GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM

Thay đổi trang: << < 222324 > >> | Trang 22 của 29 trang, bài viết từ 631 đến 660 trên tổng số 867 bài trong đề mục
Tác giả Bài
dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 03.05.2014 05:45:11
0
 
 
 
* * * 
 
(xin bấm lên ảnh để nghe bài hát)
 
Khúc Nguyệt Quỳnh 

thơ Thích tánh Tuệ | nhạc & trình bày Dzuylynh

Đêm nghiêng một đóa Quỳnh hương nở
Ngan ngát ru hồn ai lãng quên.
Thùy miên trong cõi đời sinh tử
Sực tỉnh, trăng tàn, quá nửa đêm..

Khuya nao thiền khách chờ hoa nở
Chén trà chưa nguội đã chiêm bao.
Nắng đêm loang loáng cài song cửa
Thức giấc hoa phai tự lúc nào! 

Nghìn xưa hoa với đời như mộng
Nở đóa vô thường trong cõi mê .
Chỉ thoáng trần tâm vừa giao động
Khuất lấp trăm năm một nẻo về . 

Đêm lắng, hoa vời thiên thu lại
Ai cười vỡ nát mộng hằng sa.
Xưa mê ôm cõi đời si dại
Đâu ngờ … muôn kiếp vốn không hoa!.. 

Trăng lên soi rạng hồn nhân thế
Bụt ngồi bóng đỗ xuống dòng sông.
Hiên chùa một nụ Quỳnh Hương hé
Ai vừa… hội ngộ khắp mênh mông… 
 
 
 

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 04.05.2014 23:07:11
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN

Trại cải tạo - Một địa ngục trần gian ở Việt Nam



Bác sĩ Nguyễn Ý Đức, Texas

Nếu bạn không bị đi cải tạo, thì bạn thật là có phước, nhưng cũng không vì vậy mà ban lại a dua theo Việt Cộng để phản bội quê hương đồng bào
Nếu bạn đã đi cải tạo mà bây giờ lạ a dua theo Việt Cộng thì quả thật bạn đã không còn là con người nữa rồi ban của tôi ơi
 
Hành hạ, tù đầy và sức khỏe

 Trong hơn một phần tư thế kỷ tiếp tục hành nghề tại hải ngoại, y giới chúng tôi đã có nhiều dịp được tiếp xúc với một lớp người mang những tâm trạng, những rối loạn về thể chất rất đáng để ý. Tìm hiểu căn nguyên của các bệnh tình này cũng không mấy khó khăn vì đa số là nạn nhân của một triền miên hành xác mà đã mấy chục năm qua hậu quả xấu trên sức khỏe của họ dường như vẫn còn. Đó là những người được mệnh danh là ''Tù Nhân Cải Tạo''.
...Sao mà cứ ''ăn cơm mới nói chuyện cũ'' hoài vậy.
  
Vâng, đây là câu ta thường nghe một số người nêu ra, khi có ai nhắc tới cuộc chiến ở VN với các hậu quả của nó. Một trong những hậu quả bi thảm nhất là sự hành hạ các anh chị em quân cán chính Miền Nam trong nhiều trại tù đầy. Nếu có ở trong hoàn cảnh của họ thì ta mới hiểu được những đau đớn mọi mặt mà họ đã phải trải qua.
  
Vả lại, người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn luôn hậm hực với Sen Đầm Quốc Tế Mỹ và nghi kỵ trục lợi với Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm Ngụy; đã 30 năm rồi người ta vẫn linh đình ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở dài của dân chúng trong ngoài nước, thì phải chăng ''nói vậy mà không làm vậy''. Và chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy dòng chữ tưởng niệm linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên tìm tự do và tri ân quốc gia cứu giúp cũng bị người ta tìm cách phá hủy. Thì tưởng rằng vô sản đã quá vô cảm, chẳng còn một chút tình người. Cho nên nhắc lại để người ta nhớ cũng là chuyện nên làm. Vì chính những nhân vật chủ trương ra lệnh tù đầy ngụy quân ngụy quyền hồi đó cũng đã lên tiếng nhận có sai lầm chính sách về chuyện cô lập vô nhân đạo này.
  
Sau ngày 30-4-75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng tới phút chót, người thắng trận miền Bắc đã nghĩ ra một giải pháp có vẻ nhân đạo hơn nhưng thương tích sâu đậm dài lâu hơn. Quân cán chánh VNCH đã được khuyến dụ trình diện để ''học tập'' ngắn hạn. Gọi là ''tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa''. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.

 Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình. ''Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!'' (Tạ Tỵ -   Địa Ngục, trang 152).
  
Sau đây là một số nhân chứng đã trải qua các cuộc hành xác tù đầy, kể lại những hình thức hành hạ nạn nhân. Chúng tôi xin phép các tác giả trích đăng để thế hệ con cháu trong ngoài nước hiểu rõ mà tránh đi vào vết xe cũ. Cũng để cảm ơn vì các ghi chép đã giúp thầy thuốc hiểu rõ nguyên nhân xa gần đưa tới bệnh tật của thân chủ và dễ dàng hơn trong khi điều trị, chăm sóc.
Chứ chẳng phải để tiếp tục nuôi dưỡng những hận thù mà làm chi

Điều kiện sống mất vệ sinh
 
Vệ sinh trại: Chật chội, ngào ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước. Để lâu không dùng chuột bọ chết thối đầy đáy giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất''
''Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó , mệt mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xạ Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan chọ Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần.'' (Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn Hữu Lễ) 
 
Nhà cầu nổi. 
 
''Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó....Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau... Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc ''thi hành nghĩa vụ'' của bản năng, nói nôm na là ''đi cầu'', người tù phải quàng tay ra đằng sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá, người tù không thể giữ ống sát vào mông, tuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng..
 
Vì đã làm quen với cuộc sống tù quá ư là chật trội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, khí không thể lùa vào buồng được. Do đó chúng tôi cứ phải thở ra hít vào buồng phổi mình cái hơi nóng của bầu khí trong buồng mà tôi có cảm tưởng nó đã đặc quánh lại thành một thứ chất dẻo, không còn là ở thể khí nữa'' .(Tầng đầu địa Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ).
 
Lao động quá sức.
 
 
Tù nhân bị ép buộc phải liên tục Hạ quyết tâm làm những điều mà trại đặt ra như sau:
 ''Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đã khoan hồng tha tội chết cho tôi, lại tập trung tôi lại, tạo điều kiện cho tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân lương thiện. Để đền ơn Đảng, tôi nhất trí:
1. Tích cực học tập cải tạo lao động tốt.  
2. Giải phóng mọi tình cảm gia đình yếu đuối và tình nguyện ở lại trại học tập lao động cho dến khi nào được cách mạng công nhận tiến bộ cho về phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân.  
3. Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại. Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi mặt yếu của các bạn cải tạo khác hầu biến trại ta trở thành trại cải tao tiên tiến về mọi mặt. 
4. Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại đang còn ý đồ chống phá cách mạng.  
5. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như một của cách mạng.'' 
(Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học Máu trang 100).
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.Thế là lại được đi lao động để giác ngộ! Sau đây là các tiêu chuẩn mà tù nhân phải lao động: Cuốc đất: 150m2/ngày/người; Trồng mì: 5000m2 / 1 ngày/4 người; Khai quang: 300m2/ngày/người; Lấy cây đường kính 30cm, dài 4 thước /hai người một cây, xa 3 cây số; đường kính 10 phân, dài 4 thước hai người năm cây một ngày.
 
Dọa nạt, nhục mạ.
 
''Tao bảo thật với chúng mày ngoài việc lao động như thế có mà ăn cứt, ngày về của chúng mày cũng kéo dài vô tận. Tao đã lên lớp cho chúng mày nhiều lần rồi. Cách mạng không có tình trạng lơ lửng con củ cặc. Một, chúng mày học tập lao động cho tốt để có ngày mà trở về. Hai, bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát chúng mày trong này mất thôi'' (Đại Học Máu- Hà Thúc Sinh, trang116. ''
“Các anh là những người có tội. Chính sách 3 năm Cải Tạo đề ra, nhưng nó không phải là mốc nhất định cho tất cả mọi người! Các anh đừng có giả vờ '' nín thở qua sông'' để hết cho ba năm thì về. Tôi nói thẳng cho các anh biết, có thể 3 năm cũng có thể 15 hay 20 năm đó!'' (Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục trang 439).
 
 
Bỏ đói khát.
 
Có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.
 ''Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và '' chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy dộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột..'' (Đáy Địa Ngục-Tạ Tỵ trang 378- 379).
 
 
Ăn bất cứ thứ gì là thịt.
 
''Nam cầm con rắn dài khoảng 6 tấc, to bằng ngón tay cái, không trắng không đen. Anh tìm sợi dây, buộc đầu con rắn cạp nong treo lên cành cây, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cứa xung quanh cổ rắn. Con rắn lắc lư, lắc lư như chiếc que. Tôi không hiểu bằng cách nào Nam lột da con rắn nhanh như vậy. Da rắn vứt xuống suối, dòng nước cuốn đi trong nháy mắt. Nam hạ con rắn xuống mổ ruột, rửa nước suối rối sắt ra từng khúc , bỏ vào lon ghi gô, cho chút bột cà ri mà lúc nào anh cũng mang theo, đổ chút nước, thêm tí muối rồi cho lên bếp lửa. Lát sau, hạ xuống, anh trịnh trọng ngồi trên tảng đá sát dòng suối ăn hết con rắn một cách ngon lành'' (Tạ Tỵ ''Đáy Địa Ngục, tr 439.
 Mỗi bữa hai miệng chén cơm nhỏ gạo mục, cả trăm người chỉ có vài chục con cá ngừ thối nấu với rau, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi...Cho ăn để khỏi chết đói, đó là khẩu hiệu của trại.
 Có nhiều tù nhân đã nướng sống sít các con sên con ốc rừng mang hàng triệu vi trùng sốt rét hoặc ăn quả sung rừng cho đỡ đói, ăn phải quả độc '' đứt thần kinh, sùi bọt mép, lên kinh phong rồi chết''
 ''Cái lon nhôm sữa bột guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn bạn đồng hành thân thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì '' canh có người lái'', tù gọi là Protein; con gì cũng qui vào chất thịt, chất protein bổ dưỡng. Tù có câu:'' con gì nhúc nhích là ăn được''; rau gì không chết thì ăn''.
 Tiêu chuẩn kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ'' Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó.'' (Nguyễn Chí Thiệp- Trại Tù Kiên Giam trang 35)
 
 
Thiếu thốn
 
Chia nhau vài thìa đường: ''Anh ta cầm nhanh lấy cái thìa và với một tư thái rất cẩn trọng, anh gom các phần đường đang chia dở và bắt đầu chia lại. Mười người mười phần. Trợ chia thật khéo nhưng cũng thật chậm. Đôi khi tay anh run làm một vài hạt đường rơi xuống miếng giấy dầu, văng dính vào ngón chân anh. Anh vội lấy ngón tay chấm mấy hạt đường ấy và cho lên miệng. Người ta bực mình nhưng người ta không thể giành lại những hạt đường đã dính vào những ngón chân cáu bẩn của kẻ khác.'' Mỗi người được ba thìa đường sau ba tháng tù'' Hà Thúc Sinh- Đại Học Máu, trang 148.
 ''Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học'' (Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn Hữu Lễ).
 
 
Hành hạ cơ thể.
 
'Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị ''đại cá' ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù.
 Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng ''chưởng'' tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ; hoặc ''bẻ ngà'' là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặnghơn thì ''lấy cấp phá' tức là móc đôi mắt, hoặc '' xin cặp nạng'' nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được ''cất'' có nghĩa là giết chết. (Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn hữu Lễ).
'Tên vệ binh hung ác vừa quật roi mạnh hơn vừa chửi rủa thậm tệ:
- Đ.M. chúng mày là đồ tư sản, dưỡng xác quen, làm việc chây lười, không cố gắng, không có kỷ luật gì hết!
 Chiếc roi lại tiếp tục rít trong không khí, bay tới tấp vào thân xác ba người tù. Đại đức Thích Thiện Cao bị đòn đau quá chỉ biết rú lên những câu quen thuộc ''Mô Phật'', rồi nhắm mắt, oằn người lên chịu đựng. (Phạm Quang Giai - Lần cuối bên anh, trang 247)
 
 
Bắt quỳ để trừng phạt.
 
''Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng ''ngụy'' vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống.'' Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thuạ Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đị..'' (Đại Học Máu-Hà Thúc Sinh. trang 116).
 '' Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh'' (Trại Tù Kiên Giam- Nguyễn Chí Thiệp- tr 473).
 
 
Bệnh xá- Bệnh tật.
 
''Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm khạ..'' (Đại Học Máu Hà Thúc Sinh tr 251).
 ''Nói là bệnh xá cho xôm trò chứ nơi đây chỉ là một nhà thường có sạp nằm cho bệnh nhân. Lúc tôi đến đây thì đã có hai mươi trại viên đang trị bệnh tại đây. Người tôi bị tê liệt toàn thân do đó những việc vệ sinh cá nhân tôi không làm được, tôi phải nhờ sự giúp đỡ của hai bệnh nhân nằm hai bên tôi. Hai bệnh nhân này không cùng một trại với tôi.
 Một hôm cán bộ bác sĩ đến tận giường tôi đọc lệnh mà nội dung như sau:- Anh Phan Phát Huồn, anh là một tên có nợ máu với nhân dân nhưng đảng và nhà nước ta đã tha tội chết cho anh, anh đau ốm vẫn cho anh nằm ở bệnh xá điều trị, vậy mà anh không biết điều, vi phạm nội quy của bệnh xá bằng cách quan hệ với người khác trại, vậy ngay từ giờ phút này anh phải ra khỏi bệnh xá. Nói xong ông ta ra lệnh cho y công buộc dây thừng vào hai chân tôi và kéo tôi như một con chó ra khỏi bệnh xá''.(AK và Thập Giá-LM. Phan Phát Huồn). ''
 Tại bệnh viện tôi đã nghe nói và chứng kiến những cuộc ''căng mùng'' ghê rợn. Căng mùng tức là nói đến giải phẫu bệnh nhân. Để tránh ruồi muỗi bu vào lúc giải phẫu, bệnh nhân được đưa vào trong mùng. Vì không có thuốc tê nên người ta cột bệnh nhân vào giường, lại còn có các anh hộ lý đè bệnh nhân xuống để bệnh nhân khỏi vùng vẫy lúc quá đau đớn. Thường thường bác sĩ dùng dao cạo râu để giải phẫu. Bệnh nhân gào thét kêu la thảm thiết, tôi có cảm tưởng là một con lợn đang bị thọc huyết'' (AK và Thập Giá-LM Phan Phát Huồn).
 ''Bệnh nhân bị bệnh gì gã cũng cho uống Xuyên tâm liên. Kiết ly, tiêu chẩy: xuyên tâm liên. Sốt rét sốt nóng: xuyên tâm liên. Ho lao, sưng phổi: xuyên tâm liên.Vì thế rất nhiều bệnh nhân chết oan uổng.'' (Thanh Thương Hoàng - Những Nỗi Đau Đời ''trang 51).
 
 
Chứng kiến sự hành hạ tù nhân khác
 
''Vừa dứt câu hỏi, tên vệ binh xuất kỳ bất ý dùng chân móc cú đá hậu vào khuỷu đầu gối của Trác, khiến Trác lao chao. Tên cảnh vệ tiếp theo cái lao chao của Trác bằng một cú đập mạnh báng súng AK vào người Trác, khiến người tù Việt quốc không còn đủ sức đứng vững, cả thân xác ông rơi xuống như quả sung rụng. Trác vừa té sóng soài trên hiện trường sám hối thì liền lúc đó tên này tung người lên dùng một đòn hiểm nhẩy lên đứng trên thân xác của Trác. Các đồng đội của Trác ngồi trong vòng tròn đều nhắm mắt mỗi khi nhìn thấy tên cảnh vệ dùng những cú giầy đinh nện mạnh trên mặt, trên người Trác. Máu bắt đầu chan hòa trên hiện trường sám hối'' (Phạm Quang Giai - Lần Cuối Bên Anh-trang 165) ''
 Tiếng kêu rú rùng rợn vẫn không ngớt phát ra từ những căn phòng xung quanh. Phượng vẫn ngồi như chết cứng. Rồi đột nhiên đèn bật sáng chói, nàng thấy mình đang ở trong một căn phòng toàn những dụng cụ tra tấn''.Nàng thấy ghê tởm, rồi tự dưng trong nàng nảy ra một ý định tìm cái chết, trước khi bị tra tấn, nàng đang nghĩ''Chợt cánh cửa sau bật mở. Nàng vội ngồi thu người lại sát tường, mắt ánh lên, thấy hai tên chuyên viên tra tấn xốc nách một người đàn ông, kéo sệt trên nền xi-măng. Mặt người đó tím bầm, hai bên mép ứa máu còn chẩy ra ròng ròng, tóc rối bù bết máu, đầu ngoẹo sang một bên, mình trần trụi bê bết máu, chân tay mềm nhũn rá''' (Trần Nhu- Địa Ngục Sình Lầy, trang 163)
 
 
Cô lập trong hầm đá
 
"Tên vệ binh hầm hầm đi về phía cửa hầm đá số 5. Hắn tra chiếc chìa khóa vào ổ rồi quay một vòng nghe răng rác. Hắn kéo chiếc cửa sắt nặng nề ra, để lộ một không gian tối om. Mùi hôi thối từ trong phòng xông ra những; đồng thời với tiếng hú ma quái ngân dài lê thê phát ra từ trong long hầm đá, nghe thật ai oán. Tên vệ binh trở lại chỗ Sâm ra lệnh:
- Vũ Sâm! Mày vào hầm đá số 5 để mà tưởng nhớ đến người vợ đẹp của mày.
 Sâm lần thần đi thật chậm, tiến vào miệng hầm, rồi cũng thật nhanh, anh lọt hẳn vào bên trong. Vũ Sâm quay người lại nhìn tên vệ binh lần chót trước khi chìm hẳn vào bóng đêm dầy đặc, vu vơ và tăm tối. Cánh cửa sắt đóng lại, tạo thành tiếng sầm khô khan.'' (Phạm Quang Giai - Lần Cuối Bên Anh. Trang 43).
 
Ngoài ra còn nhiều cách hành hạ khác như:
Chói cột với tù nhân khác; nhốt trong thùng sắt, trong túi; đầy ải ngoài nắng, nóng, dưới đèn sáng; bịt mắt; chói cột xuống đất; đá đít, bạt tai; giả xử tử; bắt uống những thuốc lạ; dìm dưới nước; làm cho nghẹt thở; cheo lơ lửng trên không; gây tổn thương cho ngọc hành / cơ quan sinh dục; tạt phẩn, nước tiểu lên mặt; tra tấn bằng điện; châm chọc kim vào đầu ngón tay, ngón chân; không cho ngủ; bỏ cho muỗi, kiến, đỉa cắn...
Những hành hạ đưa tới bệnh tật triền miên cho người sống sót.
 
 
Kết luận
 
Liên Hiệp Quốc coi hành hạ tra tấn là bất cứ hành động nào đưa tới đau đớn về thể xác và tâm thần nạn nhân.
 Theo cơ quan Ân Xá Quốc Tế, sự tra tấn vẫn còn được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Tra tấn xẩy ra quá thường khiến cho cơ quan này không ước lượng được số nạn nhân mà chỉ nêu ra một số quốc gia áp dụng sự hành hạ này, vì chiến tranh, đàn áp, tiêu diệt chủng tộc.
 Các nhà tâm lý xã hội cho hay hành hạ có mục đích làm xáo trộn, hoặc đúng ra là để phá hủy sự liên tục của cuộc sống con người cho tới một mức độ mà sự hồi phục trở nên tốn kém đôi khi không sao thực hiện được. Mà đa số nạn nhân bị đối sử tàn tệ sau đó lại được định cư ở một quốc gia khác như người tị nạn, nên họ gặp nhiều khó khăn hội nhập vào một nền văn hóa với nếp sống mới, ngôn ngữ mới. Đó chính là trường hợp các cựu tù nhân quân cán chính VNCH. Nạn nhân sống sót của tù đầy tra tấn có những phản ứng cảm xúc khác nhau tùy theo cá tính và căn bản giáo dục: từ giận giữ, phẫn nộ tới cảm thấy nhục nhã; cảm xúc ngay thẳng chính đáng tới sai trái tội lỗi; tự tin quyết đoán tới tủi thẹn, xấu hổ. Chắc chắn là họ khó mà quên được những vết thương mà người có quyền đã để lại trên cơ thể tâm hồn họ. Những ảnh hưởng này sẽ tồn tại rất lâu, có khi suốt đời.
  
 Những hoảng hốt, lo sợ, những trầm buồn, những cơn ác mộng sẽ thường trực đến với họ và có nhiều tác dụng xấu cho đời sống cá nhân cũng như gia đình. Rồi lại còn những suy nhược tim gan tỳ phế vì thiếu ăn, thời tiết khắc nghiệt, lao động khổ sai nơi rùng sâu nước độc. Nhiều ngàn người hiện nay không thi vào quốc tịch mới được vì trí nhớ suy kém, giảm khả năng học ngoại ngữ. Và còn cần sự chăm sóc của giới y tế đồng hương trong nhiều năm còn lại của cuộc đời. Giải thích để họ hiểu tại sao hành hạ đã xẩy ra có hy vọng một phần nào mang họ trở lại cuộc sống bình thường. Cũng như một hành động, một lời nói ''sorrý' từ phía chính quyền hiện tại. Như người da trắng đã sorry với nô lệ da đen bị kỳ thị, bóc lột trong thế kỷ trước. Cũng như Giáo hội Công giáo đã nhìn nhận nhiều sai lầm trong quá khứ liên quan tới sự tôn trọng đối với những cá nhân hoặc cộng đồng.
  
Thế hệ con cháu khi nghe những chuyện đau thương này của cha chú, chắc cũng rùng mình kinh sợ. Kinh nghiệm Holaucost vẫn còn ám ảnh lương tâm loài người sau cả trên nửa thế kỷ. Cũng như thảm cảnh tù đầy ''cải tạo'' ở VN vào thập niên 70-80 của thế kỷ vừa qua.
 Ghi lại để mà tránh tái diễn. Và nhắc nhở người ta đừng quá ảo tưởng với hào quang chiến thắng bọt nước mà quên sự tàn ác mà mình đã áp đặt lên những anh em cùng chung một bọc, Trăm Con Trăm Trứng Tiên Rồng.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.05.2014 00:06:42 bởi Phù vân >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 07.05.2014 09:23:09
0

https://app.box.com/s/9qyqw51q5e95268adei3

MẮT LÁ
thơ Mường Mán | nhạc & trình bày Dzuylynh
(tặngbh)

Hình như có mùa đông rất vội 
Theo áo em về mấy bữa nay 
Giòng sông xanh quá đôi bờ sóng 
Ta bỗng nghe lòng chớm theo may 

Hình như có đôi mắt đi lạc 
Len nhẹ vào tim một thoáng cay 
Tình như là bụi hư không ấy 
Phủi mãi, mà sao nhớ vẫn đầy 

Hình như người ấy không đi lẻ 
Có bạn lâu rồi ta đâu hay 
Chiều nay qua phố nghe chim kể 
Mới biết lòng không nhẹ hơn mây 

Chục tách café trong quán đợi 
Chẳng đắng bằng một thoáng mong ai 
Chiều bâng khuâng rụng đôi bờ lá 
Ngỡ mắt người dưng lúng liếng bay
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2014 09:30:48 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 09.05.2014 09:13:26
0
 
 
KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 2014 - PHẬT LỊCH 2558
Phật đản qua cái nhìn lục phương (PGVN)
Con đường (hay giáo pháp) của Đức Phật có hiệu năng hướng thượng, thiết thực hiện tại, đến để mà thấy, chứng và trú vượt thời gian, vì đó là chân nghĩa pháp thanh tịnh, có năng lực giúp chúng sanh một khi thực hành sẽ được an lạc trú, chấm dứt sinh tử.
Là một trong những vị thầy, bậc đạo sư sống và hành động tốt về giáo lý của đức Phật, ở miền Đông Tây Tạng, đó là Za Patrul Rinpoche, Ngài đã có lời phát biểu đến với chúng ta rằng: “Chúng ta cần hiểu rằng: chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp, và chúng ta đã gặp một vị thầy tâm linh và những giáo huấn của Ngài. Bấy giờ là lúc chúng ta phải dùng cuộc đời làm người quí báu nầy để tiến bộ trên con đường giải thoát.”

