PHÊ BÌNH & TIỂU LUẬN THI CA - Phạm Ngọc Thái
Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 47 bài trong đề mục
Nhân văn 03.10.2014 23:35:43 (permalink)
 
                                             PHẠM NGỌC THÁI

                                                                            
                                                PHÊ BÌNH  
                            &             
                TIỂU LUẬN THI CA

 
  


                       Phê bình và tiểu luận thi ca


             

                              
                                                                      
                          NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ THÔNG TIN
                                             Hà Nội - 2013

   
 
 
 
 
 
             
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.11.2022 21:25:03 bởi Nhân văn >
#1
    Nhân văn 03.10.2014 23:45:54 (permalink)
     
     
              Lời giới thiệu đầu sách:
     
                               PHẠM NGỌC THÁI NHÀ THƠ CỦA TỰ DO



     kí họa chân dung nhà thơ Phạm Ngọc Thái
                                                                                                             Anh Trần 
        Tuy là một nhà thơ tự do nhưng Phạm Ngọc Thái có chân dung văn học mang  tầm vóc lớn trong thi ca. Ông đã sáng tác được một khối lượng đồ sộ thơ tình hay, ghi dấu ấn riêng biệt của ông trong lòng người yêu thơ. Với hàng bậc của các nhà thơ hiện nay, ta có thể khẳng định rằng: Ông là một trong những nhà thơ tài năng bậc nhất ở đương đại này.
         Như nhà bình luận Nguyễn Đình Chúc trong bài "Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc", đã nói về ông như sau:
    -  Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đã đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta.
         Đặc biệt là thơ tình: dù ký ức về tình thuở ban mai hay buổi hoàng hôn... khi nhà thơ đã vào tuổi hoa niên, cũng đều tha thiết và tiếc nuối. Chưa từng có thi nhân nào viết được nhiều thơ tình hay đến thế! Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc. Một nhà thơ tình hiện đại sâu sắc. Rồi mai sau ông có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn học nước nhà - Trong đó có đến vài chục tình thi của ông đạt vào cung bậc các tình thơ hay vô giá...
           Đọc "Phê bình & tiểu luận thi ca", độc giả hoàn toàn có thể nhận ra được những giá trị đó. Bài viết của tác giả Nguyễn Đình Chúc về Phạm Ngọc Thái cũng được in trong tập sách này, đồng thời cũng đã được đăng trên vài chục website văn học - từ trong nước sang Âu Châu, tới Mỹ và đến Toà báo Việt Nam Úc.
         Không chỉ thế - Phạm Ngọc Thái còn là một tay bút bình luận thi ca sắc sảo. Văn của ông súc tích, hấp dẫn cũng như thơ ông, nó có hồn và giàu cảm xúc để lôi cuốn lòng người. Đọc tập "Phê bình & tiểu luận thi ca", bạn sẽ thấy cả một thế giới thơ huyền diệu với những lời bình sắc sảo đã được chau chuốt, gọt giũa… rất đáng chiêm ngưỡng.
         Dù đó là bài ông bình cho đời hay đời bình thơ hay của ông, đều hiện lên một thi nhân Phạm Ngọc Thái đầy tài hoa. Ông đã để lại cho nền văn hiến Thăng Long một khối lượng thơ hay rất lớn, với những giá trị nghệ thuật văn học tuyệt vời. Những năm qua trên văn đàn các trang mạng Việt toàn cầu, thơ ca và những bài bình luận của ông được đăng rất nhiều, danh tiếng cùng chân dung thi nhân ông đã vang khắp. 
         Về cuộc sống đời thường - Phạm Ngọc Thái là một người vô cùng giản dị, sống rất đạm bạc. Ngày ngày, ngoài việc cùng với người vợ của mình bươn bả vì miếng cơm, manh áo, ông lại tìm đến bầu bạn với văn chương. Ông chính là tác giả của hai tập thơ có tiếng tăm được nhiều người biết đến:

    -  Tập "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009 thật đặc sắc… và tập "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hoá Thông tin 2012 với 298 tình thơ, dày 400 trang. Trong đó nhiều thi phẩm hay hoặc đạt độ kỳ thơ.
         Hiện nay ông đang cùng gia đình sống trong một ngôi nhà nhỏ gần bên hồ Tây, cạnh một ngôi đền cổ. Một hồ nước đã từng có nhiều dấu ấn trong thi ca của các thi nhân xưa nay, như thi sỹ Tản Đà từng ca ngợi:
                         Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi,
                         Đêm thu vằng vặc bóng theo người
                         Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước
                         Tri kỷ trông lên đứng tận trời.

                                     (Tây Hồ vọng nguyệt)
         Hay bà Hồ Xuân Hương cảm xúc trong bài "Chơi Tây Hồ nhớ bạn":
                         Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
                         Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thờ,
                         Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng
                         Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ.
         Với nhà thơ Phạm Ngọc Thái, hồ Tây cũng ghi lại rất nhiều những hình ảnh chan chứa trong thơ ông, còn là nơi lắng đọng nhiều kỷ niệm tha thiết của tình yêu. Như ông viết:
                         Anh ở hồ Tây mênh mông sóng vỗ
                         Vẫn thấy bóng em trong màu hoa thương nhớ
                         Ôi, màu hoa son sắt trái tim em
                         Cái màu tím buồn của những cuộc ly tan!
         Một số bài rất đặc sắc khi trái tim nhà thơ thao thiết ở bên hồ, như: Một góc hồ Tây, Tình thơ gặp lại ở Tây hồ, hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây" – là một bài thơ tình khá hay, viết vào lúc tuổi thi nhân đã xế chiều, mái tóc trên đầu cũng điểm nhiều sợi bạc:
                        Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại
                        Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
                        Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi
                        Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi...
         Vào những tháng năm trước, giai đoạn nhà thơ được biệt phái ra công tác ở nước ngoài, kết hợp làm kinh tế - Lúc nào ông cũng nghĩ về quê hương, nhớ đến gia đình và những người thân. Ông đã sáng tác cả một tập thơ “có một khoảng trời”, Nxb Hà Nội 1990 chỉ viết về vợ con. Trong đó - hình ảnh hồ Tây, mái phố, bóng đa, ngôi đền cổ… thường da diết trong ký ức ông mỗi khi nhớ cố hương. Như những hình ảnh được khắc hoạ trong bài "Tiếng hát đời thường"… gửi về cho người vợ hiền ở quê:

                       Trong một phố nghèo có người vợ trẻ
                       Vẫn đón con đi, về… như thường lệ
                       Vóc em thanh cũng thể mùa xuân
                       Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen.
                       Ngôi nhà nhỏ bên đền
                       Gốc đa, quán báo
                       Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*)
                       Đêm hồ nước trăng soi
                       Chiều lá me, lá sấu
                      Cung thành xưa dấu đại bác còn…(*)



     

       Tôi chỉ xin viết ít lời giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm. Đọc “Phê bình & tiểu luận thi ca”, tập sách sẽ nói đầy đủ hơn, mãnh liệt hơn, cũng như sự thuyết phục còn hơn bất cứ một lời ca ngợi nào.
         Mong rằng tác phẩm sẽ mở ra cánh cửa để bạn đọc có dịp khám phá một tâm hồn sâu sắc, một trí tuệ tài năng và mang đến cho mọi người sự đam mê, hấp dẫn trên từng trang sách - cùng những giá trị tinh thần vô hạn trong văn học và cuộc đời.
                A.T
    NS Sân khấu & Điện ảnh HN

     ---------------------
     
    (*) Đó là những biểu tượng gắn liền trong truyền thuyết của dân tộc: Hình ảnh một thuở nào bà Thị Lộ đi bán chiếu gon ở Tây Hồ đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người - Rồi hình ảnh cổng thành Thăng Long phía bắc vẫn còn in dấu đạn đại bác của giặc Pháp bắn vào. Khi thành Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết.
         Tất cả đã vào trong thơ ông cùng với nỗi thương nhớ quê nhà.


     
                                               
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.11.2022 21:03:00 bởi Nhân văn >
    #2
      Nhân văn 03.10.2014 23:56:58 (permalink)
       
       
                                      Phần I 


                                   
       
                   
                   BÌNH THƠ & TIỂU LUẬN
        
                                             ---------------------------------------------------------------                            


         
                     THI PHÁP THƠ HÀN MẶC TỬ
                      QUA "Mùa xuân chín"
                                          
                  MÙA XUÂN CHÍN
       
      Trong làn nắng ửng khói mơ tan
      Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
      Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
      Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.

       
      Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
      Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
      - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
      Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

       
      Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
      Hổn hển như lời của nước mây…
      Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
      Nghe ra ý vị và thơ ngây…

       
      Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
      Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
      - Chị ấy năm nay còn gánh thóc
      Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

                                           Hàn Mặc Tử


      Lời bình:   “Mùa xuân chín” được rút ra từ thơ điên của Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có nhận xét bao quát về mảng Hương Thơm này như sau:
      -  Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói.
          Nhưng đã xem Mùa Xuân Chín ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa. Mạch thơ cũng tách bạch ra khỏi hẳn cõi sao trăng, ảo tình sương khói ấy:

                          Trong làn nắng ửng khói mơ tan
                           Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

           Đây hẳn là những mái nhà đã được lợp bằng rạ vẫn còn mới ở thôn quê, bởi những sắc màu của rơm rạ còn ánh lên lấm tấm vàng, dưới làn nắng sớm ban mai. Cảnh thơ như bức gấm thêu, đây đó vấn vương vài làn sương mỏng. Toát lên tấm tình của thi nhân với nơi thôn dã rất thân thiết. Đến hai câu sau đó:
                           Sột soạt gió trêu tà áo biếc
                           Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang

             “…tà áo biếc” ở đây để chỉ cái dáng xanh mềm mại của giàn thiên lý, khi gió thổi qua giàn mới phát ra tiếng kêu “sột soạt”. Nếu gió thổi ngoài trời: nhẹ thì hiu hiu, vi vút… gió to sẽ rít lên ào… ào…
           Nhưng cũng chưa hẳn là khi gió thổi qua giàn thiên lý có tiếng kêu “sột soạt” như thế? vì giống lý lá nhỏ, âm điệu chỉ reo… reo… thôi. Hai tiếng “sột soạt” như tiếng của những tấm áo cánh mỏng, mặc hơi căng cọ mài lên da thịt của các nàng thôn nữ mà phát ra vậy. Cảm giác ấy đã dấy lên trong tâm thức của thi nhân để vận vào tả cảnh giàn cây. Chất thơ hơi da thịt này cũng thường có trong Hàn Mặc Tử (HMT)! Các hình tượng thơ miêu tả, nhưng lại đầy cảm giác tình ái. Nào thì “gió trêu”; âm thanh “sột soạt”; còn giàn thiên lý lại được ví như “tà áo biếc" - Thành thử thơ tả thực mà rất sống động.
           Tất cả những hình ảnh: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh lấm tấm vàng, thiên lý và gió… hòa hợp, được khoác lên chiếc áo tân thanh mùa xuân mà tạo thành “bóng xuân sang”. Sang đoạn thơ thứ hai:
                          Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
           “cỏ” gặp gió lượn thành sóng, nghĩa là cỏ mọc đã hơi cao. Ở đây ta liên tưởng tới một câu thơ của cụ Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời /- “xanh rợn” là cỏ mới chỉ mọc nhú, lún phún. Nhưng cả một miền cỏ dầy, phẳng, non mướt và xa hút tạo nên một độ sắc gai người, tựa thể sờ vào có thể đứt tay. Còn “sóng cỏ xanh tươi” trong câu thơ HMT thì màu xanh đã lả lướt để “gợn tới trời ” chứ không ” rợn” như trong thơ cụ Nguyễn Du. Vậy là, tuy cũng tả về miền cỏ hút đến chân trời… nhưng miền cỏ trong thơ HMT vẫn mang sắc thái riêng.
                           Bao cô thôn nữ hát trên đồi
                           - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy:
                           Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

           Một mảng đời sống dân gian đã tràn vào trong bức tranh cảnh mùa xuân của Ông: rằng, ngày mai trong đám xuân xanh ấy… có kẻ lấy chồng, theo chồng – sẽ không còn sự vô tư, nhàn nhã mà đi dạo mùa xuân như thế nữa! Ý nói “bỏ cuộc chơi”, nhưng câu thơ chưa hẳn đã phải là nuối tiếc cho cô thôn nữ kia, mà chính trong lòng thi nhân đang nuối cảm? Bộc lộ một tâm trạng bâng khuâng, hiu hắt, có phần xa xót. Bệnh tật đã không cho Ông được hưởng cái hạnh phúc đời thường ấy! Cảnh đời thanh thái của mùa xuân ấy như thể đã cách xa hàng thế giới. Cái ước muốn nho nhỏ: có một tổ ấm gia đình, vợ chồng hạnh phúc… với Ông cũng không bao giờ có. Tâm khảm thi nhân dồn vào tình thơ đằm thắm, thiết tha. Đến đoạn thơ ba:
                          Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi 
           Thơ nghe như lời đồng dao chốn dân gian:

                          Hổn hển như lời của nước mây…
                          Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
                          Nghe ra ý vị và thơ ngây…

          Trước cảnh xuân đẹp chứa chan, không phải là nước mây “hổn hển” đâu, chính là lòng thi nhân đang hổn hển…
          Đến đây tôi xin nói ít lời về thi pháp tượng trưng trong thơ hiện đại Pháp mà HMT đã ảnh hưởng khá sâu sắc. Thơ tượng trưng của nền thơ hiện đại Pháp nửa sau thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX (dựa theo tuyển dịch và giới thiệu của Đông Hoài, Nxb Văn học 1992), là thứ thơ diễn tả theo phép loại suy - Tức là quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, nhìn nhận mọi sự vật bằng biểu tượng. Nhưng trường phái thơ tượng trưng Pháp được hình thành và phát triển theo khuynh hướng của hai thuyết tương ứng: tương ứng cảm quan và tương ứng trí năng.
           Về thuyết “Tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire (1821-1867) khởi xướng. Ông là tác giả của tập “Những bông hoa ác” nổi tiếng. Ông đã được các nhà thơ sừng sỏ nhất trong văn học hiện đại Pháp coi là bậc thầy mở đường, nhà tiên khu của trường phái thơ tượng trưng. Baudelaire đã từng định nghĩa trong “Tương ứng”, một trong sáu bài thơ danh giá nhất của ông như sau:
                           Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó
                                                                                những cột sinh linh
                           Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ,
                           Con người đi trong thiên nhiên qua những rừng biểu tượng
                           … Hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng.

           Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người – cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, nhưng dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ…
           Thuyết “Tương ứng trí năng” – Người tiêu biểu là Stéphane Mallarmé (1842-1898), cũng là một nhà thơ Pháp đứng đầu trường phái tượng trưng đã chủ xướng. Quan điểm cơ bản về thuyết “Tương ứng trí năng” của Mallarmé là: Biểu tượng được tượng trưng phải rành mạch, rõ ràng, bằng một sự áp đặt hợp lý của lý trí, chứ không theo khuynh hướng cảm quan như Baudelaire.
           Nhớ tới lời của cố Chế Lan Viên đã viết tựa trong Tuyển thơ Hàn Mặc Tử xuất bản 1988 rằng:“Tử trong thời gian chúng tôi gần, chỉ thấy Anh nói về Baudelaire…”! Bởi vì những yếu tố thơ tượng trưng được HMT sử dụng rất nhiều, đã nhuần nhuyễn trong thi pháp thơ Ông, nhưng hầu hết đều theo khuynh hướng “Tương ứng cảm quan” của Baudelaire.
           Trở lại với Mùa Xuân Chín – Những câu thơ: “hổn hển như lời của nước mây”, “tiếng ca vắt vẻo”, “sột soạt gió trêu tà áo biếc”, rồi cả đến câu thơ cuối cùng: “sông trắng nắng chang chang”… đều là những hình ảnh của thơ tượng trưng cảm quan, để bộc lộ thay cho tâm trạng, tình cảm con người, hay một hiện thực đời sống. Ngay đến tên đề của bài thơ: Mùa xuân chín, cũng mang tính tượng trưng đó rồi. Trong nhiều bài thơ khác của Hàn Mặc Tử ta cũng hay gặp những yếu tố của loại thơ tượng trưng này. Thí dụ:
                          Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
                           Đợi gió đông về để lả lơi…

           Hay là:
                          Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,
                           Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.

