(url) Phan Bội Châu
Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 36 trên tổng số 36 bài trong đề mục
HongYen 21.08.2005 14:20:33 (permalink)
.......

17. Long Tế Quang bắt tôi hạ ngục :

Mồng 5 tháng 5 năm Nhâm Tý (1912), anh em trong đảng sửa sang tổ chức lại, thành ra hội "Việt Nam Quang Phục" (Việt Nam Quang Phục Hội hay Quang Phục Hội; cương lĩnh của đảng dựa trên Tam Dân. Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên, người vừa thành công trong cuộc cách mạng Tân Hợi, 1911). Các đồng chí cử tôi giữ quyền tổng lý, Hoàng quân Trọng Mậu (Hoàng Trọng Mậu) thì làm bí thư.

Chúng tôi thảo ra th ể lệ cách thức đạo quân Việt Nam Quang Phục, lại in ra phiếu quân dụng riêng cho Việt Nam Quang Phục quân dùng với nhau. Một mặt khác chúng tôi mượn in vô số sách vở văn bài cổ động, như là truyện "Hà thành Liệt sĩ" và bài văn khuyên bảo lính tập, rồi sai người chuyển vận về nước, rải phát tứ tung.

Tháng 2 năm Quý Sửu (1913), chúng tôi ủy ông Nguyễn Hải Thần làm chi bộ bộ trưởng hội Việt Nam Quang Phục ở Quế biên (giáp giới tỉnh Quế, tức Quảng Tây), ông Trần Văn Kiện làm chi bộ bộ trưởng ở Xiêm biên, còn ngả Ðiền biên (Ðiền là tên tắt của tỉnh Vân Nam) thì Ðổ quân Chơn Thiết (Ðổ Chơn Thiết) tự nguyện phụ trách. Chúng tôi bàn định lúc nào cử sự (khởi sự làm) thì cả 3 mặt cùng tiến, cho nên sự sắp đặt từ trước sẵn sàng, chỉ còn đợi ngày giờ đến thì làm việc.

Tuy vậy, lúc ấy đảng ta vẫn có một vấn đề khó nổi giải quyết, là vấn đề kinh tế.
Khó quá, kinh tế chưa được sung túc, mà đến khí giới quân lương cũng đều l ngại thiếu thốn nữa mới khổ. Nhưng nếu đừng có việc tai biến (tai họa và biến cố) gì xảy ra 1 cách bất ngờ, để chúng tôi còn có ngày giờ thì vấn đề dầu khó mặc lòng, họa may có thể trù tính xong được. Song chẳng may thuyền xuôi gió ngược, tai biến xảy ra không ngờ, làm cho toàn cuộc mưu tính của tôi hư hỏng tiêu tan như bọt nước bóng mâỵ Hán Võ Hầu (Gia Cát Khổng Minh) than rằng đời khó được như ý, thật đúng lắm thay !

Mùa hạ năm Quý Sửu (1913), ở tỉnh thành Quảng Ðông có việc quân lính nổi dậy gây biến, cốt đánh đổ Ðô đốc Trần Cảnh Hoa, làm cho Trần phải chạỵ Long Tế Quang kéo binh tới, tự lãnh chức Ðô đốc Quảng Ðông. Thuở nay, họ Long với đảng cách mạng VN vẫn không quen biết nhau và không quan hệ liên lạc với nhau bao giờ. Ðã vậy mà Long lại là người thù ghét vây cánh Hồ Hán Dân và Trần Cảnh Hoa, chỉ muốn có dịp bài trừ cho tiệt. Thành ra đảng ta bị vạ lây; tôi phải ôm cái cảm khái thỏ chết chồn đau, vì Hồ - Trần thất bại, đảng ta không chỗ nương dựa ở Quảng Ðông nữa. Lúc đó tôi muốn bỏ đi nơi khác cho mau, nhưng vì có công việc của đảng còn ràng buộc, bỗng chốc thu xếp không kịp, tôi đành phải nấn ná ở lại. Nhưng cũng lo phòng thân, tôi lật đật viết thư lên Nguyễn Quân Ðĩnh Nam (Nguyễn Ðĩnh Nam; tức Nguyễn Thượng Hiền), cậy ông tìm cách vận động xin giùm tôi 1 hộ chiếu, để nữa tôi có đi đâu mới được.

Nguyễn quân vốn là người nhiệt tâm với nước. Sơ tuần tháng 7, ông tiếp được thư tôi, lập tức lấy được giấy hộ chiếu của Bộ ngoại giao Bắc Kinh gửi xuống cho tôi. Có tờ hộ chiếu nằm trong tay rồi, tôi bớt lo sợ. Vả lại các bạn đồng chí cùng ở Quảng Ðông với tôi lúc bấy giờ khá nhiều, nếu như đồng thời giải tán, muốn đi đâu cũng phải cần có phí khoản mà hiện tạ tiền bạc không có, thành ra chúng tôi đành chịu nấn ná ở lại đây với nhau, không tính đi đâu được. Cách không bao lâu, có tin báo rằng quan Toàn quyền Ðông Pháp sắp tới Quảng Ðông. Kế 1 tuần sau, thì các cơ quan hành sự của đảng ta đều bị khám xét và được lịnh giải tán. Tôi với yếu nhân của đảng là Mai quân (tức Mai Lão Bạng, 1 linh mục theo VN Phục Quốc Hội, chết năm 1942) cùng bị bắt hạ ngục. Nguyên trước, Hoàng quân Trọng Mậu (Hoàng Trọng Mậu) có việc đi Vân Nam và Phan quân Bá Ngọc (Phan Bá Ngọc) hồi xuống tàu đi Nhật Bản, đều căn dặn tôi nên liệu cơ mà từ giã Quảng Ðông kẻo nguỵ. Song tôi suy nghĩ các bạn đồng chí đang ở Quảng Ðông với mình vô số, mình không đành lòng nào lo riêng một mình. Vì đó mà tôi cứ do dự chần chờ, mới vương lấy tai ách bây giờ.

Ban đầu mới bị bắt, tôi vẫn tự nghĩ rằng mình không đến nỗi nào phải chết. Ðến lúc thấy cách thức người ta áp giải mình đi dọc đường, nào xiềng tay, nào trói chặt, dẫn vô tới gục thất, họ lại giam trong ngục thất chung 1 chỗ với bọn tù xử tử, bấy giờ tôi mới biết rằng Ðô đốc Long Tế Quang không đãi tôi là hạng tù chính trị, vậy thì ngày giờ tôi chết gần đến nơi rồi!

Từ khi xuất dương tới giờ, tôi được nếm mùi ở tù, lần này là lần thứ nhất. Nhưng Mai quân hơn tôi : lần này ông ta vào ngục là lần thứ 3 rồi. Vào ngục bữa đầu hết, tôi với Mai quân ở chung 1 sà lim. Ðêm hôm ấy, tôi đọc miệng 1 bài thơ an ủi Mai quân như vầy :
Phiêu bồng ngã bối các tha hương
Tân khổ thiên quân phận ngoại thường
Tính mạng kỷ hồi tần tử địa
Tu mi tam độ nhập linh dường
Kinh nhân sự nghiệp thiên đào chú
Bất thế phong vân đế* chủ trương
Giả sử tiền đồ tận di thản
Anh hùng hào kiệt giã dung thường

Ðại ý là :
Bơ vơ đất khách bác cùng tôi :
Riêng bác cay chua nếm đủ mùị
Tính mạng bao phen gần chết hụt.
Mày râu ba lượt bị giam rồi !
Trời toan đại dụng nên rèn chí,
Chúa* giúp thành công tất có hồi
Nếu phải đường đời bằng phẳng hết ,
An hùng hào kiệt có hơn aị


(* Vì Mai Lão Bạng là linh mục nên Phan Bội Châu mới có câu này).
Còn tôi thì tự an ủi mình bằng 1 bài thơ nôm như sau :
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Ðã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân nọ vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiều nguy hiểm sợ gì đâu

Làm xong 2 bài thơ, tôi ngâm nga lớn tiếng rồi cả cười, vang động cả 4 vách, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục.

*

Qua ngày thứ nhì, người ta nhốt riêng tôi và Mai quân mỗi người ở cách biệt nhau một nới. Thế là từ hôm nay, tôi là thằng tù bơ vơ trơ trọi ở chốn tha hương khách địa.
Những nỗi khổ nhục ở trong khám, cố nhiên mình chẳng nên xót xa than thở làm gì. Duy có 1 điều đau đớn là mình phải cách trở anh em, tuyệt hẳn tin tức, mà ở trong ngục chỉ có 1 mình nói tiếng VN cho mình nghe thôi, luống nghĩ tự buồn rầu cho thân phận, rồi lại chạnh niềm nhớ tới công việc thất bại, khiến tôi phải đau lòng mà khóc, nước mắt tầm tã như mưa. Thật là từ lúc cha mẹ đẻ tôi ra đến nay chưa hề lúc nào biết mùi đau đớn như bây giờ. Mà từ lúc cha mẹ đẻ ra, tôi chưa hề nếm mùi đau đớn như vầy, đầu giây mối nhợ là vì cái chí tôi hoài bão từ 30 năm trước.

Cái chí tôi hoài bão ra thế nào?

Thì chỉ muốn đổ máu ra mà mua sự tự do, đánh đổi cái kiếp tôi tớ lấy quyền tự chủ đó thôi. Ôi ! Cái chí tôi hoài bão như thế, cứ lấy thiên chức quốc dân ta mà nói, có ai dám bảo rằng : không nên. Song ôm cái chí đó mà có làm thành việc lớn chăng, thì phải nhờ có bắp thịt cứng ra thế nào, học thức giỏi ra thế nào, thủ đoạn có tài thao túng (cầm nắm và buông thả ra) ra thế nào, thời thế có khéo xoay chuyển thế nào mới được. Ðằng này tôi tự hỏi lấy tôi, bất quá như anh mù cỡi ngựa đui vậy thôị Bây giờ kết quả thất bại như thế này, chính vì tôi dở mà ra, con than trách gì nữa!

