Văn_Những Kỷ-niệm_A.
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 33 bài trong đề mục
Anh Tú 02.02.2013 18:24:01 (permalink)


Nhà Ngoại Tôi*

(Viết theo ký ức thuở những năm 1946-1954 để đở nhớ nhà)


Nhà của bà ngoại tôi ở Rạch Mương.
Rạch Mương là tên gọi của con sông nhỏ của Tân Thắng/Tân Quy, một ấp thuộc xã Tân Long Hội, Huyện Mang Thít (và theo thời cuộc có lúc là Minh Đức hoặc Cái Nhum, có lúc gọi là quận khi là huyện), Vĩnh Long.
Nếu hướng từ ngọn ra vàm thì hai con rạch láng giềng cách nhau một cánh đồng: bên mặt có rạch Bà Phong, bên trái là rạch Bầu Thiềng. Đến vàm mà vượt sông Mang Thít thì gặp bờ bên kia là làng Tân An Luông, Huyện Vũng Liêm. Trên con đường Vĩnh Long đi Trà Vinh(QL 53), tại một nơi gọi là Ngả ba Cái Nhum có con lộ rẻ trái (TL 903) đi đến quận lỵ Cái Nhum; thời Pháp thuộc, những đồn bót thiết lập được đánh số thứ tự từ 1 đến 8 kể từ ngả ba Cái Nhum cho đến quận lỵ. Theo thời gian người dân quen dùng tên những đồn này như những địa danh. Tỉnh lộ này cắt Rạch Mương tại đồn số 4.
Có những địa danh khác quanh vùng như Bình Phước, Hòa Tịnh, Nhơn Phú, Mương Khai, Gò Ân, Cầu Mới, Quang Phú, Ba Kè, Hòa Hiệp, Bà Tảng, Long Hiệp, Rạch Lá, Đồng Bé…, mỗi nơi tôi đều có ít hoặc nhiều kỷ niệm;hình như chúng còn nằm yên đâu đó trong những ngỏ ngách của tim tôi.

Rạch Mương chảy uốn khúc như con rắn với hai bờ phần lớn chiếm lỉnh bởi dừa nước lẫn với ô rô, cóc kèn dầy kịt…mà lúc cấp bách người dân thường dùng làm nơi trốn tránh bọn lính Pháp bố ráp. Xung quanh lá ô rô có gai nhọn cho nên bọn nhỏ chúng tôi thường dùng chơi trò“đá lá”: ném mạnh lá của mình vào lá của đối phương, nếu gai lá đâm dính là thắng và ngược lại, thua thì bị cú đầu hay bị bún tay (kẻ thua nắm các ngón tay lại, kẻ thắng dùng ngón tay của mình bún lên các chỗ u của lóng tay địch càng mạnh càng tốt).

Ô rô*


Thuở ấy bà con dùng xuồng tam bảng làm phương tiện giao thông là thuận tiện nhất vì đường bộ hai bên bờ sông chỉ có từng đoạn ngắn là lối mòn với cầu khỉ thô sơ cho một cụm nhỏ gồm ba bốn căn nhà lá nghèo nàn. Đi bộ từ cụm nhà này đến cụm kế luôn luôn phải lội ruộng, đôi khi phải lội qua một cái rạch rộng hai, ba thước.

Xuồng tam bảng*


Xuồng ba lá *(khác với tam bảng)


Là vùng đất trủng thấp nên vào mùa nước nổi nền nhà nào cũng bị ngập; ngập từ mắc cá đến đầu gối tùy theo từng nhà. Hiếm hoi lắm mới có một căn không ngập nước .
Nhà bà ngoại của tôi là nhà lá ba căn; nhà lá ba căn cũng có hạng lắm nơi vùng quê. Nhưng với bà ngoại tôi thì rớt hạng vì ông ngoại tôi đã qua đời đã lâu, bà goá bụa một mình với đôi công đất ruộng phải mướn cấy mướn gặt thì thu hoạch đủ ăn chứ có dư tiền đâu để tu bổ. Lâu lâu bán thêm nải chuối, buồng cau, cặp dừa khô, bà đủ mua nước mắm, gói trà chớ không thể làm giàu được.Nền nhà bằng đất. Theo năm tháng được những bàn chân trần của chúng tôi lướt trên mặt đất nên nền nhà trở thành láng mịn, sự xoáy mòn không đều làm lối đi trong nhà nổi “u nần” thì bà con cho là “vải con rồng”mà dân quê tin rằng đó là dấu hiệu báo trước chủ nhà sẽ làm ăn phát đạt. Thế nhưng bà ngoại tôi đến chết vẫn sống trong cảnh nghèo khổ.
Nhà ngoại tôi cũng không thoát được cảnh nước ngập, thường thường là đến khoảng mắc cá. Ngập như vậy cũng đủ cho nền nhà “lên bùn” khi nước xuống và bàn chân của chúng tôi cũng bị “nước ăn”. Giữa những ngón chân bị nhiễm trùng khiến ta cảm thấy ngứa ngáy, lỡ loét dù không nhiều nhưng rất khó chịu bởi chân ngâm thường xuyên dưới nước dơ bẩn. Không rửa sạch và lau khô sau đó cũng đã là nguyên nhân của bịnh ngoài da này mùa nước nổi. Thoa nước hòa tan bởi phèn chua (cũng thường dùng để lóng nước)và kết hợp thoa thêm bằng ruột trái cau để trị bịnh nước ăn.
Mùa nước nổi đã giới hạn không gian sống của những chú chuột. Chúng thường xuất hiện trên những lùm cây và đã trở thành mục tiêu săn bắt cho đám trai làng. Dùng những cây chỉa: cán bằng cây tầm vong nhỏ vừa nắm tay gắn ở đầu cây một mủi kim loại mài nhọn có ngạnh ngược với hướng đâm nên khi bị đâm là chuột vô phương thoát được. Dạo ấy tôi con nhỏ nên tháp tùng với các chú các anh trên những chiếc tam bảng chèo đi săn chuột mà nhiệm vụ của tôi là “chỉ chọt” nếu lanh mắt phát hiện được nơi các chàng chuột ẩn núp và thu những chiến lợi phẩm bỏ vào giỏ. Thịt chuột đồng sau khi làm sạch (đốt/ lột da/ bỏ bộ đồ lòng…) hoặc được băm nhỏ xào với lá cách xúc bánh tráng, hoặc ướp ngũ vị hương với lá xả đem nướng là món ăn khoái khẩu của dân đồng áng. Nhớ lại những ngày cuối tháng tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm tôi bị kẹt lại nhiệm sở (nơi làm việc) hai ngày vì chiến cuộc khốc liệt nên không thể ra ngoài để mua thức ăn. Chú lao công săn sóc cơ sở mà xung quanh là đồng ruộng, đã hảo tâm tiếp tế cho chúng tôi một bửa cơm với thịt chuột nướng thật thơm ngon, càng cảm thấy đậm đà hương vị hơn khi chúng tôi đang đói meo.

Bà ngoại tôi sở hửu một thửa đất hình chữ nhật khoảng hai công vườn và vài công ruộng. Mé sông trước nhà là đám dừa nước cũng như ở cuối mảnh đất ở phía sau nhà xa xa được gọi là “đầu đất”; dừa nước là một nguồn lợi phụ như chuối, dừa, cau…cộng với nguồn lợi chính là lúa để nuôi sống cho gia đình ngoại. Dừa nước được dùng lợp nhà, dừng vách…nếu những năm không xài thì bán cho người ngoài.

 Dừa nước* 
 
Buồng dừa nước*


Tôi thích nhất là những “buồng dừa nước” tức là những quày trái vì chúng cho một món ăn khoái khẫu. Trái dừa (coconut) có mấy thời kỳ: non, nạo, cứng cạy và khô thì trái dừa nước cũng vậy. Khi trái dừa nước ở trạng thái nạo, như người con gái đến tuổi tròn trăng, chẻ đôi ra ta sẽ có một thức ăn tinh khiết ở bên trong: màu trắng đục, thơm, “ngòn ngọt”, dòn, lớn vừa đủ cho một “miếng lũm”…Mỗi lần tôi theo dõi thấy quày nào đến độ “tròn trăng” (nhìn, đoán và lấy một trái chẻ ra để kiểm chứng) thì chặt lấy để “chén”. Bà ngoại tôi thường nhắc nhở: nhớ chừa một số …để gây giống (buồng dừa nước để già đến một lúc nào đó trái sẽ rụng xuống đất rồi từ từ nẩy mầm đâm chồi).
Trong những cuộc đố vui tôi không quên câu đối liên quan đến đề tài dừa:

Nhỏ thời xuất giáo đâm trời
Lớn thì hứng nước chịu đời cho con.
(Xuất mộc)