            Đặc biệt với các giác quan cảm thụ rất nhậy bén của thi nhân, ngôn ngữ chứa đầy hồn, cảnh trí thiên nhiên rất sống động. Ở trong câu ba của đoạn thơ thứ ba, ta còn thấy một cụm hình ảnh: Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc /- Tiếng “trúc” ở đây, với hình ảnh “lá trúc” trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ:
                           Lá trúc che ngang mặt chữ điền
           Đều thuộc loại ngôn từ mỹ học, để làm biểu tượng về làng quê. Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ cuối:
                           Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
                           Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
                           - Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
                           Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

           Sắc điệu “…trắng nắng chang chang?” vẽ ra cảnh trắng toát bên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Thi nhân đã mô tả những hình ảnh đó bằng ngôn ngữ thông qua cảm xúc nhớ làng da diết, đưa tình cảm bài thơ lên tới tột cùng, không chỉ thuần tuý là bức tranh tả cảnh mùa xuân nữa.
           Cũng nhiều nhà bình luận đã bàn về hình ảnh “chị ấy” trong bài thơ là ai? Người thì nói: “chị ấy” là người yêu xưa mà thi nhân nhớ lại? Kẻ lại bảo: Đó là chị ruột của thi nhân?…Tôi nghĩ: Xét về đời sống riêng tư của HMT, những người thân thiết nhất của thi nhân không thể không nhắc đến người mẹ, cùng người chị ruột hiền từ vẫn thường chăm bẵm Ông trong cuộc sống. Như ở bài hồi ký “Nhớ Hàn Mặc Tử” của anh Nguyễn Văn Xê, người đã chăm sóc thi nhân trong thời gian bị bệnh cho đến khi tạ thế tại nhà thương Qui Hòa, kể rằng:
           Sau khi Trí (tên thường gọi của nhà thơ) chết chôn được ba ngày, qua ngày hôm sau… mẹ và chị Lễ của Trí tức tốc vào Qui Hòa. Tôi hướng dẫn gia đình Trí đi thăm mộ. Nơi đây tôi không thể cầm được giọt lệ trước một người mẹ khóc đứa con yêu, một người chị khóc em trong buổi chiều mùa đông se se lạnh… Tôi đã chứng kiến có một mẹ tiên và một chị tiên đến khóc nức nở bên mộ Trí.
           Phải chăng người “chị ấy” trong thơ của thi nhân chính là chị Lễ! Mùa Xuân Chín chẳng những chỉ là một bức tranh thiên nhiên đẹp, còn trắc ẩn cả tình làng và đây đó quấn quít đôi chút lòng nhi nữ. Một bài thơ chân quê. Từ biểu tượng của ngôn ngữ, nhạc điệu đến cảnh tình qua cảm xúc… đã dan díu quyện lấy nhau mà tạo nên một bản xô-nát về “khối tình đời” độc đáo và hoàn bích.
          PNT.                                                                           
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2022 12:29:50 bởi Nhân văn >
      #3
        Nhân văn 04.10.2014 11:11:10 (permalink)
         
                                  BÀI THƠ ĐÂY THÔN VỸ DẠ" CỦA HÀN MẶC TỬ
         
                                                                                  Phạm Ngọc Thái

         
         
                  ĐÂY THÔN VỸ DẠ

        Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
        Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
        Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
        Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

        Gió theo lối gió, mây đường mây
        Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
        Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
        Có chở trăng về kịp tối nay.

        Mơ khách đường xa, khách đường xa
        Áo em trắng quá nhìn không ra
        Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
        Ai biết tình ai có đậm đà?

                         Hàn Mặc Tử


         
         Lời bình: Bài thơ được mở đầu với lời trách móc của người con gái. Lời trách ấy có lẽ do một hoàn cảnh gặp gỡ nào trước đó được thi nhân nhớ lại:
                           Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
              Câu mở đầu như thế giúp cho ý tưởng kiến thiết bài thơ thôn Vỹ gắn với nỗi nhớ người xưa, được gợi lên trong kỷ niệm:
                        Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
                       Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
               Nghĩa là, từ hàng cau đến cái nắng mới vào buổi sáng ấy... màu xanh của vườn cây đều là cảnh hiện lên trong hồi tưởng. Thôn Vỹ nói riêng cũng như mỗi làng quê Việt Nam nói chung: Hình ảnh hàng cau thường đọng lại những ấn tượng sâu sắc, nhất là với những người khi đã xa quê. Ta cũng thấy ở trong thơ Nguyễn Bính từng viết:
                        Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
              Hàng cau dưới ánh nắng mới vào buổi sớm thì trong mát, thanh thiên lắm! Cảnh quê cô đọng được hoà quyện vào mối tình đầu trong sáng, mơ mộng của thi nhân. Dù mối tình với nàng Hoàng Cúc chỉ đơn phương về phía Hàn Mặc Tử. Tình cảm sâu lắng đã trở thành hoài niệm mãi trong cõi nhớ của ông, bởi thế màu xanh của lá cây trong vườn cũng lung linh mà "xanh như ngọc"... 
            Như vậy cảnh nhớ ở ba câu đầu tuy chỉ là hồi tưởng, nhưng lại xuất phát từ cảnh có thực. Sở dĩ tôi nhấn mạnh về chữ "thực", vì chỉ đến câu thứ tư hình ảnh thơ đã có ý nghĩa tượng trưng:
                        Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
             "lá trúc""chữ điền" thuộc những ngôn từ mỹ học! Hình tượng cây trúc làm tượng trưng trong thơ HMT, ta còn thấy ở trong bài thơ Mùa Xuân Chín:
                        Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
            "trúc" là hình ảnh biểu tượng cho làng quê, còn "mặt chữ điền": theo cách nói cổ nho của người phương Đông, là ví cho gương mặt nam nhi. Trong bài thơ này, gương mặt chữ điền ấy để biểu tượng cho chính bản thân thi nhân.  Hai chữ "che ngang" kia - Nghĩa là thôn Vỹ với nhà thơ giờ đây chỉ còn ở trong kỷ niệm, mãi mãi phải cách xa... nên đã bị "cắt ngang".
             Ngay bốn câu của khổ thơ đầu, ta đã nhận thấy cấu trúc và tư duy thơ HMT đều được thiết lập theo trình tự suy lý... về nỗi cảnh mà lập thành tứ. Sau đó phát triển sâu hơn ở khổ thơ thứ hai, khi nói đến tình duyên dang dở giữa hai người:



                        Bà Hoàng Thị Kim Cúc

                       Gió theo lối gió, mây đường mây...
              Ý là:
                        Em theo đường em, anh đường anh
                        Duyên phận đôi ta có thế thôi!
              Tả cảnh nhưng chính để nói nỗi đời:
        *   Dòng nước buồn thiu (tĩnh), hoa bắp lay (động)...
              Cái (tĩnh) và (động) ấy chỉ để bộc lộ một cõi lòng, tâm trạng cô đơn và buồn. Thi nhân ngồi nhớ người xưa, lòng ông lặng lờ buồn bã như dòng nước hắt hiu, nhưng trái tim vẫn bổi hổi, xôn xao như làn "hoa bắp lay"... 
                        Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
                        Có chở trăng về kịp tối nay?
               Đây là hai câu thơ thần cảm. Hình ảnh thuyền và sông trăng theo cảm xúc ùa vào trong thơ mà bật ra làm cho tình thơ thêm rộng rãi, rung rinh, nỗi thơ càng mênh mang, da diết.
             Xin nói thêm, cảnh thuyền và sông trăng ở đây theo như một số nhà bình luận: Người thì cho đó là cảnh trong một bức ảnh về Huế mà nàng Hoàng Cúc đã gửi tặng thi nhân khi đang lâm bệnh phải điều trị ở Gành Ráng, Qui Nhơn. Nhưng cũng có người lại nói rằng nàng Hoàng Cúc đã gửi tặng thi nhân tấm ảnh mặc áo dài trắng? Chứ không phải là phiến cảnh "thuyền" và "sông trăng" đó.

              Nếu vậy thì cảnh trong thơ chỉ là cảnh mà thi nhân nhớ lại nơi thôn Vỹ chăng? Cũng chưa thật ngã ngũ về hướng nào...
              Tóm lại cảnh của hai khổ thơ đầu ấy là cảnh thuộc về trí tưởng, dù vào buổi sớm dưới hàng cau hay trong một đêm trăng trên sông nước. Trong bài bình của nhà bình thơ Vũ Quần Phương, đến đây có nhận xét rằng:
           "Bốn câu đoạn hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một... thoáng nhìn bài thơ có vẻ đầu Ngô mình Sở...", (hay là) "Những ý thơ rất xa nhau về ý nghĩa hoá ra lại vẫn có chỗ liền nhau...".

             Nhà bình thơ cho rằng: "chỗ liền nhau ấy trong thơ HMT chỉ là nhờ vào tâm trạng xúc cảm"...
                Theo tôi, HMT là một thi nhân viết thơ bằng nội tâm theo tư duy thế giới trong, xúc cảm chỉ làm đà cho mạch thơ, hơi thơ tuôn chảy... còn ý tứ thường được diễn tả rất mạch lạc, rõ ràng. Mượn cảnh làm biểu tượng để diễn đạt nỗi tình thơ. Đoạn thơ thứ hai ấy cần phải hiểu sâu sắc bằng thế giới bên trong như đã bình trên, mới thấy cảm xúc về ý tứ của bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ hoàn toàn liên kết chặt chẽ với nhau, từ đoạn thơ đầu tiên cho đến đoạn cuối cùng.  Đấy chính là cốt lõi để tạo ra thi phẩm vô giá của ông. Đây Thôn Vỹ Dạ là một tuyệt tác thi ca! Nếu cho rằng đoạn thơ thứ hai chỉ là để tả cảnh buồn mênh mang... thì sẽ không thấy hết được cái hay và sâu sắc của bài thơ.
            Tôi xin bình sang khổ thứ ba:
                      Mơ khách đường xa, khách đường xa
                      Áo em trắng quá nhìn không ra
                      Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
                      Ai biết tình ai có đậm đà?  
            Như đã nói mối tình giữa HMT với nàng Hoàng Cúc chỉ là một mối tình đơn phương về phía thi nhân. Có thể nàng không hay biết về tình yêu của chàng? Hơn nữa trong lễ giáo phong kiến thời ấy, giữa gia đình thi nhân với gia đình nàng còn có một khoảng cách về đẳng cấp xã hội. Hoàng Cúc thuộc gia đình một quan lại, còn HMT là gia đình lớp bình dân. Ông vốn tính lại rụt rè... Yêu tha thiết mà chỉ dám đứng từ xa chiêm ngưỡng người đẹp như trong mộng, rồi thương thầm, nhớ trộm. Thi nhân đã dồn hết tình yêu của mình vào thơ ca. Sáng tác cả một tập "gái quê" để tặng nàng.
             Giờ đây thì cả cái mối tình đơn phương ấy cũng đang trôi vào dĩ vãng. Thi nhân lâm bệnh nặng phải sống cách ly. Sự ngăn trở giữa hai người càng xa hơn. Nên trong bài thơ nói về người yêu mà thi nhân lại dùng chữ "khách" là vì thế! Ông mơ về nàng dẫu tình thì sâu nặng mà vẫn như mơ về một người khách lạ...
            Hình ảnh: Áo em trắng quá.../ - Hẳn  là màu áo trắng  của Hoàng  Cúc thường mặc phải gây ấn tượng trong trí nhớ của HMT hơn các màu áo khác !?  Nhưng màu áo trắng ở đây còn là ảnh ảo, khi thi nhân mơ tưởng người đẹp ở trong trăng...  Màu trăng ấy thường hay thấy trong thơ HMT:
                       Người trăng ăn vận toàn trăng cả...
             Còn tại sao "áo em trắng quá" mà lại "nhìn không ra"? Ý là mối tình ấy đã cách biệt, giờ đây khoảng cách giữa hai người xa vời như người khách lạ qua đường. Còn cảnh tượng:
                          Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 
               Đó vừa là cảnh thực của nơi ông đang sống và chữa bệnh hiu quạnh, khói sương, heo hút ở Gành Ráng, Qui Nhơn. Nhưng đồng thời cũng để nói lên trong cảnh ngộ của Người về thân phận "mịt mờ nhân ảnh". Tâm trạng Ông đang rơi vào trong vực thẳm trước sự quên lãng của người đời,  lòng càng da diết mà hỏi:
                      Ai biết tình ai có đậm đà?
              Tiếng "ai" bộc lộ một tâm trạng  vẫn rất tha thiết của ông:  Liệu nàng còn nhớ đến ta chăng? Cái tâm trạng xa xót ai oán ấy, ông cũng đã từng bộc lộ nhiều lần khác:
                      Một mai kia ở bên khe nước ngọc
                     Với sao sương, anh nằm chết như trăng
                     Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
                     Đến hôn anh và rửa vết thương tâm!
              Đây  Thôn Vỹ Dạ là một bài thơ được dệt  thành một bức tranh trong mộng, không gian đa sắc, đa chiều đan xen giữa hiện tại và kí ức. Ý, tình  khúc triết, sâu xa. Dù rằng tình thơ được rút trong tập "thơ điên",  nhưng nó không những không phải là thơ điên... mà còn là một tình thơ đằm thắm chứa chan, trái tim của nhà thơ đã thấm đầy huyết lệ!
                      (Trích tập " Phạm Ngọc Thái - Phê bình & tiểu luận thi ca",
                                                                     Nxb Văn hóa  Thông tin 2013)
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2022 12:31:08 bởi Nhân văn >
        #4
          Nhân văn 04.10.2014 11:14:37 (permalink)
           
                                     TẬP THƠ "ĐÔI HỒN"
                                 VÀ MỘT THIÊN DIỄM TÌNH


            
                                                               Phạm Ngọc Thái     
           
               Tập thơ "Đôi hồn" là sản phẩm thi ca của một mối tình đã được thăng hoa giữa thi nhân Hàn Mặc Tử (HMT) cùng nữ sỹ Hoàng Yến - Mai Đình (MĐ). Mối tình ấy diễn ra cũng như thơ của cả hai người đều đã được viết từ trước đây hơn nửa thế kỷ.
                Bây giờ ở trên đỉnh cao Gành Ráng, Qui Nhơn bên bờ biển Đông, mộ của thi nhân HMT quanh năm sóng phủ. Thơ của Người đang được nhân gian truyền tụng như những vì sao sa sáng láng. Đúng như lúc đương thời Người viết:
                          Với sao sương, anh nằm chết như trăng
               Nhưng khi còn trong cõi sống, Người đã phải chịu bao nhiêu khổ hạnh vì bệnh tật. Tạo hoá đã cướp đi một tài hoa lúc đương độ rực rỡ, khi cuộc đời Ông mới chỉ vừa 28 tuổi. Ngẫm thế, kiếp người có khác gì kiếp nợ! Phải chăng muốn hoá siêu nhân thì trước hết con người phải chịu đựng những sự đầy đoạ ở phàm trần?         

