(url) Trịnh Công Sơn
Thay đổi trang: << < 456 | Trang 6 của 6 trang, bài viết từ 76 đến 84 trên tổng số 84 bài trong đề mục
hoaha 06.04.2008 08:28:38 (permalink)
Giới thiệu về TCS của Hội nhạc sỹ Việt Nam

Ns. Trịnh Công Sơn


Họ và tên:
Trịnh Công Sơn
Ngày sinh: 1939
Ngày mất: 01/4/2001
Nguyên quán: Huế
Sámg tác chính:
ca khúc trữ tình





Con người ai cũng có tên cùng với danh xưng - riêng Trịnh Công Sơn không cần đến danh xưng. Nói đến Trịnh Công Sơn hầu như ai cũng biết anh là nhạc sĩ - không chỉ biết anh là nhạc sĩ mà người yêu nhạc nào cũng thuộc của anh ít nhất một đôi câu, bởi lẽ lời và nhạc của Trịnh Công Sơn nói nhiều lẽ của đời người: nỗi buồn, niềm vui và khát vọng.

Ông sinh ngày 28/02/1939 tại Hương Vinh, Huế. Tốt nghiệp tú tài ban triết, Trịnh Công Sơn tự học nhạc, bắt đầu sáng tác năm 1958 với tác phẩm đầu tay Ướt Mi (NXB An Phú in năm 1959). Cho đến nay, nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 tác phẩm, có thể được phân loại dưới 3 đề mục lớn: Tình Yêu - Quê Hương - Thân Phận.

Nửa cuối thập niên 1950 - 1960, giữa lúc dòng nhạc Ðoàn Chuẩn đang dần ngưng với Lá đổ muôn chiều, Chiếc lá cuối cùngGửi người em gái miền Nam thì dòng nhạc Cung Tiến bắt đầu giao thoa vào với Hương xưa, Thu vàng, Hoài cảm. Tiếp tục giao thoa với dòng âm nhạc Cung Tiến, năm 1958, 19 tuổi đời, Trịnh Công Sơn đã bắt đầu dòng nhạc của mình bằng Ướt mi - một ca khúc mang đậm nỗi buồn Huế. Giai đoạn đầu, ca khúc Trịnh Công Sơn căn bản là tình khúc. Bằng nỗi cô đơn trong trẻo, đầy linh cảm mất mát của tuổi đôi mươi, những tình khúc Trịnh Công Sơn khi ấy là lời thốt lên của lớp thanh niên miền Nam sống triền miên trong âu lo, trong phấp phỏng thời cuộc. Ðó là những Thương một người, Chiều một mình qua phố, Hạ trắng... và tiếng nức nở trào lên một đổ vỡ ở Cuối cùng cho một tình yêu. Trong giai đoạn này, ca khúc Cho một người nằm xuống, đã báo hiệu cho một cái nhìn về chiến tranh. Thân phận những người lính ngã xuống chỉ là một mất mát đời đời. Báo hiệu này đã dẫn tới những ca khúc phản chiến ở giai đoạn tiếp theo của dòng nhạc Trịnh Công Sơn. Nhìn chiến tranh bằng cặp mắt trung thực ở tầm nhân loại, Trịnh Công Sơn đã kêu lên bức bối giữa cuộc đời "nồi da nấu thịt". Có lẽ vì cách nhìn như thế nên sau 30/04/1975, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ miền Nam duy nhất lại có thêm nửa khối thính giả ở miền Bắc. Anh đã tạo ra thính giả bằng chất nhạc riêng của mình. Cũng cần nói thêm rằng sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong thời kỳ này được chắp cánh nhờ giọng hát Khánh Ly. Cuộc trùng phùng này đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.

Trịnh Công Sơn bước vào địa hạt làm âm nhạc cho điện ảnh cũng từ sau giải phóng miền Nam. Anh đã có mặt ở gần hai chục phim truyện cũng như tài liệu. Từ trong những cuốn phim, ca khúc Trịnh Công Sơn lại đĩnh đạc bước vào đời, sống một cuộc sống riêng như những ca khúc khác.
Nếu ở giai đoạn trước là sự song hành của Trịnh Công Sơn với Khánh Ly, thì ở địa hạt âm nhạc cho điện ảnh lại là song hành của Trịnh Công Sơn với Phạm Trọng Cầu. Hai người bạn, hai nhạc sĩ nhiều đồng cảm với nhau luôn cùng có mặt trong từng bộ phim.
Cuối tháng 3 năm 1990, nhạc sĩ có một cõi âm thanh của hơn ba mươi năm sáng tạo, của gần 500 ca khúc thoắt một cái đã trở thành diễn viên của phim truyền hình do hãng phát thanh truyền hình BBC thực hiện.

Nhạc sĩ đã qua đời lúc 12g45 ngày 1 tháng 4 năm 2001 tại TP Hồ Chí Minh. Trịnh Công Sơn để lại cho đời một gia tài ca khúc thật đồ sộ. Nhưng lớn hơn, đẹp hơn và cao quý hơn là tâm hồn anh. Sinh thời, Trịnh Công Sơn quan niệm cuộc sống trần gian này là cõi tạm. Biết là cõi tạm nhưng Trịnh Công Sơn muốn tạm lâu dài bởi vì: "Tôi là ai mà trần gian thế. Tôi là ai mà yêu quá cuộc đời này". Trịnh Công Sơn yêu đời với một tâm hồn rất trẻ thơ.

Bao nhiêu người sẽ còn nuôi anh trong hồn. Bao nhiều người sẽ còn hát với anh và khóc vì anh. Tình người không bao giờ vơi trên cõi đời nhưng nó có luật đo lường của nó. Anh cho bao nhiêu thì sẽ được tặng lại bấy nhiêu, ấy là lẽ công bằng vậy!


http://www.vnmusic.com.vn/music/index.php?aid=nhacsi&id=4
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.04.2008 08:33:08 bởi hoaha >
#76
    hoaha 06.04.2008 08:46:51 (permalink)
    Danh mục một số bài hát của Trịnh Công Sơn

    Ghi chú: Danh mục này trích từ http://www.tcs-home.org/songs/titles



    Tên bài hát                                      Năm           Nghe mp3       Lời dịch

    Ai ngoài cánh cửa                           ?
    Bài ca dành cho những xác người       1968                            
    Bay đi thầm lặng                                   1973                            
    Bên đời hiu quạnh                                 1970-71
    Bến sông                                               1959
    Biển nghìn thu ở lại                               2000
    Biển nhớ                                                1962                             
    Biển sáng                                              <1982
    Biết đâu nguồn cội                               <1972?
    Bốn mùa thay lá                                   <1981
    Bống bồng ơi                                          1993
    Bống không là bống                               1995
    Buồn từng phút giây                               1970-71                      
    Ca dao mẹ                                               1965                       
    Cánh chim cô đơn                                    1980                           
    Cánh đồng hoà bình                               <1968      
    Cát bụi                                                   <1965                          
    Chỉ có ta trong một đời                          <1970
    Chiếc lá thu phai                                    <1983
    Chiều một mình qua phố                        <1961
    Chiều trên quê hương tôi                        <1980                         
    Chìm dưới cơn mưa                                  <1974                        
    Chính chúng ta phải nói                          <1969
    Cho đời chút ơn                                       <1993                          
    Cho một người nằm xuống                        1968                          

    Chờ nhìn quê hương sáng chói
    1967




    Cho quê hương mỉm cười
    1967





    Chưa mất niềm tin
    1968





    Chưa mòn giấc mơ
    1969





    Chuyện đoá quỳnh hương
    1982





    Có một dòng sông đã qua đời
    1966?





    Có một ngày như thế
    <1995





    Có nghe đời nghiêng
    1973-74




    Có những con đường
    1973




    Cỏ xót xa đưa
    1969




    Còn ai với ai
    <1993





    Còn có bao ngày
    1969





    Con đường mùa xuân
    1976





    Con mắt còn lại
    <1992




    Còn thấy mặt người
    <1970





    Còn tuổi nào cho em
    1964




    Cúi xuống thật gần
    1966




    Cũng sẽ chìm trôi
    1973





    Cuối cùng cho một tình yêu
    1958




    Dã tràng ca
    1962





    Dân ta vẫn sống
    <1968




    Dấu chân địa đàng
    <1962





    Diễm xưa
    1960



    Du mục
    1965





    Dựng lại người dựng lại nhà
    1968




    Đại bác ru đêm
    1967



    Để gió cuốn đi
    1971





    Đêm
    ?




    Đêm bây giờ đêm mai
    <1967




    Đêm thấy ta là thác đổ
    1968





    Đi mãi trên đường
    1999





    Đi tìm quê hương
    1967




    Đóa hoa vô thường
    1972




    Đoản khúc thu Hà Nội
    <1995





    Đời cho ta thế
    1973





    Đợi có một ngày
    1972





    Đời gọi em biết bao lần
    <1980




    Đôi mắt nào mở ra
    1968




    Đời sống không già vì có chúng em
    <1991





    Đốm lửa hồng
    2001





    Đồng dao 2000
    2000





    Đồng dao hoà bình
    1968




    Đừng mong ai, đừng nghi ngại
    1969





    Đường xa vạn dặm
    1992





    Em còn nhớ hay em đã quên
    1980





    Em đã cho tôi bầu trời
    1970





    Em đến cùng mùa xuân
    1991





    Em đến từ nghìn xưa
    1980




    Em đi bỏ lại con đường
    <1995





    Em đi trong chiều
    1969




    Em hãy ngủ đi
    1970




    Em là hoa hồng nhỏ
    1990




    Em ở nông trường em ra biên giới
    1981





    Gần như niềm tuyệt vọng
    1973




    Gia tài của mẹ
    1965




    Giọt lệ thiên thu
    1973-74




    Giọt nước cành sen
    1990




    Gọi đời lên mau
    1963-64




    Gọi tên bốn mùa
    1963-64




    Góp lá mùa xuân
    1969-70





    Hạ trắng
    1961




    Hai mươi mùa nắng lạ
    <1995





    Hành ca
    <1961




    Hành hương trên đồi cao
    1962





    Hạt điều khăn điều
    2001





    Hát trên những xác người
    1968




    Hãy cố như
    1970





    Hãy cứ vui như mọi ngày
    1969





    Hãy đi cùng nhau
    <1968




    Hãy khóc đi em
    <1972




    Hãy nhìn lại
    1972




    Hãy nói giùm tôi
    1967




    Hãy yêu nhau đi
    1970




    Hoa vàng mấy độ
    1984




    Hoa xuân ca
    1986





    Hòa bình là cơm áo
    1972





    Hôm nay tôi nghe
    1984





    Huế Sài Gòn Hà nội
    <1969





    Huyền thoại mẹ
    1985





    Khăn quàng thắp sáng bình minh
    <1991





    Khói trời mênh mông
    <1972





    Lại gần với nhau
    1965





    Lặng lẽ nơi này
    1987




    Lời buồn thánh
    1959





    Lời của dòng sông
    1964





    Lời mẹ ru
    1964





    Lời ở phố về
    1972





    Lời ru đêm
    1972





    Lời thiên thu gọi
    <1972




    Mẹ đi vắng
    1982





    Mẹ của anh
    ?





    Mênh mông Đồng Tháp
    1986




    Môi hồng đào
    1973-74





    Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
    1977




    Một buổi sáng mùa xuân
    1969




    Một cõi đi về
    1974



    Một lần thoáng có
    <1972





    Một ngày như mọi ngày
    1969





    Một ngày vinh quang một ngày tuyệt vọng
    1972





    Mùa áo quan
    ~1972





    Mùa hè đến
    1991





    Mùa phục hồi
    1973





    Mưa hồng
    1964



    Mưa mùa hạ
    1990





    Mừng sinh nhật
    1995




    Muôn trùng biển ơi
    1996





    Nắng thuỷ tinh
    <1963




    Này em có nhớ
    <1972





    Ngậm ngùi riêng ta
    ~ 1973





    Ngẫu nhiên
    1972





    Ngày dài trên quê hương
    <1967



    Ngày mai đây bình yên
    <1968




    Ngày nay không còn bé
    <1993





    Ngày về
    1969





    Nghe những tàn phai
    1972





    Nghe tiếng muôn trùng
    <1972





    Ngọn lửa
    1971





    Ngọn lửa vĩnh cửu ở Matxcơva
    1986





    Ngủ đi con
    <1967





    Ngụ ngôn của mùa Đông
    1967




    Người con gái Việt Nam
    1965



    Người già em bé
    1965



    Người mẹ Ô Lý
    1971




    Người về bỗng nhớ
    1971





    Nguyệt ca
    <1972




    Nhân danh Việt Nam
    1970





    Nhìn những mùa thu đi
    <1961



    Nhớ mùa thu Hà nội
    1984





    Như cánh vạc bay
    1964




    Như chim ưu phiền
    1976-78





    Như hòn bi xanh
    1993





    Như một lời chia tay
    <1991




    Như một vết thương
    1973-74





    Như tiếng thở dài
    1973-74





    Những ai còn là Việt nam
    <1969





    Những con mắt trần gian
    1965





    Những giọt máu trổ bông
    <1969





    Những giọt mưa khuya
    1960





    Nhưng hôm nay
    <1967





    Níu tay nghìn trùng
    1973-74





    Nối vòng tay lớn
    1968



    Nước mắt cho Quê hương
    <1965





    Ở trọ
    1973





    Ông Tiên vui
    1963





    Phôi pha
    1960





    Phúc âm buồn
    1965




    Quê hương






    Quê hương nặng đau
    1971





    Quỳnh hương
    1980




    Ra đồng giữa ngọ
    1973-74





    Rồi như đá ngây ngô
    1970-72




    Rơi lệ ru người
    1976





    Ru đời đã mất
    <1972





    Ru đời đi nhé
    1973-74




    Ru em
    1965





    Ru em từng ngón xuân nồng
    1964




    Ru ta ngậm ngùi
    1970





    Ru tình
    1993





    Rừng xanh xanh mãi
    1992





    Rừng xưa đã khép
    <1972




    Sao mắt mẹ chưa vui
    <1968





    Sẽ còn ai
    <1972





    Sóng về đâu
    1995





    Ta đi dựng cờ
    <1969





    Tạ ơn
    1964





    Ta phải thấy mặt trời
    <1969





    Ta quyết phải sống
    <1969





    Ta thấy gì đêm nay
    <1968



    Tết suối hồng
    1991





    Thành phố mùa xuân
    <1982





    Thanh quan ca
    ~ 1970





    Thiên sứ bâng khuâng
    1999





    Thuở bống là người
    1999





    Thương một người
    1958




    Tiến thoái lưỡng nan
    1998



    Tiếng ve gọi hè
    <1991





    Tình ca của người mất trí
    1967



    Tình khúc Ơ-Bai
    1992





    Tình nhớ
    1966




    Tình sầu
    1965





    Tình xa
    1966-67





    Tình xót xa vừa
    1970





    Tình yêu tìm thấy
    1982





    Tôi biết tôi yêu
    ~1972





    Tôi đã mất
    1970





    Tôi đang lắng nghe
    1981




    Tôi ơi đừng tuyệt vọng
    1992




    Tôi ru em ngủ
    <1967





    Tôi sẽ đi thăm
    <1967



    Tôi sẽ nhớ
    1980





    Trả lại em
    <1981





    Trong mỗi đời riêng
    ~1980





    Trong nỗi đau tình cờ
    1981




    Tự tình khúc
    ~1970





    Từng ngày qua
    <1972





    Tuổi đá buồn
    1961



    Tuổi đời mênh mông
    1982





    Tuổi trẻ Việt Nam
    <1969





    Tưởng rằng đã quên
    <1972





    Ước mơ về dòng điện
    1980





    Ướt mi
    1958




    Vẫn có em bên đời
    1986





    Vẫn nhớ cuộc đời
    <1972





    Vàng phai trước ngõ
    1973-74





    Về giữa Trị An
    1990





    Về thăm mái trường xưa
    1990




    Về trong suối nguồn
    1986





    Vết lăn trầm
    1963





    Vì bé ngoan






    Vì tôi cần thấy em yêu đời
    <1980





    Việt nam ơi hãy vùng lên
    <1969





    Vườn xưa
    <1993





    Xa dấu mặt trời
    1965





    Xác ta xác thù
    ~1972




    Xanh lòng tàn phai
    ~1972





    Xin cho tôi
    ~1965



    Xin mặt trời ngủ yên
    1964



    Xin trả nợ người
    1993





    Yêu dấu tan theo
    <1972



    Mong các bạn góp phần sửa sai và bổ sung. Xin gửi e-mail về webmaster. Đa tạ.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.04.2008 09:17:32 bởi hoaha >
    #77
      hoaha 24.06.2009 20:01:35 (permalink)
      Những dòng sông nhỏ

      TTO - Những dòng sông nhỏ là một bài viết trong tập sách Như những dòng sông - cuốn hồi ức mới nhất về cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn do Hoàng Tá Thích - em rể của Trịnh Công Sơn chấp bút. Nhân ngày giỗ lần 6 của người nhạc sĩ tài hoa này (1-4-2001 - 1-4-2007), TTO xin trích giới thiệu đến bạn đọc.
      Người con gái đầu tiên bước vào đời Trịnh Công Sơn là một cô gái đẹp của thành phố Huế thời bấy giờ. Chỉ là một cuộc tình lãng mạn thời niên thiếu, khi anh mới 18 và cô gái xinh tươi như một vùng cỏ non liên thiên bích ấy vừa tròn 17. Thuở đó, tình yêu của lứa tuổi này được viết bằng chữ A lớn (Amour), mà một cái nắm tay đủ làm cho nhau ngây ngất, một nụ hôn vụng về tưởng suốt đời không thể nào quên. Hơn nữa, trong cái thành phố nhỏ bé đầy những thành kiến bảo thủ ấy, anh chỉ có thể để lòng mơ mộng đến một cuộc tình nhẹ nhàng đầy tính lãng mạn.

