VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II )
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 7 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 104 bài trong đề mục
tamvanvov 16.12.2020 18:15:07 (permalink)

 

Hoa chanh vẫn tím vườn xưa
(Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc)
 
Giêng hai dấm dứt mưa dầm,
để cho ta lại lặng thầm nhớ xưa,...

         Sáng trở dậy, công việc đầu tiên của Việt là vào buồng bệnh của mẹ, giúp mẹ làm vệ sinh cá nhân, rồi pha sữa cho mẹ uống. Đã mấy tháng nay, mẹ anh bị chứng tai biến mạch máu não phải nằm yên một chỗ. Việt bỏ hết công việc của nhà cho vợ con quan lý, từ Sài Gòn nhao ra Bắc, đến bệnh viện rồi đưa mẹ về quê chăm sóc. Tiếng là nhà đông anh em, nhưng ai cũng bận việc của mình, Việt là con cả, nhưng anh lại sớm xa nhà, học hành, rồi vào quân ngũ và sau đó lập nghiệp, lấy vợ, định cư ở phương Nam nên mọi công việc chăm sóc cha mẹ già ở quê đều do các em đảm nhiệm. Thảng năm đôi lần, Việt bay ra Bắc thăm các cụ, ở quê chừng mươi ngày, biếu các cụ ít tiền rồi lại biền biệt. May giờ liên lạc thuận tiện, tháng dăm ba lần điện thoại hỏi thăm cho yên lòng.
          Xong việc chăm mẹ bữa sáng, Việt trở ra pha ấm trà. Thoảng hôm nào Bình, cô em gái ở gần chợ búa mua quà sáng về đổi món, còn không thì anh cứ luân phiên mì tôm, cơm rang cho tiện. Đang nhâm nhi chén trà, định bụng làm gói mì tôm thì đã thấy Bình đánh tiếng ngoài sân.
          - Em mua cho bác bánh giò đây. Bánh giò xóm Chợ ngon có tiếng, hẳn bác còn nhớ chứ? 
- Nhớ chứ,... Việt thủng thẳng.- Cô cứ làm tôi biệt xứ không về quê bao giờ ấy.
- Thì em cứ ngỡ bác quên ... Bình bóc bánh giò để ra đĩa mời anh, cười cười bảo - À này, bác Việt... sáng nay ở chợ, bác có biết em gặp ai không?...
          - Ôi, chợ làng đông cả huyện ngườ thếi... - Việt cảnh giác - làm sao anh biết được nhà cô gặp những ai ?...
          - Này,... em gặp chị Thắm xóm Chợ đấy... - Cô em nói nhỏ như nói thầm - Thắm, người yêu cũ của bác ý... Chị ấy cũng đi chợ. Nghe đâu chị ấy sống ở Hạ Long hay Cẩm Phả gì đó. Cùng nghỉ hưu rồi, nhưng mà trông người vẫn trẻ trung lắm... Trẻ hơn em là cái chắc....
          - Điêu vừa chứ - Anh yêu cái nhà cô Thắm bao giờ mà cô cứ xung xưng mọc mọc lên thế ?
          - Kìa, bác - Bình cười – Lại chối rồi. Bác đỏ mặt lên thế kia... tức là có gì chứ... Mà thôi, nói thế này cho chuẩn... cái nhà cô Thắm ấy yêu bác, đúng không? ... Không tin, để em hỏi u thì rõ ngay thôi - nói cho vào buồng trong - U ơi... 
          - Thôi, tôi xin cô - Việt cười trừ - để yên cho u nghỉ... chỉ được cái quấy rối - anh trách yêu cô em gái. 
          Buồng trong, có tiếng mẹ anh ú ớ gì đó, Việt giục Bính vào xem sao. Ăn xong chiếc bánh giò, anh rót chén trà nhấp từng ngụm, ngẫm ngợi... Ngoài sân, con gà trống choai loay hoay gạ gẫm mấy ả mái tơ... Nắng lên, sân vườn còn ướt sau trận mưa đêm qua. Vẫn đang tiết xuân mà. Cây chanh cỗi cạnh sân giếng và bể nước mưa đơm những chùm hoa tim tím. Việt hít căng một hơi, cảm giác mùi hoa chanh thơm dìu dịu, phảng phất như có như không. Anh bâng khuâng, chợt như tiếng ai đó mơ hồ ngoài cổng "Anh Việt ơi...".

###
          Ngày ấy, thời đi học, bố Việt là hiệu trưởng trường cấp hai của xã, ông lại trực tiếp giảng dạy môn văn. Việt học khá cả văn và toán, nhưng vì bố anh dạy văn, nên anh không muốn mình được xem là học sinh giỏi môn văn, vì như thế khác nào ỷ vào bố. Anh gắng học môn toán sao cho giỏi trội lên, để chứng tỏ lực học tự thân. Thắm người xóm Chợ, khác xóm, nhưng chỉ cách nhà anh chừng nửa cây số, cô học cùng lớp với cái An, em gái ngay dưới Việt. Thắm học văn khá, còn lại thì thường thôi. Tính cô bé bạo dạn, chơi thân với cái An, nên thi thoảng qua nhà Việt, tiếng là đến chơi với bạn, nhưng còn để mượn sách và nhớ bố anh giảng thêm cho những bài văn khó, hay còn vì gì gì nữa thì Việt chẳng rõ. Việt không thích sự mạnh bạo này của Thắm, nên hay tránh mặt, mỗi khi cô bé đến nhà. Đã thế, Việt lại bị cái An gán ghép với Thắm và lâu lâu mang ra chế giễu, càng làm anh khó chịu. Nhiều hôm, Thắm đến bất chợt, nhưng nghe thấy tiêng cô léo nhéo với cái An ngoài sân là Việt vội mang sách vở từ bàn học gian ngoài lánh vào buồn ngủ của bố mẹ để học. Có buổi Thắm mải chuyện với An, khiến Việt phải ở lì trong buồng không dám ho he, nhịn cả tiểu tiện đến khổ sở vì không muốn ló mặt ra. Buồn cười thế đấy. Có lẽ chính vì vậy mà sau này anh khó quên chăng?...
         Làng quê anh đồng ruộng bằng phẳng, nhưng lại thuộc vùng đất bán sơn địa, nương tựa vào chân núi An Phụ, trải quanh vùng có sông lớn Thái Bình và Kinh Thầy chày qua, nên có thể xem như địa thế rất đẹp. Chẳng thế mà xưa kia, cả vùng đất này là đất thang mộc của nhà Trần từ thuở mới lập triều, có trang ấp của An Sinh Vương Trần Liếu, thân sinh ra Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Thế nên, cùng với xứ Hải Ấp và hương Tức Mặc thì đất An Sinh này cũng là đất trọng yếu, có công lớn trong việc dung dưỡng nhiều nhân tài gây dựng vương triều Trần oanh liệt của lịch sử chống ngoại xâm nước nhà. Người dân mấy làng ở đây có thói quen canh tác hành tỏi. Thu nhập cao hơn canh tác lúa nhưng lao động nghề nông thì vất vả lắm. Riêng xóm Chợ nhà Thắm thì ít ruộng, các hộ sống chủ yếu bằng buôn bán vặt quanh năm suốt tháng bám vào chợ, nhất là nghề làm các món quà vặt. Nào bánh tẻ, bánh khúc, bánh cuốn, bánh giò, trong mấy thứ ấy thì bánh giò xóm Chợ ngon nổi tiếng trong vùng. Ngày còn đi học ở quê, lâu lâu mẹ anh đi chợ mua sắm mới dám mua quà bánh giò cho mấy bố con ở nhà ăn. Bánh giò, chỉ là món quà quê, đâu có gì cao sang nhưng cũng như bánh cuốn, là để ăn chơi, thưởng thức quà chứ không phải là loại bánh ăn no bụng như bánh đúc, bánh tẻ, bánh khoai. Cả nhà anh, bảy miệng ăn, tiêu pha trông chờ cả vào đồng lương thầy giáo của bố anh, còn mẹ anh làm nông nghiệp, thêm mấy anh em phụ vào thì đủ gạo nước rau cỏ hàng ngày thôi. Vậy nên, hôm nào có quà bánh giò xóm Chợ là sang lắm, đứa nào cũng háo hức, chỉ riêng bố anh được mẹ phần riêng cả chiếc, còn hai đứa chia nhau một cái, ăn loáng hết ngay miệng thì vẫn chóp chép thòm thèm lắm...
          Có lần, Việt hỏi mẹ anh về chuyện bánh giò xóm Chợ có từ bao giờ và sao lại ngon làm vậy? Mẹ anh bảo, cũng chỉ nghe cái cụ nói sở dĩ ngon vậy là có bí quyết riêng. Chuyện kể là, xưa kia, thời giặc Nguyên Mông sang xâm chiến nước ta, nhà Trần thực hiện kế sách lui binh, bỏ vườn không nhà trống nên cả trang ấp An Sinh và vùng dân lân cận làng mạc cũng bỏ không hết. Trên đường chạy loạn, có một nữ nhân người trong trang ấp bị tụt lại, lạc đường đến nghỉ chân ở dưới gốc đa giếng nước cuối xóm Chợ. Nữ nhân này đói khát, được một bà người làng nhường cho nửa cái bánh giò đang ăn dở của mình, lại múc nước giếng cho uống. Đỡ đói khát, người lại sức nên nữ nhân ấy đuổi theo kịp đoàn người nhà trang ấp. Sau này, đuổi xong giặc, làng xóm thanh bình, nữ nhân ấy về lại trang ấp An Sinh và lên tới hàng quản gia. Nữ nhân đó nghe đâu quê gốc ở gần kinh thành Thăng Long, con nhà có nghề làm bánh giò, vì cảm cái ơn người xóm Chợ cho ăn cứu đói, đã cho gia nhân trang ấp dò tìm được bà già xóm Chợ trước nhường ăn cho mình, mời đến trang ấp, biếu quà báo ơn và còn truyền cho bí quyết nghề làm bánh giò của nhà mình. Kể từ đấy, bảy tám trăm năm nay, người xóm Chợ có nghề chuyên làm bánh giò, bánh bán và bỏ mối nhiều nơi trong vùng, nhưng nghề  này thì cũng chỉ giữ ở vài chục nhà thuộc họ hàng thân thiết của bà cụ tổ nghề bánh giò ngày xưa của xóm thôi, trong đó có nhà cái Thắm. Miếu Bà gần cây đa giếng nước cổ xóm Chợ là thờ người nữ gia nhân trang ấp xưa ấy và nghe đâu cũng thiêng lắm. Người dân xóm Chùa vẫn hay thắp hương cầu khấn xin phù hộ này nọ. Mẹ anh còn bảo, bánh giò tiếng là quà quê, không khó làm, nhưng làm ngon thì khó lắm. Để làm ra loại bánh ngon, thì đương nhiên các nguyên liệu làm bánh như gạo bột, nhân thịt mộc nhĩ đầu phải ngon, song khó nữa là kỹ thuật làm bánh, nhất là khâu ráo bột, để sao cho áo bánh lúc chín đủ độ mềm dẻo mà ăn vẫn giòn, không sượng không nát...
          Tốt nghiệp phổ thông, Việt theo học chuyên ngành cơ điện. Thỉnh thoảng về thăm nhà hoặc kỳ nghỉ hè, Việt hay gặp Thắm ở nhà mình. Cái An, em gái anh học lên cấp ba trường huyện vẫn chung lớp với Thămm nên hai đứa thường qua lại nhà nhau. Mỗi khi chạm mặt, Việt không né tránh nữa, nhưng cũng chỉ chào hỏi xã giao, vì chẳng gì anh đã là sinh viên. Thắm đã phổng phao dậy thì thành thiếu nữ rồi, nên Việt thấy mình cũng cần phải ra dáng đàn ông chứ chẳng thể cư xử kiểu học trò như trước nữa.
           Ngày ấy, một sáng chủ nhật nọ, trong kỳ nghỉ thăm nhà, Việt ở nhà một mình. Bố anh có việc gì đó vắng nhà, còn mẹ và mấy đứa em thì ra đồng cả vì đang mùa thu hoạch tỏi. Việt mới từ trường về, cũng định ra đồng giúp mẹ và các em. Mẹ thương anh đường xa xe cộ vất vả nên bảo anh cứ ngủ cho đã rồi muồn muộn ra đồng cũng được. Việt ngủ dậy thì mọi người đã đi hết, nhà vắng tanh. Anh định ăn sáng rồi ra đồng thì nghe có tiếng ai gọi cái An ngoài cổng. Anh ló ra và còn đang ngó nghiêng thì ai đó gọi tên mình. “-Anh Việt ơi, em đây mà ... Em... Thắm đây ạ”.  Việt mở cổng, nhận ra Thắm. Cô xách một túi nặng tay, cười hỏi: “- Hai bác và An có nhà chứ ạ? “. Việt giải thích qua, nhưng quên không mời cô vào, thì Thấm chủ động: “Thế anh Việt khộng định cho em vào nhà à? Hay cứ để em đứng đây rồi về? “. Việt lúng túng xin lỗi, mời Thắm vào nhà. Cảm giác có lỗi nên anh  bị động, lặng lẽ rót cốc nước lọc to tướng đặt trước mặt Thắm. Cô đưa anh cái túi nặng trĩu trên tay, bảo : “ Em qua đây, trả bác trai tập thơ Nguyễn Bính em đã mượn bác về đọc tham khảo... Tiện đây, em xin biếu câc bác và nhà mình chục bánh giò... Bánh nhà em làm đấy, vẫn còn nóng hổi...Đáng lý là anh phải xách giúp em từ ngoài cổng vào ấy chứ...”. Cô cười đùa, khiến Việt càng lúng túng: “Tôi chán quá nhỉ... xin lỗi nhé.”. Thắm nhìn quanh quất, bỗng à lên “Bánh giò là phải ăn nóng thì mới ngon,... Để em bóc một cái anh Việt ăn thử nhé... Chính tay em làm đây, anh ăn xem em có khéo nghề không?...? Việt rãy nảy: “Ấy đừng... Con cái làm sao dám ăn trước bố mẹ... Với lại, nhà tôi có nếp, quà ai biếu cứ phải bày lên bàn thơ thắp hương các cụ trước rồi mới dám xin lộc...”. Việt vội đi lấy chiếc đĩa đưa Thắm để cô bày ra, rồi anh đặt lên bàn thờ thắp mấy nén hương. Xong việc, Việt ngồi xuống tiếp chuyện Thắm. Cô cười như người có lỗi: “Khi nãy, em vô duyên quá... Cho xem xin lỗi, suýt nữa phạm thượng các cụ... Anh thông cảm cho em nhé. Nhà mình đây lễ giáo... bên nhà em dân chợ nênquen xuê xoa...” . Việt vội gạt đi. Câu chuyện giữa anh và cô cởi mở hơn...
          Là khách nhưng Thắm lại chủ động dẫn dắt câu chuyện. Thắm hỏi thăm anh học ngành cơ điện có khó lắm không, rồi cuộc sống sinh viên chắc thiếu thốn lắm... Đại khái thế, anh cứ răm rắp trả lời cô như một câu học trò ngoan. Một hồi tắc tị, dường như hết chuyện, Việt chợt nhớ là anh chưa hỏi gì cô, khi ấy mới dụt dè hỏi xem sau này cô mơ ước làm nghề gì. Cô cưới rạng rỡ; “Em thích học sư phạm lắm, Làm cô giáo dạy văn, như bố anh ấy... Chắc là thú thị lắm nhỉ? Anh Việt có thấy thế không?”. Anh ngớ người khi bị hỏi ngược, bảo: “Mình không rõ... bố mình có thấy thú vị không... chứ ông nói chuyện với mẹ mình thì cứ khô như ngói ấy... cấm thấy câu nào dịu dàng cả”. Thắm cười. tay che miệng mà cười, khiến anh ngây như ngố; “Thắm không tin.., cứ hỏi cái An nhà mình là rõ...”. Cô cố nín cười: “Em tin... thì thầy u em cũng vậy mà... Các cụ quen nếp cũ, nhất là trước mặt con cái, hay chỗ đông người... nói năng cứ như là chẳng quen biết nhau ấy... thế nhưng... lại đẻ sòn sòn cả đống con... Mai đây, anh em mình chẳng thế, anh nhỉ?...”. Dường như nhận ra cái ngố hiện rõ trên mặt anh, cô nói như giải thích: “Ý em là... đến thế hệ trẻ như anh em mình... xưng hô nói năng với nhau sẽ khác các cụ xưa... dìu dàng, âu yếm hơn...”. Thắm đỏ mặt, nghiêng người nhìn ra sân vườn cố giấu đi nụ cười.Chợt Thắm hởi: “Anh Việt này, em để ý thấy bờ rào quanh vườn nhà anh không có mồng tơi nhỉ ?... “. Việt nhìn ra sân vườn: “Ừ nhỉ, toàn những mây gai, dứa dại, với ít cây duối... Mẹ mình bảo như thế hàng rào mới kín, ngăn được gà qué hàng xóm sang phá, lại chống được trộm cắp...”. Thấy Thắm yên lặng, Việt giải thích: “Còn mồng tơi... mẹ mình có trồng một ít, thêm thắt rau vườn, nhất là khi bắt được cua đồng...”. Thắm bỗng nhiên mơ màng: “Chắc là cái giậu mồng tơi nhà cô hàng xóm trong thơ Nguyễn Bính là không có thật anh Việt nhỉ? ... Chắc nhà thơ mượn cái giậu mồng tơi ra để nói chuyện tình duyên giữa chàng và nàng vốn là hàng xóm với nhau anh nhỉ?...” Việt tròn mắt ngạc nhiên. Thắm nhìn đâu xa ngoài vườn, cứ thế đọc liền một mạch hết bài thơ Cô hàng xóm của Nguyễn Bính... Việt nghe, á khẩu, ù tai... Thắm dừng đọc thơ, nhìn anh: “Bài thơ hay thật anh nhỉ... Em thích thơ Nguyễn Bính lắm, nhất là bài Cô hàng xóm, bài Cô lái đò, rồi bài Chân quê,... cả bài Lỡ bước sang ngang nữa,...nhưng bài này dài quá nên chỉ thuộc in ít thôi... Anh Việt có thích thơ Nguyễn Bính không?...”. Việt lúng túng, nói bừa: “Có chứ, mình cũng thích... nhưng mà chỉ thích vậy thôi... chứ không thuộc làu như Thắm... Mình chỉ nhớ mỗi câu Hôm qua em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. May mà anh đọc ra được hai câu thơ ấy, không thì ôi mặt mang tiếng từng là học sinh giỏi của huyện lại con thầy giáo dạy văn. Thắm tỏ ra thích thú như là tìm được người cùng sở thích: “Bài thơ Chân quê cũng thật là hay anh nhỉ?... Anh này, nếu may mắn trời cho em đỗ đại học, rồi sau này có sống ở thành phố... thì em sẽ chẳng như cô gái nọ của nhà thơ để bay đi cái chất hương đồng gió nội đâu... Nhà quê mình cũng có nhiều cái hay mà người thành phố không có, anh nhỉ ?...”. Thắm hạ giọng như nói với chính mình...
           Giờ thì Việt chẳng thể nhớ nổi chuyện với Thắm hôm ấy, hai người còn nói linh tinh những gì nữa. Chỉ nhớ, sau khi nói về hoa chanh vườn quê và cô gái nhà quê xưa đi chơi tỉnh để bay đi chất quê trong thơ Nguyễn Bính, Việt hầu như không nhìn dám nhìn thẳng vào mắt Thắm, anh cứ ngọ nguậy người, chốc chốc lại nhìn ra cây chanh ngoài sân giếng đang nở đầy hoa tim tím trăng trắng... Đầu óc Việt mơ màng, lởn vởn những câu thơ Nguyễn Bính, thì nghe Thắm à lên: “Thôi chết... em làm mất thời giờ của anh quá... Hết tuần hương rồi, anh hạ lộc giùm em, rồi còn ra đồng kẻo muộn. Nhờ anh chuyển lời với hai bác,... Giờ em còn ra Miếu Bà hạ lễ... Chả là, trước khi qua đây, tiện  đường, thầy u em có sai mang ít bánh giò ra thắp hương Miếu Bà ngày rằm...”. Nghe vậy, tự nhiên Việt thấy người ơn ớn gai gai sống lưng. Hỉnh ảnh ngôi miếu cổ âm u nơi cuối xóm Chợ hiện lên trong óc anh. Rổi anh khẽ rùng mình, cảm giác phảng phất một hình bóng người đàn bà ăn vận theo lối cổ xưa chập chờn ẩn hiện trong hình dáng của Thắm. Anh nén chấn tĩnh, hít thật sâu rồi thở ra nhè  nhẹ, tiễn Thắm ra tận cổng: “Thế em có nhắn gì cái An không?...”. Thắm bị bất ngờ: “À không... không ạ... Có thứ định nhắn cho nó... ban nãy nói chuyện, em gửi anh hết rồi đó...”.  Thắm nhoẻn cười đầy vẻ tinh ranh, quay người bước đi. Việt nhìn theo tần ngần, chẳng hiểu cô ngụ ý gì ?...
+++
        Bính quay ra bàn trà với anh. Cô nhìn Việt tủm tỉm:
        - Bác này, ... gặp em, chị Thắm còn hỏi thăm sức khỏ u và cả bác nữa đấy.
         - Thế cô bảo sao? Việt cảnh giác.
         - Thì em kể thật, rằng u bị tai biến nằm một chố... rằng bác ở Sài Gòn ra chăm sóc u... rằng thì là mà... chị ấy nói về quê chơi ít ngày, biết tim u ốm và bác đang ở đây, nên dự định mai kia gì đó ... chị ấy đến nhà mình thăm u... thăm bác... – Bình nhìn anh cười tinh quái – Thì quý hóa quá chứ còn gì nữa...
         - Thì hỏi thăm thế là được rồi... cần gì phải thăm nom nữa- Việt nhăn mặt- chẳng dám làm phiền,...
         - Bác không biết đấy thôi... Thời gian bác đi học rồi ra trường vào quân ngũ, chị Thắm rất chăm qua nhà mình chơi, kể cả khi chị An là bạn thân của chị ấy vắng nhà ra Hải Phòng làm công nhân... Em biết, chị ấy năng qua lại nhà mình, lấy cớ bạn chị An, nhưng phần lớn là giữ mối thân tình với nhà mình là vì bác đấy... Ngộ nhỡ duyên thành danh phận... Năng đến nhất là năm chị ấy thi trượt đại học, ở nhà tự ôn thi, làm bánh giò phụ giúp cha mẹ. Chị ấy thích sư phạm nên gắng thi nữa, rồi cũng chẳng nên cơm cháo gì. Nghĩ thấy thương thương là... Mỗi lần đến nhà mình, ra chiều bẽn lẽn rồi, chứ không tự tin hơn hớn như trước nữa... May mà nhở người quen xin cho học ở một trường kế toán ngành rồi thoát ly ra vùng mỏ Quảng Ninh...– Bình nhìn anh dò ý tứ - Hồi đó, thầy mình cũng quý chị ấy, hình như thầy có ý chờ xem hai người thế nào... Còn u mình thì bảo, gia đình bên ấy buôn bán vặt nhưng cũng là nhà tử tế, chị Thắm thì được cái khỏe mạnh, tươi tắn, biết nghề cũng tốt... chỉ chê mỗi cái tính hơi mạnh bạo... Chẳng lẽ, ngày ấy bác không biết ư?... Em hỏi thật này,... bác từng có cảm tình với chị ấy không?...
         Việt nghe, ừ à, cười trừ cho qua nhưng Bình không chịu buông tha:
         - Ngày ấy, mỗi lần đến nhà mình chơi, chị ấy lại xách theo một làn nặng bánh giờ làm quà... Lâu ngày, đem tích lại, có nhẽ, cả thấy đến hàng trăm chiếc bánh giò ấy chứ, bác... Hơ hơ...  Bọn em ở nhà tha hồ chén... Thây kệ, nhà anh chị có yêu nhau hay lấy nhau, chúng em chẳng cần biết, chỉ biết là cứ hưởng lộc cái đã... Ai bảo nhà chị ấy có lòng thì chúng em đây có dạ, vậy thôi...- Bình cười trêu - Giờ thì bác về mà tính sổ, trả hết món nợ bánh giò cho chị Thắm của bác nhé ... Thôi, để em vào bếp nấu cháo cho u, tiện thể nấu cơm trưa, cùng ăn với bác cho vui...
         Còn lại mình, Việt thơ thần ra sân vườn. Anh loanh quanh, hết ngắm cây này sang cây nọ. Mỗi góc vườn, mỗi cây cối lại gợi lên trong anh những ký ức thơ ấu, tuổi học mới lớn. Mấy đứa em anh, biết nhiều chuyện, gán ghép này nọ giữa anh với Thắm, nhưng chúng không biết rằng, trong lòng. anh cũng từng nghĩ về cô như là người yêu của mình. Ngày ấy, trường anh học vẫn đóng ở Phủ Lỗ, nơi sơ tán thời chiến tranh máy bay Mỹ đánh phá, trưởng sở, ký túc xá toàn tranh tre nứa lá lụp xụp. Cuộc sống thiếu thốn khem khổ đủ bề. Cánh sinh viên chống đói bằng cách kể chuyện tiếu lâm, kể chuyện quê, hát hò thơ phú, và khoái nhất là chuyện tình yêu. Dân học cơ điện mà thơ phú thì cục mịch thế nào ai cũng hiểu. Anh có khiếu văn nên đương nhiên là nhất lớp về khoản chuyện văn thơ. Anh nặn ra vài bài thơ tính, chàng nàng sướt mướt, đọc lên trong những lúc tán gẫu hay khi liên hoan, chúng bạn khen nhất quả đất luôn. Thế rồi, chúng bạn nài anh kể chuyện người yêu, vì chúng cho rằng thơ tình như thế nhất định phải tặng cho một em nào đó. Nghĩ mặt ta đây, đàn ông đàn ang, anh bịa chuyện người yêu này nọ, bí thì mang Thắm ra để bịa thêm, lẽ di nhiên, anh đổi tên người yêu là Tươi, là Hoa gì đấy... Kể ra cứ như thật. Mỗi lần về thăm nhà, hoặc kỳ nghỉ hè lên, chúng bạn lại gạ chuyện về gặp người yêu thế nào. Lại kể, lại bịa. Diết một hồi, Việt có cảm giác như mình và Thắm yêu nhau thật. Cô ta thích mình thì rõ rồi, nhưng mình có thích cô ta không, thì không chắc. Anh cũng đã tự vấn mình, cười thầm mà gạt đi, thành chuyện cũng ổn, mà không thì cũng khổ đau gì đâu mà lo... Quả thực, có những lúc nghĩ đến Thắm, hoặc  nghe mấy đứa em nhắc đến tên cô, thảng Việt vân ớn mình khi nhớ lại hình bóng người đàn bà cổ xưa chập chờn trong bóng dáng của Thắm từ cái hôm cô đến chơi nhà anh sau khi cô đi thắp hương khấn vái Miếu Bà xóm Chợ. Có gì đó khiến anh chờn chợn, sinh nghĩ ngợi này nọ. Hay cô ta là... anh không dám nghĩ nữa... Linh cảm, có một cái gì đó ngăn cản Việt đến gần cô ấy... Thôi kệ, cứ để cho cuộc sống tự nhiên, nước chảy, bèo trôi...
          Cái An, bạn học của Thắm, có lần đã kể với anh rằng, có một dịp nghỉ Tết, về quê chơi, hai đứa gặp nha, bù khú đủ thứ chuyện. Khi đó, Thắm sắp lấy chồng, người cùng nghề, cô ta đã đùa An bảo là: “Thiếu chút nữa tớ làm chị dâu của cậu... Nhưng mà, tớ và anh Việt duyên đã chẳng ra đâu vào đâu, mà phận lại càng không có, nên tớ mới phải đi lấy chồng thiên hạ thế này, ... Cậu có thấy tiếc không?”. An bảo là vô cùng tiếc, đùa thế rồi hai đứa cười như nắc nẻ. Nói được ra thế, chứng tỏ cô ấy cũng có nuối tiếc gì đâu... Vậy nhẹ lòng. Khi anh chậm lấy vợ, vì là con trưởng nên bố mẹ anh cũng sốt ruột, có ý giục. Mẹ anh còn bảo, biết thế ngày ấy cứ vun vào cho anh với Thắm thì có khi đã lít nhít mấy đứa cháu rồi cùng nên. Rồi ra, cuộc đời sắp đặt đâu vào đấy cả, anh làm quen với một cô gái kém anh cả chục tuổi, quê ở gần chùa Hương ngoài Bắc vô Nam sinh sống. Có phận thì vừa duyền cùng thành đôi... Vợ anh, có nét gì đó na ná Thắm, nghĩa là cũng mạnh bạo, trong cả tình duyên và cuộc sống gia đình sau đó...
          Còn có một chuyện nữa, mấy đứa em Việt, kể cả cái An, tiếng là bạn thân với Thắm cũng không biết rằng, cách đây dăm năm,  anh và Thắm đã gặp lại nhau một lần ở Sài Gòn. Khi ấy, Thắm đi công tác, không hiểu sao cô ấy có số điện thoại của Việt, đã gọi điện hỏi thăm anh. Hai người hẹn gặp nhau ở một quán cà phê gần khách sạn cô ở. Vài giờ đồng hồ với bao nhiêu là thứ cần hỏi, cần biết, cần nói, nên câu chuyện lộn xộn chằng đầu cuối. Thắm trẻ trung hơn anh tưởng. Cách ăn mặc và trang phục khá sánh điệu, khiến Việt nhớ lại hai người xưa đã từng nói gì về chân quê, về cái sự bay đi ít nhiều chất hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính. Vẫn như ngày trước, Thăm luôn là người chủ động dẫn dắt câu chuyện, còn anh tuy không giống cậu học trò nhút nhát, nhưng có ý nhường nữ giới, kệ cho cô dẫn dắt. Bản tính anh vậy. Chuyện gia đình đôi bên, rồi lại xoay sang chuyện học trò ở quê. Có điều, chuyện về văn chương thơ phú thì Việt lại chủ động nhắc. Thắm cười tươi, bảo giờ vẫn thích nhưng chẳng còn đâu thời gian mà thơ phú, với lại cô cho rằng bây giờ thơ phú thiên hạ nhiều quá đọc không xuể. Lâu lâu vớ được tờ báo, tờ nào cũng có trang thơ, mà nhiều bài đọc trúc trắc, không vần điệu, đọc xong chẳng hiểu nói gì... Cô còn bảo, hay là nhiều năm nay làm nghề kế toán, chỉ biết đến những con số, chỉ quen với chuyện hạch toán lỗ lãi nên mất đi sự cảm thụ thơ ca... Việt nghe cô chê thì chỉ biết cười trừ ...
         Giờ thì mấy anh em nhà anh gia đình đều yên ấm. Gánh nặng lại ở chuyện hiếu đễ, bổn phận và trách nhiệm của con cái với đáng sinh thành. Bố anh đổ bệnh rồi nằm một chỗ gần chục năm mới mất. Việc chăm sóc ông ngần ấy năm, tuy các con cũng xúm vào nhưng phần nặng vẫn một tay mẹ anh cả. Bố anh mất đi, vừa qua giỗ đầu, thì mẹ anh lại ngã bệnh như bố. Bà nằm liệt giường chẳng biết sơm tối thế nào, có thể là chuyện lâu dài... Những lúc như thế này, người ta mới hiểu việc báo hiếu đâu có dễ, và có dâu con ở bên mới quý làm sao... Những ngày xa chốn đô thị náo nhiệt ở quê chăm mẹ, Việt mới thấm thía và ngộ những đạo lý và nhiều điều mà trước đây không để ý, hoặc chưa thấu tỏ. Một mình chăm mẹ, tự nhiên, anh hay nghĩ đến Thắm...
          Giờ anh và Thắm, ai yên phận nấy, có khi cô ấy lên chức bà rồi cùng nên... Ngày mai, kia cô ấy đến thăm nhà, hai người sẽ chuyện những gì nhỉ? Liệu có còn tâm trạng và hứng thù mà chuyện thơ văn hay không? Chỉ có thơ Nguyễn Bính là hầu như vẫn tươi nguyên với những người yêu nhau, với những ai từng có duyên mà không nên phận, thành lỡ dở...
          Bình bê mâm cơm lên, ớ gọi, anh từ trở vườn vào, thì trời lắc cắc mưa. Một đợt gió mùa sắp ùa về. Tiết giêng hai, trời còn mưa phùn, ẩm ướt. Tự dưng, trong đầu anh phảng phất một tứ thơ,.. ./.
 