Tuy vậy, tôi nghĩ trong thế giới chẳng lẽ nào có 1 con nước hễ đã xuống rồi thì không bao giờ nó lại lên, chẳng lẽ nào có 1 cuộc đời hễ đã thành rồi thì không có lúc thay đổi; bởi vậy, cái cuộc thất bại của tôi tạo ra ngày nay, biết đâu không phải là cái phước cho quốc dân sau này?

Than ôi ! Dòng dõi Hùng vương chưa chết hết, chuyện cũ Lê hoàng còn mới hoài, phàm là quốc dân ta, ai hoài bão chí muốn như ta, tất có ngàn ta, muôn ta, ức triệu ta, nên lấy việc thất bại trước của một ta mà răn mình, để cho được trở nên những người năng y, không đợi tới 9 lần đứt tay mới hay thuốc!

Tôi lại nghĩ tôi là 1 người trong tay không có lấy 1 miếng sắt, trên mặt đất cũng không có lấy 1 chỗ nào đứng chân, chẳng qua mình chỉ là 1 thằng tay không chân trắng, sức yếu tài hèn, lại đòi vật lộn với hùm beo có nanh dài vuốt nhọn. Ai biết lòng mình thì than tiếc dùm mình mà nói:
Gan to!

Ai muốn bắt lỗi mình thì cả thể bảo mình :
Ngu quá !

Tóm lại, trong đời người thật không có ai ngu lạ như tôị Nếu có phải tính mạng của tôi đến ngày hôm nay là ngày cùng rồi, khi tôi chết, người ta cứ đặt tên hèn cho tôi là Kỳ Ngu thì đúng lắm, không đổi được chữ nào khác hơn. Nhưng nếu muôn một mà tôi không chết, thì rồi sau thấy beo cọp há lại không thể đánh được ư? Xin quốc dân ta nên xem gương mà tự răn lấy mình.

Lịch ta ngày 25 tháng Chạp năm Quý Sửu (1913).
Sào Nam tử viết tập "Ngục Trung Thư này ở nhà ngục Quảng Châu, sau khi vào ngục được 3 ngày.

http://www3.ttvnol.com/tacphamvanhoc/124546.ttvn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.08.2005 14:22:09 bởi HongYen >
#31
    HongYen 27.08.2005 14:16:40 (permalink)
    .

    Hoàng thân Cường Để và chí sĩ Phan Bội Châu



    Nói tiếp về Phan Bội Châu và Cường Để

    Sau khi Đông Du tan rã, Hoàng thân Cường Để, một trong những lãnh tụ của Đông Du cũng phải rời Nhật Bản.
    Nhưng đến thập niên 40, khi chính sách Đại Đông Á được phát-xít Nhật tung ra nhằm thuyết phục các dân tộc Đông Á về vai trò lãnh đạo của Tokyo ở toàn vùng Châu Á-Thái Bình Dương, Cường Để có một cơ hội trở về Việt Nam.

    Là người đồng tổ chức một số hội thảo tại Nhật và Pháp về quan hệ Nhật Bản với Đông Nam Á, GS sử Nguyễn Thế Anh, hiện sống tại Pháp cho BBC biết về kế hoạch của Nhật muốn đưa Hoàng thân Cường Để về đóng một vai trò chính trị tại Đông Dương hồi Thế Chiến II.


    Nghe giáo sư Nguyễn Thế Anh

    Nói về Cường Để, ông giải thích vì sao tước của nhân vật này lại là Kỳ Ngoại Hầu. Đó là dù thuộc dòng chính từ vua Gia Long, nhưng cha ông của Cường Để bị loại khỏi dòng nắm ngai vàng nhà Nguyễn từ sau loạn Hồng Bảo.

    Nhưng theo ông, kế hoạch này không thành vì nhiều yếu tố chính trị tại Việt Nam và thế giới, dù có những nhóm như Cao Đài, Hoà Hảo từng muốn phò tá Cường Để.

    Phan Bội Châu và cộng sản

    GS Nguyễn Thế Anh cũng nói ông không tìm thấy bằng chứng rằng cụ Phan Bội Châu có xu hướng ủng hộ cộng sản như một số ý kiến khác nói.

    Theo ông, tờ Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng mà Phan Bội Châu có cộng tác đã lên án vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh, nhất là cách thức tiêu diệt trí thức của Phong trào này.

    Vì thế, GS Nguyễn Thế Anh nói khó có thể cho rằng nhà yêu nước Phan Bội Châu từng có ý theo những người cộng sản.

    Ông tin rằng những tư tưởng về quốc gia và dân tộc của Phan Bội Châu để lại vẫn còn nhiều ý nghĩa cho Việt Nam ngày nay.

    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/08/050816_phanboichausocialism.shtml
    #32
      HongYen 27.08.2005 14:19:29 (permalink)
      25 Tháng 8 2005 - Cập nhật 13h59 GMT

      Duy Tân và Đổi Mới có gì giống và khác nhau?

      Đặng Phong
      Giáo sư Kinh tế, Hà Nội

      Khi đó, các nhà cải cách Việt Nam, như Ngoại Kỳ Hầu Cường Để, đã hướng sang Nhật Bản để tìm cảm hứng canh tân.

      Trong kinh tế, sửa đổi hay cải cách là công việc thường xuyên. Nhưng nếu nói đến phong trào có quy mô xã hội rộng lớn, như một sự bùng nổ sau một thời gian dài dồn nén, thì trong thế kỷ thứ XX, Việt Nam có hai lần như thế.
      Lần trước vào phần tư đầu thế kỷ, với phong trào Duy tân. Lần sau vào phần tư cuối thế kỷ , với công cuộc Ðổi mới.

      Xét về ngữ nghĩa, Duy tân là Ðổi mới. Ðổi mới cũng là Duy tân. Nhưng nếu xét về hoàn cảnh lịch sử, về lộ trình, về nội dung, về ý nghĩa và kết quả, thì duy tân và đổi mới có nhiều chỗ khác nhau.

      Duy tân và Đổi mới vì thế, có nhiều chỗ giống nhau và khác nhau.


      Đọc toàn văn bài viết

      Duy tân là việc của phần tư đầu thế kỷ XX. Ðổi mới là việc của phần tư cuối thế kỷ XX. Khoảng cách thời gian xa nhau, hoàn cảnh khác nhau, con người khác nhau, đối tượng khác nhau và kết quả cũng khác nhau.

      Cả hai phong trào đều lựa chọn cái mới, cái tiến bộ như giải pháp cơ bản của phát triển. Cả hai đều có nội dung cơ bản là khắc phục những định kiến và lề thói cũ, kể cả những cái từng được ngộ nhận là 'khuôn vàng, thước ngọc' đã lỗi thời.

      Nhưng cả hai đều có chung những 'khuôn vàng, thước ngọc' muôn thuở là: dân giầu, nước mạnh, công bằng, hữu ái, văn minh.

      Thiển nghĩ: nếu hôm nay chúng ta tụ hội tại đây để tôn vinh những nhà duy tân, thì có nên chăng cũng đáng có một dịp nữa để tôn vinh những người đã có công đột phá và đổi mới, tức các nhà 'tân duy tân'?


      Trang đặc biệt về Đông Du

      http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/08/050817_dongduvadoimoi.shtml
      #33
        HongYen 27.08.2005 14:37:39 (permalink)

        Đọc toàn văn bài viết


        25 Tháng 8 2005 - Cập nhật 13h51 GMT


        Bài viết so sánh Duy Tân với Đổi Mới


        Giáo sư Đặng Phong (bên phải) trong một chuyến đến Scotland, Anh Quốc


        Dưới đây là toàn văn bài viết của Giáo sư kinh tế Đặng Phong từ Hà Nội mang tựa đề: 'Thử so sánh Duy tân với đổi mới, nhìn từ góc độ kinh tế'. Bài đã đăng tại ở Việt Nam thời gian trước đây.
        Trong kinh tế, sửa đổi hay cải cách là công việc thường xuyên. Nhưng nếu nói đến phong trào có quy mô xã hội rộng lớn, như một sự bùng nổ sau một thời gian dài dồn nén, thì trong thế kỷ thứ XX, Việt Nam có hai lần như thế.

        Lần trước vào phần tư đầu thế kỷ, với phong trào Duy tân. Lần sau vào phần tư cuối thế kỷ , với công cuộc Ðổi mới.

        Xét về ngữ nghĩa, Duy tân là Ðổi mới. Ðổi mới cũng là Duy tân. Nhưng nếu xét về hoàn cảnh lịch sử, về lộ trình, về nội dung, về ý nghĩa và kết quả, thì duy tân và đổi mới có nhiều chỗ khác nhau.

        Dưới đây, xin thử nêu lên 10 điều so sánh những chỗ giống nhau và khác nhau của hai phong trào kể trên:

        Duy tân-Ðổi mới

        1. Hoàn cảnh lịch sử

        Duy Tân: Việt Nam đang bị Pháp đô hộ. - ách đô hộ Pháp là trở ngại chính của sự phát triển. -Phong trào Cần Vương đã thất bại. Mô hình phong kiến, với tiết tháo của những nho gia, không giải được ách nô lệ cho dân tộc. Vấn đề đặt ra là phải tìm con đường khác, không chỉ dựa vào tiết tháo, mà dựa vào sự cường thịnh.

        - Nhật trở thành một tấm gương đầy thuyết phục rằng nếu duy tân (chữ duy tân cũng lấy từ chữ Minh trị duy tân), thì người Châu Á có thể tiến lên phú cường.

        Đổi Mới: Việt Nam được độc lập. - Cái đang kìm hãm sự phát triển là mô hình kinh tế do chính Việt Nam lựa chọn. Chiến tranh kết thúc, Mỹ thì vẫn duy trì cấm vận kinh tế với Việt Nam, nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa thì giảm sút đột ngột. Mô hình kinh tế cũ vốn không thể tự nuôi dưỡng được nó, đến lúc này hội chứng của một nền 'kinh tế thiếu hụt' càng trở nên trầm trọng.

        - Do những huý kỵ về nguyên lý, ban đầu không ai dám quy nguyên nhân của những ách tắc cho mô hình kinh tế. Tư duy kinh tế đến lượt nó cũng bị ách tắc.