Đó là lời phát biểu, lời dạy quí báu của bậc thầy, bậc đạo sư giúp cho chúng ta tự tin, gần gũi và hiểu biết về Đức Phật và giáo lý của Ngài, mặc dù dòng thời gian đã trải qua trên hai ngàn năm trăm năm. Năm nay, Đại lễ Vesak lần thứ 11, năm 2014- PL.2558, lại một lần nữa được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội Việt Nam. Đây là một trong những cơ hội giúp cho tăng ni phật tử Việt Nam tự tìm về sự khởi động bổn nguyện đầu tiên khi Đức Phật hiện hóa đến hành tinh mà chúng ta đang có mặt. Không phải chỉ vì niềm tin tín ngưỡng, cầu xin khát vọng lòng tham của bản chất phàm phu, để chúng ta mới đến với Đức Phật hay đạo Phật.

Nhân dịp này, chúng ta cùng hướng về đoạn Kinh Ưu Bà Di, để cùng cảm nhận tính cách vĩ đại bất tuyệt của Đức Phật hơn bao giờ hết, như:

“Thị Đông Phương giả, vị chư chúng sanh tác đạo sư cố” (nhìn về phương Đông, vì các chúng sanh, nên làm người dẫn đến tối thượng).
Phương Đông là phương mặt trời lên, mở đầu cho một ngày, khởi động ánh sáng và sự sống, sinh hóa cho muôn loài vạn vật. Nhưng với sự sanh trưởng bởi những chen lấn tham chấp đưa đến ác tri kiến, lấy ác tư duy phục vụ cho mọi sự sinh tồn, từ cá nhân đến tập thể, từ quan điểm ý thức nầy đến quan điểm ý thức khác, từ chủng loại này đến chủng loại khác...v.v… để rồi từ đó tạo thành nguồn lực tác động  cạnh tranh và đấu tranh, đưa đến tàn hại, nhiệt não, khổ đau, đọa xứ… 

Chính vì thấy rõ sự bất toàn ấy, mà bổn nguyện đầu tiên của Đức Phật hướng về Phương Đông, dùng những pháp an bình tối thượng để hướng dẫn chúng sanh, để thiết lập một nền móng giáo dục, nhất là đối với loài người đang làm chủ trên hành tinh cuộc sống, nhận biết rõ giá trị đạo đức tâm linh, thấy và biết, tôn trọng và bảo vệ môi trường sinh thái trong mọi lãnh vực, và sự bảo vệ ấy đưa đến tuyệt đỉnh, chính là ý niệm tỉnh giác của tâm hồn trong mỗi chúng ta. Sự lợi lạc ấy sẽ lan tỏa những ý vị hạnh phúc cho chúng sanh, chư thiên và loài người, tạo thêm những nhân tố phước đức, một trong những điềm lành khi đức Phật xuất hiện, đó là: "Khi Đức Phật xuất hiện, thì tất cả cây có hoa đều trổ hoa, tất cả loại cây có trái đều tự nhiên kết trái.” (kinh Ưu Bà Di). Đó chính là sự thành tựu pháp của bậc thánh thuyết, giúp cho số đông loài người được an lạc thân tâm.v.v… Đó là đạo lộ thứ Nhất hay bước đi thứ Nhất của Đức Phật.
 
“Thị Nam phương giả, vị chư chúng sanh tác lương phước điền cố.” (Nhìn về phương Nam, vì tất cả chúng sanh, mà hướng dẫn làm ruộng phước, quy giới, tu tập các thiện pháp).
Nếu phương Đông là phương kết tinh tụ hội bắt đầu cho mọi sự sống của vạn vật, và với nguyện lực của Đức Phật là bậc đạo sư để hướng dẫn cho một lối đi, một nền tảng cho sự sống ấy. Do đó, đối với Phương Nam, với nguyện lực của đức Phật, là vì sự sống của chúng sinh cần phải có sự tăng trưởng mọi nguồn lực tốt đẹp, đem lại sự lành mạnh chung cho con người và muôn loài, tức là tạo tác duyên - phước lành. Vì sự tụ hội của con người càng đông nhiều, thì lực tác động thiện và bất thiện càng mạnh trong môi trường sống trong mỗi lúc, mọi nơi.v.v… 

Cũng chính vì vậy, mà tinh thần Đại Bi và Đại Trí của bậc đạo sư khi xuất hiện vào đời, là cần phải chuyển hóa những nhân tố ác xấu trở nên thanh thiện, những nhân nghiệp đọa lạc tội lỗi trở nên bình an hạnh phúc và siêu thoát. Bởi vì: ”Vô lượng chư Phật đã ra đời để làm lợi lạc chúng sanh. Nhưng do tội lỗi quá khứ mà ta không gặp được sự cứu độ của các Ngài.” (Shantideva). 

Chắc chắn rằng trong mỗi chúng ta một khi có mặt trong đời, không một ai muốn mình phải rơi vào hạ liệt, nghèo hèn và đau khổ. Thế nhưng, hạnh phúc chỉ đến với chúng ta bằng mọi hình thức của hành động tốt, tương thân tương ái là hành động tốt, biết bố thí tài vật và hiểu biết đúng đắn là hành động tốt, biết tôn trọng và tôn kính các bậc Thánh đức, Hiền nhân, là hành động tốt, biết hướng tâm hướng thượng trở về tu học và thực tập các pháp lành của bậc Thánh là hành động tốt.v.v…Đó là những nhu cầu cần thiết có được các công đức, và phước lành cho con người cho cả cõi đời hiện tại và mai sau, để tránh cho sự sống không bị lầm lạc, hổn loạn, mất nhân tính, đảo lộn trật tự, tạo kết nhiều ác xấu, não hại trong xã hội… Đây là nguyện lực trên đạo lộ bước thứ hai của Đức Phật.

“Thị Tây phương giả, vị chư chúng sanh dĩ tối hậu thân cố” (nhìn về phương tây, vì chúng sanh là thân sanh tử cuối cùng, cần được thanh lọc tâm ý, chấm dứt luân hồi.)
Vì muốn đem đạo giác ngộ giải thoát sanh tử khổ cho chúng sanh, Đức Phật mượn thân tứ đại giả hợp nầy, đến với cõi đời để thắp lên ánh sáng chơn lý cho chúng sanh được tỏ thông đạo lý. Do đó, bài pháp “Vô Ngã Tướng” Đức Phật đã thuyết minh về thế giới 5 uẩn và 5 thủ uẩn, nhằm giúp cho chúng sanh thấy rõ tiến trình sanh hóa và tiêu tàn của các pháp vạn vật và chúng sanh, với lời dạy tỉnh thức giữa cuộc sống trong cõi dục, ô nhiễm, tham động, đầy dẫy sự bon chen và đấu tranh, đưa đến tàn hại và hủy diệt do sự tối tăm của dục tham, dục sân và dục tưởng của chúng sanh, như: “Cười gì, hân hoan gì, khi đời mãi bị thiêu. Bị tối tăm bao trùm, Sao không tìm ngọn đèn ?” PC.146.

Chúng ta càng nhận biết thêm lời dạy khác của Đức Phật, rằng: “Với những ai nói hay suy nghĩ chơn chánh như sau: ít oi là đời sống con người,nhỏ bé không đáng kể,, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với trí tuệ hãy giác ngộ! Hãy làm điều lành! Hãy sống phạm hạnh! Với người đã sanh, không có bất tử….” (kinh Tăng Chi, chương 3).

Với chừng ấy lời dạy, chúng ta thấy Đức Phật đã giúp cho chúng sanh những gì…? Bậc đạo sư đã nhấn mạnh vào sự sống ngắn ngũi, bọt bèo của dòng đời, chỉ vì sự bận rộn, chật hẹp tâm tư, những tư duy cùn mụt, tạo tác khổ lụy quanh quẩn qua bao ngõ thế đời, nên không tận hưởng được cõi giới của bậc Hiền Thánh. Qua cái nhìn khác, chúng ta thấy Phương Tây là phương mặt trời lặn, là cõi giới bình yên tịch lặng như như, sau khi đã thanh lọc tâm ý, chuyển dòng lực nghiệp để được tịnh hóa, vượt thoát tử sinh, với sức vi diệu mầu nhiệm ấy, nay đã trở thành pháp thân hiển bày muôn trùng pháp duyên và vô tận thời gian. Như vậy, chính vì mượn thân sanh tử để chuyển tải đạo giác ngộ giải thoát, đem đến chúng sanh chư thiên và loài người nguồn an lạc đích thực, và chấm dứt sự khổ đau. Đó là nguyện lực hay đạo lộ thứ ba của Đức Phật khi xuất hiện.

“Thị Bắc Phương giả, vị chư chúng sanh ngã đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (nhìn về phương Bắc, vì chúng sanh mà thị hiện ra cõi đời ngũ trược bằng thân người mà thành tựu quả Chánh Đẳng Chánh Giác, thuyết minh chơn lý thực tướng giải thoát cho chúng sanh).

Đức Phật hay chư Phật xuất hiện vào đời không ngoài mục đích giúp cho chúng sanh trở về nhận ra bản giác tự tánh vốn thanh tịnh xưa nay, và sự chiến thắng vô song, đó là tinh thần bất tuyệt của dòng dõi chư Phật ba đời, cũng phải bắt đầu từ sự kiên trì và nỗ lực, đồng thời với tinh thần tỉnh thức chủ lực vẫn là “Không-Vô tướng-Vô tác.” Cái nhìn từ mọi sự vật hiện tượng…

Thế nhưng, Đức Phật lại phải chỉ về phương Bắc mà thệ nguyện; vì chúng sanh mà ra đời bằng chiếc thân 5 uẩn này, để thành tựu quả Phật và trình bày giáo pháp. Điều nầy giúp cho chúng ta cần quán chiếu rằng: đứng về hình thức của quả địa cầu, thì phương Bắc thường dày đặt bởi băng tuyết, giá lạnh, ảm đạm, trầm nặng u tối, khó có những sinh vật tăng trưởng...v.v… Cùng cách ấy,  giống như một tâm hồn không bén rễ với các thiện sự và phát sinh lòng kính tin vào Tam Bảo. Hay nói một cách khác, chính là một thế giới ở phía Bắc của ngọn núi Tu di, một trong những cõi trời Dục giới, vì mãng lo thọ hưởng phước, đam mê bởi đời sống nhiều lạc thú thiên giới, để khi phước hết, thì bị đọa vào ba đường khổ, hay trở lại cõi người, mà không khởi tâm tu học pháp của các bậc Thánh, đôi khi chỉ biết dựa dẫm tín ngưỡng cầu nguyện suông bên ngoài, thì càng đánh mất đi năng lực trí tuệ, và sự kiên định nơi chính mình. Do đó, chỉ có bậc đại bi đại trí, minh triết viên mãn mới đủ năng lực chuyển hóa cho chúng sanh chư thiên và loài người nhờ công đức thù diệu từ nơi Đức Phật khi vừa thị hiện, như : Khi Bồ tát sanh, thì người đi thuyền bị trôi được trở về. Vì Bồ tát đắc nhập Bát Chánh Đạo để dạy chúng sanh.” (kinh Ưu Bà Di). Đắc nhập Bát Thánh Đạo là đạo lộ duy nhứt của ba đời chư Phật, là con đường dẫn chúng sanh về cõi Phật giới thênh thang, chấm dứt sự trôi dạt xuôi theo dòng lạc thú cõi đời, như người bị trôi thuyền được về lại bến cũ. 

Vì muốn đem lại lợi ích đích thực cho chúng sanh, nên Phật thi hiện có tu tập, có chứng đắc, và có du hóa, để lại pháp thân vi diệu muôn đời cho chúng sanh quá khứ và đến mai sau, ở lời dạy khác, Bồ tát Tịch Thiên dạy: “ Được gặp Phật xuất thế, được làm người có lòng tin Phật thích hợp để tu thiện hành, đấy là những điều kiện hiếm có, biết bao giờ ta mới được lại ?” (Nhập Bồ Tát Hạnh – 15). Như vậy là đạo lộ thứ tư mà đức Phật thị hiện vào đời.

“Thị Hạ phương giả, vị chư chúng sanh, dị dục hàng ma cố.” (Nhìn về phương dưới, vì chúng sanh mà thị hiện hàng phục các loài ma…)
Hơn ai hết, từ các bậc Thánh Hiền, Đức Phật là vị thầy tối tôn, là bậc có vô lượng công đức, có đầy đủ lục thông, với Phật trí  Ngài thấy và biết rõ hành sự các loại chúng sanh phàm tâm hạ liệt từ trong cõi giới chư thiên và loài người. Và cũng hơn bao giờ hết, cuộc chiến đấu gay gắt nhứt, lại cũng xuất phát từ cái thiện và cái ác, cái chơn chánh và cái bất chánh.v.v… Có nhận nhận thức, rõ biết như thế, Đức Phật giúp cho chúng ta tự đặt cho mình một sự quyết định minh triết, một hướng đi như pháp, là : “… Ai điều phục được tâm, thoát khỏi ma trói buộc” (Pc.37).

Nhìn về phương dưới, là nhìn vào tầng lớp thấp kém, phiền tạp, hổn độn của chúng sanh, những điều quấy nhiểu đàn áp và bất an, những điều khổ đau và đọa lạc, nó luôn diễn biến cuồng vọng của tâm hồn, quay cuồng theo ý tưởng ác quấy, nhằm tạo tác xung đột áp đặt vào nhau giữa chân thật và dối trá, giữa tham ác và hiền thiện, giữa biết ơn và vô ơn, giữa đức hạnh và gian tà.v.v… 

Giáo dục và đạo đức luôn là nền tảng nhân bản chuẩn thằng của con người, nhưng bởi sự manh động do những quyền lợi ích kỷ và thế lực tôn quyền, thì đây chính là lực lượng của ma vương đang và đã bảo vệ thành trì của ma vương. Như vậy,  Ma; là những gì làm mất đi những tinh chất đạo đức và giáo dục, làm đảo lộn sự thăng bằng trật tự đạo lý đời sống con người trong xã hội. Ma, còn có nghĩa là đánh đổ đời sống đức hạnh. Các bậc Thánh Tổ cho rằng: “Phật, đấng luôn nói lên sự thật, đã dạy rằng; tất cả những nỗi lo sợ cùng vô lượng thống khổ đều từ tâm mà sanh ra.” Do đó, với nguyện lực của Đức Phật thị hiện vào đời vì chúng sanh mà Ngài trình bày pháp để hàng phục ma nơi cõi đời và nơi chính mỗi tâm dục tham, phiền não và mê lầm của chúng sanh, để được cuộc sống an tịnh lạc, vượt thoát mọi trói buộc của lưới rập ma vương, dứt trừ tội nghiệp. Như vậy là bổn nguyện hay đạo lộ thứ 5 của đức Phật thị hiện vào đời.

“Thị Thượng phương giả,vị chư chúng sanh quy y thiên nhơn cố” (Nhìn về phương trên, vì chúng sanh mà làm chỗ nượng tựa của trời người, hướng về Tam Bảo).
Đối với Đức Phật, không những là vị thầy tối tôn của các hàng trời người, Ngài còn là vị thầy siêu vượt trong hàng Tứ thánh, Bồ tát và Duyên giác. Và hơn thế nữa, trong những bậc đạo sư, giáo chủ, thị hiện vào đời tuyên thuyết khai mở con đường, thì con đường mà đức Phật trình bày luôn thắp sáng lộ trình nhân sanh và võ trụ, vì đó là chơn lý lẽ thực tự nhiên, sanh hóa và tiêu tàn của các pháp chúng sanh vạn vật, với chân trí chứng hiểu của Đức Phật, đã trở thành 10 đặc ân siêu hóa thù diệu cho chúng sanh.

Con đường (hay giáo pháp) của đức Phật có hiệu năng hướng thượng, thiết thực hiện tại, đến để mà thấy, chứng và trú vượt thời gian, vì đó là chân nghĩa pháp thanh tịnh, có năng lực giúp chúng sanh một khi thực hành sẽ được an lạc trú, chấm dứt sinh tử. Và đối với chúng Tăng, đệ tử của Đức Phật đã thành tựu Thánh hạnh, là nền tảng niềm tin tuyệt đối, bởi do có một đời sống nghiêm túc, trung thực với mọi hành sự, đoạn diệt pháp trần cấu, thành tựu những pháp hành, xứng đáng làm ruộng phước cho trời người.

Thế nhưng, qua cái nhìn khác, ngay ban đầu đức Phật đã lập nguyện sẽ là vị đạo sư hướng dẫn cho chúng sanh thấy và biết con đường vô thượng, sống một nếp sống hạnh phúc và chơn chánh, nhận ra được rằng các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã, cũng như phân biệt rõ các cõi giới thấp kém, tội lỗi đưa đến khổ đau cho mình và cho người...v.v… Nhưng tựu trung qua những lời lập nguyện của Đức Phật hướng về 6 phương vẫn không ngoài tinh thần thuyết minh lý cơ bản Tứ Diệu Đề trong thế giới hằng hữu này. Và 6 phương ấy cũng chính là những hoạt dụng tâm thức của mỗi chúng ta đã và đang hiện hữu trong thế gian. Một khi con người có sự cần cầu hướng thượng, an ổn không còn bị các khổ ách do tu tập pháp của Đức Phật trình bày, do thánh đệ tử thực hành tu tập, và truyền thừa bất tận nguổn chân pháp, chân nghĩa ấy. Đây chính là sự trở về nương tựa nơi mỗi tâm hồn của chúng ta ngay trong hiện tại, bây giờ.

Thế giới con người hôn nay, không một quốc gia tiến bộ nào lại không chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tinh thần trở về một đời sống gieo đầy mầm Phật chất, để thật sự có ý thức, thể hiện quan điểm vì quyền sống và hạnh phúc của con người, vì môi trường và bảo vệ môi trường từ mọi lãnh vực sinh hoạt trong cộng đồng cuộc sống nhân loại, và trừ khử những sai lầm, ác quấy, phi đạo đức, phi giáo dục, phi nhân tính. Ngay trong pháp luật của tuyệt phần đa số những quốc gia trên thế giới, cũng không vượt khỏi 5 giới căn bản của Đức Phật đã dạy cho người đệ tử tại gia, và cũng chính nội dung 5 giới nầy, đã thật sự giúp cho tự thân con người, gia đình, xã hội có một trật tự, lành mạnh và thuần thiện, là nguyên nhân đem lại an lạc và hạnh phúc lâu dài, không những cho cõi người mà còn cho các cõi trời và những cõi giới khác nữa ngay trong hiện tại và đến tận mai sau.

Nhân ngày đức Từ phụ thị hiện vào đời, và ngang qua tinh thần lập nguyện 6 phương của Đức Phật cách đây đã trên 2500 năm về trước, suy niệm và tu tập, phát huy và trưởng dưỡng nguồn năng lực giác ngộ nơi chính mình, thực hiện những điều thiện lành, để được siêu hóa trong dòng luân lạc quay cuồng của thế đời ác trược nầy. Xem đây là một hành động tích cực của những người con Phật chúng ta đồng kính mừng ngày Đản sinh của đức Từ phụ Bổn sư. 
                                                  
An Giang, tháng tư 2014,mùa Phật Đản PL.2558
Mặc Phương Tử

<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2014 09:31:41 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 09.05.2014 09:44:33
0
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2014 13:54:42 bởi dzuylynh >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 10.05.2014 03:55:35
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN
TIN NÓNG: BIỂU TÌNH ĐÃ NỔ RA TẠI ĐẠI SỨ QUÁN TRUNG QUỐC Ở HÀ NỘI  
 


 
 
Hà Nội, 17h00 ngày 9.4.2014: 
 
 
BÙNG NỔ BIỂU TÌNH TẠI ĐSQ TRUNG QUỐC Ở HÀ NỘI
 
Bức xúc trước việc nhà cầm quyền Bắc Kinh, đứng đầu là Tập Cận Bình đã điều giàn khoan khổng lồ cắm sâu vào lòng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, nhiều người dân Hà Nội đã kéo đến Đại sứ quán Trung Quốc, 46 Hoàng Diệu, HN để biểu tình phản đối. 
Ý đồ xâm lược Việt Nam của bọn bành trướng Bắc Kinh đã hoàn  toàn bộc lộ!
Và Việt Nam đã thực sự bị xâm lược!
Từ nay, Biển Đông ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Cả một dải biển trời lồng lộng đẹp tươi, đầy cá và tài nguyên có thể rơi vào tay giặc bất kể lúc nào!
Trường Sa bị đe dọa!
Lý Sơn có thể trở thành bàn đạp để tiến vào đất liền.
Toàn bộ Miền Trung và Tây Nguyên, những công trình kiên cố do người Trung Quốc xây dựng và kiếm soát với hàng vạn nhân công trá hình sẽ có thể bất ngờ làm nội ứng, đón tiếp các cuộc đổ bộ. 
 
Tổ Quốc  thực sự lâm nguy!
Đoàn biểu tình biểu lộ lòng căm phẫn và thái độ kiên quyết chống xâm lược, buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan phi pháp ra khỏi vùng biển Việt Nam. Đồng thời yêu cầu nhà nước Việt Nam phải có biện pháp mạnh mẽ thích đáng để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
 



































Ảnh: Tễu tổng hợp từ các trang facebook



<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2014 04:18:30 bởi Phù vân >

nghinhnguyen
  • Số bài : 1392
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.08.2007
  • Nơi: Duc Linh -Binh Thuan
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 10.05.2014 08:50:19
0
Quý mến chào ĐH
 
TÓC MÂY
 
Hôn tóc em - thoáng màu mây
Vút tóc anh - cũng phủ dày tuyết sương
 
Tháng năm qua - bụi thời gian
Ngã mầu nhung nhớ chứa chan nỗi sầu
 
Bao nhiêu năm - những cơ cầu
Mảnh đời - tình cuối, tình đầu còn đây
 
Sống trong hoải niệm vơi đầy
Còn in mái tóc thôi bay gió chiều
 
Chuyện nghìn đời - chuyện tình yêu
Mảnh trăng tròn, khuyết - biển triều sóng xao
 
Về ôn từng giấc chiêm bao
Còn nghe những phút ngọt ngào bên nhau.
 
Nghinh Nguyên
 
 
 
Hãy giữ tình yêu sống trong ta
Dẫu cho tình đời có phôi pha
Mỗi ngày góp nhặt niềm vui mới
Trái tim nhân ái mãi không già....

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 11.05.2014 03:43:56
0

thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 11.05.2014 05:21:26
0
 
 
 
 
 
 

thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 12.05.2014 02:47:12
0
Hình Ảnh Mẹ Trong Phật Giáo
 
GS Trần Thủy Tiên 



Đại Lễ Phật Đản của Người Việt vào Ngày Rằm Tháng Tư âm lịch, tức là vào Tháng Năm dương lịch, mỗi năm. Ngày Lễ Mẹ (Mother’s Day) của Người Mỹ cũng vào Tháng Năm. Để kết hợp hài hòa cho hai ngày lễ ý nghĩa nầy, tác giả mạn phép trình bầy sơ lược hình ảnh Người Mẹ theo quan điểm Phật Giáo, phát xuất từ nền văn hóa cổ xưa của Ấn Độ.
 


Thật vậy, trên 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca (Buddha Sakya Muni) đã nhiều lần dùng hình ảnh những người mẹ thống khổ để giảng dạy triết lý sâu xa của Phật Giáo, nhằm thức tỉnh con người ra khỏi sự vô minh và giúp họ tự đoạn diệt đau khổ, một cách khéo léo. Như chúng ta đều biết, đa số tình thương của những người mẹ đều kèm theo sự hy sinh vô tận cho con cháu, rất đáng ca ngợi. Nhưng tình thương đó cũng thường phát sinh sự ái chấp, chấp thủ, và dính mắc… tức là không thể buông bỏ, xa rời, và vì vậy tạo ra đau khổ. Bởi vì “Ái biệt ly khổ” - “Thương yêu mà phải xa cách”, là một điều khổ. Vậy phải vận dụng công sức, tự Tu Tập, để giảm bớt, rồi tiến đến tận diệt sự quyến luyến trói buộc, tức là diệt khổ. 
 