      Cho đến một hôm nghe tin người mình yêu sắp từ giã con đường Huyền Trân Công Chúa, anh bỗng thấy lòng vấn vương một nỗi buồn man mác. Con đường đó anh vẫn thường đi qua. Ngôi nhà của nàng nằm cao cao bên bờ sông Bến Ngự, đối với anh quen thuộc biết bao. Những buổi chiều tà, cùng ngồi với nhau trong phòng đọc sách, anh có thể nhìn thấy, một chút nắng vàng vẩn vơ đọng trước hiên nhà phía trước.
      Cuộc tình trôi qua như thoáng mây bay, chẳng có một gắn bó hứa hẹn nào, nhưng lại sống mãi trong tác phẩm nổi tiếng Nhìn những mùa thu đi (nghe ca khúc) (1960): “Anh nghe buồn mình “trên ấy”, chuyện chúng mình ngày xưa, anh ghi bằng nhiều thu vắng, đến thu này thì mộng nhạt phai”. Anh thường gọi cái buồn man mác đó là la melancolie, nỗi buồn nhẹ nhàng như đang ngồi trong một khu vườn nhìn buổi chiều tà tắt nắng.
      Ướt mi (nghe ca khúc) được viết từ những giọt lệ trên khóe mắt ca sĩ Thanh Thúy lúc được chính anh yêu cầu cô hát bản Giọt mưa thu ở phòng trà Vân Cảnh (Sài Gòn) năm 1958. “Buồn dâng lên đôi môi, buồn đau hoen ướt mi ai rồi”. Hồi đó Thanh Thúy còn rất trẻ, chưa đủ tuổi để ký hợp đồng khi đi vào nghề ca hát mà đã sớm mất mẹ. Anh cũng chưa quen biết nhiều cô ca sĩ này, nhưng nhìn những giọt nước long lanh trên đôi mắt to tròn ấy, anh đã xúc động không cùng. Sau khi trở về Huế, anh ghi lại cảm xúc của mình và bài hát được gửi vào Sài Gòn cho Thanh Thúy. Ca khúc Ướt mi, có thể gọi là tác phẩm đầu tay của anh trong những năm 1959-1960, qua tiếng hát liêu trai của Thanh Thúy tại khắp các phòng trà, vũ trường Sài Gòn, đã làm cho cái tên Trịnh Công Sơn trở thành một dấu hỏi, vì thật ra ít ai biết tác giả là người như thế nào.
      Một bài nhạc khác cũng được anh viết cho Thanh Thúy, như là một kỷ niệm của người nhạc sĩ một hôm bất chợt thấy thương cho người ca sĩ lặng lẽ trở về ngõ tối sau một đêm tràn ngập ánh đèn màu: “Thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi môi... Thương ai về xóm vắng, đêm nay thiếu ánh trăng (Thương một người -1959 - nghe ca khúc).
      Đầu năm 1962, gia đình dời nhà từ đường Phan Bội Châu qua Nguyễn Trường Tộ. Đối diện nhà là khuôn viên của tòa Tổng giám mục Huế. Đứng trên ban-công, có thể nhìn thấy một đoạn đường phía bên kia cầu Phú Cam. Con đường đó, ngày ngày người con gái mang tên Diễm trong chiếc áo lụa trắng của trường Đồng Khánh, vẫn thường đi ngang, băng qua cầu, rẽ tay mặt về nhà. Hình ảnh người con gái thùy mị mang nét kín cổng cao tường rất cổ điển đó đã làm cho anh không ngày nào không nhìn xuống đường chờ đợi: Lụa áo em qua phủ mặt đường; Gót nhỏ xanh xao tựa khói sương .
      Diễm mang đến cho anh một mối tình nhẹ nhàng và lãng mạn như hai chữ Diễm xưa. Có hôm thức dậy muộn, nhìn thấy bên cửa sổ có cài một nhành dạ lý hương, anh biết người đẹp đã đi qua nhà mình. Và mỗi lần thức dậy anh đều mong nhìn thấy cành hoa cài trên cửa: “Chiều nay còn mưa, sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi, làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau”.
      Diễm xưa (nghe ca khúc) ra đời, nhanh chóng nổi tiếng khắp miền Nam, đến độ mọi người đều cho đó là một mối tình lớn của Trịnh Công Sơn. Nhưng không phải thế, vì chưa đầy một năm sau thì đôi mắt nai ngây tròn của người em mới thực sự làm anh ngây ngất.
      Cuối năm 1962, lúc anh bắt đầu cuộc sống xa nhà ở Quy Nhơn rồi Bảo Lộc, thì những cánh thư tình đã bắt đầu qua lại với Dao Ánh. Từ đôi mắt trong như nắng thủy tinh của nàng, rất nhiều ca khúc viết tiếp theo đều dành cho người con gái này. “Còn tuổi nào cho em” (nghe ca khúc) đây? “Thuở đó, tình đẹp như cơn “Mưa hồng” ươm nắng. Anh thổ lộ “em đã cho tôi quên đi muộn phiền”. Đến độ anh đã tưởng rằng “áo xưa dù nhầu, cũng xin bạc đầu, gọi mãi tên nhau”.
      Nhưng trước sau Trịnh Công Sơn vẫn là một nghệ sĩ lãng du, chưa có ý định dừng chân ở bến đỗ nào. Còn cô gái khuê các Dao Ánh lại không thể sống mãi với mối tình lãng mạn chẳng một lời một hứa hẹn. Và cuối cùng cuộc tình đã kết thúc sau nhiều năm gắn bó: Em đi bóng đổ đường dài; Để tôi ở lại miệt mài nỗi đau.
      Đầu năm 1970, trong những ngày tháng lang thang trên vùng đồi núi Đà Lạt, anh gặp một cô gái xinh đẹp đã liều lĩnh leo rào nội trú Trường Yersin để hẹn hò với anh - P.T.L môi đỏ má hồng, mắt long lanh như nước hồ Đà Lạt, đã đem đến cho anh nguồn vui mới. Trên những con đường của thành phố ngàn thông mơ mộng, anh cùng người đẹp lang thang khi xuống phố khi leo đồi. Nhưng rồi cuộc tình lại cũng như thoáng mây bay, chưa kéo dài bao lâu đã phải chia tay vội vàng.
      Khoảng cuối năm 1970, anh đang ở Huế bỗng nhận được điện tín nhắn vào Sài Gòn gấp. Vài hôm nữa đã là ngày giỗ thân phụ nhưng anh vẫn vội vã lên máy bay để chỉ kịp đến phi trường tiễn đưa người tình rời quê hương đến một phương trời xa xôi biền biệt: Em đi pháo đỏ nhuộm đường; Tôi ngồi với nỗi tiếc thương bạc lòng.
      Biết không bao giờ có thể gặp lại, làm sao giây phút tiễn đưa chẳng khỏi chạnh lòng: “Từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng... ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh (Như cánh vạc bay - 1970)”.
      Năm 1981, anh gặp Hoàng Lan. Cô gái lúc nào cũng sống động vui tươi này gợi lên hình ảnh một đôi hài ba lê duyên dáng gõ trên phím dương cầm thánh thót. Tóc mây buông xõa, môi cười họa mi, đóa hoa vàng đã nhập vào hồn làm anh ngây ngất. Nhân ngày sinh của người đẹp, anh mang đến tặng nàng 21 cánh hoa hồng màu vàng: “Yêu em một đóa hoa vàng, yêu em một phút hoàng lan tình cờ”.
      Bài hát anh viết cho Hoàng Lan năm 1981 mang tên Một thuở hoa vàng, sau được đổi thành Hoa vàng mấy độ lúc xuất bản: “Em đến bên đời, hoa vàng một đóa, một thoáng hương bay, bên trời phố lạ, nào có ai hay, ta gặp tình cờ”.
      Hồi đó, Trịnh Công Sơn vừa đến ngưỡng 40. Nếu quả thật anh đã mệt mỏi đôi chân muốn tìm một nơi ngơi nghỉ, biết đâu người con gái này có thể là người bạn đời của anh. Nhưng rồi cuộc tình cũng trôi qua. Không do phụ rẫy, không bởi nhạt phai, mà chỉ vì anh muôn thuở là chàng lãng tử.
      Khoảng năm 1990, V.A đến với anh bằng những nồng nàn của người con gái tuổi đôi mươi có nhan sắc tuyệt vời và thân hình chuẩn mực của một á hậu. V.A thường xuyên đến thăm anh ở nhà Duy Tân. Tiếc thay, cuộc tình chỉ kéo dài chưa đầy năm. Có lần, anh nhờ một người bạn trẻ đưa V.A về. Đến khi biết ra thì quá muộn màng, chàng trai ấy đã mang nàng tiên ra đi không trở lại. Chẳng biết, anh có đau khổ vì mất người yêu hay không, chỉ biết V.A có lần nhắn tin cho anh Sơn khi cô nằm trên giường bệnh, nhưng anh đã không đến thăm.
      Cuộc tình này chấm dứt để lại cho chúng ta ca khúc. Con mắt còn lại (1990): “Còn hai con mắt khóc người một con, còn hai con mắt một con khóc người, con mắt còn lại nhìn một thành hai, nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ”. Không hiểu anh nghĩ gì khi viết nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ, chỉ biết rằng mỗi lần nhắc đến tên V.A hình như anh có chút chi băn khoăn trong lòng.
      Năm 1992, sau khi đi Canada về anh thường lui tới với Hồng Nhung. Cô ca sĩ nhạc pop người Hà Nội với thân hình bé như hạt tiêu dường như làm cho anh trẻ lại. Hồng Nhung chỉ bằng nửa tuổi của anh Sơn, nhưng ngay từ đầu cô vẫn hồn nhiên xưng hô với anh một cách thân mật như người bằng vai phải lứa. Mặc dù đôi khi anh trách yêu cô là “hỗn”, nhưng lại tỏ vẻ rất thú vị.
      Khi bắt đầu chuyển sang hát nhạc Việt, Hồng Nhung trình bày ca khúc Hạ trắng với thể điệu rock. Một số khán giả yêu nhạc Trịnh Công Sơn đã bày tỏ sự không bằng lòng vì cho rằng không phù hợp phong cách nhạc Trịnh. Nhưng anh Sơn lại cười hiền hòa: “Chẳng sao, bởi vì Hồng Nhung hát bình thường sẽ không thể nào tranh được với Khánh Ly”. Dù biết là anh chỉ nói đùa, nhưng điều đó chứng tỏ anh rất thương cô gái bé bỏng này. Và có lẽ Hồng Nhung là người ca sĩ duy nhất được Trịnh Công Sơn viết riêng cho đến ba bài hát (Thuở Bống là người, Bống không là bống, Bống bồng ơi).
      Tuy rất được yêu, nhưng cũng có lúc Bống làm anh buồn. Hay có lúc Bống đã muốn nhảy lên bờ, bỏ mặc anh đợi chờ dưới suối. Như anh đã viết: “Có một con đường em không đi tới, vui buồn hội ngộ trong kiếp người”. Phải chăng đó là một lời trách móc người bạn bé nhỏ đã không chia sẻ những vui buồn trong cuộc đời với anh?
      Cuối năm 1992, một người tình cũ từ Hoa Kỳ trở về thăm anh: “Người ngỡ đã đi xa, nhưng người bỗng lại về” (Tình nhớ). Dao Ánh vẫn trong tà áo lụa ngày nào, vẫn đôi mắt của nắng thủy tinh, vẫn là đóa hướng dương vô thường, đã làm anh như sống lại với những kỷ niệm xa xưa. Không khác gì ngày xưa, vẫn chọn một chỗ hẹn hò dưới phố. Buổi chiều, anh nhờ các em gái chọn giúp một chiếc sơ mi để mặc đi đến chỗ hẹn. Năm ấy là mùa pháo Tết cuối cùng ở Việt Nam, anh bồi hồi nhìn người yêu trở lại: “Hai mươi năm xin trả nợ người, trả nợ một đời em đã phụ tôi, bao nhiêu năm em nợ bạc đầu, trả nợ một đời không hết tình đâu.” (Xin trả nợ người - 1993).
      Rồi lại bồi hồi nhìn người yêu ra đi về nơi ngút ngàn xa cách. Những cánh thư đi về nối lại chuyện tình hai mươi năm về trước. Lại tiếp tục những cuộc hẹn hò, kéo dài cho đến ngày anh nằm bệnh. Trong số các khuôn mặt người tình, có lẽ Dao Ánh là người anh yêu thương sâu đậm nhất. Phần đông những người cũ khi gặp lại đều đã thuộc về người khác, anh luôn giữ mối tương kính bạn bè. Riêng Dao Ánh đã làm cho tình cảm trong anh sống lại, hai mươi năm vơi cạn lại đầy...
      Khánh Ly không có một cuộc tình với Trịnh Công Sơn, nhưng định mệnh như đã gắn liền cái tên cô với tên anh. Cô ca sĩ này đã chân đất giã từ thành phố Đà Lạt để theo Trịnh Công Sơn hát cho sinh viên lúc chỉ hơn 20 tuổi. Nhiều người đã cho rằng trời sinh ra Khánh Ly để hát nhạc Trịnh Công Sơn. Cô yêu thương anh như một người bạn, một người anh, một người thầy, và cả một người tình. Đôi khi trước mặt những người khác, anh đã la rầy Khánh Ly như một cô học trò nhỏ. Khánh Ly cũng chỉ cười buồn.
      Suốt mười năm bên cạnh anh, Khánh Ly đã trở thành một cái gì không thể tách rời với cái tên Trịnh Công Sơn. Khánh Ly thường nói: “Tuy không một ca khúc nào của Trịnh Công Sơn viết riêng cho tôi, nhưng tôi vẫn có cảm tưởng hầu hết tất cả những ca khúc của Trịnh Công Sơn đều được viết cho Khánh Ly”. Có lẽ vì vậy mà có thể nói cô là một trong những người hiểu rõ nhất từng ca từ cũng như những tâm ý trong một số lớn ca khúc của anh. Sau năm 1975, Khánh Ly rời Việt Nam lang thang khắp thế giới với nghiệp cầm ca, nhưng không lúc nào cô rời bỏ cái tên Trịnh Công Sơn bên cạnh cuộc đời mình. Khánh Ly từng nói rằng, cô đã chết nửa cuộc đời theo Trịnh Công Sơn sau ngày anh nằm xuống.
      Đối với Trịnh Công Sơn, anh chỉ thấy Khánh Ly là một gắn bó định mệnh. Hơn mười lăm năm sau mới hội ngộ nhau ở Canada, đối diện với anh Sơn vẫn là Khánh Ly nhỏ bé ngày xưa, luôn luôn yêu thương và kính trọng người anh, người thầy của mình...
      Một điều chắc chắn là bất cứ người con gái nào tới với anh, đem đến cho anh dù chỉ một chút tình, anh vẫn nâng niu đón nhận. Ngay cả khi anh đã qua độ tuổi bồng bột mà, như anh thường nói, đôi khi ngồi bên một người đẹp chưa chắc anh đã thú vị bằng ngồi ngắm ánh nắng buổi chiều tà hay cơn mưa phùn buổi sáng, thì vẫn có rất nhiều phụ nữ vì yêu tài mà tìm đến anh.
      Anh biết ơn tất cả, bởi bản chất anh là luôn trân trọng hết thảy mọi phụ nữ mình từng quen biết trong đời.