Trong một bụi dừa nước: xung quanh là những bẹ dừa đã lớn, gìa nhất ở bên ngoài, tất cả xoè ra còn chính giữa là mầm lá non tượng hình dạng như cây giáo (vũ khí) nhọn hướng lên trời.
Nước dâng cao rồi rút xuống giữa các bẹ dừa vẫn còn nước sẽ là nơi trú ngụ của những chú cá bóng no tròn: cá bóng dừa. Một thức ăn mộc mạc, đơn giản nhưng khoái khẩu khi nấu cá thành một nồi canh rau hoặc một mẻ kho khô .
Đám dừa nước trước nhà có hai khoảng trống: một dùng làm bến sông để đậu tam bảng, một là đường nước dẫn ra / vào cho một “cái xẻo” hình tròn mà đường kính khoảng năm, sáu thước, nơi có một cái “sàn nước” làm chỗ rửa chén, giặt gyạ….Kế bên sàn nước luôn có hai cái lu lớn chứa nước sông lóng phèn dùng cho nhu cầu nấu nướng. Ngoại tôi có hai cái lu khác nữa chứa nước mưa dùng để uống. Mỗi lu có một cái gáo ( làm bằng gáo dừa khô có tra cán) để múc nước.
Thuở ấy nguồn thủy sản rất dồi dào, trên ruộng cũng như dưới sông. Nơi cửa cái xẻo nói trên ngoại tôi mướn người làm một cái đăng và cái đó đặt thường trực để những khi “cực ăn” bà dùng để bắt cá, loại cá thường có nhiều là lòng tong: Khi nước lớn bà rải cám để nhử cá vào ăn. Khi thấy đã có nhiều cà thì bà khép cái đăng lại và đơn giản chờ nước ròng, xẻo cạn nước thì đàn cá …như nằm trên thớt: trong cái đó hay phơi mình trên đáy xẻo .
Người xưa thường nói: Chồng như cái đăng, vợ như cái đó. Thời xưa thì vậy nhưng thời buổi bây giờ thì sao nhỉ?
Vùng đất này thuở Pháp thuộc thì thực dân coi như là vùng địch. Thỉnh thoảng chúng mở những cuộc bố ráp và nhân dịp này bọn lính commando gồm người Việt lẫn dân Phi Châu cướp bóc dân chúng và đôi lúc xảy ra chuyện hảm hiếp phụ nữ. Chúng vơ vét bất cứ thứ gì : quần áo, tiền bạc, gà vịt, thức ăn… Nêú vào dịp Tết thì chúng lấy cả dưa giá, cá kho, bánh phồng, bánh tráng, bánh ít, bánh tét…Có lần ngoại tôi ném giấu những đòn bánh tét vào lu chứa nước rồi sau đó bà quên hẳn. Cả tuần lễ sau bà sực nhớ ra nghĩ rằng bánh tét sẽ hư nhưng ngạc nhiên bánh vẫn còn ăn được ngon lành. Bố ráp là một khổ nạn cho dân thời bấy giờ, những thanh niên phụ nữ phải chạy trốn, người già cả thì ở lại “giử nhà” với tai họa do súng đạn, đánh đập có thể giáng xuống bất cứ lúc nào.
Tôi còn nhớ một hoạt cảnh “lỡ khóc lỡ cười” đã xảy ra chứng tỏ tinh thần người dân hoảng sợ cao độ trong tình trạng vô cùng nghiệt ngã vì chiến tranh. Ngoài những lần bố ráp chính quy, thỉnh thoảng bọn Pháp đột kích bằng tàu sắt đổ bộ loại nhỏ mà người dân gọi là “tàu đầu bằng”. Khi phát hiện tàu Pháp là lúc chúng đã đến nơi rồi vì chúng cho tàu chạy chậm với tiếng máy nổ nhỏ, dân chúng chạy trốn ra sau ruộng mang theo bất cứ thứ gì có thể. Có lần má tôi hoảng hốt chạy trốn cầm trên tay độc nhất một đôi đủa bếp…(dùng cho việc bới cơm).
Vườn của ngoại tôi thuộc loại già nua, được trồng bởi đủ lại cây không có giá trị bao nhiêu như xoài chuối, dừa, cau, mận, tứ quý lẩn với những cây bàng (không có lợi ích, còn gọi là ngô đồng thì phải ?), cây mù u, tầm vong… Tất cả chúng đã cằn cỗi như tuổi già của ngoại, mỗi loại có một ít và cho trái chẳng có bao nhiêu. Nhà không có đàn ông, tôi là thằng con nít, nên vườn tược như rừng hoang, ruộng lúa ngoại và má tôi cũng phải mướn ngưòi phụ giúp nên lợi tức hằng năm chỉ đủ sống qua ngày.
Cây mù u (loại cây này bây giờ có còn không?) là loại cây gổ tốt khi cây đã già, người dân quê thường cưa thành ván để đóng tam bảng. Trái mù u chín rụng xuống được gom lại ủ, ép lấy dầu để đốt đèn. Xác trái mù u sau khi ép dầu được quếch nhuyển trộn với bông gòn để “se” thành cây rọi (đuốc). Tụi nhỏ chúng tôi thường dùng dao chặt vào thân cây mù u để lấy mủ rồi trộn với đất sét loại tốt để vo thành viên đạn bắn “cu li”. Những viên đạn này lâu ngày sẽ trở thành bóng loáng và trở thành “quý giá” với tuổi thơ của bọn con nít chúng tôi. Những viên đạn chỉ là đất sét được dùng để bắn chim bởi “nạn dàn thung”.
Đầu song nhà ngoại kế bên đường đi có hai bụi tầm vông khá to; đây cũng là nguồn lợi kha khá của ngoại. Phong trào thanh niên tiền phong một thời đã dùng cây tầm vông vạt nhọn để đánh Tây, người xưa dùng làm cây tầm vông dựng nêu cho ngày Tết, cây tầm vông còn dùng để làm sườn vách nhà thậm chí có thể dùng thay tre để làm đòn dông cho mái nhà nên cây tầm vông cũng có một vị trí đáng kể trong lòng dân quê.

Một lần về thăm quê ngoại năm 2002 nơi còn đứa em gái của tôi lo phần hương khói tổ tiên, cảnh cũ đã mất dấu hoàn toàn ngoại trừ thửa đất, những nấm mồ của ông bà cha mẹ còn đó đã làm cho tâm tư tôi bùi ngùi thương nhớ.
Tôi bước đi chầm chậm lúc ngó xuống đất lúc ngước lên trời như cố tìm một chút dư hương ngày cũ; không thể thấy mà chỉ cảm nhận chập chờn trong đầu những hình bóng thân yêu của ông bà cha mẹ, hình bóng của đám dừa nước dưới mé sông rất thơ mộng, lãng mạn khi lấp lánh ánh trăng rầm, đám tầm vông đầu ngõ run rinh cánh lá khi gió đùa.
Xa quê nhà nhiều năm, lần về thăm duy nhất cũng đã mười năm qua rồi mà tôi chưa được thêm một lần nào nữa…!!!


A.
January 29, 2013
(18 Tháng Chạp, Nhâm Thìn)
*Những địa danh bây giờ có thể đã thay đổi phần nào.
*Tất cả ảnh từ Internet

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.09.2014 03:40:32 bởi Anh Tú >
Attached Image(s)
#16
    Anh Tú 04.02.2013 02:58:44 (permalink)


    TÔI VẪN Ở NHÀ

    (Để tiển bạn tôi, PTH)


    Khoảng 8:05 sáng ngày 1 tháng 2 năm 2013, vì đang mùa Đông ở Bắc Bán Cầu nên trời còn tối, tôi có cảm giác còn sớm lắm khi đó điện thoại reo vang.
    “Ai mà giờ này đã réo gọi rồi!” Tôi bực mình thầm nghĩ.
    Thường ngày tôi không quan tâm vì những cú điện thoại quảng cáo phá rối thường xuyên nhưng hôm nay tự nhiên tôi lại bắt máy…

    Lần đầu đến nơi đất khách quê người, tôi cảm thấy “cô đơn” dù bên mình có vợ có con, có anh em ở quanh…Khi còn ở quê nhà ngày nào mà không gặp bè bạn để tán gẩu bên ly cà phê riết rồi ghiền nên bây giờ không còn niềm vui đó nên tôi nói cô đơn là vậy.
    Ngày qua ngày nhờ đầu mối này nọ tôi liên lạc được vài bạn cũ cũng có tâm tình như mình, vì ở xa nhau do đó rất vui mà gặp nhau bằng điện thoại.
    Rất mừng tìm được H., người bạn thân và cũng là con của một vị ân nhân của tôi ngày xưa. Bác Hai, ba của H., ở Sài Gòn đã tử tế cho tôi ở trọ đi học mà không phải đóng góp gì cả mà trái lại bác còn tốn thêm chi phí điện, nước, v.v…
    Chúng tôi định cư ở ven bờ Đông Hoa Kỳ; tôi ở gần cuối phía Bắc và H. ở gần tận phía Nam nên chưa có dịp gặp nhau mà chỉ thỉnh thoảng nói chuyện, thăm hỏi nhau qua điện thoại. Hứa sẽ đi thăm, hoặc tôi xuôi Nam hay H. ngược Bắc. Ai cũng vì chuyện miếng cơm manh áo, vì con vì cháu mà chưa thực hiện được ước muốn này. Kể ra cũng tại chúng tôi không quyết tâm như câu nói “không vì ngăn sông cách núi mà bởi vì lòng người ngại núi e sông”. Ngày qua ngày hai thằng vào “tuổi thất thập cổ lai hy” hồi nào không hay, sức khoẻ suy đồi, thậm chí bị bịnh này bịnh nọ do vậy có những lúc muốn đi xa thăm nhau nhưng sợ di chuyển.
    Qua một tuần hay hai rồi ba, tôi không gọi thì H. gọi. Mỗi lần, hỏi thăm sức khoẻ thì bạn mình nói: “Tao khoẻ lắm , không có “cao” nào phá đám như mầy bị đâu”. Tôi mừng cho bạn không như tôi nào “cao máu, cao mở, cao đường” thậm chí còn ăn khó tiêu, “ở cổ”…
    Mấy năm gần đây hai thằng đều hưu …nhưng làm công việc mới là giử cháu. H. rất khoái việc này, luôn khoe với tôi về thằng cháu ngoại của mình. Tôi luôn nhắc bạn phải ăn uống kỷ lưởng, thể dục thể thao để giử gìn sức khoẻ, để giúp tiến trình lão hoá đi với tốc độ chậm và qua đó mình có thể sống thêm khoảng đời trời cho thêm càng nhiều càng tốt.
    Một hôm con trai của H gọi:
    -Ba con bảo con gọi thăm bác vì lâu quá không thấy bác gọi, xem bác khoẻ không?
    -Ờ! Bác cũng khoẻ. Cám ơn con gọi. Xin lỗi ba con ….vì bác lơ đểnh đã quên gọi. Ba con đâu cho bác nói chuyện?
    -Ba con ở đây nè nhưng ổng đang mệt.
    Chúng tôi trao đổi vài câu thì bạn đã than mệt và xin lỗi trao máy lại cho con trai nói chuyện với tôi. Thế là bạn tôi bị bịnh nặng đang ở nhà thương. Tôi bất ngờ và lo cho bạn mình.
    Tiếp theo khi thì bạn khoẻ lại, khi thì được biết bạn trở lại nhà thương...rồi lại trở về nhà trị bằng thuốc bắc, thuốc nam. Tôi linh cảm một điều xấu sẽ xãy ra…
    Không đi thăm bạn được thôi thì nhờ tấm “cạc get well soon” thay mình vậy!
    Chờ ông bưu điện giúp mình đôi ngày để chuyển thư rồi gọi điện thoại xem tấm cạc của mình đã đến chưa, nhưng không ai nhận điện thoại cả.
    Hai ngày trôi qua…Như đã nói bên trên: có điện thoại sáng sớm và tôi bắt máy.
    Liếc mắt vào máy thấy số của con trai bạn mình…
    -Q. đó hả? Bác đã có gọi con. Hôm nay ba con thế nào?
    -Ba con khoẻ lắm bác ơi!
    -Vậy là bác mừng lắm. Tôi cắt ngang lời của Q.
    -Ba con mất rồi bác ơi. Lúc 6:30 sáng nay….Giọng Q. nghẹn lại.
    Tôi “chết đứng” và thốt lên “Trời ơi!”.
    Vốn đã “ngộ” rằng đời con người là vô thường, sanh lão bệnh tử, tôi biết ai cũng phài đi chung con đường “một chiều” này rồi đến đích sớm hoặc muộn mà thôi nhưng không kềm được nỗi xót xa dâng tràn.
    “H. ơi! Gần Tết rồi mà mầy vội đi, sao không chờ qua Tết hả?”
    Câu nói tiếc nuối này tôi nghĩ trong đầu và thật tình có một luồng cảm giác lành lạnh chạy từ tim lên mí mắt: không đến nỗi lệ trào nhưng lệ vừa đủ làm ướt hai tròng mắt của tôi.
    Bạn tôi ra đi ngày thứ sáu. Thứ bảy tôi gọi lại Q. thì biết rằng thứ hai bạn sẽ “tiếp” người thân, bè bạn đến vĩnh biệt bạn lần chót ở nhà quàn, thứ năm bạn sẽ trở thành cát bụi.
    “Thiêu tao đừng chôn. Chôn rồi trong tương lai tụi bây sẽ bỏ tao một mình!” Đó là ước muốn của bạn nói với các con.
    Tro của thân xác bạn sẽ được vợ con thờ tại nhà để bạn có thể tâm sự với những người bạn mới bên kia thế giới rằng “ Tôi vẫn ở nhà!
    Tất cả bạn học cùng lớp hoặc khác lớp nhưng biết H. đều ngỡ ngàng với tin buồn này. Thôi thì như hồi xưa đến bây giờ, các bạn này đành phân ưu cùng tang huyến và cầu nguyện cho linh hồn H. được an bình nơi cõi vĩnh hằng. Có một bạn nói: “Rồi lần lượt sẽ đến phiên tụi mình, tụi bây ơi!”.
    Hôm nay là chủ nhật, 3 tháng 2 nhằm 23 tháng chạp âm lịch, ngày dân Việt khắp nơi đưa ông Táo về trời phúc trình chuyện trần gian, không biết ông Táo có nhớ ghi tên mầy trong danh sách của một người vừa trả xong nợ trần gian?
    Vâng, H. ơi! Mầy nợ đời đã trã xong. Có sống là phải có chết. Hãy yên nghỉ đâu đó đi đợi tụi tao sẽ đến gặp lại mầy.