Như trường hợp bà Ubbiri từng là một cô gái xinh đẹp, thuộc một gia đình giàu có, ở Savathi. Sau bà được làm vợ vua Pasenadi, ở nước Kosala, và sinh được một bé gái, tên Jiva. Nhưng ít lâu sau, Jiva qua đời, bà Ubbiri đau buồn như người mất trí, cứ đi đến các nơi hỏa táng, than khóc không nguôi… Một hôm, Đức Phật đến thành phố đó để thuyết pháp, một đám đông tụ tập, nghe giảng. Bà Ubbiri cũng ngừng lại nghe một chút, rồi bỏ ra bờ sông Achiravathi mà khóc. Muốn giúp bà thoát khổ, Đức Phật đến gần và hỏi vì sao bà khóc. Bà kêu lên: “Con gái tôi đã chết rồi! Con gái tôi đã chết rồi!” Đức Phật nói:“Này! Sinh tử, tử sinh liên tục. Tám vạn bốn ngàn người con gái của bà đã chết và được chôn ở nơi nầy. Bà buồn khóc cho người con gái nào?” Những lời đầy uy lực của Đức Phật đã làm bà bừng tỉnh và giác ngộ… rồi lập tức quy y Tam Bảo (nương tựa theo Phật, Pháp, Tăng). Sau đó, bà kể lại: “Tôi bị một mũi tên đau buồn đâm thẳng vào tim, vì cái chết của con gái. Đức Phật đã rút mũi tên đó ra khỏi tim tôi. Quả tim đã được chữa lành. Không còn nữa những khát khao, ràng buộc…”
 
Tương tự, bà Kisagotami từ một gia đình nghèo, được gã cho một gia đình giàu, rồi sinh được một bé trai, nên bà được gia đình chồng quý trọng. Nhưng vừa biết đi thì bé trai chết. Bà quá đau khổ nên mất trí, bồng xác con đến từng nhà, xin thuốc cứu con sống lại. Có người chỉ bà tìm đến Đức Phật. Ngài bảo bà hãy đi tìm một hạt cải trắng, nhưng phải từ một nhà nào chưa từng có người chết bao giờ. Bà liền đi khắp nơi, nhưng những nhà bà đến, đều đã có người chết. Bà… tỉnh ngộ, nói với xác con trai, trên tay mình: “Con ơi! Mẹ tưởng cái chết chỉ đến với một mình con. Nhưng không phải vậy, nó đến với tất cả mọi người.” Bà mang xác con vào rừng, chôn cất. Rồi trở lại chỗ Đức Phật, xin xuất gia. Sau bà trở thành một trong những trưởng ni, dạy bảo ni chúng, và chứng quả A La Hán (một bậc giải thoát, không còn sinh tử, luân hồi).


 
Hãy nghe Đức Phật Thích Ca giảng Kinh Báo Ân Cha Mẹ, kể ra 10 ân, tức là 10 sự hy sinh trời biển, mà người mẹ dành cho con:
• Thứ nhất là bảo bọc và chăm sóc thai nhi.
• Thứ hai là sinh sản đau đớn, khổ sở.
• Thứ ba là quên hết mọi nỗi đau thể xác, sau khi sinh con.
• Thứ tư là ăn đắng, nuốt cay, và dành những món ngon ngọt cho con.
• Thứ năm là để dành cho con chỗ khô ráo, còn mình nằm chỗ ẩm ướt.
• Thứ sáu là cho con bú mớm khi thơ dại và nuôi nấng con lớn khôn.
• Thứ bảy là tắm rửa, giặt giũ cho con nhỏ.
• Thứ tám là luôn thương nhớ con khi con đi xa.
• Thứ chín là săn sóc và hy sinh cho con (lại vì con mà có thể phạm phải điều ác).
• Thứ mười là thương yêu con suốt đời, cho đến chết.
 
Nhưng sai lầm thay, đa số con cháu thời nay, lại quên ơn, bạc nghĩa, và bất hiếu với mẹ. Theo sách Tâm Lý Học Hoa Kỳ, ngay trong các gia đình có người cha vũ phu, đánh mắng mẹ, nhưng làm ra tiền nhiều hơn, con cái thường theo cha mà đổ tội cho mẹ. Một số người mẹ có thể quen lệ thuộc, hoặc đã bị chồng con lợi dụng về sức khỏe lẫn tiền bạc, nên không còn vốn để xoay sở làm ăn sinh sống, khó thể thay đổi để vươn lên. Họ có thể tuyệt vọng, không biết nương tựa vào đâu, khi chính chồng con cho rằng họ là nguyên nhân gây “mất hạnh phúc gia đình”. May mắn thay, trong xã hội văn minh của Hoa Kỳ, những người mẹ nầy có thể kêu cứu với chính phủ xin giúp đỡ (về trợ giúp tài chánh để học nghề) và bạn hữu, hoặc hội đoàn, các tổ chức cộng đồng địa phương (về tình cảm, tinh thần ủng hộ), và phải có ý chí tự lập, nỗ lực làm lại cuộc đời. It’s never too late to start a new life. 
 
Ở Việt Nam, chúng ta thường nghe các bà mẹ chồng (thiếu kiến thức và thiếu cả lòng nhân, không hiểu rằng tình yêu vợ và tình thương mẹ của con trai là hai loại tình cảm khác nhau nên không xâm lấn vào nhau) đã xúi giục con trai đánh mắng vợ, chia rẻ tình vợ chồng, gây bất an cho cả nhà. Ngày nay ở hải ngoại, chúng ta cũng nghe chuyện các con dâu (thiếu đạo đức, thủ vai chính trong việc khôn khéo rỉ tai chồng) tạo căng thẳng, xung đột, để bỏ rơi mẹ chồng, cô đơn nơi xứ người. Cũng có những con trai, con gái đối xử rất tệ bạc với cha mẹ ruột. Lại có những cha mẹ ruột quá hà khắc, dùng bạo lực côn đồ, xử trị con cháu như với kẻ thù… Có thể đây là chuỗi Nhân Quả vay trả lẫn nhau giữa những kẻ vô minh? 
 
- Là những người tầm thường, không có trí huệ để nhìn thấu được Nghiệp Báo giữa quá khứ và hiện tại, chúng ta không rõ. Nhưng theo Phật dạy, đã được Làm Người kiếp nầy, tức là đã từng gieo được chút phước đức trong đời trước, thì chúng ta nhất định phải tiếp tục Nghĩ, Nói, Làm cho đúng với Lương Tâm của con người và của một hiếu tử, ít nhất để khỏi phụ công khó nhọc của cha mẹ đã sinh dưỡng mình tới lớn khôn. Cũng khỏi phụ công các thầy cô đã giáo dục học trò như mình, theo các giá trị nhân bản, lễ nghĩa, kiên nhẫn, trung tín với gia đình, dân tộc, và góp sức phục vụ cộng đồng, xã hội.
 
Làm con trai, với đảm lược của người đàn ông trưởng thành, ta nhớ bảo bọc cha mẹ và các chị em. Nhớ khuyên can mẹ (ở chỗ riêng tư) khi thấy mẹ thực sự bất công với con dâu, khen cha mẹ và vợ đúng việc (giữa các buổi họp mặt gia đình), giúp vợ con việc nhà, và bình tĩnh hòa giải sự bất ổn giữa cha mẹ và vợ, nếu có.
Làm con gái, với đức hạnh và tài khéo về nội trợ lẫn ngoại giao, ta nhớ hỗ trợ cha mẹ và chồng con, xây dựng gia đình. Nhớ giữ đạo đức làm vợ, làm dâu, làm mẹ, và làm một hội viên gương mẫu cho tuổi trẻ noi theo, và cũng để cả nhà, đoàn thể, và cộng đồng được an vui. Chúng ta không thể an vui khi: để cha nằm ngoài phòng khách, mẹ bệnh ở xa không ai thăm, cha mẹ già đến thăm cháu, không được mời cơm, con trai nghe lời vợ không đóng góp chôn cất song thân, con gái sợ chồng, không dám nuôi mẹ vài ngày… 
 
Trong Phân Biệt Kinh, Phật thuyết: “… Chỉ có đạo đức mới được tồn tại. Như ta thuở quá khứ, cũng từng phải làm cha mẹ, con cái, tôi tớ, nhiều đời không thể tính kể. Tất cả đều do nhân duyên một thời phải chịu… Và cha mẹ mà ta có được hiện thời là do nhân duyên đạo đức nhiều đời, chứ không phải do nhân duyên nghiệp báo. Nhiều đời cha mẹ ta đã để cho ta tự do học đạo. Chính nhờ công ơn đó, ta đã siêng năng tu hành trải qua nhiều kiếp, nay mới được thành Phật. Vậy nên người muốn học đạo, phải tinh tấn, lo sao cho tròn Chữ Hiếu. Chớ để một khi bị đọa mất thân người (một khi bị làm thú vật hoặc vào địa ngục), muôn kiếp khó bề trở lại! Sau nầy, gặp Thời Mạt Pháp (có quá nhiều người bạc ác), các người cần nên tu hành Hiếu Thuận…” 
 
“Lại nữa, có ba điều người đời ngu dại ưa làm, nên phải chịu quả báo trong ba đường khổ: Một là Thân ưa sát hại, trộm cắp, và dâm dục. Hai là Miệng ưa nói lời xuyên tạc, chửi mắng độc ác, phản bội, dối trá, lừa gạt, và nói thêu dệt, không đúng sự thật. Ba là Ý ưa nghĩ chuyện tham lam, giận hờn, si mê (vị ngã, tranh giành, ganh tỵ, ghen ghét…). Vì ba điều ưa đó mà đọa vào ba đường khổ: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Chỉ Người Có Trí mới nhận thức được.”
 
Theo tác giả Viên Thành, cái Miệng còn tạo các điều ác khác, như: ăn uống cầu kỳ, chỉ trích, rêu rao lỗi người, thường làm mích lòng, gây thù hận. Do đó, ông nói có 4 hạng người nên tránh: 1) Hay tìm kiếm sự sơ ý của người khác để nói. 2) Hay nói chuyện mê tín, tà kiến. 3) Miệng làm bộ nói tốt, bụng xấu ác. 4) Làm ít, kể nhiều. Từ cái miệng, ta có thể biết tâm ý mà đánh giá người khác, để cư xử thích nghi.


 
Sau cùng, con cháu cần biết: Sự ăn ở hiếu thuận với cha mẹ là một Tiến Trình lễ nghĩa với thâm tình lâu dài. Chớ nên bỏ bê cha mẹ cả năm, đến gần Ngày Lễ Mẹ (của Mỹ) hoặc Ngày Cha Mẹ (Lễ Vu Lan của người Việt) thì mới gửi một bó hoa, quà tặng (cho có lệ), hoặc bắc điện thoại “I love you!” là xong… nợ!!! Mẹ cần tình thương và sự chăm sóc, hỏi han ân cần của con, nhiều hơn vật chất. Hãy nhớ lại lúc con vừa được sinh ra: Cuộc sống của con đã bắt đầu với sự thức giấc vào đời và lòng yêu thương khuôn mặt mẹ. (Your Life began with waking up and loving your mother’s face). Và đây nữa: Đàn ông yêu người tình nhất, yêu vợ nhiều nhất, nhưng yêu mẹ lâu dài nhất. (A man loves his sweetheart the most, his wife the best, but his mother the longest). Happy Mother’s Day!!! Chúc mọi người Nụ Cười Vui…
 
Ngày Lễ Mẹ của Hoa Kỳ, 11.5.2014 & Ngày Phật Đản Việt Nam (Rằm Tháng 4 âm lịch - 13.5.2014)
 
GS Trần Thủy Tiên, M.A. in Psychology & Sociology
…………………………

Nguồn Tham Khảo:
http://hoavouu.com/p24a24..tinh-me-trong-phat-giaohttp://www.phatgiaongayna...uLan/NhungNguoiMe.html
Eternal Gratitude To Our Parents - English translated by Cung Hoàng Kim @2010
Tu Cái Miệng là Tu Nửa Đời Người - Viên Thành
http://www.ngocbao.org/D_...2_5-20_6-1_17-54_14-2/

(nhận qua email)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.05.2014 02:59:00 bởi thiên thanh >

thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 12.05.2014 03:15:12
0
 
 
 




Lời ru, bú mớm, nâng niu
Phạm thiên Thư - Phạm Duy / Bạch Vân




thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 15.05.2014 17:22:00
0
 
 
Trời hỡi làm sao cho khỏi… Lọa???
Nguyễn Ngọc Tư
 
 
Lúc rày nghe nói ngư dân nước mình bị tàu Lọa ăn hiếp, bắt bớ, đánh đuổi dữ quá, sông quê mình bị Lọa bóp họng từ xa, đất quê mình bị Lọa che lấn từng tấc một… tinh thần dân tộc của chú Tư bừng bừng trỗi dậy, chú liền họp mặt gia đình thông báo từ nay cấm không xài đồ của nước Lọa nữa, không lý gì nó bức hiếp chà đạp mình vậy mà mình cứ nhơn nhơn xài đồ Lọa, làm giàu cho nó.
- Phải chống lại sự xâm lăng của Lọa ngay từ trong nhà mình – Chú nói với sự quyết tâm ngút ngất.
 
Ở nhà chú Tư, lệnh chú là lệnh trời. Thím Tư là ngừơi đầu tiên cảm nhận trời sập cái rầm xuống đầu mình, tối tăm mày mặt, cái phim Lọa “yên yên mông mông” mà thím đang coi đang tới khúc chia ly mùi mẩn gay cấn. Nhưng giờ trong nhà đang có chiến dịch tẩy chay hàng Lọa, nên ti vi hầu như không hoạt động. Chú để cái búa cạnh nó, chú nói, hễ phát hiện ra ai coi phim Lọa, nghe nhạc Lọa là chú bửa… ti vi cho tan nát đời con… chip luôn.
 
Tánh chú nói là làm, ai cũng ớn. Bàn thờ nhà chú giờ chưng toàn trái cây héo, bởi trái cây mà tươi rói căng mọng chắc chắn là từ bên Lọa chở qua. Đồ chơi của thằng Tu Ti cháu nội chú bị đem bán ve chai hơn một nữa do “made in Lọa”. Thằng Sáu buộc phải cho không cái điện thoại Lọa mua có hơn một triệu mà coi được ti vi, nghe nhạc lồng lộng, nó mua lại cái di động hiệu Nó Kìa. Đem về chú Tư săm soi rồi hét lên, cha chả cái thằng Sáu, điện thoại này cũng sản xuất ở Lọa nghen mậy. Thằng Sáu mặt xanh như tàu lá, chạy đi đổi lại cái điện thoại Việt cho chắc ăn. Mấy bữa sau đọc báo thấy điện thoại nhãn Việt toàn đặt hàng gia công bên Lọa, thằng Sáu kêu chú Tư cho năm triệu, cỡ tiền đó mới mong hàng không liên quan tới đất nước ất ơ kia. Chú Tư đổ mồ hôi hột, nhưng cố bấm bụng vì những đồng bào đau khổ của mình, vì yêu nước mình nên mua điện thoại… Nhật Bản cho con nó xài.
 
Rắc rối đâu chỉ có vậy, cái phim Việt “Thái Sư Trần” nhưng quay cảnh bên Lọa, cả son phấn trên mặt diễn viên cũng do người Lọa phết lên. Chú Tư tức mình nói với thằng Hai, tao chống mắt coi làm phim Lý Thường Kiệt thì đi quay ở đâu, tại vì ông Kiệt này chống nước Tống, tức là tiền thân của nước Lọa, họ đâu có ngu mà cho mình qua đất họ quay phim chửi họ. Thằng Hai cười, cũng chưa biết sao à tía, tại vì phim lịch sử nước mình hay mặc nhầm quần áo của Lọa lắm, nói chuyện giống y phim Lọa nói, sao tía cự được, tía có sống ở một ngàn năm trước đâu.
 
Chú Tư cảm thấy ngán ngẩm lắm rồi, tối qua thím Tư mặc cái áo ngủ mỏng tang mới mua, liếc qua mà chú nóng bừng ngây ngất, ai dè áo mang mác Lọa, làm chú mất hứng quá chừng. Ngó qua ngó lại trong nhà thấy cái gì cũng của Lọa, chén ăn cơm, ly uống nước, hột gà, hột quẹt, đèn pin, tới cây đập ruồi của made in Lọa nữa là sao là sao là sao? Chú vừa tống chúng ra ngoài đống rác vừa kêu trời.
 
Nhà trống trơ, vợ con chú ủ rủ, đồ Lọa bị đẩy ra khỏi nhà mang theo bao nhiêu vui thú trên đời, không phim Lọa ti vi chẳng có gì để thím coi, con Út Chín phải lén đọc mấy tờ “Nhí Nhảnh”, “Nhí Nhố” ở ngoài đường, đem về nhà chú Tư thấy trong đó toàn là hình diễn viên Lọa là chết chắc, Út Mười không có con sâu nhồi bông gòn để ôm ngủ, nó trằn trọc đêm đêm. Một bữa thằng Hai đòi đổi tên, chớ tên nó lai Lọa quá, gì mà Hà Đại Cương, phải đổi lại là Sông Lớn Cứng, thằng Ba Hà Đức Minh thì đổi là Sông Nết Sáng, thí dụ vậy… Mà tía cũng phải đổi thành Sông gì đó nghen. Con đi hỏi thủ tục đổi tên rồi, đóng chín dấu, qua bốn cửa là xong, nhà mình thuần Việt. Nhưng con lo mấy cái đơn xin không biết viết sao cho nó Việt hết cỡ, thí dụ "Độc lập - tự do - hạnh phúc" thì mình viết là "một mình sung sướng thoải mái" được không?
 
Chú Tư ngã vật ra chết giấc. Cũng may nhà còn sót lại chai dầu cù là nhập bên... Lọa mới đánh gió lay tỉnh chú được. Thiệt tình!
 
nguồn

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 16.05.2014 00:03:27
0
ĐỌC BÁO DÙM BẠN
Chủ nhật 18/5: Toàn quốc xuống đường!
Cựu sĩ quan quân đội, Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng

Nhà báo Phạm Chí Dũng trong cuộc xuống đường ở Saigon ngày 11/05/2014. Hai người mặc áo xám phía sau là nhân viên an ninh.
Không thể trông đợi bất cứ sự tỉnh ngộ hay hồi tâm nào từ chính quyền Bắc Kinh! Không thể nào làm chùn bước não trạng “Ngàn năm Bắc thuộc” của kẻ đang một lần nữa muốn nô thuộc Giao Chỉ!
Cũng không thể mỏi mòn trông chờ động tác thể hình khom lưng của nhà cầm quyền Việt Nam được chuyển sang thế ngẩng cao đầu! Không thể chỉ với thái độ “ngoại giao mềm dẻo” nhằm kéo lê cố tật “mười sáu chữ vàng” mà không có bất cứ một hành động đáp trả xứng đáng nào!
Ngay một hành động danh dự tối thiểu cho khuôn mặt chính thể và cũng vì ý chí còn lại của dân tộc cũng chưa từng được phô diễn trong suốt ba tuần qua, kể từ khi giàn khoan HD 981 của Đại Hán ngạo nghễ ngự trị ngay trên vùng biển quê hương của chúng ta.

 Ba tuần qua phải có giá trị bằng ba năm trời đằng đẵng của một dân tộc chìm trong bóng tối phương Bắc cả một thiên niên kỷ và đang sắp mất nốt những giá trị tự trọng còn sót lại. Nỗi lăng nhục dân tộc đối với Việt Nam lần này là quá lớn so với gần hai chục đợt gây hấn và hành hạ ngư dân Việt của chế độ độc đảng Trung Quốc từ năm 2011 đến nay.
***
Nhu nhược là nguồn cơn của tội lỗi, đớn hèn là căn nguyên của mất nước.
Trong suốt ba năm qua, những gì mà chế độ một đảng ở Việt Nam dụng tâm thỏa hiệp với người bạn “Bốn Tốt” đã đổi lại được gì? Mười thỏa thuận của nguyên thủ quốc giaTrương Tấn Sang dưới bóng cờ sắc máu Tập Cận Bình vào mùa hè năm 2013 có làm cho tình thế bớt chút nào nóng bỏng và tủi nhục? Tại sao người được xem là một nguyên thủ quốc gia khác – Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng – lại khiến cho con dân nước Việt tuyệt vọng đến thế khi ông không dám đả động một lời về đợt xâm lăng HD 981 trong bài diễn văn mở đầu Hội nghị trung ương 9 – một hành động khiến những người đam mê điện ảnh bắt buộc phải đau đớn ngẫm lại bộ phim “Sự im lặng của bầy cừu”?
Tất cả những im lặng còn kém xa tinh thần nhu nhược ấy quả là hoàn toàn bất xứng so với một quốc gia cũng được xem là nhỏ bé như Philippines. Cách đây đúng bốn chục năm, đất nước này chỉ là hình ảnh mờ nhạt của Việt Nam. Nhưng chỉ mới vào năm 2013, Manila đã khiến cho giọng hú chó sói của Bắc Kinh trở thành tiếng tru lạc lõng trong đêm trường Tây Tạng. Trung Quốc đã không dám thực hiện bất kỳ hành vi tấn công quân sự chiếm đảo nào. Ngược lại, lực lượng hải quân Philippines còn đủ can đảm bắt giữ tất cả những tàu cá Trung Hoa xâm phạm vùng lãnh hải của họ.
Nhưng thái độ của Bộ Chính trị Hà Nội ra sao? Trong ít nhất ba năm qua và bất chấp gần hai chục cuộc biểu tình của  tầng lớp trí thức và nhân dân, đảng và chính quyền Việt Nam đã chỉ mang trên mình một nỗi nhẫn nhục thực thể và nỗi sợ hãi vô hình, bởi những nguyên do và động cơ thâm sâu mà có lẽ chỉ có họ mới ngầm hiểu với nhau.
***
Ngay giờ đây, lớp dân chúng khốn khổ của giới cai trị Việt Nam lại không thể hình dung ra một hậu quả gì khác hơn, ngoài tiếng đồn về những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống thời đại đang dậy trời phẫn nộ.
Ngay vào giây phút đáng được xem là giờ lâm chung này của dân tộc, một cơn phẫn nộ khác cũng đang bừng sôi tràn ngập trong lòng dân chúng:
Tại sao sau gần hai chục năm bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, giới lãnh đạo đầy bảo thủ ở Việt Nam vẫn không tiến nổi đến một hiệp ước quốc phòng với Hoa Kỳ – như kết quả mà người bạn Philippines vừa đạt được – để tạo nên một “lá chắn Biển Đông” vì sự an nguy của chính mình?
Tại sao Chính phủ Việt Nam lại không đủ bản lĩnh khởi kiện hành vi xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc tại tòa án quốc tế như người bạn Philippines đã và đang làm?
Tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại không dám thể hiện lòng can đảm ngoại giao tối thiểu như triệu hồi đại sứ tại Trung Quốc, hay mạnh mẽ hơn là cắt đứt quan hệ ngoại giao với kẻ đã nuốt gọn thác Bản Giốc ở mạn đầu Tổ quốc?Tại sao Bộ Quốc phòng Việt Nam lại không có bất kỳ hành động quân sự nào để ít nhất tương xứng với điều được coi là danh dự và sự tồn tại của quân chủng hải quân hay binh chủng không quân nước nhà?
Tại sao cùng là người Việt Nam mà chính quyền và ngành công an ở Hà Nội, Sài Gòn và các địa phương khác vẫn đang tâm thực thi chính sách ngăn chặn biểu tình và bắt bớ người biểu tình đối với lớp dân chúng chỉ mang tinh thần yêu nước và phản kháng Trung Quốc?
Tại sao họa xâm lăng đang cận kề mà một bộ phận quan chức no đủ ở các cấp vẫn ung dung thù tạc, với những cuộc mittinh lạc điệu cùng những cuộc “phản biểu tình” thô thiển mà chỉ nói lên một ý nghĩa duy nhất: Hèn với giặc, Ác với dân?…
Chủ nhật ngày 18 tháng Năm năm 2014, Toàn quốc xuống đường!
Hãy xuống đường để nhà cầm quyền Việt Nam thấm thía rằng số phận họ gắn liền với dân tộc Việt Nam! Xuống đường không chỉ để biểu thị tinh thần phản kháng Trung Quốc mà phản ứng cả thái độ nhu nhược và động cơ thỏa hiệp không thể chấp nhận của những người luôn kiên định chế độ một đảng lãnh đạo ở Việt Nam! Xuống đường để giàn khoan HD 981 phải bị đuổi về cố quốc của nó! Xuống đường để không thể một lần nữa chịu khuất phục làm nô lệ cho phương Bắc!
Cuộc biểu tình ngày 11/5 vừa qua dù thật ý nghĩa nhưng vẫn chưa làm phai nhạt tâm trạng vô cảm chính trị trong xã hội và tâm thế đáng xấu hổ của những người mang nhiệm vụ phân hóa biểu tình. Chỉ chừng đó vẫn là quá ít để giữ yên Tổ quốc!
Không phân biệt các thành phần nhà nước và phi chính phủ, đã đến lúc chúng ta phải kết chặt tay nhau! Hãy kết liên một lòng và nhiệt thành giữa giới công chức và viên chức, quân đội và công an, mặt trận tổ quốc cùng các đoàn thể nhà nước… với toàn thể nhân dân, công nhân, nông dân, sinh viên, học sinh, trí thức, tôn giáo và xã hội dân sự! Các tỉnh thành trên cả nước hãy xuống đường để thế giới biết rằng chúng ta có Chính nghĩa!
Xuống đường để làm sống lại lời hịch phá Thanh của Quang Trung Nguyễn Huệ:
Đánh cho để dài tóc 
Đánh cho để đen răng 
Đánh cho nó ngựa xe tan tác 
Đánh cho nó manh giáp chẳng còn 
Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ
***
Đả đảo chủ nghĩa bành trướng Trung Hoa!
Đả đảo quân xâm lược Trung Quốc!
Tổ quốc hay là chết!
Đời đời Việt Nam tự do!
AUDIO : http://yourlisten.com/thuymy/li-ku-gi

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 16.05.2014 07:43:11
0
PHÓNG SỰ VIỆTNAM
Đi giữa dòng bạo động – TUẤN KHANH

Lúc 10g sáng ngày 14/5, Tôi cùng 2 người bạn là Thiên Văn và Phạm Thy quyết định chạy xuống khu Gò Vấp, gần Lái Thiêu, khi nghe nghe tin các công ty ở khu Tân Thới Hiệp bắt đầu có đình công. E rằng sẽ có đập phá và bạo động, chúng tôi không dám mang theo nhiều máy móc, chủ yếu là mang theo sự liều lĩnh, để tìm hiểu vì sao lại có những chuyện đập phá và cướp bóc như trên các trang mạng xã hội mô tả.
Lý do của chuyến đi này được thôi thúc từ đêm trước. Ngay khi chúng tôi nhận được những hình ảnh những chiếc thiết giáp tiến vào Sài Gòn, những đoàn xe biểu tình được dẫn đầu bởi một chiếc xe Matiz bí ẩn, được chuẩn bị hình cờ búa liềm và ngôi sao, làm náo loạn nhiều con đường. Trong đêm, nhà văn Nguyễn Đình Bổn nhắn tin “anh buồn quá, công nhân bị lợi dụng, rồi sẽ có người chết”. Nhà báo Mạnh Kim thì gọi, giọng lo lắng “tôi quá sốt ruột nên làm một vòng coi tình hình, có gì mình liên lạc nhau nhé”. Lúc đó, tôi cũng đang chạy trên các con đường dẫn đến tòa Tổng Lãnh Sự Trung Quốc. Thành phố im lặng, nhưng nặng nề trong lòng những người đang quan tâm đến thời sự đất nước. 
Trên đường đi đến Tân Thới Hiệp, chúng tôi được Huy Đoàn, một người bạn ở gần đó cho biết tình hình vắng lặng. Các công ty đã cho công nhân nghỉ việc và dán thông báo giới thiệu mình không là người Trung Quốc trong sự lo sợ. Chúng tôi quyết định đi ngõ ra Sóng Thần, Bình Dương, vì nghe nói có một đoàn biểu tình đang tụ tập ở đó.
Gần giữa trưa, nắng tháng 5 gắt và khó chịu vô cùng, ai cũng tìm chỗ mát để né. Vậy mà chỉ đi được một đoạn, chúng tôi tìm thấy hàng loạt các xe gắn máy cầm cờ, trống…v.v gầm rú phía trước. Trong các nhóm ào ạt đi như vậy, có đủ nữ lẫn nam. Cứ thỉnh thoảng lại nghe tiếng hô “Việt Nam Muôn Năm”, “Đả đảo Trung Quốc”… như một cách làm hiệu để đoàn không bị lạc hướng. Dự đoán các nhóm này sẽ đi về khu công nghiệp ở Sóng Thần, Bình Dương, nên chúng tôi quyết định bám theo.

