RE: Người vẫn quanh đây
-
16.05.2007 19:57:49
Trịnh công Sơn !
từng một thời với tôi là thần tượng . . .
Xin được post lên đây một bài viết vừa tình cờ đọc được .
sống trên đời cần một tấm lòng
chẳng cho ai cả
chẳng làm gì hết
chỉ để gió cuốn đi thôi !
(Trịnh công Sơn vô ( ! ) tâm thế đấy !)
Theo chỗ tôi biết, trong số những người viết về cuộc đời của nhạc sĩ họ Trịnh trong thời gian dạy học, chỉ có bốn người mới có thể có nhiều tài liệu sống về Trịnh Công Sơn, còn hầu hết đều cưỡi ngựa xem hoa, hoặc cặm cụi mày mò, đào xới trong các bài viết của nhiều người, cóp chỗ này một ít, chỗ kia vài chi tiết và đem các ca từ của họ Trịnh ra, sợi tóc chẻ làm tám, rồi dùng ngòi bút thần kỳ hô phong, hoán vũ, tô lục, chuốc hồng mà thôi.
Bốn người đó là: Hoàng Phủ Ngọc Tường - Khánh Ly - Trịnh Cung - Đinh Cường.
Thời gian Trịnh công Sơn còn sống, báo chí hải ngoại viết rất nhiều về người nhạc sĩ này, cả khen lẫn chê, nhiều khi đến độ gay gắt. Tôi cố tìm đọc những bài của ông Đinh Cường để xem lập trường của ông, nhưng không thấy. Mới đây ông Nguyễn văn Liễu tức họa sĩ Trịnh Cung có phát biểu một số điều tại Cali trong dịp tưởng niệm Trịnh Công Sơn. Trong đó có một số sự việc ông không phản ảnh đúng sự thật. Tôi nghĩ rằng ông quên hoặc ông suy diễn.
Mãi đến khi tờ Hợp Lưu, số 59, phụ trang đặc biệt Trịnh Công Sơn "Một cõi đi về", tôi mới được đọc một bài duy nhất của ông Đinh Cường. Cả hai ông Trịnh Cung và Đinh Cường đều nói là bạn lâu năm với Trịnh Công Sơn, từng cưu mang, chia ngọt, xẻ bùi cùng nhau cho đến ngày nhạc sĩ họ Trịnh từ giã cuộc đời. Nhưng tuyệt nhiên, người ta không thấy hai ông đả động gì tới vấn đề Trịnh Công Sơn có là Cộng Sản hay không?
Ca sĩ Khánh Ly hết lời ca tụng người nhạc sĩ này là điều đương nhiên, dễ hiểu. Nếu không có nhạc Trịnh Công Sơn chắp cánh cho Khánh Ly bay cao, thì suốt đời Khánh Ly chỉ là một cô bé "nhếch nhác", như lời ông Cung mô tả, ở tại Đà Lạt mà thôi. Ngược lại, nếu nhạc Trịnh Công Sơn không nhờ Khánh Ly "lăng xê chùa" trên Đài Phát Thanh Đà Lạt, ròng rã ba năm liền, từ 1964 đến 1967, và "đi chân đất" về Sài Gòn hát miễn phí cho sinh viên nghe thì liệu nhạc của họ Trịnh có được phổ biến rộng rãi như ngày nay không? Cần nhắc ở đây là trước 1964, từ cái thuở mới mười bảy tuổi, Trịnh Công Sơn đã có những bản nhạc rất hay như "Ướt Mi", "Thương Một Người", "Biển Nhớ", "Nhìn Những Mùa Thu Đi" mà nào có tăm tiếng gì. Có chăng là những bạn bè trong giới Sư phạm hoặc một vài thân hữu chuyền tay nhau hát!
Người có thẩm quyền nhất để giải đáp thắc mắc của nhiều người liệu Trịnh Công Sơn có là Cộng Sản hay không chính là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng đến giờ này, tôi không thấy ông lên tiếng xác nhận. Hoặc có mà tôi không biết chăng?
