạc máu ròng ròng thảm thương chăng nhỉ?
                            Lại như sử Lý, Trần, Lê máu pha giọt mực:
                            Thủ lỉnh Hán mười thằng chín ác, sao ông còn chấp cánh cho hùm?
                            Độ hộ Đường ba bị chín quai, sao ông còn dẫn đường đưa giặc?
                            Lý Thường Kiệt nhiều phen đánh Tống, rất có công cùng chủng tộc,
                            thì sao thân bách chiến, ông cho chịu cung hình?
                            Ngô Vương Quyền độc lập thoát Tàu, đáng thịnh thọ sơn hà,
                            mà sao mới sáu năm, ông vội bắt về thiên quốc?
                            Tám đời Lý, cha con thầy tớ, chung vai gánh non sông bốn mặt,
                            lẽ đáng thương là trọn, sao thình lình đẻ mụ Lý Chiêu Hoàng?
                            Một nhà Trần, ông cháu cha con, hùn sức lùa beo cọp trăm bầy,
                            há để giống nào lai, sao cắc cớ sinh thằng Trần Ích  Tắc?
                            Qúy hóa thay! Trần Bình Trọng hăng hái thề làm Nam quỉ,
                            ông sao chẳng tiếc, nỡ để chết dưới ngọn dao Nguyên?
                            Tàn ác thay! Giặc Thoát Hoan lăm le giết sạch Nam dân,
                            ông sao quá thương , để nó sống về bên đất Bắc?
                            Mấy ngàn quân trung thành với nước, trên tay đề “Sát Thát’’
                            vẫn phục tùng mệnh ông đó, sao ông để Mã Nhi, Lỗ Xích vằm xẻo sướng tay?
                            Mấy triệu dân tức giận vì thù, đầy ruột chứa’’  Bình Ngô ”
                            Há chênh lệch đạo ông đâu, sao ông dung Trương Phụ, Liễu Thăng giày bừa phỉ sức?
                            Phục Trần nọ, những phường xỏ lá, chắc ông dư biết, sao ông quá chiều lòng giặc,
                            cha con Hồ, thảy nhét miệng kinh;
                            Tôn Lê kia, những lũ bẻ măng, sao ông dở say, nỡ bắt đày đọa trời Minh,
                            vua tôi Việt, hồn đau tiếng quốc!
                            Tôn Sĩ Nghị, thiệt tay gian xảo, đáng xương bằm đất Việt,
                            sao ông cho nách xéo khỏi Nam Quan?
                            Nguyễn Quang Trung, thiệt đấng anh hùng, đáng bia tạc trời Nam,
                            sao ông lại vu oan bằng Tây tặc?

                            Tôi dám xin ông,
                            Trả lời cho sáng!
                            Ngôi ông vẫn cao,
                            Đức ông vẫn rạng .

                            Có lẽ ông quá già chăng nọ, gương nhật tinh hồ loạn thị phi,
                            Những mong ông cải cách chóng cho, uy lôi điện phân minh hình thưởng .
                            Non nước ấy vẫn còn non nước củ, bao tá thánh hiền hào kiệt,
                            xin ông nay mở lượng tài bồi;
                            Đồng bào tôi cũng như đồng bào ai, thảy là con cháu chắt chiu,
                            nhờ ông hãy rộng đường lai vãng.

                            Đợi đợi…Chờ chờ…Năm năm…Tháng tháng…!

                            ~Sào-Nam Phan Bội Châu~
                                        (1933)


                            RU EM

                            Ru hời, ru hỡi, ru hời
                            Nín di em hỡi chị ngồi chị ru
                            Nước ta từ dựng cơ đồ
                            Bốn ngàn năm lẻ địa đồ còn kia
                            Rừng vàng bể bạc thiếu gì
                            Non sông đất nước cũng thì người ta
                            Mà thử ngẫm: Xiêm La, Nhật Bản
                            Một vót lên cùng bạn liệt cường
                            Nước mình thua kém trăm đường
                            Sống hay chết dở mơ màng điếc câm
                            Nghĩ lắm lúc âm thầm chị giận
                            Không chủ quyền nên mất tự do
                            Cơ đồ tiên tổ để cho
                            Chỉ vì con cháu không lo giữ gìn
                            Nay đến nỗi không quyền tự trị
                            Tám mươi năm sỉ nhục lắm ai ơi
                            Ru hời, ru hỡi, ru hời
                            Mong em khôn lớn lên người
                            Ơn nhà nợ nước em thời lo toan
                            Lo toan đem lại giang san
                            Ðừng tham sống cái nhân tuần như ai.
                            ~Phan-Bội-Châu~