Có vẻ như không có sự kiểm soát nào. Những đoạn đường mà mọi ngày, CSGT vẫn đứng khắp nơi, nay vắng lặng một cách khó hiểu. Cảm giác thật khó tả khi gia nhập vào đoàn người. Chúng tôi cảm nhận thấy một điều rất rõ, những nhóm xuống đường này đang kiểm soát thị trấn, kiểm soát thành phố mà không có bất kỳ sự ngăn chận nào. Duy chỉ có hoạt động hết sức thầm lặng và kiên trì của các nhóm dân sự xã hội ở vài nơi nhằm hạ nhiệt của các đoàn người đang lên cơn sốt. Ngay trong đoàn, chúng tôi nhìn thấy 2,3 chiếc xe với các bạn trẻ cứ chạy song song và dúi cho những người biểu tình các tờ photocopy. Tôi thúc Thy chạy vượt lên và xin một tờ. Nội dung trong đó ghi rằng “Lời kêu gọi khẩn cấp Kính gửi các bạn công nhân ở tỉnh Bình Dương và cả nước”. Với phông chữ khoảng 12pt, tràn trang giấy là lời kêu gọi mọi người hãy bình tĩnh và kêu gọi đừng cướp phá, sẽ bất lợi cho Việt Nam. Dĩ nhiên, có những người đọc, có những người vứt sau lưng.
Nỗ lực hạ nhiệt của những nhóm dân sự xã hội thật đáng khâm phục. Ngay trong khu Công nghiệp Sóng Thần, giữa những đám cháy và sự kích động điên cuồng của đám đông chạy đi chạy lại, gậy và cờ, hò hét, vẫn có một nhóm thanh niên im lặng dũng cảm đứng dựng băng-rôn lớn, trên đó có dòng chữ ghi “Hãy biểu tình đúng cách. Không đập phá tài sản. Không lấy tài sản”. Tim thắt lại, tôi nghĩ không biết vào những lúc đám đông ít tự chủ nhất, những lúc sự điên dại lên cao nhất, có khi nào họ trở thành những vật hy sinh hay không?
Nắng càng gắt, dường như sự điên loạn càng dâng.
Dọc con đường đi về của thị xã Thuận An, thuộc Bình Dương, thật không thể tin nổi vào mắt mình. Chúng tôi nhìn thấy hàng loạt các công ty bị đốt cháy, đập phá… quang cảnh không khác gì đã xảy ra một cuộc chiến. Gần như 100% công đã đóng cửa. Cho đến khi chúng tôi đến đây, đã là ngày thứ 3 của các cuộc bạo động, nhưng hầu như chạy suốt vài mươi cây số, tuyệt nhiên không hề thấy bóng công an, CSGT hay CSCĐ. Sự lo sợ xuất hiện ở nhiều nơi. Các ATM không hoạt động nữa, tiền rút đi. Nhiều ngân hàng tăng cường bảo vệ và được lệnh không giữ nhiều tiền mặt ở các chi nhánh có sự biến.

 

Công ty Song Tain là một trong những nơi có quang cảnh thê lương nhất. Cả hệ thống nhà máy bị đốt rụi. Lửa tràn ra tận ngoài đường nhựa, làm chảy và cháy đen một đoạn lớn. Hàng rào bị lật ngửa. Khắp nơi đều có dấu đập phá và sổ sách bị quăng ra sân. Khói vẫn còn nghi ngút. Nơi này dường như bị đám đông tàn phá không phải một lần. Sự chà xát và đập, cướp khiến chủ công ty phải cầu cứu. Đến trưa ngày 14/5, một nhóm khoảng 6,7 CSCĐ được điều đến và ngồi gác trong bóng mát, sau bức tường công ty. Nhưng lúc này thì có vẻ như không còn gì để bảo vệ nữa.
Một người dân ở đây cho biết có một vài công ty còn níu lại một ít tài sản như nhà kho, xe tải… thì cầu cứu CSCĐ đến bảo vệ phần còn lại, giữa hoang tàn. “Hình như là có trả tiền bảo vệ phụ ngoài giờ”, người dân này nói. Nhưng trên con đường mà chúng tôi chứng kiến hàng chục công ty bị đốt, phá, cướp… số những nơi có CSCĐ đứng giác chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhưng có vẻ gì đó nhẹ nhàng không căng thẳng lắm của người bảo vệ.
Điều đó được xác định một lần nữa khi chúng tôi chạy đến một công ty Đài Loan khác, theo dấu một làn khói đen ngùn ngụt lên trời, có thể nhìn thấy rõ từ 2,3 cây số. Nơi này không còn rõ tên họ vì bảng hiệu đã bị đập. Chữ làm bằng ximăng và nhôm thì giờ chỉ còn là những mảnh vụn rải rác. Lửa vẫn còn cháy. Một tiểu đội CSCĐ có mặt nhưng đang ngồi nghỉ trong bóng mát, ăn cơm hộp. Không có dấu hiệu nào là xe chữa cháy sẽ đến. Một cô bán nước gần công ty cho biết lửa cháy từ cuộc bạo động lúc 5,6 giờ sáng cho đến giờ, không ai dập cả, toàn bộ ban giám đốc đã đi trốn. Điều lạ là giữa những người bàng quan, có một 1,2 nhân vật ăn mặc không là công nhân đứng gần đó, mặt rất khó chịu khi chúng tôi hỏi thăm và chụp hình. Thậm chí nếu chúng tôi không nhanh chóng rời khỏi nơi đó, có thể sẽ gặp rắc rối.
Lúc này đã hơn 12g trưa, nhưng cái nóng của thời tiết vẫn không căng bằng cái nóng của thời sự. Các đoàn cầm cờ đỏ, gậy và khẩu hiệu vẫn ầm ầm đi qua, chạy về phía các công ty ở Khu công nghiệp Bình Dương. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng không thấy công an. Vài chốt gác của dân phòng mà chúng tôi chạy qua đều bị đập nát, cũng không có ai trực ở đó nữa. Thành phố rộn rịp và hoang tàn.
Đi thêm một đoạn nữa, chúng tôi bị lọt vào giữa một nhóm bạo động. Nhóm này có khoảng chừng 20, đến 30 người nòng cốt. Họ luôn chạy đầu, mang theo hung khí và hò hét để tập trung người. Các công ty mà chúng đi qua, gương mặt các nhân viên của công ty bảo vệ phái đến, rúm ró vì sợ hãi. Trước cánh cửa mọi công ty đều có treo băng-rôn: “Chúng tôi ủng hộ Việt Nam”, “Phản đối Trung Quốc”, “Tôi yêu Việt Nam”… Ai cũng biết, có thể đó là lời nói dối, nhưng lúc này, nói dối có thể cứu mạng và cứu tái sản của nhiều người. Tuy nhiên, cay đắng hơn là trước một vài cánh cổng đã bị lật đổ. Hàng rào bị phá… có cả băng-rôn “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh”, “Việt Nam Muôn Nam”… bị vứt chỏng trơ dưới đất. Lá bùa hộ mạng cuối cùng cũng đã không còn hiệu nghiệm ở một vài nơi.
Ở một công ty khác hợp tác làm ăn với Đài Loan, chúng tôi chạy dọc theo đường vào công ty, thấy những tờ giấy “Hoàng Sa – Trường Sa – VN” được dán như một cứu cánh để biện minh cho sự tồn tại của mình. Một cảm giác thật khó tả. Trước đây không lâu, rất nhiều người cầm hay mặc áo có dòng chữ này đã bị bắt, đã bị tù… Nay thì khẩu hiệu đó đang là miễn tử kim bài cho khá nhiều công ty Trung Quốc hay Đài Loan.
Tách đoàn hò hét, chúng tôi ghé vào công ty của Đài Loan. Bảng hiệu đã bị đập. Chỉ còn đọc được mơ hồ là Seui Yuang hay là gì đó. 3 viên bảo vệ gồm hai nữ, một nam ngồi thất thần trước công ty đổ nát. Thấy chúng tôi ghé vào, gương mặt của họ sợ hãi thấy rõ. Người bảo vệ nam, khoảng trên 50 tuổi bước ra, mặt rất căng thẳng, dù khi biết chúng tôi không phải là người biểu tình.

“Bác à, những người đập phá này có phải là công nhân không?”, tôi hỏi. “Không, họ chưa bao giờ là công nhân, họ chuyên nghiệp”, bác bảo vệ già nói, giọng thảng thốt. “Bác thấy họ là dân ở đây hay ở nơi khác đến?”. Người bảo vệ mặt đanh lại như nửa muốn trả lời, nửa muốn im lặng. Tôi quay sang hỏi cô gái bảo vệ, khoảng trên 30 tuổi, “Sao mình không gọi công an đến giúp?”. “Không ăn thua gì, họ không đến hoặc đến lúc không còn cần nữa”, cô bảo vệ nói như gào lên, giọng có vẻ tức giận pha trộn sự sợ hãi.
Tôi quay ra nhìn ngoài cửa thì thấy một đám đông bạo động đang ập đến. Nhóm dẫn đầu cũng khoảng 30 người, nhưng đằng sau sắp đến thì cả trăm hơn. Mặt cả 3 người bảo vệ biến sắc. Một trong hai cô bảo vệ nhấn số gọi công an, nhưng ít giây sau đó, thả máy xuống, thở nặng nhọc: đầu dây bên kia đột ngột bị cắt ngang.
Đám đông tràn vào sân. Tôi đứng nép vào phòng bảo vệ nhìn ra. Những thanh niên mày mặt rất lạ lùng, không thể là công nhân, trang bị gậy sắt, gậy gỗ và cờ tràn vào sân công ty như một đạo quân xâm lược. Tiếng chửi thề, hú hét, tiếng gầm máy xe…v.v biến sân công ty đang vắng lặng trở thành hỗn loạn.
Ngay lập tức tức tiếng đổ vỡ vang lên. Ai đó sau lưng tôi ném một viên gạch lớn vào cửa kính tòa nhà. Linh tính như nhắc tôi nên vừa kịp né người qua, và nghe tiếng kính vỡ xoang xoảng. Tôi cầm máy chạy vào bên trong để ghi lại cảnh đập phá này. Cảnh tượng bên trong còn hãi hùng hơn. Tất cả mọi thứ bị đập nát. Kính vỡ và gãy đổ khắp mọi nơi. 2 thanh niên xông vào căn phòng trước đây có là nơi làm việc sổ sách và kéo liên tục các hộc tủ ra xem còn thứ gì có thể lấy được hay không. Cứ mỗi lần không tìm thấy, họ lại đập. Có một chi tiết tôi ngạc nhiên là chính những người cầm cờ đỏ ngoài kia, khi vào đến phòng này, khi thấy một lá cờ đỏ treo trên tường đã giật xuống. Họ là ai?
Phòng tiếp tân của công ty thì cảnh đập phá diễn ra như một lễ hội. Khắp nơi vang tiếng đổ, bể. Trước mắt tôi là một thanh niên đội nón bảo hiểm, tay cầm gậy sắt, đập liên tục vào mọi thứ trước mắt. Suýt nữa thì anh ta đánh trúng một cô gái đang lom khom nhặt một bàn phím vi tính bị vứt dưới đất. Bất ngờ anh ta quay qua nhìn tôi và chiếc máy quay chằm chằm. Biết không xong, tôi vờ bước nhanh ra khỏi nơi đó. “Thằng này ở đâu ra vậy?”, tôi nghe tiếng anh ta hỏi một ai đó. Tôi bước nhanh hơn, phía trước cổng là đám đông đang hò hét, vung gậy và cờ.
“Nói tụi ở ngoài chận nó lại”, tôi còn kịp nghe câu đó trước khi bước ra đến sân. Đoạn sân ra đến cổng chưa bao giờ dài đến vậy, mà tôi thì không thể chạy lúc này.
Bất ngờ tôi thấy Thy và Văn bỏ xe chạy vào đón tôi. Tín hiệu từ bên trong đã được truyền ra, giờ đây hơn 70-80 người cầm hung khí đón tôi ở cửa với ánh mắt đầy sát khí khiến Thy và Văn phải nhảy vào kèm tôi ra. Nhưng dường như không kịp rồi. Một thanh niên tóc nhuộm vàng, mặt không thể là công nhân, nhìn mặt tôi, hỏi lớn bằng giọng Thanh Hóa “Này, này, chú kia!”.
Lao nhao trong đám đông đó, tôi nghe thấy tiếng hô “Nó là Tàu, đập nó chết đi!”. Có tiếng hò reo sau lời hô đó. Tôi giữ mặt lạnh, quay sang người thanh niên tóc vàng, trả lời lớn, để mọi người có thể nghe thấy tôi nói tiếng Việt “Có chuyện gì không?”
Dường như mọi thứ hơi chựng lại một chút. Một người khác có vẻ hung hăng hơn “Mày vào đây quay phim làm gì?”. “Để coi”, tôi đáp, chân bước nhanh ra ngoài, liếc mắt thấy mấy người bạn đã quay đầu xe, nổ máy. “Mày là nhà báo à?”. Lại nghe có tiếng nói “ĐM, nó giả dạng đó, đập nó!”. Tôi phải làm tỉnh, quay người lại, cười lớn “Tao mà nhà báo cứt gì!”. Thoáng thấy 3 người bảo vệ đứng đờ người nhìn tôi. Không biết là họ sợ cho tôi, hay sợ cho chính bản thân họ lúc này. Ngay sau đó, tôi leo lên xe Thy. Xe vọt đi. Đám đông nhìn theo, may mắn là những người đó chưa đủ say máu để đuổi theo.
Trên đường đi, Văn nói bên ngoài lao nhao nói tôi là người Hoa (nhìn cũng có vẻ giống nhỉ) nên phải đập cho chết. Thật là may, tôi biết nói tiếng Việt. Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau đó, tôi nghe tin từ khu công nghiệp Mỹ Xuân 2, gần Bà Rịa, cho biết một người Trung Quốc vừa bị đánh phải đi cấp cứu. Anh ta cũng không kịp giải thích mình là một ông chủ đầu tư hay là một du khách vì đám đông đã quá khích, không còn nghe. Tôi rùng mình và chợt nghĩ lại, nếu khi nãy, họ không còn nghe giải thích, có lẽ tôi cũng đang nằm trên một chiếc xe cấp cứu.
Nhạc Sỹ Tuấn Khanh
__________________________________________
Những nhân vật bí ẩn trong dòng người – TUẤN KHANH

Chạy khỏi đám đông hỗn loạn và hung dữ đó, cả 3 chúng tôi lạnh toát người, dù trời trưa nắng, nhiệt kế chỉ 37 độ C. Điều đầu tiên khi đã an toàn, tôi nhắc mọi người đi mua khẩu trang.

Lúc này, đám đông xuất hiện ở các con đường đã nhiều hơn. Họ đang cần cái gì đó để giải tỏa, cần một cái gì đó để đập phá, thể hiện sức mạnh của mình. Vừa chạy vừa điểm lại các sự kiện, Văn nhắc tôi rằng phần lớn những người có vẻ như chỉ huy, hướng dẫn mọi người. đều chạy trên các xe có biển số 36 – số Thanh Hóa. Tôi sực nhớ đến một người bạn ở Bình Dương đã nhắn tin nói với tôi về các cuộc bạo động xảy ra, một cách buồn phiền rằng “người Bình Dương không tệ như vậy, phần lớn các người gây bạo loạn đều đi xe số ba mươi mấy”. Quả là như vậy thật. Những người chạy trên những chiếc xe có số như 36, đều trang bị kỹ lưỡng bằng ống sắt, xà beng, cờ trống… như một cách có tính toán trước.