Hai Năm Tại Trường Sư Phạm Qui Nhơn 1962-1964
Tôi học chung một khóa Sư phạm với Trịnh Công Sơn. Khóa I, ngày 22 tháng 4 năm 1962, khóa đầu tiên được mở ra tại thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định. Tên gọi khóa học là "Thường Xuyên", học hai năm, để phân biệt với "Khóa Cấp tốc", học một năm. Tiêu chuẩn tối thiểu để nộp đơn là Tú Tài I. Tuy nhiên khóa đầu tiên ấy đa số đã có Tú Tài II. Một vài người đã có một, hai chứng chỉ Đại học. Sĩ số giáo sinh là ba trăm người. Đa phần là người Huế, tỷ lệ có lẽ chiếm 60%. Số còn lại rãi rác ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa... lên tận các tỉnh cao nguyên Đà Lạt, Lâm Đồng, PleiKu, KonTum...
Trịnh Công Sơn theo ban Pháp văn. Tôi theo ban Anh văn. Hiệu trưởng là thầy Đinh Thành Chương. Ông này rất tôn sùng tổng thống Ngô Đình Diệm. Mỗi sáng thứ hai, chào cờ, Ông thường có những bài phát biểu trước giáo sinh, ca tụng công đức Ngô Chí Sĩ hết lời. Ngược lại, em Ông, giáo sư Đinh Thành Bài lại thiên Cộng. Trong những giờ dạy Sư phạm lý thuyết, thầy thường xen vào những lời ca ngợi chế độ Cộng Sản.
Năm 1963, phong trào Phật Giáo nổi lên, lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Một nhóm giáo sinh tổ chức tố khổ thầy Đinh Thành Chương, buộc Ông phải từ chức. Trịnh Công Sơn cũng bị lôi kéo theo trong vụ này. Mấy tuần sau, Bộ Giáo Dục phải bổ nhiệm giáo sư Mẫn mới từ Hoa Kỳ về, thay thế thầy Chương, nội vụ mới êm.
Còn nhớ, ngày nhập học đầu tiên, thầy Đoàn Nhật Tấn, dạy môn tâm lý giáo dục, đọc tặng học trò hai câu thơ:
Dưa leo chấm với cá kèo,
Bởi con nhà nghèo mới học Normal! (Sư phạm)
Đúng vậy! Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo. Hoặc học hành dang dở, hoặc cha mẹ không đủ khả năng tài chánh để gửi con ra Huế hay vào Sài Gòn tiếp tục học lên Đại học. Vì vậy chúng tôi đều cố thi vào Sư phạm để chắc chắn rằng sau hai năm sẽ có công ăn việc làm cho bản thân và có thể giúp gia đình. Tưởng cũng nên nói rõ ở đây tại sao chúng tôi cố thi vào Sư phạm. Thời gian đó hai ngành Y Tế và Giáo dục rất thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo xong là được bổ nhiệm đi làm ngay. Trong khi các ngành khác như Công Chánh, Nông-Lâm-Súc, Kỹ Thuật Phú Thọ... ra trường, nằm nhà mấy năm vẫn chưa được bổ nhiệm.
Có một nghi vấn ở đây: Không biết ông Trịnh Cung vin vào đâu mà bảo rằng Trịnh Công Sơn vào được trường Sư phạm Qui Nhơn để núp bóng là nhờ hai ông Tường và Kha giúp đỡ. Có lẽ ông Cung đã nghe ông Tường, ông Kha hay là Sơn kể lại chăng?
Nói thêm một chút về chuyện thi vào Sư phạm. Đề thi thật ra không khó, nhưng để lọt được vào cửa ải, mỗi thí sinh phải chọi lại ít nhất mười đối thủ. Tính từ Quảng Trị, Trung Trung Phần đến miền cao nguyên hơn mười bốn tỉnh, Bộ chỉ chọn có ba trăm người. Vậy theo tiết lộ của ông Cung, người ta nghĩ đến hai vấn đề:
1/ Ông Tường hoặc ông Kha đã thi dùm cho Sơn? Hoặc hai ông có chân trong Ban Giám khảo, chấm cho Sơn đậu?