    A.
    February 3, 2013

    #17
      Anh Tú 17.02.2013 05:36:48 (permalink)


      NHẪN VÀ MẸ TÔI

      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/7D7A6AB67FEF44AB84FAD255779D5EE0.jpg[/image]



      Trường học lúc nhỏ, trường đời khi lớn lên,
      kể cho mẹ nghe những chuyện người ta ăn hiếp mình,
      bao giờ mẹ cũng bảo: “Câu nhịn chín câu lành nhe con!”
      Nghe lời mẹ thì cứ tiếp tục bị ăn hiếp và thua thiệt;
      dù thế rắc rối được kết thúc gọn.
      Khi mẹ còn sống hoặc khi mẹ đã qua đời,
      mẹ và chữ nhẫn luôn ở tim tôi.


      Anh Tú





      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/2C7C07BF70E9410395933D22CC3CA30A.jpg[/image]
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.10.2015 05:27:10 bởi Anh Tú >
      Attached Image(s)
      #18
        Anh Tú 03.03.2013 00:41:47 (permalink)





        MỘT ĐÊM KHÓ NGỦ


        Mấy hôm nay trời trở ấm. Tôi cảm thấy ấm hơn vì sáng sớm nhiệt độ chỉ ở vào trên dưới 40 độ F chớ không như lúc trước dưới 32 độ F (0 độ C). Mấy hôm nay chỉ có mưa, thường có mây xám nhưng thỉnh thoảng mặt trời lên chói chang. Tôi thầm nghĩ hình như mùa Xuân sắp trở lại. Định xem những nhánh cây trụi lá có nhú mầm không nhưng chưa làm, tánh tôi hay lừng khừng như vậy!
        Tối qua nhìn vào lịch của tháng ba: ngày 10 là Daylight Saving Time starts (đổi giờ), và ngày 20 là Xuân Phân. Đúng là mùa Xuân sắp trở về!
        Giới thương mại đã và đang bán hạ giá những món hàng mùa Đông và sửa soạn bày những hàng hoá mùa Xuân. Nét mặt của mọi người tươi tắn hơn mong đợi một mùa vui.
        Tôi cũng sẽ bận rộn với việc nhà cửa vườn tược, dù cực hơn mùa Đông nhưng vẫn. ..khoái. Bận rộn sẽ bớt hay không làm thơ.. để có một số bạn “thương tôi” mà “nhắc nhở”, để các bạn đó khỏi phải tốn cơm nhà mà lo cho tôi. Xin cám ơn.
        Dù vậy, chuyện trời đất làm sao mà chắc được; những trung tâm dự đoán thời tiết có lúc cũng sai bét; trong tháng ba dương lịch này, dĩ nhiên là vùng tôi ở, biết đâu tuyết cũng sẽ còn rơi.
        Đêm về nhiệt độ vẫn hạ thấp do đó máy sưởi rì rầm chạy suốt không như ban ngày. Thú thật dạo này nghe máy sưởi càng chạy tôi lại càng sốt ruột, không sợ lạnh mà là sợ hầu bao vơi nặng do giá dầu chạy máy sưởi cuối Đông luôn tăng lên. Đổ dầu đầy bình xài được tháng rưỡi phải đánh đổi trọn tháng lương hưu. May không chết đói vì có thằng con trai ở chung.
        Đêm nay không rõ sao khó ngủ, ngủ được đôi giờ chập chờn, càng dỗ giấc càng khó ngủ và đâm ra bực bội với tiếng đồng hồ đánh nhịp. Không ngủ được khiến đầu óc nghĩ ngợi lang mang: chuyện sống chết, chuyện hỉ nộ ái ố..., chuyện chiến tranh. Chết: thầy cô bè bạn vơi dần…đương nhiên nhưng cũng vẫn buồn. Chuyện đời: sao có nhiều tị hiềm, khích bác, lỗi phải, ích kỷ…Chiến tranh: vì tham lam, hận thù…
        Hai giờ khuya có tiếng mở cửa! Thằng con trai đi ra ngoài trời lạnh giá để chạy đi mua thuốc cho con vì con trai (cháu nội của tôi) chợt bị sốt. Tôi vào sờ đầu cháu để xem sao: cháu nhỏ, nhắn ngây thơ, ngơ ngác…ôi thương quá đi thôi.
        Nhớ lại hồi xưa vợ chồng lo cho con cũng như con trai của mình lo cho cháu tôi bây giờ: cái vòng lẩn quẩn, lối mòn nhưng sao thiêng liêng quá.
        Ngó đồng hồ: 4:29 AM Saturday, March 02, 2013 (ET/USA)! Những hôm khác giờ này tôi cũng đã thức rồi! Lại cà phê, lại ăn sáng, cái bao tử đòi hỏi chớ tôi đâu muốn và may mắn là có cái miếng ăn.
        Không quên câu:

        Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
        Có thêm ngày nữa để yêu thương!


        Bạn bè tôi ơi! Hãy giữ cái yêu thương mà trời ban phát cho mỗi sáng thức dậy!


        Anh Tú

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.10.2015 05:28:21 bởi Anh Tú >
        #19
          Anh Tú 11.05.2013 19:18:26 (permalink)
           