               Nhưng thế giới sinh linh này cũng thật huyền diệu và bí ẩn, chính thiên diễm tình ấy lại nẩy nở trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cuộc sống. Khi mà thi nhân lâm vào căn bệnh phong ác nghiệt, thì nàng Mộng Cầm - người con gái quê Phan Thiết đã từng một thời yêu thi nhân, lại bỏ đi lấy chồng, đẩy thi nhân thêm vào cảnh đau đớn, cô đơn.
              Trời đất đã cho một ái nữ khác đến với Người. Theo như lời kể của Đắc Trung (trên báo Phụ nữ Việt Nam số 28 ra ngày 11-1-1994 ), thì ái nữ ấy:

               "Xuất thân trong một gia đình quan lại quê Nông Cống, Thanh Hoá. Thân phụ nhậm chức tại Phan Thiết, mười sáu tuổi sống bên cha, sau này vào ở Sài Gòn. Cô thiếu nữ ngây thơ xinh đẹp, rất được cưng chiều...”.
             Chính là nữ sỹ Hoàng Yến - Mai Đình. Nàng lại còn thông tuệ về văn thơ cùng với Người để tạo nên một thiên bi tình khả ái, với tập thơ "Đôi hồn" lai láng yêu đương. Tập thơ ấy được thi nhân cùng nữ sỹ giao lưu trong mối tơ duyên và viết suốt ba năm (1937-1940): gồm 54 bài, kể cả hơn chục bài thơ mà bà Mai Đình viết sau này, khi HMT đã qua đời ngày 11-11-1940.
               Đến nay năm tháng trôi qua, cuộc đời riêng chung biết bao biến đổi, nhưng lòng người nữ sỹ vẫn:
                          Nói sao cho xiết nỗi buồn?
                          Một trời binh lửa, một hồn cô liêu.
                          Hồn tôi theo đám mây chiều,
                          Tìm chàng trong một túp lều tranh con.
                                                  (Âm thầm - MĐ)
                Đó chính là cái túp lều tranh ở Gò Bồi, trên một khu cát rộng phía Tây thành phố Qui Nhơn. Cách đây trên nửa thế kỷ (1939), người nữ sỹ đã đến thăm thi nhân khi ông mắc bệnh hiểm nghèo phải sống lẩn tránh cả chính quyền địa phương. Vì bệnh lây nên chính quyền buộc gia đình phải đưa HMT vào bệnh viện "cùi" Qui Hoà để chữa bệnh và ẩn náu, cách biệt tất cả mọi người. Đó cũng là lần đầu tiên nàng mới gặp mặt người yêu. Vì trước đó đôi năm tình yêu của hai người chỉ trao đổi qua các áng thơ, như nàng kể lại:
           -    Đến trước túp lều tranh xơ xác, xiêu vẹo... vén tấm mành che cửa... một người đàn ông nhỏ bé, gầy yếu, ngồi trên chiếc giường chõng, cạnh bàn viết. Bàn là một tấm gỗ thùng đặt trên khung chân cũ. Người đàn ông ngước đôi mắt đen sáng long lanh nhìn tôi dò hỏi. Tôi đứng lặng đi. Hàn Mặc Tử đấy ư? ...
              Nàng tả về đôi mắt trong sáng như hai ngôi sao của thi nhân, tấm thân thì ốm yếu tàn tạ, nhưng thông minh và cám dỗ. Vâng, nàng đã yêu trong hoàn cảnh ấy:
                          Em theo mây gió anh ơi,
                          Em đi đi mãi vào nơi vô hình...
                          Yêu anh trên bước phiêu linh,
                          Để lòng bớt khổ, để tình bớt đau.
                                                  ( Biệt ly - MĐ )
                Mặc dù chỉ là một nữ nhi khuê các nhưng sức mạnh tình yêu của nàng không gì ngăn cản nổi, hoàn cảnh càng khắc nghiệt thì tình nàng càng đằm thắm, thiết tha:
                          Yêu anh trong lúc anh lâm chung,
                          Mới thấy tình em yêu lạ lùng.
                                            ( Anh hứa đi anh - MĐ )
               Vượt lên trên tất cả sự chỉ trích của người đời:
                          Kịp nghĩ miệng đời hay mỉa mai,
                          Tảng lờ ngừng bước và im hơi,
                          Mộng hồn em gửi theo chiều gió
                          Để được gần anh ngỏ ít lời.
                                              (Biết anh - MĐ)
             Ta cảm thấy rợn tóc gáy, không thể không khâm phục ý chí quyết liệt trước lời tuyên bố của nàng:
                          Tôi chẳng sợ cảnh nghèo hèn đói khổ,
                          Tôi không kiêng thứ da thịt khác người
                          Vì lòng tôi, tôi chỉ biết yêu thôi!
                                                     (Tuyên bố - MĐ)
                Hoàn cảnh bi ai, sầu thảm nhưng tình nàng không chỉ đằm đìa mà còn trong sáng, mộng mơ một cách lạ kỳ:
                          Yêu anh chết nửa cõi lòng,
                          Gửi hồn bay bổng mấy tầng mây xanh.
                                                      (Tơ sầu - MĐ)
                Còn thi nhân HMT, người yêu của nàng cũng mộng mơ không kém:
                          Dưới túp lều tranh, trên chõng tre,
                          Tứ bề cửa khép với phên che,
                          Kéo mền ủ kín toàn thân lại,
                          Để thả hồn bay gửi mộng về.
                                         (Hãy đón hồn anh - HMT)
                Cảnh ngộ thì khổ sở, nghèo hèn nhưng tâm hồn họ thật thanh tao, hoành tráng biết bao. Đúng là, một túp lều tranh, hai trái tim vàng! Nàng đáp lại:
                          Bây giờ em đã bên anh
                          Đói nghèo em chịu, rách lành cũng vui.
                                         (Em vẫn bên anh - MĐ)
                Tuy vậy, nhưng nào họ có được ở bên nhau? Chỉ thăm người yêu ít ngày rồi nữ sỹ lại phải chia tay về gia đình tận Sài Gòn. Hàn Mặc Tử với bệnh tình đành nằm lại trong túp lều tranh ở Qui Nhơn. Người phương Bắc kẻ phía Nam. Hoàn cảnh đã khắc nghiệt mà không gian ly biệt thì xa vời, nhớ nhau cũng chỉ biết:
                          Anh đứng cách xa hàng thế giới
                          Lặng nhìn trong mộng miệng em cười.
                                         (Lưu luyến - HMT)
                Nhưng theo dõi hồn thơ ta có cảm nhận như đang gặp một cuộc tình duyên nơi chốn cung động thiên thai nào đó, chứ không phải ở trần tục đời thường. Thi nhân viết:
                          Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn
                          Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt.
                Hay là:
                          Quí như vàng, trọng như ngọc trên đời
                          Mai! Mai! Mai! Là Nguyệt Nga tái thế...
                                          (Thắm thiết - HMT)
                Nàng thì ví mình như Ngọc Nữ còn chàng là Kim Lang, vì để rơi chén vàng cho nên Ngọc Hoàng đẩy xuống trần thế, mặc dù nay đã hết hạn họ vẫn quyết ở lại bên nhau không về tiên giới:
                          Ta đã ở bên chàng nơi cõi tục,
                          Quyết không về điện ngọc sống cô đơn!
                Để rồi:
                          Bốn bàn tay cùng chung xây hạnh phúc,
                          Túp lều tranh hơn cõi thiên đường.
                                           (Hạnh phúc - MĐ)
                Và tình yêu ấy đã đạt đến độ say đắm, giông bão khôn cùng:
                          Tôi ôm nàng, muốn cắn chết nàng đi!
                                           (Thắm thiết - HMT)
                Nữ sỹ Mai Đình kể lại khi họ gặp nhau:
          -   Vì sợ lây bệnh cho người yêu, nên Hàn Mặc Tử không dám đụng vào người Mai Đình...
                Nàng nói:
          -   Những phút ấy mặt Hàn Mặc Tử đỏ rần lên rồi tím đi, còn Mai Đình cũng chết cả ruột gan không biết phải xử trí làm sao?
                Thật là đau khổ và hy vọng:
                          Anh lành anh sẽ tặng em chi?
                          Tặng cả đời anh cả hồn thi,
                          Với tất những gì anh ước vọng,
                          Cả hồn, cả xác, cả tình si.
                                        (Anh hứa đi anh - MĐ)
                Nhưng cũng như tình thường của bao đôi trai gái khác, tình yêu không chỉ có quấn quít "đôi hồn" mà cũng có lúc ghen tuông:
                         Em muốn thu anh thành vật nhỏ
                          Để em nắm kín ở trong tay...
                          Cho các cô nường hết ngất ngây.
                                                     (Ghen - MĐ)
                Trong bài "ghen với Mộng Cầm" ta còn nhận thấy mặc dù Mộng Cầm là người con gái đã đến trước, được hưởng đầy đủ khoái lạc của tình yêu lúc thi nhân đang lành lặn, mà lại ruồng bỏ khi Người lâm bệnh. Nhưng với tư cách của Mai Đình vẫn tỏ ra là người tao nhã, trang trọng. Ghen đấy mà không phỉ báng, còn cảm thông với lẽ đời thường của một tấm lòng nhân hậu, khoan dung, độ lượng:
                          Mộng Cầm hỡi, nàng là tiên rớt xuống,
                          Hay là vì tinh tú giáng trần gian?
                          Diễm phúc thay, sung sướng biết bao vàn,
                          Đầy đủ quá, nàng thương chăng kẻ thiếu?
                                            (Ghen với Mộng Cầm - MĐ)
                Đã bộc lộ tình cảm day dứt của một người con gái tha thiết yêu mà tâm sinh lý không được thoả mãn. Hàn Mặc Tử có lúc cũng không ra khỏi sự nghi kỵ, dằn vặt đời thường. Có lúc ông nghi oan người yêu có tình ý với người khác, buông ra những lời thơ hờn giận:
                          Mai tiên nữ! Đọc hồn ta cho rõ:
                          Đau không rên, chết cũng mặc mình thôi!
                          Mối tình si đã lỡ vỡ tan rồi,
                          Ta chỉ biết lặng nhìn thiên hạ khóc...
                Hay là:
                          Tim hồn ta quằn quại giữa lầm than
                          Để trở lại những ngày đầy huyết lệ!
                                             (Thầm lặng - HMT)
                Sự mặc cảm đó cũng dễ hiểu: bản thân ông bệnh tật, người yêu thì trẻ đẹp lại ở cách xa...
                Hôm nay trong lẽ sống thường tình trước mọi sự đổi thay, thăng trầm nhân thế, ta thưởng thức những tri âm, tri kỷ ấy càng thấy thiên tình duyên trác tuyệt này như một sự lạ cõi đời. Trong thời buổi kinh tế thị trường chi phối cả trong tình yêu trai gái và những mối quan hệ xã hội khác, thì cuộc tình xưa hẳn như một đài thơ diễm lệ, cho ta ngưỡng mộ và cảm phục!
              Có phải chăng duyên ấy, phận này cũng đã là tiền định như khi nữ sỹ khóc bên mộ Người vào tháng 4-1941. Khoảng nửa năm sau khi thi nhân tạ thế:
                          Em đã về đây bên mồ cát trắng
                          Túp lều tranh muôn thưở đã chung đôi
                          Tự nghìn năm thượng đế định cho rồi...
                                               (Em đã về đây - MĐ)
                Hay cảm vì phận mỏng, tình dở dang, nàng than:
                          Anh ơi, xin hãy chờ em với!
                          Hết nợ rồi em sẽ trở về.
                                              (Chắp lại đôi hồn - MĐ)
                Ta chạnh nhớ tới câu thơ của cụ Nguyễn Du khi nàng Kiều than ở sông Tiền Đường:
                          Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!
               Về thơ của thi nhân HMT thì chúng ta đã biết nhiều. Ở đây, qua tập "đôi hồn" còn cho chúng ta thưởng thức tài hoa của nữ sỹ Hoàng Yến - Mai Đình, như Kiều Văn đã nhận xét trong lời giới thiệu tập thơ:
          -   Đó là một giọng thơ giản dị, chân thực mà sâu sắc, nồng nàn... Là thứ thơ huyết lệ. Hàm chứa những tình cảm cao quí thiêng liêng, thuỷ chung...Xứng đáng là tiền bối của thơ tình Xuân Quỳnh và các nữ sỹ khác sau này.
                Nói thế có lẽ vẫn chưa đủ, bút pháp thơ của nữ sỹ Mai Đình có lúc quặn thắt, đau đớn như nàng viết:
                          Nguyện để tang anh suốt một đời!
                Nhưng trước tình yêu non sông đất nước, ta lại còn chứng nhận một phong cách cũng thật hào khí:
                          Chút nợ ân tình trả chưa xong
                          Đành mang tâm sự mãi bên lòng
                          Sắt son đã chẳng cùng nhau trọn
                          Em phải đem mình gửi núi sông.
                                               (Trăng cũ - MĐ)
                 Gợi ta nhớ tơi âm hưởng những câu thơ đầy hùng khí, trác tuyệt của nữ sỹ Ngân Giang trong bài "Trưng nữ vương":
                          Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
                          Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi,
                          Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá!
                          Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi.
                Vào năm 1996, báo chí đã đưa tin về nữ sỹ Mai Đình khi đó Bà bước vào tuổi thọ 80. Bà đã đến Gành Ráng, Qui Nhơn một lần nữa để thăm lại mộ của cố nhân. Một lần nữa, những giòng lệ xót thương lại chảy tràn trên đôi mắt Bà như thưở còn con gái, như câu thơ Bà đã viết:
                          Tóc trắng, tình xanh mộng chửa tàn.
                Khi đó tuy tuổi đã già, cũng theo lời kể của Đắc Trung:
          -   Nữ sỹ Mai Đình vẫn giữ được những nét đẹp kiêu sa, quí phái. Mái tóc dài bạc trắng chải rất mượt, búi rất gọn. Da hồng, mắt sáng, miệng tươi. Giọng nói nhỏ nhẹ mà đầy âm hưởng. Khăn hoa áo lụa hảo hạng...
               Để kết thúc bài viết về thiên tình ca trác tuyệt có một không hai này, tôi xin trích dẫn những lời thơ trăng trối của thi nhân Hàn Mặc Tử viết để lại cho người yêu. Đấy cũng là những bút tích cuối cùng, trong thi phẩm cuối cùng của ông lưu lại cõi trần gian. Người đã "Trút linh hồn" trước lúc đi xa:
                          Ta trút linh hồn giữa lúc đây
                          Gió sầu vô hạn nuối trong cây,
                          - Còn em, sao chẳng hay chi cả?
                          Xin để tang anh đến vạn ngày!


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.11.2022 21:35:08 bởi Nhân văn >
          #5
            Nhân văn 04.10.2014 11:19:52 (permalink)
             
             
                             BẰNG VIỆT VỚI BÀI THƠ TÌNH HAY
                                                                            Phạm Ngọc Thái
             

                               NGHĨ LẠI VỀ PAUTỐPXKY
             
                                                        1.
                            Đồi trung du phơ phất bóng thông già.
                           Trường sơ tán. Hồn trong chiều lặng gió
                           Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
                           Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu...
             
                        "Lẵng quả thông" trong suối nhạc nhiệm màu
                           Hay "Chuyến xe đêm" thầm thì mê đắm
                           Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm
                           Một bàu trời vĩnh viễn ướp hương hoa.
             