- Tại sao lại phải vào trường Sư Phạm núp bóng mà không là Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế? Nơi mà ông Cung với ông Cường theo học.
Ông Đinh Cường từng xác nhận là Sơn có tài hội họa, vậy thì thi vào Mỹ thuật có khó khăn gì, thi chi vào Sư phạm để phải nhờ đến sự giúp đỡ của hai ông Tường và Kha?
Thứ nữa, ông Cung chê nghề dạy học không xứng đáng với tài năng của Sơn (lúc ấy?). Và ông còn cho biết đã cưu mang Sơn.
Tôi không biết ông nói chữ "cưu mang" với một nghĩa nào. Theo chỗ tôi biết, đem chỉ số lương ra so sánh thì lương của Sơn phải hơn hẵn.
2/ Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm để núp bóng. Cả hai ông Cung và Cường đều nói như thế. Vậy Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm để núp ai? và núp cái gì? Sẽ có hai giải thích được đặt ra cho hai chữ "núp bóng"
a/ Sơn vào Sư Phạm để tạm thời trốn lính.
b/ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Văn Liễu (Trịnh Cung) và Đinh Cường đã có mưu đồ gài Sơn vào Sư Phạm để thực hiện sách lược "học đường vận"?
Giải thích một: không vững. Lúc đó Sơn đã có Tú Tài I. Đâu phải ở vào trường hợp "Rớt tú tài anh đi trung sĩ". Sơn có thể theo học bất cứ một trường Trung Học tư nào để thi lấy Tú Tài II vẫn được hoãn dịch theo luật định. Nếu cuối năm, thi hỏng, thì a-lê, mời anh vào Thủ Đức, vác Garant M1 đi "ắc ê" chín tháng quân trường. Sau đó mang lon chuẩn úy, đi "mút chỉ cà tha", bốn vùng chiến thuật, trả nợ nước non. Còn nếu anh bợ được cái Tú Tài II, thì anh cứ tà tà lên Đại Học. Chí ít cũng được hoãn dịch bốn năm nữa. Chính phủ Việt Nam Cọng Hòa đâu có chủ trương lùa hết trẻ, già, trai, gái, lớn, bé đi "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" như ở miền Bắc.
Ông Cường nói vì tình hình, thời cuộc lúc đó... lại càng khiên cưỡng. Những ai sinh từ năm 1940 trở về trước đều biết rất rõ rằng: Miền nam được hưởng một thời gian mấy năm rất thanh bình, kể từ ngày Ông Diệm chấp chánh (54-63) cho đến lúc Ông bị đám "Thập nhị Sứ quân" giết.
Giải thích hai: có lẽ thuyết phục hơn, nếu xét theo bề dày "thành tích" Sơn đã cúc cung tận tụy, phục vụ chế độ sau tháng Tư, bảy lăm. Nhưng suốt những tháng, năm sống chung với Sơn, tôi không thấy Sơn có một hành động cụ thể nào khả dĩ gọi là có vẽ "Việt Cộng". Trừ khoảng thời gian giữa năm 1965, Sơn nhận được nhiều thư từ của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường và tiếp theo là những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc bí mật tại một trang trại ở Phim Nôm, gần Tùng Nghĩa, Đà Lạt với một nhân vật, Sơn dấu tên. Sau đó, Sơn mới vội vã sáng tác tập "Ca Khúc Da Vàng" trong vòng có ba tháng hè năm 1965. Loại trừ hai giải thích trên, Sơn vào Sư phạm với một lý do hết sức đơn giản là:
Dưa leo chấm với cá kèo.
Bởi con nhà nghèo mới học "Sư phạm".