      HOÀNG TÁ THÍCH
       
      http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=194285&ChannelID=10
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.11.2010 04:23:21 bởi hoaha >
      #78
        hoaha 15.05.2010 17:13:54 (permalink)
        Trịnh Công Sơn và lễ cưới “bí mật” sau Nhà hát Sài Gòn

        Thứ năm, 25 Tháng hai 2010, 09:03 GMT+7

        showarticletop("http://vietbao.vn","65188951")
        Tags: Trịnh Công Sơn, Nguyễn Trọng Tạo, Sài Gòn, Thanh Thúy, Trịnh Cung, Đinh Cường, người đàn bà, nhạc sĩ, lễ cưới, bóng hồng, nhà hát, bí mật, cuộc đời, năm, em

        Dường như mỗi người đàn bà đi qua cuộc đời cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đều để lại một bài hát. Một loạt bóng hồng từng xuất hiện trong lời ca như Diễm (Diễm Xưa), Nguyệt (Nguyệt Ca) hay Quỳnh (Quỳnh Hương)… và người ta cho rằng cả đời Trịnh Công Sơn không hề lấy vợ. Nhưng theo tiết lộ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì Trịnh Công Sơn không hề độc thân cả đời, mà ông đã từng lấy vợ.



        Đồn thổi những bóng hồng trong nhạc Trịnh
        Dường như có nhiều người tình ngang qua âm nhạc Trịnh Công Sơn. Mỗi người đàn bà đi qua cuộc đời cố nhạc sĩ tài hoa đều để lại một bài hát cho cuộc đời âm nhạc của nhạc sĩ đa sầu, đa cảm và đa tài Trịnh Công Sơn. Người tình của ông có khi là Diễm (bài hát Diễm Xưa): “Chiều nay còn mưa sao em không lại”; có khi tên là Nguyệt (bài Nguyệt Ca): Từ khi trăng là Nguyệt, đèn thắp sáng trong tôi/Từ khi em là Nguyệt cho tôi bóng mát thật là/Từ khi em thôi là Nguyệt, coi như phút đó tình cờ”. Có khi bóng hồng đó lại tên là Quỳnh (bài hát Quỳnh Hương): “Ta mang cho em một đóa Quỳnh/Quỳnh thơm hay môi em thơm”; khi thì lại tên là Tường Vi: “Một đêm bước chân về ngõ nhỏ/chợt nhớ đóa hoa Tường Vi”. Những bóng hồng ấy hiện lên trong thơ nhạc Trịnh thật đẹp, thật buồn để rồi một lần nhạc sĩ từng thốt lên một cách bồi hồi, xao xuyến đến nao lòng: “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ/Ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa”.
        Tên tuổi của cố nhạc sĩ từng một thời gian gắn liền với nữ ca sĩ có giọng hát liêu trai Khánh Ly. Những ai đã từng nghe Sơn Ca 7 hẳn sẽ không bao giờ quên và buộc phải nghĩ rằng, nếu không có một tình yêu thật nồng cháy giữa nhạc sĩ và ca sĩ thì không thể có một sự kết hợp tuyệt vời đến thế. Nhưng giữa họ có một tình yêu ngoài cuộc đời hay không thì không ai dám khẳng định. Có lần nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo hỏi Trịnh Công Sơn về điều này thì ông chỉ cười và hát “Áo xưa dù nhầu, cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau”.

        Còn Khánh Ly thì 13 năm sau khi ra nước ngoài đã phát biểu trên một tờ báo ở Mỹ (1988) rằng: “Tôi yêu Huế bởi từ Huế tôi mới biết thế nào là tình yêu. Tôi không muốn nhắc đến những điều đã được viết quá nhiều về một nơi chốn. Tôi chỉ muốn viết về Huế của riêng tôi và như vậy cũng có nghĩa là mở ra cánh cửa của kỷ niệm, của những hân hoan đau đớn, những ước mơ không thành, những dằn vặt ám ảnh tôi suốt 13 năm qua.








        Mười ba năm trước đã không thành, không nói thì bây giờ lẽ ra càng không nên nói. Bởi dù có thêm 100 năm nữa “hai mái đầu xanh giờ đã bạc” cũng chẳng còn bao giờ gặp lại nhau. Nếu có chăng nữa thì cũng là kiếp sau. Nhưng “tình đã tưởng yên mà tâm còn động vọng”. Thì ra 13 năm với tôi vẫn còn là cơn mộng. Chưa thoát ra được. Không thoát ra được. Không muốn thoát ra. Còn cố gắng bao che, tự lừa dối mình cũng chỉ là một cơn mộng. Đêm sẽ qua, mộng sẽ tàn. Ta sẽ tỉnh. Thấy tóc vẫn xanh với lời dặn xưa: Qua đèo Hải Vân nhớ cột tóc, kẻo gió bay nghe em!”.
        Sau này có một số ca sĩ chọn nhạc Trịnh Công Sơn cho giọng hát của mình như Hồng Nhung, Thùy Dung... Và như cố nhạc sĩ tài hoa thường nói, những giọng hát mới ấy đã làm cho âm nhạc của ông trẻ lại.


        Lễ cưới “bí mật” sau Nhà hát Sài Gòn
        Báo giới đã tốn không ít giấy mực để bàn về cuộc đời độc thân với vô số bóng hồng đi qua đời nghệ sĩ tài danh. Có người cho ông là người lập dị, có người cho đó là sự cống hiến trọn đời cho nghệ thuật. Nhưng sự thật, có rất ít người biết được rằng Trịnh Công Sơn từng cưới vợ từ năm ông 26 tuổi. Đó là một câu chuyện lạ có thật.

        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng hỏi thẳng Trịnh Công Sơn khi ông còn sống về chuyện này và Trịnh Công Sơn thú nhận rằng, lễ cưới của ông từng được tổ chức tại một nhà hàng sang trọng phía sau Nhà hát lớn Sài gòn cuối năm 1964. Cô dâu chính là người đẹp Thanh Thúy. Thanh Thúy là một vũ nữ gốc Hoa đẹp nổi tiếng thời bấy giờ, người ta thường gọi cô là Thanh Thúy Tàu hoặc Hoa Cưng. Cô làm vũ nữ ở nhà hàng Catinat nơi Trịnh Công Sơn thường lui tới và tình yêu đã nảy nở giữa hai người. Đám cưới diễn ra rất đơn giản, ngoài cô dâu, chú rể chỉ có hai người bạn thân thiết của ông là họa sĩ Trịnh Cung và họa sĩ Đinh Cường.








        Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng từng kể lại với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo rằng, trong một cuộc trò chuyện với Trịnh Cung về những người yêu “toàn nói giọng bắc” của Trịnh Công Sơn, anh mới biết chuyện này. Hai người liền đến Quán Trịnh tìm Sơn để hồi ức về lễ cưới kỳ lạ đó. Đấy là một buổi tối đẹp trời, tiệc cưới được bày trên một cái bàn ngoài ở ngoài sân cỏ. Trên bàn thắp nến. Người đẹp Thanh Thúy mặc áo đầm trắng nhảy tung tăng trên thềm.

        Trịnh Công Sơn rất vui, nói với Trịnh Cung và Đinh Cường: “Nhí nhảnh như một con chim”. Tiệc đến nửa chừng thì nến tắt. Hai người bạn nhắm mắt lại để Trịnh Công Sơn đeo nhẫn cho cô dâu. Đó là chiếc nhẫn mà Trịnh Cung và Đinh Cường góp tiền mua chung để mừng lễ cưới của bạn. “Một giọt nước nóng bỏng rơi xuống lưng bàn tay làm Sơn suýt co tay lại. Đấy chính là giọt lệ của Thanh Thúy”, Trịnh Công Sơn hồi tưởng lại với bạn và anh nói rằng: “Sơn không bao giờ quên giọt nước mắt hạnh phúc của người đẹp rơi xuống đám cưới của đời mình”. Đêm hôm đó, Trịnh Cung và Đinh Cường đưa cô dâu, chú rể về phòng tân hôn là phòng riêng của Thanh Thúy. Đến cửa phòng thì hai anh quay về. Nhưng đi được một quãng khá xa thì họ chợt nghe tiếng giầy lóc cóc đuổi theo sau lưng. Hai người ngoảnh lại nhìn, hóa ra người đuổi theo chính là chú rể Trịnh Công Sơn! Sơn vừa thở hổn hển vừa thanh minh: “Bỗng dưng ở lại một mình với một người đàn bà trước mặt, mình hoảng quá, không biết làm gì, đành bỏ chạy cho khỏe!”. Năm ấy Trịnh Công Sơn bước vào tuổi 26.

        Giờ đây người nhạc sĩ tài hoa đã vĩnh viễn dừng lại ở tuổi 63. Người ta còn viết nhiều về anh, về những “bí mật” của anh, cũng như người ta còn hát mãi hàng trăm ca khúc tuyệt vời của anh. Phải chăng, những cuộc tình như những vết thương đã làm nên tình sử Trịnh Công Sơn, khiến cho âm nhạc của anh sâu sắc và độc đáo khi ngợi ca tình yêu và phận người: “Lòng tôi có đôi lần khép cửa/Rồi bên vết thương tôi qùi/Vì em đã mang lời khấn nhỏ/Bỏ tôi đứng bên đời kia...”.

        (Theo GĐ&XH)

        Việt Báo
        showsource("65");
        (Theo_VnMedia)
        http://vietbao.vn/Giai-tri/Trinh-Cong-Son-va-le-cuoi-bi-mat-sau-Nha-hat-Sai-Gon/65188951/235/
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2010 17:15:54 bởi hoaha >
        #79
          hoaha 06.11.2010 00:25:08 (permalink)
          Vừa rồi tôi có sưu tầm được quyển sách "Trịnh Công Sơn-Vết chân dã tràng" của tác giả Ban Mai. Đọc thấy hay, tôi xin đăng để các bạn cùng thưởng thức. Quyển sách này hiện nay đang hạn chế lưu hành.
           
          BAN MAI 
           
           
           
           
          TRỊNH CÔNG SƠN
          VẾT CHÂN DÃ TRÀNG 
           
           
           
           
           
          NHÀ XUẤT BẢN lao động           
          Trung tâm văn hoá ngôn ngữ đông tây
           

          MỤC LỤC

          ·         Trang trọng đôi lời cùng bạn đọc                                                             7
          (Gs. Nguyễn Đình Chú)                                                                                
          ·         Lời mở đầu của tác giả                                                                              11
           
          PHẦN I                                                                                           
          I. Quá trình nghiên cứu                                                                               17
          II. Trịnh Công Sơn tiếng hát dã tràng                                                       28
          III. Vết chân dã tràng ngàn năm in dấu                                                    42
          IV. Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam                                          52
          V. Trịnh Công Sơn người tình của cuộc sống                                         69
          VI. Trịnh Công Sơn người ca thơ                                                              99
          VII. Thay lời kết luận                                                                                 134
          * Tài liệu tham khảo                                                                                  136
           
          PHẦN II                                                                                             
                      Phụ lục 1: Danh mục các tập nhạc Trịnh Công Sơn                              143
          Phụ lục 2: Danh mục ca khúc Trịnh Công Sơn                                      177
          Phụ lục 3: Văn bản ca từ Trịnh Công Sơn                                              195
          Phụ lục 4: Hình ảnh, thủ bút trịnh Công Sơn                                        471
           
           
           
           
          TRANG TRỌNG ĐÔI LỜI CÙNG BẠN ĐỌC
          Nguyễn Đình Chú(*)