                            - "Có thể ngày mai ta cũng đi qua
                           Một cánh cửa nao lòng trong truyện "Tuyết"?
                           Có tiếng chuông rung và con mèo "Ackhip"
                           Ánh nến mơ hồ như hạnh phúc từng mong..."
                           Xa xôi sao... Thời thơ ấu sau lưng!
             
                                                       2.
                             Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
                                                                 cuộc đời không phải thế!
                           Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
                           Bể mặn mòi, sôi sục biết bao nhiêu
                           Khi em đến bên anh, trước biển cả dâng triều.
             
                           Ta thu hết xa khơi vào trong lồng ngực trẻ
                           Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời.
                           Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt đến
                           Dấu đen rầm khi đáy bóng đêm trôi...
             
                           Và hạnh phúc vỡ ra như một nốt đàn căng.
                           Nốt cao quá trong đời xao động quá!
                           Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
                           Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn.
             
                           Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
                           Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất
                           Anh qua cả màu không gian ngây ngất
                           Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao...
             
                           Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao!
             
                                                     3.
                            Bây giờ, anh biết nói gì hơn?
                           Có thể, ngày mai thôi... Có thể...
                           "Hoa tóc tiên ơi! Sớm mai và tuổi trẻ"
                           Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm...
             
                           Pautôpxky là dĩ vãng trong em
                           Thành dĩ vãng hai ta. Bây giờ anh ngoảnh lại:
                           Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
                                              anh hiểu rằng không phải...
                           Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời!
             
                           Đưa em đi... Tất cả thế xong rồi
                           Ta đã lớn. Và Pautôpxky đã chết!
                           ... Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện "Tuyết"
                           Dầu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!
                                                                                         Bằng Việt
             
            Lời bình:   "Nghĩ lại về Pautốpxky" thuộc trong những bài thơ tình hay nhất của đời thơ Bằng Việt.  Anh đã làm bài thơ này vào thưở còn rất trẻ, có lẽ khi đó chỉ mới bước qua ngưỡng cửa đời sinh viên, ngoài tuổi đôi mươi. Mà cũng chỉ có tâm hồn một thanh niên trí thức đa cảm, lại sống vào giai đoạn xã hội, đất nước và con người của những năm trong thập kỉ sáu mươi, bảy mươi ấy... Bằng Việt mới có được một hồn thơ say sưa, tình thơ trong trẻo và bay đến như thế! Mặc dù, hình như anh viết về một mối tình thơ dại đã qua đi.
                  Bài thơ được chia làm ba khúc. Tôi rất thích một câu thơ dài mà tác giả điệp lại đến hai lần:
                      Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu, cuộc đời không phải thế!
                 Nghĩa là cuộc đời đang ở phía trước. Cuộc sống, những thử thách buồn vui, hạnh phúc và đau đớn, tất cả vẫn đang chờ đợi chứ không phải là cái ta được, mất... đã qua rồi. Bài thơ cứ luôn luôn mở ra như thế, tất cả vẫn đang đón đợi, đừng vì thế mà buồn. Pautôpxky với bao thần tượng về tình yêu lãng mạn, mộng mơ, ngọt ngào trong những truyện "Lẵng quả thông", "Chuyến xe đêm ", truyện "Tuyết" - Những tình yêu như truyền thuyết ấy đã nhập vào trong tình cảm, cuộc sống của nhà thơ và cả của em. Nhưng đó đã là dĩ vãng, dù nó vẫn còn ngân nga, vang vọng mãi trong tâm hồn anh.
                  Khúc (1) - Tác giả để hồn thơ bay dưới những bóng thông già mà nhớ về tuổi đã qua:
                                Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
                                ... Một bàu trời vĩnh viễn ướp hương hoa
               Tình yêu như những nốt nhạc rung đầu đời của nhà thơ với một thiếu nữ nào đó. Nó vừa thực lại vừa mơ hồ như ảo ảnh, khi qua đi để lại thoang thoảng của mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm. Nó lóng lánh như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu. Chập chờn như ánh nến hạnh phúc soi vào đôi lứa. Đó chính là "suối nhạc nhiệm màu" cứ thầm thì, thầm thì mê đắm mãi.

                  Nếu ta chưa đọc Pautôpxky thì ta chưa hiểu về chuyện con mèo "Ackhip", tiếng chuông rung và những sự thần kỳ trong truyện "Tuyết"! Nhưng đâu có cần cứ phải đọc Pautôpxky mới hiểu được thơ cơ chứ? Chỉ cần nghe lời thơ và những âm hưởng của tình thơ, ta cũng có thể mơ hồ hiểu trong sâu thẳm, cái mối tình thưở ban đầu mà nhà thơ gợi ra ấy đã đẹp, trong sáng, say mê, mơ mộng đến chừng nào. Thế cũng đủ cho ta phải yêu rồi:
                                  Có thể ngày mai ta cũng đi qua
                                  Một cánh cửa nao lòng trong truyện "Tuyết"?
                                  Có tiếng chuông rung và con mèo "Ackhip"...
                                  Xa xôi sao... Thời thơ ấu sau lưng!
                  Sang khúc (2):
                                 Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao!
                 Câu thơ kết khúc ấy phải chăng nó đã gói trọn bao niềm tâm tư, tình yêu và khát vọng, hạnh phúc cùng những đớn đau của nhà thơ? Nhưng cũng phải chăng như nhà thơ muốn nói: Tình yêu của anh và em đã không vượt được qua không gian, thời gian? Bởi vì:

                                Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
                  Biển cả cuộc đời thì đầy bão tố phũ phàng, mà tình yêu ấy dẫu khát khao, trong suốt như giọt nước ban mai rơi xuống tuổi thanh xuân, lại còn quá yếu đuối, mỏng manh. Biển thì mặn mòi sôi sục bao nhiêu, mà khi em đến bên anh: Lúc ấy sóng không yên, gió không lặng, tựa như đang cả triều dâng. Nhưng chính tuổi trẻ - Phải, tuổi trẻ đã vượt lên trên cả sự tan vỡ và thử thách đó. Chỉ có tuổi trẻ mới:
                               Thu hết xa khơi vào trong lồng ngực trẻ
                               Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời.
                 Nhưng tôi thích đôi câu thơ mà tác giả đã ví:
                               Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt đến
                               Dấu đen rầm khi đáy bóng đêm trôi...
                Cuộc sống là như thế! Khi khát vọng ước mơ đến trong ta, nó như cả một bầu trời cao xanh vời vợi và ánh hồng chan chứa nơi nơi. Lòng ta mở rộng đón chờ với bao niềm vui khó tả. Nhưng cái gì mà chẳng có mặt trái của nó: Ước vọng càng cao thì dữ dằn bão tố, bất hạnh cũng rình rập, muốn vùi dập ta vào trong bóng đêm trôi choán ngợp cả bàu trời. Hai câu thơ đã vạch lên trên đường chân trời của cuộc đời rằng, đấy là thử thách mà tuổi trẻ cần phải vượt qua! Không có con đường hạnh phúc nào đi đến toàn bằng phẳng, thênh thang. Trong cả tình yêu lứa đôi của anh và em, hạnh phúc chúng ta phải trả giá và sự tan vỡ ban đầu ấy, phải chăng cũng là lẽ tất nhiên? Nếu không, thì đó cũng chính là cái nghiệm ban đầu, để rồi ta sẽ đi đến. Tình yêu và cuộc sống vẫn đang đón đợi ta ở phía xa kia! Nhà thơ lại ru mình và ru em:

                                Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
                               Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất
                               Anh qua cả màu không gian ngây ngất
                               Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao...
                Đúng như vậy. Tình yêu như một vùng nắng mới với cả màu không gian ngây ngất, trong những chiều của ngàn lá cây rung và tiếng nói thầm của người yêu vẫn lao xao trong đó. Đẹp, đẹp quá nhà thơ ạ! Tôi đã nghe thấy tiếng nói thầm ấy, rung động và bay xa lắm. Nó vượt lên trên cả bão tố dữ dằn và sóng gió mịt mùng kia. Tiếng nói thầm đáng yêu, tưởng chừng có thể làm nứt vỡ trái tim ta!

                  Đây là khúc thơ chính của bài. Giọng thơ say sưa, lời thơ đằm thắm. Thơ được dùng nhiều ngôn ngữ hình tượng, màu sắc sinh động. Trong thơ có nhạc, lắng càng sâu càng thấy hay. Đôi khi anh sử dụng một cách nói rất thông thường bên cạnh những câu thơ có ngôn ngữ thanh cao, để thơ khỏi rơi vào sự mượt mà, bóng bẩy. Thí dụ như:
                              Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
                              Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn.
                  Những câu thơ mộc mạc như thế, âu cũng là những sự chấm phá cần thiết tạo nên một sự gồ ghề, thô ráp nhất định. Như những nét trạm đơn giản mà tôn tạo hình ảnh của các câu thơ khác cao lên.
                  Khúc cuối:
                              Đưa em đi... Tất cả thế xong rồi
                              Ta đã lớn. Và Pautôpxky đã chết!
                Nhà thơ đã kết thúc bài thơ một cách dữ dằn như thế đấy! Nhưng câu thơ không phải để nói về Pautôpxky nhà văn Nga quá cố đâu, mà là tình yêu trong sáng, lãng mạn, mộng mơ thuở đầu đời của anh và em đã không còn. Như tác giả viết:

                            Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm
                  Hay là: Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao!/ -  Nhưng đọc thơ anh sau ngót nửa thế kỷ đã trôi qua, tôi vẫn thấy như đang gặp một Bằng Việt cứ nguyên mơ mộng, nhẹ nhàng và bay bổng của thuở đã xa xưa ấy. Tôi không nói về Bằng Việt của tuyên huấn, làm chính trị... mà là một Bằng Việt của nhà thơ, trong thơ, mới thật đáng yêu sao! Phải, thuở ấy... anh đã khóc khi tiễn mối tình thơ dại với người con gái ban đầu của cuộc đời anh:
                            ... Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện "Tuyết"
                            Dẫu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!
                  Về thi pháp nghệ thuật có thể nói "Nghĩ lại về Pautôpxky" là một bài thơ đã viết trong mối giao cảm, được hoà nhập bởi hai dòng thơ: Một của dòng thơ lãng mạn thuần tuý viết tràn theo cảm xúc, như thời "thơ mới" Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ... vào những năm bốn mươi. Một nữa của dòng thơ tượng trưng cấu trúc đã súc tích hơn, với những hình ảnh giàu tính triết lý... mà nhờ đó Hàn Mặc Tử đã viết nên Đây Thôn Vỹ Dạ và Mùa Xuân Chín.
                  Ta hãy nghe xem tác giả cứ để cảm xúc mình chảy tràn ra, rơi lệ xuống cả trang thơ:
                              Pautôpxky là dĩ vãng trong em
                              Thành dĩ vãng hai ta. Bây giờ anh ngoảnh lại:
                              Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
                                                                          anh hiểu rằng không phải...
                              Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời!
                 Tôi nghĩ đã đến lúc có thể gấp lại bài bình ở đây. Bởi, thơ anh viết như thế cũng đã quá đủ rồi... còn cần gì nữa để tôi phải nói thêm.



            <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2022 12:36:43 bởi Nhân văn >
            #6
              Nhân văn 04.10.2014 11:25:07 (permalink)
               
                                      HOA HUỆ 

               
                                  Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng
                                  Sao bóng hoa trên tường lại đen?
               
                                  Em đừng nhìn đi đâu thế em
                                  Anh không biết vì sao, ai có lỗi...
                                  Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi
                                  Sao bóng hoa trên tường lại đen?
                                                        
                      Bế Kiến Quốc
                                                              
               (1949 - 2002)


               
                                Lời bình Phạm Ngọc Thái
                    Bài thơ đưa ta đến một cảm giác với bao mâu thuẫn của tình yêu:
                                Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng
                                Sao bóng hoa trên tường lại đen?
                    Màu hoa huệ trắng đặt trước một bức tường cũng trắng như sự trắng trinh thơm ngát ở người con gái, mơ mộng và nên thơ. Nhưng:
                                  Sao bóng hoa trên tường lại đen?
                    Đó lại là hai mặt mang đầy kịch tính. Tôi nói “kịch tính”, bởi vì: Bông hoa nào dù trắng trong và hương ngát bao nhiêu chăng nữa, nhưng khi bóng của nó hắt lên tường thì đều thành màu đen cả
              (nghĩa đen). Ý là tình yêu đã mang đến cho ta niềm vui sướng, hạnh phúc vô biên - Ngược lại, tan vỡ cũng gây không ít những đau đớn và thất vọng. Cái mâu thuẫn ấy có mấy đôi trai gái không thường vấp phải? Nhà thơ Bế Kiến Quốc đã sử dụng hình tượng bóng đen đó (theo nghĩa bóng)
              , để nói lên nỗi lòng mình đang tan nát.
                    Henrich  Haine một nhà thơ lớn nước Đức (1797-1856), trong bài thơ "Những hoa hồng tím nhạt" đã viết:
                                  Em có hiểu vì đâu?
                                  Những hoa tím im lặng
                                  Trên cánh đồng xanh mầu?
                   Tình cảm đồng điệu từ những bông hoa tím được nhà thơ sử dụng chỉ cốt  bộc lộ nỗi đau thầm nén của lòng người con trai trên cánh đồng xanh mướt, tha thiết tình yêu  kia! Ông viết tiếp:
                                  Vì sao trên không trung
                                   Chim sơn ca than khóc?
                                   Vì sao đoá hoa thơm
                                   Tỏa một mùi chết chóc?
                   Hình ảnh bông hoa được sử dụng thêm một lần nữa nhưng ở mức độ cao hơn, khốc liệt hơn -  Rằng, một đóa hoa thơm cũng mang nỗi khổ hạnh khi trái tim tình yêu người bị đớn đau. Như lời của Nguyễn Du:
                                  Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
                    Việc sử dụng hình ảnh bông hoa để  nói về tình yêu của nhà thơ Bế Kiến Quốc và Henrich Haine khác nhau là ở chỗ: Hình ảnh của nhà thơ Đức thông qua trạng thái ở bông hoa mà biểu đạt nỗi xót xa về tình cảm, hay sự quặn thắt trong lòng người - Nhưng bông hoa trong bài thơ "Hoa huệ" thì lại được xây dựng hẳn thành một biểu tượng cho tình yêu! Anh viết bài thơ này từ năm 1969, khi còn là một sinh viên trường Đại học Tổng hợp. Nghe nói những năm tháng ấy các sinh viên của trường anh thường lập ra những nhóm thơ, tìm tòi nhiều, cả thơ trong nước và thơ thế giới. Bài thơ đã ảnh hưởng trường phái thơ tượng trưng của văn học châu Âu. Tuy nhiên, đó là sự ảnh hưởng về phương pháp sử dụng hình tượng nghệ thuật thể hiện, tư duy thơ vẫn bắt nguồn từ tình cảm bản thân trong đời sống tình yêu lứa đôi, dồn nén của trái tim mà ra. Cho nên  bài thơ tuy viết theo dạng biểu tượng súc tích nhưng tình cảm vẫn  tha thiết, đằm thắm:
                              Em đừng nhìn đi đâu thế em
                              Anh không biết vì sao, ai có lỗi...
                    Sau hai câu đầu đưa ra sự đối ngược giữa hình ảnh bông hoa trắng với cái bóng trên tường lại đen, tác giả bắt ngay vào diễn tả trạng thái riêng tư. Đó là sự trách cứ người yêu hờ hững chăng? Anh tiếc nuối hay anh phân bua về sự tan vỡ ấy? Câu thơ:
                              Anh không biết vì sao, ai có lỗi?
                  Ta thấy lòng nhà thơ vẫn còn rất  tha thiết với người con gái năm xưa, dù mối tình đã tan có thể không bao giờ còn hàn gắn lại được. Tuy có đôi chút yếu lòng nhưng thơ không rơi vào bi lụy. Có vẻ trách đấy mà đâu có trách. Cảm hóa ta về một mối tình đẹp và trong sáng.
                    Tất cả chỉ có sáu câu. Hai câu kết tác giả trở lại với hình ảnh của bông hoa và cái bóng đen trên tường để  khóa bài thơ:
                              Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi
                              Sao bóng hoa trên tường lại đen?
                    Cái bóng đen của bông hoa in trên nền tường trắng là một bóng... buồn. Câu hỏi:
                             Sao bóng hoa trên tường lại đen?
                     Mãi mãi còn day dứt, trăn trở trong trái tim người con trai. Nhìn "bóng hoa đen"... lòng anh lại càng xa xót về một kỷ niệm đã xa xưa. Sự đối ngược giữa hình ảnh bông hoa trắng và bóng đen tự thân đã mang theo một  quan điểm triết lý về sự hợp tan, lành dữ trong trời đất. Đó cũng chính là ý nghĩa  tự nhiên của tình yêu và cuộc sống, vừa hạnh phúc mà lại vừa đau khổ.
                    Nhà thơ Bế Kiến Quốc đã tạo nên bức tranh "Hoa huệ" không kém phần độc đáo.