Chúng tôi quyết định đảo một vòng qua các chốt dân phòng, đồn công an để tìm hiểu tình hình. Trong khu vực có bạo loạn, hầu hết đều vắng lặng. Thậm chí các chốt gác dân phòng, chốt an ninh của khu công nghiệp đã bị đập phá tan hoang. Không còn ai trực ở đó nữa. Những người bạo động thành từng đoàn, chạy đi chạy lại như chốn không người. Sự sợ hãi của các nhân viên bảo vệ công ty đến cực độ. Khi chúng tôi ghé qua cửa một công ty để chụp lại các biểu ngữ tung hô Việt Nam như một lời van nài để yên cho họ, người bảo vệ từ phòng trực vốn đã bể hết kính cửa, vùng chạy hớt hải. Công ty này cũng đã bị đập phá trước đó.
Chúng tôi lại quyết định nhập vào một đám đông khác, đang gầm gừ trước cửa công ty khác, tên liên doanh bằng nhôm đã bị đập, chỉ còn chữ Việt Nam. Rồi đột nhiên một giọng Trung Bắc, kiểu giọng Nghệ An hét lên “vào đập đi anh em”. Cả đoàn người bị kích động rú ga tràn vào sân công ty, ập đến mọi nơi. Tiếng thùng gõ rầm rập. Người bảo vệ im lặng, nép mình, lùi lại. Thậm chí anh ta không dám nhìn theo những người cầm đầu vì sợ mang vạ.
Tôi bấm Thy, quyết định chạy theo một vài xe, có người la hét và hung hãn như là những chỉ huy. Họ chạy vòng quanh sân công ty, háo hức tìm những thứ có thể đập, có thể đốt. Không tìm thấy, họ đạp và đập luôn những chậu cây kiểng. Tôi giữ máy ghi hình liên tục những người này, nhất là khi họ hối thúc những người khác đang phân vân về việc có nên đập phá tiếp hay không.
Cũng là điều không may, một người ngồi sau chiếc xe dẫn đầu bắt đầu chú ý chúng tôi. Người thanh niên đeo khẩu trang, lưng quấn một lá cờ đỏ, tay cầm một gậy sắt dài. Anh ta nhìn chằm chằm chúng tôi, thả gậy sắt xuống sân, kéo một đường dài tóe lửa như đe dọa. Thấy không ổn, Thy trở đầu xe, băng qua một lớp khói mù mịt do ai đó đập và xịt các bình cứu hỏa. Chiếc xe đó theo sau nhưng chựng lại một chút vì khói. Người cầm gậy sắt nhìn theo chúng tôi, sốt ruột đập gậy sắt liên tục và mạnh vào một thanh tay cầm-cầu thang bằng nhôm, có lẽ vì không theo kịp.
Chúng tôi chạy vòng ra trước công ty. Đám đông đang tràn vào các văn phòng đập phá. Một người giọng Thanh Hóa, đứng trên yên chiếc xe số 36, hét vào cửa sổ cho đám đông phá, đập hiệu quả hơn. “Đồng hồ kìa, bảng viết bằng kính kìa, đập hết đi”. Anh này hét lớn, phụ họa ngay sau đó là những tiếng xổn xoảng vang lên khắp nơi. Qua những lần nhìn thấy, chúng tôi nhận ra rằng có những tốp người, rõ ràng chỉ có mục đích tàn phá để làm chứng tích. Còn có những người theo sau hôi của, đôi khi chỉ là những kẻ hám lợi và vô tổ chức mà thôi. Rất nhiều xe và container của các công ty đã bị lật, bị đốt chứ không bị hôi của. Hủy diệt là một mệnh lệnh rất rõ ràng, mà không phải người Việt bình thường nào đi theo đám đông cũng dám làm.
Quay xe ra ngoài, Văn ngoắc tay chỉ cho tôi thấy: đám đông khi nãy đòi giết thằng “Tàu” cũng vừa ập vào. Thật là họa vô đơn chí. Hôm đó, tôi lại mặc một chiếc áo màu vàng, nổi hơn bình thường, rất dễ nhận ra. Toát mồ hôi lạnh, chúng tôi lủi thật nhanh ra cửa và phóng đi. May mắn là cơn say đập phá khiến họ không kịp nhìn thấy chúng tôi giữa đám đông đang hò hét.
Lúc đó, đã gần 2 giờ chiều. Cả 3 quyết định tìm hiểu thêm tình hình ở các khu công nghiệp gần đó như Long Bình, Biên Hòa 2… xem có loạn như vậy không. Chúng tôi tiếp tục chạy lên Long Bình, vì biết có ở lại xem tiếp cũng không còn an toàn nữa.
Gần vào cửa ngõ khu công nghiệp Long Bình, chúng tôi nhìn thấy dấu hiệu của những đợt bạo động sắp đến: đó là cờ và băng-rôn khẩu hiệu đang được bán giá rẻ ngay trên các con đường đi vào. Mỗi chiếc xe tấp vào, đi ra với lá cờ đỏ như dự báo điều không lành sắp đến. Tuy nhiên, nơi này an ninh có vẻ được kiểm soát tốt hơn, có lẽ do ít công ty của Đài Loan và Trung Quốc. Công an cũng thấp thoáng xuất hiện ở nơi này, tuy nhiên chủ yếu là trưng bày, để giữ yên một vài công ty chứ vẫn không thể nào kiểm soát hết được những làn người cầm cờ trống, ào ạt ra vào cửa khu công nghiệp.
Tuy vậy khi chạy một vòng khu công nghiệp để xem thử, dấu hiệu của sự bất ổn của khu công nghiệp là các băng-rôn giới thiệu mình không phải của Trung Quốc đã xuất hiện, giăng khắp nơi. Có nơi đã bị đánh sập cửa, dù có băng-rôn “Việt Nam muôn năm”. Trừ một vài công ty của Nhật còn làm việc, còn lại dường như đã tạm ngưng hoạt động.
Một đám đông cầm cờ chạy vụt về phía khu công nghiệp Biên Hòa 2. Chúng tôi lại đi theo. Con đường dẫn vào khu công nghiệp này đang vắng, vì chưa đến giờ tan ca 1, cũng như rất ít công ty còn làm việc. Nơi này cũng không an ninh. Phía ngược chiều bên đường, một chiếc xe chạy cầm cờ, người ngồi sau mang ống tuýp nước bằng sắt dài, nhìn rất đáng ngại. Xe này chạy ào ạt vào trong nội khu công nghiệp. Nếu là ngày thường, chắc chắn chiếc xe đó đã bị CSGT chận lại. Nhưng hôm nay thì khác, họ chạy như trên xa lộ tự do.
Chúng tôi phát hiện một chiếc xe khác, có 2 người mặc áo bộ đội, cũng trang bị hung khí, chạy vòng vòng quanh khu công nghiệp. Khi theo dõi 2 người này, chúng tôi nhận ra bảng số xe của họ cũng không phải người Bình Dương. Phương thức của họ khá đơn giản: Cứ chạy vòng quanh, và hò hét khi gặp vài chiếc khác. Cứ như vậy đến vòng thứ 4, thứ 5, số lượng người của họ đã lên đến vài chục. Văn gọi đó là chiến thuật tuyết lăn – khi bắt đầu lăn thì nhỏ nhưng cứ quấn thêm tuyết và to dần theo đường dốc. Quả là như vậy, khoảng 20 phút sau, nhóm này đã có trên 100 người.
Khi đã đủ đông, 2 người mặc áo bộ đội này dẫn đầu và giơ gậy hét, chỉ vào cửa các công ty “Công ty của Trung Quốc, vào đi”. Đám đông ồ lên và ào đến trước cửa. Tuy nhiên, khi khám phá đó chỉ là công ty của Thái Lan, 2 người này thất vọng và lại dẫn đầu, miễn cưỡng lên đường. Thy chở tôi và quyết định tách ra, chạy hơi vượt lên. Một trong hai người mặc áo bộ đội thấy chúng tôi tách đoàn, đã chỉ gậy vào chúng tôi, hét lên, giọng Thanh Hóa “đi hướng này”.
Dần dần, chúng tôi nhận ra trong đám đông đó, có người rất tỉnh táo cho một mục đích, có người rất náo động thiếu suy nghĩ, chỉ ăn theo. Nhưng những người tỉnh táo đã kiểm soát tình hình.
Vượt qua một con đường tắt, chúng tôi ra đến ngã tư trong khu công nghiệp Biên Hòa 2. Bên kia đường là 2 người công an địa phương, đeo dùi cui, mà cả giờ đồng hồ rong ruỗi chúng tôi hiếm hoi mới gặp được. Đậu xe bên cạnh chúng tôi là hai thanh niên, cũng vừa trờ tới. Trong tích tắc ấy, bất ngờ từ cuối đường, một đám đông hơn trăm người cầm cờ đỏ, hò hét xuất hiện. Chúng tôi nhìn qua bên đường, xem phản ứng của 2 anh công an. Một anh quay đầu xe lại chạy ào đi, một anh khác bất chấp là đèn đỏ, băng xe chạy vụt qua mặt chúng tôi. Có giọng của người thanh niên đậu xe bên cạnh, hỏi “Ơ, thế công an không chặn đám này lại à?”. Anh thanh niên có vẻ lớn tuổi hơn, mang kính râm, trả lời lạnh lùng “Chặn? chặn cái con C.” Thy cố nhịn cười mà không được, phì ra.
Đám đông mà chúng tôi thấy tràn đến cổng một công ty Hàn Quốc. Nơi này, ban giám đốc như đã có chiến thuật đối phó, họ cho nhân viên khuân ra 5,6 thùng nước khoáng để mời, cỗ vũ. Đám đông lại hò hét, giơ chai chiến lợi phẩm và chạy đi. Tội nghiệp, sự cổ vũ giống như nín nhịn cho giật cô hồn vậy.
Đám đông này cũng có người chỉ huy, và có những phụ tá. Người chỉ huy là một anh người Bắc, đội nón bộ đội và đeo kính đen. Những người trong nhóm của anh ta đều có chung hung khí là những dùi cui gỗ có hình dạng như điếu cày. Đến nơi nào cần xô cửa xông vào, họ hò hét và thúc mọi người tràn vào. Ở một công ty của Singapore, quản lý đứng trên thành cửa chắp 2 tay lạy, nói khẩn khoản “Nơi này không có Trung Quốc đâu”. Đáp lại lời van xin đó, anh này hô khẩu hiệu cho đám đông hô theo “Mở cửa hay lật ngửa – Mở cửa hay lật ngửa”. Cuối cùng thì cửa phải mở, đám đông tràn vào. Những người bí ẩn đó làm hết sức hết lòng với nhiệm vụ, là thúc và nhắc mọi người tiến vào.
Lẫn trong đám đông, tôi thấy có vài nhân viên an ninh thường phục theo dõi. Họ nhìn, và gọi điện thoại. Nhiệm vụ của họ là gì, tôi không được rõ.
Ở một đoàn khác, sau khi chạy vòng qua công ty Fujitsu của Nhật Bản, họ phát hiện thấy một công ty liên doanh, nghi ngờ là với Đài Loan. Bài bản và cách thức cũ lại xuất hiện, dù con người và nhóm hoàn toàn khác nhau. Trong khi hỏi có mở cửa không thì một người trong nhóm chỉ huy đã đem xà beng lại nạy cửa. Ban quản lý sợ hãi và cố gắng tránh mọi thiệt hại bằng cách vờ vui cười vỗ tay cổ vũ, sau đó mở cửa cho đám đông này vào khám xét. Một người đàn ông tóc bạc, có vẻ là có chức vụ của công ty đứng vỗ tay, nói lớn liên tục “vào xem tự nhiên, không có Trung Quốc đâu”. Nhân viên công ty xếp thành hai hàng, vỗ tay râm ran như đón đoàn nguyên thủ quốc gia. Trong đoàn biểu tình này, có một người đàn ông bí ẩn, mặc áo công nhân, nhưng dáng vẻ rất thủ lãnh, phất tay liên tục, hét cho đám đông tiến vào. Cảm giác cay đắng lẫn lộn trong tôi khi nhìn thấy gương mặt cổ vũ, cười nhưng méo xệch của người quản lý. Hóa ra trong thời đại của chúng ta, khi nghe con người vỗ tay, không có nghĩa là đón chào hay cùng suy nghĩ nhé.
Tại sao có những người chỉ huy bí ẩn trong đám đông, và họ có những phụ tá của mình phối hợp rất ăn ý? Hầu hết những đoàn biểu tình đó, tôi luôn nhìn thấy thấp thoáng những an ninh thường phục, họ đã ghi nhận được điều gì? Một người an ninh khi đứng nhìn đám đông, thấy tôi quay hình đã quay mặt đi để tránh. Rõ ràng chính quyền đã không hoàn toàn thả lỏng, mà họ đã có cách kiểm soát theo một chiến thuật nào đó. Ngay cả việc vắng bóng các công an, CSCĐ, đó là một chiến thuật hay quyết bỏ lỏng? Công an Bình Dương sau cuộc bạo động 2 ngày, cho biết đã bắt giữ hơn 150 người, khi đám đông tiến công vào các căn nhà của Ủy ban, khi cao trào đập phá đang lên. Và nếu như vậy, đã có những chiến thuật và những phòng bị được tính toán trước?
Mọi câu hỏi chưa thể trả lời được lúc này. Điều cần nhất mà chúng ta cần là để lòng yêu nước không biến thành bạo động, người yêu nước không bị chụp mũ là những kẻ kích động. Lòng yêu nước cần hợp nhất để chống lại giặc thù, chống luôn cả những kẻ tôn thờ sức mạnh Trung Quốc. Trong khả năng của mình, tôi cùng những người bạn của mình chỉ có thể giới thiệu những nghi vấn, cho mọi người tham khảo. Sự thật và lòng yêu tự do cho đất nước này sẽ giải thoát chúng ta.
Rã rời sau một ngày chạy gần trăm cây số với những điều nghẹt thở, tôi lại ngồi xuống và viết như cho một cuộc chiến – của mình và bạn bè, anh chị quanh tôi, vốn vẫn đang miệt mài từ nhiều năm tháng: Những cuộc chiến đi tìm sự thật!

sen dat
  • Số bài : 3043
  • Điểm: 34
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.03.2008
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 17.05.2014 20:13:55
0
Mấy bũa nay tình tình trong nước "nóng", lại cộng thêm thời tiết nóng Sen Đất vào đây mong được thư thả tâm hồn theo khúc nhạc lòi thơ cho tâm tĩnh lại trong mùa Phật Đản. Hoa Phật độ tông màu vàng cam nhìn "nóng" nhưng thật ra nhìn kỹ hoa thật tịnh giữa màu xanh!
Attached Image(s)

da vàng
  • Số bài : 48
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 30.11.2013
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 19.05.2014 20:50:26
0
 
 
 
 
* * *
 
 
Chủ quyền hay… chính quyền?  

Thuận Văn 
 
Không thể gìn giữ chữ tiết “nhạy cảm” cho gã láng giềng dở hữu nghị dở thù được nữa và nó, nhà nước toàn trị tại Việt Nam, đã cắn răng xé toạc màng trinh bước vào thời kỳ tuyên giáo “hậu giàn khoan”. Sông Rubicon đã vượt, những hàng tít nóng đã xối xả bắn ra, tràn ngập, như B-52 rải thảm.[1]
 
Nó không còn hoang mang, mơ hồ với “tàu lạ” nữa mà cụ thể, quyết liệt: “Quốc tế phẫn nộ trước các hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông”, “Thế giới lên án Trung Quốc ngang ngược…”.  Nó đã hết ấp úng rụt rè “gây đứt cáp” mà chính xác, đâu ra đó: “Tàu Trung Quốc ngang ngược đâm tàu Việt Nam”, “Trung Quốc ngang ngược mở rộng vành đai bảo vệ giàn khoan”, “Trung Quốc ngang ngược đòi Việt Nam rút tàu mới đàm phán” v.v… [2]
 
Nghe thì rắn rỏi và đanh thép thật nhưng vẫn có gì đó lấn cấn và, thậm chí, mâu thuẫn với chính nó. Âm mưu mở rộng “không gian sinh tồn” của chủ nghĩa Tân Đại Hán đã là chuyện “nhãn tiền” mà nhiều người Việt Nam đã thấy, đã cảnh tỉnh, đã phản đối để rồi bị chính nó khủng bố, bị nó vu khống và cầm tù. Chuyện đã xưa còn hơn ông tổng thống da đen đầu tiên của nước Mỹ trong khi mỗi thời khắc trôi qua thế giới này nảy sinh bao nhiêu là chuyện để … phẫn nộ, riêng hay chung, giật gân thời thượng hay sinh kế lâu dài. “Quốc tế”, như bà đệ nhất phu nhân da đen đầu tiên ấy, đang chau mày nghiến răng “phẫn nộ” trước việc 300 nữ sinh Nigeria bị quân khủng bố bắt cóc, không biết để giải quyết sinh lý hay để buôn bán như một thứ nô lệ tình dục. Và “quốc tế”, như rất nhiều công dân nước Úc và cả những chính phủ tiểu bang hiện tại, đang “phẫn nộ” vì những khó khăn tài chính mà chính phủ liên bang trút hết lên đầu và vai họ. Như thế thì “quốc tế” có thể bất bình, có thể “không đồng ý”, có thể “bày tỏ sự quan ngại sâu xa” hay “kêu gọi các bên liên quan kiềm chế” và những loạt đạn tuyên giáo về sự “phẫn nộ” hay “lên án” nhằm mở ra những hy vọng phơi phới cho một thế trận ngọai giao trùng điệp chỉ là một sự cường điệu nguy hiểm và mỵ dân. [3]
 
Nhưng cứ cho là vậy. Cứ tạm chấp nhận rằng “quốc tế đang phẫn nộ” và “thế giới đang lên án” thì đâu chỉ có bọn Trung Quốc cướp biển là nhà độc quyền ở cái khoản này? Chính nó cũng đã từng “ngang ngược”, từng khiến “quốc tế phẫn nộ” và “lên án” như thế, không chỉ một vài lần mà rất, rất nhiều lần.
 
Nhưng “quốc tế” là ai và “quốc tế” đã phẫn nộ như thế nào? “Quốc tế” không mơ hồ và trừu tượng như là… “tàu lạ” của thời kỳ “tiền giàn khoan” mà  là những đối tượng cụ thể, xác thực mà nó vẫn hằng khinh nhờn, giỡn mặt. “Quốc tế” là những định chế hành pháp hay lập pháp hợp hiến của từng quốc gia. “Quốc tế” là những tổ chức, nhân đạo hay chuyên môn, hoạt động vì những lợi ích cụ thể nào đó của nhân loại. “Quốc tế” còn là những cá nhân xuất chúng và khả kính, đã có những đóng góp nổi bật cho nhân loại hay được quốc gia mình tin tưởng phó thác cho vai trò đại diện đất nước của mình. “Quốc tế” là Bộ Ngọai giao Đức, Úc, Mỹ, Pháp hay Anh; là Nghị Viện Âu châu, là Hạ viện Anh hay lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ v.v…, những “đối tượng” mà nó vẫn hằng, nhẹ thì giả đui giả điếc, xem như lời nói gió bay, nặng thì “ngang ngược” xỉ vả là đui mù, “không thấy được thực tế” về những “thành tích nhân quyền” của nó. “Quốc tế” là Reporters Sans Frontières, tổ chức mà những dòng chữ lên án vụ bắt giam nhà báo tự do Anh Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh vẫn còn nóng hổi. “Quốc tế” là Union of concerned scientists, liên minh của những khoa học gia mà lá thư bày tỏ mối quan tâm về luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên, chừng như, cũng đang bị nó “ngang ngược” ném vào sọt rác. [4] Và “quốc tế” là ông Karel De Gucht, Chủ tịch Ủy hội Thương mại của Liên minh Âu châu, người mà, vào năm 2008, khi còn là Ngọai trưởng Bỉ, đến Việt Nam với tư cách là đại diện cao nhất của Vuơng quốc Bỉ, đã bị Hàng không Việt Nam “ngang ngược” cướp vé, đuổi cổ khỏi hạng ghế thương gia để dành chỗ cho những ủy viên trung ương cần bay đột xuất trong chuyến bay Hà Nội – Sài Gòn ngày 13 tháng Sáu năm 2008. [5]
 
Lớn thì có những chính sách trả thù và cướp bóc mệnh danh “cải tạo con người”, “cải tạo sản xuất” hay chủ trương chiếm đóng Cambodia suốt một thập niên, cực kỳ “ngang ngược”. Nhỏ thì những chuyện đối nhân xử thế như cướp vé một đại diện quốc gia, cũng cực kỳ “ngang ngược”. Đã có thể “ngang ngược” giỡn mặt với “quốc tế” trong suốt một thời gian dài như thế thì, bây giờ, nó có thể kỳ vọng gì ở sự nhượng bộ của tên cướp biển chuẩn siêu cường trước những tiếng nói “quốc tế” nói trên?
 
Như vậy thì những hàng tít “quốc tế phẫn nộ” và “thế giới lên án” nêu trên chỉ là hành động tự ru ngủ. Không chỉ ru ngủ dân mình, nó còn muốn ru ngủ chính mình, cái kiểu thủ dâm của một thế lực ngu dân.
 
Và còn có sự “phẫn nộ” từ bên trong theo tinh thần tuyên giáo “hậu nhạy cảm” nữa. Cũng xối xả bắn ra. Cũng nóng sốt, tràn ngập bộ mặt của truyền thông lề phải. “Ngư dân Lý Sơn mít-tinh phản đối hành động của Trung Quốc”. “Người dân miền Trung xuống đường phản đối Trung Quốc”. “Người dân ba miền xuống đường phản đối Trung Quốc”. “Người dân TPHCM diễu hành, mít tinh phản đối Trung Quốc” v.v…  Hẳn nhiên, đây là sự phẫn nộ chính đáng, là lòng yêu nước cần phải tôn trọng nhưng vấn đề là ứng xử của… nó. Nó đã muối mặt chà đạp sự lòng yêu nước ấy bao nhiêu lâu rồi để bây giờ, khi không thể nào cấm cản, lại trơ tráo “bắt cóc” cái khí thế yêu nước ấy, như có thể thấy trong những cuộc biểu tình ngày Chủ nhật vừa rồi.
 
Thì người dân Lý Sơn phẫn nộ mít tinh khi bọn giặc biển hung hăng đòi nuốt chửng vùng biển vẫn hằng nuôi sống họ nhưng, trước đó rất lâu, những người dân Tiên Lãng, Văn Giang hay Long An, Đồng Tháp, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Khánh Hòa v.v.. cũng đã từng phẫn nộ. Hơn thế, họ còn phẫn nộ bằng máu, bằng sinh mạng qua những khối thuốc nổ, những bình xăng tự thiêu khi những bờ xôi ruộng mật đất từng là nồi cơm nuôi sống họ, từng là nơi yên nghỉ của tổ tiên họ bị chiếm đoạt, bị nuốt chửng, cực kỳ “ngang ngược”. Dửng dưng, không mảy may lùi bước trước sự phẫn nộ của nhân dân mình như một thứ giặc đất, nó có thể kỳ vọng gì ở sự chùn tay của tên giặc biển bên ngoài?
 
Giặc biển hay giặc đất cũng có cùng bản chất là ăn cướp và điều đau đớn của dân tộc ta là phải đối phó cùng lúc với cả hai thứ giặc. Nếu một Trung Quốc bá quyền hành xử với Việt Nam như một thứ giặc ngoại xâm thì nó đã hành xử như là quân ăn cướp trên chính đất nước của mình, với chính nhân dân của mình, như một thứ giặc nội xâm. Trung Quốc “ngang ngược” hành xử như thể Biển Đông là một thứ ao nhà và thì nó hành xử như thể đất nước Việt Nam là cái sâu sau của nó. Nhưng như một thứ nội xâm phải nấp bóng ngoại xâm mệnh danh “hữu nghị”, mệnh danh ý thức hệ, nó lại răm rắp mô phỏng, răm rắp toa rập và răm rắp a tòng như một thứ “tiểu Trung Quốc”, a tòng cho đến khi không thể a tòng được nữa.
 
Có thể thấy cái bản chất “nội xâm – tiểu Trung Quốc” ấy ở cơ cấu quyền lực cao nhất của nó, Hội nghị Trung ương Đảng đang diễn ra tại Hạ Nội, Hội nghị lần thứ 9.
 
Hội nghị khai mạc ngày 9 tháng Năm năm 2014, là một trong những ngày sôi sục nhất khi tin tức về sự gây hấn của Trung Quốc dồn dập đưa về. Trước một diễn biến cấp bách như thế thì một cơ cấu quyền lực như thế phải gạt phắt những hội nghị đã dự trù hay ít ra là những chương trình nghị sự dự trù để thay vào đó một hội nghị khẩn cấp với những vấn đề thời sự khẩn cấp. Nhưng Hội nghị Trung ương vẫn là… Hội nghị Trung ương. Không mảy may thay đổi như không có gì xảy ra, như thể những tin tức dồn dập đưa về kia chỉ là một thứ tin xe cán chó!
 
Bên Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê / Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ, khác với lời ai oán của Chế Lan Viên về cái thời lòng người chán nản sau khi các phong trào kháng Pháp bị dập tắt hoàn toàn, vận nước đã khiến “chuyện vua Lê” nóng bỏng từ lâu, và không chỉ nóng lên ở những địa danh mang tính lịch sử đầy biểu tượng như Hồ Gươm. Chuyện đã nóng lên tận Hồ Con Rùa, nóng trong không gian của những quán cà phê vỉa hè bất kể sự rình rập của những công an chìm nổi, nóng một cách thực sự trên không gian ảo của web của những trang Facebook. Chỉ Tổng Bí thư, chỉ “Trung ương” mới “rêu phong chuyện cũ”. Tại hội nghị, như cái nhan đề trên báo Đại Đoàn Kết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nghiêm nghị bình giảng những chuyện chẳng biết để làm gì “Văn hoá hình thành nhân cách con người, bản sắc, cốt cách một dân tộc”. [6] Lẽ nào? Văn hoá chúng ta phải bao hàm bản sắc của chúng ta, mà bản sắc chúng ta cũng là một phần của văn hoá của chúng ta: một cơ cấu quyền lực ghê gớm như thế mà lại có thể thật thà đến như thế, có thể trịnh trọng với một đề tài dư thừa và ngớ ngẩn như thế, dư thừa và ngớ ngẩn ngay giữa một tình thế khẩn thiết đến như thế?
 
Nhưng nhất định phải có một “hội nghị khẩn” nào đó, đâu đó, trong bí mật, và trong các cơ quan cao nhất về an ninh và tuyên giáo, về đề tài “thời sự khẩn”.  Phải có một hội nghị khẩn như thế thì mới có những bài bản chiến thuật để “bắt cóc” khí thế các cuộc biểu tình, lèo lái cái khí thể “bảo vệ chủ quyền” trong hình hài “bảo vệ chính quyền”. [7]
 
Nếu “bắt cóc” là ngón nghề sở trưởng của quân khủng bố thì nó, như một thế lực đã từng chơi trò khủng bố, chơi trò cầm giữ con tin, đã tỏ ra lại tệ hơn quân khủng bố đến mấy bậc.
 
Nếu những tổ chức Hồi giáo cực đoan như al Quaeda sử dụng chiến thuật khủng bố đối với công dân các quốc gia “tà đạo” với ý đồ đánh vào ý chí của các đối thủ xem là tà đạo thì nó, hệ thống toàn trị, chỉ chăm chăm khủng bố dân mình, chăm chăm đánh vào ý chí yêu nước của nhân dân mình và hành xử như thể người dân của mình là một thứ con tin. Nó, như đã thấy trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc trước đây, “ngang ngược” đạp vào mặt người dân yêu nước của mình, cái hành động chi có tác dụng duy nhất là nuôi dưỡng ý đồ bành trướng của kẻ thù, như để cho kẻ thù thấy rằng họ muốn làm chuyện gì với đất nước Việt Nam cũng được. Và nó, như có thể thấy trong chiến thuật mặc cả ngoại giao, đã lòng vòng bắt – thả công dân của mình như một thứ con tin trong các chu kỳ “thế giới lên án” về vấn đề nhân quyền, một cách cự kỳ vô trách nhiệm.
 
Tháng Tư năm 2008, khi nói chuyện với hơn 3000 sinh viên Đại học Bắc Kinh,  nguyên Thủ tướng Úc Kevin Rudd đã nhắc nhở những nhà lãnh đạo tương lai của Trung Quốc rằng trong mai hậu chính họ sẽ chịu trách nhiệm “xác định thế cách mà thế giới sẽ nhìn vào Trung Quốc”, rằng trọng trách của họ là hãy đưa đất nước mình trở thành “công dân toàn cầu đầy trách nhiệm” bởi cộng đồng thế giới đang mong đợi sự “tham dự đầy đủ” của Trung Quốc trong “toàn bộ cơ chế của trật tự toàn cầu đặt trên nền tảng luật lệ”. [8] Ông Rudd nói thế, hay mong mỏi thế, vì ông thừa biết rằng còn lâu Trung Quốc mới trở thành một “công dân trách nhiệm” của cộng đồng quốc tế. Nhưng còn nó? Nó phải làm gì để đương đầu với gã khổng lồ vô trách nhiệm của cộng đồng thế giới đó?
 
Thì “dĩ độc trị độc”, nhưng nọc của một con ong vò vẽ chẳng thể nào sánh nổi nọc độc của con rắn hổ chúa. Nó phải hiểu là, để đương đầu với một “Trung Quốc cướp biển”, nó không thể tiếp tục mô phỏng để làm một thứ “tiểu Trung Quốc cướp đất”. Để ứng phó với một chuẩn siêu cường vô trách nhiệm với thế giới như Trung Quốc, nó không thể hành xử như một thành viên vô trách nhiệm hạng bét của thế giới. Để vận dụng được sự ủng hộ cao nhất của cộng đồng thế giới thì nó phải làm thế nào đó để “thay đổi cách nhìn của thế giới” về nó. Nó phải thể hiện trách nhiệm của mình với thế giới mà, để làm đuợc như thế thì, trước hết, phải thể hiện trách nhiệm với chính đất nước và nhân dân của mình.
 