        - Bài toán mà lịch sử đặt ra lúc này là phải sóng bằng cái do mình làm ra. Mô hình kinh tế cũ không giải được bài toán đó. Phải tìm một cách giải khác.

        - Trong khu vực đã xuất hiện nhiều con rồng càng ngày càng có sức thuyết phục.

        2. Mục đích:

        Duy Tân: - Chính trị là mục đích: độc lập. Kinh tế là biện pháp: Phú quốc cường binh, thực sản hưng nghiệp. Có hưng nghiệp mới có phú quốc, có phú quốc mới có cường binh, có cường binh thì mới có độc lập. Hay nói như nhà duy tân Trung Quốc Vương Thao: 'tiên phú hậu cường'.

        Sự phát hiện này đã được một người Việt Nam nói lên ngay từ giữa thế kỷ thứ 19: Ðó là Phạm Phú Thứ, sau khi di sứ ở Pháp về (1864), đã viết hai câu thơ như sau: Tảo giao Ðông thổ kiêm trường kỹ Pha lý, Long đơn vị túc tiền Nghĩa là: Giá như Phương Ðông sớm giỏi công nghệ Paris, London chắc gì hơn ta.

        -Còn sau khi có độc lập rồi, sẽ đưa đất nước đi theo mô hình nào, thì các nhà duy tân còn khá mơ hồ. Ðó cũng là theo tư tưởng của Tôn Văn tiên hành hậu tri, tức cứ làm trước rồi sẽ biết sau. Tuy nhiên, xem trong ý tứ của các vị, thì hầu hết đều ít nhiều có xu hướng xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh, đoàn kết cộng đồng dân tộc.

        - Kinh tế là mục đích: dân giàu, nước mạnh (mô hình kinh tế cũ cũng đặt ra mục đích này, nhưng không đạt được như ý muốn. Ðổi mới không phải là sự thay đổi về mục đích, mà là thay đổi về phương pháp.

        -Đổi Mới:, mục đích là kinh tế, nhưng đồng thời phải đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

        3. Cú hích ban đầu

        Duy Tân: :- Tấm gương Nhật Bản. tấm gương đó lại đến qua con đường gián tiếp, qua phong trào Duy tân của Trung Quốc, qua những tác phẩm các nhà duy tân Trung Quốc (Tân thư). - Duy tân là một sự bừng tỉnh. Nó không những chống Pháp xâm lược, mà còn là sự phủ định những phương thức chống Pháp cũ. Ðó là một sự lột xác gian nan . Sau những thất bại liên tiếp của phong trào Cần Vương, những người yêu nước đã bừng tỉnh thấy rằng sách Tứ thư ngũ kinh của thánh hiền, phép vua tôi cùng những chữ Trung, Hiếu, Lễ, Nghĩa, 'hay những chén thuốc độc, những sợi dây tuẫn tiết, không cứu được dân được nước. Nói như Ðặng Huy Trứ: 'Làm ra của cải, đạo lớn ấy không thể xem khinh'.

        Hoặc như một câu đối tại một trường học mà các nhà duy tân mở tại Hoà An (Quảng Nam) ghi: Chữ Sĩ Nhiếp sắp về già, chép để nghìn thu mong bạn trẻ. Siêng năng theo kịp bạn, bắc thang tiến bộ bước dần lên. Bừng tỉnh trong Duy tân là: phải tìm sức mạnh không chỉ ở sự trung nghĩa, mà chủ yếu là ở những sức mạnh vật chất, lấy từ kinh tế, từ sự phát triển công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp.

        Nói cách khác phải học kẻ thù để lấy sức mạnh chống lại kẻ thù, khác hẳn với cách phủ nhận kẻ thù đơn giản, chỉ bằng cách gọi nó là bạch quỷ, hồng mao.

        Đổi Mới: -Cú hích trực tiếp là sự bức xúc bên trong: những khó khăn về kinh tế buộc các cơ sở phải bươn trải, bung ra để tự cứu. Không có cú hích ban đầu từ bên ngoài.

        -Ðổi mới cũng là một sự bừng tỉnh. Trong mô hình cũ, mục tiêu dân giàu nước mạnh không thực hiện được. Sau nhiều cố gắng để cải thiện mô hình cũ như ba xây, ba chống, cải tạo công thương nghiệp, xoá bỏ thị trường tự do, ngăn sông cấm chợ, giương lên nhiều lá cờ và phát động nhiều phong trào , nhiều chiến dịch trong kinh tế và trong văn hoá tư tưởng vẫn không đạt được kết quả, thậm chí tình hình ngày càng bế tắc. Chính từ sự bế tắc đó, những bộ óc thực tế nhất đã bừng tỉnh thấy ra rằng không thể đốt cháy giai đoạn bằng ý chí được, phải tìm ra những giải pháp thích hợp với cuộc sống để tháo gỡ cho cuộc sống.

        Cũng như phong trào Duy tân, sự đổi mới này không chống lại những người đi trước, nhưng làm khác những người đi trước, coi cách nghĩ của những ngừời đi trước là rất khả kính nhưng bất khả thi. Bây giờ phải tìm cách khác để thực hiện chính những mục tiêu của những người đi trước. Không coi kinh tế tư nhân, kinh tế thị trường là đối lập với chủ nghĩa xã hội, là phản động, là xét lại, mà là những cái có thể điều tiết và sử dụng để đi tới xã hội chủ nghĩa. Ðó cũng là sự lột xác về tư duy và giải pháp.

        4. Nội dung

        Duy Tân: :-Về mặt kinh tế là phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dân tộc: người Việt Nam phải kinh doanh nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, lập các hội buôn để làm giàu. Ðó là tư tưởng khai dân trí, chấn dân khí. Nói theo các nhà Duy tân Trung Quốc: trọng thương chấn công (Hồng Nhân Can), phú nhân (Mã Kiến Trung), dưỡng dân (Lý Hồng Chương) - ít nói tới tư bản ngoại quốc. Sự thống trị của Pháp đang là một sự răn đe. Cũng không thấy nói tới đầu tư của nước ngoài. Riêng Phan Chu Trinh có đưa ra chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ', mà nội dung chính là vận động, đấu tranh đòi nhà nước Pháp nới rộng ách đô hộ, giúp đỡ mở mang dân trí, khuyếch trương kinh tế'.

        Đổi Mới: - Nội dung cơ bản không khác Duy tân: Một trong những tư tưởng lớn của đổi mới là kinh tế nhiều thành phần. Trong nhiều thành phần này có một số thành phần đã có trong mô hình cũ như kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể. Cái mới trong đổi mới thì chính là thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản chủ nghĩa.

        -Vì đã có độc lập, có chủ quyền, nên khác với các nhà duy tân: Một trong những chủ trương rất quan trọng trong đổi mới ở Việt Nam là thu hút dầu tư nước ngoài, chấp nhận các nhà tư bản nước ngoài vào kinh doanh.

        5. Bài bản

        Duy Tân: :-Tân thư, đó là các sách khảo cứu của các học giả Duy tân Trung Quốc. Các vị đó vừa trước tác, vừa biên dịch các sách của Nhật và của phương Tây. Những tư tưởng của phương Tây được các nhà Duy tân Việt Nam biết đến bằng tiếng Trung Quốc và qua sách báo Trung Quốc. - Ngoài việc tiếp thu Tân thư, các nhà Duy tân của Việt Nam còn dựa vào những tinh thần của Tân thư để biên soạn, phỏng dịch, lược dịch những tư tưởng chính của tân thư cho thích hợp với người đọc Việt Nam, bằng tiếng quốc ngữ.

        Trong việc này, Ðông Kinh nghĩa thục có vai trò rất quan trọng. Như trong Chiêu hồn nước đã nói: Sách Châu Mỹ, sách China Chữ kia chữ nọ dịch ra tinh tường 'Một người học muôn người đều biết Chí ta thông trăm việc phải hay'

        Đổi Mới:Ban đầu, không có bài bản. Nói như vật tưởng như vô lý. Thực ra thì thế mới là có lý. Như đã nói, trở ngại chính của đổi mới là những huý kỵ. Ðể khắc phục những huý kỵ thì không thể dùng bài bản được, mà phải dùng những giải pháp thực tiễn, chứng minh từ thực tiễn. - Nói không có bài bản từ ban đầu là nói về tổng lộ tuyến của đổi mới. Còn trong từng vụ việc, trong từng mũi đột phá, thì lại rất có bài bản.

        Khoán ở Vĩnh Phú và ở Ðồ Sơn, cơ chế một giá ở Long An, cấp đất và trả máy cày cho tư nhân ở An Giang, tháo gỡ của công ty lương thực Bà Ba Thi, dệt Thành Công, tơ lụa Nam Ðịnh, thuốc lá Bông sen ở Thanh Hoá, đều là những bài bản rất có tính toán, để làm sao vừa đột phá và tháo gỡ thành công, vừa tránh phạm huý kỵ để khỏi bị “thổi còi”. - Chỉ sau một số năm (từ 1979 đến 1986) và qua một loạt vụ việc phá rào, thử thách, thấy thực tiễn chứng minh là cần, và có thể đổi mới toàn diện, thì mới hình thành những bài bản, bắt đầu với Văn kiện Ðại hội Ðảng lần thứ VI (1986).

        6. Chủ xướng

        1. Hoàn cảnh lịch sử Duy Tân:- Khi phong trào Duy tân xuất hiện, thì giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam chưa ra đời. Do đó, việc đề xướng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại không thể là các nhà tư sản, mà là icác sĩ phu theo hệ tư tưởng tư sản. Ðó là theo lý thuyết thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách của Cố Viêm Võ. Nhưng các vị sĩ phu lại là những người không giỏi kinh doanh mà chỉ giỏi dạy học và viết sách. Ðó là một đặc điểm của phong trào duy tân (về mặt kinh tế).