           CHUYỆN MÁY BAY 
          Từ thuở còn là thằng bé sáu/ bảy tuổi, thời Pháp thuộc lại ở “vùng xôi đậu” nên thường xuyên đối diện với bố ráp của thực dân, dưới đất thì lính commando gồm dân Phi Châu, có cả dân Việt khố xanh khố đỏ, dưới sông thì tàu sắt đầu bằng, trên trời thì may bay vần vũ, khi thì loại “đầm già” quan sát, khi thì loại “còng cọc” bắn súng ném bom.
          Có lần tránh “càng” phải tránh nấp vào con rạch cùn, người lớn thì trầm mình trong đám lục bình, con nít thì trùm áo mưa nằm trên xuồng ngụy trang cũng bằng rau mát. Tự nhiên dù còn bé nhưng sự sợ hải có chừa ai nhưng tánh tò mò còn hiện diện lúc ấy tôi vạch áo mưa nhìn trời coi “bà đầm” lượn lờ tìm mục tiêu.
          Lần khác ác liệt hơn. Theo má và bà đi chợ Nhơn Phú thuộc Cái Nhum. Sáng sớm mặt trời vừa lên chợ đã nhóm đông đảo, sương mai còn sót lại mờ mờ quanh chợ, xuồng của chúng tôi vừa đâm mủi vào bến thì, thấp rất thấp, phát hiện ra hai con “còng cọc” hùng hổ, ồn ào bay tới tấn công do có tiếng động cơ lạ thường bất chợt đánh động màng nhĩ, mắt hướng về chúng thì thấy sau đuôi hai con quái vật xịt ra những làn khói đen, mấy giây sau mới nghe thấy tiếng súng đại liên xối xả. Trong hoảng loạn, dân đen rối loạn, kẻ chạy, người núp…Vì còn ở trên tam bản nên má tôi và bà chèo ra sông để rời khỏi nơi này càng sớm càng tốt nếu nằm dí nơi trọng điểm sẽ hứng biết bao lần bắn phá. Quyết định này là cầu âu nhờ trời phật độ trì và với phán đoán là may ra kẻ thù thấy người đi trên sông …sẽ không phải là mục tiêu. Tiếng nổ “liên tu bất tận” pha với tiếng gầm rú của máy bay, bà và má tôi cấm đầu bơi chèo cật lực mà có cảm giác chiếc tam bản vẫn ù lì một chỗ. Bầu trời như nổ tung tợ sấm sét bổ xuống từng hồi, tiếng đạn “réo réo” nghe rõ mồn một…Khủng hoảng quá, bà và má quyết định tắp vào đám dừa nước bên bờ sông rồi núp trốn dưới nước. Kỳ này má lôi tôi theo. Hai bà niệm Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn liên hồi. Cuộc bắn phá hình như lơi đi, hay vì đã quen với hoàn cảnh, tuy nhiên vẫn cảm thấy rất nguy nan khi vẫn còn ở nơi đây, đâu biết chúng nó bao giờ ngưng, chúng tôi nhảy lên tam bản chèo bơi để cố ra khỏi vùng oanh kích. Nhờ trời cuối cùng chúng tôi đã thoát hiểm.
          Trong thời chiến tranh trước 1975, trên bầu trời quê ta đã có bao nhiêu cánh sắt gầm thét phục vụ chiến tranh mà trong đầu thoáng mong một thuở thanh bình, đôi lần đến Tân Sơn Nhất tiển bạn lên đường du học mà ước mơ phải chi gia đình mình khá giả hoặc mình học hành giỏi giắn để được một lần bay lên… trời cao.
          Khi ra đời đi làm việc ở Hà Tiên cuối miền đất nước, giao thông cách trở vì vẫn còn ở thời chiến tranh khốc liệt. Ba hoặc sáu tháng mới về thăm nhà một lần, một đoạn đi xe lam ba bánh đường đôi khi bị đấp mô, một đoạn dài hơn đi bằng đò mất nhiều thời giờ, một đoạn thì bằng xe đò. Một chuyến đi như vậy phải mất hai ngày. Một người bạn mách nước là thử làm đơn xin quá giang những chuyến máy bay quận sự liên lạc giữa nơi này với Cần Thơ xem sao. Thử thời vận, có lần tôi được chấp thuận. Xế chiều lên máy bay , mẹ anh Núi nơi nhà trọ đầu tiên buổi sáng đã làm nhiều thức ăn cúng rằm, đặc biệt có nhiều loại bánh ngon vô cùng. Tôi tha hồ, vô tư “chén”!!! và thoải mái, vui vẻ  chờ đi chuyến máy bay đầu tiên trong đời. Một kỹ niệm …khó quên.
          Không may cho tôi chuyến bay không là trực thăng mà là loại quan sát L20 di động lên xuống nhanh nhẩu như chim. Tôi nói không may là vì kết quả của chuyến đi này khiến tôi suốt đời không quên. Lên máy bay mà bụng tôi thức ăn còn đầy ắp, cộng với sự cất cánh nhanh lẹ đã khiến thức ăn của tôi sắp trào ra miệng. Tôi cố kềm lại. May sao không chuyện gì xãy ra và thích thú nhìn những cánh đồng lúa bạt ngàn, nhìn dảy núi Sam núi Sập từ trên cao. Đang thưởng thức quê hương gấm vóc, bổng tiếng máy bay “đổi giọng” và cắm đầu xuống đột ngột. Không phải bị bắn rơi mà máy bay đáp xuống Châu Đốc trước khi về Cần Thơ. Chắc các bạn cũng đoán được điều gì xãy ra cho tôi, tất cả thức ăn trong bao tử đã ào ạt nôn tháo ra ngoài!!! Nửa giờ sau máy bay cất cánh nhanh gọn, và bao tử của tôi bị thót thêm để đẩy ra ngoài thức ăn bánh trái còn sót lại. Tôi đã sợ hải rồi, không phải sợ đi máy bay mà sợ chuyện ói mửa bất đắc dĩ này. Chưa hết, khi chấm dứt cuộc chuyến bay ở Cần Thơ thì tiếp theo chuyện chẳng đặng đừng là khi bao tử không còn thức ăn mà vẫn ói ụa thì chất trôi ra là …mật xanh!!! Một chuyến máy bay hải hùng của tôi.
          Thời thế đẩy đưa, một chuyến bay của hàng không Thái Lan đưa tôi sang Hoa Kỳ mà trạm tạm dừng tiếp tế thêm nhiên liệu là Frankfurt, Đức Quốc. Quý bạn có đi máy bay đường dài rồi thì biết, mới bắt đầu háo hức nhìn mây bay bên ngoài liên tưởng đến Tề Thiên dằng vân giá võ, đến những nàng tiên nữ múa khúc Nghê Thường, nhưng rồi lần lần mệt mỏi…Sau Frankfurt, maý bay tiến tới bờ Đông của Mỹ Châu vùng đất của Canada, tôi đoán vậy và từ đó theo ven biển xuôi Nam để đến Thành Phố New York. Khi gần đến nơi máy bay hạ thấp cao độ, qua cửa sổ, nhìn xuống thấy những vùng đất xám xịt, màu của đất chết, của sa mạc. Trong lòng thắc mắc nhưng không dám hỏi ai vì sợ lòi ra cái…ngu của mình. Thời điểm đó là cuối tháng ba nên vùng Đông Bắc Hoa Kỳ cây đã không còn lá và đó là sự giải đáp thắc mắc của tôi sau này.
          Sau này có thêm đôi lần đi máy bay nữa nhưng cũng không ghi nhận điều gì đặc biệt. Gần đây trong chuyến bay New York- Florida tôi lại có hứng thú lén ghi vài tấm ảnh, lý do là vì chuyến bay cũng xuôi Nam theo ven biển của Miền Đông Hoa Kỳmùa này thấy đẹp quá, khởi đầu chuyến bay đầy mây sau thì quang đãng, và đặc biệt tôi ghi được bóng của chiếc máy bay có chở mình trong đó in trên đất.



          A.
          May 10, 2013
           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.09.2014 03:42:42 bởi Anh Tú >
          Attached Image(s)
          #20
            Anh Tú 25.07.2013 03:18:18 (permalink)
             
             
             
             
            NHỚ DÌ
             
            Khi sáu tuổi theo má đến ở với bà ngoại, tôi mới bắt đầu có những hiểu biết về những thân nhân bên ngoại. Ngày qua ngày, những kỷ niệm vui buồn xảy ra đầy ắp đời tôi.
            Ông bà ngoại có tất cả năm người con mà tôi gọi là dì Hai, dì ba, Má, ? và cậu Sáu. Lúc này, ông ngoại, dì Ba, cậu Sáu đã qua đời từ lâu; riêng người con thứ năm tôi không nghe ai nhắc đến.
            Dì Hai còn sống ở làng kế bên.
            Dì dượng Ba có hai người con là anh Hai Đài, chị Ba Xứng, cậu Sáu có một con trai mà tôi gọi là “thằng” Hai; ba người cháu mồ côi này đang được sự đùm bọc của bà ngoại già nua góa bụa nghèo nàn.
            Năm tháng trôi qua, anh Hai Đài và chị Ba Xứng lập gia đình; thằng Hai thì đi chống Pháp rồi chết ở chiến trường. Tôi đi học, tốt nghiệp rồi ra đời…
            Bà ngoại quá vãng, má tôi chỉ còn lại dì Hai là ruột thịt thân thích nhất. Hai người đã thương mến nhau thì bây giờ trong hoàn cảnh mới tình thương càng nhân đôi. Dì Hai xem tôi như con ruột.
            Dì Hai là con chim đầu đàn trong đại gia đình bên ngoại, chỉ về mặt tinh thần thôi nhưng vô cùng quan trọng và được mọi người quý kính.
            Mỗi lần tôi gặp dì, những câu hỏi thăm tíu tít, ánh mắt có nụ cười, cái đánh yêu lên vai đã biểu lộ tất cả sự trìu mến của dì dành cho người cháu mồ côi cha này.
            Mỗi khi dì hoặc má tôi đau ốm là người này lo lắng cho người kia bất kể ngày đêm.
            Trước và sau 1975, dì Hai và má tôi đã già và những biến động xã hội khiến hai bà thêm cằn cổi thấy mà thương.
            Năm 1979, má tôi bị bạo bệnh không vượt qua được. Khoảng thời gian má tôi hấp hối (kéo dài đôi ngày), tôi với em gái tôi cùng dì Hai thay nhau ở bên cạnh má. Một đêm dì Hai và tôi canh chừng, săn sóc má, thấy tôi mệt mỏi nên dì bảo tôi đi “chợp mắt” để dì lo cho. Cũng muốn nghỉ ngơi một chút rồi sẽ thay phiên cho dì, tôi nghe lời. Quá nửa đêm hôm ấy, dì lay tôi dậy và thì thào “ Thức dậy đi con, má con sắp đi…”. Một đêm đau khổ nhất của đời tôi không bao giờ quên. Dì Hai nức nở khóc thương cho người em duy nhất còn sót lại nay cũng bỏ đi. Là vào tháng bảy mưa Ngâu, mưa khóc cho gia đình bên ngoại tôi mất thêm một thành viên nữa.
            Năm tháng trôi qua, dì tôi mái tóc pha sương nay đã bạc và lại thưa thớt hơn, mắt lõm sâu, da “trổ đồi mồi” và nhăn nhúm nhiều nhưng tình thương của dì dành cho tôi vẫn không thay đổi mà còn tăng gấp bội vì nay tôi côi cút cả mẹ lẩn cha, với lại cuộc sống rất bấp bênh.
            Rồi một ngày tôi đến gặp dì tựa như thăm viếng bình thường nhưng trong thâm tâm của tôi là từ giã để đi xa không biết bao giờ trở về. Do sợ dì buồn, bịn rịn với nước mắt, lo lắng mà tôi phải dấu diếm chỉ cho con của dì biết mà thôi; sau này nếu biết thì chuyện đã rồi nhưng dì sẽ ít xúc động hơn.
             
            Chẳng đặng đừng phải đi xứ xa
            Viếng thăm lần cuối giã từ bà
            Bâng khuâng chỉ nói bằng ánh mắt
            Mai mốt phương trời nhớ thiết tha!
             
            Tóc bạc da nhăn mắt lặp loà
            Chia ly lưu luyến nắm tay bà
            Nén lòng để lệ không vương mắt
            Đời sống vô thường nghĩ xót xa!*

            Một đứa con gái tôi quay về quê khi cháu tốt nghiệp trước khi đi làm, đã thay tôi đến thăm dì. Đã vào hàng 90, dì còn minh mẫn nhưng sức khoẻ yếu và mắt đã loà; nhìn hình của dì mà tôi rưng rưng nước mắt.
            Đến khi tôi về được thì dì đã thành người thiên cổ; tôi chỉ biết tạ tội với dì là “ lỗi tại con, xin dì tha thứ” vì con đã chần chờ.
             