Như thế, trong tình thế khẩn thiết của đất nước, thay vì lăng xăng cướp giật băng rôn và áp phích của người yêu nước, nó phải chứng tỏ thiện chí bằng cách cúi đầu xin lỗi những người yêu nước đã bị khủng bố, bị vu khống và cầm tù. Và, nếu cần, thay vì “ngang ngược” đặt chính quyền lên trên chủ quyền, nó phải chấp nhận buông dao, cái lưỡi gươm dài cứu nước của vua Lê nhưng bị nó sử dụng như một con dao cắt xẻo, cắt xẻo đất đai và cắt xẻo lòng người.
 
___________
 
Chú thích
 
[1] Rubicon là con sông cạn tại Ý, thành ngữ “Crossing the Rubicon” ngụ ý một hành động liều lĩnh, không có đường quay trở lại, xuất phát từ việc Julius Caesar bất chấp sự phản đối của Nguyên lão Nghị viện đưa quân băng qua con sông này để chinh phạt vàp năm 49 BC.
 
[2] Những hàng tin trên báo chí lề phải những ngày qua.
 
[3] Trên thực tế chính quyền VN đã không thành công về mặt ngoại giao, cả khối ASEAN cũng không đưa ra thông điệp mạnh mẽ như họ mong muốn.
 
[4] Đến nay, thư phản đối vụ thu hồi bằng thạc sĩ của Nhã Thuyên vẫn chưa được trả lời.
 
[5] Những quan chức này phải bay gấp vào Sài Gòn để dự tang lễ Võ Văn Kiệt.
 
[6] “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Văn hoá hình thành nhân cách con người, bản sắc, cốt cách một dân tộc
Theo chương trình do Trung ương “thông qua”, Hội nghị này bàn 6 điều:
- Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Đề cương các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng
- Chuẩn bị cho việc chỉ đạo tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XII của Đảng
- Quy chế bầu cử trong Đảng; việc lấy phiếu tín nhiệm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng
- Tổng kết việc thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
 
[7] Các thủ đoạn cho người áp đảo, dùng các khẩu hiệu “đồng lòng cùng chính phủ” để che chắn hay bằng cách cướp giật các khẩu hiệu đòi trả tự do cho người yêu nước.
 
Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 11.5.2014, blogger Hoàng Vi:
 
“Lần này ở Sài Gòn có sự tham gia của ba nhóm. Nhóm do 20 tổ chức dân sự kêu gọi, một nhóm của giáo sư Tương Lai từ nhà hát thành phố, và một nhóm do Thành đoàn tổ chức nhằm để phá biểu tình, cho người trà trộn vào các nhóm biểu tình, để đưa những thông điệp, khẩu hiệu ca ngợi Đảng và Bác, và nhà nước này kia.
 
Riêng với nhóm mình tham gia ở Nhà văn hóa Thanh niên, thì thấy họ rất mất trật tự, luôn luôn họ đi đầu, cầm cờ đỏ sao vàng và cầm biểu ngữ của họ đi đầu để cố tình che đi biểu ngữ của những người đi sau, đòi tự do cho những người yêu nước, như Điếu Cày, Bùi Hằng, Trần Huỳnh Duy Thức… Những biểu ngữ đó họ cố tình cho người che lại để nhóm làm truyền thông không có thấy để chụp hình. Lúc đầu, một số biểu ngữ yêu cầu trả tự do cho những người yêu nước bị họ cho người giựt đi rất là nhiều. Nhưng bên nhóm biểu tình chuẩn bị rất nhiều biểu ngữ, nên vẫn xuất hiện được trong cuộc biểu tình.
 
[8] http://www.theaustralian.com.au/news/kevin-rudds-speech-at-beijing-uni/story-e6frg6n6-1111116015758
 
14.5.2014
© 2014 Thuận Văn & pro&contra
 

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 21.05.2014 06:18:10
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN
Hãi hùng với con tàu bí ẩn trôi dạt vào bờ biển nước Mỹ
Một con tàu bí ẩn bám đầy rong rêu và sinh vật biển, tựa như cả ngàn con rắn đang bò lổm ngổm trên khoang đã được tìm thấy ở bờ biển bang Washington.
 
 
Con tàu bí ẩn trôi vào bờ biển bang Washington. (Nguồn: nydailynews.com)

Các quan chức bảo vệ bờ biển Mỹ đã phát hiện một con tàu nhỏ này hôm 28/4 và nghi ngờ con tàu có xuất xứ từ Nhật Bản, có thể đã bị cơn sóng thần năm 2011 cuốn ra biển rồi đánh dạt sang tận bên kia Thái Bình Dương.
Báo chí Mỹ thậm chí đã ví "con tàu ma" này với con tàu Noah trong Kinh Thánh vốn đã cứu sống vạn vật sau trận Đại hồng thủy.
Phó Giám đốc phụ trách các tình huống khẩn cấp cảng Grays (bang Washington) Charles Wallace cho biết cơ quan sinh thái bang Washington đã lấy các mẫu thực vật trên tàu để xét nghiệm nhằm xác định khu vực vùng biển của chiếc tàu này.
Các nhà điều tra Mỹ cũng đã tới Lãnh sự quán Nhật Bản tại Seattle để thu thập thông tin cũng như đề nghị sự hợp tác, giúp đỡ từ phía Nhật Bản nhằm điều tra xem liệu con tàu này có đến từ Nhật Bản hay không.
Các nhà điều tra hiện vẫn đang tiếp tục tiến hành các công tác để xác định chính xác con tàu này đến từ đâu.
Được biết, trước đó, nhiều con tàu của Nhật Bản trong trận thảm họa sóng thần 2011 cũng đã được tìm thấy tại khu vực này./.

Con tàu bí ẩn này dạt vào bờ trong tình trạng rong rêu và các sinh vật biển bám dày đặc.
(Nguồn: nydailynews.com)
Theo Lâm Anh

SongHuong
  • Số bài : 400
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.10.2009
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 23.05.2014 15:05:54
0
LẶNG IM THÁNG TƯ 

Giữa ngàn lời muốn nói 
Im lặng vẫn là thơ 
Chiếc lá vàng ngu ngơ 
Lạc nẻo đời xuống phố 

Qua một thời giông tố 
Góc hồn ngân tiếng ve 
Ai quên một chiều hè 
Lời chia tay rất vội ? 

Nợ một lời nói dối 
Dùng dằng hai mươi năm 
Em giờ quá xa xăm 
Mong manh chùm phương vĩ 

Ngàn câu chưa hết ý 
Ngàn lời vẫn là không 
Chỉ còn xác phượng hồng 
Góc giảng đường xa vắng 

Chiều tháng tư nhạt nắng 
Hay nhạt lối ngày xưa ? 
Bao nhiêu để cho vừa 
Trang thơ thành … im lặng  

Sông Hương, Huế 4/2014 
 
Nén lòng tôi với tri âm
Nén thương nhớ gởi xa xăm một người

SongHuong
  • Số bài : 400
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.10.2009
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 23.05.2014 15:09:12
0
KÍ ỨC THÁNG NĂM 
Tặng NTV 
 


Còn chút gì trong nắng muộn tháng năm ? 
Chiều qua phố rưng rưng chùm phượng vĩ 
Chợt nhận ra ngày xưa mình… vô lí 
Để bây giờ khắc khoải mỗi hè sang 

Cao nguyên giờ có còn nắng chói chang 
Gió còn vọng những giao mùa xao động ? 
Hai mươi năm vẫn nguyên màu phượng thắm 
Chút tình đầu dang dở giữa mùa thi 

Ta còn nợ em một nụ từ li 
Lời tiễn biệt chưa tròn ngày xa cách 
Còn nợ em vì không lời hờn trách 
Để dã quỳ lạc lõng giữa đồi hoang 

Tháng năm về cánh phượng cứ đa mang 
Lời chia tay năm nào chưa kịp nói 
Hai mười năm cuộn lòng như dấu hỏi 
Tiếng ve buồn… thầm gọi những mùa thi 

Tự trách mình như một cánh chim di 
Thả mùa nhớ lên cọng buồn thiếu nữ 
Khi tóc sương chợt nhìn về quá khứ 
Phía mùa thi ai giữ… cánh hoa buồn ? 

Huế 5/2014 
Sông Hương 
Nén lòng tôi với tri âm
Nén thương nhớ gởi xa xăm một người

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 28.05.2014 05:49:41
0
 
 
 
 
 

https://app.box.com/s/shzpjj9r9di8doqpira7

HÁT TRÊN NÚI
thơ Mường Mán | nhạc & trình bày Dzuylynh

Tay đan tay chiều muộn rồi 

Nhạc trôi dưới phố nắng ngùi trên cây 
Mắt đan mắt cay nồng cay 
Sương giăng lũng thấp nhớ đầy lên vai 
Môi đan môi nụ hôn dài 
Rẩy run đôi cánh hoa mai chợt vàng 
Đồi lang thang núi lang thang 
Dắt nhau về thủa hồng hoang hai người 
Tóc đan tóc bời rối bời 
Trăng trôi qua phố mây rời rã mây 
Ngủ đi thôi, ngọn cỏ may 
Tim anh hãy tựa những ngày còn xanh 
Ngủ đi thôi con chim oanh 
Giữ ngoan tiếng hát dỗ dành mai sau 
Núi cắt rốn, đồi chôn nhau 
Đi đâu cũng nhớ quay đầu về non 

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.05.2014 03:50:07 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 29.05.2014 03:53:57
0
 
 
 
 
 

(xin bấm lên ảnh để nghe bài hát)
 
Dạ Khúc Cuối
 
Rồi mai tôi sẽ …sẽ đi về cát bụi
Buồn vui chi mấy… tháng năm rồi cũng phai
Đường xa muôn nẽo…khói sương giăng muôn trùng
Lạnh lùng trời mây… hay nắng cháy khô cằn
 
Rồi mai nơi ấy… biết ai còn ngóng đợi
Tình thôi cũng lỡ… lỡ cung đàn hắt hiu
Sầu trong đêm… vắng tiếng ai ru ơ hờ
Ngẹn ngào lệ rơi …lặng lẽ lối đi về
 
Dù trời mù sương, xin người đừng vấn vương
Dù trời đầy mưa, xin người đừng chờ đón đưa
Để sầu người đi đi về rừng núi xưa
Để sầu người đi… đi về cõi hư không
Đi về cõi hư không mịt mùng...
 
Rồi mai tôi sẽ …sẽ xa rời chốn này
Hồn theo mây trắng… cuối chân trời viễn du
Rừng thu thay lá… lá rơi rơi âm thầm
Ngậm ngùi mùa sang… là những nhớ nhung khôn cùng...
 
 

SongHuong
  • Số bài : 400
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.10.2009
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 29.05.2014 09:24:22
0
MẮT HẠ

Chiều ngang qua mắt hạ
Chạnh lòng thương tiếng ve
Ngày đi không giã biệt
Buâng khuâng phượng gọi hè

Diệu Thanh(*) xưa còn xõa
Tóc dài theo thác bay
Người em xưa còn đợi
Lặng thầm ngày chia tay ?

Lần từng trang nhật ký
Phượng hồng như rơi rơi
Cao nguyên mùa gió động
Ai đau một khoang đời ?

Mênh mang chiều phố thị
Dòng Hương thầm trôi xuôi
Đâu hay chừng đâu đó
Dã quỳ hoang ngậm ngùi

Người ơi giờ xa lắm
Chút tình như gió bay
Mang theo lời tiễn biệt
Trong mắt hạ chiều nay.
Huế 5/2014
Sông Hương


Nén lòng tôi với tri âm
Nén thương nhớ gởi xa xăm một người

SongHuong
  • Số bài : 400
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.10.2009
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 29.05.2014 09:27:46
0
KHÚC TRĂNG
( Họa thơ nữ sĩ Ngưng Thu nick FB Cánh đồng gió )

Trăng nhàu
Từ độ…
Mờ sương
Khúc chiều mỏng tựa tơ
Vương mi gầy
Chòng chành
Cung lỡ
So dây
Từ trăng khóc
Nhớ vơi đầy miền thương

Dấu xưa chừ đã mờ
Sương rơi trên mái tóc
Vô thường… giọt đêm
Ta đi về phía không em
Cạn li vô định
Say mềm môi trăng

Chập chờn
Đâu đó dấu quen ngày xưa ấy
Chợt… dùng dằng đêm nay
Mình ta chợt tỉnh
Chợt say
Lòng cố quên
Cứ với đầy khúc xưa

Chừng như
Vọng khúc trăng thừa
Mơn man lời gió
Ai vừa ra đi
Ai quên một thuở xuân thì ?
Đêm nhàu vai phố bởi vì… trăng rơi

Huế 5/2014
Sông Hương

 
Nén lòng tôi với tri âm
Nén thương nhớ gởi xa xăm một người

SongHuong
  • Số bài : 400
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.10.2009
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 31.05.2014 10:12:41
0
THÁNG NĂM

Tháng năm
Chùm phượng vĩ thả buồn bên thềm hạ
Ta nhặt dấu xưa
Xếp hình bước chân vội vã
Ngày đi quên lời từ tạ 
Ngọt đắng, vui buồn
Xin trả… phố mù sương

Tháng năm
Tiếng ve rơi phía cuối con đường
Gập ghềnh lời ru
Nuối tiếc một thời con gái
Ầu ơ … người ơi xa ngái
Gom xác phượng buồn
Gởi lại … phía người đi

Tháng năm
Ta nợ cao nguyên một cánh dã quỳ
Lần lữa nụ hôn
Chiều nay phượng bừng sắc hạ
Bước chân ngày nao vội vã
Day dứt dã quỳ
Quen lạ… góc đồi hoang

Tháng năm
Chợt nhận ra mình sao cứ đa mang
Nợ lời từ li
Nợ cao nguyên một lần trốn chạy
Sông Hương dùng dằng xuôi mãi
Chiều nay thả hồn
Về lại… phía đồi sim

Huế cuối tháng 5/2014
Sông Hương
 
Nén lòng tôi với tri âm
Nén thương nhớ gởi xa xăm một người

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 01.06.2014 12:28:14
0
GIẢI TRÍ CUỐI TUẦN
 
Ấn Độ mới phát minh ra thuốc trị bệnh tiểu đường rất công hiệu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2014 12:29:20 bởi Phù vân >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 02.06.2014 23:49:06
0

PHỞ SÀI GÒN XƯA VÀ NAY
 
Cũng như thịt chó, phở là một đặc sản của miền Bắc. Người ta cho rằng nó chỉ mới xuất hiện ở Saigon vào những năm 1951-1952, cùng một thời gian với hai nhà hát ả đào, một ở xóm Monceau và một ở xóm Đại Đồng.
Cả hai thứ ấy đều rất xa lạ với người Saigon thuở đó. Kiếm được một quan viên biết cầm trống chầu không phải chuyện dễ. Cho nên họ chỉ cầm cự được một hai năm rồi dẹp tiệm, mặc dù họ đã biến nó thành một hình thức như ”kem sờ” ở Bờ Hồ (Hà nội) vào những năm 30 hoặc như ”bia ôm” của Saigon hôm nay. Và phở cũng chịu chung một số phận với nó. Người ta chỉ thích hủ tíu, hoành thánh, bánh xếp nước… Chỉ có độc một tiệm phở được gọi là ”Phở Tuyệc”, nằm trên đường Turc (nay thuộc khu vực Đồng Khởi) là kiên trì bám trụ.
 
Phải đợi tới sau năm 1954, phở mới thực sự thực hiện một bước nhảy vọt từ Bắc vào Nam. Phở khởi đầu sự bành trướng của nó vào giữa thập niên 50 tới giữa thập niên 60. Có cả một dãy phố phở nằm trên hai con đường Pasteur và Hiền Vương.
 
THƠ PHỞ…
Những nhà hàng phở ngon của Saigon thuở ấy nhiều vô số. Nhưng được người ta chiếu cố nhất chỉ có bốn hoặc năm tiệm, trong đó có phở Trần Minh ở hẻm Casino. Trong cái ngõ cụt ấy, ê hề các hàng quà : phở, bún ốc, bún ốc sườn… Từ đầu ngõ, người ta đã chạm trán với khách ẩm thực, kẻ ra người vô tấp nập. Phở Minh ngon thiệt là ngon. Nó không giống như kẹo kéo “ăn một lại muốn ăn hai, ăn ba ăn bốn lại nài ăn năm”. Người ta chỉ có thể ăn một bát để cho nó thòm thèm rồi mai lại ăn nữa ! Có một người nghiện phở của ông ta, và nghiện luôn cả truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Đó là ông X, chủ một tiệm giày ở đường Lê Thánh Tôn. Ông vừa ăn phở vừa theo dõi cuộc tình của Triệu Minh – Vô Kỵ, hoặc của Doanh Doanh – Lệnh Hồ Xung trên mặt báo. Và tình bằng hữu giữa ông chủ tiệm giày với ông chủ tiệm phở đã thắm thiết hơn lên nhờ một bài thơ phở của ông chủ tiệm giày. Gọi là thơ phở vì đọc lên nghe thấy… toàn mùi phở. Tuy nhiên nó được làm theo thể Đường thi, và chữ nghĩa đối nhau chan chát. Rất tiếc, người viết chỉ còn nhớ được có bốn câu :
Nổi tiếng gần xa khắp thị thành
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề : tái, chín, gầu, gân, sách
Gia vị : hành, tiêu, ớt, mắm, chanh
Sau đó, ”mông xừ” Trần Minh đã nhờ một người nhái những nét chữ rồng bay phượng múa của Vũ Hoàng Chương để viết bài thơ ấy và treo ở trong tiệm.
 
VÀ CÂU ĐỐI PHỞ
Saigon thuở ấy chỉ có một tiệm duy nhất ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu, có món tái sách tương gừng và phở tái sách : tiệm Y. Thịt tái mềm, sách ròn nhai gau gáu, chấm với tương Cự Đà thì tuyệt cú mèo. Người ta bèn đổ xô tới để thưởng thức một món ăn lạ miệng. Và tiệm Y phất lên như diều. Từ ngôi nhà lụp xụp, ông đã sửa sang lại cho khang trang và mua thêm một nhà khác để ở cho thoải mái. Phú quí sinh… máu văn nghệ, ông bắt đầu giao du thân mật với cánh nhà văn, nhà báo.
 
Sau cuộc đảo chính của Dương Văn Minh, trong làng báo có hiện tượng “trăm hoa đua nở”, hễ có tiền là có quyền làm chủ một tờ báo. Thế là ông chủ tiệm phở Y bèn ra báo. Từ tái, chín, nạm, gầu, sụn, nhảy sang địa hạt chữ nghĩa, ông hoàn toàn bỡ ngỡ. Cho nên báo của ông chỉ có thể đến với độc giả bằng con đường ve chai. Dĩ nhiên nó phải chết. Và ít lâu sau ông cũng chết theo nó. Người vợ góa trẻ đẹp kế tục ”sự nghiệp” của ông chồng quá cố. Tiệm Y phát đạt trở lại. Những người bạn văn nghệ của ông Y vẫn lui tới ăn phở như xưa, nhưng mục đích chính của họ là… ngấp nghé ngôi vị chủ tiệm. Sau mấy năm trời theo đuổi mà chẳng đi tới đâu, một người trong bọn họ, tức cảnh sinh tình, bèn mượn danh nghĩa bà quả phụ để ra một vế câu đối như có ý thách thức thiên hạ rằng : “Nếu ai đối được thì em xin nguyện lấy làm chồng”
 
“Nạc, mỡ nữa làm chi, em nghĩ chín rồi không tái giá ”
Câu đối sặc sụa mùi phở, nhưng hắc búa nhất là cụm từ ”tái giá”, nó vừa có nghĩa là ”đi bước nữa” lại vừa có nghĩa là ”phở tái giá”. Cũng như ”da trắng vỗ bì bạch” của bà Điểm đố Trạng Quỳnh vậy. Hơn ba mươi năm trôi qua, câu đối ấy hiện nay vẫn chỉ có một vế.
 
PHỞ GÀ TRỐNG THIẾN
Ngay cả Hà Nội – quê hương của phở – từ trước đến nay cũng chưa bao giờ có phở gà trống thiến, cho dù ở phố Huyền Trân Công Chúa, vào đầu những năm 50, đã có một hàng phở gà ngon nổi tiếng khắp Hà thành, đến nổi cụ Nguyễn Tuân khi theo đoàn quân về tiếp quản Thủ đô, ăn xong đã phải khen rằng ”tuyệt phở !”. Người bán phở tên là Chí. Ông ta mới hồi cư, không có đủ tiền để mướn mặt bằng, phải làm phở gánh. Con đường mang tên vị công chúa nhà Trần bé bằng cái lỗ mũi, với cái vỉa hè rộng hơn một mét, khách ăn kẻ đứng, người ngồi, húp xì xụp.
 
Phở gà trống thiến xuất hiện ở Saigon vào những năm 60, ở phía chợ Vườn Chuối – tuy chưa được liệt vào loại tuyệt phở, nhưng cũng được khách ẩm thực đặc biệt chiếu cố. Phở ngon là một lẽ : thịt gà trống thiến thơm và mềm như gà mái tơ, nước phở trong hợp với khẩu vị của những người kén ăn, nhưng cũng còn một lẽ khác : người ta vừa ăn, vừa ngắm cái vẻ thướt tha yêu kiều của con gái ông chủ tiệm, thỉnh thoảng đi ra đi vô, mỉm cười với người này, gật đầu chào người kia, giơ tay ‘bông rua’ người nọ, tự nhiên như một cô đầm non.
 
Đó là nữ ca sĩ Y.V, một giọng ca lả lướt của các phòng trà. Ban ngày, nàng giao thiệp với phao câu, đầu cánh, thịt đùi; ban đêm, chìm đắm trong ánh đèn màu. Thế rồi, không kèn không trống, nàng tuyệt tích giang hồ. Người ta bảo rằng nàng đi Tây. Đi Tây thật chứ không phải Tây Ninh. Tiệm phở vắng khách dần và ít lâu sau thì phải dẹp.
 
PHỞ KHÔNG RAU KHÔNG GIÁ
Tiệm này nằm trên đường Công Lý- cách ngã tư Công Lý – Yên Đỗ (nay là ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lý Chính Thắng) khoảng 100m – trong một cái hẻm rộng. Người ta gọi là phở Bà Dậu. Nó có những đặc điểm không giống bất cứ một tiệm phở nào : không rau, không giá và rất sạch, và nhất là không có cái mùi phở kinh niên. Thịt thái mỏng và bánh phở to bản thích hợp với cái gu của người Hà Nội. Vì ở sâu trong hẻm, nên thoạt đầu khách tới ăn uống rất lơ thơ tơ liễu buông mành, chỉ có dăm bảy mống. Sau đó, nhờ sự cổ động của người Hà Nội, người ta mới bắt đầu chiếu cố tới hương vị không rau không giá đó.
 
Trải qua hơn 30 năm, Phở Bà Dậu sau vẫn tồn tại và có phần phát đạt hơn xưa. Có thêm một món mới : tái bắp, thịt mềm và nhai sần sật như sụn. Giá cả cũng tăng, từ 10đ/ bát trong những năm 60 đến 10.000đ/ bát, năm 1996. Nhưng khách ăn vẫn nườm nượp.
 
TỪ PHỐ PHỞ ĐẾN… BẮC HUỲNH
Hà Nội, quê hương của phở, và thời bao cấp đã sản sinh biết bao thứ phở : phở vịt, phở ngan, phở lợn (thậm chí có cả phở chó), vậy mà chưa có một phố nào chuyên bán phở, trong khi ấy Saigon lại có cả một dãy phố phở. Đó là khu Hiền Vương (Võ Thị Sáu – Pasteur). Hiền Vương chuyên bán phở gà, còn Pasteur, phở bò. Nhưng dù gà hay bò, các tiệm phở ở khu này chưa có một tiệm nào – nếu nói về phở bò – có thể so với phở Tàu Bay ở Lý Thái Tổ, còn nếu nói về phở gà, thì thua xa phở Vọng Các (đường Võ Văn Tần) và phở Bưu Điện hôm nay.
 
Những tiệm phở bò nổi tiếng thời ấy còn có phở Tàu Thủy ở Nguyễn Thiện Thuật, phở Quyền và phở Bắc Huỳnh ở miệt Phú Nhuận. Sau khi ông Tàu Thủy qua đời, người con trai không có đủ khả năng kế nghiệp ông bố, bèn dẹp tiệm để chuyển sang nghề khác. Còn phở Bắc Huỳnh nguyên là phở Ga Đà Lạt một thời nổi tiếng; Sau 75 ông mò về Saigon, mở tiệm phở Bắc Huỳnh trên đường Võ Tánh góc Trương Tấn Bửu đối xéo góc với nhà thờ Nam. Chỉ mấy tháng sau, Bắc Huỳnh lại nổi tiếng như cồn. Hàng ngày, từ 6 giờ sáng khách mộ điệu phở đã nườm nượp nối đuối kéo vào. Và chỉ tới 10 giờ là bánh, thịt, nước phở đã láng cóong. Phải công nhận phở Bắc Huỳnh hết chỗ chê. Nuớc trong vắt thơm lừng; Miếng thịt chín mùi thơm như pa-tê, thái tay vừa đủ dầy để cắn ngập răng. Miếng gầu sữa trắng toát mịn như miếng thạch, vừa thơm vừa bùi lại ròn tan; Không một chút hoi. Đặc biệt tiệm BH không bán phở toàn tái. Thế mới là chính thống. Phở bò mà lại ăn phở tái thì đúng là nhà quéo.
 