 
 
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2021 14:36:04 bởi tamvanvov >
#61
    tamvanvov 12.01.2021 17:49:36 (permalink)
    Võ Quảng, niềm cảm hứng thôi thúc văn chương trong tôi,...
    tản văn
           Sáng nay, một sáng đầu đông, cuối tuần, dù giờ không phải bận công sở, việc làm thêm thì không thời gian, nhưng tôi vẫn giừ cái thói quen cũ, ngủ dậy muộn hơn ngày thường một chút. Một thói quen công chức ăn vào đầu óc, ám vào da thịt, thật khó bỏ. Thủng thắng nhấm nháp chén trà Thái ngon trong tiết trời se lạnh vì gió mùa về đêm qua, lơ đãng ngó mặt ti vi,...
            Ngày đi học ở quê, tôi đã say mê đọc truyện "Quê nội" của nhà văn Võ Quảng. Ngày ấy, sách hiếm lắm, và sách cho thiếu nhi lại càng ít. Thế nên, cùng với "Dế mèn phiêu lưu ký: của Tô Hoài, "Đội du kích thiếu niên Đình Bảng" của Xuân Sách, "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi, "Quê nội" của Võ Quảng đã cho tôi, và tôi tin cả một thế hệ học sinh, thiếu nhi ngày ấy niềm say mê, lòng khao khát với bao ước mơ, hoài bão... 
    Với riêng tôi, nhà văn Võ Quảng đã ít nhiều bồi đắp nên trong tôi tình yêu văn học, để tôi tiến gần hơn với nghiệp cầm bút, làm báo, viết văn sau này. Tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về điều đó...
             Hơn chục năm trước, tôi có vài năm biệt phái vào Văn phòng miền Trung của Đài Tiếng nói Việt Nam đóng chân ở Đà Nẵng, nên có điều kiện qua lại nhiều lần vùng Đại Lộc, Quảng Nam. Đây là quê hương của nhà văn Võ Quảng, vùng đất mà ông nhớ thương suốt mấy mươi năm "ngày Bắc đêm Nam". Vùng đất này thật tươi đẹp, trù phú bình yên bên con sông Thu Bồn nên thơ. Thảo nào, những năm xa quê đằng đẵng ấy, ký ức tuổi thơ đi học đã cho nhà văn Võ Quảng cảm xúc thương nhớ dạt dạt và sự thôi thúc để ông bảy tỏ ra mặt giấy...
            Vậy mà với ông đã trăm năm rồi đấy, và ông vắng bóng trên thế gian này cũng đã hơn chục năm nay, nhưng tác phẩm của ông thì người ta mãi còn phải nhắc đến... 
    Vô tình, chuyện về ông lại thức dậy trong tôi, thôi thúc tôi viết một điều gì đấy. Và những câu chuyện bên lề, nhưng ồn ào này nọ, dư âm từ Đại hội nhà văn vừa qua, bỗng bay đi hết. Chỉ còn lại ký ức và sự mong muốn viết ra được mà thôi !...
            Chương trình văn nghệ sáng cuối tuần, "Người lưu giữ tuổi thơ", phim tài liệu về nhà văn Võ Quảng. Tôi bị cuốn hút, không hẳn vì phim hay, mà vì những hình ảnh về nhà văn Võ Quảng, những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi của ông một thời, rồi con phố Hàng Chuối nơi gia đình Võ Quảng từng sinh sống quanh năm vắng vẻ, và cả vùng quê ông, Đại Lộc, Quảng Nam nằm bên con sông Thu Bồn trong mát, đã gợi lên và sống dậy trong tôi biết bao ký ức tuổi thơ....
     
    Đã mang vào thư viện
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 04:46:04 bởi Ct.Ly >
    #62
      tamvanvov 06.02.2021 10:31:33 (permalink)
      Ơi đào đá Hà Giang,
      Tản văn,
       

      "Đã qua mùa tam giác mạch/ mưa xuân đá cũng lên xanh/ cao nguyên đang mùa tươi trẻ/ địa tầng bỗng hóa mỏng manh/ Đào rừng năm nay nở muộn/ bung trời Quản Bạ, Yên Minh/ khoe sắc Sủng Là, Phó Cáo/ phơi hồng Lũng Cú, Đồng Văn...", 
      Đó là những câu thơ đầu của bài thơ "Cao nguyên đá đương xuân" tôi sáng tác vào mùa xuân năm Đinh Dậu 2017 trong chuyến đi lên Hà Giang.
      Lần ấy, dịp rằm tháng Giêng, đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) lên Hà Giang, công bố chương trính phát sóng phát thanh Dân tộc (VOV4) tại Đài Phát sóng FM Quản Bạ, Sau buổi lễ, chúng tôi ghé thăm mô hình du lịch homstay ở làng người Dao (Nặm Đăm), rồi nhập với đoàn công tác của tỉnh Hà Giang ngược núi lên Đồng Văn dự lễ chào cờ đầu năm trên Cột cờ Lũng Cú. 
      Thực lòng, khi bắt gặp những cây đào chi chít nụ hoa dọc lối từ trực đường chính lên Trạm phát sóng, tôi đã ngõ ngàng, thích thú. Lúc vào thăm bản người Dao, vườn nhà gõ lối trong bản cũng lác đác đào hoa, song đến khi vượt qua Yên Minh, băng dốc Thẩm Mã vào đất Sủng Là, cửa ngõ Đồng Văn, cảnh sắc mới thực sự huy hoàng. Ôi chao, những đào là đào. Ngỡ ngàng đến bàng hoàng, cảm giác không tin vào mắt mình, tưởng như đang lạc vào chốn Đào nguyên không có thật, hơn cả lão Bật Mã Ôn lạc đào nguyên trong phim Tây Du Ký. Xe bám theo đoàn, băng băng ngược dốc, tôi ngó hai bên đường, cảnh đẹp thần tiên mà lòng những tiếc vì không thể dừng lại chụp dăm ba kiểu ảnh. Đến phố xã Sủng Là, đành rớt đoàn vài phút dừng lại nhà người quen cũ, tặng mấy cuốn sách cho anh chàng Vạn Lý. Chụp vội một kiểu ảnh lưu niệm, thấy tôi luôn miệng than tiếc, anh chàng Vạn Lý gợi ý "Tiếc, thì lúc về chú dừng lại chụp...". Nghe chừng có lý. Nhưng phải tăng tốc bám theo đoàn đã. Với lại, lịch trình đường về không qua lại đây, mà vòng sang Mèo Vạc rồi theo lối khác...
      Vùng chân Cột cờ Lũng Cú, vườn nhà dân cũng có đào, nhưng không nhiều và đẹp như ở Sủng Là.  Sau lễ chào cờ ngay chân cột cờ, trời đã tối, đoàn công tác vội về thị trấn Đồng Văn dự tiệc chiêu đãi và giao lưu thơ nhạc. Bầu không khí xuân đầy hơi men và niềm hứng khởi, chằng thể đẩy khỏi  đầu óc tôi những cảnh sắc đào hoa lúc chiều. Đêm ấy, trời đổ mưa xuân, khu phố cổ và chợ Đồng Văn nhếnh nháng ướt, đẫm hơi xuân. Tiếng khèn Mông và hương vị cháo nóng ban đêm khiến không gian thêm huyền ảo, ấy vậy, trong tôi vẫn chớp chới, lấp lóa cảnh sắc đào nguyên như cuốn phim quay lướt... 
      Sáng ra, dậy sớm tranh thủ bát phố Đồng Văn. Trời xuân quang quẻ, từng tốp gái người dân tộc thiểu số áo váy xúng xính, sặc sỡ, ríu ríu xuống phố chợ. Ngó quanh, lác đác đây đó những cây đào đơm hoa, nhưng chẳng có thời gian mà ngắm vì còn phải theo đoàn công tác lên Mã-pì-lèng. Từ đỉnh cao, nhìn hút theo con sông Nho Quế mùa cạn nước, trơ trụi, lại thêm nham nhở vì những đập thủy điện đang xây dở dang. Lộ trình tiếp sang Mèo Vạc, tôi và anh bạn cùng xe, một phóng viên cựu VTC, cũng là một tay máy xịn đam mê nhiếp ảnh, lén bảo nhau quay đầu xe về lại Đồng Văn, xuôi Súng Là. Cảm giác tự tách đoàn có gì đó như vụng trộm, xen cảm xúc sắp được tha thẩn, chọn khuôn hình, góc độ, nâng ống kính thu hình những cảnh sắc xứ sở hoa đào đá mà lòng tôi chộn rộn. 
      Đây rồi, những dãy đào cây giăng lối hai bên đường, hàng rào nhà dân nối nhau, miên man như bất tận. Bấm máy liên tục. Không ngờ, anh chàng lái xe cũng là một tay máy xịn, đam mê ảnh ót. Xe chúng tôi cứ di chuyển vài chục mét, lại dừng và cả ba nhao xuống chụp. Đâu cũng đào, đâu cũng đá, cũng vòm cổng, mái nhà nâu xỉn ngả màu thời gian. Đẹp mê hồn, trước mặt đẹp, nhìn ngang đẹp, quay lại sau lưng cũng tuyệt vời không kém. Ba người chúng tôi mất gần hai giờ đồng hồ mà vẫn chưa qua được vài cây số khu vực Sủng Là. Ngang qua nhà anh chàng Vạn Lý, ngó thấy cửa nửa khép nửa mở, nhưng không dám đánh tiếng, e mất thời giờ vì còn dành cho việc săn ảnh...
      Cứ thế, cả ba người đều mê mải tìm tìm, chụp chụp. Dẫu có mê đắm thì khi ngó mặt đồng hồ,cũng giật mình, í ới gọi nhau về xe, cắm đầu cắm cổ mà chạy thật nhanh, kịp về thành phố dự một tiệc chiêu đãi. Tới nơi, chậm cả tiếng, may mà tiệc chừng quá nửa. Bù lại, tôi và anh bạn đồng nghiệp tự nguyện xin nhận phạt chậm giờ, mỗi người cạn liền ba ly rượu. Lúc ngồi trên xe về đây, cảm xúc dâng trào xen lẫn sự tiếc nuối vì không có thời giờ để săn thêm ảnh, tôi đã chớp nhoàng làm bài thơ Cao nguyên đá đương xuân. Không những uống rượu phạt, tôi cao hứng đọc bài thơ này, thay lời xin lỗi và xem như giải thích cho sự chậm trễ đáng yêu của mình và người bạn đồng nghiệp...
      Kể từ ấy, đã ba mùa xuân qua, tôi chưa có dip trở lại cao nguyên đá. Nhớ vùng đất địa đầu Hà Giang nhiều lắm, nhất là mấy địa danh Phó Báng, Phó Cáo, Sùng Là... 
      Nhẩm bụng, xuân này, ra giêng, gắng thu xếp ngược nguồn trờ lại cao nguyên đá, theo lời nhắn gửi của anh chàng Vạn Lý, thì dịch dã lại ập đến. nên dự định khó thành hiện thực...
      Những mong trời đất sớm yên hàn.
      Xuân về rồi đấy, ơi Sủng Là, Phó Bảng, Phó Cáo, Lùng Phìn,... đào đã bung sắc hồng chưa ?...
       

       
      #63
        tamvanvov 14.02.2021 11:03:08 (permalink)
        Ý tường cuối năm,
        Tản văn,
        Những ngày giáp Tết, tự dưng nảy ý định làm TUYỂN TẬP THƠ LỤC BÁT của mình. Ý tưởng này bắt nguồn từ phác họa nhanh của nhà thơ Ngô Đức Hành nhân đọc tập thơ Xương rồng khô đã lên xanh của mình, đã nhặt ra một số câu lục bát mà gã thấy thú vị. Nghĩ thế, làm ngay, bén lọc ra từ khoảng 250 bài thơ lục bát trong 8 tập thơ của mình (7 tập đã xuất bản, 1 dự định xuất bản). bước đầu chọn 200 bài. Ra giêng ngày rộng tháng dài sẽ lược bớt đi...
        Ngày cuối năm, thử đăng lại một bài lục bát làm từ tết Ất Mùi trong số những bài được chọn, xem ra vẫn phù hợp thời tiết ?... 

        Cuối năm ta lại về quê,
        Trước làm giỗ mẹ, sau về tuổi thơ,
        Ruộng đồng tái dại bơ phờ
        Mẹ đi từ bấy đến giờ... vẫn đây,
        Vườn nhà đã mấy lần cây
        Ngôi thờ tự mới sao tày công ơn,
        Nhớ ngày mái rạ sân trơn
        Cuối năm gió bấc từng cơn cả chiều,
        Lui cui gom những thương yêu
        Mẹ lo cỗ tết bao nhiêu cho vừa,
        Bánh chưng, giò chả, rau dưa,
        Chè kho, bánh mật vẫn chưa yên lòng,
        Rồi ra, ngoài ngõ sân trong,
        Mẹ thu lá cả mùa đông vun đầy,
        Đốt lên đống rấm khói bay,
        Nay ngồi nhớ, lại chợt cay mắt mình...

        Mong là ý tưởng này thực hiện được trong năm Tân Sửu,
         
        r
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 04:45:38 bởi Ct.Ly >
        #64
          tamvanvov 28.02.2021 14:33:54 (permalink)
          Đọc lại Xem đêm của Phùng Cung,
            ( Tiểu luận văn học của Nguyễn Chu Nhạc )
                    Những ngày xuân tháng giêng Tân Sửu, đúng thời điểm dịch Covid 19 bùng phát lại, cầm chân không du xuân lễ hội đâu được. Ở nhà, viết và đọc sách giải khuây. Tôi đọc lại tập Xem đêm của Phùng Cung.
                    Số là, từ hơn chục năm trước, tôi đã tình cở mua được tập thơ Xem đêm lần xuất bản đầu và đọc thấy thích. Rất thích là đàng khác. Tôi đã viết tiểu luận  “Có một nông thôn trong thơ Phùng Cung”, gửi đăng báo. Sau đó, tôi phát triển thành chân dung văn học “Phùng Cung, người tôi chỉ biết qua thơ” (in trong tập Trời đất thu hay lòng ta thu, Nxb Dân trí 2016). Trong những lần đàm đạo văn thơ cùng bạn bè, nhiều lần tôi khen tập thơ Xem đêm, khiến mọi người tò mò mượn đọc, vì thế mà thất lạc. Tôi tiếc lắm. Trước tết Tân Sửu, tôi nhờ người quen mua được tập Xem đêm, bản mới do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Sách in đẹp và phần nội dung có thêm Phụ Lục với các bài viết của Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm về thơ văn của ông, còn có cả truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trình, mà vì nó Phung Cung đã dính án văn chương ngày nào...
                    Đọc lại, vẫn nguyên cảm giác thú vị, nhưng đằng sau câu chữ, vấn điệu, còn thấy được ý tứ sâu xa về thân phận con người nói chung và thân phận với nỗi cay đắng riêng ông.
                    Trong bài viết này, tôi không nhắc lại những gì đã nói, đã bàn ở các bài viết trước, như việc khắc họa một nông thôn Bắc bộ điển hình một thời xưa cũ khốn khó còn chưa xa; hay đâu như sự ngộ ra, để rồi tự an ủi, răn mình mang tính thiền định, kinh kệ nhà Phật,,,
                    Ở đây, tôi muốn đi sâu tìm hiểu sự ám ảnh, hàm ý về một thân phận bị dập vùi mà vẫn gắng gỏi ngoi lên, loe lói sáng như muốn chứng ninh cho sự trong sạch của bản thân...; và không thể không nói đến một điểm mạnh, ấy là nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian thơ của Phùng Cung,
                    1. Có lẽ, trong tập tho này, khó có bài thơ nào hàm súc, ám ảnh, ấn tượng hơn bài Trà: “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Không đổi giọng Tân Cương”. Nó thể hiện nỗi niềm về thân phận, sự kiên định, ý chí, bản lĩnh và cả khao khát khẳng định sự thanh sạch của bản thân tác giả.
                    Có thế thấy, hàm ý về nỗi niềm thân phận bị vùi dập, ý chí, bản lĩnh muốn khẳng định sự thanh sạch và khao khát vượt lên số phận ẩn giấu trong nhiều câu thơ, bài thơ...
          Ví như: “Thánh thần ơi/ Phải đâu nhật thực triền miên/ Ngày tối hơn đêm/ Đêm-vó-ngựa/ Quỳ gối chống tay/ Vẫn còn sợ ngã/ Mặt đất quá cheo leo” (Đêm vó ngựa); “Thương cây đào ốm/ Xuân về chẳng nở hoa/ Lá gày run gió lạnh/ Cây cũng có thời vận ư?” (Cây đào); “Trời đất uy nghi/ Xanh vĩnh cửu/ Chim bay hình thánh giá muôn phương/ Cung tên tạo hình thánh giá/ Bắn con chim hình thánh giá tử thương” (Vĩnh cửu); “Phận lấm/ Tối ngày đào khoáy/ Lưng nắng-vẽ/ Hoa văn tiền sử/ Chài chãi đồng chiêm/ Mấy kiếp rồi” (Cua đồng); “Tổ tan/ Trứng mất/ Có trời biết vì sao/ Bỏ hót/ Chỉ kêu/ Mỏ run run rớm máu” (Con chích chòe); “Dông bão trẩy qua xóm nhỏ/ Giập gãy hết rồi/ Ngô độn chuối xanh/ Xì xằng qua bữa/ Kẻng thúc ngũ liên/ Săn kùng đào ngũ/ Chẫu mắt mù/ Nhìn-đóng-cọc vào đêm” (Giập gãy); “Trở giấc xem đêm/ Thiên hà ngọc vụn/ Gió thổi một mình/ Mặt đất tròng trành/ Ma hoa nhày múa” (Xem đêm); “Hệ lụy với tôi/ Là ăn là uống/ Miếng ăn miếng uống/ Hành hạ suốt đởi/ Mấy ai dám cả gan/ Đùa dai với đói khát” (Miếng sống); “Trái đất lênh đênh/ Chênh chênh mùa nắng/ Gió trĩu cành/ Tải bốn mùa cười khóc/ Sóng biển xanh/ Nát bóng hải âu” (Tâm tư);
          Thậm chí, Phùng Cung còn cân nhắc. sắp đặt số phận mình, và cho cả cái chết của mình, nếu ông không được sống: “Vạn thuở hồn cỏ xanh/ Mặt đất thơ gắn bó/ Bất hạnh nào hơn/ Già rụi quê người” (Ăn năn); “Sống quá khó khăn/ Chết chẳng dễ dàng/ Tôi phải sống/ Hẳn rôi còn được chết/ Chết là chơi nốt/ Một trò chơi/ Mãn khóa hỗn sinh” (Trò chơi); “Mô hình tôi/ Một trẻ thơ/ Ngoạm củ ráy/ Đứng thẳng người trong xóm/ Quỹ đạo tôi/ Thư thái-loằng ngoằng/ Xó bếp-bở ao/... Khi tôi chết/ Tôi thèm cái lặng lẽ/ ... Nếu tái sinh/ Tôi chẳng ước ao gì khác/ Chỉ mong được như kiếp trước/ Xó bếp đói. No/ Bờ ao tắm mát/ Phận cánh cò/ Mưa-nắng-phong dao” (Thanh thản); “Nhập nhoạng đóm đèn/ Đêm chó mực/ Trạt mùi hạ nhục/ Già trẻ sụt sùi/ Ôm đầu số phận/ Cúi mặt nhìn ngang/ Nghe lanh chân nhang” (Đoàn viên)...
                    Dẫu là “phận lấm”, dẫu có “xó bếp, bờ ao” hay “lênh đênh”, “ngày tối hơn đêm” di chăng nữa, thì với Phùng Cung, vẫn quặn thắt một nỗi đau đời-một khao khát vươn lên trên số phận: “Trăng qua song sắt/ Trăng thăm ngục/ Bỗng ta chợt tỉnh-sững sờ/ Trên vai áo tù/ Trăng và lụa/ Ngày xưa ơi!/ Xa mãi đến bao giờ...” (Trăng ngục); “Ai giùm tôi thủ tục làm vô tận/ Thỏa thích trải trời xanh cõi không cùng/ Tôi khao khát huy động/ Những chùm sao đẹp/ Đêm về lung linh chòm xóm nghèo sao” (Khát vọng): “Hỡi bầu trời/ Hãy rộng thêm nhiều nữa/ Để phi đoàn cất cánh/ Xếp đội hình thánh giá uy nghi/ Rộn rã chuông chiều/ Cất giọt mưa sa/ .../ Giải phóng những nếp nhăn/ Trên từng vầng trán hoài nghi” (Giải phóng); “Đêm khuya trằn trọc/ Tôi bắt gặp/ Mùa thiêng hoa chết/ Ngoại giới mưa bay/ Trong hồn tơi tả/ Trăng úa-đầy trời-lá rụng/ Không gian khát vọng khúc giải oan(Khát vong)...
                    Chịu khó tìm nhặt, trong Xem đêm, vẫn đây đó những câu thơ hàm ý dạng này, nhưng tôi không sa đà, để khám phá nghệ thuật thi ca tài tình của Phùng Cung...
                    2. Nghệ thuật thi ca của Phùng Cung, trong Xem đêm thật tài tính.
                    Có thể nhận định một cách ngắn gọn nhất, ấy là sự chắt lọc câu chữ, ý tứ hàm súc, ám ảnh, ấn tượng, không gian sống động, đầy thanh âm, hình ảnh, sắc màu, hương vị và trạng thái cảm xúc...
                    Chắc chắn, ngày ấy, Phung Cung và cả chúng ta, không một ai biết đến khái niệm 3D, song tài tình thay, mỗi bài thơ trong tập thơ này đều như một cuốn phim ngắn 3D. Tôi chọn một số bài thơ để minh chứng cho điều này: “Mặt trời hạ-thổ/ Núi-giội-chàm/ Đò chuyến cuối/ Nhìn nhau nhọ mặt/Sữa con so ướt yếm/ Thơm-mùi-khoai-luộc/ Dốc bến tối gà/ Đom đóm rối guồng-tơ-lửa/ Nghe đêm trung giang thả-gió-gọi diều” (Chiều soi bãi); “Sương chiểu nghe-lạnh bước chân/ Khách áo cũ/ Tìm về bạn cũ/ Ai đốt rác lá tre bên ngõ/ Lối đi dầy mùi khói-cuối-năm” (Khói cuối năm); “Chó sủa dông dài/ Giò chuyển canh/ Trái thị cuối thu/ Thơm mùi trăng-úa/ Ao khuya nước thở thì thầm” (Đêm cuối thu); “Thoảng mùi ruộng ải/ Thóc giống cựa mình/ Nắng vắt ngọn-tre-đuôi-én/ Đủng đỉnh điệu cu cườm/ Lạc nhịp-gió may” (Mùa gieo mạ); “Gió quẩn lùm ngỉa cứu/ Mùi ngộ cảm đầy vườn/ Chếch bóng chĩnh tương/ Con vằn say bả/ Hoa chuối tiêu lầm lũi/ tím Tam-giang” (Nôn nao); “Chó sủa làng xa/ Sủa gơn xóc ốc/ Sao diều ai hóc-gió/ ven sông” (Đêm ven sông); “Mảng rêu chiều nắng ghé/ mênh mông/ Con dế loanh quanh/ Tìm lại tiếng mình đêm trước/ Vườn hàng xóm ngổn ngang/ mùi khế rụng” (Chiều nắng ghé); “Oèng oẹc trời khuya/ Chim lợn xổ giọng hãi hùng/ Tôi nhìn sông/ Đầy ắp sao xanh/ Ngoằn ngoèo phun tím/ Lửa-hoa-đăng/ Rần rật rím-luân-hồi” (Sông đếm); “Mành rách gió lay/ Chim chích đu mình săn nhện/ Góc sân nắng hanh/ Lá mít rụng trờ mình-nghé bếp/ Chó hàng xóm/ Sủa cầm chừng vài tiếng/ Lỗi bước lên hè/ Guốc nằm chiếc ngửa chiếc nghiêng” (Nhà vắng);  vv ... vv...
          Nhiều lắm, khó mà trích dẫn ra hết được. Bài thơ nào cũng kiệm lời, gạn đến mức cảm giác không có từ nào thừa cả. mỗi từ đều phải gánh một phần ý tứ. Về tư duy, hình thức thơ, có thể thấy, ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn tính hàm súc, tinh tế, ý tại ngôn ngoại của Đường thi, phong vị thiền và sự chắt lọc của thơ Haiku Nhật Bản, lại gần gũi thân thuộc của tục ngữ, ca dao Việt Nam,
          Phần lớn, các bài thơ trong tập này của Phùng Cung là thơ tự do, câu ngắn, ngắt dòng liên tục. và nhiều câu được ngắt nối bằng dấu ngang ( - ), giàu nhạc điệu. Có bài là lục bát, hoặc thơ dạng bốn câu, nhưng được ngắt dòng, nên mới mẻ và ấn tượng. Ở vào thời ký ấy, có thể thấy, Phùng Cung đã rất ý thức trong việc cách tân thơ.  
          Ví như: “Trăng lên/ hàm tiếu/ thẫn thờ/ Nửa chững trăng xế/ Chịu giờ mãn khai” (Hoa quỳnh); “Này em!/ Cây khế gãy rồi/ Nỗi chua vẫn hỏi thăm/ Người trồng cây” (Cây khế); “Chút lòng dây gấm khăn điều/ Cảm thương cái nhện/ Chiều chiều giăng tơ/ Không gian đứt nối sững sờ/ Khăn điều dây gấm/ Ngẩn ngơ mấy chiều” (Giăng tơ); “Dáng gày-đầy đặn-trữ tình/ Thuyền au đậu bến Lan Đình/ Trăng xa/ Tử sinh lỡ một lần ba/ Ruột tằm đau/ Mối tơ thừa gió bay” (Trăng xa); “Lênh đênh muôn dặm/ nước non/ Dạt vào ao cạn/ Vẫn còn lênh đênh” (Bèo); “Sen vàng từ thuở lên ngôi/ Bâng khuâng du khách/ Ngậm ngùi vần thơ/ Cồng chùa nhện mải giăng tơ/ Chuông thiêng ngân mãi/ Tiếng thừa trong không” (Chùa Kim Liên); “Lá súng lát mặt ao/ đếm ngọc/ Con sộp phàm vồ bão/ bóng hoa lay/ Lá tre rụng/ Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch/ Tiếng cuốc bèo da diết/ gọi ngày mai” (Ao con); “Bờ ao trưa gió lay lá cỏ/ Vang khẽ lời ru nhỏ xanh xanh***/ Cách cách giòn tan/ Con cào cào dội phách/ Khoe cánh điều/ Bay ngập nắng-bổ-cau” (Nắng bổ cau); “Cành xoan cu gáy đứng/ chào mùa/ Ung dung đổ lèo ba/ dõng dạc/ Mùi cơm mới/ Xoắn mùi cá kho nhạt/ Hoa cải thơm quấn quýt/ qunh làng. Một lũy thơm” (Lũy thơm),...
          Đổi mới hình thức thơ trên nền tảng các thể thơ cũ bằng cách ngắt nhịp song vẫn giữ mạch thơ khiến người ta xem bằng mắt hay đọc bằng âm đều không thấy nhàm và vẫn dễ nhớ dễ thuộc.
          Tuy còn chưa đi sâu phân tích nghệ thuật ngôn ngữ thơ, nhưng với bấy nhiêu thôi, tôi nghĩ, Phùng Cung đã có những đóng góp nhất định trong tiến trình đổi mới thi ca Việt Nam hiện đại !...
           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2021 14:37:24 bởi tamvanvov >
          #65
            tamvanvov 23.03.2021 16:07:02 (permalink)
            HOA GẠO THÁNG BA
            (Tản văn)
             