                            NAM HẢI BÔ THẦN CA
                            (Từ Nhật Bản kí hồi Thống sứ phủ)

                            Á Tế Á[1] năm châu là bậc nhất,
                            Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn.
                            Cuộc đời mở hội doanh hoàn,
                            Anh hùng bốn bể giang san một nhà.
                            Gẫm từ thuở Âu La[2] tìm đất,
                            Vượt Chi Na qua Nhật đến Triều Tiên.
                            Xiêm La, Ấn Độ gần liền,
                            Cao Miên, Đại Việt thông miền Ai Lao.
                            Thịt một miếng trăm dao xâu xé,
                            Chiếc kim âu chẳng mẻ cũng khôn lành.
                            Tôi con Pháp, tớ thầy Anh,
                            Nín hơi Đại Đức, nép mình cường Nga.
                            Gương Ấn Độ còn xa đâu đó,
                            Chẳng máu đào, nhưng cũng họ da vàng
                            Mênh mông một dải Đông Dương,
                            Nước non quanh quất trông càng thêm đau.

                            Cờ tự lập đứng đầu phất trước,
                            Nhật Bản kia vốn nước đồng văn,
                            Thái Đông nổi hiệu duy tân,
                            Nhật Hoàng là đấng anh quân ai bì?
                            Dòng Thần Vũ riêng về một họ,
                            Vùng Phù Tang soi tỏ góc trời,
                            Kể đời trăm hai mươi hai,
                            Năm hai nghìn lẻ năm mươi có thừa[3].
                            Sẵn cơ hội trời đưa lại đó,
                            Chốn kinh thành Thần Hộ[4] mới dời sang.
                            Dẹp Mạc Phủ, bỏ phiên bang,
                            Đổi dòng chính sóc, thay đường y quan.
                            Khắp trong nước dân đoàn xã hội,
                            Nhà học đường đã ngoại ba muôn.
                            Việc kĩ nghệ, việc bán buôn,
                            Nơi lò hấp bát, nơi khuôn đúc đồng.
                            Chè, lụa, tơ, gai, bông, nhung, vũ,
                            Mọi đồ sơn, vân mẫu, pha lê.
                            Dao với quạt, tán với xe,
                            Đủ mùi hải lục, hợp nghề nông thương.
                            Bốn lăm triệu kể lương dân số,
                            Các sắc quân ước độ triệu người.
                            Chu vi mặt đất rộng dài,
                            Tính vuông Pháp lí bốn mươi vạn thừa.
                            Bốn mốt huyện năm xưa mới đổi,
                            Đầu Nại Xuyên mà cuối Lộc Nhi.
                            Đông Kinh ba phủ cận kì,
                            Ngoài thì Đại Bản, trong thì kinh đô.
                            Tỉnh Bắc Hải dư đồ quanh bể,
                            Huyện Xung Thằng chưa kể đất Lưu Cầu[5].
                            Gò Đối Mã bốn bể sâu,
                            Nghiêm Đồng đặt súng, Trúc Phu đỗ tàu.
                            Nhà dây thép đâu đâu cũng đặt,
                            Truyền thông thương khắp mặt ngoại dương.
                            Kìa thiết lộ, nọ ngân hàng,
                            Đăng đàn, báo quán, ngổn ngang phụ đầu[6].
                            Cuộc biến pháp năm đầu Minh Trị,
                            Ba mươi năm dân trí mở mang,
                            Chữ Hán tự, chữ Tây dương,
                            Mọi bài diễn thuyết, các phường chuyên môn.
                            Đất Đại Bản mở đồn đúc súng,
                            Xưởng Đông Kinh riêng cũng một toà.
                            Trường Kì thuyền cục mấy nhà,
                            Dã Tân, Tu Hạ ấy là hải quân.
                            Tàu với súng trăm phần chấn chỉnh,
                            Lại ngư lôi bác đĩnh[7] ai tày.
                            Quan quân luyện tập đêm ngày,
                            Mọi nghề so với Thái Tây kém gì.
                            Đội mã bộ, lục sư các trấn.
                            Từ Hà Di đến tận Tát Ma.
                            Tám đạo rộng, bốn gò xa,
                            Phú Sơn cao ngất, Tì Bà trong veo[8].
                            Tướng, tá, uý, cũng theo Tây lệ,
                            Đủ vương binh, pháo vệ chỉnh tề,
                            Đồng bào nghĩa khí gớm ghê,
                            Cái thù nô lệ, ắt thề giả xong.
                            Năm Giáp Ngọ[9] đùng đùng sóng gió,
                            Vượt quân sang thẳng trỏ Đại Hàn.
                            Quân Lục Áo, tướng Thái Sơn,
                            Ra tay cho biết cái gan anh hùng.
                            Đông tam tỉnh[10] thu trong tay áo,
                            Bọn trắng da ngơ ngáo giật mình,
                            Cuộc hoà đâu bất thình lình,
                            Chủ trương này dễ Nga đình vẽ khôn.
                            Bụng ái quốc ghê hồn Nhật Bản,
                            Giận xung quan khôn cản nghĩa đồng cừu.
                            Đã toan trở súng quay tàu,
                            Y Đằng[11] can khéo mưu sâu vãn hồi.
                            Nhận bồi khoản Bành, Đài nhượng địa,
                            Trong mười năm rồi sẽ chịu nhau.
                            Nga kia nước lớn lại giàu,
                            Bên giường giấc ngáy, dễ hầu chịu yên,
                            Hàn với Mãn lợi quyền thu sạch[12],
                            Xe Nhĩ Tân, tàu lạch Sâm Uy[13].
                            Cõi Đông đương cuộc an nguy,
                            Có ta, ta phải phù trì chúng ta.
                            Việc khai hấn chắc là quyết liệt,
                            Đất Á Đông thấy huyết phen này.
                            Giáp Thìn trong tháng Chạp tây,
                            Chiến thư hai nước đợi ngày giao tuy.
                            Trận thứ nhất Cao Li lừng tiếng,
                            Khắp toàn cầu muôn miệng đều khen.
                            Sa trường xung đột mấy phen,
                            Ngọn cờ Áp Lục, tiếng kèn Liêu Đông.
                            Châu Lữ Thuận mơ màng khói bạc,
                            Thành Phụng Thiên ngơ ngác non xanh.
                            Hải quân một trận tan tành,
                            Thái Hoa cắt núi, Đông Thanh xẻ đường.
                            Sức hùng vũ ai đương lại được,
                            May điều đình có nước Hoa Kì.
                            Khéo điều hoà cuộc giải vi,
                            Nếu không Bỉ Đắc[14] còn đâu là đời.
                            Hội vạn quốc diễn bài thương nghị,
                            Chấu mới voi chuyện cũng nực cười.
                            Xem trong hoà khoản mười hai,
                            Bề nào Nga cũng chịu lui trăm phần.
                            Cuộc tang hải khuất thân từng lúc,
                            Áng liệt cường nay cũng chen vai.
                            Khen thay Nhật Bản anh tài,
                            Từ nay danh dự còn dài về sau.

