tiếp...
2. Ra đời giữa lúc mất Nam Kỳ đã sáu năm ! : Triều vua Tự Ðức thứ 15, Nhâm Tuất (Tây lịch 1862), binh Pháp chiếm lĩnh đất Nam Kỳ của ta. Nam Kỳ là kho tàng thiên nhiên của nước ta; cửa biển vào Saigon thật là cuống họng ta, nay đã vào tay người Pháp rồi, ta chưa mất hết cả nước, chỉ là chuyện thời gian sớm muộn đó thôi. Chén vàng đã ụp, nhà lớn sắp tiêu, thương thay cho ta, lại nhè giữa lúc ấy mà sinh ra đờị Thiệt ta sinh ra đời giữa năm Ðinh Mãọ niên hiệu Tự Ðức thứ 20, nghĩa là lúc Nam Kỳ đã mất sáu năm rồị Ðầu xanh nào đã biết gì, con thơ chưa lìa bọc mẹ, thế mà tấn kịch biển khóc non gào, sửa soạn đem mi mà liệng vào giữa tấm màn thảm đạm ấỵ Lồng lộng trời xanh, kẻ ấy là ai đó tá ?
Lúc đầu thế kỷ 18, ngọn sóng mới của Âu học vọt lên cao muôn trượng; những tiếng dội phú cường, hầu như vang động tràn lan cả hoàn cầụ Phải chi ta sớm được đầu thai ở giữa khoảng đó, có lẽ ta không đến đỗi mù mù mịt mịt như ta ngày hôm nay. Nhưng tiếc thay, ta chẳng may sinh ra ở nước Nam ta.
Nước ta từ xưa phụ thuộc vào nước Tàu, địa lý, lịch sử, gốc tích, trải mấy ngàn năm nay, như hai nước anh em đã lâu đời lắm vậỵ Bởi đó, nước ta chỉ biết tôn sùng Hán học như thần thánh, mà Hán học xem trọng, chỉ có khoa cử văn từ.
Tôi từ nhỏ tới lớn, vốn có tư chất thông minh, công phu đèn sách dùi mài cũng không bê trễ, nhưng kể đến sự kết quả, chẳng qua chỉ là sự học khoa cử mà thôị Vì lúc bấy giờ, lối học khoa cử của nhà Thanh, đang sôi nổi như gió cuốn mây bay, người nước mình bắt bóng theo chân, chỉ sợ không giống như người Tàu. Bà con ta muốn cưỡi mây lướt gió, không thể nào không mượn con đường khoa cử, dầu ai có muốn chẳng theo thời đi nữa, cũng không có đường học nào mà đi. Than ôi ! Chổi cùn trong nhà, tự mình xem là của quý, sự ưa thích lâu đời đã thành thói quen thành ra rốt cuộc tôi cũng bị thời trang trói buộc, đến đỗi tiêu hao ngày tháng về nghiệp khoa cử gần hết nửa đời ngườị. Ðó là ả vết nhơ rất lớn trong đời tôi.
3. Cùng anh em đồng chí ra đội Sĩ tử Cần Vương: Năm tôi 17 tuổi, tức là năm Tự Ðức 36, Quý Mùi, quân Pháp chiếm lấy Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ. Ðến năm tôi 19 tuổi, nhằm năm Ất Dậu, Hàm Nghi nguyên niên, quân Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi phải chạy : cung điện bày ra cảnh hoang lương, nhởn nhơ bầy nai, đầy dăng ổ quạ, tấn kịch vong quốc mở ra từ tháng Bảy Hàm Nghi năm đầu trở đi vậỵ Ôi ! Trời nghiêng đất ngã, lúc này kẻ làm trai đội trời đạp đất, ai nỡ dòm non sông bằng con mắt gỗ đá, trơ trơ cho đành !
Tôi được trời phù hộ cho, máu nóng không vừa, ngay từ hồi còn là thằng trẻ con đọc sách của cha để lại, mỗi khi đọc tới chuyện người xưa hăng hái thành nhân tựu nghĩa (hy sinh vì chính nghĩa), tôi thường nhỏ nước mắt ròng ròng, thấm ướt cả sách. Những chuyện Trương công Văn Ðịnh chết theo Nam Kỳ và Nguyễn công Tri Phương tuẫn thành Hà Nội, tôi hay đàm đạo nhắc nhở tới luôn, mà mỗi lần nhắc tới, khiến tôi vung tay vỗ ngực, tự thẹn cho mình thua sút hai ông đó. Vì tính chất trời sinh cho tôi như thế, không thể nào làm bộ khác hơn được.
Sau lúc kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi ngự giá ra đóng tại sơn phòng tỉnh Hà Tĩnh, các bậc quan nhân đang ở nhà, như Nguyễn Xuân Ôn, Ðinh Văn Chất, đua nhau dựng cờ cần vương, phong trào lan tràn khắp các phủ huyện đều có. Ngó lại tôi còn là 1 tên học trò nhỏ tuổi, nào có thế lực gì dám cùng các cụ cùng nổi lên làm việc lớn. Mình như con chim con, lông cánh chưa đủ, nanh vuốt còn non, tự nghĩ mà buồn. Lại nhớ đến chuyện anh hùng của Ðổng Thiên Vương ngày xưa 3 tuổi cỡi ngựa đánh giặc, tôi nghĩ tôi thật là một thằng trai hèn quá.