            Đã có lần, tháng ba, tôi lên Cao Bằng. Đi theo đường Lạng Sơn, qua Thất Khê rồi Đông Khê, khi về lại Bắc Kạn, Thái Nguyên. Đã cuối xuân, chớm hè. Những trận mưa rào sớm gột rửa bụi cho lá rừng. Lòng rạo rực rạng lên một màu hoa đỏ. Hoa trạng nguyên rừng, hay gọi theo cách gọi dân dã của bà con miền núi là hoa hàng rào, lấm chấm đỏ suốt dọc đường đi. Nhưng ấn tượng và mạnh mẽ hơn cả là màu đỏ của hoa gạo. Chợt nhớ rằng, người Tây Nguyên gọi loài hoa này là hoa pơ-lang, còn người miền núi đồng rừng phía Bắc gọi là hoa mộc miên. Lại nhớ có một bài hát về hoa mộc miên từ nửa thế kỷ trước vào cái thời quan hệ hữu nghị Việt Trung anh em cực kỳ nồng ấm: ” Mỗi khi qua rừng biên giới lại thấy hoa mộc miên nở … Mộc miên hoa ơi… “. Ngày nhỏ, tôi đã nghe mấy người chị gái mới lớn tuổi bắt đầu biết yêu, nghêu ngao hát bài hát ấy, chỉ thấy giai điệu thiết tha chứ nào có biết hoa mộc miên là hoa gì đâu… Cũng loài hoa đỏ ấy, cây gạo cổ thụ đầu làng tôi lại như một người lính gác ngày đêm đứng đó, đưa tiễn bao lớp trai làng lên đường ra mặt trận, hay ra đi lập nghiệp xứ người cho thỏa chí trai, rồi lại lặng thầm đón họ về dù họ thành công hay thất bại với sự bao dung chở che của xóm mạc. Năm lại năm, cứ mỗi độ tháng ba cây trổ những bông đỏ ối báo hiệu xuân qua hạ tới, khi công việc nhà nông cấy hái đã xong, đợi tháng năm thu hoạch mùa màng. Cây gạo biết bỏ qua những lời đồn đại của dân làng, của đám trẻ con theo kiểu thần cây đa ma cây gạo. Thân cây xù xì theo thời gian, và còn bởi đám trẻ đẽo gọt mắt gạo để làm những con dấu trò chơi. Rồi những hố hốc trên thân mỗi ngày một nhiều một sâu hoắm. Và cho đến một ngày nào đó cây gạo chết khô và người ta cưa thân trốc gốc. Mà chẳng riêng chuyện quê tôi, giờ đây nhiều làng quê không còn bóng gạo, không còn màu hoa đỏ chói mỗi tháng ba nữa. Nhớ lắm màu hoa đỏ ấy. Tôi cũng có dịp được ngắm hoa gạo ở chùa Keo (Thái Bình). chùa Thầy (Hà Tây), chùa Nôm (Hưng Yên) hay ngắm cả một dòng kênh hai bên rực rỡ hoa gạo đỏ ở miệt biển Hải Hậu-Nam Định. Và bao giờ cũng vậy, màu hoa gạo đỏ cũng đem lại trong tôi một cảm giác ấm áp,bình yên, no đủ !... Mấy năm trước là hoa gạo đỏ dốc đèo Pha Đin đường lên Điện Biên. Giờ là hoa gạo đỏ đường đèo Thất Khê, Đông Khê rồi Quảng Uyên, Trùng Khánh, nơi đồn biên phòng Đàm Thuỷ, chốt thác Bản Giốc…Tôi đã để ý, thấy mấy chiến sĩ biên phòng trẻ người miền xuôi lên biên giới làm nhiệm vụ, nhặt những bông gạo đỏ ném qua hàng rào trêu đùa mấy cô giáo cắm bản. Có một cái gì đó nhen nhóm rồi cháy lên !... ./.
            #66
              tamvanvov 10.04.2021 16:17:52 (permalink)
              Người giăng lưới bắt chim ( 1)
                                       
                        Tôi muốn lấy tên một tập sách của ông để gắn vào tên bài viết này, không phải vì chơi chữ, đơn thuần bởi nó đúng với tính cách con người và ý đồ sáng tác của chính ông.
              Ấy là Nguyễn Huy Thiệp !
              Ông là ai ? Nhà đoản thiên tiểu thuyết, nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch, nhà phê bình, nhà thơ ? Là tất cả các nhà ấy, theo tôi đều xứng đáng cả. (mặc dù có thể chính ông chẳng cần thế ).
              Tôi muốn viết về ông, song khó quá. Khó bởi ông là một người quá nổi tiếng, không riêng ở Việt Nam, mà cả ra thế giới. Khó nữa, bởi đã có quá nhiều người viết về ông, nhất là Trần Đăng Khoa, thần đồng thơ đất Việt một thời và hiện người viết phê bình và chân dung văn học xuất sắc, đã lên tiếng. Và lại càng hãi hơn khi Trần Đăng Khoa cùng Thọ muối ( nhà văn Nguyễn Văn Thọ ) đã có cả cuộc đàm đạo dài hơi. Ở đấy, Trần Đăng Khoa loan tin rằng đã bắt mạch được Nguyễn Huy Thiệp, phát hiện ra ông nhà văn này mắc căn bệnh nói ngược, và còn xem đấy là ngón nghề của ông ta, như vậy bệnh này  thành thể mạn tính, có chữa cũng không khỏi được, nên cách tốt nhất là không phải kê đơn gì sất, để mãi cơ thể tự miễn dịch rồi khắc khỏi. Ha, thày lang băm này cũng tài ra phết.
              Tôi nghĩ, mình có cách nhìn, cách hiểu của riêng mình. Cũng như ký họa người vậy. Bắt được thần thái người được ký họa hay không, vả lại khuôn mặt người ta, góc nhìn mỗi lúc mỗi khác chứ ? Rồi cũng con người ấy, trong mắt thiên hạ, mỗi người mỗi khác Vậy thì cứ viết. Gọi là chân dung văn học hay là gì gì cũng thế thôi.
              Song trước tiên là cảm nhận về con người ông. Trong mắt ông, tôi chẳng là ai cả, chắc chắn là thế. Còn với tôi, ông là một người cầm bút đáng kính trọng (tôi thích từ đáng nể hơn). Nói tôi biết ông, đơn giản là tôi đã từng mò đến nhà ông ở Khương Trung cùng với nhà văn Văn Chinh, nhà báo Trịnh Bá Ninh và mấy anh ở toà soạn báo Nông nghiêp Việt Nam, khi ông mới nổi tiếng với dăm truyện ngắn gây chấn động văn đàn Việt Nam. Tuy nhiên, lần ấy ông vắng nhà nên chúng tôi chỉ chuyện trò xã giao với vợ ông và ngắm cơ ngơi vườn tược đơn sơ của ông. Và nó cho tôi cảm giác ông là một hàn sĩ ẩn dật, song tài năng xuất chúng, nhất là khi ấy, người ta tò mò nói về xuất thân hàn vi của ông, một anh giáo dạy môn phụ (lịch sử) ở đồng rừng Tây Bắc (nghe đâu là Trường cấp 3 Mai Sơn, Sơn La thì phải), rồi bỏ về thủ đô làm "thợ vẽ" ở Công ty Thiết bị và đồ dùng học sinh. Với làng văn Hà Thành dạo ấy, Nguyễn Huy Thiệp như một loài hoa rừng, ví như hoa anh túc hay một loài hoa hoang dại sặc sỡ và thơm hắc thế nào chưa rõ, nhưng lạ. Khác hẳn với lần ấy, sau này tôi cũng đã gặp ông đôi ba lần, toàn vào dịp giáp Tết Nguyên đán khi Báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức gặp mặt các cộng tác viên trong năm, nhất là những tác giả có bài in trong số tết. Để ý, trong mấy lần đó, giữa không khí ồn ào của bia ruợu, ông đều yên vị lẳng lặng, thỉnh thoảng trả lời một vài câu hỏi của ai đó, điềm nhiên vô sự. Tôi không phải là người nổi tiếng nên không biết cảm giác và sẽ ứng xử như thế nào trước đám đông, song quan sát ông, tôi thấy hình như ông cũng không  là người của đám đông thì phải. Ông như không tồn tại ở những chỗ đó, còn tự cao tự đại, xa cách hay không phù hợp thì tôi không rõ.
              Tôi luôn có một cái nhìn về con người này, mà cảm nhận đầu tiên đã chi phối suy nghĩ của tôi về ông và cả sự nghiệp văn chương của ông, khi ông còn khuất lấp, chỉ qua một truyện ngắn tôi tình cờ đọc được trên Báo Văn Nghệ từ lâu lắm rồi. Đó là truyện ngắn Huyền thoại phố phường. Ngày ấy, tôi rất chăm đọc báo Văn Nghệ, nhất là văn xuôi, đơn giản chỉ bởi bản thân tôi cũng tập tọng viết được đôi ba truyện ngắn, được đăng trên Báo Người Hà Nội và phát trong chương trình Đọc truyện đêm khuya của Đài Tiếng nói Việt Nam. Phàm là tôi đọc rất kỹ, để xem xem cái mặt bằng văn xuôi, nhất là truyện ngắn Việt Nam mình cao thấp thế nào, và thực ra, còn xem người ta viết gì, viết ra sao, có thể học lỏm học mót được chút nào không. Thế đấy. Khi đọc Huyền thoại phố phường, chỉ ít dòng đầu tôi đã như bị một thứ ma lực mê dụ. Tôi đọc một mạch, bàng hoàng vì thích thú. Đọc chậm lại lần thứ hai. Vẫn thấy hay, và lần này, tôi đã đủ bình tĩnh để nhìn nhận xem nó hay ở chỗ nào và vì lẽ gì. Tôi nhìn tên tác giả. Nguyễn Huy Thiệp. Một cái tên lạ hoắc, rõ là mình chưa thấy bao giờ. Tự hỏi, thằng cha này là ai nhỉ, tôi lại phỏng đoán, hay là một ông đầu sỏi nào đó trong làng văn xuôi đốc chứng lấy bút danh viết theo lối mới ? Nhưng rồi tôi lại tự gạt bỏ, bởi dù mới chỉ tập tọng viết, song tôi cũng là con mọt sách từ nhỏ, tạp nham đông tây kim cổ đọc đủ, nên hiểu rằng với mỗi nhà văn, việc thay đổi bút pháp là không dễ chút nào. Thú thực, ngay lúc ấy tôi đã chợt nghĩ, không biết tay này đã viết nhiều chưa, song viết thế này thì chẳng bao giờ mình theo kịp được. Tôi buồn vui lẫn lộn. Vui vì làng văn mình xuất hiện một cây bút văn xuôi xuất sắc. Còn buồn vì mình mới thập thò định chen chân vào làng văn mà trên đầu đã có núi Thái Sơn như thế, có viết cả đời, lao lực với chữ nghĩa thì cũng chỉ lom khom dưới chân núi mà thôi.
              Sau này, khi tiếng tăm nổi như cồn với hàng loạt truyện ngắn xuất sắc liên tục đăng đàn như :Tướng về hưu, Con gái thuỷ thần, Trương Chi, Chảy đi sông ơi, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Không có vua, Thương nhớ đồng quê, Muối của rừng  v.v... người ta hay nhắc đến truyện ngắn được xem như là con dấu son chứng nhận cho tài năng Nguyễn Huy Thiệp là Tướng về hưu, song với riêng tôi, ấn tượng nguyên sơ  chính lại là Huyền thoại phố phường. Quả là, Tướng về hưu xứng đáng là truyện ngắn xuất sắc, cũng như Con gái thủy thần sau đó vậy, nhưng nếu ai hỏi tôi thích nhất truyện nào của Nguyễn Huy Thiệp, tôi không ngần ngại mà trả lời, Không có vua. Còn là những gì nữa, ấy là Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê....
              Nguyễn Huy Thiệp có biệt tài đóng dấu ấn của mình vào các nhân vật lịch sử, qua hàng loạt truyện như Trương Chi, Chút thoáng Xuân Hương, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, cũng như một số truyện ngắn sau này lấy cảm hứng từ người này, người kia ( Đưa sáo sang sông, Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt ... ) . Ông có biệt tài khắc họa các nhân vật lịch sử từ góc nhìn khác, làm họ sống động hẳn lên, chứ không phải là các bức tượng chết cứng, khiến họ vừa là thần thánh vừa kẻ đời thường trần tục. Theo tôi cái khác người của Nguyễn Huy Thiệp là vậy.
               Tôi xin không bàn về lối kể chuyện, câu chữ, hội thoại của Nguyễn Huy Thiệp, bởi đã có quá nhiều nhà phê bình viết về những điều đó rồi. Tôi thì tôi phục sát đất, vì có chuyện hay không có chuyện, ông cũng phẩy vài nhát là ra ngay diện mạo, hơi hướng. Đấy là cái tài trời cho, tôi nghĩ thế, bởi chẳng có học hành, kiến thức, ai dạy dỗ mà thành thế được. Cái tài " phảy " của ông lan sang cả tiểu luận, phê bình. Vì thế mới có chuyện, Nguyễn Huy Thiệp phảy ra Đồng Đức Bốn, Nguyễn Bảo Sinh, Lê Kim Giao... Lẽ dĩ nhiên, họ cũng phải có gì thực chất của họ thì Nguyễn Huy Thiệp mới phảy ra được. Có bột mới gột nên hồ mà.
              Tôi chưa được đọc kịch của ông, ngoài vở kịch chui là Mổ nhà văn, được người người ta lấy từ mạng xuống, phô tô lem nhem . Cũng tài lắm thay. Nghe phong thanh, thiên hạ cũng khen kịch của ông. lắm lắm.
              Còn tiểu thuyết thì người ta lại chê nhiều. Tôi có đọc cả hai tiểu thuyết Tuổi hai mươi yêu dấu và Tiểu long nữ., cũng đều từ mạng internet. Không thật thích, song vẫn sắc sảo lắm thay. Ngôn từ, lối thoại vẫn đặc sệt chất Nguyễn Huy Thiệp. Lại nữa, ông vừa cho ra cuốn thứ ba, tôi đã thấy bày bán nhan nhan ở các quầy sách hạ giá hè phố, với cái tên và tranh bìa sặc mùi ba xu, Gạ tình lấy điểm.Tôi không tò mò đến mức tìm đọc, bởi cái tiểu thuyết ba xu ấy lấy cốt từ câu chuyện có thật xảy ra ở một đơn vị thuộc cơ quan tôi nên tôi không lạ. Còn xem văn chương Nguyễn Huy Thiệp ư, tôi cũng cóc cần vì cứ từ hai cuốn trước mà suy ra thôi. Nghe đâu, sách bán khá chạy. Báo chí gặp gỡ, viết bài nói về sự thất bại của Nguyễn Huy Thiệp trong thể loại tiểu thuyết và bù lu bù loa lên rằng, Nguyễn Huy Thiệp viết sách kiếm tiền. Nguyễn Huy Thiệp không tranh luận, cũng không vì thế mà ái ngại. Đơn giản bởi ông chủ trương vậy chăng? Tác phẩm nào cũng có đời sống của riêng nó, có thể sống dai và cũng có thể yểu mệnh ngay đấy, hoặc giả gây ồn ã chút ít rồi chết dần chết mòn. Không cần tất cả phải cùng được lưu danh muôn thuở. Đã từng có ức vạn bài thơ thời Đường, nhưng sống được đến thời đại của chúng ta ngày nay để mọi người ngợi ca cũng chỉ có ngần ấy thôi. Cũng như một cuộc chiến, để đi đến thắng lợi cuối cùng, phải có ngàn vạn kẻ bỏ xác lại chiến trường rồi khuất dần vào quên lãng mới có một chiến công rực rỡ ghi danh sử sách cho người này kẻ nọ. Ngay như hiện giờ, cái ông nhà văn Mạc Ngôn ( Trung Quốc ) liên tục cho ra một seri tiểu thuyết như Cây tỏi nổi giậnRừng xanh lá đỏTửu quốcSống đọa thác đầyTổ tiên có màng chânThập tam bộ, và sẽ là những gì nữa, song người ta chỉ còn nhắc tới vài tuyệt tác ban đầu của ông là Báu vật của đời ( Phong nhũ phì đồn ), Đàn hương hình mà thôi.
              Tôi nghĩ không hề hấn gì, bởi Nguyễn Huy Thiệp có những truyện ngắn như Không có vua, Tướng về hưu, Những người thợ xẻ, Con gái thủy thân, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê... mang sức vóc của tiểu thuyết. Tiểu thuyết đâu cứ phải nhiều chữ.
              Thú thật, dăm năm nay tôi ít đọc truyện ngắn trên báo. Các tập truyện ngắn cũng vậy. Riêng với Nguyễn Huy Thiệp, tôi luôn để ý, và dường như mỗi Tết nguyên đán, tôi thường mong chờ sáng tác mới của ông. Tôi không ưu ái gì ông, và ông cũng không cần điều đó. Đơn giản, tôi chỉ muốn xem xem giờ Nguyễn Huy Thiệp viết lách ra sao.
              Giờ thì Nguyễn Huy Thiệp đang say với nghề mới, thợ vẽ. Chán kinh doanh nhậu nhẹt thì sang vẽ. Không biết rồi đây ông sẽ còn giở trò gì nữa? Tôi tin con người này chưa chịu yên vị. Chắc chắn là sẽ có thơ. Nguyễn Huy Thiệp đã từng đe thiên hạ rằng, đến khúc cuối của chặng đường đời, ông sẽ trình làng thơ, và khi ấy thì thây mặc thiên hạ bình phẩm, khen chê, bởi chó chết hết chuyện .
               
              Song từ nay đến đấy vẫn còn dài lắm !... 
               
              #67
                tamvanvov 23.05.2021 11:17:18 (permalink)
                Người giăng lưới bắt chim ( III )

                Trong số những bức chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi ấn tượng nhất bức này. Không rõ tác giả là ai. Nguyễn Huy Thiệp cười hết miệng, mắt tít lại, gương mặt rạng ngời, xóa đi hết nét khắc khổ pha chút kiêu bạc thường nhật,... Nét hiếm thấy ở ông !?...
                Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rời cõi tạm vào chiều ngày 20.3.2021, đúng cái ngày thế giới chọn là ngày HẠNH PHÚC. Mạng xã hội, báo chí đưa tin rầm rộ. Sau cơn đột quỵ vào cuối năm 2019, rồi những ngày ông nằm cấp cứu ở A9 Bạch Mai, cũng là những ngày cả thế giới náo loạn bởi sự xuất hiện bất ngờ của virus Corona tại Vũ Hán mà sau đó người ta đặt cho cái tên COVID, nhanh chóng lây lan cực nhanh khắp địa cầu, người ta những cầu mong cho ông hồi phục song vẫn nghĩ ngày ông ra đi mãi mãi chỉ được tinh bằng ngày bằng tháng,... Vậy mà ông cầm cự cả năm trời, ra đi sau cả người vợ tào khang sướng khổ một đời cùng ông, vốn khỏe mạnh và luôn chăm sóc ông chu đáo,
                Tang lễ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được cử hành vào sáng ngày 24.3 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) tại nhà tang lễ quốc gia số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội). Cánh chuyên bán vòng hoa ngay cổng nhà tang lễ kháo nhau, đám tang ông nhà văn gì nổi tiếng lắm, tha hồ mà bắn vòng hoa đây. Nhưng thực tế, đám tang Nguyễn Huy Thiệp không đông lắm, khác hẳn sự đông đúc chen chúc đám hiếu cha mẹ các quan chức hay doanh nghiệp lớn bởi ở đấy người đến viếng thi nhau thể hiện mình vì có mùi cầu lụy, nhờ vả trước sau. Còn tang lễ Nguyễn Huy Thiệp, chỉ có người thân, họ hàng, bạn hữu văn chương, người hâm mộ và cánh báo chí đưa tin, mặc dù có vòng hoa gửi viếng của ngài Thủ tướng Chính phù và vài ba quan chức cao cấp....
                Tôi và mấy bạn văn chương tháp tùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phod Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn và Tác phẩm vào viếng Nguyễn Huy Thiệp. Bức ảnh ông được treo trong tang lễ nghiêm cẩn, khác với các chân dung thưởng thấy, và gương mặt thi hài ông sau hơn một năm cầm cự chống chọi với cái chết cũng khác đi nhiều với thần thái suy tư khắc khổ trước đây. Điếu văn được nhà văn Nguyễn Quang Thiều, chủ tịch Hội viết và đọc trong lễ truy điệu Nguyễn Huy Thiệp cũng đã gây xúc động và ấn tượng mạnh, nhằm tôn vinh cho cả người chết và người sống...
                Có một điều, tôi để ý, nơi sân chờ nhà tang lễ, các nhà văn, nhà thơ già trẻ các thế hệ đủ cả. Mọi người gặp nhau, tay bắt mặt mừng có, khen nhau vượng khỏe có, hay rì rầm buồn buồn chuyện nọ chuyên kia có. Một ai đó bảo, cứ nhìn thầy mặt nhau, điểm tên, được bắt tay nhau thế này là mừng rồi. Cuộc đời vô thường lắm, biết đâu nay mai trời gọi tên ai đó... Ngẫm cũng phải, tuổi ngoại thất thập. văn chương tai hoa đến đâu thì cũng hết tuyết cả rồi, như than để ngoài mưa cả thôi. Còn sống trên cõi đời này, khỏe mạnh an vui là nhất, văn chương hay dở mà làm gì ?... Thế giới mạng giờ khác xưa lắm, đi đâu, làm gì, như đi lễ chùa, đi du lịch, hội họp, ăn nhậu, tụ bạ, cưới hỏi, đều chụp ảnh, check-in nuôi Phây cái đã, mà khi đi đám ma người ta cũng vậy. Thế nên, ở đám tang Nguyễn Huy Thiệp, các văn nghệ sĩ nhà ta cũng tranh thủ thăm hỏi, chụp ảnh chẹck-in rôm rả, chứ mấy ai quan tâm đến người nằm xuống... Nghĩ cùng là chuyện thường, chằng đấng trách,...
                Trở về sau đám tang nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi rẽ vào uống trà tán gẫu với người bạn thân Gia Hoang chuyên bán thuộc Tây ở chợ Giời. Người bạn cùng lớp đại học với tôi này là người yêu văn chương chữ nghĩa. Giừ hành nghề bán thuốc Tây, nhưng trong lúc rảnh rỗi, rất chịu khó đọc sách báo. Người ở thời đại công nghệ 4.0 bây giờ mà ngày ngày đro kính, thâm chí dùng cả kính lúp trợ giúp, chúi mặt vào sách báo như ngươi bạn tôi đây là hiếm có. Kiến văn của anh bạn Gia Hoàng rất khá. Phạm cái gì thuộc về lịch sử và văn chương,bất kể thơ phú, văn xuôi như truyện ngấn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký, chân dung văn học hay phê bình tiểu luận, đọc tuốt, là để thưởng thức và bồi bổ kiến thức bản thân thôi. Gia Hoang cũng là bạn đọc hâm mộ Nguyễn Huy Thiệp. Chúng tôi đã từng cùng nhau bình phẩm mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mỗi khi nó được đăng tải trên báo chí những năm qua. Giờ đây, chúng tôi lại nói về Nguyễn Huy Thiệp và những tác phẩm của ông. Hai đứa tôi, cùng nhau nhắt ra, gom lại xem Nguyễn Huy Thiệp có bao nhiêu truyện ngắn thuộc hàng thượng thặng. Kể đến những cái tên: Không có vua, Huyền thoại phố phường, Tướng về hưu, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Muối của rừng, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi, Trương Chi, Nguyễn Thụ Lộ, Mưa Nhã nam, Sang sông, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương, Đưa sáo qua sông, Hạc vừa bay vừa kêu tháng thốt,... Độ hai mươi truyện xuất sắc. Có lẽ thế thôi, cũng nên?
                Phê bình văn học của Nguyễn Huy Thiệp, đáng kể có Giăng lưới bắt chimTrò chuyện với hoa thủy tiên. Còn tiểu thuyết của ông, thú thực tôi không thích,... Cái kịch Mổ nhà văn, tuy ám chỉ ai đó, nhưng quả là rất thú vị. bởi ở đấy vừa thâm thúy, vừa bùng nổ, phun trào của sự nín nhịn, kim nén lâu ngày...
                Chợt anh bạn Gia Hoang hỏi tôi: "Vậy văn xuôi Việt Nam hiện đại, ông thích ai nhất?". Câu hỏi đột ngột, nhưng tôi trả lời tắp lự: "Trước có Nam Cao, sau là Nguyễn Huy Thiệp.", Tôi nói vậy, không có ý xếp trên dưới mà đơn thuần chỉ theo trình tự thời gian xuất hiện và sáng tác của hai nhà văn tài danh này. Tôi không coi ai hơn ai, họ ngang bằng nhau, mỗi người mỗi vẻ mỗi hay riêng. Bái phục tài hai vị nhưng đọc Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn hơn,...
                Rồi tôi và anh bạn Gia Hoàng lại cùng nhau kể tên các cây bút văn xuôi hiện đại xứ ta mà theo cách thẩm của chúng tôi, họ ít nhiều có những tác phẩm để đời, như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Bằng, Kim Lân, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyên Ngọc, Lê Minh Khuê, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài và Trần Đăng Khoa.
                Tạm dừng ở đấy vì chưa kể tiếp được !...