        Đổi Mới:Bắt đầu quá trình chưa thể có người chủ xướng trên tầm quốc gia. Chủ xướng là các cán bộ lãnh đạo có uy tín ở cấp tỉnh, cấp giám đốc xí nghiệp hay công ty. Về mặt lịch sử, rất đáng tôn vinh họ là những người anh hùng của công cuộc đổi mới. Nhưng khi đột phá, các vị đó chưa thể và cũng chưa dám nghĩ đến cái lộ trình chuyển cả nước sang kinh tế nhiều thành phần, sang kinh tế hàng hoá, sang cơ chế htị trường. Khi phong trào phá rào và tháo gỡ đã phát triển đến một mức độ nhất định, kết quả tích cực đã được ghi nhận, thì ngày càng có nhiều vị lãnh đạo cấp cao đồng tình, ủng hộ và tạo ra sự chuyển đổi ở tầm quốc gia.

        7. Người đỡ đầu

        Duy Tân: : - Người đỡ đầu là Nhật Bản và một số nhà duy tân Trung Quốc. Khôngbao lâu, những người đỡ đàu này đã lần lượt bỏ rơi những tín đồ” Duy tân Việt Nam.

        Đổi Mới: -Tranh thủ sự đồng tình của từng vị lãnh đạo cấp cao nhất ở trung ương.

        8. Trở ngại, trở lực

        1. Hoàn cảnh lịch sử Duy Tân: - Trở lực chính là chủ nghĩa thực dân Pháp. Ðối với trở lực này không thể có sự đồng thuận, vì mâu thuẫn là mâu thuẫn đối kháng giữa kẻ xâm lược và người bị xâm lược. Khác với quan hệ trong nội bộ dân tộc: ở đây không óc chuyện phép vua thua lệ làng, mà là cả hai cái đó đều bị chủ nghĩa thực dân dồnvào chân tường. Cả vua, nếu chống lại cũng bị đầy biệt xứ. - Một trở lực nữa, trở lực bên trong, chính là cách nghĩ, cách làm, cách sống theo nho giáo cũ. Từ phương pháp đấu tranh giành độc lập tới cách suy nghĩ về xã tắc, cách ăn mặc, sinh hoạt đều cần phải sửa đổi 'Trống tân học đuổi ma cổ hủ'.

        - Nếu giả định vẫn được phát triển bình thường, thì rất có thể phong trào còn gặp một trở ngại nữa: đó là sự hạn chế của bản thân những người chủ trương duy tân. Họ không phải là các nàh kinh doanh mà chỉ là các sĩ phu. Họ không biết kinh doanh theo đúng nghĩa của nó, mà chỉ muốn hô hào phát triển kinh doanh. Nếu các nhà sĩ phu yêu nước được tiếp tục tổ chức các hoạt động kinh tế, khó tránh khỏi sự vấp váp ngay trên thương trường (thực tế là ngay lúc đó đã có một số cơ sở kinhdoanh do các vị sáng lập đã bị thua lỗ, phá sản).

        Đổi Mới:Trở lực thứ nhất là những huý kỵ. Ðó là những nguyên tắc cơ bản của mô hình kinh tế cũ như: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lao động tập thể, kinh tế kế hoạch hoá tập trung, độc quyền của nhà nước về ngoại thương, quan niệm rằng tư bản là bóc lột, là đối lập với chủ nghĩa xã hội, rằng kinh tế tiểu nông và thị trường tự do từng giờ từng phút đẻ ra chủ nghĩa tư bản, thương nghiệp và giá cả phải do nhà nước chỉ đạo.

        -Trở lực thứ hai là những thói quen bao cấp: quen mua giá cung cấp, quen sống bằng tem phiếu, quen trông chờ nhà nước cấp phát vốn, vật tư.

        -Trở ngại thứ ba là những do dự của cấp trên. Với tinh thần trách nhiệm trước Ðảng, trước đất nước, trước nhân dân, nhiều vị bănkhoăn rằng có thể sẽ đi chệch hướng của chủ nghĩa Mác-Lênin, mất chủ nghĩa xã hội, mất Ðảng, mất chế độ, gây rối loạn trong đời sống, mà trước hết sẽ ảnh hhưởng đến cuộc sống của nhân dân lao động.

        9. Ðường đi nước bước

        Duy Tân: : -Dùng hình thức công khai và hợp pháp để tổ chức các trường học, các hiệp hội, các cơ sở kinh doanh.

        -Tuyên truyền tư tưởng duy tân dưới nhiều hình thức: phổ biến các sách báo Tân thư dưới hình thức mở các cửa hiệu sách, ra báo. Ðông kinh nghĩa thục còn lập ra ban Tu thư và đặc biệt là những buổi diễn thuyết 'người đông như hội, kỳ bình văn khách tới như mưa'.

        -Tổ chức các hội buôn. Ngoài thương nghiệp và công nghiệp , còn phát triển các đồn điền… - Những hoạt động kinh doanh đó trước mắt chưa nhằm chấn hưng cả một nền kinh tế quốc gia, mà chỉ nhằm khuyến khích phong trào. Lợi nhuận chưa nhằm làm giầu, mà phần lớn được sử dụng để khuyến học, giúp đỡ phong trào Ðông du.

        -Tư tưởng duy tân có trước, đi trước, thực tiễn duy tân diễn ra sau.

        Đổi Mới:Nguyên tắc cơ bản của các hoạt động đột phá là phải kính nhi viễn chi đối với những điều huý kỵ. Làm sao phá rào mà vẫn giữ được sự đồng thuận. Ðó là điều rất ngoạn mục và đặc sắc của đổi mới ở Việt Nam. - Nói theo ngôn ngữ của những người phá rào, thì có nhiều cách phá rào mà vẫn không bị 'thổi còi': có khi lợi dụng 'đèn vàng' mà vượt nhanh, có khi lợi dụng lúc 'đèn đỏ' trục trặc hay khi người cầm còi 'thông cảm, cho qua', có khi bí quá thì 'rú còi cấp cứu' (bất kể cứu thương hay cứu hoả) để xin vượt 'đèn đỏ'. Khi đó 'phép vua thua lệ làng'!

        - Một trong những nhà cải cách đã nhận xét về đường đi nước bước của phá rào: 'Phá rào hay tháo gỡ thực ra cũng giống như việc xuyên một lỗ nhỏ qua một hàng rào, qua một bức tường. Khi đã được phép xuyên một lỗ nhỏ cho dễ thở, thì người ta mở nó ra thành một chiếc cửa sổ. Ðến khi được chấp nhận mở chiếc cửa sổ thì người ta phá nó ra thành một chiếc cửa ra vào. Ðó là lộ trình cải cách ở Việt Nam'. - Thực tiễn của phá rào và đổi mới đi trước trên từng bộ phận. Từ kết quả của thực tiễn mà hình thành tư duy đổi mới trên toàn cục.

        10. Kết quả

        Duy Tân: Bị trấn áp, nhưng dư hưởng còn tồn tại lâu dài. Như đã nói, phong trào làm giàu, chấn hưng kinh tế để chấn hưng dân tộc vẫn tiếp tục: Bước sang đầu thập kỷ 20, phong trào duy tân nhường sứ mệnh của mình cho giai cấp tư sản dân tộc mới nảy sinh với những Trương Văn Bền, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà - Trong phong trào duy tân, không có sự tham gia hoặc hưởng ứng của các quan chức nhà nước.

        Một vài vị trong phong trào cũng đã có ý định đó. Như Phan Bội Châu, vào giai đoạn đầu còn muốn dựa vào những người cứng cáp trong quan trường, như nhờ ông Phủ Doãn Thừa thiên, ông Tổng đốc Nghệ An góp bàn kế hoạch duy tân. Khi viết Lưu cầu huyết, Lệ tân thư (1903) lại trình ông thượng thư bộ binh để xem và phê. Nhưng con đường đó không mấy thành công. Ðó là điều hoàn toàn khác với công cuộc đổi mới sau này.

        Giai cấp tư sản dân tộc đó vẫn tiếp tục con đường phát triển sản nghiệp để chấn hưng quốc gia. Do đó, từ cách mạng Tháng Tám, một bộ phận rất lớn của giai cấp này đã hội nhập với trào lưu của lịch sử, cũng đóng góp đáng kể cho cách mạng và kháng chiến.

        Đổi Mới:Thay vì xử lý kẻ phá rào, các hàng rào đã được xử lý. Kết quả của hầu hết các cuộc phá rào (trừ trường hợp Vĩnh Phúc, quá sớm và không được sự đồng thuận từ trước) là đạt tới sự đồng thuận trên dưới, trong ngoài.

        Ðó chính là con đường biện chứng và ngoạn mục đi từ phá rào tới đổi mới, từ đổi mới tới những khởi sắc kinh tế.

        Tiếp theo những tháo gỡ trong bản thân nền kinh tế và bộ máy quản lý kinh tế là một bước tháo gỡ lớn về tư duy kinh tế.

        Những húy kỵ về kinh tế như thị trường tự do, tư thương, tư bản, tư sản, ngoại bang, bóc lột đã được nhìn nhận lại bằng con mắt thực tế và tự tin hơn.

        Trong đổi mới và qua đổi mới, Việt Nam không chỉ đi nhờ vả một chiều ở phương Tây, mà phương Tây đã tìm đến với Việt Nam để làm ăn. Giữ vững chủ quyền quốc gia là một trong những kết quả lớn nhất của đổi mới.

        Một đặc điểm rất quan trọng của đổi mới là sau khi đột phá, rất nhiều cán bộ lãnh đạo ở cơ sở như bí thư, chủ tịch tỉnh và thành phố, giám đốc xí nghiệp đã được điều về trung ương. Thế là những đối tượng của thổi còi nay lại được cầm còi.

        Nói cách khác có một bộ phận ‘lệ làng’ được ghi nhận và phổ biến thành ‘phép vua’.

        Kết luận:

        Duy tân là việc của phần tư đầu thế kỷ XX. Ðổi mới là việc của phần tư cuối thế kỷ XX. Khoảng cách thời gian xa nhau, hoàn cảnh khác nhau, con người khác nhau, đối tượng khác nhau và kết quả cũng khác nhau.

        Nhưng cả hai phong trào đều lựa chọn cái mới, cái tiến bộ như giải pháp cơ bản của phát triển. Cả hai đều có nội dung cơ bản là khắc phục những định kiến và lề thói cũ, kể cả những cái từng được ngộ nhận là khuôn vàng, thước ngọc đã lỗi thời. Cả hai đều có chung những khuôn vàng, thước ngọc muôn thuở là: dân giầu, nước mạnh, công bằng, hữu ái, văn minh.