(Cái sĩ diện hão của đa số người Huế cứ mơ về một thời vàng son làm "ôn" làm "mệ" cố che dấu cái hiện tại suy tàn đã đành. Còn ông Liễu là dân Nha Trang-Cầu Đá-Chụt chính tông mà cũng lập lờ "đánh bùn sang ao" quả là chuyện lạ)
Nhắc lại hai câu thơ của thầy Đoàn Nhật Tấn đã dẫn nhập để thấy rằng lúc ấy nhà Sơn đang lâm vào cảnh ngặt nghèo. Cha bị tai nạn mất sớm, gia đình khánh kiệt. Má Sơn phải chật vật lắm mới nuôi nỗi đàn con còn nhỏ dại. Sơn là con trưởng, phải bỏ dở chương trình học để lấy nốt cái Bac II Philosophie, về lại Huế để phụ giúp mẹ. Sư phạm Qui Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt được ý nguyện này. Những ngày mưa gió ủ ê, đất nhão, không đi ra ngoài được, nằm khoèo ở nhà, Sơn tỉ tê kể cho tôi nghe về cuộc đời của Sơn nhiều buồn vui lẫn lộn. Trong đó có cả điều thất vọng và thất tình về cô Diễm. Từ đó mới có bài ca thất tình diễm lệ "Diễm xưa".
Dù bất cứ ai, vô tình hay hữu ý, che dấu hay huyền thoại hóa Trịnh Công Sơn trong giai đoạn học Sư phạm và dạy học bằng những lý do rất "mờ mờ, ão ão" để đánh hỏa mù dư luận với mục đích thần tượng hóa đời thường của một nghệ sĩ, cũng cần cơm ăn, áo mặc... như mọi người, đều không giúp ích gì được trong việc cung cấp tài liệu để viết lại tiểu sử một người nghệ sĩ tài ba được nhiều người mến mộ. Có khi lại phản tác dụng.
Trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật Qui Nhơn được ngân sách Mỹ tài trợ, xây cất rất qui mô và tân kỳ. Hai trường nằm gần nhau tại Khu Sáu, sát bờ biển, khoảng giưã đường từ phố Gia Long đến Ghềnh Ráng, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử an nghỉ giấc ngàn thu. Qua khỏi Ghềnh Ráng là làng Qui Hòa, làng dành riêng cho người mắc bệnh cùi. Ở đó có nhiều bà "xơ" hy sinh một đời, tận tụy chăm sóc cho bệnh nhân.
Lúc bấy giờ, 1962, thành phố Qui Nhơn hãy còn tiêu điều xơ xác. Ngay con đường chính Gia Long, chạy dài từ Núi Một (Ga xe lửa) đến bến cảng hãy còn nhiều ngôi nhà vô chủ, đổ nát hoang tàn trong chiến tranh chưa có ai dọn dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ trung tâm phố thẳng ra biển còn rất nhiều nhà tranh, vách lá.
Vẽ lại một vài hình ảnh cũ để cho thấy chính phủ lúc ấy có dụng ý khi cho xây cất hai ngôi trường đồ sộ tại đây. Mỗi năm hai trường qui tụ hơn một ngàn giáo sinh và học sinh kỹ thuật khắp nơi đổ về. Nền kinh tế tại đây đã nhanh chóng phục hồi.
Để quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết về trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc nhà trường cho thành lập một ban văn nghệ. Trịnh Công Sơn được bầu làm trưởng ban, chịu trách nhiệm tổng quát. Thanh Hải, phó ban thứ nhất, trách nhiệm về nhạc. Võ Văn Phòng, phó ban thứ hai, trách nhiệm về kịch. Một vỡ kịch thơ dài 45 phút nhan đề "Tiếng Cười Bao Tự" được dàn dựng. Tôi được chọn để thổi sáo đệm thơ. Nhân dịp này tôi mới biết và quen với Trịnh Công Sơn.