          Dù chưa có một cuộc bình bầu, một cuộc điều tra xã hội học, tôi vẫn tán thành ý kiến của nhạc sĩ Thanh Tùng cho rằng Trịnh Công Sơn là “Người Việt Nam viết tình ca hay nhất thế kỷ”. Bởi tôi cũng nghĩ như vậy. Từ hạ bán thế kỷ XX đến nay, trong nền âm nhạc Việt Nam hoành tráng, đa thanh, đa điệu, Nhạc Trịnh – cái tên thân quen mà người đời đã đặt cho âm nhạc của Trịnh Công Sơn – là nhạc sĩ được đón nhận nồng thắm nhất, không chỉ với người trong nước, mà còn với Việt kiều sống ngoài nước, kể cả người nước ngoài. Chỉ xem báo chí tường thuật lễ tang nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đông đến hàng vạn người đã đành, mà có điều chưa từng thấy bao giờ trên đất nước ta là những người đi đưa tang, vừa đi vừa hát, dĩ nhiên là hát Nhạc Trịnh; chỉ nhìn vào sách báo viết về Trịnh, Nhạc Trịnh dồn dập ra đời trong vài ba năm sau ngày Trịnh “về làm” cát bụi, cũng đủ tin điều nói trên đây là sự thật. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời ngày 1- 4 – 2001,  ngay sau đó chưa đầy một tháng đã có sách Trịnh Công Sơn – Một người thơ ca, một cõi đi về do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha, Đoàn Tử Huyến sưu tầm biên soạn (Nxb Âm Nhạc - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 5 –2001), và vài năm sau (2004) bổ sung, tái bản với tên sách mới Một cõi Trịnh Công Sơn (Nxb Thuận Hoá - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây). Và cùng ra đời là các sách: Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy (Nxb Thuận Hoá - Tạp chí Sông Hương); Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ (Nxb Trẻ, 7 – 2001); Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người (Nxb Phụ nữ, quí II – 2001); Trịnh Công Sơn - Cuộc Đời - Âm Nhạc - Thơ - Hội Họa & Suy Tưởng (Nxb Văn Nghệ TP. HCM, 11 - 2001); Trịnh Công Sơn: một nhạc sĩ thiên tài (Bửu Ý – Nxb Trẻ - Công ty Văn hóa Phương Nam, 4 - 2003); Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế (Nguyễn Đắc Xuân – Nxb Văn học, 1 - 2003); Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử bé (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Nxb Trẻ, 2 năm 2005).
          Sách in lại những bài viết khi Trịnh còn tại thế, nhưng phần lớn và cũng là phần tâm huyết nhất, gây xúc động với người đọc nhiều nhất vẫn là sau ngày Trịnh qua đời. Chúng ta bắt gặp ở đây nhiều tên tuổi quen thuộc không chỉ trong nhạc giới mà còn là văn giới, và các ngành khác: Văn Cao, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Duy, Trần Văn Khê, Phạm Tuyên, Phó Đức Phương, Hồng Đăng, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Anh Ngọc, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Sáng…
          Kiều bào ta ở nước ngoài cũng rất mực ưu ái Trịnh. Đã có nhiều bài ngợi ca Nhạc Trịnh khi tác giả còn sống. Trước năm 1975, Tạ Tỵ đã có thể viết: “Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, không nhạc sĩ nào có thể tạo cho mình, cho thế hệ mình những cơn lốc nghệ thuật làm lay động đến chiều sâu tâm thức con người ở trong và ngoài kích thước quốc gia như Trịnh Công Sơn”. Sau ngày Trịnh qua đời, trên các tạp chí Diễn đàn, Hợp lưu, Văn học, trên nhiều website lại càng có thêm nhiều bài viết xúc động, sâu sắc về thế giới Nhạc Trịnh. Riêng tạp chí Văn học đã dành một chuyên san về Trịnh. Năm 2008, Bùi Vĩnh Phúc – nhà phê bình văn học ở Hoa Kỳ - đã xuất bản chuyên luận viết về Trịnh Công Sơn in tại Việt Nam: Trịnh Công Sơn – Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008).
          Nhạc Trịnh, đúng là trường hợp hiếm hoi trong nền nhạc của nước nhà, có khả năng vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Tại các nước Mỹ, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Nhạc Trịnh đã có chỗ đứng không dễ gì có. Riêng ở Nhật, Diễm xưa của Trịnh đã được dịch ra tiếng Nhật để hát và được chọn làm nhạc phẩm chính cho một bộ phim của một hãng phim lớn, và là nhạc phẩm Á Châu đầu tiên được đưa vào giảng dạy tại Viện Đại học Kansai Gakuin. Thêm nữa, năm 1991, cô Yoshii Michiko đã làm luận văn thạc sĩ tại Pháp bằng tiếng Pháp về đề tài Những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn. Năm 2004, Giải thưởng âm nhạc hoà bình thế giới (WPMA) được trao cho Nhạc Trịnh. Người Việt Nam ta, hẳn rất tự hào về Nhạc Trịnh. Riêng với tôi là kẻ đến muộn, nhưng nhờ có mối quan hệ ruột rà giữa văn chương mà tôi đã gắn bó một đời với ca từ của âm nhạc để từ đó trở thành người thần phục thế giới phong phú, huyền diệu, lừng lững chất nhân văn muôn thuở đặc biệt là đậm đà triết lý cao siêu hiếm thấy ở Nhạc Trịnh. Trước hết là ở ca từ. Với tôi, sự thần phục đã đi đôi với lòng biết ơn. Biết ơn trong Nhạc Trịnh có tiếng gọi đàn, gọi đàn... da diết, điều tôi hằng mong ước thiết tha đến cháy bỏng, thậm chí có kèm theo ít nhiều bức xúc trước sự khắc nghiệt của trần gian. Tiếng gọi đàn trong Nhạc Trịnh là tiếng gọi người Việt Nam ta ơi! Hãy “Nối vòng tay lớn”, “Hãy yêu nhau đi”, yêu nhau nhiều, nhiều, nhiều… nữa đi! Chúng ta đều là con cháu vua Hùng. Tổ tiên ta từng dạy Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Đừng để bất cứ một thứ định kiến nhất thời nào, một thứ rào cản nào ngăn trở. Hãy yêu nhau thêm nữa đi. Hãy “nối vòng tay lớn” thêm nữa đi. Và, tôi cũng xin được cảm ơn Nhạc Trịnh đã cho tôi một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời để từ đó tôi có đối tượng mà nghĩ về vấn đề thế nào là giá trị nhất thời, thế nào là giá trị vĩnh hằng trong thế giới nghệ thuật mà với người đời vốn cũng không đơn giản. Với tôi, giá trị của Nhạc Trịnh là trường tồn, là bất biến, dù cho sự khám phá, sự nhận chân giá trị đối với Nhạc Trịnh vẫn còn phải đặt ra mãi mãi theo thời gian như đã từng đặt ra với các thiên tài nghệ thuật khác.
          Bạn đọc kính mến!
          Từ những gì được thưa thốt trên đây, tôi lại thiết tha mong muốn quý vị hãy đến với cuốn sách này của nữ soạn giả Ban Mai. Đến với nó, trước hết là đến với một trường hợp đam mê Nhạc Trịnh tự thuở niên thiếu cho đến hôm nay Ban Mai đang làm việc tại một trường Đại học,  đã được đào tạo ở bậc thạc sĩ. Làm luận văn thạc sĩ, Ban Mai đã chọn đề tài Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn. Đây là vấn đề cốt lõi trong nội dung ca từ của Nhạc Trịnh. Do đó, nhiều bậc thầy, bậc đàn anh đi trước đã có nói tới và nói đến nhiều điều rất hay, nhưng chưa có điều kiện nói hết. Ban Mai, với yêu cầu của một luận văn thạc sĩ, dĩ nhiên, trên cơ sở tiếp thu thành quả của người đi trước, phải có sự phát triển, nâng cao bằng những phương pháp khoa học khác nữa, mà kết quả đã được ghi nhận. Nay, từ luận văn thạc sĩ, đã có sự tu chỉnh, bổ sung thêm, tác giả chuyển lên làm sách. Sách gồm hai phần chính:
          Phần I. Tiểu luận về Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn.
          Phần II. Văn bản ca từ Trịnh Công Sơn.
          Với phần I, bạn đọc đã có điều kiện theo dõi ý kiến của những người đi trước, nay đọc tiểu luận của Ban Mai chắc sẽ có sự đánh giá khách quan, công bằng đối với tác giả. Tôi xin không nói gì thêm. Tôi muốn nói nhiều đến phần II. Quả thật theo tôi đây là việc làm rất cần thiết trong công cuộc khám phá, chiếm lĩnh lâu dài đối với Nhạc Trịnh. Như mọi người đã thừa nhận trong kho báu Nhạc Trịnh, lời ca, ca từ có một vị trí đặc biệt. Riêng về ca từ, Trịnh Công Sơn đã hoàn toàn xứng đáng là thi sĩ lớn, thậm chí có người đã mệnh danh là Nguyễn Du của thời nay. Ấy thế nhưng, hỏi đã có mấy ai được tiếp xúc với khối lượng ca từ của Nhạc Trịnh một cách đầy đủ? Ngay đến con số nó là bao thì cũng mỗi người nói một cách: 300?, 500?, 800? Mà nghe đâu, chính Trịnh Công Sơn cũng không nhớ mình đã có bao nhiêu ca khúc. Phạm Văn Đỉnh, Chủ tịch Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn tại Pháp, đã công bố trên mạng thư mục bài hát Trịnh Công Sơn từ công phu sưu tầm của mình là 288 bài. Từ thực tế đó, lần này, với cuốn sách của Ban Mai, in lại 242 văn bản ca từ của Nhạc Trịnh, với sự cho phép của người thừa kế bản quyền. Tôi không chỉ hy vọng mà còn tin rằng tất cả những ai đã đam mê Nhạc Trịnh, hiện đang trên con đường đến với Nhạc Trịnh, sẽ hân hoan chào đón. Con số 242 này, dù đã là kết quả của một quá trình xông xáo, vất vả, thậm chí tốn kém của nữ soạn giả Ban Mai, nhưng chắc chắn chưa đủ so với những gì Nhạc Trịnh đã có. Chỉ mong sao, sẽ có sự bổ sung, đóng góp thêm của những ai thiết tha với kho báu Nhạc Trịnh. Và cũng xin đừng quên chỉ bảo cho soạn giả Ban Mai những điều còn bất cập, thiếu sót, trong công trình vốn là sản phẩm của nhiều năm tháng bằng niềm đam mê Nhạc Trịnh.
           
          Hà Nội, vào Thu, Mậu Tý (2008)
           
           





          [font=.vntime] 
          [font=.vntime](*) Giáo sư Văn học Việt Nam hiện đại, Đại học Sư phạm Hà Nội[font=.vntime].

           
           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.11.2010 20:19:23 bởi hoaha >
          #80
            hoaha 06.11.2010 00:31:34 (permalink)
            TRỊNH CÔNG SƠN - VẾT CHÂN DÃ TRÀNG (TÁC GIẢ BAN MAI)
             
            LỜI MỞ ĐẦU
             
            Trong nền âm nhạc Việt Nam, Trịnh Công Sơn được xem là một trong những nhạc sĩ viết lời ca hay nhất, là phù thuỷ của ngôn ngữ [7, 8]. Gần nửa thế kỷ sáng tạo, Trịnh Công Sơn đã để lại cho nền âm nhạc Việt Nam một di sản đồ sộ trên 300 ca khúc. Ca từ của ông đích thực là thơ. Một kiểu thơ lãng mạn, trữ tình, giàu chất hiện sinh, siêu thực mang đậm dấu ấn Thiền, có giá trị lớn về nội dung và nghệ thuật.


            Thế nhưng, tìm hiểu giá trị ca từ của Trịnh Công Sơn mang tính học thuật trong trường học đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Là người say mê Nhạc Trịnh, vì vậy, khi làm luận văn Cao học về Văn học Việt Nam, tôi không ngần ngại chọn ca từ Trịnh Công Sơn làm đối tượng nghiên cứu, dưới góc nhìn văn học.


            Bên cạnh việc tìm hiểu giá trị ca từ và những đóng góp của Trịnh Công Sơn trong nền văn hóa Việt Nam, công trình này trước tiên coi trọng về mặt cung cấp tư liệu. Trong điều kiện cho phép, chúng tôi cố gắng sưu tầm, khôi phục tương đối đầy đủ những ca từ thất lạc của Trịnh Công Sơn dựa trên các tạp chí, các website trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sưu tầm gần như tất cả những bài nghiên cứu ở trong và ngoài nước với nhiều quan điểm khác nhau. Điều này nhằm khách quan hoá cách nhìn trên tinh thần khoa học, vì trước đây do hạn chế về mặt tư liệu, do cách nhìn phiến diện vì nhiều lý do, công chúng chưa hiểu thấu đáo về cuộc đời và những giá trị nghệ thuật mà Trịnh Công Sơn đã cống hiến.


            Nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn, chúng tôi kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Đặc biệt, chú ý đến tính triết học trong ca từ họ Trịnh; phương pháp xếp chồng văn bản của Charles Mauron; phương pháp liên văn bản do Mikhail Bakhtin đề xuất.[30] Mặc dù coi những ca từ của Trịnh Công Sơn là những văn bản chính để khảo sát, nghiên cứu, chúng tôi còn muốn dựa vào một thứ “siêu văn bản” khác. Đó là hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, bầu khí quyển triết học, chính trị trong đó những ca từ của ông ra đời, và sự giáo dục cá nhân của chính con người nghệ sĩ. Tất cả những điều ấy cũng là những loại “văn bản khác”, qua đó, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần vào việc giúp nhìn rõ hơn chân dung tác giả, cũng như phát hiện phần chìm của tảng băng trong ngôn ngữ Trịnh Công Sơn. [4]


            Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với giáo sư Nguyễn Đình Chú, người thầy đã cho tôi nhiều ý kiến quý giá trong quá trình hoàn thiện văn bản.
            Xin trân trọng cảm ơn những lời chỉ giáo của ông Bửu Ý, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà thơ Anh Ngọc, Giáo sư Dương Viết Á, nhà văn Trần Hữu Thục (Hoa Kỳ), nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc (Hoa Kỳ).


            Đặc biệt, tôi chân thành cảm ơn Tiến sĩ Khoa học Phạm Văn Đỉnh - Chủ tịch Hội Văn hóa Trịnh Công Sơn (Pháp), và những người bạn Nam Dao, Trần Vũ, Nguyễn Hương, Thơ Thơ đã cung cấp cho tôi nhiều tư liệu quý báu.


            Trân trọng cảm ơn cô Trịnh Vĩnh Trinh - đại diện pháp lý bản quyền tác giả - đã cho phép tôi công bố văn bản ca từ Trịnh Công Sơn.


            Cuối cùng, chân thành cảm tạ ông Đoàn Tử Huyến - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây - đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc biên tập hoàn chỉnh bản thảo cuốn sách này và đưa nó đến tay bạn đọc.

            Trong điều kiện hạn chế về mặt khả năng nghiên cứu, công trình chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của quý bạn đọc.
             
            Tháng 8/2008
            BAN MAI

            (Nguyễn Thị Thanh Thúy)

            <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2010 06:33:03 bởi hoaha >
            #81
              hoaha 06.11.2010 00:33:52 (permalink)


              TRỊNH CÔNG SƠN - VẾT CHÂN DÃ TRÀNG (TÁC GIẢ BAN MAI)
               

              Phần I

              TRỊNH CÔNG SƠN


              VẾT CHÂN DÃ TRÀNG
               

              I. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU

              1. Về thư mục bài hát

              Công chúng thường phỏng đoán Trịnh Công Sơn đã sáng tác hơn 400 ca khúc, có người đã tăng số ấy lên 600, 800 bài, thậm chí có người tăng đến 1000 bài, nhưng không ai đưa ra chứng cớ cụ thể, không biết dựa vào tài liệu nào để phỏng lượng như vậy. Chính Trịnh Công Sơn, lúc sinh thời, cũng không biết mình đã viết bao nhiêu ca khúc vì thời chiến tranh sống cuộc đời trốn tránh, lang bạt ông không có điều kiện giữ gìn, những sáng tác ấy thất lạc khắp nơi.

              Năm 1991, cô Yoshii Michiko, một sinh viên người Nhật làm luận văn cao học về nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, đã sưu tầm được 196 bài hát, trên cơ sở tài liệu do chính Trịnh Công Sơn cung cấp dựa vào trí nhớ tác giả hoặc của các ca sĩ. [64]

              10 năm sau, khi Trịnh Công Sơn qua đời năm 2001, những bạn bè của ông ở trong nước và ngoài nước cố công sưu tầm những bài hát của ông qua nhiều nguồn. Hiện nay trên mạng Hội Văn hóa Trịnh Công Sơn, trong thư mục Bài hát, Ts.Kh. Phạm Văn Đỉnh đã kỳ công sưu tầm được 288 bài, có chú thích năm tháng cẩn thận. Có lẽ đó là thư mục bài hát tìm được nhiều nhất tính cho đến thời điểm hiện nay.
              Khi sưu tầm ca từ Trịnh Công Sơn để nghiên cứu, bước đầu chúng tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, qua thời gian dài sưu tầm công phu, cẩn trọng với những cứ liệu có được, chúng tôi nhận định Trịnh Công Sơn sáng tác khoảng trên 300 bài hát. Ts.Kh. Phạm Văn Đỉnh cũng đồng ý như vậy.
               
              2. Về nhưng bài nghiên cứu

              Hiện tượng Trịnh Công Sơn

              Âm nhạc của Trịnh Công Sơn, ngay từ khi mới ra đời và xuất hiện trước công chúng đã gây được tiếng vang và nhanh chóng trở thành hiện tượng. Từ đó đã có những bài viết về nhạc của ông. Chúng tôi tạm phân ra hai thời kỳ: Thời kỳ ông còn sống và sau khi ông mất.
              Thời kỳ Trịnh Công Sơn còn sống: Qua tư liệu chúng tôi sưu tầm được, trước năm 1975 có vài tờ báo viết về hiện tượng nhạc Trịnh Công Sơn với những nhận định chung chung về thiên tài âm nhạc của Trịnh. Như các bài: Phong trào da vàng ca của Lê Trương, Trịnh Công Sơn của hoạ sĩ Tạ Tỵ, Huyền thoại về con người của Tô Thùy Yên. Trong các bài viết đó, nhận định của Tạ Tỵ rất đáng chú ý. Ông cho rằng: “Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, không nhạc sĩ nào có thể tạo cho mình, cho thế hệ mình, những cơn lốc nghệ thuật làm lay động đến chiều sâu tâm thức con người ở trong và ngoài kích thước quốc gia như Trịnh Công Sơn. Trong vòng 4-5 năm trở lại đây, tiếng Nhạc Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly đã đi hẳn vào đời sống tâm linh của những người trẻ tuổi bằng niềm đau xót và phẫn nộ xen kẽ trong một hoàn cảnh không mấy thuận lợi vì tình hình quân sự và chính trị”.[45] Nhìn chung, các bài viết trên chỉ cho ta cái nhìn toàn cảnh về âm nhạc Trịnh Công Sơn trong bối cảnh xã hội chiến tranh loạn lạc lúc bấy giờ, không có bài viết nào nghiên cứu sâu về ca từ Trịnh Công Sơn.

              Đến năm 1991, khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn còn sống, có một luận văn cao học viết về nhạc của ông, do cô Yoshii Michiko người Nhật nghiên cứu với đề tài Những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, viết bằng tiếng Pháp, đánh máy chữ rất thoáng, mỗi trang chứa khoảng 20 hàng, có lẽ với máy đánh chữ Olympia của Nhật, cho phép gõ phím với dấu tiếng Việt. Gồm tất cả 135 trang, kể cả trang tựa và phần phụ lục. Đã được bảo vệ tháng 9/1991 tại Đại học Paris 7. Bản dịch tiếng Việt tôi hiện có, đánh máy vi tính khoảng 60 trang (phần bài viết). Luận văn này giới thiệu những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, nhằm chứng minh đó là những kiệt tác về âm nhạc, từ đó giúp người nghe nhạc hiểu tốt hơn về những bài hát phản chiến của ông.[64]

              Tóm lại, trong khoảng thời gian Trịnh Công Sơn còn sống, việc nghiên cứu ca từ của Trịnh Công Sơn rất hạn chế, do nhiều nguyên nhân: trước năm 1975 do chiến tranh loạn lạc, sau năm 1975 trong quan điểm chính thống có nhiều luồng tư tưởng còn cực đoan, phiến diện. Đây đó, trên những tờ báo trong nước và nước ngoài chỉ giới thiệu về hiện tượng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong âm nhạc và trong cuộc đời, chưa đi sâu khai thác những đóng góp của ông về nghệ thuật ca từ.
              Sau khi Trịnh Công Sơn qua đời ngày 01/04/2001, người ta mới nghiên cứu nhiều về cuộc đời và những sáng tác của ông.