        Thiển nghĩ: nếu hôm nay chúng ta tụ hội tại đây để tôn vinh những nhà duy tân, thì có nên chăng cũng đáng có một dịp nữa để tôn vinh những người đã có công đột phá và đổi mới, tức các nhà tân duy tân?


        Đặng Phong

        http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/08/050825_sosanhdongdudoimoi.shtml
        #34
          HongYen 05.09.2005 10:29:30 (permalink)
          Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
          Vọng Ðông



          Hai ông Phan, hai nhà đại cách mạng cùng thời, cùng nổi danh, cùng nuôi ý chí phục quốc, đã sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam:

          Nhất Phan tử khứ, nhất Phan hoàn, ta tai tổ quốc
          Thiên cổ văn chương, thiên cổ tâm sự, thùy vi tiên sinh?

          (Một Phan đã mất, một Phan còn, thương thay tổ quốc
          Muôn thuở văn chương, muôn thuở tâm sự, ai là tiên sinh?
          Mai Đăng Đệ )


          Trong cuộc đời hoạt động cứu nước, hai ông đã có nhiều cơ hội gặp nhau, ở quốc nội cũng như ở quốc ngoạị Song vì chính kiến khác biệt, hai ông chỉ là những kẻ đồng hành mà không là đồng chí .

          Phan Bội Châu chủ trương tôn quân và bạo động, lập Duy Tân Hội, tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ. Trong tập "Tự Phán" ông nêu tôn chỉ của Hội như
          sau:

          "Chuyên đánh đổ chính phủ Pháp, khôi phục Việt
          Nam, kiến thiết quân chủ lập hiến quốc".


          Phan Bội Châu còn đề xướng phong trào Đông Du, vận động người trong nước xuất dương qua Trung Hoa, Nhật Bản du học để thâu nhận kiến thức mới của nước ngoài về giúp nước nhà, đồng thời mua vũ khí của Nhật để tiếp tay cho các cơ sở chống Pháp trong nước.

          Phan Chu Trinh chủ trương đường lối ôn hòa, chú trọng việc giác ngộ quần chúng. Ông cho rằng ôn hòa thì tránh được cuộc đổ máu cho đồng bào, khi dân khôn
          thì nước mạnh và ngoại bang tất bị loại trừ.

          Trong cuộc đối thoại với viên Thống Đốc Pháp thẩm vấn ông tại nhà tù Côn Đảo (năm 1908), Phan Chu Trinh đã bày tỏ quan điểm bất đồng của ông và Phan Bội
          Châu:

          "Phan quân nhận hẳn rằng người Pháp không thiệt lòng khai hóa cho người Nam, nên trước phải tìm cách đánh đổ chánh phủ Pháp, mà muốn đánh đổ chánh phủ Pháp, không nhờ cậy thế lực một nước mạnh ngoài thì tự người Nam không làm gì được. Hiện nay nước mạnh, duy Nhật Bản là nước đồng văn, đồng chủng nên cầu viện với Nhật Bản. Tôi bác cái thuyết trên của Sào Nam, lấy lẽ rằng người nước Nam chui núp dưới chính thể chuyên chế trên ngàn năm, chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ cậy sức nước ngoài thì chỉ diễn cái trò "dịch chủ tái nô" không có ích gì. Vả lại nước Pháp là một nước làm tiền đạo văn minh cả hoàn cầu, nay hiện bảo hộ cả nước ta, mình nhân đó mà học theo, chuyên dụng tâm về mặt khai trí , trị sanh các việc thực dụng, dân trí đã mở, trình độ một ngày một cao, tức là cái nền độc lập ngày sau ở đấỵ Còn theo chính kiến tôi "cậy sức nước ngoài" thì nó quanh co khúc chiết, mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu của mình. Triều Tiên, Đài Loan, cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người Pháp? Sào quân không nghe, cũng không nhận là phải, phủi áo ra đi, làm theo ý kiến mình".
          (Theo THI TÙ TÙNG THOẠI - Huỳnh Thúc Kháng)


          Xuất phát từ quan điểm đó, Phan Chu Trinh đã có chủ trương "Pháp Việt đề huề". Chủ trương này là một "sách lược quyền biến" trong đường lối hoạt động cách mạng của Phan Chu Trinh, khác sự hợp tác với người Pháp của Tôn Thọ Tường (mà Phan Chu Trinh, cũng như các ông Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt qua các bài thơ họa, đã từng chỉ trích), hay chủ trương của Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh khi làm tạp chí Nam Phong, Đông Dương Tạp Chí.

          Khi Phan Bội Châu đề xướng phong trào Đông Du, Phan Chu Trinh đã hưởng ứng và xuất dương sang Trung Hoa, Nhật Bản. Năm 1906, ở hải ngoại về, ông khởi xướng công cuộc duy tân, đi diễn thuyết các nơi, nêu cao chủ thuyết "Dân Quyền". Vì có chủ trương ôn hòa, ông cho rằng có thể hợp tác với người Pháp, nếu họ thực tâm thực hiện những cải cách dân chủ cho Việt Nam. (Bình luận chủ trương này, có người cho Phan Chu Trinh đã nhận định sai lầm về người Pháp, vì thực dân không bao giờ thực lòng áp dụng chính sách tốt đẹp cho dân thuộc địa).

          Như vậy, chủ trương của hai nhà chí sĩ họ Phan khác nhau từ căn bản. Trong tập "Tự Phán", Phan Bội Châu viết: "Ủng phù một vị minh chủ, kén chọn trong Hoàng thân lập ra ...". Phan Chu Trinh đã hỏi Phan Bội Châu: "Từ thế kỷ 19 về sau, các nước tranh nhau càng ngày càng dữ dội,tính mạng của một nước gởi trong một số người đông, chứ không thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ. Thế mà ngày nay lại còn định dựng cờ quân chủ lên hay sao?"

          Phan Chu Trinh từng đi diễn thuyết nói về "Quân trị và Dân trị chủ nghĩa". Ông so sánh hai chủ nghĩa đó và cho rằng:

          "Chủ nghĩa Dân trị hay hơn chủ nghĩa Quân trị nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay là của một triều đình mà trị một nước, thì cái nước ấy không khác nào một đàn dê, được no ấm vui vẻ hay là phải đói rét khổ sở chỉ tùy theo lòng của người chăn. Còn như theo chủ nghĩa dân trị, thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung cả nước, lòng quốc dân muốn thế nào thì làm thế ấỵ Dù không có người tài giỏi làm cho hay lắm, cũng không đến nỗi phải bị đè đầu khốn nạn làm tôi mọi cho một nhà, một họ nào ...".


          Thời đó, sĩ phu Việt Nam còn ngưỡng mộ thành tích của các nhóm Văn Thân, Cần Vương, còn nặng lòng trung quân ái quốc, ít ai dám đưa ra một chủ trương mới mẻ và táo bạo như vậỵ Bài bác chủ nghĩa tôn quân, Phan Chu Trinh còn gởi thư chỉ trích vua Khải Định (thư Thất Điều) về chuyện đi dự cuộc đấu xảo quốc tế tại
          Pháp năm 1922.

          Quả thật, ông là một kẻ sĩ ngang tàng, khí phách, không biết sợ trời đất là gì. Lúc còn đi học, ông đã từng chống đối thầy dạy bất chính, khi ở tù Côn Đảo thì đánh lại cai tù, ở ngục Santé thì gởi thư cho thẩm phán quân sự Pháp với lời lẽ khẳng khái, bất khuất:

          "Thằng Phan Chu Trinh thà chết thì nó xách cái đầu của nó, nó quăng xuống đất như chơi, nó chẳng chịu làm thân trâu ngựa cho người ta cỡi trên đầu, trên cổ nó đâu!".

          Khi Phan Bội Châu viết tập "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư", gồm 5 phần:


          Nói về những điều sỉ nhục vì nước mất, quyền mất, thảm họa tương lai

          Mở mang dân trí

          Chấn động dân khí

          Vun trồng nhân tài


          Kỳ vọng ở những người làm quan, lấy những sự nghiệp bất hủ khuyên lơn họ được nhiều người xem là có giá trị về phương diện cổ động nhân sĩ và
          giới cầm quyền có tâm huyết đem tài sức ra giúp
          nước.

          Phan Chu Trinh đọc sách này phê bình:

          "Sào Nam là một người hào kiệt nóng lòng việc nước mà kiến thức thì chưa thoát khỏi khuôn sáo cũ chút nào".

          Dù có khuynh hướng chủ trương khác nhau như vậy, hai ông vẫn tìm cơ hội gặp gỡ nhau. Trong tập "Tự Phán", Phan Bội Châu ghi:

          "Ngày tháng 7 năm ấy, tôi mượn tiếng là đi mừng bảng Hội, bắt đầu ở nhà Tiểu La (Nguyễn Thành), thăm nhà cụ Hoàng Thạnh Bình (Huỳnh Thúc Kháng) vừa đụng cụ Tây Hồ (Phan Chu Trinh), cụ Trần Thái Xuyên (Trần Quý Cáp), thảy đều ở đó, nói chuyện suốt đêm rất vui .."

          Mỗi lần gặp gỡ, trong tinh thần chung lo đại sự, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh thường cùng nhau tranh biện sôi nổi. Qua tập giới thiệu tác phẩm "Giai Nhân Kỳ Ngộ" của Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng viết:

          "Dịp đó hai người gặp nhau, nghị luận tuy có chỗ không hiệp nhau mà vẫn phục nhau, có cùng nhau bàn việc phế khoa cử, lập hội thương, trường học, song cũng chưa làm. Tháng chạp năm ấy (1904) ông Sào Nam vào Quảng Nam tới thăm tiên sinh (PCT) tại nhà rồi về đi Nhật Bản. Tiên sinh mới gặp ông Sào Nam, bác riết bài "Lưu Cầu Huyết Lệ", cho là không hiệp thời thế cuộc đời bây giờ, song ông Sào Nam lúc đầu đang nóng về chủ nghĩa bài ngoại, nên cũng không chịu phục".