                            Ngồi mà nghĩ thêm sầu lại tủi,
                            Nước Nam mình gặp buổi truân chuyên.
                            Dã man quen thói ngu hèn,
                            Cũng như Minh Trị dĩ tiền khác đâu.
                            Từ giống khác mượn màu bảo hộ,
                            Mưu hùm tinh, lừa lũ voi già.
                            Non sông thẹn với nước nhà,
                            Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.
                            Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
                            Việc luyện binh, việc giáo học trường,
                            Việc công nghệ, việc nông thương,
                            Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.
                            Giữ các việc chẳng qua người nước,
                            Kẻ chức bồi, người tước culi.
                            Thông ngôn kí lục chi chi,
                            Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.
                            Các thức thuế các làng thêm mãi,
                            Hết đinh điền rồi lại trâu bò.
                            Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
                            Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.
                            Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
                            Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
                            Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
                            Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.
                            Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
                            Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
                            Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
                            Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
                            Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
                            Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kì.
                            Các thức thuế kể chi cho xiết,
                            Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
                            Làm cho thập thất cửu không,
                            Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
                            Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái[15],
                            So muôn người như giải lũ tù.
                            Ăn cho ngày độ vài xu,
                            Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
                            Độc thay phong chướng nghìn trùng,
                            Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.
                            Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
                            Người giống ta biết có còn không?
                            Nói ra sởn gáy động lòng,
                            Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
                            Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
                            Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
                            Cũng xương cũng thịt cũng da
                            Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.
                            Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
                            Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
                            Thương ôi! Bách Việt giang san,
                            Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
                            Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
                            Anh em ta phải tính nhường sao.
                            Đôi bên, bên nọ, bên cừu,
                            Họ khôn phải học, cừu sâu phải đền.
                            Việc tân học phải đem dựng nước,
                            Hội dân đoàn, cả nước với nhau.
                            Sự buôn phải lấy làm đầu.
                            Mọi nghề cũng ghé địa cầu một vai.
                            Bây giờ kể còn dài chưa hết,
                            Chữ tự do xin kết bên lòng.
                            Gương Nhật Bản đất Á Đông,
                            Giống ta, ta phải soi trông kẻo nhầm.
                            Bốn mươi triệu đồng tâm nhất đức,
                            Mãnh hổ kia đem sức với quần dương.
                            Hiệu cờ nổi chữ tự cường,
                            Thay bầy nô lệ làm phường văn minh.
                            Kìa thuở trước như Anh, Pháp, Đức,
                            Cũng chẳng qua cùng cực tắc thông,
                            Hoạ may trời có chiều lòng,
                            Việt Nam dựng lại, phương Đông có mình.
                            Thân phiêu bạt đã đành vô lại,
                            Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân.
                            Chinh Nga nhân lúc hoàn quân,
                            Tủi mình bô bá[16], theo chân khải hoàn.
                            Bưng chén rượu ân ban hạ tiệp[17],
                            Gạt hàng châu khép nép quỳ tâu,
                            Thiên Nam mù mịt ngàn dâu,
                            Gió Tây như thồi dạ sầu năm canh.
                            Biết bao nỗi bất bình khôn giải.
                            Mượn bút hoa mà cải quốc âm,
                            Thân giàn bao quản cát lầm,
                            Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này.
                            ~Phan-Bôi-Châu~
                                   (1906)