                #68
                  tamvanvov 12.06.2021 16:29:55 (permalink)
                  Miền xanh thẳm chân mây
                  Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc
                  1.
                  Hoài lang biền biệt đêm trường
                  người đi bao nỗi dặm đường, sá chi
                  xông pha gươm giáo kể gì
                  sao đành, người ở chia ly cõi lòng,...
                          Những câu thơ váng vất trong ý nghĩ...
                          Chiều nay. Minh trĩu nặng tâm tư,
                          Thấm thoắt, anh vào vùng Bảy Núi này đã ngót năm,...
                         Cứ chiều chiều, lúc nhập nhoạng tối, khi đàn dơi loạng choạng chao trên vòm cao mấy cây xoài cổ thụ, thì dàn cát-xet của một gia đình trong khu tập thể cơ quan lại vang lên, hết ỉ eo những bài hát nhạc vàng rồi sang nỉ non vọng cổ. Nghe mãi, chẳng buồn để ý, vô thức mà thành thuộc. Minh sở thích chèo cổ, ghét cải lương vọng cổ, nhưng riêng bài Dạ cổ hoài lang thì anh không thể làm ngơ. Từng chữ từng lời, thấm dần vào anh từ lúc nào không hay "Từ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phong lên đàng/ Vào ra luống trông tin chàng/ Năm canh mơ màng/ Em luống trông tin chàng/ Ôi gan vàng quặn đau í a/ Như chim trời lẻ bạn... chim bay về... nơi vô định/ Trời xa đất lạ trong mây khói mịt mùng/ Kiếp giang hồ mỏi gót phong sương/ Một chiều qua bến lạnh bỗng nhớ tới một người...". 
                          Minh nhớ mẹ và nhớ Nguyệt. Sâm sẩm nhớ mẹ, khuya là nhớ em. Anh mang máng nhớ một câu thơ của ai đó vì nó đúng với tỉnh cảnh của mình . Nhập nhoạng, khói lam chiều khiến anh nao lòng nhớ mẹ. Nhớ bóng mẹ ra vào, dáng mẹ ngồi bên bếp lửa với chiếc que cời bếp rơm luôn tay. Nhớ hình bóng mẹ tựa của, rồi chậm rãi ra đóng cổng lúc sẩm tối, mẹ biết lại thêm một ngày nữa con trai mẹ mãi chân trời phương Nam chưa thể về với mẹ... Đêm khuya khó ngủ, anh cồn cào nhớ Nguyệt, nhớ những lời thầm thì và những cái hôn cháy bỏng của Nguyệt trước lúc chia tay, tiễn anh hành phương Nam. Anh thầm phỏng đoán, Nguyệt ngủ chưa hay vẫn đang cặm cụi soạn giáo án, hay mải chấm bài của học sinh. Anh lại thầm hỏi, Nguyệt có đang nhớ tới anh không khi cô cũng một mình ở ngôi trường giữa đồng chiêm trũng xa thủ đô hơn trăm cây số ấy.. Anh trằn trọc không ngủ được, vì nhớ, vì trời phương Nam mùa khô oi nóng. Cố nhắm mắt cưỡng ngủ thì đầu anh lại mường tượng cái nghĩa địa với mấy ngôi mả mới gần ngay cửa sổ phòng ở của anh, chỉ cách một hàng rào cây lá rậm rạp kia thôi. Anh vùng dậy, đóng chặt cửa sổ, nằm im, ý nghĩ miên man và chìm đi... 
                  2.
                  Một trông mong vạn chờ mong, 
                  chẳng thà cứ gái chưa chồng cho cam
                  sông kia dằng dặc trời Nam.
                  nước mây vời vợi ai làm cho đau,...
                  Minh nghe vẳng vằng một giọng nữ đọc thơ., không xa mà cũng chẳng gần, như đâu đó trong khu vườn thôi. Anh ngơ ngác "Ai dấy? Ai vừa đọc thơ đấy?". Giọng nữ cất lên rất gần khiến anh giật mình "Ta đây... ở gần ngươi thôi... nhưng ngươi không thấy đâu,... Ta cho ngươi mấy câu thơ ta vừa ngâm để chắp nối với câu thơ mà ngươi ngâm nga chiều nay...". Minh cố trấn tĩnh để không lộ vẻ sợ hãi "Nhưng bà... bà là ai? ... Sao lại biết tôi làm thơ?... Sao lại tặng thơ bà cho tôi?,...". Giọng nữ khẽ cười "Ngươi không biết ta đâu... Ta sống trước người những hơn hai trăm năm ... Thơ ta vừa đọc ngươi cứ nhận lấy. nối tiếp vào thơ ngươi cũng hợp cảnh hợp tình đó...". Nói rồi, giọng nữ cất lên đọc liền hai khổ thơ với nhau, câu cuối như nghẹn lại trong nước mắt. Minh nghe rưng rưng, quên cả sợ, tự cảm thân quen, muốn trò chuyện: "Thì bà ... cũng nên hiện hình tỏ dung nhan .. hay cho biết quý danh để mà thưa gửi chứ ạ ?...". Giọng nữ nhẹ nhàng, có chút ân cần "Ngươi thật biết phép tắc,... và cũng hết sợ rồi đấy nhỉ,". Cười ôn hòa "Cứ từ tốn, trước sau thì ngươi cùng biết thôi... Ta đến gặp ngươi thế này chẳng phải để chơi đâu ... ắt phải có chuyện để nói chứ...".
                          Minh cố căng mắt, ngó nhìn quanh quất hòng nhận diện ngươi đang nói chuyện với mình, nhưng chẳng thấy gì ngoài thứ ảnh sáng nhờ nhờ như sương đục, loáng thoáng hình bóng những cây xoài, cây dừa, vú sữa, mãng cầu vẻ quen quen. Không khí tĩnh lặng, Minh bỗng sợ, lên tiếng: "Bà... ba ở đâu rồi?". Giọng nữ cười nhẹ: "Ta vẫn ở đây... Ngươi nhìn kỹ chưa? Có thầy ta không? Thấy gì quen không?". Minh e sợ "Không thầy bà... chỉ thấy cây cối quen quen thôi...". Cười to "Đã bảo mà... thì cây cối trong vườn hàng ngày... người đi dạo, quét lá khô nấu bếp, rồi leo trèo hái quả cả năm nay. không nhận ra sao được... Ta cho người biết, cả khu vườn này có mười tám cây vú sữa, hai mươi bảy cây dừa và bảy mươi hai cây xoài các loại, thêm ít cây lặt vặt khác ta không tính...Ngươi không tin, mai đếm thử xem...". Minh vẫn nghi hoặc "Vậy là...ta vẫn đang ở trong khu vườn của cơ quan tôi hay sao?".  Hạ giọng "Thì đúng thế ... Thực ra, ta chính là chủ nhà. Ta ở đây từ hai thế kỷ rưỡi nay... còn ngươi mới là khách. Ta nhớ, ngươi đến sống ở đây còn chưa đầy năm kia mà...". Minh ú ớ vâng dạ. Giọng nữ khẽ cười: "À, ta nhớ... người có mấy lần giẫm lên nóc nhà ta để bám cành đu mình leo lên cây xoài cát cổ thụ ở vườn sau ấy...". Minh ớ người cãi "Nhà nào nhỉ ?... Có nhà nào ở vườn sau đâu? ... Tôi giẫm lên nóc nhà bà hồi nào? ". Cười trêu "Người cũng giỏi cãi nhỉ... Chẳng lẽ ta đổ oan cho ngươi sao.... Ngươi thử nhớ lại đi... Không tin, sáng mai, người ra gốc cây xoài cổ thụ vườn sau, tìm xem thấy ở đấy có gì không? Chớ vội cãi ngay thế... ". Minh nghi hoặc, chợt nhớ ra điều gì, vôi kêu lên "Bà này, tôi nhớ hình như là..." Giọng nữ cắt lời, nghe xa vọng lại "Ta có việc đi đây... Hẹn gặp ngươi sau... Cứ suy xét cho kỹ đã... Rồi ngươi cũng sẽ biết về ta thôi.". Minh níu lấy "Nhưng tôi đã mạo phạm... thì sao ạ"...". Cười xa xôi "Chớ lo... Ta tạm tha cho ngươi cái tội mạo phạm giẫm đạp lên nóc nhà ta... Yên tâm và đợi khi ta quay lại...". Minh vẫn chưa chịu "Nhưng bà cũng phải gợi chút... thì tôi mới biết lối mà tìm... chứ mù mịt thế này tôi chẳng biết manh mối ra sao,... tìm đến bao giờ? ", Lại cười "Ngươi thật nhiều chuyện... Dạ cổ hoài lang, ngươi rõ rồi đấy... nhà ông Cao Văn Lầu ấy nói hộ nỗi lòng của người vợ đợi chồng phu phen lính tráng thời tao loạn binh đao ở vùng đất này ,... Sống chết gan tấc biết khi nào về mà chờ đợi cơ chứ... Ta xưa cũng là người cùng cảnh ngộ... Chợt thấy ngươi thương cảm thành thơ mà hiện về nói với ngươi đôi ba câu... Ngươi là người đọc sách, hẳn biết về trận Rạch Gầm Xoài Mút năm xưa, quân Tây Sơn đại phá liên quân Xiêm Nguyễn... Thôi, ngươi chịu khó đọc lại sử sách tỉ tường... Đợi lúc ta quay lại còn có cái để mà nói chuyện. Ta đi đây....".
                          Minh choàng tỉnh, ngồi phắt dậy. Bàng hoàng, định thần. Người vã mồ hôi ướt đẫm. Nhìn ra cửa số phía trước nhà, lờ mờ. Trời sáng giăng suông,...
                  3.
                          Đêm ấy, Minh thấp thỏm không ngủ lại được nữa....
                          Nghĩ miên man, điểm lại từ ngày anh chào mẹ khoác ba lô hành phương Nam. Chuyến đi bị bão hoành hành, đường qua miền Trung ngập nước, rồi núi lở, làm đoàn tàu lúc chạy, lúc dừng, lúc tăng-bo, nhếch nhác cả tuần mới tới Sài Gòn. Nhóm mấy người cùng đoàn chia tay nhau ở Xa cảng Miền Tây, kẻ Bạc Liêu, Rạch Giá, Đồng Tháp, còn Minh và một người bạn nữa thì An Giang. Vất vưởng mấy ngày ở Long Xuyên rồi hai người bọn Minh được điều đi Bảy Núi, vùng xa xôi khó khăn nhất của tỉnh. Những tưởng có hai người với nhau đỡ buồn chán và đỡ đần nhau lúc khó khăn thì người bạn kia nhớ vợ con ngoài Bắc, thở ngắn than dài. được vài tháng bỏ cơ quan ra Bắc và không quay trở lại nữa. Còn lại một mình, Minh gắng cầm cự. Nửa năm qua đi, anh dần quen với nhịp sống vùng đất mới.
                          Cơ quan đóng tại một khu nhà vườn rộng chừng gần hec-ta, rợp xanh bóng dừa, xoài, vú sữa, mãng cầu xiêm... Nghe nói, chủ cũ của khu nhà vườn này chạy sang Mỹ định cư thời điểm kết thúc chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975. Khi chiến tranh biên giới Tây Năm xáy ra, quân Khmer Đỏ lấn sang gây ra vụ thảm sát Ba Chúc, quân ta dổn về đây, từng lấy khu nhà vườn này làm nơi đóng quân. Kết thúc chiến tranh biên giới, khu nhà vườn đổ nát hơn, Nhà nước trưng dụng làm cơ quan của huyện, xây thêm vài căn kiếu nhà tạm để có chỗ làm việc. Phía ngoài có vài hộ gia đình nhân viên ở. Phía trong, duy nhất Minh ở lại cơ quan và một cậu thủ kho vật tư người địa phương, tuần ngủ lại vài ba buổi lấy lệ. Ở đây, được cái, mùa nào cây trái ấy, Minh tha hồ ăn, thích gì lấy ăn. Lâu lâu, đám công nhân trạm máy kéo cơ khí hết mùa cày ruộng, về bảo dưỡng máy thì đông vui hơn chút. Thế nên, buổi tối cơ quan hoang vắng, khiến Minh thấy sờ sợ. Dân sống quanh đây đồn là khu nhà vườn có ma, khiến Minh ngại đi chơi tối.
                          Sáng trở dậy, Minh dạo quanh khu cơ quan, rồi lượn về vườn sau, nơi có mấy cây xoài cát cổ thụ. Nhìn quanh, vạch cỏ dại, anh tìm thấy đám đất mấp mô lẫn gạch xây chẳng ra hình thù gì. Minh gai người, nhẩm bụng, đoán mò nơi đây từng có một ngôi mộ hoặc miếu thờ cổ nào đó. 
                          Nhớ lời người đàn bà gặp trong mơ, Minh bắt đầu tìm hiểu về lịch sử vùng đất. Chuyện tiên chúa Nguyễn Hoàng xưa nghe lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân", xin chúa Trịnh Kiểm bỏ xứ Bắc vượt Đèo Ngang vào trấn thủ Thuận Hóa từ năm 1558 thì Minh biết, nhưng trải mấy trăm năm qua chín đời chúa Nguyễn đến Nguyễn Phúc Ánh, mở mang bờ coi phía Nam vào trấn Gia Định và châu thổ Cửu Long giang, Chân Lạp xưa thì anh không mấy tường. Việc tìm tòi sách vở và tra cứu tài  liệu cũng không dễ chút nào. Lần mò rồi Minh cũng tìm được nguồn tài liệu từ những cuốn sách sử in trước năm 1975 của một người quen ở Sài Gòn. Lịch sử triều Nguyễn mở ra trước mắt anh, nhất là thời kỳ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, công cuộc chinh phạt phương Nam của ba anh em nhà Tây Sơn và cả hành trình gian truân nguy hiểm để phục quốc của chúa Nguyễn Ánh. Minh chú tâm đọc kỹ phần viết về trận Rạch Gầm Xoài Mút, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài ba của Nguyễn Huệ đại phá liên quân Xiêm-Nguyễn, xem có gì đặc biệt mà người đàn bà xuất hiện trong mộng mị. nhắc đến... 
                          Ngày xưa, tháng Chạp năm Giáp Thìn sang Ất Tỵ, giao năm 1784-1785, trên khúc sông Tiền, Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, dài chừng 7 cây số, nơi lòng sông rộng, lại có cù lao. thích hợp cho việc ém quân để quân Tây Sơn bố trí trận địa. Liên quân Xiêm-Nguyễn mắc mưu quân Tây Sơn nhử đến trận địa này, bị phục binh Tây Sơn chặn cứng hai đầu, dồn ứ lại, làm mồi cho hỏa pháo Tây Sơn tiêu diệt. Chỉ trong  vòng một ngày, Nguyễn Huệ chỉ huy quân Tây Sơn phá tan và tiêu diệt gần 5 vạn liên quân Xiêm-Nguyễn. đông gấp đôi quân mình. Hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương cùng đám tàn quân thoát chết chạy ngược lên đất Quang Hóa (nay là Tây Ninh) sang đất Chân Lạp để về Xiêm La. Còn Nguyễn Ánh thì cùng đoàn tùy túng phò tá tháo chạy khổ sở đói khát, đến nỗi tướng Nguyễn Văn Thành phải đi cướp của dân lấy miếng ăn cầm hơi, đến nỗi bị dân đánh trả mà trọng thương. Gần năm ngàn quân còn lại chưa đây một ngàn, tan tác cả, phần chạy theo quân Xiêm, nhúm quân theo Nguyễn Ánh chạy dạt về cuối đất, trốn ra đảo Thổ Chu. May mà quân Tây Sơn đuổi theo bị bão biển đánh tan thuyền nên Nguyễn Ánh thoát nạn, bôn ba nhiều năm, chờ thời cơ nhà Tây Sớn có biến, lấy lại cơ đồ...
                          Minh cứ ngẫm nghĩ, mảnh đất khu nhà vườn này chắc liên quan gì đến quan quân chúa Nguyễn thời nhà Tây Sơn chinh phạt vùng châu thổ này. Nhưng lịch sử đâu có chi tiết đến mức có thể tra cứu rõ được. Đành chơ cơ duyên thôi. 
                  4.
                          Đầy năm, Minh nghỉ phép, ra Bắc. Lần đầu tiên, anh cảm nhận được niềm vui. niềm hạnh phúc của kẻ xa nhà về cả khoảng cách và thời gian  khi gặp lại mẹ và người yêu. Già nửa tháng. Minh tính toàn, phân bổ sao cho hợp lý để ở bên mẹ, giúp mẹ làm việc nhà với thời gian dành cho người yêu đang dạy học ở một trường xa dăm chục cây số. Trong niềm vui thường nhật những ngày bên mẹ và gần người yêu, nhưng ẩn chứa trong sâu xa, Minh lại thấy nhớ miền Tây sông nước, nhớ khu vườn xanh um cây trái, vắng vẻ và chập chờn ma mị ấy. Chẳng gì, anh cũng đã có bao chiều cô đơn, bao đêm hoang hoải, mất ngủ vì nhớ Bắc và sợ bóng tối. Con người ta lạ thế đấy, vui quá và sợ quá đều đem đến sự ám ảnh khôn cùng. Kỳ nghỉ gần hết, Minh bỗng thấy ngại khi nghĩ đến việc phải trở lại khu vườn ma mị sống tiếp những ngày khắc khoải, những đêm say để ngủ cho quên nỗi sự, những phút giờ hoang vắng đếm tiếng tắc kè tặc lưỡi bóng tối. Minh phân vân khi mẹ bảo ở lại thêm, còn người yêu thì nhắc nhở rằng chậm phép có thể bị cơ quan kỷ luật vì tội vô tổ chức... Nhưng rồi, Minh cũng dứt ra được, trả phép tuy có chậm ít ngày. Thấy anh ba lô trở vào, ông trưởng phòng người địa phương cười đùa "Tưởng cậu ở luôn ngoải... Vô lại thế này là được rồi... Có vợ chưa? Sao không đưa vô đây... tớ nói với Ủy ban huyện cấp cho miếng đất cập lộ, cất cái nhà tạm, chồng làm cơ quan, vợ mần buôn bán vặt. ... Sống khỏe à...".  Minh cười cầu tài cảm ơn. Không nhắc nhở, kỷ luật gì là ổn rồi. 
                            Mấy nhà người quen, diện chồng Nam tập kết lấy vợ Bắc, thấy Minh vào lại, hè nhau nhậu, bảo là để mừng anh không đào tẩu. Buồn vui lẫn lộn, Minh quá chén say đứ đừ, thập thõm gắng gượng  khuya về đến phòng, đổ ập xuống giường, say ngủ mê man... 
                         Dưới gốc dứa, hóng gió mát, Minh ôm cây ghi ta bập bùng. Anh lựa gạm thử mấy nốt theo một điệu vọng cổ, chợt nghe giọng đàn bà "Đàn này không hợp đâu, phải dùng đàn phím lõm kia.". Minh giật mình, ngừng bặt "Ôi, đúng là bà rồi... Tôi vẫn nhớ giọng bà mà...". Cười nhẹ "Vậy là người vẫn nhớ, khen cho ngươi... Về quê vui chứ?" Minh ngạc nhiên "Quê nào... Tôi vừa nghỉ phép ra Bắc ít ngày... ". Cười thành tiếng "Quê đấy chứ đâu... thăm mẹ thăm vợ thì hẳn vui lắm nhỉ". Minh cãi "Mẹ thì đúng rồi, nhưng ... bạn gái thôi, tôi đã cưới đâu mà vợ ?".  Giễu cợt "Ngươi chưa cưới vợ, ta biết.... nhưng ăn nằm với người ta thì cũng nên coi người ta là vợ... thế lấy của người ta cái ngàn vàng rồi định bỏ người ta à ?...". Minh cứng họng ú ớ "Sao... bà cũng biết à ?". Cười nhạt "Thì ta là ma... dương gian các người hay bảo, biết ma ăn cỗ lúc nào... nhưng ma lại biết rõ các ngươi ăn cỗ thế nào kia đấy". Cười ma mãnh, Minh ớn lạnh cả người "Tôi yêu cô ấy, muốn cưới làm vợ...". Vẻ chân thành "Ta tin ngươi thật bụng... nhưng đời còn dài mà... lòng người dễ thay đổi". Im lặng một lúc. Người đàn bà "Ta đến đây không phải để chuyện yêu đương của ngươi... Thế ngươi đã biết sử sách bao nhiêu rồi ?" . Minh hào hứng "Không nhiều, nhưng cũng đủ biết về trận Rạch Gầm Xoài Mút, nhà Tây Sơn đại phá 5 vạn quân Xiêm-Nguyễn,... biết chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy dài trốn chui trốn lủi ra đảo Thổ Chu thế nào...". Mỉa mai "Người có vẻ đắc ý nhỉ...  Ai dạy dỗ ngươi mà cao giọng vậy... làm được vài câu thơ mà giọng đầy thiên kiến vậy... Lịch sử vốn không thiên vị ai...", Minh hăng lên "Tôi không thiên kiến, rõ ràng nhà Tây Sơn, nhất là Quang Trung Nguyễn Huệ, đệ nhất anh hùng, ra Bắc dẹp Trịnh, vào Nam đuổi Nguyễn, trước quét sạch quân Xiêm, sau đại phá  quân Thanh... Thử hỏi, trời Nam xưa nay có ai bằng? ...".  Cười mỉa "Ta phận đàn bà, không bàn việc nước... ôm nỗi lo riêng, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, chăm con trẻ, đêm đêm nghe mưa nhẩm thời khắc chợ đợi chồng mòn mỏi nơi chiến trận, nén lòng ham muốn giữ đạo phu phụ, khi chồng chết trận lại thủ tiết thờ chồng nuôi con khôn lớn... ngần ấy thôi đã khô héo thân xác, úa nẫu tâm hồn rồi... ngươi bảo dễ lắm à... vòm trời này sao lại đổ hết bao nỗi cơ cực lên đầu người đàn bà làm vậy ?...". Minh nghe lòng bùi ngùi "Bà nói cũng phải... hỏi ông giời  hà cớ  gì bắt tội người đàn bà... ? ". Cười to "Ta than thở với ngươi nhiều cũng phí  công. Người thích lý sự thì nghe ta bàn đây... Này nhé, ba anh em nhà Tây Sơn, khởi thủy là giặc cỏ, có thấy nhà Nguyễn ta từ tiên chúa Nguyễn Hoàng vâng lệnh vua Lê, vượt đèo Ngang trấn thủ xứ Thuận Hóa, rồi trải tám đời chúa. mở mang bờ cõi trời Nam, thu phục Chăm-pa, Chân Lạp, mở nửa giang sơn Đại Việt này, ấy là công lao to lớn.... Nhà Tây Sơn kia nổi lên, chẳng qua cũng là tham vọng tranh đoạt thiên hạ, người Việt tàn sát lẫn nhau.... Nhờ việc phá Xiêm, đuổi Thanh mà trời đất dung thứ, lòng người biết ơn nên sử sách ghi công đó... Ta nói vậy, chẳng hay ngươi có ý gì khác? ". Minh ầm ư "Bà nói thế cũng đúng... Chẳng hay, bà xưa kia cũng thuộc người nhà chúa nên mói gọi nhà Nguyễn ta...?".  Người đàn bà ôn tồn "Ngươi tinh ý đấy... Ta không phải người nhà chúa, chỉ là, chồng ta cùng họ với nhà chúa... vả lại nhà ta đôi bên đều gốc dân Thanh Nghệ cả. Ngày trước, Trịnh Nguyễn phân tranh, nhưng lần quân chúa Nguyễn vượt sông Gianh lấn đất Bắc, chiếm làng bắt dân vùng Thanh Nghệ cũng đâu có giết chóc ai, chỉ vì hiếm người mà đất lại rộng, bắt dân cả làng, cả tổng đưa vô trỏng an dân khai mở đất hoang dần về phương Nam. Dân lúc đầu không hiểu, có phần oán thán vì phải rời bỏ quê hương bản quán, nhưng ngẫm kỹ ra lại hóa hay, được yên ổn làm ăn nơi đất mới mà sinh ơn... Cái gì cũng có hai mặt, chắc ngươi hiểu rõ ?" Minh thỏa mãn "Bà cũng thấy được đạo lý của nhà Tây Sơn... thế còn bao việc khác nữa chứ ?...". Cười nhạo "Ta chỉ thấy có vậy thôi.... nhà Tây Sơn chưa thành, anh em đã nghi kỵ lẫn nhau... Nguyễn Nhạc là anh cả mà nhỏ nhen, hẹp hòi, nghi kỵ; Nguyễn Lữ hoài nghi và thiếu quyết đoán. Còn Nguyễn Huệ thì tài năng hơn cả, nhưng cũng mắc chứng ngông nghênh coi trời bằng vung, mục hạ vô nhân, chưa biết lắng nghe.... Đạo làm vua như thế cũng là non kém, sao thấu nổi lòng dân ?... Vậy nên, nhà Tây Sơn nổi lên như sấm rền chớp giật là thế, nhưng nhanh chóng lụi tàn, trước hết là do nghi kỵ, tàn sát lẫn nhau... cũng  là đúng đạo lý trời đất cả đấy ...". Minh buồn buồn "Điều này thì bà cũng có lý... Tôi thắc mắc, không họ hàng thân thích với chúa Nguyễn, gia đình của bà chắc cũng mắc mớ chi đó ?". Chậm rãi "Có chứ... Thư thả nghe ta đây... Tổ tiên hai nhà ta vô xứ Thuận Hóa, rồi theo thời gian mở đất của các đời chúa Nguyễn, dạt dần vào Gia Định trấn, cũng thuộc hàng khá giả, có máu mặt ở xứ này... Phu quân là thuộc hàng võ tướng, trước trận Rạch Gầm Xoài Mút, phu quân ta là tướng lĩnh dưới sự chỉ suy của đại đô đốc Châu Văn Tiếp, vâng lệnh nhà chúa mở màn đánh vào đất Mân Thít (Vĩnh Long). không may bại trận, đại đô đóc Châu Văn Tiếp bị Chưởng cơ Bảo quân Tây Sơn giết chết. Chúa Nguyễn Ánh lại cử tướng quân Lê Văn Quân thống lĩnh tiền quân tiến đánh trận Ba Lai (Bến Tre) và Trà Tân )Định Tường), nhưng rồi tướng Lê Văn Quân cũng bị trọng thương... Phu quân ta cũng tàn quân nhập vào đội quân chính phò tá nhà chúa...". Minh à lên "Vậy ra, gia thế của bà cũng ghê gớm đó... thuộc hàng công thấn của nhà Nguyễn rồi.". Cười đau khổ "Công thần, công trạng mà làm gì... khi hồn lìa khỏi xác ? ... Trong trận Rạch Gầm Xoài Mút, mấy vạn nhân mạng tiêu vong... Phu quân ta cùng đám tàn quân phò chúa Nguyễn tháo chạy rồi lên thuyên trốn ra đảo Thổ Chu... Dọc đường rút chạy, phu quân ta liều chết để bảo vệ nhà chúa... không may tử nạn... Người bảo sao ta không đau xót?..." Minh giọng chia sẻ "Thỉ ra vậy... rất tiếc... tôi hiểu lòng bà !...". Giọng buồn rượi "Khốn cho thân ta... ở nhà vò võ chờ chống... đợi ngày đoàn viên phu quân làm nên công trạng, mang vẻ vang cho gia tộc.... Có biết đâu, ổng bỏ ta mà đi mãi mãi như thế...". Minh cảm thông "Bà có nỗi đau riêng của bà... nhưng đấy cũng là nỗi đau chung của biết bao người mẹ, người vợ.... có người thân tử trận trong những cuộc chiến lên miên suốt mấy thế kỷ qua trên dải đất này". Cười mỉa  "Ngươi nói hay quá nhỉ,... may cho số phận ngươi không phải xông pha trận mạc, không biết hòn tên mũi đạn thế nào, nên người hót hay lắm... Ta còn biết cả chuyện mẹ đẻ của ngươi mừng chảy nước mắt khi ngươi vì thấp bé nhẹ cân không đủ sức khỏe vào lính... Thực lòng, ta mừng cho bà ấy không phải sống những tháng ngày thấp thỏm chờ mong con mình trở về lành lặn... Phúc đức là đấy, ngươi có hiểu không ? Vinh quang thì hay hớm gì khi không còn nữa ?". Minh cãi "Thế bao xương máu đổ xuống là vô ích à ? Tôi không được trực tiếp tham gia cuộc chiến, không bàn may rủi... Ấy là số phận. Có điều này, giờ đây, mỗi khi người ta bàn về cuộc chiến vừa qua. tôi mặc cảm của người ngoài cuộc... thấy mình chưa đóng góp gì cả... xấu hổ lắm chứ". Cười nhạt "Ngươi cũng sĩ diện nhỉ, nhưng nam nhi không có chút sĩ diện mới đáng buồn... Ta không học hành nhiều như ngươi...phận đàn bà, ta thấm nỗi đau ta, mọi lý tưởng cao siêu, mọi lý sự này nọ, với ta đều là suông hết. Chỉ nỗi đau ta từng chịu đựng là có thật !...Đừng lý sự nữa...Ta không muốn nghe đâu.". Minh cười cảm thông, lần đầu tiên anh cười trong cuộc đối thoại "Chiều ý bà, ta nói chuyện khác,.. Công lao cứu giá của phu quân bà như vậy, hẳn sai này chúa Nguyễn không quên chứ ?". Ôn tồn "Ngươi là người chu toàn khi hỏi ta chuyện này.... Quả là sau khi thành nghiệp lớn, nhà chúa thu phục cả giang san, lên ngôi vua đầu triều Nguyễn, ngài ngự đã không quên công lao của những người từng phò tá mình dựng nghiệp, cả kẻ sống và ngưởi chết... Phu quân ta được truy phong tước vị, nhà ta được ban thưởng hậu hĩnh, được cấp trang ấp nơi đây... Cầm lòng vậy, bằng lòng vậy... ta thay chồng cai quản cơ ngơi này, giàu có sản nghiệp ta đâu có màng khi phu quân ta không còn trên cõi đời để cùng ta và con cháu hưởng thụ... Chút an ủi cho  ta ấy là người dân trong vùng nhờ thế mà có công ăn việc làm, được miếng ăn no bụng, được áo quần lành lặn... Họ ơn nhà ta là vậy..." Minh cướp lời "Thế nên họ mới xây miếu thờ cúng bà chứ gì ?" Cười to "Ngươi đúng là kẻ láu cá'... Xây miếu thờ ta trên đất trang ấp nhà ta, ấy là từ con cháu ta... Có điều, dân trong vùng cũng nể trọng ta phần nào mà hương khói cho ta... Vậy thôi.". Minh đắc ý "Bà thấy không, đạo lý ở đời cũng công bắng lắm chứ... Ai làm phúc cho dân thì dân quý trọng...". Trầm ngâm "Điều này thì ta tin ngươi hiểu... rốt cuộc, chúa Nguyễn thắng làm chủ thiên hạ, nên nhà ta mới được hưởng lộc chúa.... Ngươi nghĩ xem, nếu nhà Tây Sơn giữ được cơ đồ, nhà ta đây không chừng thành tội đồ vì tội đi phó tá chúa Nguyễn, bị triệt hạ, tàn sát cũng nên...". Minh băn khoăn "Điều này thì tôi không dám chắc... Có thể là vậy". Cười nhạo "Ngươi cũng là kẻ công bằng đấy chứ....Úng xứ với kẻ thua cuộc ra sao, hoàn toàn phụ thuộc vào bản tính và tâm trạng của người thắng, hoan hỉ bao dung hay cay cú rửa hận... thôi thì, nói sai cho hết được tâm địa con người ta...". Minh chậc chậc "Có lẽ vậy chăng ?...". Cười nhẹ "Ta lại nói đúng tim người rồi... Ngươi bối rối là phải... Ta bàn thế là để so sánh ta với người đàn bà mới đến trú ngụ trên đất của ta,". Minh ngạc nhiên "Ai thế?... người đàn bà nào?". Buồn buồn "À, ngươi đi vắng về quê ít bữa, nên không biết đấy thôi... Có một đàn bà góa mới lìa trần xuống dưới này, đến gặp ta xin trú ngụ... Vậy người không để ý, cái nghĩa địa phía bên kia hàng rào cây nơi cửa sổ sau nơi người ở rồi?... Cái mả mới với những vòng hoa héo...". Minh khẽ rùng mình "Vậy sao?... Tôi chưa kịp để ý.",  Giải tỏa "Ngươi yên tâm... Có ta ở đây làm chủ, ngươi không phải sợ... Với lại, người đàn bà mới đến này vốn hiền lành. Ngươi không sợ bị quấy nhiễu đâu...". Minh vẻ yên tâm. cầu tài "Vậy người này đâu dám sơ với bà được ?" . Cười nhạo "Ngươi cũng khéo nịnh nhỉ... Ý ta là, người này từng chịu cảnh góa bụa như ta xưa... Có điều, khố kiếp đàn bà góa một phần, khốn thêm nỗi người chồng tử trận lại thuộc bên thua cuộc chiến... Nghe đâu, người chồng là sĩ quan cấp tá, tử trận ngay đầu chiến dịch quân Bắc tấn công Tây Nguyên chi đó.... Xác bị vùi lấp đâu đó chẳng rõ nữa..." Minh thở phào "Thì ra là vậy... nhưng biết làm sao được ! Chiến tranh mà, nó có chứa ai đâu". Cảm thông "Góa bụa đã khổ. lại bao năm sống trong nỗi sợ bị bên thắng trần trả thù, hành tội, o ép này nọ... May mà, bên thắng cuộc cũng không tệ..." Minh hào hứng "Đấy, bà thấy chưa.... Đạo lý công bằng mà. Ai làm người nấy chịu... Bà ta không liên quan gì đến việc chống bà ta làm, nên chẳng có gì phải sợ... Nhưng chồng bà ta, nếu còn sống thì tôi không dám chắc được đối xử như bà ta đâu... Chắc chắn ông ta sẽ phải học tập, lao động cải tạo này nọ... ". Mỉa mai "Nghe ngươi nói, thấy rõ cái lý của kẻ mạnh, thấy sự áp chế của bên thắng cuộc.". Minh lên giọng "Đương nhiên... Thời ấy, bà cũng thấy đấy, nhà Nguyễn đã thi hành một chính sách trả thù nhà Tây Sơn tàn khốc... truy lùng, giết chóc, quật mồ mả, phá từ đường, thôi thì không thiếu gì hành vi rửa hận...". Cay đắng "Ngươi thôi đi... ta không muốn nghe nữa....".  Minh tự ái "Vậy thì thôi,... xin phép bà dừng lời...". Vẻ buồn bã "Chuyện thế là nhiều rồi... ta thấy cũng là có íc ... À, ta nói trước điều này... có lẽ làm ngươi buồn.... người con gái của ngươi tên Nguyệt nhỉ.... Tên hai ngươi ghép vào hay lắm... Minh Nguyệt là giăng sáng, nhưng chỉ để mai sau mỗi đứa tháng tháng nhìn giăng sáng mà nhớ đến nhau thôi... Hai người có duyên mà không có phận... Ta đi đây..." Minh bàng hoàng khi nghe lời phán vậy "Kìa bà...cho tôi hỏi vài câu được không ?... Tôi còn chưa tường diện mạo bà kia mà...".  Giọng xa xăm "Thế đủ rồi... ngươi không thể tường diện mạo ta đâu... Ta đã siêu thoát từ lâu... Cho ngươi hay, người đã khuất mà còn để lại diện mạo trong tâm thức người sống, là người còn chưa siêu thoát... ".
                   