Một chương trình đại qui mô gồm đủ các tiết mục ca, múa, nhạc, kịch được Ban Văn nghệ hoạch định. Thêm vào đó là một tổ phụ trách ánh sáng. (Lúc đó rất hiện đại và tân kỳ. Dùng đèn chiếu slide làm hậu cảnh thay đổi mỗi màn trình diễn khác nhau. Dùng đèn quay, chớp chớp đổi màu rất đẹp mắt) Buổi trình diễn được ra mắt đúng ngày "Song Thất" năm đó, chứ không phải ngày mãn khóa như ông Đinh Cường nói.
Trong thời gian này, Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca "Tiếng Hát Dã Tràng" hay gọi gọn hơn là "Dã Tràng Ca" để làm tiết mục mở màn. Đây là tiết mục công phu và đặc sắc nhất. Ban hợp xướng gồm năm mươi người gồm nam lẫn nữ do Sơn thử giọng tất cả các mầm non văn nghệ và chọn lọc. Anh đã khổ công tập ráo riết trong ba tháng trời, xen kẻ giữa những giờ học, và đã thành công vượt mức trước sự ngạc nhiên đầy thích thú và khen ngợi của quan khách và công chúng. Tiếng vỗ tay đã kéo dài rất lâu.
Rất tiếc, tôi không có chân trong ban hợp xướng, nên không thuộc trường ca này. Chỉ nhớ lõm bõm vài câu, xin ghi lại cho vui.
Tiếng Hát Dã Tràng hay Dã Tràng Ca.
(Tiếng vọng) Dã tràng... Dã tràng... Dã tràng...
Dã tràng xe cát biển Đông... Dã tràng xe cát hoài công...
(Tiếng trống Bass dồn dập, thúc dục):
Trùng dương ơi... Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ...
....(quên)...
Thôi... còn gì nữa đâu... Còn gì nữa đâu... Đời lên cơn đau! Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt... Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...
Tôi chỉ nhớ đại khái vậy. Hiện nay, tại thành phố Lawrence, Mass, có anh Nguyễn Văn Tấn, Cali có chị Hồ thị Nghị trước ở trong ban hợp xướng, chắc còn nhớ. Bốn mươi năm đã qua rồi, còn gì!
Cũng trong thời gian học Sư Phạm, Sơn còn sáng tác thêm những nhạc phẩm khác như "Biển Nhớ", "Nhìn Những Mùa Thu Đi", "Nắng Thủy Tinh". Hầu như tất cả giáo sinh đều biết và ngâm nga những bài này. Ngoài ra Sơn cũng sáng tác một vài bài vui, ngắn để chúng tôi khi đi thực tập tại các trường dạy cho các em hát.
Tôi xin ghi lại đây một bài tượng trưng:
Ông Tiên vui
Ông Tiên vui,
Ông có cái râu dài.
Đêm ông thường ngủ yên trên đỉnh mây.
Ông Tiên vui,
Ông thường hay nhắc đến.
Chốn thiên đình chẳng có tháng ngày vui.
Ông Tiên vui,
Ông có cái căn nhà.
Trên ngọn đồi hằng đêm Ông ghé qua.
Hôm em lên,
Ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về, em buồn đến ngẩn ngơ.
Xin nhắc lại ở đây, Qui Nhơn lúc ấy còn nghèo lắm. Cả thành phố có mỗi quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa bán cà phê, thuốc lá, bia, trà. Đó là quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường Qui Nhơn, nơi đã trình diễn văn nghệ.
Mỗi buổi chiều, chúng tôi, anh chị em nào có chút tiền còm thì kéo nhau vào quán, kêu bình trà, ngồi nhâm nhi nghe nhạc. Khá một chút nữa thì kêu một chai bia với tô bò viên gân, ngầu pín của ông Ba Tàu đậu xe trước quán. Thế là sang lắm rồi. Anh chị nào "bô xu" thì ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Qui Nhơn là biển bùn nên cát ở đó có màu vàng xỉn trông dơ dáy, không trắng như cát biển Nha Trang. Dọc theo bờ biển là một hàng dương, chạy dài từ khu quân sự đến bệnh viện Nguyễn Huệ. Trước bệnh viện là xóm chài. Bờ biển không có một lều quán hay kiosque nào. Ông Đinh Cường nói cùng Trịnh Công Sơn và Bích Khê ra đó uống cà phê ngắm trăng là nói nhầm.