                            (Theo "Văn thơ Đông-Kinh nghĩa thục" của Võ-Văn-Sạch, Nxb Văn Hoá, Hà Nội, 1997.


                            Chú thích:
                            [1] Á Tế Á: châu Á, phiên âm từ “Asie”.
                            [2] Âu La Ba: châu Âu, phiên âm từ “Europe”.
                            [3] Mạc Phủ: thủ lĩnh của chư hầu thường lấn át quyền vua; Phiên Bang: những nước chư hầu nhỏ.
                            [3] Kể từ khi lập quốc đến nay có 2500 năm lịch sử và trải qua 122 đời vua cùng họ.
                            [4] Thần Hộ: Kobe
                            [5] Lưu Cầu: quần đảo Ryukyu ở phía nam Nhật Bản, nay là Okinawa.
                            [6] Cột đèn bể, nhà bán báo, đầy rẫy ở bến tàu (phụ đầu).
                            [7] Bác đĩnh: pháo thuyền nhỏ, có đặt súng đại bác.
                            [8] Phú Sĩ: núi Fuji gần Kyoto; Tì Bà; hồ Biwa gần Kyoto.
                            [9] Năm 1894. Cả đoạn thơ này nói về việc tranh chấp giữaTrung-Nhật thời đó.
                            [10] Tức ba tỉnh miền Đông TQ là Phụng Thiên, Cát Lâm, Hắc Long Giang.
                            [11] Y Đằng tức Ito, thủ tướng Nhật thời đó.
                            [12] Chỉ Triều Tiên và Mãn Châu bị xâm chiếm.
                            [13] Đường xe lửa Cáp Nhĩ Tân và bến tàu thuỷ hải Sâm Uy.
                            [14] Bỉ Đắc: Thành phố Saint Péterbourg, thủ đô Nga. Ý câu này nói Nga có thề mất cả kinh đô.
                            [15] Chỉ việc làm đường xe lửa Yên Bái-Lào Cai.
                            [16] bô bá: trốn tránh
                            [17] hạ tiệp: tiệc tượu vui mừng chiến thắng


                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2011 08:39:15 bởi Anh Nguyên >
                            #14
                              Anh Nguyên 29.01.2011 11:12:59 (permalink)



                              ĐẶNG-VĂN-BÁ

                                   
                              1873-1931

                              Quê Phất-Náo, Thạch-Hà (Thạch-Bình),
                              Hà-Tĩnh, đỗ Cử Nhân, tham gia phong trào
                              Duy-Tân, nhiệt tình yêu nước, bị Pháp bắt
                              đày đi Côn- Đảo với Ngô-Đức-Kế, được
                              thả, về Sàigòn, Huế, Sống với Phan-Bội-
                              Châu, rồi về quê và mất tại đây.