            Quay lại quê nhà để viếng thăm
            Bà nay yên nghỉ cõi xa xăm
            Con quỳ bốn lạy lời cầu nguyện
            Gởi đến bà theo hương khói trầm.*

            Năm nay mùa lễ Vu Lan sắp đến, con xin viết đôi dòng tưởng nhớ đến dì Hai thương kính…
             
            A.
            July 21, 2013
            *Trích NHỚ XƯA - A.
             
             
             
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.11.2013 07:27:23 bởi Anh Tú >
            #21
              Anh Tú 09.09.2013 05:43:16 (permalink)
              PHƯƠNG-THÀNH NỖI NHỚ
               
              -Con có gia-đình chưa?
              -Dạ thưa thầy chưa ạ.
              -Vậy thì chọn nhiệm-sở nào cũng được mà, chọn…xa xa cho phỉ chí trai đi con.
              Đó là những lời trao đổi giữa thầy Viện-Trưởng Viện Đại-Học Sài- Gòn, Giáo-sư Trần Quang Đệ, với tôi khi thầy chủ-trì buổi chọn nhiệm-sở của nhóm “thầy giáo mới ra trường” năm 1965 lúc thấy tôi chần chừ mãi trước bảng ghi nhiệm-sở mà không chọn …
              Bởi thứ hạng thấp nên tới phiên tôi còn những nơi gần cũng như xa nhưng với giao-thông rất khó-khăn, nguy-hiểm vì dạo đó chiến-sự cũng đã khá sôi động. Lời khích tướng của thầy Viện-Trưởng làm tôi nổi máu giang-hồ, liền viết ngay tên một trường ở miền biên- giới Việt Miên lên giấy chọn.
              Tới ngày khăn gói lên đường đến một nơi nghe tiếng nhưng chưa một lần thăm viếng, háo hức vào đời lẫn với sự lo lắng bước đường xa xôi lạ lẫm hiểm-nguy pha trộn thành một cảm-xúc là lạ hấp-dẩn.
              Đoạn đường xe Cần-Thơ/ Rạch-Giá lần đầu đi qua, dù bên đường cũng chỉ là những cánh đồng lúa bạt ngàn, những chợ làng nho nhỏ, những nhà lá nghèo nàn hoặc mái ngói nhưng đơn-sơ mộc mạc, những đoạn sông rạch với lục bình trôi ghe xuồng xuôi ngược…mà tôi vẫn thấy như mình du-lịch ở một vùng đất mới.
              Phải qua đêm ở phố-thị Rạch-Giá hôm sau mới tiếp tục được cuộc hành-trình. Ngủ khách-sạn, ăn cơm tiệm, hỏi thăm đường đi nước bước cho ngày hôm sau.
              Khách-sạn, cơm tiệm một mình….tự-nhiên mình cảm thấy mình đã là người lớn; tôi còn tưởng tượng mai mốt đây sẽ đứng trên bụt gổ trước mặt một đám học trò và bọn chúng cúm núm một thưa thầy, hai cũng thưa thầy nữa kìa…
              Sáng tinh sương tôi đã đến bến tàu Rạch-Giá/ Kiên-Lương với mớ hành-trang chỉ là sách vở, đôi bộ quần áo, gói xôi vị cho điểm tâm, hai ổ bánh mì thịt cho buổi trưa và chiều cùng hai, ba tờ nhật báo, tuần báo. Vì đoạn đường này chừng hơn sáu mươi cây số mà tàu đò đưa khách, thường ghé rước hoặc thả khách nên chạy đã chậm còn chậm thêm. Do đó, khách đi đường xa thường mướn cái võng  nằm nghỉ thì được thoải mái hơn. Tôi chọn một cái võng giữa tàu để tránh bớt khách lên xuống. Lần đầu tiên đi tàu kiểu này nên cũng thú-vị; treo mình “ tòn ten” ngắm cảnh lạ đường xa, nghiền ngẫm mấy tờ báo, rồi chìm vào giấc ngủ …chập chờn.
              Thuở ấy tuyến đường bộ Rạch-Giá / Hà-Tiên dài khoảng chín mươi chín cây số, nếu tôi không lầm, gập ghềnh lổ hang, sỏi đá …với những cây cầu cũ kỹ. Bên cạnh đó vì chiến-tranh nên đường bộ không an-toàn. Xe hơi chỉ chạy một đoạn ngắn từ Rạch-Giá chứ không chạy suốt đến Kiên-Lương, Hà-Tiên. Vì lẽ đó phương-tiện giao-thông chính là đường sông. Những khách buôn bán, nông-dân, phụ-nữ hoặc trẻ con, người già thường đi suốt tuyến đường tàu nhưng những thanh-niên, hoặc ai có làm việc cho chánh-quyền đương-thời thì chỉ đi đoạn đường Rạch-Giá/ Kiên-Lương (hoặc ngược lại), còn đoạn Kiên-Lương / Hà-Tiên thì lên đường bộ đi bằng xe Lam, nhanh và an-toàn hơn.
              Ngủ rồi thức. Ăn, đọc báo rồi ngủ. Cuối cùng tàu cũng đến trạm Kiên-Lương, nơi có nhà máy xi-măng tân-tiến của Nam Việt-Nam, khai-thác núi đá vôi vùng này, cung-cấp xi-măng cho cả nước và hình như có xuất-cảng nữa. Quận Kiên-Lương trẻ tuổi với nhà máy xi-măng đang phát-triển nên nhà cửa, quán xá khá khang-trang so với những quận nghèo nàn khác lúc bấy giờ. Nhìn những ngọn núi đá vôi (không cao to), nhìn khu nhà máy xi-măng độ sộ với những ống khói nhả khói mịt mù (ngày đêm), một niềm vui bất chợt đến vì sự tiến-bộ về nền công-nghiệp của nước nhà. Ước mong chiến-tranh đừng lan đến nơi này…
              Xe Lam lên đèo xuống dốc trên con đường đất đỏ dài cở ba mươi cây số, làm tung lên những làn bụi đỏ phía sau, chạy dọc theo mé biển đưa tôi đến quận Hà-Tiên tịch-mịch, cổ-kính. Bên trái là biển thuộc vịnh Thái-Lan lần đầu nhìn tận mắt, bên mặt là rừng thưa lai rai mái nhà lá đơn-sơ, thỉnh thoảng gặp vài người dân quê mộc mạc đi chân đất bên đường, vùng đất mới với cảnh, người mới làm nao nao lòng khiến tình thương quê-hương trong tôi dạt dào hơn. Bãi biển Thuận-Yên sóng vỗ nhè nhẹ nằm bên trái con đường với hàng dừa xanh tươi bên mặt dưới chân núi Tô-Châu đã tới có nghĩa là đôi phút nữa Hà-Tiên sẽ hiện ra trước mặt tôi.
              Chiều đã xuống, từ bến đò Tô-Châu tò mò háo hức ngắm nhìn Hà-Tiên nằm im lìm bên kia sông, đoạn sông ngắn nối vịnh Thái-Lan và hồ Đông-Hồ,  tôi đang thở vào ra không-khí lạ như có pha mùi muối và cá của biển, tôi đang cảm nhận mùi đất quê-hương nồng-nàn mùi lá rừng, khai-phá bởi ngài Mạc Cửu; vùng đất mới mà tôi sẽ lăn lốc sống vài năm lúc mới ra trường. Không-gian này, thời-gian ấy đã hằn dấu sâu sắc trong đời tôi và tôi đã mang chúng theo mãi bên mình từ dạo ấy đến nay.
               
              PHƯƠNG-THÀNH NỖI NHỚ
               
              Phương-Thành ơi! chợt nhớ em da diết
              Mấy mươi năm rồi cách biệt xa xôi
              Bao kỷ-niệm thân-thương còn lưu giử
              Tên ngọt ngào anh từng nhẩm không thôi.
               
              Đò máy, nằm võng tìm em một thuở
              Qua dốc đồi xe “lam” đến Thuận-Yên
              Hàng dừa xanh lá rạt rào gió biển
              Đưa chân anh ngơ ngẩn đến Hà-Tiên.
               
              Bến Tô-Châu một chiều vàng nắng nhạt
              Gió Đông Hồ vờn nước mặn Thái-Bình
              Cửa sông nối hồ thơ và biển cả
              Dừng chân anh chờ cô lái đò xinh.
               
              Chạm thân em - dạt dào bao cảm xúc-
              Thị-trấn đơn côi trấn ải biên-cương
              Anh chọn cho lần đầu tiên dấn bước
              Vào đời, như tàu thám-hiểm đại-dương.
               
              Sạp báo Minh Xuân, Đại-Tân khách-sạn
              Không ngỡ ngàng mà lại rất thân tình
              Hiếu khách những chị/ anh/ em biên-giới
              Xao động lòng, tim mở đón tình xinh.
               
              Ngôi trường nhỏ nhắn, bạn bè mới gặp
              Như là nhà, êm ái những vòng tay
              Mai sẽ gặp những học-sinh mộc mạc
              Nở nụ cười rạng rỡ đón ngày mai.
               
              Đường Bạch-Đằng nơi đầu tiên ở trọ
              Nơi thứ hai , ngỏ Nhật-Tảo thân thương
              Ơn nghĩa ấy ghi sâu trong tâm-tưởng
              Thời-gian qua nhưng tình vẫn còn vương.
               
              Sau lớp học: Bải Nò , lăng Mạc Cửu
              Lang-thang viếng thăm thập cảnh Hà-Tiên
              Thương ánh điện (tợ đèn dầu) leo lét
              Nước ao sen vẫn ngọt lịm lương duyên.
               
              Đâu sá gì với đôi điều trắc-trở
              Như vị cay, gia-vị bửa tiệc ngon
              Kỷ-niệm đắng cho cuộc sống thêm dòn
              Vẫn trân-trọng xấu/ xinh ngày tháng ấy.
               
              Tình-yêu Phương-Thành làm sao nói hết      
              Thôi thì giử-gìn trong những hóc tim
              Đôi lúc nhớ nhung đem ra ngắm nghía                           
              Để đời anh không tẻ nhạt im lìm.
               
              Gần đây (18/7/2013) bất chợt tôi cồn cào nhớ về Hà-Tiên, bài thơ Phương-Thành Nỗi Nhớ thành hình, và xin chia sẻ với bè bạn hôm nay.
               