Đang phát đạt như thế, chẳng biết sao khoảng năm 1982 bỗng dưng ông dẹp tiệm. Dân ghiền phở cứ tiếc hùi hụi. Trong số này có ông cao thủ bóng lông Trần K., khi đó đang chủ trì sân quần vợt đuờng Lê Duẩn. Ông này ghiền phở BH không thua gì mấy anh ghiền thuốc phiện. Sáng sáng, sau khi dợt cho đệ tử mà không được bồi dưỡng hai tô phở BH là ông ngáp lên ngáp xuống. Ông bèn gạ một người bạn ông để người bạn này yêu cầu cô con gái ông BH mượn nồi niêu soong chảo bát đũa của ông già ra sân quần vợt mở một tiệm phở xe. Dân ghiền phở lại kéo tới ăn đông như chẩy hội. Hồi đó nữ ca sĩ Thái Thanh và nữ ca sĩ Tâm Vấn ở tít trong Chợ Lớn, sáng nào cũng ngồi xích lô ra sân quần vợt – không phải để đánh banh lông – mà là để đớp phở.

 
Cao thủ Trần K. có ông anh cũng tên Trần K. và cũng là cao thủ bóng lông, còn mê phở hơn cả ông em. Sáng nào ông K. anh cũng gò lưng đạp chiếc xe đạp ọp ẹp chở người tình 200 pao từ Chợ Lớn ra sân quần với mục đich cao quý duy nhất là đớp phở của con gái ông BH. Có nhiều lần, có  lẽ tại tối trước ông K. anh chơi bóng lông hơi nhiều và hơi khuya, sáng ra chân chùn gối lỏng, ông đạp xe hơi chậm, tới hơi trễ, đã thấy cái thùng nước phở chổng mông lên trời. Phở chính thống là thế : bao nhiêu thịt là bấy nhiêu nước. Hết nước là hết thịt, hết thịt là hết nước. Và hết là hết, chứ không có cái trò đổ vài lon nước lèo hộp, hay ném mấy cục bouillon vào nước, thêm tí mắm tí bột ngọt, đun sôi lên bán với thịt tái. Sau mấy lần đạp xe phờ râu tôm tới nơi lại hụt ăn, ông K. anh đành thương lượng với cô chủ phở như thế này :
 
Mỗi sáng cô cứ vui lòng để riêng ra hai tô, cất đi cho tôi. Tôi tới kịp để ăn hay không tới ăn được cũng kệ cha tôi. Tôi vưỡn cứ trả tiền như thường. Ấy thế mà, chỉ được hơn năm, chả biết lý do gì, tiệm phở xe này cũng bỗng mất tích. It lâu sau thấy tiệm Bắc Huỳnh lại tái xuất giang hồ. Được ít năm rồi lại dẹp không kèn không trống. Ngày nay nghe đâu ông Bắc Huỳnh và cô con gái đẹp như mơ đã mở hai tiệm phở bên Calgary, Canada. Chả biết còn giữ tên Bắc Huỳnh nữa không.
 
…PHỞ NGẦU PÍN
Dạo ấy, cả Saigon chỉ có độc một tiệm của chú Woòng ở đường Lý Thái Tổ bán phở ngầu pín. Chú là người Quảng Đông, trước khi di chuyển vào Nam đã mở tiệm phở ở phố Huế, Hà Nội. Vào đầu thập niên 50, phở ngầu pín đối với dân thủ đô, thật hoàn toàn xa lạ. Có mà nhử thính các tiểu thư Hà Nội cũng không dám tới ăn.
 
Phở ngầu pín vào tới Saigon cũng chả khấm khá gì hơn. Vẫn cái tiệm xập xệ tối thui, như ở phố Huế. Khách tới ăn toàn những ông râu ria xồm xoàm hoặc lún phún râu dê hoặc nhẵn nhụi bảnh bao chẳng có một sợi râu nào. Nhưng tuyệt nhiên không hề có bóng dáng đàn bà.
 
PHỞ SAU 75 VÀ CƠN SỐT PHỞ BẮC HẢI
Phở leo lên tới tột đỉnh vinh quang bắt đầu từ cuối thập niên 80. Phở tràn ngập thành phố, ngoại trừ khu vực Chợ Lớn, bởi nó không thể địch lại được với hủ tíu, hoành thánh, bánh bao, xíu mại. Nhưng đặc biệt nhất là cơn sốt phở Bắc Hải. Ở thành phố có chí ít vài ba chục tiệm mang cái tên ấy. Tại sao người ta lại không chọn một bảng hiệu khác ? Cũng có nguyên nhân đấy.
 
Số là vào thời bao cấp, ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội có một tiệm phở chui mà ông chủ tên là Bắc Hải. Đó là bí danh, biệt hiệu hay tên thật của ông ? Chả có ai rỗi hơi tìm hiểu. Chỉ biết cứ thế mà gọi. Tiệm của ông dĩ nhiên là đông khách, nhưng toàn khách quen. Những cái mặt lạ hoắc đừng có hòng bước vào. Trong khi phở quốc doanh “chạy qua hàng thịt”, thì phở Bắc Hải cả bánh lẫn thịt đều có chất lượng. Ngoài ra lại còn cái thú uống rượu quốc lủi nhắm với món “bốc mả” (xíu quách). Thịt do dân”bờ lờ” (buôn lậu) từ Phú Xuyên, Thường Tín hoặc ngả Gia Lâm đi theo xe khách thành, đưa vào bán cho các mối. Còn quốc lủi do ngoại thành cung cấp.
 
Ông Bắc Hải đựng quốc lủi trong cái bong bóng trâu, giấu ở trước bụng, cái áo phủ bên ngoài. Khách nào muốn uống, giơ cái ly xây chừng ra, ông cởi khuy áo, tháo cái nút vòi bong bóng rồi xịt một phát vào ly. Rượu vừa đúng tới mép ly, không tràn ra một giọt nào. Ông bảo đó là cả một nghệ thuật, phải tập mất một tháng mới thực hiện thành công thao tác ấy. Nói cũng đáng tội, phở của ông cũng chả ngon lành gì. Chẳng qua là vì ”trong xứ mù thằng chột làm vua”. Vả lại, nó có đầy đủ chất béo, chất cay. Với một người ”thích đủ thứ”, như vậy là đúng tiêu chuẩn. Từ đó, anh hùng nhất khoảnh, phở Bắc Hải danh trấn giang hồ.
 
Sau 75, một số đệ tử của ông Bắc Hải vào Nam. Họ kiếm một đầu hẻm, dựng một quán phở lộ thiên. Một trong những đệ tử nổi bật nhất của ”mông xừ” Bắc Hải là Ch. Râu. Gọi như thế là vì trên mặt anh có cả một rừng râu. Trẻ con trong khu phố, mỗi khi thấy anh xuất hiện lại chạy theo trêu chọc : ”Ơ cái râu lồm xồm, ơ cái râu loàm xoàm, cái râu mọc quanh cái mồm”.
 
Lại vừa may mắn lại vừa có sẵn ít vốn, Ch. Râu kiếm được một mặt bằng ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Phở Bắc Hải của anh ra đời, trội hơn các tiệm Bắc Hải khác với món áp chảo nước, áp chảo khô, và đặc biệt là rượu rắn-bìm bịp, tráng dương bổ thận.
 
Hiện nay, phở Bắc Hải không những bành trướng trong thành phố mà còn xuất hiện tại các vùng ngoại ô, nhất là khu Tân Sơn Nhất.
 
Khoảng giữa thập niên 80, tại Bến Sỏi, mé trái cầu Điện Biên Phủ, có một tiệm phở đuôi bò và ngầu pín do một người đàn bà đứng bán. Quán hàng thiết lập trên một vùng đất lổn nhổn sỏi đá. Khách ăn, kẻ đứng người ngồi. Đôi khi cái ghế lùn tịt được dùng thay cho bàn. Và lần đầu tiên trong lịch sử của ỀpínỂ, ngầu pín được các bà các cô chiếu cố. Họ tỉnh queo cắn từng miếng một và nhai sần sật. Đuôi bò của Bến Sỏi cũng tuyệt trần. Mỗi miếng bằng cái nắm tay của trẻ con. Thịt được ninh nhừ nên khi ăn cũng không đến nỗi vất vả.
 
Phở Bến Sỏi chỉ bán đến 9g30 sáng là hết. Nhưng thông thường, người ta đến sớm hơn. Để tránh cái nắng như đổ lửa xuống đầu. Trông các bà vừa ăn vừa thấm mồ hôi, phấn son nhòe nhẹt, thấy mà thương !
Vài năm sau khấm khá, bà chủ tiệm tậu được một miếng đất rộng lớn ở phía xa lộ rồi chuyển cửa hàng ra đó. Bây giờ gọi là quán phở N., vừa bán phở vừa bán lẩu ngầu pín đuôi bò. Một cái lẩu 20.000đ hai người ăn căng bụng.
 
PHỞ THẦY CÔ
Bởi lương nhà giáo không đủ sống nên 5 cô và một thầy đã hùn nhau mở một tiệm phở ở vỉa hè đường X., phía sau cổng trường M.C.
 
Phở thầy cô ra đời khoảng gần hai năm nay. Có một dạo nhà nước dẹp lòng lề đường, có lúc họ phải di chuyển vào mé sân sau trường. Tiệm này chuyên bán phở gà và chỉ bán vào buổi sáng. Dĩ nhiên phở của họ không thể nào ngon bằng các tiệm nhà nghề như phở gà Bưu Điện hoặc Vọng Các hay các tiệm ở đường Võ Thị Sáu, nhưng nó lại có một hương vị đặc biệt – hương vị gia đình. Khách ăn có cảm tưởng như người nhà mình nấu cho mình ăn vậy. Phở ở đây rất có ”chất lượng” và rẻ – rất rẻ là khác : 4.000đ/ tô đầy tú ụ cả thịt lẫn bánh.
 
Giữa họ đã có sự phân công : mỗi người nấu phở rồi coi phở một ngày. Không có ai trong số họ có sẵn tay nghề. Thoạt đầu thì lúng túng như thợ vụng mất kim, ít lâu mới thành thạo. Nhưng dù sao đối với họ nghề phở cũng là một cái nghề bất đắc dĩ. Đứng trên bục giảng vẫn tốt hơn.
 
Ở thành phố, ngoài nhóm thầy cô kể trên, còn có một cô giáo nữa cũng đang đứng bán phở, nhưng lại giã từ hẳn cái nghề kỹ sư tâm hồn. Cô nguyên là giảng nghiệm viên của Đại học khoa học, nhà lại sẵn có mặt bằng nằm trên một trục lộ đông đảo người qua lại, bèn quyết định từ bỏ ống nghiệm và các công thức hóa học để ”giao thiệp” với phở. Vốn là một nội trợ giỏi nên từ nấu thức ăn đến làm phở cũng không đến nỗi khó khăn. Cửa tiệm nằm ở phía chân cầu Bông, khách ăn sẽ dễ dàng nhận ra khi thấy trước cửa đậu một dãy xe gắn máy.
 
Phở Cầu Bông ngoài các món thường lệ như tái, chín, nạm, còn có món đuôi bò. Phở rất ngon nhưng giá một tô có 5.000đ, chỉ bằng một nửa tiền nếu so với phở Hòa ở đường Pasteur, tục gọi là phở Việt kiều, với giá chém treo ngành 12.000đ/ tô. Sở dĩ gọi thế là vì khách ăn đa số là Việt kiều. Họ quen ăn phở với giá 8 đôla/ tô, chưa kể tiền ”bo” 10%, nên với họ, đó là một giá rẻ mạt.
 
Phở Cầu Bông cũng không làm theo kiểu đại trà với thịt thái sẵn chất đầy một cái khay. Khách ăn tới đâu làm tới đó. Thịt thái mỏng bốc mùi thơm phức. Mỗi miếng thịt mang hình kỷ hà, màu nâu gụ của nó dính với màu mỡ gàu đặt trên nền trắng của bánh trông giống như một bức tranh tĩnh vật.
Cô giáo của trường Khoa học đã đưa cả khoa học lẫn nghệ thuật vào phở.
 
PHỞ T.D. Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ
Phở có bảng hiệu mang tên số nhà, nhưng người ta cứ quen miệng gọi là phở T. D., tên ông chủ, mặc dù anh không đứng bán. Căn nhà đó, xưa kia, anh mở tiệm cơm Tây với hai món đặc sản : chateaubriand và chân giò nấu đậu trắng. Các bằng hữu của anh đa số là những người làm văn nghệ. Anh cũng được liệt vào số đó, bởi giọng ca tuyệt diệu của anh. Nhưng mỗi năm anh chỉ hát có một lần và chỉ hát có một bài vào đêm Giáng sinh : “Đêm thánh vô cùng” (Silent Night). Một điệu nhạc tắt đèn. Trong lúc tiếng ca thánh thiện của anh vang lên, người ta ôm nhau đi một đường slow.
 
Sau khi thưởng thức phở Quyền, phở Tàu Bay, phở bà Dậu, nếu muốn đổi hương vị, người ta có thể đến T.D để nếm món ”vú sữa”, tức là khoảng thịt bụng có những núm vú, ăn béo ngậy, thơm và sần sật, nhưng không giống như sụn hoặc nậm của thịt chó. Nhà hàng có mặt bằng rộng, quạt máy quay vù vù, khách ăn không phải chịu cái cảnh mồ hôi mẹ mồ hôi con cùng chảy.
 
PHỞ CÔNG TỬ SÀI GÒN
Đó là tiệm phở gà H. B. ở đường Võ Thị Sáu. Ông chủ tiệm tên là Q., một người thuộc giới giang hồ mà cả hai đạo hắc bạch đều biết… tiếng từ khi Q. ở địa vị một ông chủ.
 
Nghề phở đến với anh một cách tình cờ. Trong một cuộc đọ tài cao thấp với một tay anh chị, anh bị hắn thưa về tội đả thương, và sau đó bị đưa đi cải tạo. Thời gian chém tre đẵn gỗ trên ngàn, anh thường hay giúp đỡ một anh bạn đồng cảnh ngộ. Thấy bạn bị bắt nạt là anh can thiệp ngay. Không phải bằng vũ lực, mà chỉ với một chiêu số thôi : bấm vào huyệt nội quan ở cổ tay và huyệt khúc trì ở khuỷu tay, là địch thủ phải thổi bài kèn ”ô rơ lui” ngay. Q. lại còn thường giúp anh ta trong các công tác lao động. Để đáp lại ân tình ấy, người bạn kia đã truyền cho anh nghề nấu phở. Anh ta dạy Q. từ cách lựa chọn gà – phải là gà được nuôi ở nông thôn – đến cách pha chế gia vị cho thùng nước lèo, và cách nấu nướng làm sao cho gà khỏi bị vỡ da.
 
Sau thời gian cải tạo, Q. về đường Võ Thị Sáu mở tiệm phở H.B. – tiệm phở ngon nhất trong khu phố ấy. Chỉ trong vòng ba năm, anh đã phất lên như diều. Và bây giờ, với 8 năm trong nghề phở, anh chỉ giữ vai trò chuyên viên, và để cho một số đệ tử đứng bán. Còn một chàng nữa cũng phất lên như Q., nhờ phở. Đó là anh D., chủ một tiệm phở ở trong một con hẻm đường Nguyễn Thị Minh Khai, cách nhà thương Từ Dũ khoảng 500m. Từ  Hà Nội vô thành phố Sài Gòn, anh chỉ có đủ tiền để làm một gánh phở ở đầu ngõ. Mới đầu, anh chả biết một tí gì về cái nghề này. Toàn đi học mót. Hỏi người này, học người kia, rồi tới ăn ở các tiệm phở danh tiếng để thử nghiệm. Phải mất gần một năm anh mới thành thạo.
Phở D. hôm nay nổi tiếng ngang với phở Quyền ở Phú Nhuận. Tiệm của anh có một món đặc biệt : tái bắp. Muốn ăn món này phải đi sớm, bởi 8 giờ sáng là hết. Có một điều ly kỳ là phở D. ăn vào buổi chiều bao giờ cũng ngon hơn buổi sáng. Cả chủ lẫn khách đều công nhận chuyện đó. Hỏi nguyên nhân tại sao ? Anh lắc đầu vì không giải thích được. ”Sáng và chiều cùng một thùng nước lèo. Nửa thùng buổi sáng còn lại, buổi chiều chỉ việc đun sôi, không pha thêm một chút gia vị nào, thế mà nó lại ngon hơn buổi sáng”, anh mỉm cười nói.
 
Bây giờ thì phở có bề thế lắm rồi. Anh mới tậu thêm một ngôi nhà ở đầu hẻm. Phở là một đặc sản của Việt Nam. Đó là điều ”quốc tế phải công nhận”. Nhưng ông Tây lại bảo nó là “soupe chinoise”, còn ông Tàu thì lại bảo nó là “ngầu phấn” chỉ là tiếng Quảng Đông, phiên âm ra tiếng Hán Việt là “ngưu” (bò hoặc trâu), ”phấn” (bột gạo). Một điều nữa, hỏi ông tổ của nghề phở là ai ? Các ông chủ tiệm phở đều lắc, mặc dù nhờ phở, họ đã có của ăn của để.
 
(Lượm lặt từ Internet)


<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.06.2014 23:51:55 bởi Phù vân >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 03.06.2014 23:32:59
0

Nhạc sĩ Hòang Quốc Bảo và " Khúc Vô Thanh "

Khi những tiếng nhạc của các ca khúc thời “Tịnh Tâm Khúc” bắt đầu rơi vào dòng thời gian miên viễn, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo – sau hơn hai thập niên giữ im lặng – bây giờ xuất hiện trở lại, và cho phát hành đĩa nhạc “Khúc Vô Thanh.”


Phải chăng, khúc vô thanh có nghĩa là cây đàn guitar phải treo lên vách để phơi bụi sau một thời của những tình ca tuyệt vời?

*

Những tình khúc thời xa xưa của Hoàng Quốc Bảo hiện vẫn còn nghe được trên mạng YouTube, trong đó có những tiếng nhạc tha thiết tới mức, như dường là, chỉ cần hát thêm một câu nữa là có thể dây đàn tự động sẽ đứt vì không chịu đựng nỗi các cảm xúc trong hồn.

Cảm giác đó có thể thấy được khi bạn nghe ca khúc “Người Về Như Bụi” – trong đó, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo đã chép xuống những dòng đẹp và buồn như cổ thi, với, “Người về như bụi mờ. Vàng trang sách xưa. Người về như mưa. Soi tìm dấu cũ. Người về như mưa. Người về như mưa. Tôi buồn như cỏ... dại. Một đời héo khô. Lạnh lùng mưa qua...” Cũng như ở các ca khúc khác.

Và bây giờ, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo, xuất hiện trở lại trong trang phục một nhà sư của dòng Thiền Trúc Lâm. Đĩa CD nhạc cầm trên tay nhạc sĩ thiền sư này là “Khúc Vô Thanh,” kèm với tập nhạc in trên giấy đẹp, khổ lớn, kích thước 8X11 inches, dày 72 trang.

*

Làm thế nào có thể nghe được khúc vô thanh? Làm thế nào có thể lắng nghe được những âm thanh không âm thanh?

Mười ca khúc trong CD nhạc “Khúc Vô Thanh” của nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo thực ra là những âm thanh hiếm hoi, âm thanh trong vắt, âm thanh đầy cảm xúc và lặng lẽ của một nhà sư sau những kỳ nhập thất dài ngày, sau khi những bụi mờ trần gian đã bị gió cuốn đi.

Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo giải thích thế nào về “Khúc Vô Thanh”?

Ông viết, trên một bản đề tặng, “Âm nhạc, rộn rã dâng cho người niềm vui, hay vỗ về cho đời vơi nỗi khổ. Nhưng niềm vui nỗi khổ ấy không bền. Khúc Vô Thanh, quay về tịch lặng. Nguyện làm kẻ đồng hành trên con đường giác ngộ, ở mãi với ai biết từ bỏ dục lạc thế gian, hướng về nẻo giải thoát.”

À ha... khúc vô thanh, quay về tịch lặng, hướng về nẻo giải thoát.

Đây là những âm thanh của đạo, âm thanh của tịch lặng được một nhà sư ghi xuống thành nhạc.

*
 

 
Bìa CD nhạc Khúc Vô Thanh của nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo.

Nếu chúng ta nhìn lại dòng văn học nghệ thuật Việt Nam, chúng ta có cảm giác rằng những thanh âm của vô thanh có vẻ như là độc quyền của các nhà sư. Có ai độc quyền được những âm thanh, hay phải chăng là sẽ rất khó bắt gặp được các âm thanh vô thanh, nếu bạn không phải là một nhà sư?

Thí dụ, như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh với những dòng thơ của tịch tĩnh:

Tạ từ xuôi ngược bể dâu
Tạ từ danh tướng sắc màu thế gian
Non sâu đã lặng tiếng đàn
Đêm đêm nguyệt trúc gió ngàn vô thanh...

Kỳ lạ thay, những dòng thơ của nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh cũng như dường đang kể lại cuộc đời của nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo, cũng tạ từ danh tướng trần gian, rồi cũng lặng tiếng đàn hai thập niên, và rồi bây giờ trờ thành nhà sư Thích Đăng Châu để ghi xuống những nốt nhạc vô thanh.

*

Hãy đọc từ “Lời Tựa” trong tập nhạc Khúc Vô Thanh, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo viết, trích:

“Hai phạm trù năng và sở trong vòng Không luân, nhập thành một. Nói khác đi, Bản môn và Tích môn, nhập vào một, đạt tới chỗ Không, cứu cánh tịch lặng...

...thể nhập sâu sắc pháp môn “Phản văn văn tự tánh,” thấy hình tướng và tự táng đều Không, Tịch lặng.

Âm nhạc đạt đến chỗ cứu cánh, tột cùng của nó, cũng vậy, là trở về với nhiên lặng, Không tính...” (trang 5)

Những dòng chữ trên, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo viết vào Mùa Xuân 2014, từ Hải Ngạn Am, ở thị trấn Oceanside, California.

Nhưng tập nhạc và CD nhạc là công trình của nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo trải qua nhiều năm -- từ những cảm xúc cuối thập niên 90s khi bước vào một hiệu bán đồ cổ ở Los Angeles, nhìn thấy tượng thần âm nhạc Apsara của tín ngưỡng Bà la môn, cho tới vài năm sau, khi đi Kampuchia nhìn được các tượng thần Apsara điêu khắc trên đá ở những ngôi đền Angkor Wat... rồi cảm xúc khi hành hương tới Bồ Đề Đaọ Tràng, Ấn Độ, năm 2009, nhìn bóng trăng trên cao lúc 3 giờ rưỡi sáng... rồi cảm xúc khi được nghe vị Ni sư Giải Thiện từ VN sang thăm Thiền Viện Đại Đăng và giảỉ thích cho nhạc sĩ về chữ há trong một câu trên bức hoàng phi “Chân Ngôn Há Xuất Khẩu”...

Tất cả những cảm xúc đó trôi qua trong những ngày thiền định của nhà sư Thích Đăng Châu, và khi nhà sư này một hôm bước ra khỏi thiền đường, ông nhấc cây đàn guitar đầy bụi trên vách xuống, lại nhập vai nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo, chép xuống giấy các nốt nhạc nghe rất mực lặng lẽ– và đó là nhân duyên để hình thành CD nhạc Khúc Vô Thanh.

*

Khúc Vô Thanh, với 10 bản nhạc, có 6 ca khúc là nhạc và lời của Hoàng Quốc Bảo.

Hai ca khúc do Hoàng Quốc Bảo phổ thơ Tuệ Sỹ, một ca khúc phổ thơ Nhất Hạnh, một ca khúc phổ thơ Hoàng Quy (bài thơ Hoàng Quy cũng là diễn theo ý thơ cổ của Bố Đại Hòa Thượng, với những dòng thi kệ bất tử của “Một bát cơm ngàn nhà, thân chơi vạn dặm xa...”).

Trong các nghệ sĩ đóng góp, có phần đàn đệm piano của Tiến sĩ Âm nhạc Đỗ Bằng Lăng, các ca sĩ Quang Tuấn, Kim Tước... và hai vị ca sĩ, cũng là bác sĩ Bích Liên và Hồ Phượng Thư.