              Tại Việt Nam
              Có nhiều tác phẩm của Nhiều tác giả biên soạn, lần lượt ra đời tập họp những bài phê bình của các tác giả trong và ngoài nước (lấy lại trên các trang web hải ngoại và được biên tập lại) gồm những bài phỏng vấn, những bài nghiên cứu, cảm nghĩ của bạn bè.
              Sau 01/04/2001, cuốn sách ra đời đầu tiên viết về người nhạc sĩ vừa quá cố là cuốn Trịnh Công Sơn - Một người thơ ca một cõi đi về do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến sưu tầm và biên soạn; sau đó được bổ sung, biên soạn lại và xuất bản lại với tựa đề Một cõi Trịnh Công Sơn (2004).

              Tiếp theo, lần lượt được phát hành các cuốn Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ, Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người, Trịnh Công Sơn - Cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội họa & suy tưởng.
              Ngoài ra còn có các tác phẩm khác của Bửu Ý, giảng viên tiếng Pháp Trường Đại học Sư phạm Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà nghiên cứu xứ Huế Nguyễn Đắc Xuân.

              Ở đây, chúng tôi điểm qua 3 tập tiêu biểu của Nhiều tác giả:
              Thứ nhất là tập Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người do Nhà xuất bản Phụ Nữ ấn hành năm 2003, dày 208 trang. Cuốn sách nhỏ, khiêm tốn, in thoáng, chữ rõ, tâp hợp một số bài viết thiên về người mẹ, người phụ nữ. Nổi bật trong tập sách này có bài Kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận của Bửu Ý, với những nhận định sắc sảo: “Tình yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình. Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan vỡ… Cái đẹp ở đây là cái đẹp siêu thực, tức là ít nhiều nhuốm màu sắc ý chí của kẻ chủ trương và đồng thời nhạt bớt hương vị của thường tình… Quê hương nổi bật hai nét lớn: nghèo và chiến tranh. Cái nghèo còn là hậu quả của chiến tranh. Và chiến tranh diễn ra không phải ở chiến trường, không phải do người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tròn, ở trong lòng người, ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh… Trịnh Công Sơn quả quyết “Chỉ có ta trong một đời” và dứt khoát chọn lựa: Sống, Sống hết mình. Không khất hẹn, không chờ đợi, không ủy quyền… Phải ôm cho hết cuộc đời nhị nguyên cồm cộm này, bao gồm những cặp phạm trù khó dung nạp nhau nhưng khó phân ly: sống/chết; buồn/vui; hạnh phúc/khổ đau”. [55;125-136]

              Thứ hai là tập Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ, của Nhà xuất bản Trẻ, 2004, dày 416 trang. Bìa cứng, có chân dung tự họa của Trịnh Công Sơn, năm 1999, sau một cơn bịnh “thập tử nhất sinh”. Ấn phẩm này trình bày đẹp, in ấn trang nhã, tập hợp 26 bài viết của Trịnh Công Sơn, 28 bài viết về Trịnh Công Sơn trước ngày 1/4/2001, 87 bài của bạn bè sau 1/4/2001 và một số hình ảnh tư liệu về Trịnh Công Sơn. Nổi bật có bài Hành tinh yêu thương của Hoàng tử của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhận định về tình ca, nhà văn họ Hoàng cho rằng: “…Với Sơn, Người Tình là người đối thoại cần thiết, và vì thế trong tình ca Trịnh Công Sơn, người nói không là “Anh” mà là “Tôi và Em”. Hai tiếng Anh - Em ngọt ngào đó hình như không thích hợp với những điều cay đắng. Không thích hợp với nhiều thứ gai góc cuộc đời, như thân phận, cái chết và nỗi tuyệt vọng: “Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng tuyệt vọng”. Đến đây thì mọi sự đã ngã ngũ, rằng Tình ca Trịnh Công Sơn chính là siêu hình học, và vì thế không bao giờ cũ”.[37;128]


              Thứ ba là tập Một cõi Trịnh Công Sơn, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2004, dày 650 trang. Công trình gồm 51 bài viết của 43 tác giả, trong đó có nhiều bài trùng với tập Người hát rong qua nhiều thế hệ, phần Phụ lục 1 có văn xuôi Trịnh Công Sơn, đặc biệt có truyện ngắn Chú Lộ, và phần Phụ lục 2 gồm 73 ca từ của Trịnh Công Sơn.

              Đánh giá về ca từ Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Phạm Tuyên viết: “Trong lĩnh vực ca khúc, lời ca có một vị trí hết sức quan trọng và về mặt này Trịnh Công Sơn thực sự là một nhà thơ. Lời ca anh không dễ dãi tùy tiện, mà luôn luôn ẩn sâu một triết lý về cuộc đời và điều đáng nói là anh đã tìm được những giai điệu phù hợp, dung dị, không cầu kỳ, kiểu cách để thể hiện nội dung đó. Đối với người sáng tác, có được một phong cách riêng là một điều phải phấn đấu. Trịnh Công Sơn không chủ tâm tạo cho mình một sự khác biệt lập dị, nhưng bằng tình cảm chân thành của mình, anh đã có được một phong cách rất riêng được sự mến mộ của đông đảo công chúng. Sẽ còn có nhiều công trình nghiên cứu về hàng trăm ca khúc của anh với những sự đánh giá có thể khác nhau, nhưng phải khẳng định rằng sự nghiệp sáng tác của anh đã góp phần xứng đáng vào nền ca khúc Việt Nam hiện đại”. [36; 463]

              Ngoài ba tập sách của Nhiều tác giả trên, còn có ba tác phẩm cá nhân:
              Thứ nhất là tập: Trịnh Công Sơn một nhạc sĩ thiên tài (2004) của Bửu Ý – một người bạn thân từ thời trai trẻ của Trịnh, hiện đang giảng dạy tiếng Pháp tại Trường Đại học Sư phạm Huế. Ông viết lại từng chặng đời của Trịnh Công Sơn và phân tích một số chủ đề và nghệ thuật ngôn ngữ trong ca từ, bên cạnh còn có những thủ bút của Trịnh. Ngoài ra Bửu Ý còn cung cấp một số bài viết của người nước ngoài viết về Trịnh Công Sơn.

              Tiếp đến, nhà nghiên cứu xứ Huế Nguyễn Đắc Xuân cho ra đời tác phẩm Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế (2003). Những tư liệu sưu tầm tương đối đáng tin cậy ấy đã cho ta một cái nhìn xác đáng về cuộc đời của Trịnh. Bên cạnh đó, tác giả đã có công trong việc truy tìm lại bài Dã Tràng ca (còn có tên Trường ca Tiếng Hát Dã Tràng), được sáng tác thời học Sư phạm Quy Nhơn bị thất lạc đến nay.
              (1)
               Riêng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường – bạn thân của Trịnh - ngoài bài viết Hành tinh yêu thương của Hoàng tử bé in ở tập Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ còn cho xuất bản tập Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử bé (2005) với những bài tùy bút viết về kỷ niệm của hai người và những cảm nhận về nhạc phản chiến, tình ca Trịnh Công Sơn.


              Tại Hải Ngoại
              Ngay từ ngày 02/04/2001, sau khi Trịnh Công Sơn vừa mất một ngày, Diễn đàn là tạp chí đưa tin và có bài viết sớm nhất về ông, chủ yếu là tập hợp các bài viết của bạn bè sinh sống ở Âu, Mỹ. Tiếp đó, trung tuần tháng 4/2001, tạp chí điện tử Văn học Nghệ thuật đã nhanh chóng đưa lên mạng Phụ trương Đặc biệt, phong phú và đa dạng với nhiều bài viết từ trong và ngoài nước, chủ yếu là kể lại những kỷ niệm và cảm xúc của bạn bè dành cho Trịnh Công Sơn.
              Tạp chí Hợp Lưu (2001) tại Hoa Kỳ dành 72 trang đầu viết về ông. Trong đó, có bài Chiêm ngắm đóa hoa vô thường của Hà Vũ Trọng, khẳng định nhạc của ông là thơ, ông viết: “Chúng ta yêu Nhạc Trịnh Công Sơn vì trong nhạc của anh có thơ. Vậy, chúng ta có được cả hai. Tự thơ đã là một loại nhạc biểu hiện cái đẹp và sự hài hòa của chữ nghĩa. Nhạc thơ ở anh song sinh từ niềm thôi thúc muốn tỏ tình với cuộc đời. Nhạc thơ đó cũng lung linh ảo diệu như bóng trăng in trên mặt nước mà chúng ta thường không phân biệt nổi đâu là nhạc là thơ. Nếu nhạc là con sông thì thơ là con trăng nhập vào mặt nước thành con thuyền chở tình yêu của anh. Nói cách khác, thơ và nhạc là đôi cánh để bay chở tình yêu trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn, không thể tách lìa được”. [48;17]

               Đặc biệt, tạp chí Văn học (2001) tại California, Hoa Kỳ dành nguyên một ấn bản với chủ đề: Trịnh Công Sơn Tình yêu, quê hương, thân phận, gồm 20 bài, dày 245 trang. Tranh bìa do họa sĩ Đinh Cường vẽ. Trong đó, có bài nghiên cứu Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn của nhà văn Trần Hữu Thục (Hoa Kỳ) rất công phu, ông so sánh kỹ thuật viết của Trịnh Công Sơn khi viết về hai dòng nhạc tách bạch: dòng nhạc về chiến tranh – hòa bình, và dòng nhạc về tình yêu, thân phận. Ông nhận định “… Trong hầu hết những bài hát thuộc loại chiến tranh và hòa bình, anh viết bằng một lối viết rất hiện thực, kể cả khi mô tả những giấc mơ, những ước vọng. Hiện thực kinh khiếp đó được mô tả bằng chữ nghĩa sống động và đầy hình ảnh: trái tim rơi theo đại bác, thịt người cho thú nhai ngon, thịt xương đã phơi đồng xanh, đại bác ru đêm dội về thành phốMọi sự hoàn toàn khác hẳn khi ta bước vào tình ca và thân phận. Tất cả bắt đầu chông chênh ở biên giới chữ nghĩa, ý tưởng bởi vì có một sự pha trộn đặc biệt giữa nhiều hình ảnh và ý tưởng cũng như ẩn dụ… tạo ra những hình ảnh, biểu tượng mới và rất nhiều khi tạo nên những hiệu ứng đặc biệt về mặt âm thanh: tuổi đá buồn, nắng khuya, mặt trời ngủ yên, miệng ngọt hạt từ tâm.”. [50; 57-58]


               Và kỳ công hơn là bài viết của nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc (Hoa Kỳ), Trịnh Công Sơn, ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật. Bằng phương pháp thi pháp học, kết hợp với phương pháp xếp chồng văn bản (superposition) của Charles Mauron và phương pháp liên văn bản nói chung, ông khảo sát kỹ thời gian, không gian nghệ thuật và cách sử dụng ngôn ngữ kỳ ảo trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn. Theo ông, trong nhạc Trịnh Công Sơn, chủ yếu có những loại thời gian nghệ thuật sau: thời gian phai tàn, thời gian tiếc nuối, thời gian trông ngóng, thời gian hướng vọng thiên thu, và thời gian thực tại. Không gian nghệ thuật bao gồm không gian Trời đất, không gian Núi và Biển, không gian Sông, không gian Rừng, không gian Phố, với những biểu tượng gắn vào các không gian này như Sóng, Mây, Mưa, Nắng, Mặt trời, Mặt trăng... Ngôn ngữ nghệ thuật trong ca khúc Trịnh Công Sơn kỳ ảo vì chúng thường được kết hợp với nhiều biện pháp tu từ. Và cuối cùng ông kết luận: “Trịnh Công Sơn là một thi sĩ. Anh sống trong thời đại của mình, và anh có những giấc mơ. (...) Có lẽ, nếu muốn, chúng ta cũng thấy được tầm cỡ của thời đại mình qua những giấc mơ và thế giới mà Trịnh Công Sơn đã sống, đã yêu và đã cùng xót xa với chúng”.[46; 172]


              Kế đến là bài Trịnh Công Sơn, tiếng hát hòa bình của nhà phê bình Đặng Tiến (Pháp), bàn về ca khúc phản chiến, ông giải thích: “Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, anti-war, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hòa bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nửa một số nhạc tình thuần túy, nội dung không quan hệ đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến”. [10; 176]

              Bên cạnh những tác phẩm trên, còn phải kể đến một số bài phê bình khác in trên tạp chí và trên mạng rất công phu như Ảo giác Trịnh Công Sơn của Lê Hữu (Hoa Kỳ), nói về những ảo giác mà ca từ Trịnh Công Sơn tạo ra. Tuy bài viết có nhiều quan điểm phiến diện, nhưng phần phân tích ca từ rất kỳ công và nhiều chỗ tinh tế. Bài viết đăng trên tạp chí Văn học tại California, Hoa Kỳ tháng 02&03/2004; và trên mạng tcs-home.org.

              Ngoài những công trình trên, chúng tôi còn tìm thấy các bài sau đây:
              Nhạc chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn, của giáo sư Cao Huy Thuần (Pháp) trong Đêm tưởng niệm Trịnh Công Sơn do Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn tổ chức tại Paris, 3/5/2003, “thuyết văn” sắc sảo về nội dung những bài hát chủ đề này, đăng lại trên mạng tcs-home.org; Thời thanh xuân Trịnh Công Sơn của Sâm Thương (tcs-home.org); Trịnh Công Sơn và Những Phố Xa, của Ngự Thuyết (Hoa Kỳ) trên mạng (suutap.com) phân tích kỹ về không gian phố trong ca từ Trịnh Công Sơn. Tiếng Việt trong dòng Nhạc Trịnh Công Sơn của Phạm Bân (suutap.com); Bài phỏng vấn Khánh Ly của nhà báo Bùi Văn Phú tại Hoa Kỳ tháng 7/2004, nguồn Tạp chí Văn (California) số 92, tháng 8/2004; Cái chết, Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh trong nhạc Trịnh Công Sơn (2007) của John C. Schafer (talawas.org); (tcs-home.org), tóm lược lại từ văn bản tiếng Anh rất đồ sộ. [65]

              Ngoài nữa còn có nhiều trang web tập hợp tất cả hình ảnh, bài hát, đĩa nhạc, bài viết, phê bình, thủ bút của ông, cập nhật thường xuyên. Như trên trang web suutap.com tại Mỹ và  tcs-home.org tại Pháp.

              Nhìn chung, điểm qua các công trình nghiên cứu, sưu tầm được, chúng tôi nhận thấy như sau:
              - Theo thời gian, các công trình nghiên cứu đã cố gắng dựng lại trung thực cuộc đời âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong bối cảnh đất nước trước và sau chiến tranh 1975.
              - Hầu như các nhà nghiên cứu đều khẳng định Trịnh Công Sơn là một hiện tượng văn hóa lớn trong thế kỷ XX, ông không những là một tài năng lớn trong âm nhạc mà còn là một nhân cách lớn trong một bối cảnh Việt Nam đầy biến động.
              - Nghiên cứu, đánh giá Trịnh Công Sơn nhìn chung thường trong trạng thái hỗn hợp giữa nhạc và lời. Nhưng dù vậy, căn cứ trực tiếp hơn vẫn là thiên về phần lời, phần ca từ. Nghiên cứu về ca từ, phần lớn các công trình nghiên cứu đều phân tích phong phú các chủ đề mà nội dung ca từ Trịnh Công Sơn phản ánh, đồng thời lý giải về mặt sử dụng nghệ thuật ngôn từ một cách tài hoa trong các ca khúc của ông.
              Cụ thể bàn về nội dung ca từ của Trịnh Công Sơn, hầu hết các bài nghiên cứu đều nhận định “Thân phận con người và tình yêu” là hai chủ đề nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông. Thân phận con người của ông thường mang những cặp phạm trù đối lập sống/chết; buồn/vui; hạnh phúc/khổ đau. Ông ám ảnh phận người mong manh, chóng tàn. Tình yêu với người nữ của Trịnh Công Sơn là thứ tình yêu sương khói, lãng đãng, dở dang. Còn tình yêu con người trong ông, là tình yêu thương nhân loại không bó hẹp màu da, chính kiến. Tuy nhiên, trong các bài viết chỉ mới đề cập đến nhưng chưa nêu thành một hệ thống và đào sâu.

              Nhận xét ngôn ngữ ca từ trong âm nhạc Trịnh Công Sơn hầu hết đều khẳng định Trịnh Công Sơn là một thi sĩ, ca từ của ông đích thực là thơ. Một kiểu thơ lãng mạn, trữ tình, giàu chất hiện sinh, siêu thực mang đậm dấu ấn Thiền, Phật, có giá trị lớn về nội dung trong lòng Văn hóa Việt Nam, khẳng định những đóng góp to lớn có ý nghĩa cách tân của ca từ Trịnh Công Sơn trong nền ngôn ngữ thơ ca Việt Nam. Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn đã tạo thành một trường phái ngôn ngữ mang phong cách Trịnh.