              <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2022 12:38:13 bởi Nhân văn >
              #7
                Nhân văn 04.10.2014 11:29:03 (permalink)
                 
                            BỜ SÔNG VẪN GIÓ

                 
                Lá ngô lay ở bờ sông
                Bờ sông vẫn gió
                                           người không thấy về

                Xin người hãy trở về quê
                Một lần cuối... một lần về cuối thôi
                Về thương lại bến sông trôi
                Về buồn lại đã một đời tóc xanh
                Lệ xin giọt cuối để dành
                Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
                Cây cau cũ, giại hiên nhà
                Còn nghe gió thổi sông xa một lần

                Con xin ngắn lại đường gần
                Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi...
                                                    
                   Trúc Thông

                            
                 

                                 Lời bình Phạm Ngọc Thái  
                     Đây là bài thơ mà nhà thơ Trúc Thông khóc mẹ. Mới đọc ngỡ như anh đang đứng trước hương hồn người mẹ của mình đã khuất nơi chín suối, để trào ra những dòng thơ thương cảm. Nhưng không, bài thơ này Trúc Thông đã viết vào năm 1983 trong một lần trở về thăm quê, khi đó người mẹ của anh vẫn đang cùng anh sống ngoài Hà Nội. Một năm sau đó (1984) mẹ của nhà thơ mới qua đời. Nghĩa là, linh cảm về cái mất của bà mẹ già yếu đang gấp gáp đến gần, nên lời thơ nghẹn ngào xúc động, thấm đầy lệ.
                   Đứng bên con sông Châu chảy qua tỉnh Hà Nam, cũng chính là dòng sông chảy qua quê hương của cố nhà văn Nam Cao, đồng tỉnh với quê hương của nhà thơ. Bên bờ sông ấy nhà thơ than thở:
                                  Lá ngô lay ở bờ sông
                                  Bờ sông vẫn gió
                                                                người không thấy về
                    Hình ảnh bờ sông, bãi ngô rất thân thiết, gần gũi với một làng quê Việt Nam. Đọc câu thơ ta liên tưởng tới bài thơ nổi tiếng "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi nhân Hàn Mặc Tử, có câu Người đã viết:
                                  Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
                    Thông qua hình ảnh "... hoa bắp lay": âm hưởng lay lắt, chuyển động yếu ớt của những bông hoa bắp như thể hơi thở trút ra mỏng manh, cô quắt đồng hoạ với cảnh "dòng nước buồn thiu" để diễn tả tâm trạng cô đơn, buồn nản vì thương nhớ người yêu cách biệt trong mối tình đơn phương của thi nhân.
                    Nhưng cái từ "lay" của những lá ngô trong bài thơ Bờ Sông Vẫn Gió của Trúc Thông thì lại diễn tả tâm trạng xao động, xót thương nghĩ về mẹ chứa chất một cái gì đó đang dâng lên ở trong lòng. Đồng vọng với tiếng "lay" kia thì tiếng gió thổi: Bờ sông vẫn gió.../- cũng dào dạt mạnh mẽ,  để rồi tác giả hạ nốt nửa vế của câu thơ: ...người không thấy về/- Vậy là, dù cùng một từ "lay" với hình ảnh gió ven sông nhưng ở hai bài thơ đã diễn tả hai trạng thái tình cảm khác nhau, đều súc tích đạt đến hiệu quả của mỗi tình thơ riêng.
                   Đoạn giữa là khổ thơ chính của bài, liền mạch tám câu nhưng ý thơ được cấu tứ thành bốn cặp. Cứ mỗi cặp hai câu nối tiếp nhau đan kết một cách khái quát quanh tình cảm và cuộc đời người mẹ cùng với quê hương:
                                 Xin người hãy trở về quê
                                 Một lần cuối... một lần về cuối thôi
                   Ta thấy sự gắn bó giữa quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn với tình thân mẫu của nhà thơ. Cái điệp khúc "một lần cuối" hơi thơ dồn dập, bởi nỗi lòng mong mỏi, khắc khoải của người con, điệp với ý cụm từ "một lần" ở khổ thơ giữa:
                                Một lần cuối... một lần về cuối thôi
                    và:
                                Còn nghe gió thổi sông xa một lần
                    Đến câu kết được điệp lại một lần nữa, thả dần tình thơ... như việc xây dựng cao trào xong rồi cởi nút kết thúc một vở kịch vậy:
                                  Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi...
                    Nỗi thơ thêm quặn thắt, tạo thành tụ điểm của tình cảm, tư tưởng nhà thơ. Nhưng nhà thơ mong mỏi người mẹ của mình kịp về quê một lần nữa để làm gì?
                                  Về thương lại bến sông trôi
                                  Về buồn lại đã một đời tóc xanh
                    "Bến sông" nghĩa là quê hương. Còn "bến sông trôi..." - Chữ "trôi" ở đây để nói về năm tháng chìm nổi của mẹ đã trải cả "một đời tóc xanh...". Hai câu thơ không chỉ nói về nghĩa gian truân, mà còn hàm ý sâu sắc sự gắn bó máu thịt giữa quê hương với cuộc đời của mẹ. Hai chữ "thương""buồn" dùng thật đắt. Nó không phải chỉ để gợi lại nỗi sầu khổ của cuộc đời, mà nếu có thì cũng quyện trong những tình cảm thân thương da diết, làm cho tình thơ cảm kích một cách lạ thường.
                    Thực ra khi tác giả viết:
                                  Lệ xin giọt cuối để dành
                    Chỉ là cách nói trào ra do cảm xúc thơ, chứ còn cả bài thơ đã đầy lệ rồi! Cái giọt lệ cuối ấy để đến khi:
                                  Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
                    Câu thơ này Trúc Thông đã đề cập đến mối quan hệ, tình cảm phu thê gắn bó không thể tách rời trong cuộc đời của mẹ. Trong thời hiện đại chúng ta ngày nay, nền giáo lý bị sàm sỡ quá nhiều. Nghĩa phu thê nhiều lúc, nhiều nơi bị phá vỡ từng mảng. Đạo vợ chồng cũng không còn giữ được mối quan hệ đạo đức cần thiết. Chồng thì thiếu sự mực thước, vợ lại quá trớn không có được đức tính tốt đẹp của người phụ nữ. Có lẽ do tác động của cả bề mặt xã hội làm cho lòng tác giả nhức nhối. Nhưng căn bản chính đạo nghĩa sâu sắc của cha mẹ đã in sâu trong ý thức, trái tim nhà thơ để anh khắc họa lên.
                    Thành thử bài thơ tuy viết khái quát mà vẫn đa diện: gia đình và xã hội, tình cảm, đạo đức gắn bó với tình yêu quê hương tha thiết. Trong thơ những hình ảnh cụ thể nhưng lại có ý nghĩa biểu tượng như "cây cau cũ", "cái giại" ở hiên nhà
                (là tấm bình phong đan bằng tre thường thấy ở một số làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ), được tác giả đưa vào trong thơ. Nó gắn bó cả cuộc đời của mẹ và gia đình anh.
                    " Bờ sông vẫn gió" của Trúc Thông là một bài thơ lục bát đạt đến độ chuẩn mực, kết hợp với lối  gieo thơ theo cảm xúc phóng khoáng của thơ hiện đại. Hình tượng ngôn ngữ giầu chất dân gian, phong thái thanh tao, âm hưởng nhẹ nhàng thường thấy ở dòng thơ cổ phương Đông. Nhịp điệu khi thì đều đều theo nhịp hai, như:
                                  Lá ngô/
                                                 lay ở/
                                                              bờ sông...
                    Khi thì dồn nén, hối hấp theo sự thôi thúc của tình cảm, chuyển sang nhịp bốn ở câu sau:
                                  Bờ sông vẫn gió/
                                                                người không thấy về
                    Hoặc là chuyển thành nhịp ba ở câu bốn:
                                  Một lần cuối/
                                                          một lần về/
                                                                               cuối thôi...




                 
                    Tạo thành mạch liên hoàn từ đầu đến cuối.  Những câu chữ, hình ảnh được lựa chọn khá tinh tế, gần gũi, chân thực với đời sống mà ý tứ vẫn sâu sắc. Giọng thơ trong tiếng nhạc lòng trầm, buồn... nhưng thơ vẫn mới, vẫn tươi. "Bờ sông vẫn gió" là bài thơ hay nhất của nhà thơ Trúc Thông - Theo như ông nói: Ông viết thể nghiệm và đã thành công khi sáng tác bài thơ lục bát này.



                <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2022 12:40:19 bởi Nhân văn >
                #8
                  Nhân văn 04.10.2014 11:32:54 (permalink)
                   
                                 ĐỌC THƠ BÙI VIỆT MỸ 
                                                             Phạm Ngọc Thái
                                     
                       Qua tập "Những luống cầy vắng mùa", Nxb Văn học 2010 - Tôi cứ phân vân đọc hết trang này đến trang khác cả tập thơ trên 80 bài của Bùi Việt Mỹ, hiện là Tổng biên tập Tuần báo Người Hà Nội, mà rồi vẫn không biết nên bắt đầu từ chỗ nào? Tập thơ đề cập đến nhiều góc cạnh cuộc đời và cũng giàu tình nghĩa. Nhưng khi gấp sách để suy ngẫm, vô tình lại mở ra một trang bất chợt gặp bài "Vầng trăng trong ngõ xóm" -  Một bài thơ thắm thiết tình quê, sâu lắng và rất  đáng yêu. Vâng, tôi xin bắt đầu những dòng bình luận về thơ anh từ bài thơ ấy!



                       Đó là cái vầng trăng mùa thu khi tác giả trở về thăm một làng xóm cũ:
                                      Tôi về giữa mùa thu
                                      Bóng tối lấp đầy ngõ nhỏ
                                      Lần từng bước tìm lối xưa chẳng rõ
                      Qua bài thơ hiện lên một người thôn nữ, có vẻ như cũng đã từng dan díu với anh trong cuộc tình xưa mà đến nay đối với anh vẫn còn son sắt, trắng thơm như hạt gạo quê ta:
                                      Và em là vầng trăng riêng
                                      Cho sáng đèn đêm đi giã gạo
                      Có phải vì người con gái ấy đã chờ anh hay bởi tình cảnh nhà còn neo nút, đến nỗi bao mùa xuân qua em vẫn chưa lấy chồng?
                                      Mẹ già yếu chìm vào xóm cũ
                                      ...Nên em lặng thinh nén nghẹn những trang thư
                        Trở về với kỷ niệm thương mến ấy lòng nhà thơ day dứt, một nỗi đau nào đó đang trích sâu vào trái tim anh:
                                      Gặp lại em vào giữa đêm thu...
                                      Thoáng gương mặt em làm tôi bối rối
                                      Cái nóng vội năm kia còn gượng chín đến bây giờ.
                        Nó vừa gắn bó cả tình quê với tình gái trai tha thiết, một tình thơ thật nhân ái và trung hậu. Một bài thơ khác nữa cũng được anh viết trong trăng, nhưng không phải trăng đêm mà là... "Trăng chiều" - Bài thơ gồm toàn những câu thơ ngắn, mỗi câu thường chỉ có 3 hay 4 chữ:
                                       Phòng lạnh buốt
                                       nỗi đam mê
                                       trang giấy gói chiều thu
                                       đầy quạnh vắng
                       Đó là một buổi chiều hiu quạnh, chiều trong hoà bình. Bỗng nhiên một mảnh trăng ló lên qua ô cửa - Thế là cùng với nỗi lòng đang trống vắng cô đơn, kỷ niệm cũ tràn về theo bóng trăng ùa vào trong phòng cùng với nhà thơ. Hồn thơ Bùi Việt Mỹ vụt ắp ra một bản thơ tình, dù đó cũng chỉ là một mối tình mộng mơ của tuổi thanh xuân:
                                       Nhớ thời thanh đạm
                                       em tìm trăng giữa chiều xanh
                                       mái tóc hương chanh
                                       rừng già, lá trẻ
                                       em thông minh
                                       bày trò chơi thơ bé
                                       thả nỗi buồn nhớ mẹ
                                       vào chiến tranh
                       Rồi theo năm tháng lùi vào dĩ vãng, tình cũng qua đi, người thiếu nữ đã xa... để phút giây anh thi sĩ bồi hồi tưởng lại:
                                       Em đi rồi
                                       hình vẫn đó trong xanh
                                       ai biết
                                       một khuôn trăng lạc khuất
                                       dưới phố
                                       chỉ dòng người mải miết
                                       ngày trong hoà bình
                        Cuộc sống cứ cuồn cuộn trôi đi như thế, ngày hoà bình lại càng thêm vội vã. Tuy những câu thơ ngắn nhưng những hình ảnh ngôn ngữ gợi lên súc tích, nhịp gieo khá điệu đàng. Thơ từng khúc, phân tứ rành rọt được gợi ra từ ký ức, giàu tính nhạc chảy xao xiết trong trăng.