                              SỐNG

                              Sống dại mà chi sống chật đời!
                              Sống xem Âu Mỹ hổ chăng ai?
                              Sống làm nô lệ cho người khiến,
                              Sống chịu ngu si để bạn cười!
                              Sống tưởng công danh không tưởng nước,
                              Sống lo phú quí chẳng lo đời.
                              Sống mà như thế đừng nên sống,
                              Sống dại sinh chi đứng chật đời.
                              ~Đặng-Văn-Bá~


                              CHẾT

                              Chết mà vì nước, chết vì dân,
                              Chết ấy làm trai hết nợ nần.
                              Chết bởi Đông-Chu hồi thất quốc,
                              Chết vì Tây-Hán lúc tam phân.
                              Chết như Hưng-Đạo hồn thành thánh,
                              Chết tựa Trưng-Vương phách hóa thần.
                              Chết cụ Tây-Hồ hồn chẳng chết,
                              Chết mà vì nước, chết vì dân.
                              ~Đặng-Văn-Bá~




                              LỮ-XUÂN-UY
                                 
                              1838-1890

                              Quê Thượng-Nông, Phong-Doanh, Nam-Định
                              (Yên-Tiến, Ý-Yên, Nam-Định), đỗ Phó Bảng,
                              Tuần Phủ Lạng-Sơn, quân Pháp tiến đánh, thành
                              thất thủ, lánh sang Tàu, sau về liên lạc các
                              nhóm Nghĩa quân đánh Pháp nhiều nơi, bị
                              bắt đày ra Côn-Đảo đầu tiên và mất tại đó.
                              Lúc ngồi tù ông khẩu chiếm bị cạo trọc
                              đầu như nhà sư:

                              Kỷ tằng Bắc khứ trang Thanh khách,
                              Hà sự Nam hành tác trụ trì.
                              Hải đảo khoát khai tân diện mục,
                              Doanh châu tân tráng cựu tu mi.
                              Hoàng y bồng chuyển khan dương thế,
                              Bạch đáo ô đầu tiếu bỉ khi.
                              Đính đới hà sơn chung bấtcải,
                              Quy lai đồng trĩ mạc tương nghi.
                              ~Lữ-Xuân-Uy~

                              Bản dịch:

                              Đã từng sang Bắc giả người Tàu,
                              Sao lại xuôi Nam hóa ở chùa?
                              Hải đảo mở toang tầm mắt mới,
                              Doanh châu thêm rạng vẻ mày râu.
                              Cõi đời luống tựa bồng xoay chuyển.
                              Cười chúng lừa nhau quạ trắng đầu.
                              Phụng sự non sông không biến đổi,
                              Trở về con trẻ khỏi ngờ nhau.
                              ~Lữ-Xuân-Uy~



                              LÊ-VÕ
                              …-1941

                              Quê Trung-Lễ, Văn-Lâm, Đức-Thọ, Hà-Tĩnh, Dự
                              lập Hội đồng Duy Tân, sang Trung-Quốc, Nhật, về
                              nước hoạt động, sắp đi lần 2 thì bị bắt giam ở Vinh
                              rồi bị đưa ra Côn-Đảo, 14 năm sau được thả,
                              sống âm thầm ở quê, làm thuốc cứu đời, khi
                              giam ở Vinh ông làm bài thơ:

                              男 儿 最 苦 公 家 債,
                              造 物 河 狻 志 士 讎,
                              身 世 优 危 清 浪 績,
                              山 河 破 誶 位 亡 区.
                              梨 圓 子 弟 如 星 散.
                              故 國 风 云 尽 日 幽.
                              不 式 武 抬 何 處 覓,
                              杜 捐 渾 軸 伍 更 秋”


                              Phiên âm:

                              Nam nhi tối khổ công gia trái,
                              Tạo vật hà toan chí sĩ thù.
                              Thân thế ưu nguy thanh lãng tích,
                              Sơn hà phá toái vị vong khu.
                              Lê viên tử đệ như tinh tán,
                              Cố quốc phong vân tận nhật u.
                              Bất thức võ đài hà xứ mịch,
                              Đỗ quyên hồn trục ngũ canh thu!
                              ~Lê-Võ~
                                          
                              Dịch nghĩa:

                              Nợ chung vướng nặng vai nam tử,
                              Thù nước chi hờn bác hóa công.
                              Vẫn biết cuộc đời xe cát biển,
                              Cũng liều cái chết với non sông.
                              Anh em thuở nọ tìm đâu thấy,
                              Đất nước hôm rày hết chỗ trông.
                              Kìa chốn võ đài đâu đấy nhỉ?
                              Hồn quyên lai láng suốt canh đông!"


                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2011 10:43:52 bởi Anh Nguyên >
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 44 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9