                  5. 
                          Minh tỉnh cơn mơ. Cảm nhận đầu đau nhức, nặng trịch. Hơi thở vẫn nồng mùi men. Chắc rượu uống lúc chiều là loại rượu kém chất lượng được lên men từ nguyên liệu ri đường. Ngọn đèn dầu hỏa đỏ cạch gió lùa cửa sổ sáng lay lắt. Người váng vất khó chịu. Anh lôi vội chiếc xô nhựa dưới gầm giường nôn thốc nôn tháo cả mật xanh mật vàng. Minh mệt lả người, nằm im, lần hồi nhớ lại giấc mơ ...
                          Minh những tưởng, giấc mơ ngày nào gặp người đàn bà tự xưng là chủ khu vườn từng có miếu thờ ngay trong vườn này sẽ không bao giờ lặp lại. Vậy mà anh lại mơ thấy bà ta, tiếp nối câu chuyện bỏ dở từ lần trước. Anh vẫn bị ám ảnh bởi bầu không khí bí ẩn của khu vườn và câu chuyện đằng sau nó.  Minh ngẫm nghĩ, có lẽ sự hoang vắng của khu vườn cộng hưởng với âm khí từ cái nghĩa địa ngay phía sau nhà anh ở đã ám thị anh thành mộng mị. Song những hiểu biết về lịch sử anh đọc ít nhiều được tái hiện vào câu chuyện với người đan bà trong mộng khiến anh nghi hoặc về nguồn gốc khu vườn này và những chủ nhân của nó qua máy thế kỷ. Những người quanh đây, cũng chỉ biết lơ mơ về người chủ bỏ xứ sang Mỹ định cử khi kết thúc chiến tranh phân miền, chứ không ai biết sâu xa hơn về nguồn gốc, liệu rằng các người chủ trước nữa có phải huyết thống trực hệ là nối nhau sống nhiều đời ở đây hay là đã sang nhượng thay tên đổi chủ. 
                          Riêng có chi tiết trong mộng mị của anh thì nhanh chóng xác định được ngay. Ngay hôm sau, anh theo lối mòn vạch rào ngó sang nghĩa địa phía sau thì quả nhiên thấy ngôi mả mới thật. Cũng không khó để xác định người nằm dưới mộ ấy là ai. Chị người quen cũng cơ quan sống kế bên chợ An Lạc xác nhận, thời điểm Minh đi phép Bắc, có một chị chuyên bán đồ khô ở chợ An Lạc bị cảm đột ngột rồi mất, và nghe nói chồng chị ta trước đây là sĩ quan Ngụy chết trận. Đối chiếu với giấc mơ của mình, Minh thấy không sai. Chi tiết này là có thật, thì câu chuyện dài trong mộng mị kia có cơ cở để tin... 
                          Sau lần ấy, Minh không hề mơ thêm gì nữa, mặc dù anh có ý trông chờ. Công việc, cuộc sống biến động, anh dần lãng đi, mặc dù đâu đó trong những đêm khó ngủ vì nhớ nhà, vì lo tính công việc, nó vẫn thảng về trong ý nghĩ của anh. Mối tình của anh và Nguyệt cũng không thành sau vài ba năm chờ đợi. Nguyệt chủ động chia tay anh vì lý do từ gia đình. Minh níu kéo không nổi đành buông tay... Nguyệt về Hà Nội theo khóa cao học, rồi xin việc mới, không trở lại trường cũ. Chuyện tình đổ vỡ, Minh không đổ lỗi cho việc anh đã vô tình tặng kéo cho Nguyệt, bởi một lần vì không biết, anh đã mua tặng cô chiếc kéo thợ may cùng bộ sách hường dẫn cắt may, thước vải, và dụng cụ may, gửi qua bưu điện để cô tập lúc rảnh rỗi. Sau anh mới biết, người ta bảo, người yêu nhau kỵ nhất việc tặng dao kéo và khăn tay, bởi dao kéo sẽ cắt đứt tơ duyên, còn khăn tay là để lau nước mắt chia tay, ly biệt... Minh có nghĩ đến lời tiên đoan của người đàn bà trong mộng về sự tan vỡ mối tình của anh với Nguyêt, chỉ cảm thấy buồn nhớ những năm tháng ở đấy... 
                          Nhưng cũng vì gắng níu kéo mối tình với Nguyệt mà anh quyết tâm ra Bắc. Anh bỏ lại quá khứ với khu vườn, bỏ châu thổ mênh mông sông nước cùng những điệu vọng cổ da diết buồn, bỏ Dạ cổ hoài lang sầu bi não nùng....
                          Hơn hai mươi năm sau, Minh mói có dịp trở lại vùng đất Bảy Núi, nhân chuyến công tác miền Tân Nam bộ. Anh tranh thủ thăm gặp những người quen cũ. Vài người trong số thân quen của anh ngày ấy đã khuất bóng. Biết tin cơ quan cũ của anh đã chuyển đi nơi khác, còn khu vườn ấy được huyện quy hoạch xây dựng thành trường dân tộc nội trú. Minh muốn thăm lại nơi cũ. Anh nói qua lý do và xin phép người bảo vệ được vào hẳn sân trường. Anh đứng tần ngần, quan sát khắp lượt, hình dung lại cảnh xưa, người cũ, đâu là hàng dừa, vườn xoài, đâu là căn nhà có phòng anh ở, và đâu từng là chỗ cây xoài  cát cổ thụ dưới gốc có đám gạch xây long lở, vết tích của một ngôi miếu cổ. Bao nhiêu chuyện cũ, hình ảnh xa mờ bỗng hiện về rõ nét trong đầu anh... Người bảo vệ đến bên anh, bảo "Chẳng còn dấu vết cũ, anh hỉ". Minh cười buồn, cảm ơn người bảo vệ... 
                          Minh còn trở lại vùng đất này nhiều lần. Anh cũng có thơ ghi lại cảm xúc của mình.  Giờ đây, mỗi khi nhớ về vùng đất ấy, anh thầm gọi tên miền xanh thăm chân mây... ./.
                   
                  #69
                    tamvanvov 17.07.2021 16:59:21 (permalink)
                    Nhân gian vạn sự phi.
                    truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc, 
                    1. 
                    Nhà báo Minh Trung đến tòa soạn. Một ngày làm việc bình thường như bao ngày. Ông khởi động máy tính để soạn bài giới thiệu chương trình câu lạc bộ cuối tuần. Chuông điện thoại máy bàn vang. Cô phóng viên trẻ nghe máy.
                    - Chú Trung ơi, máy của chú này... Có ai đó muốn gặp chú đấy ạ.
                    Ông cầm máy, trả lời theo thói quen lâu nay mỗi khi thính giả gọi đến,
                    - Tôi, Minh Trung đây,... Tôi có thể giúp được gì?...
                    Một giọng nam trẻ ở đầu máy bên kia rụt rè hỏi lại tên và nơi làm việc của ông. Lặng đi một chút, người đó thay đổi cách xưng hô từ xã giao thành thân mật, xung tên mình là Hiếu, con trai của mẹ Duyên... Ông nghe mà ắng giọng, thụ động trả lời thei mỗi câu hỏi của cậu ta. Rồi chỉ còn mỗi giọng cậu thanh niên, bời ông ù cả tai, loáng thoáng nghe câu được câu mất, nhưng mỗi lời của cậu ta làm ông thêm choáng váng. Ông linh cảm về một sự thật bấy lâu ẩn chứa trong lòng mình sẽ được hé lộ... và từ đây, cuốc sống của ông sẽ thay đổi...
                    Buông điện thoại, ông thẫn người, đầu ong ong, cám thấy huyết áp tăng lên... Cô phóng viên trẻ nhận ra điều ấy:
                    - Chú Trung... chú sao thế ạ” ... Người quen cũ hả chú?... – cô cười tinh quái đùa – Hay con rơi con vãi ngày xưa nhận bố?
                    - Ờ ờ... không... – Ông giật mình, chối.
                    Giờ thì đầu óc ông chỉ nghĩ về cuộc hẹn gặp với chàng trai kia vào chủ nhận tới. Bao ký ức xa cũ ùa về...
                    2.      
                    Một sáng một ngày cuối tuần,
                              Trung cắm cúi đạp xe. Trời sớm, hơi sương phảng phất không gian. Đường xá vắng teo. Trung mừng vì đường vắng người, bởi thâm tâm không muốn gặp bất cứ ai. Trên ghi đông xe đạp trei chiếc túi cũ, bên trong đựng cân đường và hai hộp sữa. Trung đi thăm gái đẻ, có cảm giác e sợ của người làm một việc vụng trộm và có gì đó khuất tất. Để đến được nơi Duyên làm việc phải vượt qua gần bốn chục cây số. Dọc đường, hình ảnh những lúc hai người gần gũi thân mật với nhau cứ chập chờn trước mặt, vô hình chung khiến anh quên mệt nhọc, gò lưng nhấn bàn đạp mải miết... Khi trạm truyền thanh huyện hiện ra trước mắt Trung thì trời đúng tầm trưa. 
                              Trung dừng xe gần đó, lặng lẽ quan sát, khi mấy nhân viên của Trạm người địa phương, tan tầm ca sáng, về nhà ăn trưa, anh mới dám vào. Duyên thuộc diện nhà xa, được Trạm bố trí cho ở tại Trạm, nhất là sau kỳ nghỉ sinh con đi làm trở lại, có con nhỏ theo mẹ. Vụng trộm, lại không hẹn trước, nên Duyên ngạc nhiên khi Trung xuất hiện. Duyên cứ nhớn nhác ngó quanh quất như sợ ai đó bắt gặp sự có mặt của Trung. Lưỡi anh như xoắn lại, lúng búng giải thích việc đến thăm mẹ con Duyên và món quà đường sữa của mình. Còn Duyên vừa mừng vừa lo. Cơm được dọn ra. Cơm gái đẻ, đơn sơ tôm rang, trứng luộc và canh rau ngót. Duyên ăn cầm chứng, còn Trung ăn cho phải phép, đỡ đói để còn lấy sức đạp xe về. Đứa bé ọ ẹ khóc ở gian trong. Duyên vỗ nựng cho nín, rồi cô cất tiếng gọi Trung vào. Duyên nâng đứa trẻ gần ngang mặt Trung nựng yêu "Con trai của bố Trung đây... Bố Trung nhìn... cái trán bướng này, cái môi mỏng này... rõ giống hệt bố Trung...". Duyên cười, mắt rưng rưng nước "À quên, cu tý phải gọi là cậu Trung thôi,... con nhỉ". Trung cười gượng gạo, lấy ngón tay day nhẹ lên trán, rồi khẽ đụng vào đầu mũi đứa bé: "Con giai mẹ Duyên kháu quá... hay ăn chóng nhớn nhé". Duyên nhìn Trung đăm đăm, cái nhìn như biết ơn, lại như có lỗi. Duyên bảo: "Thôi... thăm thế đủ rồi, mẹ con cu Hiếu cảm ơn bố Trung nhiều lắm ... Bố Trung về luôn đi.... sắp đến giờ làm việc ca chiều rồi, mọi người đến bây giờ... ngộ nhỡ ai nhìn thấy bố Trung ở đây... thì phiền... ". Trung nhận thấy vẻ ái ngại của Duyên trong ánh nhìn và câu đuổi khéo. Trung cúi người thơm nhẹ lên trán bé con: "Chào nhé... hai mẹ con giữ gìn cẩn thận... Bố Trung về đây". Duyên tiện đà: "Từ giờ... bố Trung không cần phải bận tâm về mẹ con nhà cháu nhé... Nhớ, chỉ là cậu Trung thôi đấy... Cu Hiếu đã có mẹ cháu và bố Kiên rồi...".
                              Trung đạp xe rời khỏi Trạm truyền thanh huyện, chốc chốc ngoái đầu nhìn lại. Duyên vẫn bế con đứng nhìn theo. Đến khúc quanh, trước khi khuất néo, Trung ngoái lại lần nữa, nhung đã không thấy bóng dáng mẹ con Duyên. Đường về thị xã với anh bỗng vời vợi làm sao !...
                              3. 
                              Trung là phóng viên báo tỉnh. Bố anh là một nhà báo, nhà văn, nên ông hướng anh theo con đường cầm bút. Thời ấy, cái thị xã vùng than Đông Bắc này được xem là công trường lớn của miền Bắc khi đất nước còn chiến tranh chia cắt. Là thanh niên, dù là công nhân cầm búa cầm choòng hay cầm bút thì ai cũng ước ao được sống và làm việc trên cái công trường khổng lồ này, một biểu tượng của nền công nghiệp miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Các văn nghệ sĩ cũng coi vùng đất đông bắc này là môi trường thực tế sinh động để họ thâm nhập, tìm đề tài và cảm hứng dáng tác. Bố anh xin cho anh ra làm báo ở đây, là muốn cho anh nhanh chóng trưởng thành trong môi trường làm báo thực tế. Còn có lý do riêng, ấy là bố mẹ anh trục trặc và ly hôn, rồi sau đó bố anh tục huyền với một người đàn bà khác vốn là con nhà quan lại nho giáo thất thế và nhanh chóng đẻ liền mấy đứa con. Mẹ anh theo quân ngũ, không thể chăm sóc anh chu đáo. Để yên tâm với gia đình mới của mình và không mang tiếng bỏ bê con vợ cả, anh được bố gửi ra vùng than khi mới học hết phổ thông. Vậy là anh sớm bước vào đời với cuộc sống công nhân tự lập. Mang gen di truyền của bố, anh tập viết báo và trờ thành phóng viên báo tỉnh. Lẽ di nhiên, có sự trợ lực của bố, từ việc bảo ban thêm về nghiệp vụ mẹo mực viết báo, đến sư nhờ cậy ban lãnh đạo báo tỉnh giúp đớ này nọ. Là phóng viên báo tỉnh khi mới ngoài hai mươi tuổi, oách lắm chứ. Mặt non choẹt, măng tơ, anh có thể đi đến bất cứ nơi nào trong vùng mỏ đông bắc này. Nhiều khi, người ta nhầm tưởng anh là cậu sinh viên thực tập, nhưng khi biết anh là phóng viên thì lập tức anh được đối xử trọng thị...
                              Trong một chuyến công tác, Trung đã gặp Duyên. Và đúng với cái tên của cô, hai người có duyên với nhau. Chuyến ấy, Trung đi cũng với Quang Chiến, một phóng viên đàn anh đến một huyện miền núi cách thị xã mấy chục cây số. Xong công việc, anh phóng viên đi cùng rủ Trung vào thăm người chị gái làm việc ở đài truyền thanh huyện. Hôm ấy, sắp đến buổi truyền thanh chiều thì máy trục trặc, hai chị em trực ca loay hoay một hồi không xử lý được. Hai người lo lắng, gọi điên tứ tung nhờ vả người sửa máy nhưng không được. Có gái trẻ cố mầy mò sửa. Tình thế vậy, Trung đề nghị được thử sửa. Anh vốn say mê lĩnh vực điện tử âm thanh nên có chút hiểu biết. Thật may, Trung chỉnh sửa một lúc thì được, máy lên sóng buổi phát thanh chiều vừa kịp. Cô gái trẻ tên Duyên cảm ơn Trung rối rít và nhìn anh đầy vẻ thán phục. Lúc trước mọi người đều cuống, chỉ chào hỏi xã giao. Xong việc rồi. mới để ý đến nhau kỹ hơn. Trung thấy cô gái trẻ tên Duyên khá xinh. Gương mắt bầu bĩnh thật hợp với mái tóc xoăn tự nhiên, mắt to đen, má lúm đồng tiền, mỗi khi cười khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên. Trung bị Duyên hút hồn.
                    Sau lần ấy, hai người quen nhau, và tình yêu nảy nở. Yêu nhau rồi. nên hầu như chủ nhật nào Trung cũng đạp xe đến nơi Duyên làm việc thăm cô. Còn Duyên, mỗi khi về thị xã đều tranh thủ ghé tòa soạn thăm Trung. Tâm niệm yêu nhau rồi nên vợ chồng, Trung đã đưa Duyên lên Hà Nội giới thiệu với gia đình nhà mình, và cô cũng đưa Trung về quê cô ra mắt bố mẹ. Tuy nhiên, gia đình bên cô có ý không chấp nhận Trung, chê anh quá thư sinh, và còn một lý do khác, ấy là trước đó đã có một vị cán bộ theo đuổi Duyên, đánh tiếng với gia đình muốn lấy cô. Tình yêu vừa nảy nở đã gặp trắc trở. Linh cảm về mối tình không thành ám ảnh Trung. Một lần, Trung đến thăm Duyên đúng lúc áp thấp ập vào vùng than đông bắc. Chỉ có hai người với nhau ở trạm truyền thanh, không kìm nén được cảm xúc, hai người đã quấn chặt lấy nhau làm cuộc mây mưa khi ngoài trời mưa gió tơi bời mịt mùng tứ phía...
                              Sau lần ấy, những tưởng cuộc tình được cứu vãn, nhưng không, Duyên là người già giặn hơn anh nghĩ, cô vẫn nghiêng về sự tính toán thiệt hơn để đến với Kiên, vị cán bộ có thể đem lại cho cô một cuộc sống được đảm bảo trong thời buổi kinh tế khó khăn thiếu thốn. Sau này, suy ngẫm, Trung mới ngộ ra rắng, người đàn bà khi yêu, họ có thể dâng hiến tất cả cho người mình yêu, nhưng lập gia đình, họ lại chi li thiệt hơn khi lựa chọn người lấy làm chồng. Không giống đàn ông, khi yêu có thể bốc đồng thề hái sao trời cho người yêu và sẵn sáng chấp nhận cuộc sống kiểu “một túp lền tranh hai trái tim vàng”....Mối tình với Duyên, anh xem như bài học nhập môn về tình yêu và hôn nhân.
                              Rời bỏ thị xã vùng than đông bắc, Trung tự an ủi mình, rằng anh và Duyên có duyên mà không có phận. Và như những gì cô ấy cho anh biết, cùng cảm nhận của bản thân, thì anh vẫn còn một giọt máu rơi ở vùng đất này,...
                            4.
                            Trung rời cái thị xã vùng mỏ Đông bắc này về làm việc ở thủ đô. Thực ra, sau lần đến thăm Duyên và con, Trung vẫn dò tin xem mẹ con cô sống ra sao. Duyên có gia đình của mình, và trên danh nghĩa, chồng cô là Kiên, có nhà đàng hoàng ở thị xã, và mặc nhiên, anh ta là bố đứa bé. Câu chuyện tình giữa anh và Duyên  vừa mới đó, vết thương tình còn rớm máu, nỗi đau trong anh còn nguyên, đã là quá khứ rồi. Bố đứa trẻ đích thị ai cũng không có ý nghĩa gì, khi họ là một gia đình hạnh phúc,...
                        Về thủ đô, công việc mới đầy năng động và hấp dẫn, cuốn hút, choán hết thời gian của Trung, nên anh nhanh chóng hòa vào nhịp sống mới mà lãng quên nỗi đau tình  Bài học nhập môn về tình yêu và hôn nhân thật có ích, khi anh qua giới thiệu làm quen với cưới một cô thợ may nhan sắc bình thường nhưng chịu thương chịu khó, biết quán xuyến gia đình. Cô thợ may đảm đang sản xuất liền cho anh mấy đứa con đủ nếp tẻ. Anh sống chung trong căn hộ tập thể mẹ anh được cấp trong khu nhà binh. Hơi chật một chút nhưng ở vào thời buổi gạo châu củi quế như thế đã là hạnh phúc lắm rồi. Anh là phóng viên làm việc ở một cơ quan báo lớn, vợ công nhân may, chế độ tem phiếu cũng đủ sống. Khi kinh tế bắt đầu thời lỳ mở của, vợ anh tính toán nhận chế độ nghỉ việc, về thuê cửa hàng mở tiệm may đo, rồi phát triển lên vừa nhận may đo vửa mở lớp đào tạo nghề may. Có chút tiền. gom góp mua được căn nhà cấp 4, lấn đất lưu không làm vườn. Anh thì mua được chiếc xe máy, ngày ngày áo quần đóng hộp cưỡi xe đi làm, rất chi là oách. Khi mẹ anh mất. căn hộ của bà ở khu nhà binh thuộc diện giải tỏa, anh nhân được một khoản tiền đền bù kha khá, vợ chông bàn nhau mua một miếng đất ở làng hoa ngoại ô làm của để dành. Vậy là của ăn của để. Anh hài lòng với cuộc sống như thế, thoảng nghĩ đến người yêu cũ, thầm so sánh, chắc gì được như cuộc sống của anh hiện nay.
                              Cuộc đời cứ thế hanh thông, con cái lớn dần, đứa vào đại học, đứa đi xuất khẩu lao động nước ngoài, nhà cửa được xây dựng lại khang trang hơn, xe máy cũng được nâng cấp. Những tưởng cứ thế cho đến lúc nghỉ hưu, thanh nhàn tuổi già thì một biến cố xảy ra,...
                    5.
                    Sau cuộc gọi điện thoại đến tòa soạn, chuyện giập giạp. chàng trai xưng tên Hiếu là con mẹ Duyên ấy xin được gặp nhà báo Minh Trung. Ông cho thời gian địa điểm và rất nóng lòng được giáp mặt anh chàng mà giờ đây đã chín phần ông tin là đứa con rơi của mình.
                    Hai người gặp nhau tại một quán cà phê gần nhà ông. Câu chuyện cứ mở ra với nhiều tình tiết mà anh chàng nghe kể từ mẹ nói lại với ông và được ông xác nhận là đúng. Ông cũng nhận là đã biết mặt con từ khi vài ba tháng tuổi ở trạm truyền thanh huyện. Ông thanh minh với Hiếu rằng sở dĩ ngần ấy năm ông không trờ lại thị xã than đông bắc và ngó ngàng gì cuộc sống của họ là vì cậu ta đã có một người cha hơp pháp là ông Kiên, mà cho đến giờ về danh nghĩa vẫn được coi là bố đẻ của Hiếu. Qua câu chuyện, ông biết, ngoài Hiếu ra, Duyên còn sinh hai đứa con nữa với ông Kiên. Ông cũng được giải tỏa thắc mắc bấy lâu nay, liệu ông Kiên có biết Hiếu không phải là con đẻ của ông ta hay không? Hiếu bảo, khi mẹ cậu còn sống, những lúc vợ chống cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, ông Kiên cũng cạnh khóe này nọ. song khi Duyên bị ung thư rồi mất, ông Kiên đã có lần nói thẳng vào mặt Hiếu, rằng nó không phải là máu mủ của ông ta mà là con rơi của một tay nhà báo nào đó, rằng ông ta nuôi nó như nuôi một con cửu ghẻ trong nhà, và khuyên nó hãy đi tìm cha thật của nó... Thực lòng, ngần ấy năm trời, Hiếu cũng lờ mờ cảm thấy tình yêu thương đặc biệt của mẹ dành cho mình, khác với mấy đứa em, và cả thái độ lạnh nhạt của bố Kiên. Hiếu còn kể, khi mẹ cậu đau yếu sắp mết, có lần hai mẹ con nghe giọng ai đó nói trên đài, bà lầm bầm bảo, “vẫn cái giọng mềm mỏng, ngon ngọt như ngày xưa, đến cua trong lỗ cũng phải bò ra.... mày cũng có cái giọng giống hệt cha mày đấy con ạ...”. Lúc ấy thì Hiếu chì ngờ ngợ, sau này mới hiểu mẹ mình nói vậy là ám chỉ mình giống bố đẻ, nhà báo Minh Trung cái tài ăn nói, chứ không phải ông Kiên, bố hờ... Hiếu còn cho ông biết, trước lúc mất, mẹ nó đã cho mời nhà báo Quang Chiến, người đồng nghiệp đàn anh của cả hai người đến nhà, nói chuyện, dặn dò và đưa cho ông ấy giữ một lá thư mật trong phong bì dán kín. Chuyện ấy khiến Hiếu suy luận, rằng mình không phải là con đẻ của ông Kiên, mà là con rơi của một ai đó tróng số bạn bè hay người yêu cũ của mẹ mình... Sau khi mẹ mất, Hiếu dò la manh mối, lặng lẽ theo dõi, tìm đọc các bài viết của nhà báo Minh Trung, hay đón nghe các chương trinh câu lạc bộ do ông đảm dẫn. Tự thâm tâm, cậu tin nhà báo Minh Trung chính là cha đẻ của mình.
                    Bố con nhận nhau, ông có lãi, được nhận cả cháu. Hiếu đã sớm lấy vợ và có con rồi. Gia đình riêng của nó yên ấm lắm.
                    Biết không thể giấu mãi chuyện này, ông kể với vợ và xin được nhận Hiếu làm con. Vợ ông đón nhận điềm tĩnh, bảo “Tôi không thể trách ông được, bởi chuyện xảy ta trước khi ông quen và lấy tôi... Có chăng, đáng trách ở việc ông giấu tôi đến giờ”. Ông biện bạch, thì chính ông cũng mới biết Hiếu là giọt máu rơi của mình với người yêu cũ. Vợ ông họp gia đình, chính thức thông báo sự tình cho các con và đám em của ông. Khóc cười có cả. Rồi vợ chồng ông kéo cả gia đình làm chuyến đi thị xã vùng than đông bắc để nhận Hiếu. Tuy có chút bỡ ngỡ, nhưng Hiếu tỏ ra hoạt bát, khéo léo làm hướng đạo, đưa gia đình bố đẻ đến gặp bố hờ, có lời thưa gửi, xin lỗi ông Kiên. Rồi nữa, gặp gỡ gia đinh thông gia, tức bố mẹ vợ của Hiếu. Đôi bên tỏ vẻ cảm thông với nhau, và sau cùng tất cả đi viếng mộ thắp hương cho Duyên, khấn xin người đã khuất phù hộ độ trì cho cuộc đoàn viên. Ông vui đến nỗi, đã dẫn Hiếu, mang hoa quả bánh trái đến cơ quan, giới thiệu, mời mọi người, mừng cho cha con ông.
                    Ông Trung hài lòng lắm. Mừng nhất là việc giải tỏa nỗi ẩn ức của ông và ông Kiên chừng ấy năm trời. Vui nữa là Hiếu biết cách ứng xử khiến mọi nhà đều không ai mất lòng. Kể từ đây, tháng đôi lần Hiếu lên thủ đô thăm bố đẻ. Hai bố con hàn huyên bao nhiêu là chuyện, nhờ thế, ông biết được, những năm tháng qua, cuộc sống vợ chống của Duyên Kiên cũng không dễ dàng gì, và Hiếu ít nhiều thiệt thòi vì phải chịu sự phân biệt đối xử từ phía người cha hơ.... Âm thầm suy nghĩ, ông muốn bù đắp sự thiệt thòi cho Hiếu mà chưa biết cách nào....
                    6.
                    Từ ngày nghỉ hưu, ông Trung hay sống ở ngôi nhà nhỏ dựng trong khu vườn xanh tươi ờ làng hoa ngoại ô. Ngoài thú chơi hoa lan và đồ gốm sứ, khi rảnh rỗi ông trồng thêm các loại hoa có thể dúng ướp trà như hồng, nhài, ngâu, mộc... Mỗi dịp cuối tuần, ông ở hẳn trên đó, đi chợ làng, tự nấu ăn, hẹn hò đám bạn già đến thưởng trà, ngâm vịnh thơ phú, đánh cờ. Hứng lên thì cụng đôi ba chén rượu... Ở đây, tiện và thích là mỗi khi Hiếu lên chơi, nó đến thẳng đấy với ông, cha con tha hồ tâm sự, không ngại vợ con biết chuyện này nọ. Đến ngôi nhà chung, dẫu sao còn có vợ ông và mấy đứa em, hành xử nói năng gì cũng ngại, phải ý từ xã giao. Mỗi năm, vào dịp hè, Hiếu đón ông về thị xã vùng than mươi hôm, để ông chơi với các cháu, gặp lại bạn bè cũ và tắm biển. Cứ thế, ông có vài ba năm sống trong niềm vui sum họp ấm cúng.
                    Thế rồi, cậu con lớn của ông lấy vợ. Vợ ông ấn định, cưới xong thì vợ chồng trẻ lên sống ở ngôi nhà nơi làng hoa ngoại ô. Thâm tâm, ông hiểu vợ mình biết chuyện ông và Hiếu hay gặp nhau ở ngôi nhà vườn ấy, nên thu xếp vậy để tránh việc này và có ý rằng sau này, vợ chồng nó sẽ nghiễm nhiên là chủ nhân của nhà vườn đó. Song thu xếp thế, ông cũng thấy hơp lý, tuy không hài lòng nhưng cũng phải bằng lòng vậy. Thấy thế, Hiếu bàn với ông, xây thêm một ngôi nhà nhỏ nữa trên mảnh vườn ấy. Rồi Hiếu nghỉ phép, lên chỉ huy việc xây dựng, tay bay tay dao xây chỉ đạo đám thợ phụ độ nửa tháng là xong. Việc này khiến vợ ông bực mình, cạnh khóe này nọ. Ông cảm nhận, mối quan hệ của Hiếu với vợ con ông bắt đầu rạm nứt.
                    Chưa hết, Hiếu tự tin, khẳng định vai trò con trai trưởng ngày càng rõ. Thân sinh của ông mất đã mươi năm, đưa về quê chôn cất còn chưa cải táng, nay mua được sinh phần nên mới cải táng. Hôm bốc mộ, cả gia đình ông không ai thạo việc, định thuê người làm thì Hiếu xin đảm nhận công việc. Nó rửa ráy, xếp xương cốt ông nội bài bản, gọn gàng, khiến mọi người ngạc nhiên thán phục. Còn ông thì mát lòng mát dạ, hãnh diện lắm. Thái độ hài lòng của ông như muốn nói với vợ con, các em và cả họ hàng ở quê rằng, đấy thằng con rơi của tôi xứng đáng là cháu trưởng trong nhà. Vợ ông, ngoài miệng cũng không ngớt lời khen Hiếu, nhưng ngấm ngầm để bụng, ủ mưu,...
                    Việc gì đến trước sau cũng phải đến. Một lần, Hiếu thưa chuyện với vợ chồng ông, muốn làm thủ tục pháp lý, chính thức là con trai của ông và đổi từ họ Lê của ông Kiên sang họ Hoàng của ông. Việc ấy là đương nhiên, nhưng trước hết phải qua giám định gen di truyền. chứng minh quan hệ huyết thống, đấy là thủ tục pháp lý và cũng là yêu cầu của vợ ông. Thâm tâm, ông tin chắc Hiếu là con ruột của mình, không cần phải chứng minh rườm ra, song yêu cầu là vậy nên đồng ý. Sớm muộng gì cha con cũng thuộc về nhau, ông khuyên Hiếu chấp thuận việc này. Hiếu hiểu lòng ông, động viên “Bố yên tâm... trăm phần trăm con là ruột thịt của bố mà”.
                    Dịp ấy, ông về quê, trông nom dọn dẹp ngôi nhà vườn bị đóng của bỏ hoang lâu ngày sau khi người mẹ kế của ông qua đời. Ông nhận cú điện thoại vợ ông gọi, báo tin kết quả giám định ADN của ông và Hiếu cho biết hai người không có quan hệ huyết thống với nhau. Ông đang vui với ý tưởng sau khi hoàn tất thủ tục pháp lý nhận con và đổi họ cho Hiếu, ông sẽ đưa nó về quê nội, sửa sang lại ngôi nhà này làm ngôi thờ tự của đại gia đình. Vậy mà... Ông choáng váng ngã quỵ, ngất xỉu, hồi lâu tỉnh lại, gọi điện báo người nhà ở quê đưa đi bệnh viện.
                    Có nhầm lẫn chăng, ông hy vọng thế. Song khi trờ về nhà, tự tay cầm tờ phiếu kết quả giám định gen, đọc dòng chữ kết luận ghi không có quan hệ huyết thống, thì ông không thể không tin. Đầu óc ông rối loạn, bời bời với bao ý nghĩ xung đột. Hiếu không phải con của Kiên, rõ rồi, cũng không phải con của ông, kết quả rành rành ra đấy... Vậy thì nó là con của ai? Khi đã tỉnh táo, tĩnh trí, ông nhớ lại, điểm qua hết các gương mặt đàn ông thời ấy từng theo đuổi, tán tình, hay là bạn, là người quen của Duyên, phỏng đoán này nọ... Hay là, anh trưởng phòng X, tay nhà báo Z, chàng nhà thơ N?... Ngày ấy, Duyên tự tin, rạng rỡ, xinh nổi tiếng trong vùng, khiến cánh đàn ông khát khao, thèm muốn chiếm hữu cô... Trong đám đàn ông cả tá ấy, có những người đã có vợ. say mê cô, sở dĩ ông chiếm được tình cảm của Duyên là bởi vẻ đẹp trai, hào hoa kiểu người thủ đô, lại con của nhà văn nổi tiếng nọ... Ý nghĩ ghen tuông ngợp lòng ông, chẳng lẽ, một thời điểm ấy, cô ấy cùng quan hệ với mấy người?... Nhưng sao, cô ta lại tin tưởng Hiếu là giọt máu của ông, mà trăng trối lại, khiến nó tìm ông? Sau khi cha con ông nhận nhau, ông cũng đã gặp lại nhà báo đàn anh là Quang Chiến, đọc lá thư Duyên gửi lại, khẳng định Hiếu là con ruột của ông? Hay là chính cố ấy cũng nhầm? Ông chẳng biết tin vào đâu nữa...
                    7.
                    Hiếu có đến thăm ông đôi lần sau khi ông đổ bệnh. Hai người an ủi lẫn nhau, bảo vẫn sẽ coi nhau như người thân. Là nói vậy thôi, chứ mặt nhìn nhau tẽn tò làm sao. Chiếu lệ đôi câu rồi ngẩn ra chẳng biết tiếp câu chuyện thế nào. Vợ con ông thì tỏ rõ thái độ lạnh nhạt, xã giao dăm câu ba điều cho phải phép. Hiếu biệt đi không đến nữa... Ông thì vẫn quanh quẩn với ký ức tình yêu xa xưa, ký ức vui vẻ của những ngày đầu cha con nhận nhau. Ông thêm lần tai biến và sức khỏe yếu dần, đi lại khó khăn, mắt kém nên muốn đọc sách cho khuây khỏa cũng khó...
                    Một lần, cô biên tập viên cùng phòng làm việc cũ với ông, đến chơi nhà, đem mấy bài thơ Đường luật nhờ ông cắt nghĩa, giàng giải ý tứ. Trong số đó có một bài thơ của Chu thần Cao Bá Quát “Khứ tuế nghinh xuân xuân dĩ quy/ Kim niên xuân chí hựu như  phi/ Xuân hoa khai tạ vô câu quản/ Khẳng tín nhân gian vạn sự phi”. Ngẫm nghĩ thấy ý tứ bài thơ thật mênh mông vô tận, như một triết lý sắc không, rằng “năm ngoái vừa mới đón xuân, nay xuân đã quay trờ lại/ xuân đến thấy thời gian nhanh như bay/ hoa xuân nờ đấy rồi tàn ngay đấy. chẳng thể quản chế/ ai  tin thế gian này mọi sự đều là không”... Thấy ông cứ ngâm nga, ngẫm ngợi ý từ bài thơ, cô biên tập viên gợi chuyện, hỏi thăm, bấy lâu, ông có tin gì về Hiếu. Ông bảo không, rồi đồ đoán, nó chắc hận ông, hận mẹ nó lắm. Cô biên tập viên thương ông, bảo là mạng xã hội gtờ phát triển lắm, ông hoàn toàn có thể gặp lại và trò chuyện với Hiếu mà không cần phải đi đâu. Rồi cô thú nhận, rằng có có kết nối qua mạng xã hội và thỉnh thoảng biết tin về Hiếu. Rằng đã có lần, cô thấy Hiếu buâng quơ than thở trên trang cá nhân của mình là “Tôi có cha, rồi người đó bảo không phải cha của tôi. Rồi một ngày nọ tôi tìm được người cha đích thực của mình. Tôi vui lắm, nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Bỗng một hôm, người ta bảo người cha tôi tìm được lại không phải là cha mình... Vậy cha tôi là ai đây? Tôi biết tim cha ở đâu và bao giờ thì tìm thấy? Cha ơi, ông là ai?”. Đại khái vậy. Ông nghe bùi ngùi, chảy nước mắt... "Này cháu... Nghe đâu... người ta bảo... cái việc giám định di truyền ấy... người ta cũng có thể can thiệp... làm sai lệch kết quả... phải không?...".
                    Cô biên tập viên cảm động, không biết phải trả lời làm sao, lờ đi, và cô thấy không cần phải giấu ông, bảo bài thơ của Cao Bá Quát kia chính là cô đọc trên trang cá nhân của Hiếu. Cô  nói, Hiếu đã bình luận, câu thơ cuối “khẳng tín nhân gian vạn sự phi” ấy, rằng “ai tin nhân gian này mọi sự đều là không, thì hệ họ, tôi không tin,... ”.
                              Nghe vậy, ông mừng rỡ bảo cô biên tập viên:“Thơ phú, chữ nghĩa kiểu này, chắc chắn, nó giống y tôi... Tôi hiểu rồi, tôi tin nó... và chắc là... nó cũng tin tôi.. .phải thế không cháu? ” ./.
                     
