TNP rón rén dzô đây đóng góp một bài sưu tầm vể Thơ Đường Và thơ Đường Luật … xin nói rõ không có mục đích khen hay chê bất cứ anh chị em nào trong diễn đàn này .. chỉ là làm sáng tỏ hơn một vấn đề về Thơ Đường Và Thơ Đường Luật
Thơ Đường và thơ Đường Luật
Lời Phi Lộ
TNP nói ngay từ đầu … những điều TNP thâu thập và viết ra dưới đây …đều góp nhặt từ các sách vở … Cá nhân TNP …. không “sính” về thơ Đường Luật tuy thỉnh thoảng cũng viết chọc ghẹo bạn bè …
Đối với các nhà nho …. Khi nhắc tới thơ tàu … là họ nghĩ đến Thơ Đường hay còn gọi là Đường Thi. Tất cả các nhà phê bình văn học đều công nhận đời Đường (618-907) là thời đại hoàng kim của Thi ca Trung Quốc. Bộ Đường Thi toàn tập được ấn hành năm 1707 gồm 900 quyển, họp thành 30 tập, chép lại 48,900 bài thơ của hơn 2,200 thi nhân đời Đường .
Học giả Trần Trọng San trong sách Thơ Đường, Poems of The Tang Dynasty, đã ghi chú thêm về lịch sử bộ Đường Thi Toàn Tập như sau :
Lịch sữ bộ Đường Thi Toàn Tập: Đời Tống, Kế Hữu Công soạn bộ Đường Thi kỷ sự, gồm 81 quyển, chép thơ của 1,150 tác giả.
Đời Minh, Cao Bình soạn bộ Đường Thi Phẩm Vựng, gồm 90 quyển, chép lại 5,700 bài thơ của 620 tác giả, sau lại bổ sung hơn 900 bài của 61 tác giả, làm thành 10 quyển Thập Di.
Năm 44 Niên hiệu Khang Hi, Đời nhà Thanh (1705), vua Thánh Tổ dùng bộ Đường Ân Thống Thiêm làm căn bản và đem Toàn Đường thi tập chứa trong nội phủ ra, sai soạn thành bộ Đường Thi Toàn Tập, ấn hành vào năm 1707 .
Học giả Trần Trọng San trong cuốn Thờ Đường (Poems of The Tang Dynasty) chia Thơ đời Đường ra làm 4 giai đoạn
*Thời Sơ Đường (618-713)
*Thời Thịnh Đường (713-766)
*Thời Trung Đường (766-835)
*Thời Văn Đường (836-907)
Theo Đường Thi Toàn Tập thì Đường Thi … hay Việt Nam thường gọi là Thơ Đường thì muốn gọi là Đường Thi, các bài thơ:
- Phải được viết trong khoảng thời gian từ năm 618 tới năm 907
- Phải là một trong 48,900 bài thơ Đường đuợc liệt kê trong Đường Thi Toàn Tập
Tất cả những bài thơ khác, dù là thơ chử hán không hội đủ các điều kiện trên, đều không đuợc gọi là Thơ Đường mà gọi là Thơ Đường Luật. Tất các thơ tầu đời Tống, đời Nguyên, đời Minh, đời Thanh … dù theo đúng niêm luật của Đường Thi …. Cũng không được gọi là Thơ Đường
Quan niệm của TNP: Thơ Đường là để chỉ các thơ vào thời đại Nhà Đường bên Tầu còn thơ quốc ngữ các huynh đài viết ỡ trên, nên gọi là Thơ Đường Luật cho chính danh …
Các Thể Thơ trong Đường Thi: Theo Đường Thi Tam bách Thủ (300 bài Thơ Đường tiêu biểu) là cuốn sách hợp tuyển gồm những bài thơ được cho là tiêu biểu của thi ca đời Đường. Ta có thể căn cứ vào sự phân loại này trong sách lấy thể thơ làm chuẩn, chia Thơ Đường làm sáu (6) loại như sau :
1- Ngũ Ngôn cổ thi
2- Ngũ Ngôn thi luật
3- Ngũ Ngôn tuyệt cú
4- Thất Ngôn cổ thi
5- Thất Ngôn thi luật
6- Thất Ngôn tuyệt cú
Cổ thể hay Cổ Phong : thể thơ này không có luật lệ nhất định, không hạn chế số câu. Cách gieo vần rộng rãi, uyển chuyển, có thể dùng độc vận (1 vần) hay liên vận (nhiều vần) hay không liên vận.
Cận Thể hay Kim thể : Người đời Đường gọi lối thơ tuyệt cú và lối thơ luật là Cận thể hay Kim thể … để phân biệt với Thơ Cổ Phong đã nói trên.
Luật Thơ: Tiền Mộc Yêm, tác Giả sách Đường Ẩm Thẩm Thể viết rằng : “luật đây là sáu luật, là luật hoà hợp âm thanh. Luật Thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, nghiêm ngăt chặt chẽ, không được vi phạm”
a- Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết
b- Trong khoảng 2 câu liền nhau. Sự đối ngẫu cần phải khéo.
c- Trong một bài, âm thanh cần chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm
Tóm lại, ba điều kiện của Luật Thơ là Niêm, Luật và Đối.