          Tuy vậy, khi đã tâm phục nhau, thì dù có khác chính kiến, hai ông vẫn kính trọng và cảm mến nhau. Lúc Phan Chu Trinh qua Hong Kong, Phan Bội Châu từ Nhật sang đón và ghi lại cuộc trùng phùng ở đó:

          "Hạ tuần tháng hai, cụ Tây Hồ tới Hương Cảng, cụ cũng qua ngay thăm ông Lưu (Vĩnh Phúc), ông Nguyễn (Thiện Thuật), áo cụt, giày rách, đầu tóc bồm xồm, trông cụ như phường lao động nước ta, bởi vì cụ thay lốt làm một tên nấu bếp ở dưới tàu, mà cũng nhờ thủ đoạn ông Lý Tuệ chỉ lốị Cụ vào nhà Lưu, thấy chúng tôi, chưa chào đã cười, tôi dậy bắt tay cụ, vui không thể nói được ...".

          Vẫn theo lời Phan Bội Châu, ra hải ngoại cũng như ở trong nước, Phan Chu Trinh vẫn xác định lập trường của ông:

          "Cụ hết sức công kích những tội ác của dântộc độc phu (kẻ không ở với ai, ám chỉ nhà vua) mà nói đến hiện triều quân chủ, họa quốc ương dân càng tỏ ra ý nghiện răng rách mắt, hình như Cụ nghĩ rằng cái tệ quân chủ chuyên chế không trừ thì tuy phục quốc cũng chưa phải là hạnh phúc". (Tự Phán)

          Khi đưa Phan Chu Trinh sang Nhật, Phan Bội Châu cũng xác nhận sự khác biệt giữa hai ông về khuynh hướng đấu tranh, dù Phan Chu Trinh vẫn công nhận công
          trình Đông Du của Phan Bội Châu:

          "Hồi tôi lên Đông Kinh, Cụ Tây Hồ cùng đi với tôi, thăm qua các học đường và khảo sát khắp những công việc chính trị giáo dục của Nhật Bản. Cụ bảo tôi rằng: Trình độ dân Nhật Bản như thế, mà trình độ dân ta như thế, không nô lệ sao được! Được bấy nhiêu học sinh vào nhà học Nhật Bản là sự nghiệp rất lớn của ông. Từ nay nên lưu Đông yên nghỉ, chăm việc làm sách, bất tất nói bài Pháp làm gì. Chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã biết có quyền thì việc khác có thể tính lần được.

          Từ đó luôn mười ngày hơn, tôi với cụ bàn bạc, ý kiến rất trái nhau: cụ thì muốn đánh đổ quân chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân quyền, hãy dựa vào Pháp mà đánh đổ quân chủ. Còn ý tôi thì trước muốn đánh đổ người Pháp, chờ lúc nước nhà độc lập rồi mới bàn đến việc khác. Đương lúc đánh với Pháp phải lợi dụng quân chủ.

          Chính kiến của hai người rất phản đối nhau, cụ với tôi đồng một mục đích, mà thủ đoạn thì khác nhaụ Cụ thì muốn dựa Pháp đánh đổ quân quyền mà tôi thì bài Pháp phục Việt, mâu thuẫn là thế. Tuy chính kiến vẫn trái nhau, mà ý kiến rất ưa nhau"
          (Tự Phán)

          Mặc dầu có quan điểm chính trị khác nhau như vậy, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh không hoàn toàn tách biệt nhau trong cuộc đời hoạt động. Nhân dịp ra hải
          ngoại, có lúc hai ông đã phân công cho nhau:

          "Xem dân trí Nhật Bản rồi đem dân trí ta ra so sánh, thật không khác gì muốn đem con gà con đọ với con chim cắt già. Giờ Bác ở đây, nên chuyên tâm ra sức vào việc văn, thức tỉnh đồng bào cho khỏi tai điếc, mắt đui, còn việc mở mang dìu dắt ở trong nước nhà thì tôi xin lãnh. Lưỡi tôi đang còn, người Pháp chẳng làm gì tôi được mà lọ"
          (Ngục Trung Thư - Phan Bội Châu)


          Phan Chu Trinh từng coi trọng Phan Bội Châu và cố gắng thuyết phục Phan Bội Châu từ bỏ chủ trương tôn quân, với niềm hòa nhã:

          "Ông hết sức trân trọng, Quốc dân hy vọng chỉ nơi mình ông, Kỳ Ngoại Hầu (Cường Để) không cần gì đâu".

          Phan Bội Châu nhận chịu lời khuyên đó, nhưng chỉ tán đồng về công cuộc duy tân của nhóm Phan Chu Trinh:

          "Tôi kính vâng lời đinh ninh tái hội và cậy nói với các ngài như cụ Thạnh Bình, Thái Xuyên, Tập Xuyên hết sức mở trí dân, kiết tập đoàn thể sẽ làm hậu thuẫn."
          (Tự Phán)

          Về phần Phan Chu Trinh, ông cũng thừa nhận phong trào Đông Du của Phan Bội Châu có nhiều ảnh hưởng tốt đẹp đối với công cuộc phục hưng xứ sở và ông tin
          rằng với vận hội mới Phan Bội Châu sẽ đi theo con đường Dân quyền và đạp đổ Quân quyền.

          Thực ra, không phải Phan Bội Châu cố giữ lập trường bảo thủ về tôn quân, ông cũng tin rằng chế độ dân chủ là tốt đẹp, song nghĩ rằng vận mệnh nước nhà còn nằm trong tay thực dân, dân trí còn thấp kém, chưa đến lúc áp dụng đường lối mới mẻ. Trong một bức thư gởi Phan Chu Trinh, ông viết:

          "Gần đây được tin đại huynh cùng các anh em đồng chí với những nghị luận ý chí mới mẻ, tẩy trừ những não cổ hủ để hấp dẫn tư tưởng mới, làm cho tinh thần tôi vô cùng dũng dược ... Nhưng than ôi! Trình độ nhân dân Việt Nam hiện còn ấu trĩ như răng chưa cứng, chân chưa mạnh, nếu sử dụng thì sao đang nổi. Nhân dân Việt Nam ta so với Tây Âu hãy còn kém họ xa lắm, như người còn đau, đang đâu nổi gánh nặng. Nhân dân ngu muội đói khổ, nay mình đem những lý luận cao siêu mà áp dụng không sao tránh khỏi những việc lảo đảo ngả nghiêng.

          Nay đem ra một lý thuyết mà người ta chưa biết đầu đuôi, rõ phía Nam, phía Bắc ... Rồi sẽ vì ý kiến xung đột, hành động mâu thuẫn nhaụ Thù ngoài chưa diệt, nội bộ chống nhaụ Ôi dân chủ, Dân không còn nữa thì chủ vào đâủ Lúc bấy giờ, nếu Đại Huynh có bầu nhiệt huyết cũng không còn chỗ thi thố nữa ...

          Vậy tôi đề nghị với Đại Huynh với tình trạng nước ta, hãy chờ ít lâu nữa, Đại Huynh xướng thuyết Dân Chủ thì cử quốc đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng, trong đó có tôị"
          (Tự Phán)


          Quả nhiên về sau, khi lập tổ chức mới - Việt Nam Quang Phục Hội - ở Quảng Châu, Phan Bội Châu đã thay đổi lập trường, từ bỏ quan niệm quân chủ và hứa hẹn
          sẽ lập nước cộng hòa.

          Sở dĩ hai ông Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh không có những hành động quá khích vì tư tưởng chống đối nhau mà đi đến chia rẽ trầm trọng, cũng nhờ có những phần tử trung gian vì đại cuộc tìm cách đưa hai người xích lại gần nhaụ Đó là các ông Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can ...

          Ông Trần Quý Cáp vừa hoạt động cho nhóm Đông Du, vừa hoạt động trong nhóm Duy Tân. Ông Lương Văn Can từng nói: "Theo ý tôi, ngoại viện (chủ trương Phan Bội Châu) và tự cường (chủ trương Phan Chu Trinh) phải đồng thời tiến hành với nhau mới được".

          Do đó, hai phái ôn hòa và bạo động vẫn ngầm giúp nhau. Hồi đó tinh thần đảng phái ít hơn ngày nay, có thể nói là gần như hoàn toàn không có". (Đông Kinh
          Nghĩa Thục - Nguyễn Hiến Lê)

          Và cứ vậy, hai phong trào cách mạng của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh chẳng khác gì hai bánh xe cùng chạy trên hai đường sắt song song, cùng có nhiệm vụ đưa
          những toa tàu đến ga cuối cùng, đó là mục đích tối hậu của công cuộc giải phóng đất nước.

          Chẳng may, khi sự nghiệp chưa thành, một con chim ưu tú trong đàn chim Việt đã sớm gãy cánh. Ngày 24-3-1926, Phan Chu Trinh tạ thế. Đó là cái tang chung của
          toàn thể dân Việt. Nhiều nhân sĩ, đoàn thể đã dự đám tang Phan Chu Trinh ở Sài Gòn, với rất nhiều đối trướng và điếu văn. Ý nghĩa nhất là những câu đối:

          Vị quốc vong gia trấp tải bôn ba thiên địa ải
          Đỉnh thân cứu thế nhất xoang tâm huyết quỉ thần kinh
          Nhóm PHỤ NỮ VIỆT NAM


          (Theo nước bỏ nhà, hai chục năm bôn đào, trời đất hẹp
          Liều thân cứu thế, một bầu sôi máu nóng, quỉ thần e)

          Thiên hạ quy chi tổ chức dân đoàn suy đại lão
          Tiên sinh khứ hỉ đả phiên đế chế thị thùy nhân?
          ĐÔNG PHÁP THỜI BÁO

          (Thiên hạ theo chân, xây dựng dân đoàn tay già giặn
          Tiên sinh vắng bóng, đập tan đế chế kẻ nào đây?)