Ba Năm Tại B'lao (Bảo Lộc, Lâm Đồng)
Sau hai năm, mãn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi và Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Lê Thị Ngọc Trinh (Huế), Nguyễn Văn Sang, Trương Khắc Nhượng, Đỗ Thị Nghiên (NhaTrang) cùng được bổ nhiệm chung một sư vụ lệnh, đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu học Lâm Đồng. Sự vụ lệnh mang số 961-GD/NV/38/SVL tạm thời tuyển bổ do Ông Nguyễn Hữu Quyến, Xử Lý Thường Vụ Hiệu Trưởng Trường Sư Phạm ký ngày 14 tháng 8 năm 1964.
Sau hai năm tập sự, chúng tôi được điều chỉnh tuyển dụng bằng Nghị Định mang số 596-GD/NV/BC/QĐ do XLTV Đổng Lý Văn Phòng, Phụ Tá Chuyên Môn, Phạm Văn Thuật ký ngày 6/5/1966.
Đến năm 1967, chúng tôi mới được chính thức bổ dụng bằng Nghị Định mang số 687/GD/NV/3B/NĐ kể từ ngày 01/9/1966 do T.U.N Ủy Viên Giáo Dục Đổng Lý Văn phòng Huỳnh Ngọc Anh ký ngày 7/4/ 1967.
Với chỉ số lương 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao lúc bấy giờ, chúng tôi lãnh được năm ngàn hai trăm đồng ($5.200) mỗi tháng, tương đương với hai lạng rưỡi vàng Kim Thành. Vật giá lại rất rẽ. Tiền ăn, ở mỗi tháng chỉ hết 600 đồng. Chai bia Con Cọp 3 đồng. Một dĩa thịt bò lúc lắc bốn người ăn giá 7 đồng. Tô phở 3 đồng. Cà phê loại ngon, một ly/1 đồng. Cơm bữa với ba món, 6 đồng. Thời gian từ 1964 đến 1967, chúng tôi sống sung sướng, tiêu pha rộng rãi mà vẫn còn rủng rỉnh.
Tôi từ Nha Trang lên, theo đường Nha Trang-Đà Lạt-Bảo Lộc. Trịnh Công Sơn, từ Huế bay vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn đi xe đò lên Bảo Lộc.
Không hẹn mà gặp lại nhau trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Lâu lâu mới thấy dăm người Thượng lầm lũi nối đuôi nhau, lặng lẽ rảo bước về một bản làng nào đó. Chúng tôi nhìn nhau, lòng thầm nghĩ: Trời ơi! Cái thiên đường mà mình tưởng tượng khi nắm trong tay tờ Sự Vụ Lệnh là đây sao? B"lao-Bảo Lộc là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng lặng, buồn hiu hắt. Chuyến xe cuối cùng đổ khách xuống đây rồi lẫn mất. Ai cũng tản mác về nhà. Chỉ còn trơ lại Sơn và tôi, trơ trọi, cô độc. Trời lại đang mưa lâm râm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người một va li quần áo nhẹ tênh. Lang thang tìm người hỏi đường đến Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Lúc bấy giờ, thị xã Đà Lạt thuộc tỉnh Tuyên Đức. Lâm Đồng là một tỉnh chỉ có vỏn vẹn hai quận là Djiring (Di Linh) và B'lao (Bảo Lộc). Trước năm 1960, Tòa Hành Chánh đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc được mấy năm, trước khi chúng tôi đến.
Khi chúng tôi tìm được đến Ty Tiểu Học thì trời đã sụp tối mặc dù chưa tới sáu giờ. Sương mù bốc lên từ mặt đất, bay là là dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang khóa cửa chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên mới đổi đến, bác ân cần mời chúng tôi theo bác.