                     
                     
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.07.2021 11:35:43 bởi tamvanvov >
                    #70
                      tamvanvov 17.07.2021 17:02:18 (permalink)
                      Khói đồng cay mắt.... ( bản mới )
                      Truyện ngắn
                       
                                Ngày ấy, chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi và còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm ... Vậy nên,...
                                Chị đã là mẹ của ba đứa con, lít nhít trứng gà trứng vịt. Ngoài đôi mươi, chị đã lấy chồng và đẻ liền hai đứa. Chồng chị là một người Nam tập kết ra Bắc, hơn chị đến chục tuổi, làm nghề kỹ thuật cơ giới. Ngay sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, anh Sáu, chồng chị thuộc diện lớp cán bộ đầu tiên được chọn về Nam gây dựng cơ giới ở tỉnh quê nhà. Chị khăn gói đưa hai con nhỏ theo chống về sinh sống ở tỉnh lỵ quê anh thuộc miền biên giới Tây Nam bộ. Vào trong đó, chị chưa có việc làm, chỉ chợ búa, cơm nước, trông con nhỏ. Phấn khởi, chị sòn sòn thêm đứa nữa, thành ra chưa đến ba mươi tuổi đầu đã là mẹ nái sề với những ba đứa con,... Vậy là, cắm mặt chăm sóc con cái, chị có biết trời đất bên ngoài thế nào đâu. Rồi gia đình chị chuyển về huyện lỵ quê nhà, lại vướng bận thêm các mối quan hệ bên nhà chồng, hỏi han thưa gửi là cạn ngày hết tháng. Mấy mà già?... Thực ra, chị cũng từng có quãng ngắn ngày son trẻ, phơi phới thanh xuân, yêu đời,...
                                Hồi đó, chị độ tuổi đôi mươi.
                                Mẹ chị mất sớm, sau khi sinh đứa em trai được vài tuổi, nhưng cha chị không tục huyền, gà trống nuôi hai chị em, nên dù nghèo nhưng chị được sống trong cảnh thương yêu đùm bọc, ấm cúng. Cái Tấm, ngoài việc đi học cũng giúp giập được cha nhiều việc nhà và cả việc đống áng nặng nhọc. Chẳng hiểu sao, cha mẹ lại đặt cho chị cái tên Tấm. Chắc là muốn chị có hậu vận sung sướng như cô Tấm trong cổ tích?
                                Tấm sớm phổng phao, nên khi học hết cấp hai, chừng mười lăm tuổi, đã là cô gái xinh xắn. May thay, thu hết các nét đẹp của cha mẹ, Tấm  có vóc người dong dỏng, da trắng môi đỏ, tóc dài óng, và khuôn mặt có nét Tây, mắt to, xống mũi cao, miệng hơi rộng và hàm răng trắng đều đặn, khác hẳn với đám con gái quê. Thế nên, người làng bảo Tấm như con lai Tây. Đang độ tuổi phơi phới thì mẹ mất sau một thời gian lâm bệnh chữa trị không qua khỏi. Tấm không học lên nữa, ở nhà giúp cha nuôi em. Những năm đất nước chiến tranh, con gái quê, học thế cũng là đủ. Trời phú cho Tấm giọng hát hay, thuộc và hát theo được hầu hết các làn điệu chèo nghe được từ đài phát thanh trong các chương trình dân ca nhạc cổ. hay học lỏm khi xem chèo. Có năng khiếu vậy nên ở xã gọi tham gia vào đội văn nghệ, cũng biểu diễn thi thố này nọ. Xinh xắn và có năng khiếu văn nghệ như vậy, nhưng ở làng chẳng đám trai nào đánh tiếng, ngoài sự trêu chọc tán tỉnh của mấy tay cán bộ xã và đám đàn ông đã có vợ, trong khi đám con gái mới lớn bình thường khác lại đắt như tôm tươi. Hình như người ta ngại cái vẻ đẹp khác người của Tấm. Tấm cũng chẳng cần, bởi thâm tâm cô vẫn chờ đợi cơ hội để theo nghề văn công chuyên nghiệp. Và cô hội ấy đã đến, khi đoàn chèo tỉnh nhà về địa phương tìm tuyển người. Vẻ đẹp hình thể và khả năng ca hát trời phú nên Tấm trúng tuyển ngay. Những tưởng may mắn thì cha cô đột ngột qua đời vì một cơn bạo bệnh ngay sau khi cô nhận được giấy gọi nhập đoàn chèo tỉnh. Thật tình, Tấm không đang tâm tìm cơ hội phát triển tài năng nghệ thuật cho mình mà để lại đứa em trai chưa đến mười tuổi ở nhà một mình. Tấm đã mấy đêm mất ngủ, nước mắt vắn dài, đắn đo để đi đến quyết định không vào đoàn chèo tỉnh mà ở nhà làm ruộng nuôi em.  
                                Cho đến giờ, chị cũng chẳng rõ quyết định ngày ấy của mình là đúng sai thế nào. Chỉ biết, chị không cảm thấy hối tiếc hay ân hận gì, thi thoảng lúc lòng dạ yếu mềm càm thấy chạnh lòng. Theo chồng về quê, một vùng đất viễn biên Tây Nam bộ, người ta thuần cải lương, vọng cổ, vui cũng ca mà buồn cũng ca, chị ngỡ quên hết những làn điệu chèo mà trước đây chị thuộc nằm lòng. Vậy chứ, thi thoảng, những lúc ở nhà một mình, chạnh buồn nhớ quê ngoài Bắc, chị cất lời hát đôi làn điệu Đường trường thu không, Đường trường trong rừng man mác, đủ buồn. Trong đầu chị vẫn âm u làn điệu Sử rầuLần thảm, nhưng nó bi ai quá, chị không dám hát vì sợ vận vào thân. Có lần, lâu lắm rồi, ấy là sau lễ Thất tuần bố chị, cám cảnh thân phận mình, phải ở nhà nuôi em, từ bỏ ước vào văn công để trở thành nghệ sĩ hát chèo, chị đã hát Sử rầu. Là hát cho sự chua xót nỗi lòng, thân phận. Và kể từ đấy, thôi hẳn. Cũng có khi, nhà có nhậu, anh Sáu, chồng chị ngà ngà say, khoe với bạn nhậu bảo chị hát chèo, chị giữ thể diện cho chồng, cất lời điệu Lới lơ vui tươi gây không khí. Lời hát thì vui, nhưng ngừng lời, lòng người hát lại buồn, nhớ quê da diết. Cả tuổi thanh xuân, lớn lên ở một làng quê Bắc bộ, cách sông Cái không xa, chị thân thuộc với mái nhà tường đất mái rạ, với con đường làng quanh co lát gạch nghiêng long lở, với những hàng rào râm bụt hoa đỏ, mây gai, hoặc ô rô, hay cúc tần có dây tơ hồng quấn quýt. Vùng quê chị, ngoài lúa còn có đay và đất bãi trồng ngô, Vào đây, cảnh sắc đồng ruộng khác hẳn, chỉ có lúa, tràm và cỏ dại. Một năm chỉ có hai mùa, mùa mưa thì hầu như ngày nào cũng mưa, nước sông Hậu tràn về mênh mông, chỉ có những ngọn núi vùng biên ải này là nhô lên và các chòm ấp cùng những hàng thốt nốt phất phơ trên biển nước trắng xóa một màu... Còn mùa khô thì cơ khổ, nóng và bụi, ba bốn tháng trời không một giọt mưa. Nắng chang chang từ mờ sáng đến mờ tối. Khói đốt đồng lên mờ mịt cả bầu trời. Lại thêm những làn bụi đường cuộn lên mỗi khi có xe chạy, khiến người đi đường và nhà cửa cặp mé lộ ngập chìm trong làn bụi đất. Cái kiểu thời tiết đặc trưng vùng miền này chị mãi không quen...
                                Vùng đất Thất Sơn, đồng bằng lầy thụt xen lẫn núi này thật chẳng đâu có trong cả xứ miền Tây này. Anh Sáu, chồng chị bảo, cả vùng có tới hơn ba chục ngọn núi có tên gọi, nhưng người ta chỉ chọn bảy ngọn núi làm biểu tượng chính ấy là các núi Cấm, Tượng, Dài, Tô, Sam, Két, Tà Biệt. Cũng nhiều người kể tên khác, nhưng với chị thì như nhau cả thôi. Nhà chị ở cách chân núi Nam Vi không xa, nên chị hay lên núi này kiếm củi, tìm cây thuốc và dọn chút rẫy trồng khoai mì. Quê anh Sáu gần chân núi Dài, mỗi khi rảnh rỗi anh hay cùng đám bạn và người bà con lên núi đốt than và đi săn thú rừng.
                                Yên ổn gia đình sau chiến tranh biên giới Tây Nam, anh Sáu cậy nhờ xin cho chị vào làm người nấu ăn bếp tập thể liên cơ quan huyện gồm nông, lâm, thủy lợi, cơ giới. Khu liên cơ đóng trong một khu vườn rộng hàng chục công đất, dày xanhg cây cối, những xoài, dừa, mãng cầu, vú sữa. Đây là một khu tịnh xá cũ vô chủ được trưng dụng do người chủ cũ bỏ lại chay ra nước ngoài dịp giải phóng niềm Nam năm 1975. Cả thấy vài chục người ăn tập thể, mình chị xoay xở cũng vất, phụ cấp thấp nhưng có việc làm và thu nhập là vui rồi. Có điều tiền ăn ít nên việc đổi món thật khó bề. Cứ ngày ngày, mớ cá rô, chia ra, nửa đem kho tiêu, nửa nấu canh chua me rau súng. Ăn mãi cũng chán. Mùa nước nổi về thì đỡ hơn. Chị lọ mọ lội nước cánh đồng trũng ngay sau cơ quan nhặt được ít cua đồng và vài bó rau muống đồng, về nấu riêu cua và rau muống xào tỏi, ăn lạ miệng, ngon đáo để.
                                Chị vui hơn khi bếp ăn cơ quan đông thêm khi có người bổ sung. Ấy là mấy cán bộ kỹ thuật, trong đó có một chàng kỹ sư nông học mới tốt nghiệp ra trường được điều từ ngoài Bắc vào. Bảo, chàng ký sư trẻ này lại là đồng hương hàng tỉnh với chị. Vậy là hai chị em nhanh chóng thân nhau. Chị coi Bảo như cậu em trong nhà, quý như cậu Vinh, em ruột chị vậy. Bảo dáng dấp thư sinh, kiểu người ít lao động chân tay, là con trai duy nhất và út trong nhà, bên trên có mấy chị đỡ hết việc nặng nhọc cho, nên cậu ta chỉ biết đôi việc lặt vặt như chăn trâu, tát nước. Tiếp xúc gần, chị thấy cậu chàng hiểu biết, thông minh và ăn nói cũng khá. Ngày chủ nhật, hễ nhà có món nhậu là anh Sáu chồng chị lại sai con đi mời cậu Bảo đến nhậu cho vui. Bảo khéo tay, hằng tháng, cậu chàng đến nhà chị hớt tóc cho mấy cha con anh Sáu. Những ngày đầu, Bảo háo hức, còn đòi theo chị lên núi hái cây thuốc và kiếm củi về đun.
                                Mùa đốt đồng, nhằm chủ nhật, chỉ rủ Bảo đi đốt rơm rạ trên mấy công đất trồng lúa của gia đình. Hai chị em kẽo kẹt đèo nhau bằng xe đạp xa gần chục cây số. Rồi lại băng ruộng mệt nhoài mới tới nơi. Hai chị em ôm rơm rạ chất thành đống, Chị quen việc không sao, chứ Bảo sức vóc thư sinh, làm một lúc đã mồ hôi nhễ nhại. Châm lửa đốt, khói lên nghi ngút về trời. Hai chị em ngồi nghỉ uống nước, ăn bắp luộc. Nhắc chuyện quê ngoài Bắc, Bảo nói nhớ nhà, nhớ mẹ. Chị cũng thấy nhớ, cất lời hát điệu Đường trường thu không. Lâu không hát, giọng không nhuần nhưng vẫn đúng giai điệu. Man mác buồn. Làn điệu chèo giữa đồng quê Tây Nam Bộ nghe có gì đó là lạ. Chị dứt lời, hỏi Bảo bớt nhớ nhà chưa, thì cậu chàng chỉ cười nhẹ, rồi đọc nho nhỏ mấy câu thơ. Chị nghe câu được câu mất, cũng là nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người yêu chi đó... Để ý, thấy cậu chàng rụi tay đầy nước mắt. Chị đùa là khóc nhè nhớ người yêu, thì cậu chàng chối, bảo khói đồng vào cay mắt thôi. Mùa đốt đồng, khói gọi khói, các đồng rấm rải trác khắp đồng nghi ngút như mây, cuộn lơ lửng trong nắng quái hoàng hôn đỏ bầm, ma mị, ám ảnh. Lúc về, thấy cậu chàng mệt, chị nhận phần đạp xe. Bảo ngồi sau có vè ngượng vì để đàn bà đèo, nhưng do mệt quá, tựa đầu vào lưng chị, thiu thiu ngủ thì phải. Bàn tay cậu chàng bám nhẹ vào eo bụng chị, vô tình tạo cảm giác lâng lâng, chị đạp mải miết mà không thấy mệt...
                                Thấm thoắt vài năm qua qua nhanh. Bếp tập thể liên cơ quan giải tán. Chị mất việc làm, ở nhà trông giữ con, nuôi thêm bày gà và mấy con heo thịt làm vui. Không còn bếp ăn tập thể, Chi lo cho Bảo ăn uống thất thường, nhưng cũng may, cậu ta quen thung quen thổ, có chỗ thân quen đi lại và cũng thêm bạn bè nhậu nhẹt. Chị vẫn giữ lệ, hễ nhà có mồi nhậu ngon ngon chút là sai con đi mời cậu Bảo đến nâng ly làm vui. Cậu Vinh, em trai chị về quê ngoài Bắc khi trở vào đưa theo một người con gái họ bên mẹ chị. Những tưởng vào chơi thăm thú tính kế làm ăn, nào ngờ cô nàng ở tịt nhà chị, rồi hai anh ả lằng ngoằng với nhau có thai. Chị cản không được, hai đứa lấy nhau và xin ở riêng. Chị giận em trai mà cũng thương cho cái thân mình, nuôi em lớn nhưng bảo em không được, để ra nông nỗi này. Nghĩ mà buồn, thấy uổng phí cái công mình đã hy sinh cả thanh xuân, tài năng bỏ đoàn chèo ở nhà làm lụng muôi em trai mà giờ nó đổ đón ra thế. Hai nhà cách nhau có một quãng thôi, nhưng ít qua lại, vì cô em dâu bất đắc dĩ kia e ngại, tránh mặt chị. Tình thương em trai, chị chuyển sang cho Bảo. Chị chịu khó nấu nướng các món ăn kiểu Bắc mời Bảo đến ăn...
                                Mùa nước nổi về, thật thích. Cả  cánh đồng mênh mông dưới chân núi Dài trắng băng một màu nước, ngút ngàn đến tận mạn kinh Vĩnh Tế. Người ta chị còn nhận biết đâu là lộ bởi những làn khói bụi đường, khói xăng xe bay lên, và đó đây hàng cây thốt nốt và dừa để phân định bờ đất.  Con đường dài mấy chục cây số từ thị xã Châu Đốc đi Tịnh Biên, Tri Tôn mảnh như một sợi chỉ, những hòn núi to như Cấm Sơn, Nam Vi và những quả núi nhỏ khác nổi lổn nhổn trên đồng nước chẳng khác gì đám dừa điếc khô rụng rơi nổi lềnh bềnh. Xa xa, bờ kinh Tám Ngàn ngày đêm rộn ràng tiếng ghe xuồng, tắc-ráng phành phạch. Nước lên to, cùng với tôm cá theo về là cua và chuột đồng. Chị và hai thằng cu con đầu, má con rủ nhau đi nhặt cua và bẫy lưới bắt chuột đồng. Cua thì con nào con nấy to cộ bò lổm ngổm cắt ngọn lúa, còn chuột đồng thì từng đàn bám đuôi nhau bơi thành dây, đớp đọt cỏ non trên mặt nước rồi leo lên thân dừa, thân cây thốt nốt, thân tràm trú ngụ khi no bụng. Thế nên, người miền Tây mới gọi chuột đồng tránh đi là sóc tràm cho bớt ghê... Chị tha hồ trổ tài bếp núc làm các món ngon như chuột đồng quay, chuột bỏ lu, cua đồng rang xả ớt, cua đồng muối nặm, hay nấu riêu chua me, hay nấu rau đay rau dền cơm... Anh Sáu, cậu Bảo có mồi ngon nhậu, còn đám trẻ con thì thức ăn đãy bụng.  Cả nhà tuần nào cùng vài ba bữa tưng bừng.
                                Một lần, Bảo nghỉ phép ra Bắc cả tháng, trở vào, dáng vẻ buồn buồn ít nói. Chị làm đồ nhậu, để anh Sáu và Bảo cụng ly mừng gặp lại sau chuyến đi phép của Bảo. Bữa nhậu, chị hỏi han luôn miệng, nhưng Bảo chỉ trả lời cầm chừng, mặt mũi vẫn không vui lên chút nào. Đoán có chuyện, nhưng chị không nài hỏi thêm. Thời gian sau, Bảo lăn ra sốt. Sốt rét. Vùng này nổi tiếng là vùng sốt rét. Những ai từ vùng khác đến đây sinh sống, dù có giữ gìn mấy thì không trước thì sau cũng nhiễm sốt rét. Chị và mấy người quen lo thuốc thang, cơm cháo cho Bảo. May mà cũng nhẹ nên nhanh qua khỏi. Nhưng sau trận sốt, Bảo gày và xanh xao, cử chỉ chậm chạp, tính tình mềm yếu hẳn đi. Chị thương Bảo nhiều, nhưng cũng chẳng thể giúp gì hơn. Chị luấn quấn với đám con đã mệt nhoài ra rồi, nay lại mới mang bầu đứa nữa, chẳng biết sẽ xoay xở ra sao đây. Mỗi chủ nhật, không phải đi làm, Bảo hay ra nhà chị, có việc vặt gì thì làm giúp. Chị cũng lấy đó làm vui.
                                Mùa hè năm ấy, hai thằng cu lớn được nghỉ hè. Anh Sáu hứa cho chúng theo lên rãy làm khoan mì và dạy cách làm than củi. Bữa cơm trước khi lên rẫy, có mấy ký thịt nhím rừng do một người quen bẫy được gửi cho, chị trổ tài làm món xào lăn xả ớt và món cà ri ăn với bún. Anh Sáu và Bảo cụng lý liên tục. Chị ăn qua loa rồi ra xếp đồ đạc cho mấy cha con ở rãy cả tuần. Buổi chiều, anh Sáu đánh xe bò chở đầy nhóc đồ đạc lên rãy. Hai thằng cu con mừng vui gõ vung nồi hát váng lên. Chị dọn dẹp nhà cửa. Bảo quá chén, nằm bệt ở bộ ngựa gian ngoài ngủ ly bì. Chốc chốc cậu chàng lại ngóc đầu dậy thổ ra chiếc chậu chị đặt sẵn bến dưới. Rõ khổ, bữa nay quá chén, lại cảm gió chi đây nên mới như vậy. Chị lấy nước cho Bảo uống, rồi bắt cậu chàng nằm sấp để chị giác gió khắp lưng. Nghe chừng cũng đỡ nhiều, nên Bảo ngủ thiếp đi.
                                Trời sẩm tối. Chị bắc nồi cháo lên bếp để lát cho Bảo ăn giã rượu. Tắm táp cho đứa bé và lấy cơm cho ăn, rồi chị đi tắm. Cái buồng tắm đơn sơ phía sau buồng trong và bếp, được quây bằng lá dừa khô, cũng chỉ để cho đàn bà con gái dùng thôi, chứ đàn ông thì khỏi cần. Là cách nhớ thế thôi, chứ lúc tối trời, chị ngồi cạnh lu, cởi bỏ áo múc nước dội lên người loáng chút là xong, lâu thành quen thế rồi. Dân miệt này các nhà đều vậy cả. Vừa dội nước, nhìn mảnh trăng non nhô đầu núi, tự nhiên vui miệng, chị nhớ đến một điệu chèo và cất tiếng khe khẽ hát. Bỗng cảm giác có gì là lạ, bèn ngoái nhìn, chị giật mình vì thấy Bảo đang đứng ở cửa bếp gần sau lưng chị lặng nhìn. Chị khẽ kêu ối. Bảo ấp úng: “Đang mơ ngủ, nghe như ai hát... Thì ra là... Chị hát chèo hay quá...”. Chị lúng túng, quờ tay lấy cái áo vắt nhanh lên bờ vai che ngực: “Ồ, cậu Bảo...  đã tỉnh rượu rồi ha? ... Chị xong rồi đây. Cậu vừa xỉn dậy, chớ có tắm mà cảm đó nghen...Lau người qua cho mát thôi,... để chị lấy cháo cho cậu ăn. Cháo ngon lắm...”.  Chị cũng cảm nhận giọng nói không bình thường của mình. Bảo vẫn đứng nguyên đấy, nhưng ý tứ nhìn nghiêng ra mé lộ: “Em vẫn mệt lắm... Bụng còn  nôn nao. Chỉ thấy khát nước thôi...”. Nói rồi Bảo trở lui, đi ra buồng ngoài. Chị vội vàng thay quần áo, luýnh quýnh thế nào, xỏ nhầm cả ống quần...
                                Chị dọn mâm. Mâm cơm chỉ có hai người. Chị ăn những thức ăn cũ còn lại từ bữa trưa. Bảo ăn cháo, món cháo thơm ngon mùi gạo mới, có thịt nhím băm nhỏ, bỏ hành răm cho giải cảm. Bảo ăn uể oải, cố ăn hết tô cháo để chiều lòng chị. Bữa ăn kéo dài, vừa ăn vừa chuyện. Lúc này, chị mới lựa lời hỏi chuyện Bảo chuyến ra Bắc vừa qua. Bảo nói mẹ câu năm nay yếu nhiều, nên đang tính gắng ở lại đây một thời gian rồi ra Bắc xin việc. Chị chỉ biết nói lời động viên, nhưng thực lòng, nếu Bảo ra hắn ngoài Bắc, chị sẽ rất buồn, cảm như mình mất đi chỗ dựa tinh thần. Bảo định xin phép về khu liên cơ thì chị gàn, bảo ở lại đây ngủ, bởi sợ người còn yếu, sợ đêm hôm ngoài trời gió máy, ngộ nhỡ làm sao thì khổ. Không hiểu sao, chị muốn Bảo ngủ lại. Rồi chị xếp mềm gối bộ ngựa gian ngoài dọn chỗ ngủ cho Bảo. Cậu chàng chỉ còn biết nghe theo. Còn chị và đứa nhỏ ngủ buồng trong...
                                Chị và Bảo lội bì bõm bắt cua trên đồng ngập nước mênh mông. Thảm lúa hè thu bị lướt đi bởi nước ngập tận ngọn. Cỏ năn nác mọc chen lẫn. Những con cua càng to kềnh càng chẳng sợ người, lổm ngổm trên ngọn co giơ càng nghiến cắt ngang ngọn lúa, thấy động thì lấc láo cặp mắt lồi thô lố ra nhìn và giương càng lên phong thù chứ không them bò chạy. Chị lựa chiều tay tránh càng. chộp ném vào chiếc thùng tôn. Bảo vụng về hơn nên thỉnh thoảng bị cua cắp tay đau kêu oai oái. Đang mùa mưa lũ, mây đen kéo lên rất nhanh rồi mưa xuống như trút. Chị em hò nhau chạy mưa lên bờ kinh, tìm chỗ trú mưa. Chạy vội, chị vấp chân trong bùn ngã rúi rụi xuống ruộng nước. Bảo vội chồm tới đỡ chị lên. Mưa ngập ướt, quần áo bết vào người, Bảo giúp chị gột bùn đất, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tay Bảo quờ quạng đụng vào bầu ngực căng mẩy của chị...  ”Ấy đừng... đừng...”, chị buột miệng và bừng tỉnh. Thì ra chị vưa thiếp đi, mê ngủ vậy thôi. Đang ngẩn ngơ hư thực, trong ánh sáng mù mờ của ngọn đèn hãm nhỏ treo trên bếp, chị nhột người nhận ra Bảo đang ngồi ghé mép giường ngủ, Chị nhắm mắt vờ ngủ thì Bảo khẽ cúi người xuống, chạm nhẹ môi vào trán chị, rồi lướt khẽ chạm vào đầu mũi và dừng ở môi chị. Chị mơ màng êm ái tận hưởng sự đụng chạm. Rồi nữa, đôi bàn tay Bảo đặt vào hai bầu ngục chị đang căng mẩy lên. Và một bàn tay rời bầu vú trướt nhẹ xuống dưới thân, lập tức chị hiểu cái đích đến của bàn tay ấy nhưng khi nó lướt đến cái bụng bầu thai mấy tháng lùm lùm thì dựng lại... Bảo rút tay lên e dè... “Đừng...đừng...”. Chị khẽ đảy tay bảo, ngồi dậy. Phía trong giường, đứa bé vẫn ngủ say... Bảo lắp bắp: “Nước...khát nước”... Chị chỉ chỗ, Bảo chui ra khỏi mùng, rót nước ra cốc, uống ừng ực, thở hổn hển, tần ngần rồi trở ra buồng ngoài. Chị không tài nào ngủ lại được nữa, nghe tiếng Bảo lát lát trở mình, thở dài... Vắt tay ngang mày, suy nghĩ đắn đo một hồi, chị nhỏm dậy, nhìn đứa bé con vẫn say ngủ, nén thở, ra khỏi màn. Chị thổi tắt ngọn đèn dầu hãm nhỏ ở bếp, rồi nhẹ chân ra buồng ngoài. Ánh sáng sao đêm hắt qua cửa sổ sáng mờ. Chị rón rén đến ghé ngồi bên mép bộ ngựa nơi Bảo ngủ. Chị nghe rõ tiếng thở và nhịp tim mình đập mạnh. Như hồi chị con gái mới lớn lén ghé bên hàng rào nhìn trộm chàng trai trẻ hàng xóm sắp vào quân ngũ. Chị lưỡng lự, rồi đặt bàn tay khẽ vuốt mái tóc Bảo. Cậu chàng nằm co như con tôm, quay mặt vào trong, im thít như ngủ. Vuốt tóc Bảo một lát, chị mạnh bạo co chân vào trong mùng, xoay mình nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh, choàng tay ôm Bảo vào lòng. Nghe tiếng thở, chị biết Bảo thức nhưng nằm im không phải ứng. Tay chị vòng ôm bụng Bảo vừa khẽ kéo vào lòng vừa nhích mình để hai thân thể vừa khít cánh cung. Chị cảm nhận bầu ngực mình khẽ tì vào lưng Bảo. Im lặng . Chị đưa tay chạm khuôn mặt Bảo thì thấy ươn rướt. Vai Bảo khẽ rung và chị biết Bảo khóc. Chị lặng lẽ cởi cúc áo để bộ ngực trần chà nhẹ. Bảo nấc nhẹ, nhệu nhạo “Cô ấy không chờ đợi được nữa... bỏ... nhận lời với người khác rồi...”.  Chị không kìm mình được nữa, đột ngột xoay người Bảo và cậu nương theo ấp cả khuôn mặt mình vào bầu ngực chị. Bảo rụi rụi mặt, nức nở thành tiếng. Chị ghì đầu bảo vào bộ ngực trần của mình, cảm nhận nước mắt Bảo ướt dẫm hai bầu vú, vỗ về: “Thôi nào... Khổ thân... Tội nghiệp quá... Không sao đâu....”. Bảo cứ lắp bắp, chẳng rõ nói gì. Rồi đôi môi Bảo ngập ngừng chạm vào đầu vú chị đang mẩy căng của người đàn bà mang bầu, bên này rồi bên kia, như một kẻ tham lam, háu đói, lâu ngày... Tay Bảo lần sờ xuống thân dưới chị, bắp đùi, bẹn, lướt nhẹ qua vùng kín và dừng lại ở vòm bụng lùm lùm. Chị ý thức, đưa tay mình ấp lên bàn tay Bảo ở vòm bụng, giữ không cho bàn tay ấy di chuyển nữa. Bảo không dám nhúc nhích, nhưng người như căng lên như cánh cung đang kéo chờ buông dây... Chị nén mình thở trút ra thật nhẹ kiểu đánh úp, một tay chị vẫn giữ bàn tay cậu trên bụng mình, tay kia chị rờ nhẹ lướt từ bụng xuống dưới chạm chỗ phồng căng, dừng lại... Chị nhắm nghiền mắt, sợ mở mắt ra thì tỉnh cơn mê mà ý thức... Trong mê loạn, vô thức, bày tay chị làm trò ảo thuật, Bảo ngậm cả bầu vú chị đầy miệng, bên này, nhả, bên kia, lập bập, mê mẩn... Cả hai mê sảng, tê dại, lịm đi...
                                Chị bừng tỉnh, ý thức. Bảo vẫn ngậm bầu vú ngủ lịm. Hai bàn tay trên vòm bụng vẫn ấp vào nhau, chị khẽ rút bàn tay kia dính dấp và cảm nhận mình ướt át. Lặng im, chị khẽ thở dài, nhích người rút bầu vú ra, ngồi dậy, cài khuy áo, nhẹ ra khỏi mùng. Hình như trời đã dần về sáng. Trở vào buồng trong, không dám thắp lại đèn, vì không muốn cơn mộng mị tan mất, lần mò bóng tối rút then, mở cửa sau, ra lu nước, rửa qua mình mẩy. Trở về giường, ghé nằm xuống cạnh con, chị vẫn lâng lâng. Tự hỏi lòng mình, tình cảm với Bảo như thế nào, rồi nhủ lòng, đương nhiên như cậu em quý mến rồi. Gì nữa? Chắc có chút tình cảm ngoài tình chị em, bởi không sẽ chẳng thể có chuyện này?... Thực ra, cả thời thanh xuân, xinh đẹp, chị đã từng yêu ai đâu, ngoài bóng dáng anh chàng hàng xóm có họ xa, điển trai, vừa kịp lớn đã vào lính rồi hy sinh. Với chồng chị, anh Sáu, ấy là sự cảm thông, tình thương dành cho một người đàn ông lớn tuổi, xa quê phải sống độc thân nơi đất Bắc, là sự đền bù cá nhân nhưng lại mang cái danh chung dành cho miền Nam còn trong cảnh chia cắt, là nghĩa vợ chống chung con chung của. Mang tiếng là ngấn ấy mặt con, ăn ở với nhau hơn chục năm trời, đêm đêm đầu gối tay ấp, nhưng chị luôn là người thụ động, nhiều khi là cam chịu. Đã bao giờ chị chủ động và quyết liệt trong bày tỏ tình cảm của minh đâu. Chị có băn khoăn, dẫu sao chị là gái có chồng, gần sắp bốn đứa con, nhưng chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi mà, vẫn còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm .. Chẳng hiểu Bảo có ý thức tình cảm của chị không, hay là cậu ta chỉ nghĩ về cô người yêu cũ và coi chị như một kẻ thay thế chốc lát lúc cô đơn? Thôi kệ, nghĩ nhiều mà làm gì, chị tin vào sự thành thật của mình và sự đón nhận nồng nhiệt của Bảo, xem như một sự an ủi với cả hai. Chị thiếp đi...
                                Cả nửa tháng sau đó, Bảo không qua nhà chị. Còn chị chút lăn tăn nhưng bận rộn quên đi. Anh Sáu và hai đứa lớn từ rãy trở về nhà. Nhịp sống thường ngày hối hả. Rồi không nén được, chị đi chợ thị trấn và tiện thể ghé qua căn phòng tập thể của Bảo ở khu liên cơ. Bảo có nhà, đang ôm ghi ta tập một bài gì đó. Chị chủ động: “Lâu lâu không thấy cậu ghé nhà, chị đi chợ, vào thăm sợ cậu đau yếu chi ?...” . Bảo cười gượng: “À không... em bận vừa đi xã mấy hôm mới về, chị...”. Chị em đôi câu chuyện không đầu cuối, chị để lại bịch vài chục trứng: “Cậu nhớ ăn, kẻo một mình ngại nấu, ăn qua loa là không đủ sức khỏe đâu... Cậu nhớ vừa  qua sốt rét đấy nha...”. Chị ra về, Bảo tiễn chị một đoạn đến cổng cơ quan, lúng búng: “Chị Tấm... em thật có lỗi...”. Chị nhìn Bảo, cười buồn: “Bữa nào rảnh qua nhà... lỗi chi đâu... là ở chị... Để chị bảo anh Sáu kiếm chút mồi, cậu qua nhậu cho vui... Anh Sáu lâu không thấy cậu, nhắc hoài đó... Đâu như anh có cái dạ dày nhím rừng mang ngâm rượu, nói là xớt cho cậu một phần dành để chữa bệnh đâu bao tử... Quý lắm đó... Nhớ qua chi nghe...”. Bảo gật đầu...
                                Ít ngày sau, Bảo nói nhận thư nhà, rồi cậu chàng làm đơn xin nghỉ không lương ra Bắc chăm mẹ bệnh nặng. Chừng mấy tháng sau, Bảo trở vào, làm thủ tục chuyển công tác ra Bắc hẳn. Cậu chàng bận rộn thủ tục giấy tờ, chào hỏi, chia tay người quen bạn bè, nhậu liên miên cả tuần. Trước hôm đi, Bảo mới dành ăn bữa cơm chia tay với gia đình chị. Bữa cơm bùi ngùi, người đi kẻ ở. Chuyện đêm ấy, chị không nghĩ là mình dâng hiến, đơn thuần, có thể, đấy là lần cuối cùng ngọn lửa tình dục trong chị bùng cháy, để rồi dần tàn lụi. Bảo ít nói, trong khi anh Sáu liên thuyên đủ chuyện, say líu cả lưỡi. Chị phải gàn anh chớ ép rượu Bảo để cậu tỉnh táo sớm mai đi xe về Sài Gòn. Ánh mắt chị và Bảo thỉnh thoảng gặp nhau, soi rọi nỗi niềm riêng. Đêm ấy, anh Sáu tỉnh rượu, cứ vần vò này nọ, thây kệ cái bùng chềnh ềnh sắp sinh của chị...
                                Bảo ra Bắc ít ngày thì chị sinh bé Út Hường. Vậy mà, cho đến khi, Út Hường học xong, đang lo xin việc làm thì Bảo trở lại mảnh đất này. Bảo đã là người đứng tuổi, chững chạc, và là người thành đạt, có con lớn đang học đại học rồi. Hơn hai mươi năm qua, chị không gặp lại, dù thi thoảng vẫn nghe được tin tức này nọ. Bảo già đi nhưng vóc dáng vẫn kiểu thư sinh xưa. Còn chị đã thành bà lão rồi. Gánh nặng gia đình đông con, chồng quanh năm say xỉn khiến khuôn mặt xinh đẹp nét Tây xưa đầy nếp nhăn, và đầu tóc rụng thưa vãn, thân hình dỏng cao thành gù xuống. Hai chị em khi thì tranh nói, lúc lại lặng thinh. Ngần ấy năm xa cách, chị rất sợ vầy mà đã vài lần phải hát điệu Sử rầu. Chị phải tiễn biệt anh Sáu và hai kẻ đầu xanh, đứa do tai nạn, đứa thì bệnh tật. Chị đứng vững trên cõi đời này đã là khó nhọc lắm rồi. Nhưng nay chị có chút niềm vui, vì sau lần trở về thăm chốn cũ, Bảo nhận lo việc làm cho Út Hường, và nhờ đấy, bé lập gia đình, làm chỗ dựa cho chị. Chị theo vợ chồng Út Hường lên thành phố giữ cháu. Ở thành phố, đông vui là thế, nhưng chiều chiều, chị lại bồng cháu ra ngõ, nhẩn nha hát ru, ngóng về miền Tây mà nhớ quay nhớ quắt ruộng đồng mênh mông, kinh rạch và bóng núi Dài, núi Cấm...
                                Thấm thoắt, giờ thì cô Tấm xinh đẹp hát chèo hay nhất làng ngày xưa đã là một bà lão gần bảy mươi lưng còng xuống, sống ở căn nhà nhỏ trên nền đất cũ gần ngã ba lộ. Mùa đốt đồng, mỗi chiều bà lão hay kê ghế ngồi trước sân nhà hóng mặt về phía đồng xa, nơi những cuộn khói đốt đồng đùn lên quấn quện thành những dải mây. Mắt bà rớm nước, chắc không phải do khói đốt đồng cay mắt... ./.
                      #71
                        tamvanvov 29.07.2021 19:11:15 (permalink)
                         