              Anh Tú
              September 7, 2013
               
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.10.2015 05:29:20 bởi Anh Tú >
              #22
                Anh Tú 15.11.2013 07:34:17 (permalink)

                CÂY ỚT
                 
                Dòng đời đẩy đưa xa xứ. Khi đó… đã “mang theo quê hương”, là tất cả những gì về đất nước, người thân, bè bạn, gốc cây ngọn cỏ,... Hai bàn tay trắng, như câm, như điếc …ngu ngơ lo cho chén cơm manh áo nên quê hương mang theo ém vào góc tim.
                Gặp người đồng hương, chợ Việt với chai nước mắm, lọ chao, nhánh xã, trái chanh, trái ớt,… lòng cũng xao xuyến, buâng khuâng.
                Thời gian vá lành cuộc sống, tâm hồn thư thả thì quê hương mang theo từ từ lần bước ra ngoài với nhiều hình thức, lớn có nhỏ có.
                Nho nhỏ như trồng rau thơm, diếp cá, dưa leo, khổ qua, bầu bí…Công việc này cho nhiều niềm vui, hạnh phúc; vui, hạnh phúc không vơi mà càng tăng thêm  mỗi khi nhìn thấy kết quả công sức của mình dù tốt, dù xấu…
                Bà nhà tôi mấy năm nay cũng có chút thì giờ rảnh bày ra chuyện trồng rau, vì không có khiếu  nên chỉ trồng những loại rau dễ chăm sóc như diếp cá, rau thơm. Ớt cũng dễ trồng nhưng năm nào “loay hoay” mãi mà khi đông đến thì ớt mới vừa ra bông. Năm vừa qua bà nhà tôi trồng ớt trong chậu và khi đông đến thì đem vào nhà để nơi cửa sổ cho có ánh sáng. Mùa xuân trở lại thì chậu ớt được ra ngoài hưởng mưa gió, ánh sáng mặt trời, và đã “thâu hoạch” rất được mùa.   

                Mua vài đồng ớt ở chợ cũng tươi tốt, cay nhưng trái ớt tự mình trồng, trồng ở xứ người nơi thời tiết không giống như ở quê hương, hình như “ngon” hơn gấp bội vì khi mình săn sóc thì có “ướp” tình quê hương vào nó chăng?
                Ngay bây giờ, cuối thu đầu đông trời lạnh xuống đôi lúc gần không độ bách phân,  cây ớt ấy nằm trong một chậu kiểng được đặt trang trọng nơi phòng khách, có hơn năm mươi trái chín đỏ tươi, rất đẹp.
                Nhà tôi nảy ra ý định chụp hình nó  khoe …khoan với bà con chơi.
                Có một hôm ngắm nghía mấy trái ớt chín, chín cũng đã lâu mà chưa rụng, “phán” một câu “ Ớt già còn đẹp nhưng da đã nhăn nheo như da của mấy ông già rồi!” ( sao không nói bà già nhỉ?) và ngó tôi “bà ta” cười cười.
                Thiệt tình!
                 
                A.
                November 14, 2013
                 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.11.2013 07:07:41 bởi Anh Tú >
                Attached Image(s)
                #23
                  Nguyệt Hạ 16.11.2013 02:17:47 (permalink)
                   
                  Hello Anh Tú,
                  Thấy anh kể chuyện trồng ớt, NH mang thêm hình vào khoe với anh.
                  Cây có rất nhiều trái, và may mắn không phải mang vào nhà, hiện giờ cây vẫn đang có trái và tươi tốt.
                  (Khi nào không hái để lâu quá trên cây, trái mới "nhăn" )
                   
                   
                  #24
                    Anh Tú 20.11.2013 07:25:31 (permalink)
                    Chào chị Nguyệt Hạ,
                    Rất mừng đón chị bước vào "mảnh đất cằn cỗi" này của tôi. Thật hân hạnh!
                    Nhìn cây ớt của chị mà ham, trái xanh trái đỏ, da chưa nhăn nheo, "chen lấn" nhau rất hấp dẫn ; chúng sẽ không bao giờ phải mang vào nhà để tránh lạnh như của chúng tôi?
                    Cám ơn chị đã chia sẻ hình ảnh.
                    Tôi thường đọc các bài viết của chị, văn cũng như thơ; gần đây là thơ trên blog của YDT.
                    Chúc chị nhiều sức khỏe và sáng tác mạnh.
                    Thân ái,
                    Anh Tú
                     
                     
                     
                     
                    #25
                      Anh Tú 22.11.2013 01:31:18 (permalink)
                                                                     CON KIẾN VÀ THẦY TÔI
                       
                      Tôi nhớ về ngôi trường làng, phía sau có bải cỏ dọc theo mé sông, phía trước là sân chơi kế bên con đường đất dẩn từ quê Hòa Tịnh ra ngôi chợ nhỏ Ngả Tư Long Hồ. Niên khóa 1952-1953, lớp nhì, lớp tôi học, do thầy Hai phụ trách (thường gọi là thầy Hai Lương)
                      Hiện nay tôi vẫn còn hình dung ra dáng thầy dạo ấy. Ốm, cao, da trắng với phong thái rất hiền từ, mỗi ngày thầy lái xe gắn máy từ tỉnh lỵ Vĩnh Long vượt 9 cây số của tỉnh lộ Vĩnh Long – Trà Vinh đến trường.
                      Thầy đem theo thức ăn trưa, thường là bánh mì thịt. Giờ nghỉ trưa là lúc thầy trò dùng bửa. Bàn viết của thầy làm bàn ăn. Bửa ăn đạm bạc bánh mì, nước lả của thầy không thấy thay đổi. Có lý do nên mới nhắc đến bửa ăn trưa của thầy. Số là không biết từ lúc nào một con chó ốm tong teo, lông rụng còi cọc, thờ thẩn đi xiêu vẹo (chúng tôi nói là đi bẻ bánh lái) xuất hiện bên thầy, ngồi “nhóc mỏ” nhìn miệng. Và thầy thương tình đã chia sẻ từng miếng bánh mì nho nhỏ cho con chó đói tội nghiệp. Ngày qua ngày thầy biến chú chó hoang ốm o trở thành “phương phi”, mập mạp, lông lá mướt rượt, quấn quýt bên thầy mỗi ngày.
                      Và một hôm sáng sớm vừa vào lớp chẳng bao lâu, thầy bước đến em học sinh tên NămThạnh, ngồi đầu bàn của bàn thứ nhất, bảo em này xoè bàn tay, chúng tôi ngạc nhiên không rõ chuyện gì sẽ xãy ra cho bạn. Thầy Hai rất hiền, thương học sinh, tận tâm dạy dỗ, không la hét hay phạt học trò của mình bao giờ như những đồng nghiệp của thầy thường cho học trò những hình phạt rất khắc nghiệt thuở ấy: nhẹ nhất là khẻ tay bằng thước, chẳng lẽ …khẻ tay Năm Thạnh? Chúng tôi chăm chăm theo dõi: bằng hai ngón tay cái và trỏ, thầy nhón giữ một chú kiến nhỏ, vì quá lâu tôi không nhớ loại kiến gì, và thả nó lên lòng bàn tay của Thạnh, bảo cẩn thận mang thả chú ta ngoài bải cỏ phiá sau trường. Thầy nhìn chúng tôi mĩm cười, không nói một lời…nhưng tất cả sự diễn tiến thẩm thấu vào tim óc chúng tôi một kỹ niệm nhớ đời, một bài học sâu sắc về lòng từ bi, tình thương vạn vật của thầy tôi. Đối với chú kiến mà còn như thế thì với đồng loại , đồng bào thì chúng ta phải làm sao rồi.
                      Năm sau, chúng tôi lên lớp nhất, không còn học với thầy, nhưng vẫn gặp và cung kính chào thầy mỗi ngày. Thầy vẫn còn tiếp tục nuôi chú chó hửu phước kia…Khi ra tỉnh lỵ để thi bằng Tiểu học, chúng tôi có dịp đến viếng nhà thầy, một căn phố hẹp nằm trên đường Gia Long, ngang Bungalow cũ. Buổi thăm viếng này củng cố thêm lòng mến yêu thú vật, nhất là thú vật nhà, của thầy vì tôi thấy rất nhiều chú mèo trên đầu tủ, trên ghế ngồi, dưới gầm bàn… đang tò mò giương mắt nhìn khách.
                      Thầy tôi tiếp tục nghề nghiệp tại tỉnh nhà, hình như có lúc thầy làm việc tại trường Sư Phạm Vĩnh Long, trong khi chúng tôi tiếp tục con đường học vấn và ra đời, sinh sống khắp nơi.
                      Bây giờ lớp học trò cở chúng tôi, đứa còn đứa mất, đầu bạc răng long thì thầy đã về miền miên viễn từ lâu.
                       
                      Dịp khuyến khích làm thư Haiku VN của anh Hồng Băng trên tongphuochiep-vinhlong.com, Phú Thạnh nói nằm mơ thấy ai đó đã viết:
                       
                      Con kiến nhỏ
                      Bỏ tay trò
                      Thảm cỏ

                       
                      (Và trước đó cũng đã có mấy câu:
                       
                      Con kiến thầy nhón lấy
                      Bàn tay trò
                      Bải cỏ.
                       
                      Cửu Long)
                       
                      Làm tôi nhớ lại thời gian cách nay 60 năm xa xôi…nhưng với tôi nhớ lại thì như mới hôm nào …vẫn còn rất ngọt ngào.
                      Tôi mạn phép góp vui cùng anh Hồng Băng, Phú Thạnh, Cửu Long (?...chắc là một bạn nào đó cùng lớp với tôi và Phú Thạnh) và tất cả bè bạn bằng mấy câu thơ …thẩn sau đây:
                       
                      Nhỏ nhoi phận kiến lạc đàn
                      Phật tâm thầy cứu bởi bàn tay nhân
                      Dạy trò bài học thiết thân
                      Thương người thương vật cõi trần: từ tâm.
                      Thầy tôi giờ đã xa xăm
                      Dáng thầy, câu chuyện ngàn năm nhớ hoài.
                       
                      NHA
                      November 21, 2013

                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.10.2015 08:39:48 bởi Anh Tú >
                      #26
                        Nguyệt Hạ 22.11.2013 04:20:46 (permalink)
                         
                        Cám ơn anh Anh Tú đã kể một kỷ niệm thật đẹp của người Thầy đáng kính.
                        Vừa đúng dịp Lễ Tôn Sư Trọng Đạo ở bên nhà, món quà vô giá khi học trò còn nhớ đến Thầy giáo của mình sau bao nhiêu năm.
                         
                        Xin chúc anh chị luôn vui mạnh.
                         
                        Nguyệt Hạ
                         
                        (NH còn nhỏ hơn anh rất nhiều, xin anh miễn cho chữ chị)
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                        #27
                          Anh Tú 22.11.2013 19:34:00 (permalink)
                          Nguyệt Hạ

                           
                           
                          Cám ơn anh Anh Tú đã kể một kỷ niệm thật đẹp của người Thầy đáng kính.
                          Vừa đúng dịp Lễ Tôn Sư Trọng Đạo ở bên nhà, món quà vô giá khi học trò còn nhớ đến Thầy giáo của mình sau bao nhiêu năm.