- Mấy thầy cũng may! -Bác nói- Chút nữa là tôi về rồi. Mai thứ bảy Ty nghỉ. Mấy thầy biết trọ nơi đâu. Đi theo tôi, tôi sẽ giới thiệu hai thầy với mấy ông giáo cũng vừa mới đổi tới đây mấy hôm trước.
Chúng tôi theo chân Bác vào ngõ Tiên Dung (gọi là ngõ Tiên Dung vì đầu ngõ có tiệm chụp hình mang tên ấy). Đi sâu vào khoảng hai trăm thước, con hẽm hẹp, trơn trợt vì cơn mưa buổi chiều, xoai xoãi lên dốc dần. Bác dừng chân trước một căn nhà mái tole, vách ván. Trong nhà vẳng ra tiếng cười nói vui nhộn của đám đông. Bác cai bước vào trước. Tiếng huyên náo im bặt. Bác ra hiệu cho chúng tôi vào nhà. Trong nhà chỉ có một chiếc giường gỗ khá rộng. Trên giường bốn mạng đang nằm, ngồi lổn nhổn. Mọi người nhìn bác cai chờ đợi. Bác đưa tay về chúng tôi rồi hướng về một anh lớn nhất trong đám giới thiệu:
- Thầy Lãng à! Mấy thầy này mới đổi tới hồi chiều. Ty đóng cửa rồi, không trình diện được. Thầy giúp dùm cho mấy thẩy ở tạm qua đêm được không? Nhà tôi chật quá, không có chỗ ngủ.
Lãng tung chăn, ngồi dậy, giọng hơi cà lăm:
- Thế à! Được... được! Bác cứ về! Để... để tụi này thu xếp.
Sau khi bác cai quay lưng ra khỏi cửa, tôi với Sơn sực nhớ ra chưa nói lời nào cám ơn sự giúp đỡ của bác, bèn vội nói vói theo:
- Cám ơn bác nghe!
Không thấy tiếng trả lời. Có lẽ bác đã đi khá xa. Chợt Lãng lên tiếng:
- Ối giời! Nhà bác ấy cũng gần ngay đây thôi! Sáng mai, thế nào bác ấy cũng sang đây. Các anh vào đây đã. Sao cứ đứng mãi thế. Để... để cái va li vào góc này!
Chúng tôi theo lời anh đem hành lý đặt vào góc nhà. Thế rồi cả bốn người bu quanh hỏi thăm rối rít.
- Sư Phạm Qui Nhơn hả?
- Vâng!
- À, có anh Sang cũng Sư Phạm Qui Nhơn đây, mới trình diện hôm kia. Còn bọn này Sư Phạm Sài Gòn. Cũng lên trước mấy ngày thôi.
Tôi nhìn qua Sang. Cũng dân Nha Trang, nhưng tôi chưa gặp mặt lần nào tại Qui Nhơn. Sang ốm và cao như cây tre miễu. Nước da đen nhẽm. Mắt tròn xoe, tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Còn hai người kia mới thoạt nhìn cứ tưởng là hai anh em. Cả hai đều tròn lẵn, chắc nịch. Da mặt hồng hào, bóng lưỡng. Một anh tên là Nguyễn Đức Hinh, nãy giờ chỉ đứng nhìn chúng tôi cười cười, không nói gì, nét mặt lộ vẽ thân thiện. Còn anh kia là Đỗ Danh Đạo, người hoạt bát, nói năng vui vẻ. Anh giới thiệu với chúng tôi người này, người nọ bằng một giọng đặc biệt Bắc pha Sài Gòn nghe rất tếu:
- Ông này là Nguyễn Tiến Lãng, -anh chỉ tay về phía đầu giường, Lãng đang quấn mền, ngồi dựa lưng vào vách.- Lãng là thổ địa kỳ cựu sáu năm ở đây, có biệt danh là ông Trùm. Đang dạy tại trường Nam Bảo Lộc.