                        Phùng Quán,
                        người đi trọn đời mình trên con đường sự thật !...
                         
                         
                                  Vài ba năm nay có mấy sự kiện trong thế giới sách ở Việt Nam. Sách dịch thì có mấy cuốn thuộc diện best seller là Rừng Na-uy, Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển ( Murakami ), Cô đơn trên mạng (Wisnewski) , Tô-tem Sói (Khương Nhung ), Kitchen ( Banana Yoshimoto ), Mật mã Da Vinci, Thiên thần và ác quỷ ( Dan Brow )... Sách trong nước thì phải nói, ồn ã nhất là cuốn tự truyện Lê Vân yêu và sống, rồi đó là cuốn tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. Gần đây thì đồng thời là tiểu thuyết Ba người khác của Tô Hoài, hồi ký văn học Ba phút sự thật của Phùng Quán v.v...
                                  Đọc Ba phút sự thật của Phùng Quán, tôi thực sự ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng bởi những thông tin, câu chuyện, những chân dung con người, trong đó có mấy người rất nổi tiếng, mà tôi vốn chỉ biết lờ mờ, như Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Tuân Nguyễn... Ngỡ ngàng bởi văn viết giản dị, chân tình, sâu sắc, cuốn hút và cũng rất chi là trách nhiệm. Điều quan trọng, là qua tác phẩm này, tôi có hình dung đầy đủ hơn về một Phùng Quán, đến mức dù chỉ thấy ông có một lần, nhưng giờ thì tôi có thể phác thảo một chân dung ông, chí ít là theo sự mường tượng và cách nghĩ của riêng tôi.
                                  Vâng. Tôi đã diện kiến Phùng Quán một lần. Đúng một lần thôi, song khá ấn tượng, bởi trong một hoàn cảnh rất chi là ấn tượng.
                                  Tôi sẽ trở lại sự diện kiến Phùng Quán sau, để nói về những gì mình biết về ông qua dư luận. Rằng ông vốn là cháu bên ngoại với nhà thơ Tố Hữu, trước khi bước vào làng văn chương, từng tham gia vệ quốc đoàn từ lúc còn nhỏ tuổi, tưng chiến đấu nhiều năm ở mặt trận Thừa Thiên Huế quê hương mình. Tác phẩm khiến độc giả biết đến Phùng Quán là tiểu thuyết Vượt Côn Đảo, được xuất bản khá sớm và còn được giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam, nghe đâu còn được xuất bản bằng tiếng Nga, rồi ai đó lại dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt để in ở Việt Nam. Rồi sau đó ông bị dính vào án văn chương mà mất tên trên diễn đàn văn học nước nhà. Lại nghe tiếp rằng ông chuyên sống bằng nghề câu cá Hồ Tây và vẫn viết văn, đăng báo, in sách dưới bút danh và cả tên người khác, những người thương ông muốn giúp ông không dứt đoạn mạch văn chương và quan trọng hơn cả là ông có một khoản thu nhập để sinh sống cùng giúp giập thêm gia đình. Vì thế mới có cái đuôi gắn vào thành Phùng Quán- cá trộm văn chui . Mới nghe thế thôi cũng đã ly kỳ rồi.
                                  Tôi diện kiến Phùng Quán trong không khí đổi mới về văn nghệ, không nhớ chính xác là vào năm 1989 hay 1990. Trước đó, hàng loạt văn nghệ sỹ thuộc diện có vấn đề trước đây, người trước kẻ sau xuất hiện trở lại với các sáng tác đăng rải rác trên báo, hoặc xuất bản cái mới, tái bản cái cũ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hà Minh Tuân, Văn Linh, Vũ Bão ... Riêng Phùng Quán tái xuất giang hồ văn chương với bộ tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội, và đã thành công vang dội. Sự thành công của bộ tiểu thuyết cùng người cha tinh thần của nó đã vượt ra khỏi địa hạt văn chương tràn sang cả điện ảnh khi nó được chuyển thành phim truyện. Bộ phim cùng tên do đạo diễn Vinh Sơn dựng.
                                  Lần ấy, nhà thơ Trần Phương Trà ( Trần Nguyên Vấn ) rủ tôi và một vài đàn em báo chí đến dự buổi chiếu phim ra mắt bộ phim Tuổi thơ dữ dội do Hội đồng hương Huế tại Hà Nội tổ chức ở Hội trường Bộ Tài chính vào ngày chủ nhật. Tôi nhớ, người đến dự khá đông, phần lớn là những ngưòi lớn tuổi nói giọng Thừa Thiên Huế, số ít là thân nhân gia đình họ và bạn bè kéo theo xem ké vì hiếu kỳ, giống như chúng tôi. Trước buổi chiếu, ban tổ chức có đôi lời phi lộ, rồi mời Phùng Quán lên bày tỏ tình cảm và cảm ơn. Phùng Quán lên, chưa kịp nói gì mọi người đã vỗ tay hoan nghênh, không khí khá náo nhiệt. Hình như, sau nhiều năm sống lặng lẽ trong lãng quên của độc giả, bầu không khí náo nhiệt ấy và tấm thịnh tình của mọi người, ông lặng đi. Hắng giọng mấy lần rồi ông cũng lên tiếng, giọng hơi run vì quá xúc động. Ông nói chậm rãi, đưa mắt quan sát khắp hội trường, như vừa nghe ngóng xem người ta đón nhận những lời phi lộ của mình thế nào. Rồi giây phút ấy qua nhanh, ông nói liền mạch và cũng đỡ xúc động hơn. Tôi không nhớ lắm những gì ông nói, song cũng chỉ loanh quanh việc tiểu thuyết của mình được xuất bản, được dựng thành phim và cảm ơn những người đồng hương, anh em bạn bè và đông đảo độc giả khán giả đã đón nhận... Khi ông đang say sưa nói, chợt có một người đứng tuổi, ngồi phía sau hàng ghê chúng tôi, đứng lên, nói rất to, đại ý rằng, Phùng Quán không được nói thế, định nhân cớ mượn diễn đàn tự minh oan hay diễn thuyết gì ở đây ? Hãy xuống đi. Phùng Quán khựng lại, tắc nghẹn họng. Tôi thấy, miệng ông há ra, không thành lời và cũng không khép lại được, như cá đớp khi khi mắc cạn. Thật khó mà biết được diễn biến tình cảm, tâm lý ông lúc ấy. Dáng người thô ráp khắc khổ của ông sụn xuống. Trong sự ngạc nhiên, sự bất bình phản đối của nhiều người với ý kiến của người vừa nói, ông cố gắng như kẻ  ngọng tập nói cho sõi mấy câu cảm ơn ngắn rồi xin phép xuống. Giọng ông tôi thấy có nước mắt !... Buổi chiếu phim bắt đầu khi mọi người vẫn con ấm ức bàn tán khen chê, bày tỏ thái độ và sự phân bua của chính người cắt ngang vừa nãy... 
                                  Cả buổi chiếu phim rất dài, mặc dù nhiều tình tiết phim cuốn hút, song tôi không tài nào gạt bỏ được hình ảnh Phùng Quán trước buổi chiếu. Ông ngồi ở hàng ghế đầu, cách chúng tôi dăm hàng, nên tôi chỉ thấy cái đầu bù của ông nhô lên trong bóng tối. Và dường như nó cứ to lên, to lên dần, choán hết màn ảnh. Có lẽ do chịu ảnh hưởng của sự việc vừa rồi nên tôi thấy thế chăng ? Tôi không phán xét việc làm của người nọ đúng sai thế nào, nhưng với Phùng Quán, ứng xử với ông như vậy thì có gì đó bất nhẫn, thậm chí là tàn nhẫn. Thực lòng mà nói, khi ấy, tôi cũng thấy giận người đã hét to làm gián đoạn lời phi lộ của Phùng Quán trước buổi chiếu. Đoạn kết, bộ phim dừng ở chi tiết khá đắt, đó là chú bé Mừng bị đồng đội, bạn bè nghi ngờ phản bội, chú đã kêu lên rằng Tôi không phản bội . Tiếng kêu ấy vang vọng khắp núi rừng, núi rừng nghe thấy đấy, song đồng đội có biết cho chăng ? Chẳng cần phải liên tưởng gì thì cũng nảy sinh trong tôi cái ý nghĩ rằng, chú bé Mừng ấy là Phùng Quán, nếu không, chí ít cũng kêu hộ nỗi lòng Phùng Quán ?   
                                  Sau này, tôi không đọc thêm tác phẩm nào củn Phùng Quán nữa, ngoài đôi ba bài báo trên Tiền Phong. Sự nghiệp văn chương của ông, trừ những tác phẩm viết cho thiếu nhi ký bút danh hoặc mượn tên người khác  (văn chui ), còn lại đều được. Tuy nhiên, tôi không thích lắm, dù rất quý trọng sự chân thật và thô nhám trong văn của ông. Song đến tập sách Ba phút sự thật ( NXB Văn nghệ- Tp.Hồ Chí Minh-2006 ) thì tôi vừa kính phục vừa thích. Bài đầu tiên của tập là một tuyên ngôn nghệ thuật của Phùng Quán, những câu chuyện, những con người trong cả tập sách đều đáng nể. Tôi đặc biệt thích các thiên hồi ký về Tuân Nguyễn, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Phùng Cung... Đọc tác phẩm này, tôi bất ngờ về tài viết tiểu luận và chân dung văn học của Phùng Quán. Quan trọng hơn, qua đây người ta còn có thể thấy được nhân cách của ông. Không có gì là quá, khi bài sau cuốn sách trích bài viết Đứa con không quên lời mẹ dặn của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường về cuốn sách này  : " Đây là một lời tự bạch phản ánh chân thực nhân cách nhà văn của Phùng Quán: Khát vọng suốt đời về sự thật. Bởi sự thật không phải là thứ có sẵn như chiếc bật lửa trong túi áo, mà chính là số phận và khát vọng của Nhân Dân. Nhân Dân là Người Mẹ đẻ đau mang nặng để sinh ra đứa con làm Nhà Văn, và vì thế, đứa con Phùng Quán suốt đời không quên Lời Mẹ dặn :
                                           Người làm xiếc đi trên dây rất khó
                                           Nhưng không khó làm bằng nhà văn
                                           Đi trọn đời mình trên con đường chân thật ".
                                  Tôi nghĩ, với bộ tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội, nay là tập bút ký và chân dung văn học Ba phút sự thật, nhà văn Phùng Quán đã thực hiện được lời mẹ dặn, là : Đi trọn đời mình trên con đường sự thật !...
                         
                         
                         
                        #72
                          tamvanvov 08.08.2021 19:41:53 (permalink)
                          Nữ bác sĩ mê văn chương
                          ( Chân dung văn học bác sĩ Trương Thị Mầu )
                                   
                                    Vào chiều muộn ngày 30 tháng 4 năm 2020, trên trang Facebook cá nhân, nữ bác sĩ người dân tộc Mường-Trương Thị Mầu, Giám đốc Phòng khám đa khoa Lương Điền, huyện Bá Thước, tinh Thanh Hóa đã viết một tâm sự ngắn như sau:
                          Lại một ngày như thế.
                          Lẽ ra hôm nay là ngày vui vẻ (30/4) gia đình cũng tổ chức một bữa tiệc mừng ngày đất nước thống nhất. Kết thúc buổi chiều chuẩn bị tắm gội và nghỉ ngơi thì “Bác ơi có bệnh nhân cấp cứu”- một thanh niên bế một cô gái máu me bê bết đầy quần áo, mặt trắng bệch. Chợt nghĩ hay bệnh nhân chửa ngoài tử cung. Siêu âm kỹ không phải, cô gái cam đoan cháu không thể có bầu đâu bác ạ. Chắc là cháu xuống kinh nhiều nên choáng thôi, Huyết áp tụt. Với trực giác có gì không ổn, “Để bác khám sản cho cháu nhé”. “Cháu không khám đâu, cũng không thể truyền dịch được vì lâu quá, cháu phải về vì chỉ xin phép bố mẹ đi chơi một ngày thôi, cho cháu xin đơn thuốc về điều trị”. Mình cho tiêm trợ lực, cô ta vào nhà vệ sinh bị xỉu luôn, cậu con trai bảo cứ truyền dịch cho cô ấy bác ạ. Đúng như tôi dự đoán, cô bé bị chấn thương đường sinh dục rất phức tạp. Cậu con trai ấp úng “Chúng cháu... lần đầu..  Bác ơi, bây giờ phải chuyển tuyến hay làm sao bây giờ. Chúng cháu sợ quá”/ ”Bác sẽ khâu cho cháu, vì chuyển tuyến chỉ cần chảy thêm chút nữa là kiệt máu chết đấy, bác sẽ tiêm giảm đau, tất nhiên vẫn đau nhưng chịu được. Cháu có thể suýt xoa, khóc nhưng không được giãy giụa nghe chưa”. Vừa hồi sức vừa đánh vật, khẩu trang, mồ hôi, kính mờ, mắt cay, hẹp, ánh sáng nhập nhoè, mình già thật rồi, gần 2h ba bác cháu tôi mới hoàn thành ca phẫu thuật. Truyền gần 3 chai dịch, uống bịch sữa cô ấy dần tỉnh táo trở lại, nhưng rất mệt mỏi, tôi lấy 2 lát sâm ngâm mật ong cho cô ấy nhai rồi hỏi chuyện/ “Bác ơi có ảnh hưởng gì tới chuyện có con sau này không”/ “Không, nhưng về tâm lý thì cậu phải vượt qua một số chuyện”. Thì ra cô ấy, 23 tuổi, tốt nghiệp đại học sư phạm văn, đang chờ việc, đi chơi với người yêu. Mình bảo cô giáo gì mà bé thế, cô ấy bảo tại dạo này cháu bị áp lực lo lắng xin việc, lo thi công chức, cô ấy sút 7kg từ 50kg còn 43kg. Lần đầu tiên đi chơi xa với người yêu, hẹn cuối năm cưới.. Cậu là người có học, lại học khoa văn mà thiếu kiến thức về kỹ năng sống thế sao. Cả việc stress do chưa xin được việc nữa, mới 23 tuổi đầu. Rất nhiều người học đại học đi xuất khẩu lao động, vào làm việc trong các công ty cậu biết không . Trong lúc theo đuổi mục tiêu chính cậu cần phải trải nghiệm trong cuộc sống, Thử làm bất việc gì miễn là kiếm ra tiền, đừng phạm pháp là được, thất bại cũng không sao, cuộc sống sẽ dạy ta phải làm gì để tồn tai. “Bác nói chuyện thật thú vị”, cô ấy cười, cũng xinh. Rồi cô ấy nói: “ước gì cháu mạnh mẽ được như bác. Hôm nay bác không chỉ cứu mạng cháu mà bác còn cho cháu hiểu ra nhiều điều. Cám ơn bác rất nhiều”/”Điện thoại của bác đây, cần gì hỏi sau, truyền xong chai dịch có thể về, không cần cám ơn, đừng làm phiền bác, bác mệt rũ ra rồi”. Nhớ lại cách đây 3 năm cũng dịp 30/4 mình cũng xử lý một trường hợp tương tự, chỉ có điều cô bé mới học lớp 11, còn hôm nay là một cô giáo. Buồn. Những ngày 30/4 không vui nhưng cũng không hề dễ quên chút nào..”.
                                    Tôi mở đầu câu chuyện về một bác sĩ mê văn chương lại bằng chính câu chuyện của người bác sĩ đó về một chuyện không liên quan gì đến văn chương cả. Song tôi nghĩ, ai đó đọc câu chuyện bác sĩ Trương Thị Mầu vừa kể đây, sẽ hiểu ý nghĩa và giá trị nhân văn của nó, mà theo tôi, lý tưởng nghề nghiệp này đã khởi nguồn và dẫn dắt nữ bác sĩ theo đuổi con đường văn chương như một phép tu thân dưỡng tâm, tích đức, gột rửa tinh thần ?...
                                    1. Bác sĩ, nhà thơ Trương Thị Mầu.
                                    Sinh năm 1958, tuổi Mậu Tuất tại xứ Mường, chòm Măng, Lương Ngoại, Bá Thước Thanh Hóa, Trương Thị Mầu những mong ước học hành trở thành bác sĩ, để chữa bệnh cho bà con dân tộc Mường của mình. Theo học Y Khoa Thái Bình, tốt nghiệp, nữ bác sĩ trẻ người Mường giữ đúng lời hứa với lòng mình, trở về xứ Mường quê mình công tác. Năm tháng trôi qua, tận tụy công việc, Trương Thị Mầu trở thành giám đốc Bệnh viên đa khoa Bá Thước và được phong danh hiệu Bác sĩ ưu tú. Không an phận, thấu hiểu việc chăm sóc sức khỏa cho người dân vùng núi xa xôi hẻo lánh là cần thiết, khi nghir hưu, Trương Thị Mầu thành lập Phòng khám đa khoa Lương Điền tại quê, tự mình làm giám đốc và bác sĩ trưởng, tiếp tục sự nghiệp khám chữa bệnh cho người dân quê mình.
                                    Sinh ra trong chiếc nôi văn hóa Mường, thấm đãm bản sắc văn hóa dân tộc minh, Trương Thị Mầu yêu văn học và sáng tác thơ văn, xem văn chương như thuốc dưỡng tâm, dưỡng đức cho nghề y và cuộc sống của mình. Viết truyện, làm thơ như một cach ghi nhật ký. Cứ vậy, lâu ngày, tích lại nên gia tài nho nhỏ và hơn thế, Trương Thị Mầu trở thành nhà thơ của xứ Mường. Chị là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa, hội viên Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tuy có viết một số truyện ngắn, truyện ký, song Trương Thị Mầu là một nhà thơ đúng nghĩa. Đến nay, chị là tác giả của 5 tập thơ: Nghiêng (2006). Bóng núi (2007), Mùa dậy sấm (2009), Người dưng (2012) và gần đây là Nương bóng nhà sàn,
                                    Đọc thơ Trương Thị Mầu, thấy sự nhất quán, điều này có nghĩa, xuất thân và nghề nghiệp để dấu ấn đậm nét trong tho ca,
                           