                          Xin chúc anh chị luôn vui mạnh.

                          Nguyệt Hạ

                          (NH còn nhỏ hơn anh rất nhiều, xin anh miễn cho chữ chị) 
                           
                           


                          Khi chỉ  BIẾT văn thơ của một người viết nữ thì gọi chị là hợp lý nhất "chị" Nguyệt Hạ ạ. Qua ý kiến trên thì từ đây tôi xin phép chỉ gọi bằng bút danh Nguyệt Hạ.
                          Rất cám ơn Nguyệt Hạ về lời bình và lời chúc sức khoẻ cho chúng tôi.
                          Anh Tú và bà xã cũng xin chúc Nguyệt Hạ luôn vui khoẻ và sáng tác đều đặn.
                          AT
                           
                          #28
                            Anh Tú 28.11.2013 02:17:56 (permalink)
                            NHỚ BẠN TÔI
                             
                            Niên khoá 62-63, T.K.H. và tôi trúng tuyển vào Lớp Lý Hoá của trường Sư Phạm Sài Gòn. Từ tỉnh lẻ Vĩnh Long, hai đứa  chen chân được vào đây là cả một sự may mắn. Ngày tựu trường với tâm trạng vui mừng có pha lẫn một chút bở ngở và lo sợ bâng quơ dầu bên cạnh đã có bạn chí cốt K.H., tôi ké né tìm một chỗ ngồi cuối lớp. Liếc mắt quan sát nhanh toàn lớp, ngoài T.K.H. thì toàn là những sinh viên xa lạ.Với tôi, họ là những đàn anh đầy tài năng, thật dạn dĩ, chào hỏi nhau, nô đùa, đang chuyện trò như pháo nổ.
                            Đầu một bàn gần giữa lớp, tôi thấy có một anh sinh viên mặt vuông chữ điền đẹp trai với chiếc răng khểnh đang cười cười ngó về hướng chúng tôi trong khi chân anh đang gỏ nhịp. Với nét mặt thân thiện đó, tôi nhận ra ngay nơi anh sự mời gọi kết thân. Trong khi tôi còn miên man suy nghĩ, anh đã chủ động đến bên chúng tôi thật nhanh và bắt chuyện: “Dân Tống Phước Hiêp phải không?”. Đã biết chúng tôi là ai, anh nhanh nhẫu tự giới thiệu về mình và kết luận tỉ lệ dân Vĩnh Long đậu vào lớp này “khá cao”: 3 trên 33, có nghĩa anh cũng là dân đất Long Hồ. Đó chính là Lương Văn Kiệt, cũng là đàn anh của chúng tôi tại Tống Phước Hiệp.
                            Từ đó ngoài tình đồng song, còn có tình đồng hương, hai cái tình này quyện vào nhau lần lần chúng tôi là ba đứa bạn thân thiết, bè bạn gọi đùa là “ba chàng ngự lâm pháo thủ”. Đến năm thứ hai, chúng tôi ở chung nhà trọ 32/65 đường Cao Thắng, cùng chia vui xẻ buồn cho đến lúc tốt nghiệp.
                            Rất nhiều kỹ niệm, vui nhiều buồn ít, xảy ra tại nhà trọ, giảng đường, câu lạc bộ, phòng thí nghiệm, thư viện, lúc dạy thực tập tại các trường Trung học tại Sài Gòn.
                            Có những cuối tháng, tiền cạn túi, sáng ngồi học bài bụng đói meo, chữ nghĩa không nhét được vào đầu, “Có thực mới vực được đạo” kia mà! Tay lật từng trang sách, mắt lơ láo ngó qua cửa sổ của cô Bắc Kỳ nho nhỏ ngang đường hẻm. Bổng một chàng reo lên:“Đi ăn  phở tụi bây ơi! Tao bao!” “Có đùa dai không đó!” “Thật mà!!” trong khi tay anh quơ  quơ  tờ giấy 50 đồng. Thời đó tô phở chỉ có năm đồng  mà thôi thì thừa đủ cho mấy anh em vượt qua cơn đói buổi sáng sớm hôm nay. Thì ra khi lật từng trang sách, một trong chúng tôi đã “phát hiện” được tiền đã bỏ quên trong đó tự bao giờ!
                            Một hôm vào thư viện học bài, nhân lúc xả hơi chợt nhìn thấy có ba cô sinh viên ban Vạn Vật xinh đẹp ngồi ở bàn gần đó, một trong ba đứa bổng nảy ra ý đùa vui: Ai qua mượn được quyển sách của cô A. (cô đẹp nhất) đem về đây thì hai đứa còn lại sẽ bao ăn sáng. Mỗi đứa cố gắng nghĩ cách thực hiện lời thách đố. Cuối cùng một đứa đi qua bàn của các chị, gặp mặt nhau rất thường nhưng chưa  bao giờ dám làm quen, để mượn sách. Nói với các chị ấy “gì đó”, các chị mĩm cười và anh đem được quyển sách về bàn. Hai người còn lại trố mắt nhìn ngạc nhiên và…phục tài “sát đất”. Biết anh ta đã nói gì không? Đơn giản thôi, anh chỉ thật thà thú thật “sự việc” và nhờ các chị vui lòng “giúp đở”.
                            Dưới hầm giảng đường Đại Học Khoa Học là nơi lao công của trường bán thức ăn cho sinh viên nên mọi người xem nơi này như là câu lạc bộ. Mỗi sáng khi thấy chúng tôi đến là chú lao công biết ngay chúng tôi cần gì: ổ mì thịt ba đồng và ly sửa thêm tí cà phê. Những ngày cuối tháng hết tiền, chú lao công vui lòng cho chúng tôi “à la ghi” nghĩa là cho thiếu chịu, ghi sổ, đầu tháng lảnh học bổng sẽ trả lại.
                            Vào năm thứ hai, chúng tôi bắt đầu đi dạy thực tập tại các trường Trung Học như Gia Long, Trưng Vương, Nguyễn Trải, Vỏ Trường Toản. Khi đến nơi thực tập, học sinh các bàn cuối  được di chuyển ngồi chen chút ở phía  trên để nhường chỗ cho chúng tôi. Đối với các lớp của trường Gia Long hoặc Trưng vương: chúng tôi luôn tìm thấy các nữ sinh đem thức ăn vặt vào lớp như ổi, bưởi, mận, xí muội…để quên dưới hộc bàn.
                            Thầy Bùi Phượng Chì hướng dẫn dạy thực tập.. Một trong những kinh nghiệm thầy truyền dạy cho chúng tôi là không nên hỏi học sinh câu: “Các em có hiểu không?”Học sinh sẽ luôn trả lời là “ Không hiểu gì cả thầy ạ!!!” Tiếp theo đó là sinh viên thực tập phải giảng bài lần nữa; như thế thì không hoàn tất buổi thực tập trong thời gian ấn định. Kết quả là bị điểm thấp. Cũng như không bao giờ nói trước  kết quả thí nghiệm Vật Lý hoặc Hóa Học vì đôi lúc kết quả ra sẽ không đúng như ý, ta sẽ bị “hố”và “quê”trước mặt học sinh. Nếu tình huống này xãy ra, chúng ta tự động thực hiện thí nghiệm lại lần nữa và chỉ giải thích khi kết quả thành công.  
                            Cuối cùng thì chúng tôi tốt nghiệp, phải rời xa ngôi trường thân mến, giã từ đời sinh viên vô tư vui nhộn, giã từ căn nhà trọ tuy nhỏ hẹp thiếu tiện nghi nhưng tràn ấp biết bao kỹ niệm vui buồn, cũng như phải giã từ Sài Gòn vô cùng thân thương đầy những dấu chân kỹ niệm của chúng tôi như dạo phố Lê Lợi chiều cuối tuần với cái thú mua sách(mà hầu như không bao giờ đọc!), những hẹn hò ở bến Bạch Đằng nhìn sông nước hoàng hôn, những buổi rong chơi dưới những hàng me của  các đưòng phố quận nhất hoặc họp mặt pinic cùng bè bạn trong Thảo Cầm Viên,…. để bước vào đời tại những tỉnh lỵ hoặc quận lỵ xa xôi buồn tẻ.
                            Rồi trên bước đường mới thực hiện lý tưởng  đã chọn, chúng tôi tìm thấy những niềm vui mới đầy hứng thú, cao đẹp …của nghề nghiệp. Kiệt, H. đến Trà Vinh  còn tôi trôi giạt tận biên giới Việt Miên cuối miền đất nước: Hà Tiên,quê hương của nhà thơ Đông Hồ.
                            Vài năm sau, Kiệt được về phục vụ tại quê nhà Vĩnh Long như ước vọng. Còn tôi thì vẫn còn “lưu lạc xứ người”, từ Hà Tiên đến Cần Thơ rồi vào năm 1973 thì Bình Minh(Vĩnh Long).
                            Dù không dạy cùng trường nhưng chúng tôi vẫn thường xuyên liên lạc, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp với nhau. Được biết Kiệt làm việc rất tích cực và được lòng đồng nghiệp, học sinh tại nơi sanh ra và lớn lên của mình.
                            Vào niên khoá 1973-1974 chúng tôi có dịp cùng sinh hoạt chung với nhau trong việc điều hành trại hè tại Hà Tiên cho học sinh toàn tỉnh Vĩnh Long do Sở Học Chánh Vĩnh Long tổ chức.
                            Sau đó Kiệt và tôi cố gắng phối hợp  tổ chức một cuộc du ngoạn Hà Tiên lần nữa chung cho hai trường Trung học Tống Phước Hiệp và trường Trung học Bình Minh.Nhưng với những lý do ngoài ý muốn, cuối cùng đoàn của mỗi trường đi riêng biệt. Tôi còn nhớ rõ trong khi đoàn của Trường TPH trên đường trở về thì đoàn của Trường Bình Minh trên đường xuất phát. Chúng tôi gặp nhau vào buổi trưa của một ngày, một ngày mãi mãi không quên trong đời tôi, tại tỉnh lỵ Rạch Giá, nơi dừng chân nghỉ xả hơi trước khi mỗi đoàn tiếp tục hướng đi của mình. Kiệt và tôi gặp nhau trao đổi vài câu ngắn ngủi rồi mạnh ai nấy lo bổn phận của mình.
                            Tôi tiếp tục lao đầu vào việc hướng dẫn học sinh cùng với quý vị giáo sư của trường Trung học Bình Minh đến thị trấn Hà Tiên. Tôi nghĩ Kiệt cũng vậy, phải lo đưa đoàn du ngoạn của học sinh trường Tống Phước Hiệp trở về trong sự an toàn.
                            Hai hôm sau, vào một buổi chiều tôi đọc báo thấy có tin tức về vị trưởng đoàn du ngoạn của trường Tống Phước Hiệp bị tai nạn tại Ngả ba Lộ tẻ gần Tỉnh lỵ Long Xuyên và qua đời. Khi tôi nhận được tin này thì ở Vĩnh Long đang lo tang lễ cho Giáo sư Lương văn Kiệt, bạn thân thiết của tôi vì thời đó một tờ báo phát hành ở Sài Gòn phải hai ngày mới đến được Hà Tiên. Tôi liền xin ý kiến của đoàn, chúng tôi trở về ngay ngày hôm sau. Tôi về đến Vĩnh Long vừa kịp lúc gia đình đang tẩn liệm Kiệt. Quá xúc động tôi quỳ ngay trước quan tài vừa đậy nấp với dòng nước mắt không ngăn được. Lần gặp ngắn ngủi, vội vàng ở Rạch Giá không ngờ là lần gặp mặt cuối cùng của hai đứa. Đám tang của Kiệt diễn tiến sau đó rất trang nghiêm và là một đám tang đông đảo người đưa tiển tại tỉnh nhà. Kiệt được an tang tại nghĩa trang Đất Thánh Tây, và sau 1975 nghĩa trang này bị giải toả  nên gia đình phải cải táng đưa Kiệt về đất nhà trong một miền quê.
                            Qua những lời tường thuật lại, tai nạn do một đoàn Thiết vận xa M13 gây ra. Khi sắp đến lộ tẻ một xe trong đoàn du ngoạn cần sửa chửa, đoàn phải dừng lại và nhân đó cho học sinh nghỉ xả hơi luôn. Kiệt đang giải khát trong một quán ven đường, nghe đoàn xe M113 chạy đến, lo lắng cho sự an toàn của học sinh, Kiệt bước ra nhắc nhở học sinh phải vào lề đường. Kiệt đứng giữa hai chiếc “buýt” chở học sinh. Một tài xế của đoàn xe Thiết vận xa có ý biểu diễn(?) với nữ sinh nên lái lạn qua lạn lại và mất kiểm soát tay lái nên đụng phải một xe của đoàn du ngoạn, xe này bị đẩy tới và ép Kiệt với chiếc xe phía trước nên Kiệt bị bể bọng đáí, được chở đến bịnh viện Long Xuyên để cứu cấp nhưng không còn kịp nữa.
                            Nhớ lại những buổi tối thứ bảy ngày nào khi tôi có  dịp về Vĩnh Long, bất kể giờ giấc Kiệt đến “lôi” tôi đi “lai rai”đâu còn nữa; những “rủ rê” đó thường không làm hài lòng vợ tôi bây giờ trở thành một nét tưởng nhớ đặc biệt về Kiệt của chúng tôi khi có dịp nhắc đến anh. Mãi tới ngày hôm nay, sau mấy chục năm vật đổi sao dời, đôi buổi tối thứ bảy vẫn còn hình bóng của bạn tôi lởn vởn trong đầu.
                            Năm 2002 tôi có dịp đến thăm chị Kiệt. Chúng tôi hàn huyên lại chuyện cũ. Chị cũng kể cho tôi biết những khó khăn của gia đình chị sau khi Kiệt ra đi và cả những ngày tháng sau năm 1975. Nay thì mọi chuyện đã qua rồi, cuộc sống của chị và con cái đã ổn định. Đứa con trai đầu lòng của anh chị, Lương Tam Kha giờ đã trưởng thành, học hành đổ đạt thành tài. Nhớ lại mà xót xa, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi trao cho chị Kiệt một sổ Trương Mục Tiết Kiệm thuộc Tín Nghĩa Ngân Hàng có tên của Lương Tam Kha và tên tôi trong đó có ghi  một số tiền. Đó là khoản tiền dành dụm đóng góp từ thân hữu bạn bè có lòng thương Kiệt, mục đích giúp LTK khi cháu vào Đại học mà tôi là người được giao phó giữ trương mục này. Với cuốn sổ mang nhiều ân tình mà vô dụng lúc bấy giờ, chị Kiệt và tôi chỉ biết ngâm ngùi nhìn nhau, chị nói lời cám ơn còn tôi thẹn lòng khi nghe lời nói xúc động của chị.Tôi xin chị giữ nó như là một kỹ vật.
                            Kiệt ơi, mầy ra đi trước bọn tao tới nay đã hơn 35 năm, không rõ điều đó xấu hay tốt cho mầy, nhưng chúng tao những người thương mầy còn ở lại nghĩ rằng mầy “chơi xấu”, để lại nỗi thương nhớ cho bọn tao mãi không nguôi.
                            Nói đùa cho vơi chút xót xa chứ nào có trách mầy đâu. “Tao tự hỏi: bây giờ mầy đang ở đâu?”
                            NHA