                        Có lần đi ngang qua Quảng Trị dừng chân bên thành cổ, nhà thơ bùi ngùi tưởng nhớ đến vong hồn của những người đã khuất. Họ là những người lính đã hy sinh trong cuộc chiến tranh năm xưa:
                                        Chọn ngày lễ về thăm anh
                                        Lẽ là vui lắm
                                        Nhưng chỉ gặp hình hài anh trên nòng súng
                                                                    (Trò chuyện ở thành cổ Quảng Trị)
                      Nhà thơ thủ thỉ tâm tình với những con người đã ngã xuống trên mảnh đất quê hương ấy:
                                        Xin hầu anh chén rượu, nhành hoa
                      Cắm những nén hương khấn cầu cho linh hồn họ được siêu thoát. Người sống và người đã khuất cảm đồng nhau trong bao thương cảm:
                                       Thương anh tôi ngậm khóc
                                       ... Nhìn con run tay một nén hương trầm
                       Đi dọc theo con đường đất nước, tấm lòng nhà thơ còn về với bao hình ảnh thân thương của một thời được gợi lên từ cuộc chiến tranh:
                                       Hôm nay rẽ ngang Trường Sơn
                                       Bạn gái mở đường giờ nằm đâu không biết nữa
                                       Đường lội suối đã biến cầu trải nhựa
                                       Dáng em mình thành bảy sắc dương gian.
                      Một tấm lòng tri ân đầy tình nghĩa, bởi nhà thơ cũng là một trong những con người đã từng sống những tháng năm của cuộc chiến tranh máu lửa ấy. Bài thơ thật cảm động và nhắc nhở ta không bao giờ quên những người đã từng ngã xuống trên đất nước này.
                       Trong những bài thơ mà tác giả viết bằng hồi ức khi nhớ về những ngày tháng máu lửa mà anh đã từng tham gia trong đó, ta còn phải kể đến bài thơ "Không có con trong đoàn quân ấy" - Tác giả nhớ về người mẹ khi có đoàn quân đi qua. Vẫn còn văng vẳng đâu đây khi anh nghe thấy tiếng của mẹ gọi? Vì mẹ tin trong đoàn quân ấy sẽ có con mình. Nhưng mẹ gọi mãi, gọi mãi... không hiểu vì sao con mình không dừng lại? Một câu chuyện mà tác giả tưởng tượng lại chỉ từ lòng thương nhớ, nhưng đó lại là một câu chuyện có thật năm xưa. Cũng như bao bà mẹ đã từng tiễn con đi, đoàn quân nào cũng ngóng, cũng thấp thỏm bồi hồi và mong rằng sẽ có con mình trong đó! Nghĩ vậy mà lòng anh đau. Rồi khi hết chiến tranh anh trở về quê gặp mẹ - Thì than ôi! Mẹ đâu còn? Ở đây ta thấy sự mất mát, sự hy sinh vô bờ bến, tấm lòng yêu thương như biển cả của các bà mẹ Việt Nam. Thông qua chính tâm tư của một người lính là tác giả, nhớ về người mẹ ấy:
                                        Giải phóng rồi Mẹ ơi, con trở lại quê nhà
                                        Háo hức được oà vào lòng mẹ
                                        Nhưng tất cả, đâu? cứ lặng thầm, vắng vẻ
                                        Chỉ câu chuyện kia, khe khẽ tuôn...rơi
                       Bài thơ thật da diết và cảm động. Có một buổi anh bất chợt gặp lại, hay là đi đến một nơi mà ở đấy in dấu kỷ niệm của đời anh trong cuộc tình với một người con gái. Đó có thể là dưới bóng của một cây phượng vĩ vào một mùa hạ trước. Thế rồi hết mùa hạ này đến mùa hạ khác cứ trôi qua:
                                       Lại gặp nữa một mùa hạ trắng
                                       Ve chơi vơi rơi cánh phượng vàng
                                                                        (Phượng vàng)
                      Hoa phượng vẫn rơi, nhưng giờ đây đâu còn thấy bóng em xưa? Thế là cứ theo những dòng kỷ niệm, nhà thơ để cho lòng mình cùng trái tim giằng xé. Rồi anh tưởng tượng:
                                        Tôi đến muộn, đâu phải em không đến
                                        ...Vệt cỏ nhàu, lặng dấu gót chân xưa?
                     Thật ra tất cả chỉ là hồi ức trong tâm trí của Bùi Việt Mỹ mà thôi. Nỗi lòng trong anh tràn ra, cái vệt cỏ nhàu xưa đến gót chân em còn đó. Hồn thơ đầm đìa thương cảm, nhưng đồng thời đọc lên lòng ta lại thấy nhuốm chút xót xa mà cảm đồng với những thương tiếc, nhung nhớ của nhà thơ. Đúng như anh đã viết trong hai câu thơ kết:
                                       Vịn vào câu thơ tránh nỗi buồn da diết
                                       Đứng bóng rồi, trơ cánh phượng bơ vơ
                      "Phượng vàng" là một áng thơ tình đẹp, giàu cảm xúc.
                       Hình ảnh về vùng ngoại ô thành phố trong thơ anh cũng thật sâu sắc. Đó là thứ tình yêu rất máu thịt về một miền quê, nó gắn bó với bao buồn vui của cuộc đời:
                                        Quê hương mình lạ lắm em ơi!
                                        em có biết nơi cắm diều và nơi dừng cơn mưa
                                                                          là đường biên ngoại thành phía bắc
                                        nơi ta gặp nhau và thương nhau
                                        cho hẹp lại không gian xa lơ, xa lắc
                                                                           (Tản mạn ngoại thành)
                       Ta bắt gặp những hình ảnh mà ở đó từa tựa có cái gì như Nguyễn Bính:
                                        Chúng tôi mỗi làng mỗi đứa
                                        tắt qua giậu thưa mà sang nhau
                                        Con đường từ Thành phố đi về đâu không ai biết...
                       Tôi chưa biết quê anh ở đâu? Và anh lớn lên thế nào? Nhưng đọc thơ anh tôi thấy tình cảm mà anh trào ra trong những dòng thơ thân thương quá! Cả trong những phút "buông thả thời gian" như anh nói, nhưng tình cảm ấy vẫn là điểm tựa của cuộc sống, dan díu những kỷ niệm tình yêu trái tim anh. Nguyễn Bính thì viết:
                                        Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
                                        Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn...
                       Còn ở trong thơ anh:
                                        Nơi mưa ào qua nắng còn thở nồng nàn
                                        ... bên kia em lỡ bữa
                                        bên này chờ tím sẫm hoa mua
                       Vẫn rất Bùi Việt Mỹ. Những hồi ức và thực tại đan chồng lên nhau mà trào lên những dòng thơ, đẹp và rất quê! Đời tiếp đời, như thể cõi luân hồi. Đó là ý tưởng của bài thơ "Sẽ như là":
                                        Tôi cứ làm như cha, mẹ tôi và phía trước là con tôi
                                        Cứ làm
                                        Tựa những người lính hành quân rất vội
                                        Biết hy sinh, vẫn vượt rừng già hắt tối
                       Cuộc đời người cha bám biển, ngực dô ra biển, được hay thua thì ngày tháng vẫn gánh chài, ra đi từ lúc nửa đêm. Vẫn nuôi cả gia đình, các con khôn lớn. Hay như người mẹ:
                                        Mẹ tôi cũng tròn một phận
                                        Đồng chiêm, chân váng mặn, chua
                       Da sạm lại, quanh năm vẫn quần quật tảo tần, lo cho chồng, chăm con. Đấy, cuộc đời cứ thế, cứ thế mà đi mãi, sinh tồn như vũ trụ, trời đất vậy. Nhưng đọc thơ ta thấy những triết lý ấy nó tự nhiên, vững chãi, bền bỉ của cõi dân gian:
                                        Ngày, mỗi ngày lại qua
                                        Khó khăn nhiều biết mấy
                                        Hiểm nguy cũng nhiều biết mấy
                       Con người và sự sống tồn tại máu thịt trong nhau. Qua đó laị thấy tình thương yêu của con người bao la như trời biển, sống chết bên nhau đùm bọc và yêu thương. Ta càng nhớ về cội nguồn, gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn của đời mình.
                      Phân tích cho tương đối đầy đủ về tập thơ của Bùi Việt Mỹ thì sẽ còn dài, tôi chỉ xin bình luận qua một số nét để thấy sự sâu sắc trong thơ anh. Những dòng thơ chảy ra từ xúc cảm trái tim, nó thường được lấy trong đời sống thực nên những hình ảnh thơ gần gũi đời thường. Cùng với những chiêm nghiệm qua tháng năm mà xây dựng, đúc kết nên tình thơ thấm thía. 
                       "Những luống cày vắng mùa" là một tập thơ đề tài rất phong phú, sinh động trong cuộc đời, đã được tác giả dồn nén trái tim mình lên đó. Nhiều chỗ còn được nhà thơ triết lý cho thấu tình, đạt ý. Đọc thơ anh ta có thể rút ra nhiều vấn đề trong cuộc sống, cũng như cảm nhận được tấm lòng bao dung, nhân ái của mối quan hệ con người. Tình yêu quê hương cùng với tình nam nữ, chính là hai chủ đề rất cốt lõi đã chi phối tập thơ anh. Bùi Việt Mỹ đã có thêm một tập thơ đẹp và đáng yêu! Mừng anh trên cánh đồng thi ca  gặt hái được một mùa bội thu.

                     PNT.
                  Mùa đông 2011
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2014 11:36:36 bởi Nhân văn >
                  #9
                    Nhân văn 04.10.2014 11:42:05 (permalink)
                     
                              CẢ MỘT TRỜI MƯA            
                            NGHIÊNG XUỐNG EM


                    Cả một trời mưa nghiêng xuống em
                    Tôi không thể đi theo mà che chở
                    Mà ngăn lạnh mưa và cồn cào gió
                    Cả một trời mưa - chỉ có riêng em...

                    Bàn tay tôi có thể hóa mặt trời?
                    Tâm hồn tôi có thể dăng thành mái?
                    Để chở che bóng người con gái
                    Áo trắng bàng hoàng xiêu bạt giữa mưa rơi.

                    Tôi muốn cùng em chia gió lạnh giữa trời
                    Được đưa cho em bàn tay thương nhớ
                    Bởi tôi biết có phút giây nào đó
                    Tôi yếu mềm đau đớn giữa mưa bay...

                    Và em sẽ đặt vào tôi những ngón tay
                    Nâng đỡ tôi vượt qua bão tố
                    Như hôm nay nghiêng trời mưa đổ
                    Tôi vô hình lặng lẽ bước bên em...
                                                 
                          Phạm Đức

                                   
                      Lời bình Phạm Ngọc Thái
                       Một bài thơ tình, ở đó ta thấy bóng dáng của nhà thơ đang run rẩy, thương nhớ một người con gái. Phạm Đức đang yêu! Nói đúng hơn, anh đang tha thiết muốn yêu vào một ngày mưa đổ:
                                     Cả một trời mưa - chỉ có riêng em
                         Nhìn cảnh trời mưa, lòng nhà thơ cảm thấy xót xa về sự cô đơn của người con gái trong mưa? Phạm Đức nghĩ, trời mưa gió thế mà không ai che chở cho em. Cũng với tâm trạng ấy ở trong câu thơ thứ tám, anh viết:
                                      Áo trắng bàng hoàng xiêu bạt giữa mưa rơi...
                       Đó là vì anh nghĩ thế đấy chứ! Phạm Đức đang cô đơn hay người con gái kia cô đơn đây? Nhỡ bên người con gái đó đã có một người khác che chở cho em rồi thì sao? Xiêu bạt giữa mưa rơi, nghĩa là xiêu bạt giữa cuộc đời. Nhưng dù gì đi nữa, khi đọc thơ vẫn làm cho ta cảm mến vì cái tình yêu thương nhân ái của anh thi sĩ. Đó là một câu thơ đẹp, câu thơ hay!
                        "Áo trắng bàng hoàng xiêu bạt giữa mưa rơi.../- Hình tượng mang màu sắc thơ mỹ học, sống động lạ thường. Còn cảnh:

                                       Cả một trời mưa nghiêng xuống em
                         Thì không phải chỉ có riêng trời mưa… mà cả lòng nhà thơ đang nghiêng xuống em đó! Đó là cơn mưa gió cuộc đời, anh muốn chở che cho người con gái, như anh nói:
                                       Mà ngăn lạnh mưa và cồn cào gió
                       Nhà thơ khao khát được cùng em chia sẻ những buồn, vui trong cuộc sống. Như ở đoạn thơ hai:
                                       Bàn tay tôi có thể hóa mặt trời?       
                                       Tâm hồn tôi có thể dăng thành mái?                 
                                       Để chở che bóng người con gái...
                       Anh thi sĩ đã yếu lòng:
                                      Bởi tôi biết có phút giây nào đó
                                     Tôi yếu mềm đau đớn giữa mưa bay
                        Nghĩa là cả trái tim yêu đang run rẩy. Anh chợt bàng hoàng, lo lắng: không biết rồi tình yêu rồi có đến với anh không? Người con gái ấy có đến với anh không? Nhà thơ biết chính tình yêu em sẽ nâng đỡ anh vượt qua bão tố cuộc đời. Đến cuối bài hình ảnh thơ trở về thực tại, cái thực tại lúc nhà thơ cô đơn, đang đứng giữa trời mưa đổ, lòng cồn cào thương nhớ. Trong thơ anh lặng lẽ đến bên mà không biết em có hay:
                                       Như hôm nay nghiêng trời mưa đổ
                                      Tôi vô hình lặng lẽ bước bên em...
                       Phạm Đức là một nhà thơ của "Đơn phương" (*).  Anh đơn phương suốt đời và suốt đời yêu... tha thiết, chung thủy, xót xa. Cũng không hiểu vì sao, một con người đáng yêu đến nhường ấy? vị tha, nhân hòa nhường ấy… vẫn ngày ngày bóng lạnh, cô đơn? Tôi cứ nghĩ, chắc anh phải là người sẽ được nhiều phụ nữ cảm mến lắm! Chỉ có thể trách rằng thượng đế đã không công bằng?
                      " Cả một trời mưa nghiêng xuống em" là một bài thơ rất máu tim và giàu cảm xúc, tình ý chân thành,  giọng điệu nhịp nhàng, làn điệu thơ bay, đọc lên dễ làm xao xuyến hồn người.
                    -----------------
                           
                    (*) "Đơn phương" - Là nhan đề một tập thơ của Phạm Đức. 
                     
                    #10
                      Nhân văn 04.10.2014 11:45:57 (permalink)
                       
                                    XUÂN ĐA TÌNH
                                                Lời đôi trai gái người Êđê
                      YBNâu (nàng):
                       -   Đêm nay vui bạn bè anh em

                      Ta uống cho say trời đất

                      Chóe rượu này vơi lại sẽ đầy

                      Em cho anh uống cả hai bầu vú em

                      Rượu tình không bao giờ cạn...


                      KPaLUNG
                      (chàng):
                      -   Chóe rượu của anh lúc nào cũng đầy

                      Em như con nai tơ động đực

                      Nhưng anh muốn uống hai chóe rượu
                      trên ngực em
                      Bằng lòng không bằng lòng, ơi con nai non!
                      Anh chạy theo mặt trời chiều sẽ tóm được.