              Tóm lại, trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước, bài viết này hệ thống lại, đào sâu thêm, mở rộng hơn nữa, nhằm góp phần khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật ca từ Trịnh Công Sơn trong dòng văn hóa Việt Nam, dưới góc nhìn văn học.








              (1) Sau khi Nguyễn Đắc Xuân công bố, có người gia đình Trịnh Công Sơn tuyên bố trước báo chí bài Dã Tràng ca từ đó đến bấy giờ vẫn nằm trong nhà.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.11.2010 04:34:10 bởi hoaha >
              #82
                hoaha 07.11.2010 05:44:59 (permalink)
                TRỊNH CÔNG SƠN - VẾT CHÂN DÃ TRÀNG (TÁC GIẢ BAN MAI)
                 
                II. TRỊNH CÔNG SƠN - TIẾNG HÁT DÃ TRÀNG

                Những hẹn hò từ nay khép lại
                Thân nhẹ nhàng như mây...
                Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
                Như một lời chia tay
                ("Như một lời chia tay" – Trịnh Công Sơn)



                Thời tuổi trẻ
                Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trong một gia đình gốc Huế. Hai năm trước đó, bố mẹ ông lên đây lập nghiệp. Năm sau, sinh con trai đầu lòng, không nuôi được. Năm tiếp theo, Trịnh Công Sơn chào đời, xem như con trưởng. Ông là anh cả của 8 người em trai và gái, người thừa kế quan trọng trong một gia đình trung lưu. Cha ông là một doanh nhân yêu nước và tham gia chống Pháp. Mẹ ông là một người đàn bà nhân hậu, đảm đang và có cảm nhận nghệ thuật rất tinh tế. [44]
                Năm 1943, khi ông lên bốn, gia đình về lại Huế, ở tại vùng Bến Ngự, một vùng đất xanh tươi, bên dòng sông An Cựu, nơi có nhiều chùa chiền, lăng tẩm. Tiếng chuông chùa và lời cầu kinh thấm vào hồn ông từ tuổi thơ. Điều đó giúp chúng ta hiểu vì sao những ca từ của ông về sau mang đậm dấu ấn Thiền, Phật và giàu chất Huế.



                Khi ông được 8 tuổi, gia đình ông có cửa hàng buôn bán xe đạp và xe máy tại Sài Gòn. Ông thường xuyên vào ra Sài Gòn – Huế. Lên trung học, Trịnh Công Sơn học ở Huế là trường Lycée Français, rồi đổi sang trường Providence, rồi theo học ban Triết tại trường Chasseloup-Laubat, Sài Gòn. Điều đó chứng tỏ ông là một trong những trí thức thấm nhuần văn hóa Pháp ngay từ khi còn rất trẻ, phần nào lý giải ảnh hưởng nền triết học phương Tây hiện đại, như Albert Camus, J. P. Sartre..., lên cuộc sống tâm thức ông. Người có công rất lớn trong việc đem triết học phương Tây hiện đại vào Việt Nam, gây nhiều ấn tượng và ảnh hưởng đối với thanh niên miền Nam Việt Nam những năm 50 là giáo sư Nguyễn Văn Trung du học từ Bỉ về. [7; 16-19]


                Năm 1955, khi ông 15 tuổi, cha ông bị tai nạn giao thông qua đời. Cái chết đột ngột thảm khốc của người cha là cú sốc đầu đời, ám ảnh ông thường trực. Từ đấy, ông luôn suy nghĩ về sự sống và cái chết.
                Có lẽ người ta sẽ ngạc nhiên khi xem ảnh thời thơ ấu của ông. Chàng trai vui vẻ và khỏe mạnh giành nhiều giải thưởng thi đấu thể thao (chạy, cử tạ, judo) này là ai vậy? Điều gì sau đó đã đưa ông trở thành một nhà thơ – nhạc sĩ “buồn bã và ốm yếu” trong mắt của nhiều người?


                Năm 1957, Trịnh Công Sơn 18 tuổi. Một tai nạn bất ngờ đã thay đổi tất cả cuộc đời ông. Lúc ấy ông đang học trung học, vào một ngày khi đang tập judo với người em trai, ông bị thương nặng ở ngực, suýt chết và phải nằm liệt giường gần hai năm tại Huế. Không ngờ thời gian nằm dưỡng bệnh này ông có nhiều thì giờ rảnh rỗi, suy nghĩ về kiếp người, cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên. Để khuây khỏa nỗi buồn ông đọc ngấu nghiến Apollinaire, Marcel Pagnol, Jacques Prévert, Rabindranath Tagore, Marcel Proust, Nietzsche, Nikos Kazantzakis, Albert Camus, Jean-Paul Sartre... Ông đặc biệt yêu thích những tác phẩm của Albert Camus, Truyện Kiều của Nguyễn Du và triết lý Phật giáo. Ông không chỉ tiếp cận với văn học, thi ca mà còn tìm hiểu dân ca Việt Nam, âm nhạc của người da đen: blues, gospel v.v... [44]. Trịnh Công Sơn quyết định chơi đàn guitare và bắt đầu sáng tác. Những ca khúc đầu tiên mang tên Sương đêmChơi vơi đều chưa ấn hành. [7; 18]


                Theo Sâm Thương, ông từng thổ lộ: “Khi rời khỏi giường bệnh, trong tôi đã có một niềm đam mê khác – âm nhạc. Nói như vậy hình như không chính xác, có thể những điều mơ ước, khát khao đó đã ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng được đánh thức, trỗi dậy”. [44]


                Tai nạn trên là một cái rủi cho ông về thể xác nhưng là một cái may cho nền âm nhạc Việt Nam. Nếu như không có khúc quanh bất ngờ này, có lẽ ông đã tiếp tục chơi thể thao, đi học tiếp và không chừng đã trở thành một ông bác sĩ, hay kỹ sư nào đó... và lịch sử âm nhạc Việt Nam sẽ không bao giờ có được một nhạc sĩ tài hoa như thế.


                Ca khúc được in đầu tiên của Trịnh Công Sơn là bài Ướt mi, sáng tác vào năm 1958 và công bố năm 1959, nói về giọt nước mắt thuần khiết của một người con gái. Đó là một cô ca sĩ mới 16 tuổi, xuất hiện về đêm ở phòng trà Văn Cảnh – Sài Gòn, đi hát để nuôi mẹ bị bệnh lao nặng. Đêm nào khi hát bài Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong, cô cũng khóc. Điều ấy đã gợi nguồn cảm hứng cho ông sáng tác Ướt mi. Tác phẩm này cho thấy sự thành công qua số lượng đĩa nhạc bán được. Người hát bài này đầu tiên cũng chính là cô ca sĩ ấy - ca sĩ Thanh Thúy – người mà sau này cũng rất nổi tiếng trong sự nghiệp ca hát trước năm 1975. Nguyễn Văn Trung đã từng viết bài Ảo ảnh Thanh Thúy để ca ngợi giọng ca đầy chất liêu trai của cô. [60; 469]


                Sau đó, đầu thập niên 60 là thời kỳ Trịnh Công Sơn sáng tác rất nhiều bản nhạc tình và đã trở thành những kiệt tác ca khúc Việt Nam. Ở Huế, thời gian này Trịnh Công Sơn lại rung động theo hình ảnh một thiếu nữ mảnh mai: Ngô Vũ Bích Diễm, con của thầy Ngô Đốc Kh... dạy Pháp văn tại trường Đồng Khánh và trường Quốc Học Huế. Ca khúc nổi tiếng Diễm xưa ra đời, một ca khúc đánh dấu đặc biệt trong đời ông và có hậu vận bền lâu. Mối tình thơ mộng và ngắn ngủi với Bích Diễm được tiếp nối qua hình ảnh cô em Ngô Vũ Dao Ánh cho đến cuối đời, tuy có nhiều đứt đoạn. Với Trịnh, đó là mối tình gắn bó lâu dài vì cả hai đã có chung nhiều kỷ niệm xưa.
                (2)


                Những năm 62-64, chiến tranh Việt Nam ngày càng tàn khốc, thanh niên hầu hết đều bị động viên đi lính. Để hoãn quân dịch, Trịnh Công Sơn rời Huế thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn, trường mới thành lập và đây là khóa đầu tiên đào tạo giáo sinh thời khóa hai năm. Nơi thành phố biển hiền hòa, yên tĩnh này, Trịnh đã sáng tác những tình ca nổi tiếng như Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi, Nắng thủy tinh, Chiều một mình qua phố, Vết lăn trầm, Dã tràng ca, Cát bụi.[28; 33] Những tình ca của Trịnh Công Sơn đã gây kinh ngạc cho mọi người thời đó, khi mà cả miền Nam vẫn còn quen với dòng nhạc tiền chiến sướt mướt với Biệt ly của Doãn Mẫn, Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong, hay Bóng chiều xưa của Dương Thiệu Tước... Những hình ảnh của Trịnh Công Sơn mang đậm nét siêu thực, với những ca từ lạ hóa hình ảnh đời thường, đã đánh thức cả một thế hệ. Lạ từ nhan đề tới hình ảnh tân kỳ trong lời ca như: Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Lời buồn thánh. Rồi những hình ảnh mắt xanh xao, hồn xanh buốt, hai bàn tay đói, bàn tay chăn gió mưa... quả là độc đáo, mang nhiều màu sắc mới lạ, đã gây sự chú ý và liền chinh phục người nghe. [46; 125]



                Thời "phản chiến"
                Năm 1964, sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Quy Nhơn, ông được điều lên Bảo Lộc dạy học. Thời gian này, cuộc chiến ở Việt Nam đã trở nên ác liệt. Năm 1965 quân đội Mỹ bắt đầu rầm rộ đổ bộ lên miền Nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh của Phật giáo và sinh viên dâng cao.



                Giai đoạn 1965-1972, “nhạc phản chiến” trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Trịnh Công Sơn. Ông bắt đầu sáng tác những bài hát về thân phận con người trong chiến tranh, miêu tả cuộc sống đau đớn, kinh hoàng đầy chết chóc hằng ngày của người dân, từ những người mẹ, người vợ cho đến cụ già, em bé. Những bài hát của ông là tiếng kêu than thống thiết của con người trong cuộc chiến. Tiêu biểu như Gia tài của mẹ, Hát trên những xác người, Đàn bò vào thành phố, Người già em bé, Người con gái Việt Nam, Tình ca người mất trí... Cuối cùng có lệnh tổng động viên toàn quốc, không thể trốn tránh mãi, ông bắt buộc tìm cách làm cho mình không đủ sức khỏe để đi lính. Hằng ngày ông phải nhịn ăn, và uống thêm diamox, một thứ thuốc rút bớt nước trong cơ thể làm cho sút ký nhanh, và ông đã “thành công” khi tự hủy hoại bản thân mình với trọng lượng cơ thể không thể đi lính. Trốn lính gần như là một cái “nghề” đầy tính chất phiêu lưu của thanh niên miền Nam lúc bấy giờ, trong số đó có Trịnh Công Sơn. Thái độ trốn tránh ấy, chứng tỏ quyết tâm không tham chiến của ông, ông từ chối chiến tranh và phản đối nó. [60; 180]


                Dường như không khí thời đại đã thôi thúc ông trong việc sáng tác, và một gặp gỡ định mệnh giữa ông với ca sĩ Khánh Ly, người thể hiện tuyệt vời những nhạc phẩm của ông, đã làm nên tên tuổi cả hai từ đó.
                Theo Bửu Ý, vào năm 1965 tại Đà Lạt tình cờ Trịnh Công Sơn nghe Khánh Ly hát trong hộp đêm Tulipe Rouge. Ông biết ngay giọng hát của cô ca sĩ này phù hợp với những bản nhạc của mình nên mời cô tham gia. Thời gian sau, Khánh Ly rời Đà Lạt và theo ông xuống Sài Gòn. Từ đó cô đã trở thành “Ca sĩ chuyên hát nhạc Trịnh Công Sơn”. Hãy nghe ông nói về cuộc gặp gỡ này: “Gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly là một may mắn tình cờ, không phải riêng cho tôi mà còn cho cả Khánh Ly. Lúc gặp Khánh Ly đang hát ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly chưa nổi tiếng nhưng tôi nghe qua giọng hát thấy phù hợp với những bài hát của mình đang viết và lúc đó tôi chưa tìm ra ca sĩ nào ngoài Khánh Ly. Tôi đã mời Khánh Ly hát và rõ ràng giọng hát của Khánh Ly rất hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó Khánh Ly chỉ hát nhạc của tôi mà không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lý do cho phép mình tập trung viết cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời những bài hát của tôi cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly”.[61; 522]


                Vào cuối năm 1966, buổi ra mắt đầu tiên của ông trước công chúng Sài Sòn là khoảnh sân sau Trường Đại học Văn khoa, với hàng ngàn sinh viên và trí thức. Bằng chiếc ghi ta thùng đơn giản và giọng ca huyền thoại Khánh Ly, những bài tình tự quê hương và thân phận con người được hát vang lên và làm thức tỉnh, say đắm hàng ngàn khán giả cuồng nhiệt đêm đó.
                Tác phẩm đã hòa nhập vào công chúng, là tiếng lòng của công chúng.


                Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng và rồi trở thành thần tượng của lớp trẻ lúc bấy giờ.
                Trịnh Công Sơn, với dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng trí thức, giọng Huế nhỏ nhẹ, với cuộc sống bất định. Đêm đi hát, khuya về kê ghế bố ngủ với bạn bè ở Quán Văn hay Hội Họa Sĩ Trẻ. Bên cạnh đó hình ảnh Khánh Ly, khi hát đi chân đất – nữ hoàng chân đất của một thời – giọng hát da diết sương khói diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”. Hai người đi với nhau tạo nên hình ảnh “đôi lứa”, một đôi trai-gái trong tình bạn hồn nhiên, trong sáng. Tạo thành một đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân còn đè nặng lên xã hội Việt Nam. Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò... Những tâm hồn phóng khoáng và “hiện đại” thì gạt phăng đi loại “tò mò bệnh hoạn ấy”.[9] Và đặc biệt, Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Sơn nói: “Tôi và Khánh Ly chỉ là hai người bạn. Thương nhau vô cùng, trên tình bạn”.[61; 529] Khánh Ly viết: “Một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường”.[61; 112]


                Nhưng trên hết, chính hình ảnh Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, trường học, đã tạo ra một hình ảnh lý tưởng trong nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát – mang theo lý tưởng nhân đạo và tình yêu thể hiện sự dấn thân của người nghệ sĩ. Trong khi đó, đa số các ca sĩ khác chỉ hát để kiếm tiền. Trong một lần trả lời phỏng vấn nhà báo Bùi Văn Phú, Khánh Ly kể lại giai đoạn cơ cực đói khổ nhưng đầy hạnh phúc những năm 60 ấy: “Thực sự tôi rất mê hát. Không mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào, phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo, không cần biết đến ngày mai, không cần biết tới ai cả, mà chỉ cảm thấy mình thực là hạnh phúc, cảm thấy mình sống khi mình được hát những tình khúc của Trịnh Công Sơn”.[47]


                Năm 1969 nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn nổi tiếng khắp thế giới, ông được xem là một Bob Dylan (nhạc sĩ phản chiến số 1 ở Mỹ) của Việt Nam. Năm 1970, bài Diễm xưa được vào chung kết cuộc thi các bài hát nước ngoài ở Nhật, bài Ngủ đi con chiếm “Đĩa vàng” và đã phát hành trên hai triệu đĩa [7; 27].


                Trịnh Công Sơn từ đó trở thành thần tượng - Kẻ du ca bất khuất - trên đất nước đầy bom đạn. Những sáng tác tiếp theo của ông với những ca từ mạnh mẽ, trong tập Kinh Việt Nam hay Ta phải thấy mặt trời, Nhân danh Việt Nam là tiếng kêu gọi hòa bình và thống nhất đất nước. Nhạc phản chiến của ông bị chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cấm phát hành. Bản thân ông phải sống trốn tránh. Nhưng ông được nhiều trí thức và quần chúng cưu mang. Trong đó có đại tá Lưu Kim Cương, một sĩ quan cao cấp trong Không quân miền Nam Việt Nam đã che chở và giúp đỡ ông rất nhiều trong thời gian khốn khó ấy. Sau khi đại tá Lưu Kim Cương tử trận, ông viết bài Cho một người nằm xuống để tri ân một người bạn đã từng che chở mình và chính bài hát này về sau là nỗi khổ của ông.