                             
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.11.2013 02:26:31 bởi Anh Tú >
                            #29
                              Anh Tú 04.01.2014 00:30:52 (permalink)
                               

                              Đã cuối năm rồi em có hay
                              Trời xa đất rộng nước vơi đầy
                              Tình ta chia cách hoài mong đợi
                              Em vẫn phương trời tôi ở đây!

                              Bên ấy mùa đông tiết lạnh lùng
                              Có ngồi bên cửa ngắm mông lung
                              Nhớ về quê mẹ bao yêu dấu
                              Còn giữ trong tim nghĩa thủy chung?

                              Nhờ gió gởi em chút nắng hồng
                              Mang hồn sông núi tổ Tiên Rồng
                              Và thương nhớ của người xưa cũ
                              Sưởi ấm tim người xa núi sông.
                              Anh Tú
                              December 31, 2013

                              CHÚT TÂM SỰ

                              Tôi biết anh vào những ngày tháng mà cuộc sống về mọi phương diện bắt đầu khó khăn nhân khi chúng tôi mua gạo từng lít hằng ngày do anh bán ở một ngôi chợ nhỏ. “Cửa hàng” của anh tạm bợ dưới đất trong khu chợ với một bao, một thúng, một lít để chứa để đong đo gạo. Chỉ là buôn bán cò con để kiếm cơm qua ngày.
                              Cao ráo với đôi kính cận trông thật hòa nhã hiền lành…anh là nhà giáo mà! Là nhà giáo, sau này tôi mới rõ chớ lúc đó chỉ biết mến anh, một người buôn bán hiếu khách và thân thiện.
                              Rồi một ngày không ngờ bao giờ chợt đến khi mà chúng tôi đang vui, nhiệt tình  với công việc cũ trong một hoàn cảnh xã hội mới, vài chiếc xe GMC quân sự đưa chúng tôi những nhà giáo yêu nghề hơn bao giờ hết đi "nghỉ mát" ở một tỉnh lỵ ven bờ Thái Bình Dương; trong đám chúng tôi đó có anh. Vậy ra anh và tôi là những kẻ…đưa đò lỡ vận. Từ đó hai đứa  thân nhau.
                              Những ngày tháng “nghỉ dưởng” này rất có ý nghĩa, giúp tôi, có thể là cả bạn tôi,  hiểu cuộc đời nhiều hơn; nhiều kỷ niệm vui buồn nhưng thật sâu sắc đã bám trụ vào tâm hồn vốn rất khù khờ của tôi. Không cần phải kể ra những kỷ niệm này tại vì rất riêng cho mỗi cá nhân mà thật ra nhìn tổng thể là chung, chung cho nên ai cũng rõ, nhắc lại chỉ nhàm chán mà thôi.
                              Tôi và anh có một thú giải trí chung là đánh cờ tướng. Hai chữ cờ tướng khi nhắc lại là cả một cuốn phim hình như được chiếu lại chớp nhoáng trong đầu của anh và tôi, những phút giây hạnh phúc nhỏ nhoi trong khung đời nghiệt ngã một thời và còn dư vị cho đến ngày nay, lúc mái tóc bạc màu cằn cỗi.
                              Anh và tôi, mỗi người có một số phần, tốt hay xấu rồi tất cả cũng trở thành vô nghĩa. Ngặt nỗi biết vậy mà chúng tôi cũng phải ưu tư phấn đấu để mong được tốt hơn do lối mòn của con người vốn thế. May thì tốt hơn và ngược lại nhưng dù thế nào tôi muốn cho bạn tôi biết rằng giữa anh và tôi luôn có một sự quý trọng không bao giờ thay đổi.
                              Gần đây anh viết vài dòng tâm sự mà tôi nghĩ là gởi cho tôi, tôi thật sự cảm động, cảm thông và càng thương mến anh hơn.
                              Chính những dòng tâm sự này và tình bằng hữu của anh và tôi cho tôi cảm hứng viết bài Gởi Kẻ Miền Xa tựa như một bài thơ về tình trai gái. Đọc và hiểu theo hướng nào cũng được vì đó là thơ mà. Kèm bài thơ là một ảnh có chùm hoa ti-gôn màu đỏ. Đã có định kiến về loài hoa này do ảnh hưởng của những bài thơ mà tác giã là TTKH nên có một người bạn nghĩ là không thích hợp cho bài thơ và cho thời điểm cuối năm đầu năm. Tôi thích loài hoa hình trái tim này lắm lắm. Tôi nhìn những nụ hoa đỏ ti-gôn như hình tượng của trái tim thuộc về những người nhân ái, nhiệt huyết, tích cực ham sống với dòng máu nóng, khoẻ mạnh với tâm hồn thật trong sáng cho cuộc đời chứ không phải là trái tim rướm máu ủy mị.
                              Tấm ảnh với bài thơ cuối năm 2013 như là vạch ghi một thời điểm; thời điểm mà nhờ khoa học tiên tiến đã nối kết anh và tôi hai phương trời nhưng như là đang ngồi bên nhau…với bàn cờ tướng trước mặt là “chiến trường” cho hai đứa bạc đầu chúng tôi đấu trí.
                              Sẽ đăng bài này lên đâu đó, nếu anh đọc và sẽ hiểu tôi viết để tặng cho ai.


                              Anh Tú
                              1/1/2014.

                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.01.2014 00:50:11 bởi Anh Tú >
                              Attached Image(s)
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 33 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9