Trong tập nhạc, có nhiều tranh cuả Đinh Cường -- một họa sĩ có nét vẽ và các gam màu rất mực tịch lặng. Nơi bìa tập nhạc Khúc Vô Thanh là một tranh Đinh Cường, nơi đó một cành sen mọc lên giữa những mảng màu xanh của trăng và nước.

Một bức tốc họa, do họa sĩ Võ Đình vẽ Hoàng Quốc Bảo nhiều thập niên trước.

Và đặc biệt, Đỗ Hồng Ngọc vẽ tốc họa Hoàng Quốc Bảo, âm bản ở trang 13, và dương bản ở trang 34. Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ nổi tiếng, đồng thời cũng là một trong vài nhà văn viết hay nhất về Phật Giáo. Trong khi hầu hết học giả viết về Đạo Phật chăm chú sử dụng những cái đầu uyên bác (đôi khi kèm với tâm thức cao ngạo), Đỗ Hồng Ngọc đi một hướng ngược lại: họ Đỗ viết về Đạo Phật bằng trái tim, bằng hơi thở đời thường đầy những xương da máu thịt thắm đẫm trong Lời Vàng Đức Phật. Và bây giờ, Đỗ Hồng Ngọc vẽ Hoàng Quốc Bảo, cũng bằng cảm nhận rất mực tịch lặng về Khúc Vô Thanh. Hy hữu. Rất mực hy hữu.

Phụ bản ảnh của Peter Dũng Nguyễn. Thượng Tọa Thích Tâm Chánh nhuận đính bài Tựa.

Và như thế, CD nhạc và tập nhạc Khúc Vô Thanh hoàn tất.

*
 

 
Thủ bút Hoàng Quốc Bảo giải thích về tịch lặng Khúc Vô Thanh.

Nơi đây cũng cần phải nói lên một sự thật trong bài giới thiệu CD nhạc này: tôi đã từng khai thật với nhạc sĩ Trần Duy Đức rằng, “Tớ nói thiệt với bạn, tớ không phải i tờ về âm nhạc đâu, mà thiệt ra là tớ mù chữ âm nhạc. Chỉ nghe hay, thì nói là biết hay, nghe dở, nói dở... nhưng ký âm hay lý thuyết nhạc thì chẳng biết gì hết. Coi tớ như người rừng nghe nhạc cũng được.”

Với tấm lòng đơn sơ đó, tôi đã nghe nhạc Hoàng Quốc Bảo từ nhiều thập niên qua, và cảm nhận theo kiểu riêng của mình.

Bài “Giữa Mùa Trăng,” do Quang Tuấn và Hồ Phượng Thư hát là tuyệt vời. Lời rất mực đaọ học, kèm với những tiếng nhạc như rơi sâu tận trong tim mình:

Nghe ngàn thu trong lá rơi
Trăng vời vợi xanh mắt người
Hạt bụi thời gian ghé chơi
Sinh tử bật lên tiếng cười... (hết trích)

Nhạc hay, lời hay, giọng ca hay. Hiển nhiên rằng, nhạc của Hoàng Quốc Bảo khó phổ cập trong công chúng vì nghĩa cao vời quá. Tuy rằng, nhiều ca khúc trong Khúc Vô Thanh được Hoàng Quốc Bảo sáng tác trước khi xuất gia.

Nói như thế, cũng nên nhắc rằng: phải có đại cơ duyên, phải tu thiện hạnh rất nhiều kiếp mới có thể gặp Đaọ Phật, tin được Đạo Phật. Khó là như thế: Đạo Phật kén tín đồ là thế. Nhạc Hoàng Quốc Bảo cũng tương tự: nhạc của ông kén người nghe.

Nhạc Hoàng Quốc Bảo cũng cao kỳ, hệt như nhạc Cung Tiến, tuy rằng hai nhạc sĩ này ở hai phương trời âm nhạc dị biệt, và đặc biệt độc đáo còn là vì nhạc họ Hoàng mang rất nhiều hình ảnh Kinh Phật.

*

Hoàng Quốc Bảo đã đi một con đường rất mực gian nan, nếu nhìn theo đời thường.

Như những câu mang hình ảnh cửa Thiền trong ca khúc “Quê Nhà”:

“Quê cũ mù sương khói, mưa bụi lầm một cõi biển dâu vô thường, Em hãy làm giọt nước thanh tịnh tràn yêu thương, Làm mưa rơi trên bốn mùa, lòng Không xuân mãn khai hoa... Làm hoa tên em Bát La, nghìn năm dậy hương thái hòa, Làm chuông Từ-tâm thoát xa... ở nơi đâu cũng quê nhà...” (hết trích)

Hình ảnh Thiền vị, kinh điển như thế... làm sao phổ nhạc cho hay được? Vậy mà Hoàng Quốc Bảo làm được theo kiểu của anh. Rất hay, rất lạ.

Ca khúc dài nhất trong CD Khúc Vô Thanh là bản “Tiếng Gầm Sư Tử Lớn” do Hoàng Quốc Bảo phổ thơ Nhất Hạnh. Đây là bài thơ nổi tiếng, nhiều người biết, với hai dòng đầu là “Mây bay... mây trắng bay, Một đóa tường vi nở.”

Trong ca khúc này, có những dòng chữ hẳn là các nhạc sĩ khác sẽ tránh né, trích:

Có Không đều như nhau
Có đã là bịa đặt
Không cũng là bịa đặt
Có Không tạo khổ đau
Có Không cho tôi cười...(hết trích)

Thực sự là khó để phổ nhạc. Nếu bạn đọc kỹ mấy dòng trên, sẽ thấy tất cả hình ảnh đều là trừu tượng, chỉ duy có chữ “cười” là cái gì có thể hình dung ar cụ thể. Bởi vậy, mới thấy dòng nhạc nơi đây đi rất mực gian nan giữa các dòng chữ trưù tượng như thế..

Ca khúc cuối cùng trong tập là bản “Phù Vân Khứ Lai” -- xin mời bạn đọc mấy dòng đầu tiên ca khúc này, trích:

Ngũ uẩn như mây nổi, đi về một cửa Không
Tam độc bọt nước giả, Còn mất mấy hồng trần...
Sắc vốn thực là Không, Không vốn thực là Sắc...
Thọ Tưởng Hành Thức kia, mây bay ngoài cửa động...”(hết trích)

Vậy đó. Diễn lại Kinh Phật bao giờ cũng khó. Nhất là khi dùng âm nhạc.

Quả là hy hữu. Cực kỳ hy hữu.

*

Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo sinh vào mùa xuân năm 1950, tại làng Rãng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, học nhạc từ nhỏ, nhưng khi rời Trung học đã vào Đại học Khoa học Sài Gòn. Trước 1975, từng làm ở Toà Đại Sứ Hoa Kỳ, phân vụ truyền thanh, làm xướng ngôn viên đọc tin tức, bình luận, đọc truyện, đóng kịch truyền thanh, biên tập và Producer cho các đài phát thanh của miền Nam cho đến năm 1975. Sang Hoa Kỳ học nhạc bổ túc đó đây ở các đại học, nhưng rồi mưu sinh bằng kỹ thuật điện toán, làm thảo chương cho Nha Thuỷ Điện thành phố Los Angeles trong khi cuốc đất, làm vườn và thiền quán.

Trong các tác phẩm đã xuất bản, điển hình có: Vườn Tàn Phai, Sài Gòn, 1972; Tịnh Tâm Khúc, Hoa Kỳ, 1984...

Xuất gia với Hòa Thượng Thích Thanh Từ, và hiện đang hành đạo tại Thiền Viện Đại Đăng (www.thienviendaidang.net) ở Quận San Diego.

Quang Tuấn Music Production độc quyền phát hành, xin khách tri âm liên lạc mua qua quangtuanvoice@gmail.com hay phone (714) 468-2367.
 
 Phan Tấn Hải
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.06.2014 23:36:44 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 05.06.2014 23:22:17
0
HẬU DUỆ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
Đại Tá Lương Xuân Việt được thăng cấp Chuẩn Tướng

Gia đình chúng tôi vừa đươc Đại Tá Lương Xuân Việt , Tư lệnh phó Sư Đoàn 1 Không Kỵ của quân đội Hoa kỳ báo tin cho biết , Việt đả đươc Chính Phủ và bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thăng cấp bậc Chuẩn Tướng Lục Quân tư ngày 20 tháng 5 năm 2014 . Đây là môt vị tướng đầu tiên , người Mỹ gốc Việt trong quân lực Hoa Kỳ . Chúng tôi trân trọng thông báo tin vui đên quý liên trưởng , quý chiến hữu , quý đồng hương . Đây là niềm hãnh diện chung cho cộng đông người Việt ty nạn cộng sản của chúng ta 
 
Thay mặt cho gia đình 
 Lê Xuân Vũ

 
Để tìm tên trong danh sách dưới đây , quý vị nhìn vào ở phần giữa trang ở mục: May 20 ,14. PN 1718 Army , đếm từ dưới đếm lên , Việt ở hàng thứ 12
 
pagelayout/legislative/one_item_and_teasers/nom_cmten.htm" target="_blank" rel="nofollow">http://www.senate.gov/pagelayout/legislative/one_item_and_teasers/nom_cmten.htm
May 20, 14 PN1718 Army
 The following named officers for appointment to the grade indicated 
 in the United States Army under title 10, U.S.C., section 624:
 

 Colonel Francis M. Beaudette, to be Brigadier General
 Colonel Paul Bontrager, to be Brigadier General
 Colonel Gary M. Brito, to be Brigadier General
 Colonel Scott E. Brower, to be Brigadier General
 Colonel Patrick W. Burden, to be Brigadier General
 Colonel Joseph R. Calloway, to be Brigadier General
 Colonel Paul T. Calvert, to be Brigadier General
 Colonel Welton Chase, Jr., to be Brigadier General
 Colonel Brian P. Cummings, to be Brigadier General
 Colonel Edwin J. Deedrick, Jr., to be Brigadier General
 Colonel Jeffrey W. Drushal, to be Brigadier General
 Colonel Rodney D. Fogg, to be Brigadier General
 Colonel Robin L. Fontes, to be Brigadier General
 Colonel Karen H. Gibson, to be Brigadier General
 Colonel David C. Hill, to be Brigadier General
 Colonel Michael D. Hoskin, to be Brigadier General
 Colonel Kenneth D. Hubbard, to be Brigadier General
 Colonel James B. Jarrard, to be Brigadier General
 Colonel Sean M. Jenkins, to be Brigadier General
 Colonel Mitchell L. Kilgo, to be Brigadier General
 Colonel Richard C. S. Kim, to be Brigadier General
 Colonel William E. King IV, to be Brigadier General
 Colonel Ronald Kirklin, to be Brigadier General
 Colonel John S. Kolasheski, to be Brigadier General
 Colonel David P. Komar, to be Brigadier General
 Colonel Viet X. Luong, to be Brigadier General
  Colonel Patrick E. Matlock, to be Brigadier General

 Colonel James J. Mingus, to be Brigadier General
 Colonel Joseph W. Rank, to be Brigadier General
 Colonel Eric L. Sanchez, to be Brigadier General
 Colonel Christopher J. Sharpsten, to be Brigadier General
 Colonel Christipher L. Spillman, to be Brigadier General
 Colonel Michael J. Tarsa, to be Brigadier General
 Colonel Frank W. Tate, to be Brigadier General
 Colonel Richard M. Toy, to be Brigadier General
 Colonel William A. Turner, to be Brigadier General
 Colonel Brian E. Winski, to be Brigadier General
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.06.2014 23:26:01 bởi dzuylynh >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 07.06.2014 22:54:21
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN
Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam
thien-an-mon-vne-305B.jpg
Bài báo đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên báo mạng VNExpress trước khi bị gỡ xuống hôm 4/6/2014. RFA Screen Capture

Nam Nguyên, phóng viên RFA


Trong bối cảnh Trung Quốc xâm lấn chủ quyền Việt Nam hạ đặt giàn khoan HD 981 đã hơn một tháng, ngày 4/6/2014 hàng loạt thông tin và hình ảnh kinh hoàng đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên các báo mạng đã đồng loạt bị gỡ xuống.
Nhận định về sự kiện này, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội dân sự phát biểu:
“Rất ngạc nhiên trong việc báo chí đưa tin về một sự thực đã xảy ra đúng một phần tư thế kỷ và người ta không bịa đặt bất kể cái gì, mà cảnh sát tư tưởng ở Việt Nam, tức bên tuyên giáo của đảng cộng sản lệnh cho các báo đã đăng phải rút bài đó xuống. Điều đó chứng tỏ rằng những thế lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn rất chặt với Trung Quốc. Tôi tin chắc chắn là họ nghe theo lệnh của Bắc Kinh để họ làm như vậy.” 

Thái độ của nhà cầm quyền VN

Tin ghi nhận các báo điện tử như VnExpress, Thanh Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Giáo Dục và nhiều trang mạng khác đã phải gỡ bỏ những bài về vụ thảm sát Thiên An Môn 4/6/1989. Bức ảnh 200.000 người biểu tình đòi dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn đầy ấn tượng, hoặc hình ảnh hàng trăm xe tăng mở trận càn giải tán người biểu tình, hình ảnh xác người chết chồng chất trên xe tải, xe kéo, trên đường phố dường như đã chỉ xuất hiện được trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó người đọc không còn truy cập được nữa.
Nhận định về sự kiện báo chí Việt Nam bị gỡ bài và hình ảnh vụ thảm sát Thiên An Môn, nhà báo Nguyễn Quốc Thái nguyên Tổng Thư Ký báo Doanh Nghiệp từ Saigon phát biểu:
Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm được nhớ lại, nhắc lại và đưa trên báo chí và bị gỡ xuống là một điều cần phải suy nghĩ về sự chọn lựa và thái độ của nhà cầm quyền VN trong quan hệ với TQ.
-Nguyễn Quốc Thái
“Vụ Thiên An Môn là một vết nhơ trong lịch sử của Trung Quốc. Những người Trung Quốc tử tế và có lương tâm khi nhớ lại sự kiện này họ đều xấu hổ. Xấu hổ vì văn minh của loài người bị chà đạp, tự do của con người đã bị phỉ nhổ một cách tàn tệ. Việc báo chí Việt Nam mà không đưa được lâu dài thời lượng về vụ Thiên An Môn, tôi nghĩ rằng có thể vì nhà cầm quyền Việt Nam vẫn nói đó là tình hữu nghị giữa hai nước. Nhưng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói là không thể có sự hữu nghị viển vông. Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm được nhớ lại, nhắc lại và đưa trên báo chí và bị gỡ xuống là một điều cần phải suy nghĩ về sự chọn lựa và thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc.”
Bên cạnh việc sợ mất lòng Trung Quốc, có những ý kiến cho rằng Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam lo ngại hình ảnh hàng trăm ngàn người biểu tình đòi dân chủ ở Thiên An Môn và bị đập tan bằng vũ lực, còn có thể tác động lên phong trào biểu tình vừa phản kháng Trung Quốc vừa đòi dân quyền ở Việt Nam. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái nhận định:
“Ông nghĩ là những hình ảnh đó che dấu được nhân dân Việt Nam sao? Không một tờ báo, không một mạng truyền thông nào đưa hình ảnh đó lên thì từ 25 năm qua những hình ảnh đó vẫn không rời khỏi tâm trí người Việt Nam yêu tự do và dân chủ. Tôi không nghĩ đưa hình ảnh đó lên hay không đưa hình ảnh đó lên là một sự lựa chọn khôn khéo của nhà cầm quyền. Bởi vì nhà cầm quyền biết rằng không thể nào che dấu được hình ảnh bi tráng đó ở quảng trường Thiên An Môn cách đây 25 năm, nghĩ rằng những hình ảnh đó được chuyển tải lại trong lúc này thì không thích hợp với tình hình ở Việt Nam. Tôi nghĩ suy nghĩ đó là một suy nghĩ non nớt.”

Không tuân thủ hiến pháp?

 
thien-an-mon-vne-250B.jpg
Màn hình sau khi chính quyền Việt Nam cho gỡ Bài báo đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên báo mạng VNExpress hôm 4/6/2014. RFA Screen Capture.

 
Một ngày sau thời điểm 25 năm sự kiện Thiên An Môn mà báo chí bị gỡ bài, chiều 5/6/2014 Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức họp báo quốc tế ở Hà Nội để cập nhật tình hình Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam kéo dài đã hơn 1 tháng. Người phát ngôn Lê hải Bình cho biết phía Trung Quốc vẫn tiếp tục và có hành vi hung hăng hơn và cũng đưa ra những luận điệu sai trái về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Tại cuộc họp báo, các giới chức Việt Nam đã trả lời vòng vo câu hỏi của các nhà báo nước ngoài, về việc chính quyền ngăn cản người dân biểu tình phản kháng Trung Quốc. Ông Lê Hải Bình phủ nhận việc này và nói rằng người dân Việt Nam hoàn toàn có quyền biểu thị lòng yêu nước của mình theo đúng qui định pháp luật. Khi được hỏi thế nào là biểu tình đúng pháp luật ông Lê Hải Bình nói rằng Việt Nam có những qui định pháp luật về biểu tình.
Nhận định về vấn đề vừa nêu TS Nguyễn Quang A từ Hà Nội phát biểu:
“Sở dĩ mà họ phải nói lắt léo như vậy là vì họ không dám thừa nhận rằng họ không muốn có bất kể một cuộc biểu tình nào. Trong khi quyền biểu tình được hiến định rành rành từ các Hiến pháp trước chứ không phải chỉ từ Hiến pháp bây giờ. Thay vì họ phải ra Luật để tạo điều kiện cho người dân được biểu tình một cách văn minh thì họ không làm như vậy. Họ ra một Nghị định mà Nghị định ấy thực sự là cấm biểu tình, họ gọi là tụ tập đông người. Như vậy lỗi hoàn toàn thuộc về nhà cầm quyền họ đã coi thường người dân, coi thường quyền của người dân. Họ đã không làm được chức năng chính của họ là tuân thủ Hiến pháp tuy rằng còn chưa ra gì do chính họ thông qua.”
Đáp câu hỏi của chúng tôi, nghĩ gì về những lời tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình xác định là nhà nước không cấm dân chúng biểu tình, khi mà cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc dự kiến vào ngày 18/12014 đã bị dẹp từ trong trứng nước. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái thuộc nhóm nhân sĩ trí thức TP.HCM, người từng tham gia nhiều cuộc biểu tình phản kháng Trung Quốc và bị trấn áp phát biểu:
“Tôi không nhắc đến ngày 18/1/2014 hôm đó không có một cuộc biểu tình nào xảy ra ở Việt Nam, bởi vì trước đó nhà nước đã dùng tất cả các phương tiện truyền thông sẵn có trong tay và cơ quan an ninh khuyến cáo nhân dân không xuống đường vào ngày đó. Nhưng những cuộc xuống đường trước ngày 18/1/2014 và trong ba năm trở lại đây không có một cuộc biểu tình chống Trung Quốc nào được lực lượng an ninh của Việt Nam yểm trợ cả. Chắc ông có thể nhìn thấy cảnh những người biểu tình bị đàn áp đánh đập, thậm chí chưa đi biểu tình cũng bị đàn áp đánh đập như cá nhân tôi chẳng hạn. Như vậy nói không có đàn áp người biểu tình là nói dối nhân dân. Bởi nhân dân họ chứng kiến những người xuống đường bị đàn áp, bị đánh đậy bị bắt giữ, hà cớ gì phải chối những điều mình đã dám làm, thiếu một sự dũng cảm đó là điều đáng khinh.”
Họ đã coi thường người dân, coi thường quyền của người dân. Họ đã không làm được chức năng chính của họ là tuân thủ Hiến pháp tuy rằng còn chưa ra gì do chính họ thông qua.
-TS Nguyễn Quang A
Tại cuộc họp báo ngày 5/6 tại Hà Nội, trả lời câu hỏi của hãng thông tấn nước ngoài là phía Việt Nam có kỳ vọng vào Mỹ sẽ đóng vai trò hỗ trợ Việt Nam bảo vệ chủ quyền của mình. Người phát ngôn Lê Hải Bình đáp lời rằng: “Việc duy trì ổn định, an ninh và an toàn hàng hải của khu vực là lợi ích, là nghĩa vụ của tất cả quốc gia liên quan trong và ngoài khu vực.
Mỹ là cường quốc của thế giới, cùng với cộng đồng quốc tế, Mỹ cũng có tiếng nói nhằm ổn định an ninh khu vực. Chúng tôi mong muốn Mỹ có hành động mạnh mẽ hơn, đóng góp vào an ninh, an toàn hàng hải khu vực, giải quyết tranh chấp của khu vực thông qua luật pháp quốc tế.”
Có mặt trong cuộc họp báo ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia khi trả lời bao chí đã hàm ý cho thấy ít có khả năng Việt Nam khởi động biện pháp lý đối với Trung Quốc. Ông Hải nói các vụ kiện quốc tế đều rất phức tạp, nếu chủ tàu Đà Nẵng kiện Trung Quốc là vụ án dân sự. Nhưng vụ giàn khoan liên quan đến chủ quyền, cần chọn phương án nào tối ưu nhất bảo vệ quyền lợi đất nước.
Nhận định về vấn đề vừa nêu, TS Nguyễn Quang A từ Hà Nội phát biểu:
“Cũng tương tự như chuyện về Thiên An Môn, tôi nghĩ rằng chắc chắn phải có ý kiến của Bắc Kinh thì người ta mới run sợ và người ta bảo báo chí phải rút xuống. Có lẽ cũng tương tự như thế Bắc Kinh như ông tướng Vịnh đã nói, Bắc Kinh nhiều lần yêu cầu Việt Nam là không được đưa ra kiện. Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.”
Công luận Việt Nam đang đặt câu hỏi với đảng Cộng sản và nhà nước về các biện pháp tiếp theo mà cho đến nay chưa hé lộ. Vì đã hơn 5 tuần lễ, Trung Quốc vẫn duy trì giàn khoan trong vùng biển chủ quyền Việt Nam, đã khoan thăm dò và dịch chuyển đến vị trí khác vẫn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Người dân lo ngại nhịn nhục mãi, coi chừng chẳng còn tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển nào lành lặn mà chấp pháp trên biển.
Giới học giả và trí thức nói rằng, những biện pháp tiếp theo có gì bí mật đâu mà không thể công bố, hay nó cũng bí mật như thỏa thuận Thành Đô 1990 giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bí mật gì ghê gớm đến vậy, khiến Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lúc đó từng phải thốt lên: “Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự.”


Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 19.06.2014 12:28:37
0


http://chinhhoiuc.blogspot.com.au/2012/09/gop-nhat-buon-vui-thoi-ieu-linh-ot-sach.html?spref=fb
Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Đốt sách
“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.
Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.
Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.
Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà cả nhân loại lên án.
Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.
***
Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.
Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.
Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.
***
Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư bản’.
Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.

Xuống đường Bài trừ Văn hóa Đồi trụy & Phản động trong thời điêu linh
Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…
Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm...
Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê.... Phê bình văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh...
Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh...
Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa thiêu.
Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:
“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.
Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long nhưLoan mắt nhungKinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.
Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.
Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.
Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng nhưDzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.
Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:
“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.
Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản...
Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’...”
Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gònvới tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miền Nam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm),  Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và  Khuất Duy Trác cùngTrần Ngọc Tự (8 năm).  
Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ởRừng Phong (Virginia) trên blog http://hoanghaithuy.wordpress.com/
Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.

Nhật báo Tiếng Chuông
Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?
Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.
Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/62).

Tạp chí Sáng Tạo (1958)
Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.
Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc.... Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.

Tạp chí Bách Khoa (1962)
Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc... Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.

Tạp chí Văn
Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.
Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.
Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.
Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời MớiNhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy...). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ MớiBách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường...

Nhật báo Tiền Tuyến
Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trênTin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.
Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang...
Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức...”
Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch... Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.
Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam... đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.
Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo... cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.
Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long... Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.

Nhà văn Chu Tử qua Vũ Uyên Giang
Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài' văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…
Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn ‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề’…

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ dưới mắt họa sĩ Chóe

Nhà văn Túy Hồng dưới mắt họa sĩ Chóe

Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng dưới mắt họa sĩ Chóe
Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.
Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.
Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là phụ.
Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…
Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng thì chưa”.
Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) và tạp chíThế giới Tự do được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.
Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.
Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.
Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes, Hamletcủa William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe, The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of  Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…

Sách do Asia Foundation tặng
Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng...
Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.
Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:
Năm nay đào lại nở
Không thấy sách báo xưa
Ngọn lửa nào năm cũ
Lạc về đâu bây giờ?





<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.06.2014 12:31:06 bởi Phù vân >

Thay đổi trang: << < 222324 > >> | Trang 22 của 29 trang, bài viết từ 631 đến 660 trên tổng số 867 bài trong đề mục