Suy đi tính lại, không biết làm cách gì, chỉ còn có cách kêu gào bọn đồng học, tổ chức ra một đội quân học trò giúp vua, gọi là "Sĩ tư cần vương đội". Tôi với bạn thiết Trần Văn Lương là người phát khởi, cùng tôn ông cử nhân Ðinh Xuân Sung lên làm đội trưởng, tôi thì làm đội phó. Ðội này chỉ có lối vài trăm ngườị Công việc sắp đặt hơi yên, duy có binh lương khí giới chưa có cách tìm đâu cho rạ Vừa gặp lúc người Pháp đem đại binh tới hạ thành Nghệ An, rồi thừa thắng tiến binh đánh giẹp các phủ huyện. Ðội quân của chúng tôi tổ chức, cả lương hướng súng đạn đều không có, thành ra chỉ trong giây lát, như bày muông chim vỡ lở tứ tán. Tôi phải trà trộn trong đám nạn dân mà chạy thoát thân. Tới nay nhớ lại việc tôi đã làm đó, không khác gì trẻ con làm nhà bằng giấy để chơi, không bỏ cho bậc người kiến thức chê cườị Tuy vậy, tôi cũng cứ chép ngay ra đây, vì tấm lòng mưu toan cứu quốc, thật là phôi thai từ việc ấy mà ra. Nghĩ mình bày trò tuy giả, nhưng mà lòng vốn thẳng ngay, cho nên tôi không dám dấu diếm chỗ dở của tôị Lúc bấy giờ, cửa nhà tôi bị tiêu hủy vì họa binh đao, thân phụ tôi giữa cơn hoạn nạn, lại mang bịnh nặng. Tôi không còn mẹ, cũng không có anh em nào, thành ra không dám bỏ cha mình mà ngó tới việc gì khác. Tôi đành nương náu ở nhà dạy học trò, để chuyên lo săn sóc bịnh cha, cả thảy 9 năm.
4. Muốn hãm tỉnh thành Nghệ An: Những trong 9 năm ấy tôi vẫn lo nghĩ trau dồi lông cánh để một mai bay nhảy vẫy vùng, chứ không hề xao lãng. Tôi thường cùng anh em đồng chí là bọn ông Vương Thúc Quý (người cha khởi nghĩa, đem hương binh chống với Bảo Hộ, sau bị tử nạn) và Hà Văn Mỹ (là một viên kiện tướng bộ hạ của cụ Phan Ðình Phùng, sau bị quân Bảo Hộ bắt được tự tử mà chết), chúng tôi âm mưu vớ nhau, mỗi năm tới ngày lễ kỷ niệm cộng hòa (14/7), anh em mật hội đồ đảng ở tỉnh thành Ngệ An, toan bề hãm thành. Song quân lính Bảo Hộ đông đảo, việc phòng bị kiên cố lắm, chúng tôi không thể thành sự. Có điều là nhân mấy dịp đó mà anh em giang hồ hiệp khách được làm quen kết bạn với nhau, cũng tức là đầu giây mối nhợ cho cuộc hoạt động của tôi sau này vậỵ.
Ðến năm tôi ngoài 30 tuổi, đảng Cần Vương khắp trong nước nối nhau vỡ lở tan tành, chỉ còn sót lại một mình cụ Phan Ðình Phùng ở La Sơn, cố sức cầm cự được lâu. Nhưng tới năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 6, cụ mất. Từ đó trở đi non sông hiu quạnh, việc gánh vác không còn ai. Trải 10 năm, tôi ôm lòng phẫn, nuôi chí to, vẫn rắp ranh ở giữa khoảng núi Hồng sông Lam, dựng lên một cây cờ độc lập. Tới đây tôi không thể nào nín mà không làm được.
Tôi sinh trưởng trong làng xóm dã man, thuở giờ chỉ quen lặn lội trong rừng từ chương khoa cử, nói đến tài học như người Âu châu, thật không có mảy may nàọ Song tôi có bẩm chất cang cường, biết nghĩa liêm sỉ, không chịu theo đuôi làm tớ người ta. Vừa gặp trong nước hồi nay cựu đảng đã im hơi bặt dấu, tân đảng thì chưa nẩy nhánh đâm chồi; tôi kết giao họp đảng bao nhiêu lâu, thành ra ở trong xã hội hơi có tiếng tăm hơn trước, thiết nghĩ lúc này chính mình không tự ra tay làm việc, liệu còn chờ ai. Kết quả tôi được như ngày nay, thiệt bởi môt tấc lòng suy nghĩ đó là nguyên nhân vậỵ.
Tuy thế, tôi dại dột thì thôi. Nghĩ xem thế lực người Pháp lớn lao thế kia, tài sức tôi nhỏ nhoi thế này, tôi ỷ vào quốc dân, mà quốc dân ở vào trình độ còn thấp thỏi ra sao, tôi dựa vào thời thế nhằm lúc khó khăn ra sao, không nói cũng rõ. Vậy mà tôi chẳng dòm trước ngó sau, chỉ cậy mình có bầu máu nóng trơ trơ, toan ra tay làm việc vá trời lấp biển, chẳng phải là tôi điên khùng lắm sao ? Dù sao mặc lòng, tôi cứ việc hăng hái đi tới, không dòm ngó trước sau gì hết. Trong trời đất có ai ngu dại hơn tôi nữa không ?
http://www3.ttvnol.com/tacphamvanhoc/124546.ttvn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.08.2005 17:41:27 bởi HongYen >