Một bài Đường Thi hoàn chỉnh dùng trong việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám (8) câu , hoặc Ngũ Ngôn Luật Thi (5 chữ) hay Thất Ngôn Luật Thi (7 chữ), phải theo những quy tắc nhất định về Niêm Luật : đó là bốn câu 3, 4 và 5, 6 phải đối nhau từng đôi một.
Tuy nhiên, Ta thấy rằng ngoại trừ khi ứng chế hay ứng thí, Các thi nhân đời Đưòng thường dùng thể Luật Thi một cách uyển chuyển rộng rãi.
Ngoài những bài Đường Thi có 4 câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc 8 câu toàn đối, hoặc 6 câu , hoặc 2 câu đối nhau, không nhất định.
Về Niêm, cũng có những bài không giữ đúng lệ (thất Niêm)
Về Luật, sự sữ dụng “ảo cú” làm quy tắc bớt chặt chẽ, câu thơ có âm điệu biến đổi bất thường, Ảo Cú là câu thơ trong đó chữ dáng vần Bằng đổi thành vần Trắc, hay đang Trắc đổi ra bằng, không theo cách thường. Thí dụ
Ngã ký sầu tâm
dữ minh nguyệt
Tùy quân trực đáo Dạ-Lang tây
(Lý Bạch)
Lòng sầu ta gửi cùng trăng sáng
Theo gót người đi đến Dạ-Lang
(Trần Trọng Sang dịch)
hoặc là
Ánh giai bích thảo
tự xuân sắc
Cách diệp hoàng ly không hảo âm
(Đỗ Phủ)
Soi thềm, cỏ biếc còn tươi thắm
Cách lá, oanh vàng vẫn hót hay
(Trần Trọng San dịch)
Về Vận: Thơ Đường Thi bắt buộc phải dùng vận chính, không được dùng vận thông hay vận chuyển, căn cứ vào cuốn quy định vận bộ do triều đình ban hành. Đời Đường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, rồi cuốn “Đường Vận” của Tôn Miễn… bổ khuyết cho sách trên.
Về việc dàn ý: Thơ Đường có bố cục như sau :
- Các câu 1 và 2 là Khởi
- Các câu 3 và 4 là Thừa
- Các câu 5 và 6 là Chuyển
- Các câu 7 và 8 là Hợp
Ngoài câu đầu và câu kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có luật lệ nhất định. Chỉ trong các khoa thi về sau, các bài Đuờng Thi mới có bố cục chật hẹp là Phá, Thừa, Thực, Luận, Kết….
Tuyệt Cú: Trong dân ca đời Lục Triều, đã thấy các bài thơ bốn câu năm chữ hoặc bẩy chữ. Các nhà thơ mới phỏng theo đó mà làm ra những bài 4 câu Ngũ Ngôn, Thất Ngôn.
Đến đời Đuờng, lối viết thơ 4 câu này rất thịnh hành và được gọi là “Tuyệt Cú”. Sau khi có Luật Thi, lối tuyệt cú vô hình trung đồng hoá trong thể thơ này. Vì thế người ta thuờng ngộ nhận tuyệt cú là bài thơ do sự cắt bài Luật Thi mà thành.
Tứ có nghĩa là bốn; Tuyệt có nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài thơ bát cú (8 câu) mà thành (GS Dưong Quảng Hàm-Văn Học Việt Nam). Do đó thơ tuyệt cú cũng phải tuân theo những quy tắc vè Niêm, Luật, Vận như Luật Thi, và cũng có hai thể là Ngũ Ngôn tứ tuyệt và Thất Ngôn tứ tuyệt.
Chính vì sự mơ hồ về nguồn gốc của thơ Tứ tuyệt mà phát sinh một cách giải thích khác về chữ “Tuyệt” .... Theo Bùi Kỷ- Quốc văn cụ thể, … “Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một địa vị đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiểm thâm, ẩn hiện, chính kỳ, khởi phục đủ cả nên gọi là Tuyệt” ... Bài Khuê Oán của Vương Xương Linh là thí dụ điển hình của bố cục thể thơ này.
Khi làm thơ tuyệt cú, các thi nhân đời Đường cũng có thái độ như khi làm thơ Đường Luật, nghĩa là không chịu sự câu thúc chặt chẽ của quy tắc.
Trên đây là những phần TNP góp nhặt được trong khi đi sưu tầm định nghĩa Đường Thi .....
Các sách tham khảo: - Micro film của Đường Thi toàn tập …
- Đường Thi tam Bách Thủ
- Thơ Đường (Poem of The Tang Dynasty) Tác giả Trần Trọng San
- Văn học Việt Nam- tác giả GS Dương Quảng Hàm
TNP