          Riêng câu đối viếng của Phan Bội Châu, sâu nặng tâm tình:

          Thương hải vi điền Tinh Vệ hàm thạch
          Chung Kỳ ký một Bá Nha đoạn huyền

          (Biển biếc nên đồng, Tinh Vệ ngậm đá
          Chung Kỳ khuất bóng, Bá Nha đập đàn)




          Đến phút cuối cùng, vĩnh biệt người bạn đồng hành trên đường cách mạng, Phan Bội Châu đã xem Phan Chu Trinh là người tri kỷ, chẳng khác Bá Nha, Tử Kỳ ở Trung Quốc thời xưạ Hơn ai hết, ông hiểu rõ tính tình, tiết tháo của người chí sĩ cùng thờị Câu "Chung
          Kỳ ký một, Bá Nha đoạn huyền" là những giọt nước mắt thống thiết và đau đớn nhất, khóc một người bạn mà ông cảm mến và tâm phục nhất, trong cuộc đời bôn ba vì nước của ông.

          Tấm lòng thiết tha chân thành và ngưỡng mộ của ông đối với Phan Chu Trinh còn được bày tỏ qua bài văn tế:



          Nhớ ông xưa ...
          Gan to tày bể, sức xông pha nào kể sức muôn người
          Mắt sáng hơn đèn, tài lanh lợi từ khi năm bảy tuổi
          Vận nước gặp cơn dâu bể, đeo vai thân sĩ, còn lòng đâu mà áo mũ xuê xoang
          Thói nhà chăm việc bút nghiên, dấu mặt anh hùng, khi tạm cũng khoa trường theo đuổi
          Song le
          Khí vẫn chanh vanh
          Chí càng viễn đại ...
          Đội tiên phong đâu tá? Gió duy tân từ Đông hải thổi vào
          Gương ngoại quốc kia là? Sóng cách mạng bởi Á Châu dồn tới ...
          Ba tấc lưỡi, nào gươm nào súng, nhà cầm quyền trong gió đã gai ghê
          Một ngòi lông, vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ treo đèn thêm sáng chói ...
          Mưa dào gió rét, xui khách lưu ly
          Biển thẳm trời xa, xót ông chìm nổi ...
          Tiệc hoan nghênh mới đó, não nùng rượu chửa pha mùi
          Hội truy điệu liền đây, thấp thoáng hương đà bén khói
          Anh em ta đất rẽ đôi đường, tình chung một khối ...


          Xét quá trình hoạt động cách mạng của hai chí sĩ họ Phan, ta nhận thấy hai ông đã có chính kiến khác hẳn nhau, đưa đến những cuộc tranh cãi gay gắt, chống đối nhau kịch liệt. Tuy nhiên, vì đại nghĩa, họ vẫn luôn luôn xem nhau là bạn, hiểu thấu gan ruột nhau, kính phục nhau, chỉ dùng thư từ, lời lẽ phân biệt phải trái và khuyên nhaụ Cho nên, có khi người này chịu nhận sự thuyết phục của người kia, trong một số trường hợp. Chẳng hạn Phan Bội Châu tán đồng công cuộc duy tân của Phan Chu Trinh và Phan Chu Trinh cũng đã hưởng ứng phong trào Đông du của Phan Bội Châu và họ đã từng hỗ trợ nhau trong sự nghiệp cứu quốc. Đó là hành động chính trực của các nhà chí sĩ đương thời, đáng nêu gương cho hậu thế noi theo.


          http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/anhhung/phanboichauphanchutrinh.htm


          #35
            HongYen 05.11.2005 19:09:52 (permalink)
            TÌM HIỂU PHONG TRÀO ĐÔNG DU

            Song song với việc tìm kiếm và phát hành tài liệu, nói chuyện hơn 20 buổi nói chuyện trực tiếp hay qua diễn đàn Paltalk của chúng tôi và các thân hữu trong gần 1 năm qua, khắp nơi cũng đã có những hình thức sinh hoạt tìm hiểu về chuyện nàỵ

            Ngày 28/7/2005, trang nhà đài BBC, trong mục “Nghe Các Tạp Chí” đã đăng bài “Học Lại Phan Bội Châu Và Phong Trào Đông Du”. Một mục đặc biệt khác rất dài về Phong Trào Đông Du và cụ Phan Bội Châu cũng đã được đưa lên, dựa trên các bài viết và nhiều hình ảnh do chúng tôi và các thân hữu cung cấp.

            Đài BBC cũng đã thực hiện một loạt phỏng vấn, đầu tiên với Giáo Sư Chương Thâu, tác giả bộ sách Phan Bội Châu Toàn Tập, được phát làm hai lần ngày 31/7 và 3/8. Theo ông Chương Thâu, cụ Phan là một người yêu nước lớn và nhà văn hóa lớn. Việc lập Duy Tân Hội năm 1904 chính là một hình thức đảng sơ khai, bắt đầu có đường lối rõ ràng, khác với tinh thần tụ nghĩa, uống máu ăn thề kiểu anh hùng “Lương Sơn Bạc” của Phong Trào Văn Thân, Cần Vương trước đó. Việc lập Việt Nam Quang Phục Hội năm 1911, với ý định kiến lập một nước Việt Nam Cộng Hòa Dân Quốc, cho thấy mục tiêu giành độc lập và thoát khỏi phong kiến tiến tới dân chủ của cụ. Chính cụ đã để lại di sản tinh thần, cán bộ và cơ sở tại Quảng Đông, Quảng Tây, Hàng Châu, Nam Kinh và Thái Lan mà ông Hồ đã phần nào kế thừa. Nhưng trong suốt thời gian qua, nhiều nhà cầm quyền V N đã coi nhẹ tư tưởng Phan Bội Châu. Chắt của cụ Phan là con một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa nên cũng từng bị đối xử phân biệt, sau mới được người có lòng tốt can thiệp để có thể vào đại học. Tiêu đề Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc ở Việt Nam hiện nay là những tư tưởng Tam Dân của Tôn Văn. Năm 2006, tại Việt Nam sẽ tổ chức tưởng niệm 160 năm sinh Tôn Văn và 100 năm chủ thuyết Tam Dân. Cũng theo ông Chương Thâu, ông Hồ Chí Minh không nhận mình là nhà tư tưởng lớn, nhà thơ, nhà văn lớn... Ông Nguyễn Giang, Trưởng Ban Việt Ngữ đài BBC đã đặt câu hỏi: ”Phải chăng đảng Cộng Sản Việt Nam đã theo chủ nghĩa Mác xít cả 100 năm rồi và nay họ không còn thấy hấp dẫn bởi chủ nghĩa đó nữa, lại tìm đường quay về với Dân Chủ, Tư Sản? ”.

            Đầu tháng 8/2005, đài BBC cũng đã phỏng vấn ông Phan Thiệu Cơ, Thày Triệt Học Trần Đức Giang... về Phong Trào Đông Du và cụ Phan Bội Châu, Hiệu Trường Nguyễn Đức Hòe trường Nhật Ngữ Đông Du và Đỗ Thông Minh về việc du học sinh Việt Nam ở Nhật.

            Ngày 30/7/2005, ông Vũ Bá Trung, Phó Giám Đốc Chương Trình Quốc Tế và chuyên viên thu hình Phan Tô Hoài của đài truyền hình Sài Gòn cũng đã bay qua Nhật 1 tuần để làm phóng sự về Phong Trào Đông Du& phỏng vấn Giáo Sư Masaya Araishi &Giáo Sư Masaya Shiraishi, Trưởng Khoa Á Châu Thái Bình Dương của Đại Học Waseda, Giáo Sư Akoi Imai, Đại Học Ngoại Ngữ Tokyo& cũng qua Việt Nam dự hội thảo về Phong Trào Đông Du vào tháng 10 ở Huế và tháng 11 ở Hà Nội&

            Trong hơn 50 năm qua, đã có liên tiếp các thế hệ người Nhật nghiên cứu về Phong Trào Đông Du như các Giáo Sư Tasuro Mayamoto, Kawamoto, Shiraishi, Furotamoto, Shima, Momoki...

            Nhiều tài liệu cùng hình ảnh đã được giới thiệu trên trang nhà của đài BBC.

            Cho tới nay, các tin tức liên hệ đã được loan tải trên các đài BBC, RFA, SBS, Little Saigon Radio, Radio Bolsa, Truyền Thanh - Truyền Hình Hải Ngoại, VA TV Wạ DC, Hawaii TV, đài VOV, đài Quê Hương (San Jose), đài Việt Nam Dallas (TX), đài Chân Trời Mới, nhật báo Người Việt, tuần báo Việt Tide, tuần báo Mõ, tuần báo Thằng Mõ, tuần báo Tin Việt News, tuần báo Phố Nhỏ, bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong, đài truyền hình 24/24 SBTN, các diễn đàn tin tức trên Liên Mạng...

            9 YẾU TỐ KẾT TINH THÀNH TIẾNG VIỆT.

            Huyền diệu thay, có 9 yếu tố đã kết tinh thành Tiếng Việt theo thế 3 chân vạc, mỗi chân vạc là 1 trụ, mỗi trụ là 1 kiềng 3 chân.

            3 trụ đó là tiếng nói, giọng nói và chữ viết.

            - Trụ thứ 1, tiếng nói: Tiếng Nôm (người), Hán-Việt (nhân), Âu-Mỹ (va-li, phim).

            - Trụ thứ 2, giọng nói: Bắc (mẹ) - Trung (mệ) - Nam (má).

            - Trụ thứ 3, chữ viết: Hán - Nôm - La Tinh (a, b, c).

            Vạc hay kiềng đều có 3 chân, ở đây mình có đủ cả vạc và kiềng. Với sổ điểm hay chân ít nhất nhưng tao nên 1 mặt phẳng, nên với số chân ít nhất mà dễ dàng tạo thế vững vàng nhất. Thế chân vạc là 3 trụ, mà mỗi trụ là 1 kiềng.

            Đây là 1 biểu đồ ngôn ngữ thật cân xứng, thật đẹp của tiếng nước mình.



            ĐÀI NHK QUAY PHIM Nhật-Việt “BÀ MẸ ĐÃ ĐẾN”.

            Ngày 22 và 23/6 vừa qua, bà Uchida thuộc đài NHK đã đến văn phòng chúng tôi nhờ tìm hộ một phụ nữ Việt nhìn dáng vẻ khoảng 21 tuổi, khỏe mạnh, vui tươi, biết đọc và nói tiếng Nhật ở mức độ trung bình, có kinh nghiệm đóng phim càng tốt, không có cũng không sao.