                Những năm đầu hòa bình
                Tháng Tư 1975, chiến tranh chấm dứt, ông là người đầu tiên lên Đài Phát thanh Sài Gòn hát vang bài Nối vòng tay lớn, một bài hát nói lên niềm khao khát hòa bình, thống nhất. Ước mơ hòa hợp dân tộc hai miền Nam-Bắc, được ông viết từ năm 1968.



                Ngày 30 tháng Tư người thân ông ra đi, bạn bè ông ra đi, Khánh Ly rời đất nước trước ngày Sài Gòn sụp đổ. Ông ở lại, bởi vì đó là logic của một con người ước mơ được nhìn thấy: ngày hòa bình thống nhất trên quê hương.
                Bàn tay thân ái
                Lòng không biên giới
                Anh em ơi lắng nghe tình nhau
                Ngày vui lớn sẽ qua trăm cầu
                Mẹ dâng miếng cau rồi dâng ngọn trầu
                Cho hai miền trùng phùng lòng thấy nao nao
                Ngày Nam đêm Bắc
                Tình chan trong mắt
                Sẽ thấy trăm bình minh ngọt ngào
                Huế - Sài Gòn - Hà Nội


                Tại sao ông ở lại Việt Nam?
                Trước ngày 30/4/1975 có nhiều lời mời đưa ông ra nước ngoài của các hãng thông tấn quốc tế. Ông nói: “Việt Nam là nơi duy nhất tôi có thể sống và sáng tác. Ở nước ngoài, tôi không nghe ra tiếng nhạc trong đầu mình, tôi không nghe được câu thơ tôi viết ra. Tôi thích đi nước ngoài, nhưng nếu ở lâu, tôi sẽ khô cạn và chết mất. Hơi ấm của dân tộc Việt Nam giống như nước cần thiết cho hoa vậy”.[7; 140]
                Thế nhưng, tình hình của Trịnh Công Sơn thật khá tế nhị trong thời kỳ sau 1975. Những ngày đầu sau cuộc chiến, với không khí chính trị còn ấu trĩ, tả khuynh quá đà của một số người trong chính quyền mới, ông bị coi là một nghệ sĩ của chế độ “mục nát” của miền Nam.
                Theo Nguyễn Đắc Xuân, giai đoạn sau tháng Tư 1975 “Đối với lãnh đạo thì không có vấn đề gì, nhưng có nhiều “anh em phong trào” ở Sài Gòn không thích quan điểm lập trường chung chung của Trịnh Công Sơn trước đây”.[28; 97] Vì vậy, để thoát khỏi “không khí nghi kỵ” ở Sài Gòn lúc ấy, Trịnh Công Sơn về Huế. Thế nhưng, thời gian đó một số phần tử quá khích theo phong trào “Vệ Binh Ðỏ” của Trung Quốc đã kích động sinh viên treo một tấm banderole to tướng mang dòng chữ xanh rờn: “Hạ bệ Phạm Duy - Hoàng Thi Thơ và Trịnh Công Sơn” trước trường Đại học Sư phạm Huế. Ông sững sờ và câm lặng. Không ngờ về quê hương ông lại bị giội một gáo nước lạnh như thế. Và tiếp theo là cuộc tọa đàm luận tội “Trịnh Công Sơn có công hay có tội” tại Hội Văn nghệ Thừa Thiên - Huế. Hôm ấy có cả Trần Hoàn, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Viết Ngạc và vài người nữa... Có người lên án, nhưng cũng có người bảo vệ. “Tội” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là ông đã làm nhạc phản chiến một cách chung chung, không phân biệt được chiến tranh xâm lược và chiến tranh giải phóng dân tộc trong bài Gia tài của mẹ với câu Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Thậm chí ông còn làm nhạc ca ngợi địch trong bài Cho một người nằm xuống thương tiếc đại tá không quân Sài Gòn Lưu Kim Cương chết trận – người đã từng cưu mang ông. Nhiều người đã biện hộ cho Trịnh Công Sơn: “Đúng là Trịnh Công Sơn đã làm nhiều bản nhạc phản chiến, anh được mệnh danh là Người làm nhạc phản chiến số 1 thời ấy giống như Bob Dylan, Joan Baez ở bên Mỹ. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tự do, anh theo đuổi chủ nghĩa nhân bản chung chung khác chúng ta. Nhưng anh làm nhạc trong vùng tạm chiếm, người nghe nhạc phản chiến của anh là lính Cộng hòa. Rất nhiều lính của Thiệu đã bỏ ngũ vì nghe bản nhạc Người con gái da vàng của anh. Chẳng có người lính cách mạng nào bỏ ngũ vì nghe nhạc của Trịnh Công Sơn cả. Cũng như ngày xưa bên Trung Quốc, Trương Lương thổi sáo đâu phải để cho quân mình buông kiếm! Đâu phải tự dưng chính quyền Thiệu ra lệnh tịch thu những bài hát của Sơn”.[28; 98-101] Và chính xấp tài liệu đăng lệnh của cựu Tổng thống Thiệu cấm phổ biến nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, lệnh cấm mang số 33 ngày 8.2.1969, đã có sức thuyết phục lớn đối với những người tham dự tọa đàm. Sau cuộc tọa đàm, Trịnh Công Sơn phải viết kiểm điểm. Hồi ấy, những bản kiểm điểm “nói không đúng vấn đề” thường bị viết lại. Trịnh Công Sơn chưa quen lối sinh hoạt này nên rất đau khổ, chán chường.


                Trong thời hậu chiến, cả nước rất khó khăn và như bao người Việt khác, Trịnh Công Sơn cũng được đưa đi lao động sản xuất trên những cánh đồng đầy bom đạn chưa tháo gỡ. Thời gian này, ông không thể sáng tác được, làm sao một người làm tình ca mang tính triết lý trừu tượng nổi tiếng lại một sớm một chiều có thể chuyển mạch bắt sáng tác theo “hiện thực xã hội chủ nghĩa được”.[28; 103]


                Bên cạnh thực tế ấy, Trịnh Công Sơn lại không đủ sức chống đỡ với những thế lực khác kèn cựa tài năng mình. Có người còn tuyên bố xanh rờn: “Ca khúc mà như của Trịnh Công Sơn thì một ngày mình có thể làm đến mười bài!”. [28; 115]


                Hiểu được bi kịch của ông, và biết rõ tài năng, nhân cách của người nhạc sĩ tài hoa này, một nhà lãnh đạo nổi tiếng ở phía Nam đã đánh tiếng, gọi ông về Sài Gòn. Năm 1979, Trịnh Công Sơn từ giã Huế vào Sài Gòn. [28;113]


                Từ những năm 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại. Tác phẩm của ông sau chiến tranh có những bài nổi tiếng như: Chiều trên quê hương tôi, Em còn nhớ hay em đã quên, Huyền thoại mẹ, Hà Nội mùa thu, Tiến thoái lưỡng nan, Tôi ơi đừng tuyệt vọng, Lặng lẽ nơi này, Xin trả nợ người, Lời thiên thu gọi... Những sáng tác này thường là tình ca, không có bài hát nào liên quan đến chiến tranh, chủ yếu là những tác phẩm viết cho các phim. Những tác phẩm sau này thường nói lên thân phận con người, kiếp người trong cõi tạm, mang đậm chất Thiền.


                Năm 1983, Trịnh Công Sơn chuẩn bị cưới vợ lần thứ nhất, người phụ nữ ấy có tên là C.N.N sống ở Paris, Pháp. Thư từ Sài Gòn gửi cho Bửu Ý ngày 30.7.1983 Trịnh viết: “Moi sẽ làm đám cưới trong tháng tới. Cố gắng vào thì vui hơn”; nhưng dự định cưới vợ không thành. [7; 33]


                Tháng Năm 1985 Trịnh Công Sơn sang thăm Moskva.
                Năm 1989, ông sang Pháp theo lời mời của Nhà Việt Nam tại Paris. Tại đây, ngoài những bài thân thuộc với khán giả, ông và Thanh Hải, từ Đức sang, hát một loạt bài sáng tác trong giai đoạn 1972-75 nhưng chưa được phổ biến rộng rãi, và thêm một số bài mới viết sau 1975 mà tại Paris ít người biết tới. Ông đã gặp Khánh Ly tại Paris sau 14 năm xa cách, tuy nhiên không thể tổ chức được gì dù có sự hiện diện của hai nhân vật nổi tiếng một thời này, vì ở hải ngoại một số người cực đoan cũng bài xích ông là “kẻ hèn nhát, kẻ phản bội quốc gia”. [31; 270-283]

                Những năm 90
                Năm 1990, hình như Trịnh Công Sơn cũng có ý định cưới vợ một lần nữa, người phụ nữ này là V.A, nhưng cuối cùng rồi chuyện cũng không thành, và trong tình yêu ông vẫn là chàng lãng tử cô độc “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”… cho đến cuối đời.
                Năm 1992, sau khi mẹ mất, ông suy sụp hoàn toàn, ông sang Canada thăm những người em, để mong tìm chút hơi ấm tình thân. Trịnh Công Sơn viết: “Khi một người mất mẹ ở tuổi 50 điều ấy có nghĩa là không còn gì có thể dàn xếp được. Cái sa mạc để lại trong lòng bạn cứ thế mỗi ngày lan rộng ra và cõi lòng bạn thì tan nát như một cánh đồng xanh tươi vừa trải qua một cơn bão lớn”. [19; 9]
                Những năm 90, sau thời kỳ đổi mới của đất nước, nhạc của ông lại được hát rất nhiều trong các chương trình ca nhạc, chủ yếu là những bản tình ca. Những bài hát phản chiến rất hay của ông vẫn là điều tế nhị cấm lưu hành. Năm 1995, ông sáng tác bài Sóng về đâu, một bài hát nói về tình yêu lấy cảm hứng từ câu kinh đạo Phật mà ông rất thích. “Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha” (Yết đế, Yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha). Trịnh Công Sơn dịch ra chữ quốc ngữ đại để là: “Vượt qua, vượt qua, tất cả chúng ta đều vượt qua, và đến bờ giác ngộ”. [63]


                Cuối năm 1998, sau 35 năm ra trường, lần đầu tiên ông trở lại Trường Sư phạm Quy Nhơn nhân dịp thành phố Quy Nhơn tổ chức kỷ niệm Bình Định 400 năm tuổi. Cùng đi với ông lúc ấy có các nhạc sĩ khác trong nhóm “Những người bạn” như Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập, Thanh Tùng, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Hiên... Đó là một đêm đầy cảm động. Cả hội trường Đại học Quy Nhơn nghẹt kín sinh viên. Sinh viên Đại học Quy Nhơn đón ông như đón một người anh trai lâu ngày trở về. Có những bài ông vừa hát, sinh viên phụ họa hát theo như một dàn đồng ca đã được tập dượt trước. 12 giờ đêm chương trình chấm dứt nhưng các sinh viên vẫn quây lấy ông chụp hình kỷ niệm. Ông xúc động kể lại những năm tháng ông học tại Sư phạm Quy Nhơn thời 62-64, và hát say sưa không biết mệt.
                “Festival Huế 2000” là một sự kiện văn hóa của cả nước, trong Nhật ký Huế ông viết: “Tháng Tư năm nay ở Huế có tổ chức Festival 2000… cuối cùng tôi cũng đến Huế trong những ngày nằm giữa bề dài của cuộc Festival... vì tôi là thằng con của Huế… Khi bạn có một xứ sở để trở về hoặc là để thỉnh thoảng trở về, thì bạn có hạnh phúc nhiều lắm”. [36; 474-475]


                Trở lại Sài Gòn, ông ngã bệnh phải đưa vào bệnh viện. Những năm sau này ông thường xuyên bị bệnh. Sức khỏe giảm sút rõ rệt.
                Ca khúc cuối cùng ông sáng tác trên giường bệnh là bài Biển nghìn thu ở lại. Và ngày 01/4/2001 Trịnh Công Sơn qua đời, “Con chim nhỏ hát chơi trên đầu ngọn lau” không còn nữa, vết chim hạc để lại trên cõi trần đúng 62 năm.


                Cái chết của Trịnh Công Sơn làm chấn động những người dân Việt cả trong nước và ngoài nước. Hàng triệu trái tim lặng lẽ khóc thương, hàng ngàn người đi sau linh cữu ông, chưa có một đám tang nào mà mọi người lại yêu thương nhau đến vậy, tất cả cùng nắm tay và hát trong nước mắt bài Cát bụiMột cõi đi về theo tiếng kèn thống thiết của Trần Mạnh Tuấn.


                Người đời tinh lắm, Trịnh Công Sơn đã cho cuộc đời trái tim ông, ngày ông mất người đời đã cho lại ông tất cả.
                Tôi ước mơ một ngày nào đó trên hành tinh này tiếng hát sẽ được trả về với vẻ đẹp thuần khiết của nó. Đó là tiếng hát bay qua các lục địa, các đại dương, mang trong lòng nó tình yêu và tình nhân ái. Cái sứ mệnh huy hoàng nhất của nó là phải mang được cái thông điệp ấy đến với từng con tim. Không những chỉ với những tâm hồn vốn yêu chuộng hòa bình mà cả những con tim đang ngộ độc bởi những ngòi thuốc nổ”.[28; 189-190] 







                (2) Theo lời kể của cô Trịnh Vĩnh Thúy, em gái lớn của Trịnh Công Sơn.
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.11.2010 04:37:23 bởi hoaha >
                #83
                  hoaha 18.11.2010 06:09:12 (permalink)
                  TRỊNH CÔNG SƠN - VẾT CHÂN DÃ TRÀNG (TÁC GIẢ BAN MAI)


                  III. VẾT CHÂN DÃ TRÀNG - NGÀN NĂM IN DẤU
                  Tầm ảnh hưởng Nhạc Trịnh Công Sơn trước năm 1975


                  Ngày tôi chào đời, nhạc của Trịnh Công Sơn đã nổi tiếng khắp miền Nam. Ngay từ thời thơ ấu, tôi đã thuộc lòng những bài hát của ông. Ngày ấy, dù không hiểu gì về ca từ bài hát nhưng qua tiếng hát của những người chị ngâm nga, hằng ngày, hằng ngày nó thấm vào tim tôi “Mẹ ngồi ru con / Đong đưa võng buồn / Đong đưa võng buồn / Mẹ ngồi ru con / Mây qua đầu ghềnh / Lạy trời mưa tuôn”... “Đại bác ru đêm dội về thành phố / Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe/”. Thời ấy, thế hệ chúng tôi ai lại không thuộc nhạc của ông, khi hằng đêm chúng tôi vẫn thường nghe tiếng súng nổ, tiếng hỏa châu rơi... giai điệu buồn bã, đều đều như tiếng cầu kinh ấy, đã quá quen thuộc. Đến khi lớn lên, khi bắt đầu hiểu biết và trải nghiệm cuộc đời, những ca từ thấm đẫm tình yêu thương về thân phận con người của Trịnh Công Sơn đã là người bạn đồng hành cùng tôi trong từng chặng đời. Nó như một thứ bùa mê mà mỗi con người đều mang theo để làm cứu cánh khi thấy lòng cô đơn, buồn khổ, hay trong những lúc hân hoan, say đắm.


                  Không chỉ riêng tôi, trên đất nước Việt Nam này, ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn rất to lớn, gần như người dân Việt nào cũng đều thấy mình trong từng bài hát của ông. Ông nói hộ cho con người những âu lo, những vò xé, những thao thức, những đớn đau, những tiếc nuối, những ngỡ ngàng và cả những hoài nghi, những mê đắm... về thân phận con người, về chiến tranh nhân loại, về tình yêu thương gắn bó, về sự tan nát chia xa... ông đi cùng với họ, an ủi, tâm tình bên họ. [36;459] Có ông cuộc đời như vơi bớt niềm đau, cái chết cũng không còn ghê gớm nữa. Vì ông đã giúp họ hiểu ra sự thật của kiếp người. Vậy thì, tại sao không sống thanh thản cho đời nhẹ nhàng hơn.



                  Trước năm 1975, mặc dù nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn bị chính quyền miền Nam cấm đoán, nhưng nhạc của ông vẫn được hát không chính thức trong các giảng đường, trường học, hộp đêm. Những bài tình ca, những bài tình tự quê hương dân tộc vẫn được thu băng và bày bán khắp các đường phố. Có không ít người miền Nam Việt Nam vào thời đó thuộc bài hát của ông, từ người già đến em bé, từ trí thức đến người bình dân.