                                                     Nguyễn Anh Biên
                                    
                       (Bài thơ trích trong truyện ngắn cùng tên của chính tác giả) 

                       
                                        
                        Lời bình Phạm Ngọc Thái 
                          Nguyễn Anh Biên là một nhà viết kịch, đồng thời trong nghiệp bá văn chương ông còn viết rất nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết. Ông chưa bao giờ làm thơ. Ấy thế mà khi viết thiên truyện ngắn "Xuân đa tình", cao hứng ông đã tung bút để nẩy ra một bài thơ tình thật độc đáo và cũng... thật điên! Bài thơ trên thực ra không có tên đề, tôi tạm lấy tên truyện ngắn của ông mà đặt vào cho nó. Có thể nói bài thơ đã chứa đọng những yếu tố rất nhân lõi cho truyện ngắn của ông.
                            Đó là những lời yêu đương nồng nàn của một đôi trai gái người Êđê, ngồi bên chóe rượu cần vào đúng cái đêm 30 tết. Đêm ấy trong ngôi nhà bản, họ hân hoan tiếp đón một tổ trinh sát, bộ đội miền xuôi lên. Lui lại những tháng năm trước, thời kỳ của cuộc kháng chiến ta từng chứng kiến những tình cảm quân dân cá nước sâu đậm và gắn bó, nhất là ở những vùng đồng bào thiểu số. Cho nên lúc say rượu, say tình bả lả, không chỉ tình quân dân mà cả tình gái trai cũng đã rạo rực trong trái tim người con gái dân tộc. Bởi vì trước mắt YBNâu, những anh bộ đội đáng kính ấy là những chàng trai người kinh tuyệt vời, đầy cám dỗ. Nàng đã hát:
                                      Đêm nay vui bạn bè anh em

                                      Ta uống cho say trời đất
                            "Ta uống cho say trời đất" - Nghĩa là trái tim nàng đã say. Trái tim người con gái hay là trái tim đàn bà đã rung lên xao xuyến... vì cả rượu lẫn tình yêu. Men tình, men rượu ngấm vào tận da thịt cơ thể YBNâu như tác giả đã tả trong truyện:
                            "... YBNâu với thân hình cao lớn cân đối, da nâu bóng, tóc rễ tre đen nhánh hơi quăn, buông xõa trên vai trần, đôi mắt nâu mí to xa vời vợi, mơ mộng như rừng buổi sớm khi bình minh chưa kịp tở. Trông nàng tựa như cô gái Bô-hê-miêng ".
                            Nàng đã mượn rượu, mượn đà để mà thổ lộ ra những lời lả lơi, tình tứ:
                                      Chóe rượu này vơi lại sẽ đầy

                                      Em cho anh uống cả hai bầu vú em.
                            Đọc câu thơ đến sửng sốt, gai góc giật mình. Ta phải vỗ đùi đánh "đét" mà kêu lên:
                      -  Nguyễn Anh Biên chơi thơ thật tuyệt!
                            Viết đến như thế mà tình người con gái vẫn trong sáng, không tục mới sướng chứ? Tôi chợt nhớ tới đôi câu thơ của bà Hồ Xuân Hương trong bài "Thiếu nữ ngủ ngày":
                                      Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm

                                      Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.
                            Bà cũng đã đi vào cỗi rễ, nhưng đấy là cỗi rễ của thơ bà Hồ Xuân Hương. Còn Nguyễn Anh Biên đã để cho người con gái bộc lộ hết mình và tình thơ đã tự kết lại. Nó có vẻ tục mà vẫn thanh tao chăng? "thanh" vì nó chân chất, hồn nhiên không dụng ý. Cả cái suồng sã ấy cũng là thứ trong trẻo của đất trời, tạo hóa phú ban. Ta thấy sướng thơ, nó ngâm ngấm và muốn nhấm nháp hương vị hoa nhài, hoa lan của tình thơ ấy. Thật là ngôn ý phàm trần mà vẫn thơ. Viết được những câu như thế đâu phải dễ? Như anh họa sỹ vẽ nuy về người đàn bà, không giỏi thì người xem thấy sượng. Rõ ràng ngôn ngữ ấy được tác giả nẩy ra từ sự rung cảm, thăng hoa của tâm hồn. Trong sáng tác không có khả năng cảm thụ ngôn ngữ cao viết sẽ hỏng ngay. Tình thơ lả lơi ấy còn có lý bởi vì: YBNâu là một cô gái dân tộc rất đa tình, mà bản chất người dân tộc là chân chất, thật thà.
                            Quyến rũ sự ham muốn tình tứ cũng là một tính cách rất phụ nữ, dù đó là phụ nữ miền xuôi hay miền ngược, thiểu số, người kinh hay là các da màu khác nhau. Nàng YBNâu đã buông ra những lời chan chứa yêu đương: Nàng muốn hiến dâng! Trái tim nàng đang rực cháy, đòi hỏi. Sau đó, cũng qua lời người con gái tác giả hạ một câu chốt, khóa lại khổ thơ đầu:

                                      Rượu tình không bao giờ cạn.
                          Ngắn gọn, súc tích. Tất cả đều có thể thay đổi hoặc mất đi, nhưng tình là vĩnh cửu. Thế giới không có sự đam mê gái trai... sẽ không còn sự sống. Tôi gọi YBNâu là cô gái, vì trong tình thơ bộc lộ những tình cảm nồng nàn trai gái, mặc dù YBNâu đã là vợ của KPaLung - Một chàng trai Êđê.
                            Tôi bình sang khổ thơ thứ hai. Tội nghiệp cho cái anh chàng KPaLung thật thà quá, vợ mình đang lả lơi, ve vãn với mấy anh bộ đội kia, ấy thế mà chàng vẫn tưởng vợ mình tình tứ với mình? Cho nên chàng mới họa tiếp:
                                         Chóe rượu của anh lúc nào cũng đầy

                                         Em như con nai tơ động đực
                                         Nhưng anh muốn uống hai chóe rượu trên ngực em.
                            Vậy là trong tình ái say sưa, tình cảm muốn hiến dâng của người phụ nữ với mong muốn hưởng thụ của người con trai rất giống nhau - Làm cho thơ cấu kết lại. Sức truyền cảm, lay động của tình thơ thêm tụ đọng. Nguyễn Anh Biên đã mượn rượu, mượn cảnh, mượn tình, khai thác tính cách dân tộc - Để tung hồn, tung bút viết phóng. Thế mà thành thơ, còn đậm đà và chan chứa tình. Ngôn ngữ mạnh bạo quyết liệt, tha thiết của trái tim, thấm được vào lòng người. Ông để cho KPaLung ví người con gái kia:
                                      Em như con nai tơ động đực

                            Trong thi ca ví von đến thế thật đáng "sợ"! Nhưng đọc lên hóa ra lại có ý khen và ca ngợi. Huống chi đó là lời của một chàng trai Êđê, ý nghĩ hết sức trong sáng và hồn nhiên. Tôi chắc là các cô gái khi đọc những vần thơ đó sẽ không cự lại nhà thơ đâu? Ông nói đúng tâm trạng đấy chứ! Hơn nữa thời nay chị em chỉ thích làm Thị Mầu, có mấy ai lại muốn mình thành Thị Kính?
                            Bây giờ phong cách thơ ca thời đại đang được mở rộng ra phong phú rất nhiều, để đáp ứng những đòi hỏi cảm thụ mới. Bài thơ đã thành công, hàm súc, giàu tính nhân bản. Ta bàn đến hai câu thơ chót:
                                         Bằng lòng không bằng lòng, ơi con nai non!
                                         Anh chạy theo mặt trời chiều sẽ tóm được.
                            " Bằng lòng không bằng lòng..." - Không biết tác giả muốn đặt câu hỏi hay có ý khẳng định? Nhưng đọc cả hai câu ta thấy ngay tình tha thiết của người con trai. Lửng lơ như thế hóa ra làm ý thơ thêm tinh tế, mềm mại, không bị cứng nhắc. Lời như câu hát:
                                        Anh chạy theo mặt trời chiều...

                            Cách nói thật rất Êđê.
                          
                      Toàn bài thơ chỉ có 10 câu, tách biệt làm hai khổ. Nguyễn Anh Biên đã hoàn thiện tình thơ "Xuân đa tình": Tình đời thì thanh thiên, say đắm, đáng yêu. Với bản sắc của bài thơ, nó vẫn có khả năng tách biệt ra khỏi truyện ngắn của ông, để có mặt và góp tiếng nói trong thi đàn đương thời mà không sợ ngượng.
                            Mừng cho ông tuy không làm thơ nhưng đã có một bài thơ thật thú.
                       
                       


                      #11
                        Nhân văn 04.10.2014 11:48:40 (permalink)
                         
                              HÀ NỘI QUA THƠ CỦA NHỮNG THI NHÂN
                                                                                                           Phạm Ngọc Thái
                            
                                         
                              Hà Nội qua thơ của những thi nhân và trong dân gian nhiều không kể hết, cũng giống như bóng trăng trong tâm khảm mọi người, đậm tình và giầu hương sắc. Trải qua bao thế hệ đã trở thành trung tâm tụ hội chính trị, văn hoá xã hội cùng tình cảm ý chí dân tộc.
                              Cụ Nguyễn Du trên đường đi sứ qua Thăng Long (1813), xúc động mà hoài cảm về những kỷ niệm xưa:
                                        Núi Tản, sông Lô vẫn núi sông,
                                        Bạc đầu còn được thấy Thăng Long...
                                        Người đẹp thưở xưa nay bế trẻ,
                                        Bạn chơi thưở nhỏ trở thành ông.
                              Từ kỷ niệm riêng tới chung với đất nước, lòng cụ bồi hồi:
                                        Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
                                        Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô,
                                        Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
                                        Điện mới xô bồ nhịp trúc tơ.
                                                           
                        ( Thành Thăng Long )
                              Còn nữ sỹ Hồ Xuân Hương lại ngợi ca tiên cảnh ở Tây Hồ:
                                        Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa...
                                        Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thờ,
                                        Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng,
                                        Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ.
                                                     
                        ( Chơi Tây Hồ nhớ bạn )
                              Á Nam Trần Tuấn Khải (1894-1983) chơi ở thành Cổ Loa, lòng gợi nhớ tới sự tích thời Thục An Dương Vương và bi tình Mỵ Châu - Trọng Thuỷ:
                                        Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa
                                        Trải bao gió táp với mưa sa,
                                        Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc,
                                        Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha.
                                                    
                        ( Chơi thành Cổ Loa )
                              Nhà thơ Nguyễn Khuyến dẫu 30 năm xa cách, vắng bóng, mà lòng vẫn khôn nguôi nhớ về hồ Hoàn Kiếm:
                                        Ba chục năm trời cảnh vắng ta,
                                        Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhoà...
                                        Chiếc én tìm về quên lối cũ,
                                        Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ.
                                                     
                        ( Hồ Hoàn Kiếm )
                              Vũ Trấn Quốc cùng thời với cụ Cao Bá Quát đã ngợi ca cảnh phường Bích Câu:
                                        Thành Tây có cảnh Bích Câu,
                                        Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao,
                                        Đua chen thu cúc xuân đào,
                                        Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông.
                                                      
                        ( Cảnh Bích Câu )
                              Nhưng kinh đô Thăng Long trong tâm khảm các nhà thơ thời trước không chỉ được ngợi ca phong cảnh đẹp, mà còn ghi nhiều dấu ấn chống ngoại xâm - Trần Quang Khải (1241-1294) viết trên đường đưa vua về kinh đô:
                                        Bến Chương Dương cướp giáo giặc
                                        Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ.
                                                      
                          ( Phò tá về kinh )
                              Lý Thường Kiệt (1019-1105) - Ông từng làm thơ, vừa để huấn dụ vừa khích lệ lòng tự hào dân tộc của ba quân:
                                        Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,
                                        Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
                              Thời tiền chiến - Hình ảnh Hà Nội cũng rất gắn bó trong nỗi tình thơ của các thi nhân. Họ ghi lại những tâm trạng, những kỷ niệm vui, buồn... trong cuộc đời ở nơi phố phường. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương sau bao năm tháng phiêu bạt trở về phố cũ, lòng ông vẫn xốn xang:
                                        Ôi chốn ngày xưa vai sánh vai...
                                        Hồ Gươm sóng lụa bờ tơ liễu...
                                        Thấp thoáng hè qua đài phượng rụng,
                                        Lào rào thu muộn lá xoan rơi.
                                        Nửa kiếp lênh đênh dừng phố cũ,
                                        Tình thơm mộng nhỏ tóc buông vai.
                                                                 
                        ( Phố cũ )
                              Tản Đà thì mô tả trong đêm ở hồ Tây:
                                        Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi
                                        Đêm thu vằng vặc bóng theo người,
                                        Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước
                                        Tri kỷ trông lên đứng tận trời.
                                                      
                        ( Tây Hồ vọng nguyệt )
                              Trần Huyền Trân thả nỗi niềm về những ngày tháng sống lận đận trong cái túp lều bên hồ Cống Trắng, ở phố Khâm Thiên. Lòng tri kỷ với phố mà vẫn buồn man mác:
                                        Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
                                        Chạnh lòng cá nhảy với chim bay,
                                        Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
                                        Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.
                                                     
                          ( Mưa đêm lều vó )
                              Nhà thơ Thế Lữ đứng giữa đêm giao thừa Hà Nội trước năm 1945, than cho kẻ phải sống lang thang bụi đời:
                                        Lê gót mòn trên đá,
                                        Ngẩng đầu trông cơn gió thổi
                                        Lá vàng rơi lác đác
                                        Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành,
                                        Những cây khô đã chết cả mầu xanh...
                                        Hỡi người bạn! Anh định về đâu đó?
                                                       
                          ( Con người vơ vẩn )
                              Nhà giáo và cũng là một nhà thơ Vũ Đình Liên lại hoạ cảnh một Ông Đồ thường ngồi bên phố, viết câu đối thuê cho khách:
                                        Nhưng mỗi năm mỗi vắng,
                                        Người thuê viết nay đâu?
                                        Giấy đỏ buồn không thắm,
                                        Mực đọng trong nghiên sầu.
                                                        
                        ( Ông Đồ )   
                             Nguyễn Bính nói về cảnh chia ly của những người trên sân ga:
                                        Những cuộc chia lìa khởi tự đây...
                                        Những chiếc khăn mầu thổn thức bay
                                        Những bàn tay vẫy những bàn tay
                                        Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
                                        Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
                                                     
                        ( Những bóng người trên sân ga )
                              Nhưng Hà Nội trước kia không phải chỉ có buồn như thế. Nữ thi sỹ Anh Thơ đã mô tả về nỗi lòng rạo rực về một cảnh đêm Hà Nội:
                                        Căn phòng ta thênh thang hai cửa sổ
                                        Mây trắng đi qua, sông Hồng thả gió,
                                        Mỗi năm mùa hè, tắt điện đón trăng khuya...
                                                     
                          ( Căn phòng ta )
                              Thơ ngợi ca về Hà Nội trong hai cuộc kháng chiến cũng rất nhiều. Hồi đánh Pháp, Nguyễn Đình Thi đã không nén nổi xúc động khi đứng giữa Thủ đô đã được giải phóng:
                                        Hà Nội chiều nay mưa tầm tã
                                        Ta lại về đây giữa phố xưa...
                              Ông reo lên như muốn vỡ tung tim:
                                        Ta đứng khóc giữa trời mưa hắt
                                        Leng keng chuông xe điện đổ hồi
                                        Lòng ta bỗng như dòng suối mát
                                        Ta đã về đây Hà Nội ơi!
                                                         
                          ( Ngày về )
                              Những năm đánh Mỹ nhà thơ Nguyễn Mỹ đã viết về cảnh chia ly ở Hà Nội nhưng khác hoàn toàn cảnh sầu thảm xưa kia, bởi vì cuộc chia ly này Hà Nội đã tiễn người đi chiến đấu để giữ nước:
                                        Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
                                        Tươi như cánh nhạn lai hồng
                                        Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
                                        Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa...
                              Và nhà thơ kết luận:
                                        Như chưa hề có cuộc chia ly!
                                                     
                        ( Cuộc chia ly màu đỏ )
                              Vũ Quần Phương mô tả về Hà Nội trong những ngày tháng chống chiến tranh phá hoại của Giôn Xơn, để sau 12 ngày đêm lịch sử Hà Nội đã trở thành lương tri và phẩm giá loài người:
                                        Cả Hà Nội rung lên, xe xích chạy rung đường,
                                        Đêm ấy tôi nghe những em bé qua tôi
                                                                                    vẫy bàn tay sơ tán.
                                        Bé lên mười dắt bé lên năm,
                                        Hà Nội toả đi xa những cô giữ trẻ,
                                        Bệnh nhân đi và thầy thuốc đi theo.
                                        Hà Nội nhận vào lòng những cỗ pháo phòng không,
                                        Những cỗ xe tên lửa.
                                                         
                           ( Tâm sự một căn nhà )
                              Dù xưa hay nay, chiến tranh và hoà bình, đến thời buổi kinh tế thị trường mở cửa này... Hà Nội quay chóng mặt - Nhưng Thủ đô của chúng ta vẫn mãi là một thành phố trữ tình, như nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
                                        Em đưa anh vào trong bóng trăng
                                        Anh đưa em cành liễu thung thăng
                                        Đường Láng thơm bạc hà kinh giới
                                        Xuống đây, đi với anh đêm trăng.
                                                      
                           ( Đêm trăng đường Láng )
                              Thanh Thảo viết:
                                        Gia đình mình đã sơ tán chưa em,
                                        Chiều thứ bảy em có về phố nhỏ
                                        Có ngập ngừng trước khi mở cửa,
                                        Lá sấu rơi xúc động bên thềm...
                                        Gốc sấu này mòn dấu em chờ anh.
                                                      
                           ( Dòng chữ cho em )
                             Nỗi tình của nhà thơ Tế Hanh thì lại được ông diễn tả đầy thi vị:
                                        Thế là Hà Nội vắng em...
                                        Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây?
                                                       
                          ( Hà Nội vắng em )
                              Tôi cũng có nhiều kỷ niệm về Hà Nội. Dù Hà Nội đã có bao thay đổi, nhưng vẫn mãi mãi là những hồi ức như thưở còn thơ, tựa thể một ngoại ô xưa. Hơi hiu hắt mà thơ mộng, có lá sấu rụng, lá me rơi. Tối tối những đôi trai gái dắt nhau ra tình tự bên hồ. Những tiếng xe điện leng keng thưở xa xưa, những chuyến tàu chạy xình xịch vào ga Hàng Cỏ. Người tiễn kẻ đi xa, người đón kẻ trở về:
                                        Hà Nội cứ suốt đời nghe lá rụng
                                        Những ngọn đèn ô cửa mùa đông
                                        Trái sấu nhỏ bàng hoàng như kỷ niệm
                                        Nước hồ xanh rêu bám kín Tháp rùa.
                         