            Phim mang tựa đề là “Kachan Ga Kita” (Bà Mẹ Đã Đến), dài khoảng 43 phút, theo cốt truyện đã được trúng giải tối ưu tú của đài NHK. Phim sẽ được đóng tại Nhật, bối cảnh là tỉnh Yamagata (nơi đã đóng phim Oshin) và dự trù chiếu trên TV toàn quốc vào tháng 3/2006.

            Cô Bùi Thị Huyền, một người qua Nhật học về ngành y tá năm 1999 và đang làm việc tại đây, sẽ đóng vai cô dâu “Linh” lấy chồng người Nhật đã góa vợ, sống bằng nghề trồng dưa hấu. Vai chính là cậu con trai 9 tuổi tên Ryota, có một em trai 7 tuổi. Thời gian đóng phim vào giữa tháng 8, và kéo dài trong khoảng 12 ngày.

            Ngày 7/8, đài NHK đã đưa cả “đại gia đình cô Linh” 10 người, gồm cô Bùi Thị Huyền, chúng tôi và 8 người Việt đang cư ngụ tại tỉnh Kanagawa tới quận Aoba, thị trấn Jike chụp hình ngay giữa ruộng, coi đây như những bức hình kỷ niệm gia đình mà cô “Linh” đem đi khi theo chồng về Nhật. Thế là tự nhiên chúng tôi biến thành ”nông dân” trong một thoáng!

            Trước đây đài NHK đã cùng phía Việt Nam thực hiện phim “Thương Nhớ Đồng Quê”.

            NGƯỜI NHẬT ĐI TU NGHIỆP LỚP SƯ PHẠM VIỆT

            Hàng năm, Ban Đại Diện các trung tâm Việt Ngữ Nam Cali (gồm khoảng 80 trung tâm, 15.000 em học tiếng Việt) đều có mở khóa tu nghiệp sư phạm cho các giáo viên ở Bắc Mỹ, thường quy tụ khoảng từ 200 đến 300 ngườị Năm 2003, tôi cũng đã có dịp đến nói chuyện về tiếng Việt với các Giáo Viên tại đâỵ

            Khóa học tổ chức vào ngày 12-14/8/2005, đặc biệt có chị Natsuki Kitayama (Bắc Sơn Hạ Mộc) và Kayoko Takahashi (Cao Kiều Gia Đại Tử) là hai người Nhật 100%, đã từ Osaka, Kobe bay qua dự. Chị Natsuki Kitayama đang học khóa trình Tiến Sĩ Giáo Dục, chị đang tình nguyện phụ trách lớp dạy trẻ Việt học tiếng Việt tại Kobe. Năm 2004, chị đã qua Hoa Kỳ, tu nghiệp về Anh Văn tại San Diego, dịp này chị cũng đã phụ trách lớp dạy trẻ Việt học tiếng Việt tại trung tâm Lạc Việt, trả lời phỏng vấn của nhật báo Người Việt...

            NGƯỜI VIỆT ĐẦU TIÊN ỞÏ NHẬT LÀ AI?

            Theo sử sách xưa, người Việt đầu tiên tới Nhật là một vị sư đi tham dự lễ lạc thành (khai mạc) tượng Phật ở chùa Todaiji (Đông Đại Tự) ở cố đô Nara (Nại Lương) vào năm 752.

            Tuy nhiên, có lẽ công chúa Nguyễn Thị Ngọc Hoa, còn có tên là Vương Gia Cửu mới là người Việt đầu tiên đến định cư ở Nhật Bản. Bà đã được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả cho một thương nhân rất giàu có kiêm thuyền trưởng Nhật Bản tên Sotaro Araki (Hoang Mộc Tôn Thái Lang) đến Việt Nam vào thập niên 10 đầu thế kỷ 17, để buôn bán tại Phố Hiến thuộc Hải Phòng và Hội An, tỉnh Quảng Nam.

            Dưới thời Hậu Lê, Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn phân tranh, giặc giã khắp nơi. Trước đó, Nguyễn Kim nổi lên định chiếm lĩnh một vùng thì bị diệt. Năm 1599, Trịnh Tùng (1570-1620) lên ngôi Chúa, con Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng (1600-1613) thấy anh là Nguyễn Uông đã bị giết nên sợ, xin Chúa Trịnh vào Nam khai khẩn (khi đó mới có tới miền Trung). Rồi kế đến Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), muốn lập một cõi riêng, để xây dựng cơ sở, mộ quân, chế tạo binh khí... thấy không gì hơn là mở cảng để giao thương và thu thuế nên đã lập ra cảng Hội An, là giao điểm buôn bán Đông-Tây của con đường “Tơ Lụa Trên Biển”.

            Ông Sotaro Araki đến Việt Nam, với giấy phép của Sứ Quân ghi “Độ Nhật Bản Đáo Giao Chỉ Quốc” tức Đi Từ Nhật Bản Đến Nước Giao Chỉ. Ông được yết kiến Chúa Nguyễn, nguyện phục tùng dưới trướng, được Chúa cho gia nhập hoàng tộc với tên Nguyễn Thái Lang và hiệu là Nguyễn Hùng. Sau ông đi lại Việt Nam nhiều lần và được Chúa Nguyễn thương gã con gái cho năm 1619.

            Ngay sau đó bà Ngọc Hoa theo chồng về Nagasaki (Trường Kỳ) sinh sống, bằng tên Nhật rất ưu ái là Anio (Vương Tử). Ông Sotaro Araki mất ngày 7/11/1636, bà mất năm 1645, ngẫu nhiên cùng một ngày với chồng. Hai người có một con gái, đặt tên là Yasu (Gia Tu). Không có ghi nhận chi tiết từ khi qua Nhật cho đến khi mất, bà không về Việt nam lần nào? Bia mộ chung vợ chồng bà tại chùa Đại Âm Tự (Daionji).Viện bảo tàng Nghệ Thuật Nagasaki vẫn còn lưu trữ chiếc gương soi của bà Ngọc Hoa, các hình vẽ và tài liệu về ông Sotaro Araki.

            Một số sử liệu thời Hoằng Định của Nhật Bản, hay cuốn “Những Samurai Của Biển” (Umi No Samuraitachi) do Ichiro Shiaishi (Bạch Thạch Nhất Lang) viết và đài NHK phát hành, có ghi chép về cuộc hôn nhân Nhật-Việt này. Nay lưu lại ở Hội Hữu Nghị Nagasaki-Việt Nam (Nagasaki-Vietnam Yuko Kyokai) một sự kiện: Đặc biệt, 7 năm 1 lần, vào năm & 1999, 2006&, từ ngày 7 đến 9 tháng 10, trong lễ hội ở Nagasaki có phần rước Chu Ấn Thuyền (Nhật Bản) với hai em bé đóng vai Sotaro Araki và Anio và ca vũ rất long trọng. Dịp này, hội Hữu Nghị Nagasaki-Việt Nam thường mời các nghệ sĩ Việt Nam qua trình diễn.

            Năm 1995, đài truyền hình CV21 của Nhật Bản đã phối hợp với đài truyền hình Sài Gòn Việt Nam (HTV) thực hiện tập phim tài liệu “Thời Gian Vĩnh Cửu”, ghi lại mối tình hy hữu Việt-Nhật cách nay gần 400 năm này.

            MI HUYỀN MÌ... LÊN KHÔNG GIAN

            Bàn về tên các món ăn Nhật, nói chung các món ăn đơn sơ thì tên gọi cũng đơn sơ, giản dị như vậy. Không như người Hoa thích chọn những tên thật kêu, nghe thấy thèm. Người Nhật dùng gạo là chính, nhưng họ cũng rất thích mì, khắp phố, chỗ nào cũng có tiệm mì, thông dụng hơn cá sống nhiều. Chính vì thế mà họ sáng chế ra mì gói và mì ly, mì tô ăn liền. Mì gốc từ Trung Hoa nhưng nấu theo kiểu Nhật, trong nồi xúp có cả cá và rong biển, thường còn bỏ thêm giá chín hay ngô (bắp)... Trong một tiệm mì, thấy các món như “shio ramen” (diêm lạp miến: mì muối, ramen làm bằng tiểu mạch và trứng), “miso ramen” (vị khoát lạp miến: mì tương) “moyashi ramen” (manh lạp miến: mì giá), “wakame ramen” (nhược bố lạp miến: mì rong biển), “negi ramen” (thông lạp miến: mì hành), “soba” (kiều mạch: mì, làm bằng kiều mạch, tiểu mạch, củ mài), “kitsune soba” (hồ kiều mạch: mì đậu phụ), “tenpura soba” (thiên phụ la kiều mạch: mì rau lăn bột), “tamago soba” (noãn kiều mạch: mì trứng sống)...

            Tháng 7/2005, mì đặc chế gọi là “mì vũ trụ”, đã vinh dự theo chân phi hành gia Nhật là ông Soichi Noguchi (Dã Khẩu Thông Nhất) đáp phi thuyền Discovery lên không gian. Mì vũ trụ tất nhiên khác mì thường, khác ở chỗ phải làm sao để có thể cho nước vào ăn trong điều kiện vô trọng lực. Mì này không thể là một sợi thật dài, cũng không được biến dạng rã ra khi ngâm trong nước như mì thường, tức phải vẫn còn nguyên khối nhỏ vừa miệng ăn... Theo ông Noguchi thì mì này ngon như mì ăn trên mặt đất. Ngoài ra còn có các món Nhật như cơm ca-ry, yokan (bánh thạch gồm thạch trắng với trái cây hay hạt đậu và đường rất thong dụng ở Nhật), chocolate.

            Người Nhật không thiếu gạo nhưng thiếu mì trầm trọng, nên phải nhật cảng đến 98%, thống kê năm 2002 là khoảng 5,86 triệu tấn từ Gia Nã Đại, Hoa Kỳ, và Úc.

            Đỗ Thông Minh.

            http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=32358&z=54
            #36
              Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 36 trên tổng số 36 bài trong đề mục
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9