                  Để hiểu rõ điều đó, hãy nghe nhận định của Hoàng Nguyên Nhuận: “...Nếu Huế là thánh địa của Phật giáo và nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hòa bình, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại tại các thành phố miền Nam...”. [10; 180]


                  Trong luận văn viết về đề tài “Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn”, cô Yoshii Michiko có đề cập đến một tư liệu của Kondo Koichi, đặc phái viên chiến tranh tờ SanKei của Nhật - có văn phòng tại Sài Gòn trước 1975 - đã từng nhắc đến hiện tượng này: “Diễm xưa: Thiên tài Trịnh Công Sơn đã soạn ra giai điệu của bài hát này, bài hát đã được cả miền Nam Việt Nam yêu thích. Người ta nói rằng nữ ca sĩ Khánh Ly, cũng là một trong những tài năng mà người ta chỉ gặp một lần trong suốt 100 năm. Bài hát này bị cấm dưới chế độ ông Thiệu sau khi phát hành không lâu. Lối ẩn dụ chống chiến tranh ở đây quá đặc biệt. Và trong số họ có một người cấp bậc đại úy, dường như anh đã có lý khi chứng tỏ sự hiểu biết của mình về điều đó. Thực tế, một vị đại tá của một trung đoàn có nhiệm vụ bảo vệ Đà Lạt đã nói: “Nghệ thuật là nghệ thuật. Phản chiến hay không, người ta không cần biết”. Và đã không nghe theo lệnh của tổng hành dinh. Ngược lại, ông đã khích lệ cả những binh lính của ông, hát những kiệt tác của “thiên tài duy nhất mà miền Nam Việt Nam có thể ca ngợi với thế giới”.[64]


                  Một nhà báo Nhật khác thường lui tới hộp đêm của Khánh Ly trên đường Tự Do kể: “Hằng đêm vào đầu giờ, người ta chỉ nghe những bài hát cho phép, nhưng đêm gần tàn, Khánh Ly bắt đầu hát những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, và trên thực tế, công chúng chỉ đến để nghe những bài hát này”.[64]


                  Điều đó chứng tỏ, những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn dù đã bị cấm đoán trong thời chiến tranh nhưng người dân vẫn hát vang trên khắp phố phường, làng mạc. Vẫn được đánh máy, in ronéo chuyền tay nhau trong các phong trào thanh niên và ngay cả trong những sĩ quan cao cấp của chính quyền miền Nam.
                  ***


                  Nhạc Trịnh Công Sơn ảnh hưởng rộng rãi ở miền Nam trước 1975 chúng ta đã biết, thế còn ở miền Bắc thì sao? Những nhân chứng dưới đây giúp chúng ta sáng tỏ:
                  Nhạc sĩ Văn Cao viết: “...Tôi đã gặp Sơn từ những ngày đất nước còn chia hai miền và còn chìm trong khói lửa. Tôi muốn nhắc đến ở đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. Đêm ấy lần đầu tiên tôi nghe (cũng có nghĩa là gặp) Trịnh Công Sơn... Những bạn trẻ hát cho tôi nghe gần suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không biết họ học ở đâu?) hát say sưa đến nỗi đứt cả dây của cây đàn ghi-ta duy nhất có trong nhà”. [58; 17]
                  Nhà thơ Nguyễn Duy kể rằng, ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã từng nghe tình ca của Trịnh: “Mặt trận Đường Chín-Nam Lào (1971)... trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng... Nghe, nghe trộm - vâng, lúc đó gọi là nghe trộm đài Sài Gòn, tình cờ “gặp” Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly... Diễm xưa... Mưa vẫn mưa rơi... Làm sao em biết bia đá không đau... Quỷ thật! Giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên “ghim” lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như cánh vạc bay... Quái thật!... Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy... ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy... nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái đẹp. Cái đẹp trong câu nhạc. Cái đẹp trong ca từ, cả xác chữ lẫn hồn thơ. Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao... và để lại cái ám ảnh thẩm mỹ”. [29; 44]


                  Theo tài liệu của Đặng Tiến: Tác giả Nguyễn Văn Thọ, trước đây là bộ đội miền Bắc, sau đó lao động xuất khẩu Ðông Âu, hiện đã về nước, viết: “Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rất tốt. Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với Nhạc Trịnh Công Sơn. Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hòa bình. Rất lạ, với tôi khi đó Nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hòa bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó”. Và đáng quý hơn nữa, tác giả này đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn trưa ngày 30 tháng Tư 1975, ông nghe Trịnh Công Sơn đang hát bài Nối vòng tay lớn trên đài phát thanh Sài Gòn: “Mặt đất bao la... anh em ta về... gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng... Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường thấy của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học. Chúng tôi tiến vào Sài Gòn... Nối vòng tay lớn. Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc dễ nổi cáu và nổi đóa. Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh”. [9]


                  Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hàng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao? Văn học nghệ thuật Việt Nam đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó? [9]

                  Tầm ảnh hưởng Nhạc Trịnh Công Sơn sau ngày 30/4/1975
                  Sau năm 1975, một thời gian dài nhạc Trịnh bị cấm biểu diễn, kể cả những bài tình ca và những bài tình tự quê hương, dân tộc. Trịnh Công Sơn sống cuộc đời im lặng và cô độc. Cho đến cuối những năm 80 đầu những năm 90 - thời mở cửa, nhạc Trịnh Công Sơn mới được chính thức phổ biến. Tuy nhiên, trong những năm chính quyền không cho phép, mặc nhiên người dân ở cả hai miền Nam - Bắc vẫn nghe nhạc của ông trên khắp nẻo đường đất nước, từ những nơi núi rừng heo hút cho đến chốn thị thành.



                  Nhạc của ông cũng truân chuyên như cuộc đời ông vậy.
                  Nguyễn Đắc Xuân kể lại rằng: “Sau ngày thống nhất đất nước, cùng với hàng hóa tiêu dùng của miền Nam, các băng nhạc của Trịnh Công Sơn bắt đầu xâm nhập giới trí thức miền Bắc. Đứng trên lầu 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội) – cơ quan Văn nghệ miền Bắc, tôi nghe vang vọng từ phía Nhà xuất bản Văn học một gia đình nào đó mở Gia tài của mẹ, Nối vòng tay lớn... của Trịnh Công Sơn”. [28; 123]


                  Đi từ Nam ra Bắc, chúng ta dễ dàng bắt gặp những quán cà phê mang tên “Nhạc Trịnh” hay mang tên tựa đề bài hát của ông: Hạ trắng, Diễm xưa, Biển nhớ… Dấu ấn ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn còn bàng bạc trên văn chương của người đương thời.


                  Ngày nay, đi đến bất cứ nơi đâu trên trái đất này, nếu có cộng đồng người Việt sinh sống, thì nơi đó có nhạc Trịnh Công Sơn. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết: “Hơn mười năm qua, đi đâu, bất cứ nơi nào, trong nước hay ngoài nước, nơi nào có người Việt Nam, là nơi đó tôi được nghe nhạc Sơn. Nhớ năm 1987, trong dịp sang Đông Berlin, khi tôi vừa ngồi yên trong xe, thì anh bạn lái cho tôi bảo: “Nghe Trịnh Công Sơn nhé?”. “Có à?”. Tôi ngạc nhiên. “Sao lại không!” và giọng của Khánh Ly “Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ...” lại cùng tôi vang trên các nẻo đường Đông Berlin trong đêm thu”. Tại Paris, quận 13... Một hôm tôi đến, vào một quán phở, một cái quán có nhiều khách chống Sơn: lạ, tôi lại nghe họ mở nhạc của Sơn. Rồi đầu tháng Bảy 1989 ngồi trong một quán ăn Việt Nam ở New York, trong ánh đèn mờ, tôi cũng lại nghe nhạc của Sơn... Hóa ra người ghét Sơn, chống Sơn vẫn không thể không nghe nhạc Sơn. Từ đó, có thể nói, nghệ thuật của Trịnh Công Sơn đã vượt qua khỏi sự hằn thù...”. [31; 273-274]



                  Hãy nghe những lời phát biểu về tầm ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn.
                  Nhà thơ Phạm Tiến Duật: Gần nửa thế kỷ sáng tác ca khúc, hành trình của Trịnh Công Sơn là hành trình của một trái tim yêu người, yêu giống nòi, luôn luôn tìm cách trả lời những câu hỏi không phải của khối óc mà là câu hỏi của chính trái tim anh đặt ra, trong đó, sự trăn trở giữa cái bản ngã và phi bản ngã là sự trăn trở thường trực... các nhà thơ từ Nam đến Bắc đều coi anh là thi sĩ .[38; 455]



                  Nhà văn Phạm Thị Hoài: Thế kỷ vừa rồi hiếm khi cho chúng ta một nghệ sĩ đặc biệt như thế. Ông không phải là một trong những nhạc sĩ lỗi lạc nhất, song hầu như không ai khác từ lúc sinh thời đã để lại một ảnh hưởng rộng rãi như vậy với người làm nhạc và người nghe nhạc Việt Nam. Ông không phải là một ca sĩ trứ danh, song ông đã được so với Bob Dylan, và đem lại cho danh hiệu kẻ du ca một ý nghĩa hiện đại. Ông không phải là một trong những nhà thơ sáng giá nhất, song cách ông đặt lời bài hát đã thành một trường phái và dựng nên một phong cách ngôn ngữ xứng đáng được ghi nhận trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông không phải là một trong những chiến sĩ của hòa bình, tự do và nhân phẩm kiên cường nhất, song với đông đảo bạn hữu và quần chúng, ông đã tượng trưng cho những giá trị ấy. [38; 457]


                  Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo trong bài Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, người tình lãng du của nhiều thế hệ, đã tự hỏi: “... Vì sao mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được công chúng hâm mộ đến thế? Có lẽ chính anh là một nhà thơ được hát lên. Ca từ của anh không chỉ là giàu chất thơ người ta thường nói, mà đấy là những bài thơ thực sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình yêu, về sự sinh ra và trở về cát bụi của phận người ngắn ngủi... Khi được nhờ chọn một số bài thơ tình hay nhất thế kỷ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã tâm đắc tiến cử lời bài ca “Đêm thấy ta là thác đổ” của Trịnh Công Sơn. Nhưng những lời thơ ấy được hát lên bằng nhạc của chính tác giả, thì nó bỗng trở thành những câu kinh bất hủ. Và người ta nói rằng, âm nhạc của anh là những bài kinh cầu bên vực thẳm về thân phận và tình yêu”. [37; 171]

                  Đó là nhận định của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Và chúng ta hãy nghe tình cảm chân thành của những con người bình thường khác, đó là những người mẹ nhọc nhằn, những cô gái ăn sương, những em bé không hề biết ông là ai, nhạc Trịnh Công Sơn đã ảnh hưởng họ như thế nào:
                  Bà mẹ vợ của tôi, chồng bị bệnh nằm một chỗ đã nhiều năm, một tay nuôi 8 đứa con dại. Mùa hè năm 1975, cậu con trai thứ hai lại bị mất tích trên đường theo bộ đội vào giải phóng Sài Gòn. Bà hết sức đau khổ. Hằng ngày đứng nấu cơm rửa chén phục vụ gia đình bà tự an ủi mình với “Cỏ xót xa đưa”. Bà mẹ đẻ của tôi ở Đà Lạt, hơn nửa đời người vất vả nuôi con, cuối đời rất sùng đạo Phật. Bà thích nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì bà cho rằng Nhạc Trịnh Công Sơn có hơi hám “cát bụi giải thoát”. Người ta nói âm nhạc Trịnh Công Sơn chỉ thích hợp với tuổi trẻ. Các bà mẹ tôi không còn trẻ nữa mà cũng thích nhạc Trịnh Công Sơn. Các bà thích không vì tuổi còn yêu mà chính là nhạc Sơn đã nói hộ các bà về thân phận của kiếp người sống trong cõi tạm. Các bà mẹ tôi thích nhạc Trịnh Công Sơn khi chưa biết Trịnh Công Sơn là ai. Cũng giống như các em bé trên miền núi huyện Hướng Hóa (Quảng Bình) vào những đêm trăng quây quần giữa sân hát vang “Em sẽ là mùa xuân của mẹ, em sẽ là màu nắng của cha...”, các em không biết tác giả bài ca ấy là ai. Các em cũng không cần biết tác giả làm gì. Các em chỉ cần biết lời của bài ca đó chính là ước mơ của các em”.[28; 123-124] Ngoài ra, còn có một chứng từ khác của Hoàng Phủ Ngọc Tường về các cô gái ăn sương: “Cách đây mấy năm, một đêm khuya tôi vừa uống rượu về, ngang qua công viên nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn; từ sau một gốc cây, một cô gái mặc áo hồng bước ra, kéo tay tôi. Tôi ôn tồn từ chối. Liền sau đó, một cô áo đỏ, rồi áo lục... toàn là nhan sắc hương phấn, giống như trong Hồng lâu mộng. Tôi liền khoát tay ra hiệu mình bị nhiễm HIV nặng, các em lập tức dãn ra... Lúc này tôi mới để ý tới giọng hát khe khẽ từ bóng tối bên vệ đường... một cô gái áo đen... vẫn ngồi đấy từ đầu. Không thèm bận tâm gì tới cuộc ríu rít của những “đồng nghiệp” của cô vây quanh tôi, chỉ mải chìm đắm trong giai điệu của bài hát mà cô yêu thích, và tôi nghe rõ: “Đi về đâu hỡi em. Hãy lau khô dòng nước mắt. Đời gọi em biết bao lần”. Tôi thầm hiểu rằng đến với cô gái bất hạnh trong phận người lúc này, quả không thể là Phạm Duy hoặc bất cứ nhạc sĩ nào khác, mà chính là Trịnh Công Sơn”. [19; 93-94]
                  ***

                  Những bài hát của Trịnh Công Sơn đã phổ biến và ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong lòng người dân Việt Nam, mà còn lan xa trên thế giới.
                  Ở Mỹ, người ta coi ông như là một Bob Dylan của người Việt và ông được mời sang sống ở đó như là một người dân di tản với mức thu nhập bảo đảm cuộc sống an nhàn.
                  Ở Pháp, Mỹ, Nga, Đức, Nhật có nhiều bài báo viết về Trịnh Công Sơn như của các nhà báo Jean-Claude Pomonti, Jacques Boyer (Pháp), Murray Hiebert, Jon Liden, John Schafer (Mỹ), Frank Gerke (Đức), Irina Zisman (Nga)... và nhiều bài hát được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Nhật. [7; 123 -146]
                  Năm 1970 ở Nhật Bản, bài Diễm xưa được tuyển vào vòng chung kết những bài hát hay của nước ngoài và bài Ca dao Mẹ được giải “Đĩa vàng” và bán được hai triệu bản. Tiếp theo thành công này, vào năm 1972, Mainichi Broadcasting đã đề nghị Trịnh Công Sơn sáng tác một bài hát đặc biệt dành tặng cho Hiroshima và Nagasaki. Và Trịnh đã sáng tác ca khúc Như tiếng thở dài.[64] Nhạc Trịnh đặc biệt được người Nhật yêu thích, vì những giai điệu bài hát của ông như những lời ru rất gần gũi, quen thuộc với người Nhật.
                  Năm 1980 ca khúc Diễm xưa và bản dịch Utsukushii Mukashi được đài truyền hình lớn nhất ở Nhật NHK chọn làm nhạc phẩm chính cho một bộ phim nội dung trình bày những khác biệt văn hóa giữa một người Nhật có vợ Việt Nam. Tháng Bảy 2004, Diễm xưa trở thành nhạc phẩm châu Á đầu tiên được Viện Đại học Kansai Gakuin đưa vào chương trình giáo dục của Viện trong bộ môn Văn hóa và Âm nhạc. [35]
                  Năm 2004, “Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA) được trao cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vì lý tưởng hòa bình mà ông đã đấu tranh không mệt mỏi cho hạnh phúc của nhân loại.
                  Tên ông được ghi trong bộ bách khoa Le Million của Pháp (tập 8 trang 122, Genève 1973). [7]

                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2010 06:26:17 bởi hoaha >
                  #84
                    Thay đổi trang: << < 456 | Trang 6 của 6 trang, bài viết từ 76 đến 84 trên tổng số 84 bài trong đề mục
                    Chuyển nhanh đến:

                    Thống kê hiện tại

                    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                    Kiểu:
                    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9