                                        Hà Nội cứ rầm rì trang tình tự
                                        Của những đôi trai gái bên bờ...
                                        Tà áo trắng em bay một thời thiếu nữ
                                        Theo anh hoài đến tận lúc già nua.
                         
                                        Hà Nội mới mà như là cổ tích
                                        Phía nhà ga đoàn tàu đến rồi đi,
                                        Những giọng nói lẫn vào lời gió thổi...
                                        Ai trở về... và ai sắp chia ly?
                         
                                        Đêm tóc trắng lại nghĩ về Hà Nội
                                        Nằm thở dài, nhớ quá! Bóng em xưa...
                                                    
                           (Nghĩ về Hà Nội - Phạm Ngọc Thái)

                              Hà Nội mãi mãi sống trong lòng và trái tim tôi.
                         

                        #12
                          Nhân văn 04.10.2014 11:53:13 (permalink)
                           
                                  Chử Văn Long với bài thơ
                                        đậm tính nhân tình thế thái
                                                                         Phạm Ngọc Thái
                           
                                   TRƯỚC HỐC ĐẠN THÀNH CỬA BẮC
                           

                          Cùng bạn ngồi trước thành Cửa Bắc
                          Hốc đạn cổng thành xưa nhìn lại phía tôi
                          Phút đối diện với trăm năm còn mất
                          Lại diễn ra trong tiệc rượu vui cười.
                           
                          Tôi nghĩ về những cuộc chiến tranh đã đi qua đó
                          Bao máu xương, xương máu ngập đầy
                          Người ta đã lấp đi bao đau thương
                                                                       để trồng hoa cấy lúa
                          Lưu lại làm gì một vết đạn ở đây?
                           
                          Mùa xuân phủ lên thêm một lần rêu nữa
                          Thêm một lần quên quá khứ thương đau
                          Hốc đạn giờ nhìn giống chiếc nút chai bật mở
                          Khi hơi men đã chếnh choáng trong đầu.
                                                                       
                            Chử Văn Long
                                            
                          Lời bình:  Đi qua con đường Phan Đinh Phùng, dừng lại giữa phố trông thấy một cổng thành khá lớn: mặt đá đã cũ, những mảng rễ đề, rễ đa mọc chằng chịt cùng  rêu phong mưa gió - Đó chính là "Cổng thành Cửa Bắc".  Bên cổng đối diện mặt phố, ta lại thấy một hốc đạn đại bác sâu hoắm. Sự hiện diện của hốc đạn như muốn lưu lại tàn tích về một cuộc chiến tranh đã đi qua hàng thế kỷ. Dấu vết của viên đạn đại bác mà Thực dân Pháp lần đầu tiên xâm lược nước ta cuối thế kỷ 19, khi chúng đổ bộ đánh ồ ạt vào thành đô Thăng Long. Tại đây, thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ tự tử để tuẫn tiết.
                                Vào một chiều mùa xuân, tôi cùng nhà thơ Chử Văn Long ngồi với nhau trong một quán bia nhỏ, trước cổng thành xưa…vui chuyện đàm tiếu việc văn chương. Nhìn cái hốc đạn đã cũ, rêu bám xanh rì tựa như một hốc mắt lớn - một ý thức liên tưởng giữa lịch sử với sự sinh tồn của giống nòi cứ xoáy vào tâm trí anh?... và bài thơ "Trước hốc đạn thành Cửa Bắc” đã ra đời!
                                Cái hốc đạn như hữu lý lại trở thành một nhân chứng lịch sử đang đối diện trước nhà thơ, để anh viết những câu:
                                               Hốc đạn cổng thành xưa nhìn lại phía tôi
                                               Phút đối diện với trăm năm còn mất

                              Toàn bộ chủ đề tư tưởng, nỗi đau và tình người trong sự vận động thăng trầm xã hội đã được nghén thai từ đó. Ngồi trong quán bia, tức là ngồi trong thời buổi kinh tế thị trường, những tiếng va chạm các vỏ chai, những cốc bia sủi bọt cùng những lời chúc tụng của người đời. Cái hốc đạn lại càng xoáy sâu hơn, tất cả đều: diễn ra trong tiệc rượu vui cười / - Phải chăng "phút đối diện với trăm năm còn mất" chính là ý thức về nhân quả của sự tồn tại đời sống chúng ta hôm nay?  
                               Nhưng nếu hốc đạn của quá khứ kia cũng chỉ lưu lại như một kỷ niệm thường tình, chắc chưa làm cho nhà thơ phải nhức nhối tâm can mình đến thế? Thơ được vọt trào ra từ trong sự thảng thốt của tâm hồn và trái tim anh:
                                          Tôi nghĩ về những cuộc chiến tranh đã đi qua đó
                                          Bao máu xương, xương máu ngập đầy
                                Ý nghĩ không dừng lại để chiêm nghiệm về quá khứ, mà đưa nhà thơ đến một bờ bến xa hơn: Lưu lại làm gì một vết đạn ở đây? /-  Bởi đó, không chỉ còn là dĩ vãng khi chúng ta đang phải chứng nhận bao nhiêu sự tàn bạo, đau thương ngày ngày vẫn xẩy ra của thế giới này? Nào chiến tranh vùng vịnh, máu đổ ở châu Phi, Mỹ-la-tinh, rồi nội chiến nước Nga… cùng sự tan vỡ của hệ thống XHCN ở Đông Âu. Ngay đất nước chúng ta hôm nay, cũng đâu đã có được sự bình yên? Chiến tranh vẫn đang rình rập từ nhiều phía.
                          Những tác động thực tiễn đó để tác giả buông ra hai câu mang đầy nỗi u uẩn trong lòng, kết lại bài thơ:
                                          Hốc đạn giờ nhìn giống chiếc nút chai bật mở
                                          Khi hơi men đã chếnh choáng trong đầu.
                              Rượu vãn, tiệc tàn, mặt người thì chếnh choáng hơi men. Hình ảnh cái hốc đạn lại hiện lên như chiếc nút chai sâm banh bật mở, bọt bắn tứ tung… cũng giống như các tia lửa từ hốc đạn xưa cứ chĩa thẳng vào mắt ta mà bắn - Ý của câu thơ là vậy. Bên trong tình thơ bọc chứa một tâm linh thánh thiện và khát vọng hoà bình.

                               Nói về khát vọng hòa bình trong ý tưởng thi ca Chử Văn Long còn gặp ở nhiều bài thơ khác, như "xuân về trên mộ hai người lính":
                                          Một phía bên kia, một phía bên này...
                               Chiến tranh thì người lính phía bên nào cũng... chết! Dẫu về phía ta sự hy sinh còn vì chính nghĩa, vì dân tộc. Nhưng người lính trận phía bên kia thì sao? - Họ đâu phải là thủ phạm của cuộc chiến tranh?

                              Thực chất cả hai người lính đều là nạn nhân của các cuộc chiến tranh đó. Bởi vậy  đứng trước nấm mồ của hai người lính trận, nhà thơ cùng với quê hương xót xa mà ru những linh hồn được yên giấc ngàn thu:
                                          Hoa đồng nội bừng lên quanh hai nấm mộ
                                          Cánh bướm ngây thơ cũng tới vẽ vòng
                                          Cả tiếng sáo tận bờ tre êm ả
                                          Ru vọng về giấc ngủ ngàn năm.

                               Đó chính là tư tưởng hoà hợp dân tộc, nhân sinh và thế giới quan nhà thơ.  Chử Văn Long là thi sỹ của đồng quê. Anh có một giọng thơ hiền lành, dịu ngọt rất đáng yêu.
                               Tôi trở lại với bài "Trước hốc đạn thành Cửa Bắc" - Tình thơ được viết vào mùa xuân, mà mùa xuân thì cây cối tốt tươi, đất trời trong mát với muôn hoa đua nở. Nhưng mùa xuân ở đây lại là:
                                          Mùa xuân phủ lên thêm một lần rêu nữa
                                          Thêm một lần quên quá khứ thương đau.
                               Những hình ảnh rất riêng của thơ Chử Văn Long. Ý muốn nói, thời gian sẽ rêu phong và rịt lành các vết thương. Nỗi đau nào rồi cũng dần nhoà phai theo năm tháng. Ta hãy quên cái đau mà nghiêng về phía ngọt ngào, để tác giả hạ xuống hai câu thơ hay nhất bài, có tính triết lý về sự sống:
                                          Người ta đã lấp đi bao đau thương
                                                                                  để trồng hoa cấy lúa

                                          Lưu lại làm gì một vết đạn ở đây?
                                Tôi xin phân tích ít nét đôi câu thơ sâu sắc này: "cấy lúa" mang ý nghĩa đồng nội để nói về sự sống - còn "trồng hoa" lại biểu tượng cho hạnh phúc, niềm khao khát hoà bình. Hai biểu tượng ấy kết hợp lại với nhau có nghĩa như một câu ngạn ngữ châu Âu: "Bánh mỳ và hoa hồng" - Qui luật tồn tại tất yếu của xã hội con người. Câu thơ mang ý nghĩa đời sống rất điển hình ấy được trào ra từ trong cảm xúc của nhà thơ. Đó là sự kết đúc những trải nghiệm của cuộc đời anh ở chốn đồng quê, hàm chứa cả tính triết học. Dù bất cứ đau thương nào, người ta vẫn phải lấp đi để tiếp tục "trồng hoa cấy lúa", tồn tại và vươn đến một đời sống xã hội tốt đẹp hơn.
                                Nay mái tóc của nhà thơ đã bạc, biết bao nhiêu mùa xuân vui, buồn qua đi  trong đời Chử Văn Long. Đọc lại "Trước hốc đạn thành Cửa Bắc” càng thêm thấm thía tính nhân tình thế thái ở thơ anh. Thế mới biết đời người tựa bóng câu ngang qua. Mới ngày nào còn ngồi vui chuyện với anh trong buổi chiều mùa xuân ấy, giờ như tất cả đã xa xưa.
                                      
                          PNT.
                                 Hà Nội – Ngày đầu thu 2013 
                           
                          #13
                            Nhân văn 04.10.2014 11:56:55 (permalink)
                             
                                                                        Phần II.                    


                                        BÀI VIẾT CỦA NHIỀU TÁC GIẢ

                             
                                                                             
                                           Ảnh ký hoạ chân dung nhà thơ
                             
                             
                             
                                        THƠ PHẠM NGỌC THÁI
                                                VỚI LỜI BÌNH



                             
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2014 12:02:37 bởi Nhân văn >
                            #14
                              Nhân văn 04.10.2014 12:06:20 (permalink)
                               
                                             KHOẢNG TRÔI TRONG LÁ

                               
                              Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng
                              Gió cứ trôi không hữu hạn bến bờ
                              Nhưng vẫn đó: em, anh - cuộc sống
                              Xa nhau rồi, tình cũ đến bơ vơ...

                              Có bao lá cây rơi, em đã vào xa vắng
                              Lá nuốt em. Giờ sống thế nào rồi?
                              Em sung sướng? Ưu phiền? Lãng quên hay bụi cát?
                              Mặt trăng trên trời. Tim anh rất mồ côi!

                              Hỡi những hàng cây xanh! Những con đường lá đổ!
                              Chỉ dùm ta đôi gót đỏ thời thiếu nữ em xưa…
                              Kỷ niệm về trái tim đau thổn thức
                              Chỉ dùm ta. Nào, chỉ giúp ta đi!

                              Bài hát năm xưa... bên anh em đã hát
                              Giờ đây trong lá nẻo trời nào?
                              Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng
                              Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu?

                              Con đường ta đi có bao đôi trai gái
                              Ai cũng một thời yêu, em nhỉ! Để xa nhau,
                              Để được nhớ, được buồn, được khóc,
                              Được nghe quanh đời những tiếng lá bay theo.

                              Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng…
                              Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo
                              Nhưng vẫn đó: em , anh - cuộc sống
                              Và một mối tình ta đã tặng cho hết thảy trăng sao.

                                                                                      Phạm Ngọc Thái

                                         Lời bình PHƯƠNG LOAN:
                                  Tác giả nhớ về kỷ niệm với một thiếu nữ. Năm tháng qua đi, lá rụng hết lớp này đến lớp khác:
                                                  Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng
                                                  Gió cứ trôi không hữu hạn bến bờ
                                                  Nhưng vẫn đó: em, anh - cuộc sống
                                                  Xa nhau rồi, tình cũ đến bơ vơ...
                                    Người con gái ấy giờ đây ra sao? Cuộc sống thế nào? Nhà thơ không biết! Chỉ còn lại mặt trăng trên trời với trái tim mồ côi, những làn mây trắng và tiếng lá cứ bay đi xa, xa mãi:
                                                  Bài hát năm xưa, bên anh em đã hát
                                                  Giờ đây trong lá nẻo trời nào?
                                                  Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng
                                                  Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu? 
                                    Tình yêu ấy hát trong hư vô và trăng sao, dưới những hàng cây xanh, bên những con đường lá đổ. Đoạn cuối tình thơ được điệp lại như muốn níu kéo về mối tình đã qua đi:
                                                  Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng…
                                                  Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo
                                   Quấn trong tiếng lá rụng và bóng trăng hư ảo trên trời: “ Khoảng trôi trong lá “ là một bài thơ tình da diết, được viết bằng thứ ngôn ngữ giàu hình tượng mang màu sắc hơi trừu tượng, vẳng ra từ trong ký ức và trái tim thương nhớ của nhà thơ! Lắng trong tình ý thi ca có thể làm xao động trái tim ta.

                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 47 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9