                          2. Dấu ấn nghề y trong thơ văn Trương Thị Mầu,
                                    Mầu chuyện tôi trích ở phần đầu bài viết này chỉ là một trong rất nhiều câu chuyện hàng ngày mà Trương Thị Mầu ghi chép lại. Trên cơ sở những câu chuyện có thật rất chi sinh động ấy, chị chỉ cần lựa chọn, đẩy lên, gia công là thành truyện ký, truyện ngắn.  Khi cảm xúc dâng trào, thì thành thơ.
                          Một, hai, ba...cố lên, tim đã hồi!
                          Nhanh nữa lên, một hai ba: thở rồi
                          Thở đi em, sâu vào, mạnh nữa
                          Cho không khí ùa vào bầu phổi...
                          Máu cỉa em đang hồng trở lại
                          Đôi môi em thắm dần thôi tím tái
                          Và mắt em chớp chớp mở choàng
                          Bài thơThở đi emnữ bác sĩ kể chuyện, Thấy rõ, niềm vui vỡ òa sau một ca cấp cứu thành công, trào dâng thành câu chữ vần điệu. Mộc mac như câu nói thường tình nhưng đầy cảm xúc. Nhung rồi, đâu có được nghỉ ngơi để tận hưởng niềm vui:
                          Thày thuôc nắm tay nhau cười... ứa lệ
                          Bình tĩnh lại đi tiếp tục ca mổ nhé,
                          Còn một sinh linh đang đợi chào đời...
                          Ngay đó, người bác sĩ lại lao vào ca mới:
                          “Hãy đón lấy đây, mooyj bé gái/ Nhanh nhanh lên lại ấn thở, bóp tim/ Thở đi con,/ Kìa,/Thở đi con gái,/ Tiếng oa/ Vỡ òa.../ Thành ánh bình mình !”.
                          Lúc ấy, người bác sĩ mới cảm nhận được niềm hạnh phúc vô bờ khi mình vừa đem sự sống đến cho người khác:
                          Hạnh phúc nào hơn người thầy thuốc
                          như những thiên thần được chắp cánh bay lên,
                          Để có những tâm sự nặng nỗi niềm nghề nghiệp trong thơ văn của mình, Trương Thị Mầu đã gửi gắm ước mơ xanh từ ngày còn là sinh viên trường y cùng thày bạn, trên giảng đường. khi thực tập va cả buổi đầu cuộc đời bác sĩ của mình.
                          Chẳng thể nào quên ca mổ đầu tiên
                          Thiếu thuốc mê, thiếu người phụ mổ
                          Bệnh nhân đau đứt đoạn từng hơi thở
                          Qua khỏi rồi thầy thuốc khóc rồi...run.
                          Có một thời dịch dã liên miên
                          Thầy thuốc bệnh nhân sắt se nghèo đói
                          Mái nhà tranh ánh đèn dầu le lói
                          Lửa bập bùng xua lạnh lẽo đêm đông.
                          Dẫu có thế, đâu ngại khó ngại khổ, một khi đã thề cả cuộc đời theo nghề y nặng lời thể Hypocrat:
                          Ai nhớ ai quên một thời đã sống
                          Nước sông đục ngầu đánh phèn, lọc, lặng
                          Pha dịch truyền bằng muối biển đường ăn.
                          Mối tình đầu rồi cũng lãng quên
                          Cuộc sống ngặt nghèo lo âu toan tính,
                          Với nghề y tôi là người lính
                          Mỗi chặng qua rồi, tiếp tục hành quân.
                          (Ước mơ xanh)
                          Tôi  rất thích những tản văn bắt nguồn từ các chuyện thật trong công việc nghề y hàng ngày của Trương Thị Mầu, chân thực, ưu tư, cảm động và nặng nhân văn... (nhu Niềm vui có thật, Day dứt, Nhìn cái chết....). Trong tản văn Duy dứt, chị tâm sự rằng, hết thày công việc trong quá trình hành nghề y của mình, chị không nề hà gì, song vẫn thấy nản nhất là phải tư vấn hoặc tự tay giải quyết các ca “vỡ kế hoạch” (có thai ngoài ý muốn). Ngại và nản, không đơn thuần công việc chuyên môn, mà vì tính chất công việc, là do ý nghĩ đang làm cái chuyện “giết người có chủ đích” có sự thỏa thuận đôi bên, đối tương và bác sĩ hành nghê. Kết thúc tản văn, chị kể câu chuyện “Tối qua lại có một cô bé mới 22 tuổi chưa chồng, được mẹ đưa đến khám vì đau bụng, hai mẹ con cười nói ồn ào, khi SA mình phát hiện cô bé đã có thai 4 tháng, được thông báo cả 2 mẹ con tròn mắt ngạc nhiên, sau phút sững sờ người mẹ chửi con, người con cãi mẹ chuyện om xòm. Người mẹ hỏi là của thằng nào, người con bảo không nhớ chắc là do con say rượu. Thế đấy. Cô bé nằng nặc đòi bỏ thai, người mẹ nài nỉ. Mình thấy chán chường và mệt mỏi quá không buồn tư vấn hay giải thích gì nữa. Chỉ nói: nếu còn muốn sống thì đưa cô bé đến bệnh viện phụ sản ở đó người ta sẽ nói nên làm gì. Thấy mình quát to 2 mẹ con thôi cãi nhau lẳng lặng lên xe ra về. Một trận mưa rào đổ xuống, lòng mình ướt sũng như mưa!..”.
                                    Còn hơn sự day dút, ấy là “nhìn cái chết” mà chẳng thể làm gì, ngoài sự bất lực. “Nói đến cái chết thì ai cũng sợ, nhưng thực chất là sợ cái gì thì lại không rạch ròi được. Có lẽ là sự cô đơn, lạnh và không chia sẻ được cùng ai.Rồi thì trách nhiệm, bổn phận chưa hoàn thành, nào là nuối tiếc vân vân và vân vân. Nhưng cũng thật kỳ lạ phải nói là kỳ diệu mới phải, bài điếu văn nào thì người chết cũng tỏa sáng lung linh, những câu chữ tốt đẹp nhất giành ca ngợi người chết. Đặc biệt các nhà văn nhà thơ chỉ thật sự nổi tiếng khi đã chết rồi. Có những bản thảo khi còn sống đã gõ cửa khắp nơi chẳng ai buồn đăng khi chết rồi chợt thành cái rất hay ho. Nên cái chết nhìn về khía cạnh nào đó cũng mang lại điều kỳ diệu. Mọi người cũng nói nhiều đến việc sống hướng thiện chết bình thản. Nhưng có lẽ quan sát nhiều cái chết nhất là các bác sỹ khoa hồi sức cấp cứu còn gọi là khoa điều trị tích cực. Mình cũng không nhớ hết được đã cứu được bao nhiêu người khỏi tay thần chết nhưng cũng không nhớ hết được đã vuốt mắt đưa tiễn bao nhiêu người sang thế giới bên kia...”. Chị đã viết vậy trong tản văn “Nhìn cái chết”.  Có nhiều lần bất lực “nhìn cái chết” nhu vậy, bác sĩ Trương Thị Mầu mới thấy niềm vui khi cứu sống được bệnh nhân nó lớn lao thế nào. “Đã 5 ngày trôi qua kể từ khi cấp cứu thành công ca bệnh nhân TTĐ 50 tuổi bị ngừng tim ngừng thở mình vẫn không tin được là bệnh nhân có thể qua khỏi, sống được và tỉnh táo trở lại, thật kỳ diệu lắm thay. sáng 1/11/2013 phòng khám tiếp nhận bệnh nhân trong tình trạng ngừng thở, da vàng ệch, nghe không thấy nhịp tim, đồng tử giãn căng.... Bọn mình đã khẩn trương cấp cứu, chỉ trong vòng 1 phút tất cả các thao tác vừa bóp bóng trợ thở có o xy, ép tim ngoài lồng ngực, bơm trực tiếp Adrenalin vào buồng tim, các động tác nhịp nhàng chính xác và ăn ý, 2 phút sau tim đập trở lại, 5 phút sau sắc mặt dần hồng lên, đúng 15 phút sau bệnh nhân dã tự thở được, 30 phút sau các chỉ số sống đã tương đối ổn định,...”. Ở tản văn, “Niềm vui có thật”, nữ bác sĩ mở đầu bằng câu chuyện có thật tại bệnh viện mình phụ trách. Và chị kêt tiếp câu chuyện, khi bệnh nhân cần chuyển tiếp lên tuyến trên hỗ trợ sau cấp cứu ban đầu, đúng lúc bệnh viện thiếu phương tiện, chị đã dùng xe riêng của mình, và cũng chỉ dám hy vọng bênh nhân sống sót nhưng có thể sẽ phải sống cuộc đời thực vật phần đời còn lại, không ngở, bệnh nhân đã hồi phục sau mấy ngày điều trị tích cực. Niềm vui lan tỏa, chị tâm sự “Mình thấy vui quá chừng. Từ khi về hưu chỉ có chuyên tâm đọc sách và chữa bệnh mình thấy bàn tay mình như có hồn, trái tim mình hòa đồng với nỗi đau của người bệnh, mình thấy cuộc sống đáng yêu quá. Ai nói về hưu thì không vui. Niềm vui có thật và thật sự là vui!...
                           
                          3. Dấu vấn văn hóa Mường,
                          Gái bản Mường, mấy từ ấy thật gần với dáng vẻ, cử chỉ và cách nói năng, ứng xử chân thành, mộc mạc của Trương Thị Mầu. Như cái cách người ta hay dẫn câu thơ của Hàn Mặc Tử “người thơ phong vận như thơ ấy”, Trương Thị Mầu là người mang chất Mường bẩm sinh, và chị cũng đã mang được nét văn hõa Mường vài thơ ca mình.  
                          Khác nhà thơ lớn tuổi cùng quê xứ Mường với mình là Ma Bích, Trương Thị Mầu chưa hẳn nhăm nhăm chủ trương thể hiện và bảo vệ bản sắc Mường một cách quyết liệt, song chất Mường sẵn có ở con người chị, nên biểu hiện trong thơ một cách vô thức và cả ý thức nữa. Là người xuất thân ở xứ Mường, nhưng công việc hàng ngày làm chị thoát ra khỏi xứ Mường của mình, thêm bản tính quàng giao, đã làm nên con người Trương Thị Mầu. Chất Mường không thật sâu đậm, nhưng cứ phảng phất đâu đó trong thơ chị, khiến người ta nhận ra và không thể quên được.
                          Chất Mường ở đây, chưa thật rạch ròi, song trước hết trong ngôn từ, cách diễn đạt tự thân mà có, rồi sau là ý thức tìm kiếm và chủ định biểu đạt, từ lời ăn tiếng nói đến phong tục tập quán vào thi ca...
                                    Bài thơ Ảo ảnh, Trương Thị Mầu kể chuyện tình Mường, song có lẽ, chị mượn cớ vậy để đánh thức người con gái Mường trong chính bản thân mình:
                          Tôi đi tìm em , cô gái Mường ơi
                          Đôi mắt nâu ẩn hiện sau vòm lá
                          Tìm về bến xưa nơi con đò già mơ ngủ
                          Đập nước đã dâng đầy sóng đuổi sóng lao xao.
                          Một em gái bản Mường chính hiệu “ em gái khéo tay/ đánh cồng, dệt lụa, vá may thêu thùa..” mà từ lúc còn nhỏ, rời bản đi học trường xa, nhưng đã vượt khó :Thương nhau từng bữa cơm nghèo/ Canh môn, rau sắn cheo leo bản Mường...” ước một ngày kia có kiến thức cao, giúp bản ích đời,...
                          Bài thơ Thượng du là một bài đậm nét Mường:
                          Nhớ em ngược lại Cành Nàng
                          Nhớ luồng Thiết Kế nhớ vàng Lũng Cao
                          Tìm em em ở nơi nao
                          Có thương chọn hộ cành Đào làng Son
                          Chọn thêm đôi vịt phố Đòn
                          Mùa Xuân trẩy hội tung còn Mường Khô
                          Nhớ hè cùng tắm thác Mơ
                          Lưng ong váy thắm bây giờ ở đâu.
                          Lung linh bóng nước soi cầu
                          Nhớ thuyền độc mộc nhớ câu phiền lòng
                          "Nhất Suội, nhì Cả, ba Long"
                          Nhớ người năm cũ gò lưng chống bè
                          Xưa rồi một bến sông quê
                          Bức tranh cổ tích theo về mai sau...
                          Và bài thơ Mường Ống cũng là một bài như vậy:
                          Ngoảnh mặt lên Mường trên
                          Thấy bà Da Dần phân năm phân tháng
                          Bà gánh xường đi bán
                          Qua Mường Ống đứt quai
                          Qua Mường Ai đứt gánh
                          Để gái Mường trên giỏi xường
                          Trai Mường dưới giỏi mo...
                          Về Mường Ống một lần đi anh
                          Cùng em tìm lại vết tích cây Chu đá
                          Có còn không những lá Chu đồng
                          Trên đồi Lai Li Lai Láng
                          Mây trắng ngút ngàn Pù Luông xanh...”
                          Kể lể vậy, cũng chỉ để nuốn khoe xứ Mường quê mình”
                          Chỉ muốn anh cảm nhận
                          Có một xứ Mường trăm mến ngàn thương...”
                          Còn trong bài thơ “Phố huyện”, Trương Thị Mầu ý thúc trước sư nhạt phai chất Mường trong hiện thực đời sống xã hội khi mà làng bản Mường mình đổi thay trong cơn lốc đô thị hóa, diện mạo thì “nửa làng nửa phố”, còn con người thì “nửa tỉnh nửa quê”: “Cô kia gái bản chưa chồng/ Nay đi trên phố tay bồng nách mang/ Con đường phố rộng thênh thang/ Có còn nhớ bản nhớ làng suối xa?” Liệu có còn không cái tình cái nghĩa, và cách ứng xử chan hòa gần gũi mộc mạc của dân tộc mình, khi mà cố niu giữ: “Sau nhà vẫn bụi trầu cay/ Trước hiên vẫn cái điếu cày cây cau/ Mưu sinh còn lắm cơ cầu/Vẫn không quên nếp trước sau của làng”?
                          Thương nhất, bài thơ Bà ơi, lá rụng về nguôn. là lời tạ lỗi trước mộ bà, vì mình chẳng thể níu giữ Mường lại cho bà,
                          Trời mênh mang nước mênh mông
                          Ngổn ngang con với cánh đồng tuổi thơ
                          Vẫn dòng sông của ngày xưa
                          Nấm mồ đằng đãi nắng mưa của bà
                          Tưởng như còn đó chưa xa
                          Bà đang  đánh chuyện Nàng Nga Nàng Ờm
                          Lom khom thổi cái nùn rơm
                          Nướng ngô lùi sắn đồ cơm xứ Mường
                          Lưng còng vác nước ống bương
                          Bờ sông dốc đứng con đường tuột trơn.
                          Khói hương tỏa bóng chập chờn
                          Con như một kẻ vô ơn với bà...:”
                           
                          Chỉ cần để ý tên các tập thơ của Trương Thị Mầu thôi, trong 5 tập đã xuất bản, thì có đến 3 tập (Bóng núi, Mùa dậy sấm và Níu bóng nhà sàn) biểu hiện ý thức bảo tồn không gian văn hóa dân tộc của chị. Nếu như thời mới làm thơ (Bóng núi, Mùa dậy sấm), dấu ấn văn hóa Mường còn chưa sâu đậm và ít nhiều mang tính vô thức, thì đến Níu bóng nhà sàn, tâm thức hướng về cội nguồn dân tộc và nỗi nềm một ngày kia, bản sắc văn hóa Mường trong cộng đồng dần phai nhạt, đã dồn tụ, biều hiện thành ý tú, câu chữ, thông điệp... Trước tiên là ký ức tuổi thơ ở bàn: “Trải bao nắng sớm chiều tà/ Đất còn in dấu chân ta thuở nào /Khúc này xúc hến mò nga/ oBờ kia nhặt lá ép vào trang thơ...” (Dòng sông tuổi thơ); Rồi đến thứ văn hóa vật thể là cái nhà sàn Mường ở bản từng mấy đời gia đình chung sống nay sắp bị phá bỏ để xay cái nhà lầu kiểu phố: “Trưa vóng Đông cha ngồi đan lưới/ Chiều vóng Ngang mế ngồi dệt cửi,/ Đèn con vịt thơm thơm dầu bưởi/ Tiếng thoi đều đều, tiếng mế nhẹ êm/ Bà Dạ Dần hiện trong giấc ngủ hằng đêm....”(Níu bóng nhà sàn). Rồi trách cứ các em sống ở bản mà không giữ nối căn nhà sàn của cha mẹ để lai “Giận các em sao lại bán nhà sàn/ Xây nhà hai tầng dưới chân núi Khú/ Ngày khánh thành đông hơn ngày họp họ/ Buồn một mình ký ức dở từng trang..: Cố mà không giữ được, níu cũng chẳng thể, thì chỉ còn tự xoa dịu, an ủi lòng mình bằng nỗi nhớ mà thôi ”Tôi lớn lên giữa chiều rộng chiều dài/ Biển Bắc trời Nam, biển người, ngơ ngác/ Như con nai lạc rừng xao xác/ Níu bóng nhà xưa tôi nhớ lối quay về...” (Níu bóng nhà sàn)....
                          Tìm kiếm, nhặt nhạnh trong thơ Trương Thị Mầu, còn khá nhiều câu chữ, ý tứ mang chất Mường, nhưng chị không phải là người nệ cổ, cứ khư khư níu giữ, hay đau đáu nỗi niềm về chất Mường phôi pha trong đời sống xã hội hiện đại. Trương Thị Mầu là người có kiến thức và trải đời, nên đã biết thoát ra, vươn đến những giá trị khác từ sự phát triển mang tính tất yếu.
                          Có những điều bình thường giản dị, song có khi người ta phải đi gần hết cõi con người mới nhận ra, Trương Thị Mầu cũng vậy.
                          “Nhưng chắc chắn ta chính là sự sống
                          Con của mẹ mình cháu của ông ta
                          Là cha mẹ của con mình sinh ra
                          Là cụ kỵ của đời đời cháu chắt
                          Không thể khác chẳng bao giờ kết thúc.
                          Cội nguồn ơi xin một chốn đi về...” (Điều bất tử)
                                    Hay như, trong các bài Nghỉ hưuNgười đàn bà sáu mươi tuổi, Trương Thi Mầu ngộ ra rằng:
                                    Ồ thảnh thơi
                          Qua chặng đường khó nhọc
                          Buồn gì đâu
                          Có ai hát khải hoàn... ...
                          Từng chặng một
                          Cứ mải mê leo núi
                          Chiếu nghỉ dài
                          Thôi thả sức nghỉ chân.
                          Sau lưng mình
                          Khép lại những phù vân. (Nghỉ hưu)
                           
                          “Người đàn bà sáu mươi tuổi tư duy bằng trực giác
                          Thấy rõ ràng cái điều xưa học mãi  không hiểu,
                          Trong vô thức có một ước mơ cưa quậy
                          Một con đường như lộ dần nét vẽ
                          Một niềm tin dồn nén sáu mươi năm
                          Một hiện sinh tự nó đã nảy mầm.
                          Người đàn bà sáu mươi lại quẩy gánh lên vai
                          bước tiếp..” (Người đàn bà sáu mươi tuổi)
                           
                          Điều ấy, khiến chị khác với nhà thơ Ma Bích, một nhà thơ của bản làng đậm đặc chất Mường. Và cùng với Ma Bích, Trương Thị Mầu đã thêm tiếng nói Mường, góp phần đưa chất Mường trong thi ca vượt ra khỏi vùng núi Bá Thước, Thanh Hóa, làm nên sự phong phú nghệ thuật của các dân tộc thiểu số Việt Nam. ./. 
                           
                          #73
                            tamvanvov 27.08.2021 16:33:13 (permalink)
                            Mấy dòng tiễn đưa Nguyễn Huy Thiệp
                            theo cánh hạc về trời
                             
                              Trong số những bức chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi ấn tượng nhất một bức ảnh, không rõ ai chụp. Nguyễn Huy Thiệp cười hết miệng, mắt tít lại, gương mặt rạng ngời, xóa đi hết nét khắc khổ pha chút kiêu bạc thường ngày, nét hiếm thấy ở ông !?...

                                      Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rời cõi tạm vào chiều ngày 20.3.2021, đúng cái ngày thế giới chọn là ngày HẠNH PHÚC. Mạng xã hội, báo chí đưa tin rầm rộ. Sau cơn đột quỵ vào cuối năm 2019, rồi những ngày ông nằm cấp cứu ở A9 Bạch Mai, cũng là những ngày cả thế giới náo loạn bởi sự xuất hiện bất ngờ của virus Corona tại Vũ Hán mà sau đó người ta đặt cho cái tên COVID, nhanh chóng lây lan cực nhanh khắp địa cầu, người ta những cầu mong cho ông hồi phục song vẫn nghĩ ngày ông ra đi mãi mãi chỉ được tinh bằng ngày bằng tháng,... Vậy mà ông cầm cự cả năm trời, ra đi sau cả người vợ tào khang sướng khổ một đời cùng ông, vốn khỏe mạnh và luôn chăm sóc ông chu đáo,
                            Tang lễ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được cử hành vào sáng ngày 24.3 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) tại nhà tang lễ quốc gia số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội). Cánh chuyên bán vòng hoa ngay cổng nhà tang lễ kháo nhau, đám tang ông nhà văn gì nổi tiếng lắm, tha hồ mà bắn vòng hoa đây. Nhưng thực tế, đám tang Nguyễn Huy Thiệp không đông lắm, khác hẳn sự đông đúc chen chúc đám hiếu cha mẹ các quan chức hay doanh nghiệp lớn bởi ở đấy người đến viếng thi nhau thể hiện mình vì có mùi cầu lụy, nhờ vả trước sau. Còn tang lễ Nguyễn Huy Thiệp, chỉ có người thân, họ hàng, bạn hữu văn chương, người hâm mộ và cánh báo chí đưa tin, mặc dù có vòng hoa gửi viếng của ngài Thủ tướng Chính phù và vài ba quan chức cao cấp....
                            Tôi và mấy bạn văn chương tháp tùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn & cuộc sống vào viếng Nguyễn Huy Thiệp. Bức ảnh ông được treo trong tang lễ nghiêm cẩn, khác với các chân dung thưởng thấy, và gương mặt thi hài ông sau hơn một năm cầm cự chống chọi với cái chết cũng khác đi nhiều với thần thái suy tư khắc khổ trước đây. Điếu văn được nhà văn Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội viết và đọc trong lễ truy điệu Nguyễn Huy Thiệp cũng đã gây xúc động và ấn tượng mạnh, nhằm tôn vinh cho cả người chết và người sống...
                            Có một điều, tôi để ý, nơi sân chờ nhà tang lễ, các nhà văn, nhà thơ già trẻ các thế hệ đủ cả. Mọi người gặp nhau, tay bắt mặt mừng có, khen nhau vượng khỏe có, hay rì rầm buồn buồn chuyện nọ chuyên kia có. Một ai đó bảo, cứ nhìn thầy mặt nhau, điểm tên, được bắt tay nhau thế này là mừng rồi. Cuộc đời vô thường lắm, biết đâu nay mai trời gọi tên ai đó... Ngẫm cũng phải, tuổi ngoại thất thập. văn chương tai hoa đến đâu thì cũng hết tuyết cả rồi, như than để ngoài mưa cả thôi. Còn sống trên cõi đời này, khỏe mạnh an vui là nhất, văn chương hay dở mà làm gì ?... Thế giới mạng giờ khác xưa lắm, đi đâu, làm gì, như đi lễ chùa, đi du lịch, hội họp, ăn nhậu, tụ bạ, cưới hỏi, đều chụp ảnh, check-in nuôi Phây cái đã, mà khi đi đám ma người ta cũng vậy. Thế nên, ở đám tang Nguyễn Huy Thiệp, các văn nghệ sĩ nhà ta cũng tranh thủ thăm hỏi, chụp ảnh chẹck-in rôm rả, chứ mấy ai quan tâm đến người nằm xuống... Nghĩ cùng là chuyện thường, chằng đấng trách,...
                            Trở về sau đám tang nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi rẽ vào uống trà tán gẫu với người bạn thân Gia Hoang chuyên bán thuộc Tây ở chợ Giời. Người bạn cùng lớp đại học với tôi này là người yêu văn chương chữ nghĩa. Giừ hành nghề bán thuốc Tây, nhưng trong lúc rảnh rỗi, rất chịu khó đọc sách báo. Người ở thời đại công nghệ 4.0 bây giờ mà ngày ngày đro kính, thâm chí dùng cả kính lúp trợ giúp, chúi mặt vào sách báo như ngươi bạn tôi đây là hiếm có. Kiến văn của anh bạn Gia Hoàng rất khá. Phàm cái gì thuộc về lịch sử và văn chương,bất kể thơ phú, văn xuôi như truyện ngấn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký, chân dung văn học hay phê bình tiểu luận, đọc tuốt, là để thưởng thức và bồi bổ kiến thức bản thân thôi. Gia Hoang cũng là bạn đọc hâm mộ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Chúng tôi đã từng cùng nhau bình phẩm mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mỗi khi nó được đăng tải trên báo chí những năm qua. Giờ đây, chúng tôi lại nói về Nguyễn Huy Thiệp và những tác phẩm của ông. Hai đứa tôi, cùng nhau nhắt ra, gom lại xem Nguyễn Huy Thiệp có bao nhiêu truyện ngắn thuộc hàng thượng thặng. Kể đến những cái tên: Không có vua, Huyền thoại phố phường, Tướng về hưu, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Muối của rừng, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi, Trương Chi, Nguyễn Thụ Lộ, Mưa Nhã nam, Sang sông, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương, Đưa sáo qua sông, Hạc vừa bay vừa kêu tháng thốt,... Độ hai mươi truyện xuất sắc. Có lẽ thế thôi, cũng nên?
                            Phê bình văn học của Nguyễn Huy Thiệp, đáng kể có Giăng lưới bắt chim. Trò chuyện với hoa thủy tiên. Còn tiểu thuyết của ông, thú thực tôi không thích,... Cái kịch Mổ nhà văn, tuy ám chỉ những ai đó, nhưng quả là rất thú vị. bởi ở đấy vừa thâm thúy, vừa bùng nổ, phun trào của sự nín nhịn, kim nén lâu ngày...
                            Chợt anh bạn Gia Hoang hỏi tôi: "Vậy văn xuôi Việt Nam hiện đại, ông thích ai nhất?". Câu hỏi đột ngột, nhưng tôi trả lời tắp lự: "Trước có Nam Cao, sau là Nguyễn Huy Thiệp.", Tôi nói vậy, không có ý xếp trên dưới mà đơn thuần chỉ theo trình tự thời gian xuất hiện của hai nhà văn tài danh này nà thôi. Tôi không coi ai hơn ai, họ ngang bằng nhau, mỗi người mỗi vẻ mỗi hay riêng. Bái phục tài hai vị nhưng đọc Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn hơn,...
                            Rồi tôi và anh bạn Gia Hoàng lại cùng nhau kể tên các cây bút văn xuôi hiện đại xứ ta mà theo cách thẩm của chúng tôi, họ ít nhiều có những tác phẩm để đời, như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Bằng, Kim Lân, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyên Ngọc, Lê Minh Khuê, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài và Trần Đăng Khoa...
                            Tạm dừng ở đấy chờ kể tiếp !...
                             
                            Hà Nội, 25.3.2021
                             
                            #74
                              tamvanvov 18.09.2021 11:43:46 (permalink)
                              Thân phận con người,
                               
                              Những ngày Hà Nội thực hiện giãn cách xã hội khiến mùa hè 2021 như kéo dài vô tận và bầu không thêm oi nồng.  Tâm trạng đầy lo âu phấp phỏng, Hàng ngày, tin tức liên quan đến dịch Covid 19 ở Việt Nam và các nước trên thế giới dày đặc. Số lượng người mắc, và con số tử vong gia tăng làm ngươi ta cảm nhận sư bất an rõ hơn. Giờ mới thấy, số phận con người ta mỏng manh lam sao!...
                              Việc riêng chuing đều làm ở nhà. Ra đường thì phiền hà ngay từ đầu ngõ với những thủ tục hàn chính, những giấy phép con, quy định miệng khiến chẳng ao muốn bước chân ra khỏi của. Mỗi ngày, loa pường léo nhéo quy định này, văn bản nọ, hướng dẫn kia, chỉ gây ức chế và gia tăng cảm giác bất an mà thôi. Ngồi nhà, nhàn cư vi ngó mạng.lại càng thêm căng đầu bởi nhưng thông tin bòng bong chẳng có gì kiểm chừng. Xem ti vi, ngoài những tin tức liên quan đến dịch bệnh, còn lại là những sản phẩm cũ mang dùng lại, hoặc tái chế cho mới... Nhạt phep và nhàm chán.
                              May mà, có hai phim truyền hình dài tập, của cùng một vị đạo diên, Lưu Trọng Ninh là Thương nhớ ở aiCát đỏ khả dĩ hon cả. Cùng là phim chiếu lại nhưng đáng xem. Các ca khúc sử dụng trong phi, cũng khá đắc đại (Chuyện của cát, Ghen, Giấc mơ trưa trong Cáy đỏ Tình ca, Tửu ca trong Thương nhớ ở ai).
                              Ở đây, chuyện về thân phận con người được khắc họa ở nhiều góc độ. Sự lạc hâu và chiến tranh đã làm con người ta đau khổ lắm rồi. Vậy mà, sao người ta cứ hành hạ, dày vò, xát muối vào lòng nhau vì đủ thức lý do, hủ tục, sự đố kỵ, lòng yêu ghét cực đoan... Tất cả đỏ hết lên đàu con người khiến thân phận con người vốn  bất ổn lại thêm phần đầu đọa, tủi hổ. Cảm giác, người ta cứ phải làm cho nhau đâu đớn mới hả nỗi ueei ghét trong lòng mình,...
                              Dẫu sao, những ngày dịch dã tù túng này, xem và suy ngẫm, cũng ngộ ta nhiều điều,...
                               
                               
                              #75
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 7 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 104 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9