Có lẽ đoán được sự thắc mắc của chúng tôi qua nét mặt ngơ ngác, Đạo giải thích:
- Sở dĩ ông Lãng lên tới chức Ông Trùm là vì ông ở đây lâu, thổ nhưỡng Lâm Đồng tặng cho ông bệnh sốt rét kinh niên. Cứ tới năm giờ chiều là ông phải trùm mền, xoa dầu Nhị Thiên Đường. Ngày nắng hay ngày mưa cũng đều đặn.
Mọi người cười rộ lên qua lời tếu của Đạo. Quay qua cặp mập và ốm ngồi cạnh nhau, Đạo tiếp:
- Còn hai ông này là Sang và Hinh, đang làm vua một cõi tại Lạc An, cách đây bảy cây số. Một tuần về phố một lần để du hí. Tạm trú tại "am" của em và bác Lãng.
Không khí dần dần cởi mở, thân mật. Chúng tôi thấy ấm lòng và quên ngay nỗi buồn nặng nề buổi chiều, mới cách đây có hai tiếng đồng hồ. Chợt Hinh lên tiếng:
- Này ông, ông giới thiệu người khác lung tung, sao ông không nói gì về ông hết?
Đạo đỏ mặt rần lên, phất tay lia lịa:
- Thôi tha cho nhà em, nhà em đâu có gì để mà nói!
Nhưng Hinh đâu có chịu tha:
- Hai anh nè! Hắn là Đỗ Danh Đạo, tự là Đạo Sữa. Hôm mẹ hắn dẫn hắn lên đây giao cho bác Lãng trông nom, có dặn dò bác Lãng nhắc chừng hắn uống đều đặn mỗi ngày ba lần sữa, sữa Guigoze chính hiệu bà Lang Trọc đấy.
Nói xong, anh chỉ cho chúng tôi thấy hai thùng sữa tổ bố nằm dưới gầm bàn.
Thoáng chốc, chúng tôi thấy gần gũi và thân tình như đã quen nhau tự bao giờ. Mọi người dục chúng tôi đi tắm rữa rồi dẫn đi ăn tối. Đi ngược lại hẽm Tiên Dung. Phía bên kia đường là quán ăn Ngọc Hương, nằm bên phải đầu cầu. Buổi chiều, lầm lũi theo bác cai nên chúng tôi không để ý. Cầu có tên là Cầu Đất, vì bên dưới không có sông hay suối gì cả. Người ta dùng xe ủi, ủi đất lấp đầy một quãng, nối liền hai trái đồi, thành một lối đi, hai bên có thành che chắn cho khỏi ngã xuống hố, trông giống như cây cầu. Sương buổi tối đã dâng lên dầy đặc. Cả phố Bảo Lộc thắp thoáng ẩn hiện trong sương giống như cảnh tiên bồng trong xi nê. Quán ăn Ngọc Hương lập lòe ánh điện, văng vẳng tiếng nhạc phát ra, nghe như lúc gần lúc xa. Còn nhớ hình như bản "Những Bước Chân Âm Thầm". Vì lời ca, tiếng nhạc với cái khung cảnh lúc bấy giờ nó hòa nhập vào lòng người lần đầu tiên đặt chân lên miền cao nguyên, sơn cước... Trước mắt tôi, một cảnh trí hoàn toàn lạ lẫm, đầy huyền ão và thơ mộng mà từ thuở nhỏ đến giờ, sống ở miền gió biển, cát trắng, sóng vỗ quanh năm, tôi chưa từng được thấy. Có chăng cũng chỉ là tưởng tượng ra những hình ảnh mơ hồ qua bản nhạc "Ai Lên Xứ Hoa Đào" của nhạc sĩ Hoàng Nguyên mà thôi.
Những hình ảnh buổi chiều đứng co ro nơi bến xe vắng ngắt bóng người, nó ảm đạm thê lương bao nhiêu, bây giờ trở thành thơ mộng, lãng mạn bấy nhiêu. Nào con đường đất đỏ quanh co lẫn khuất dần trong ngõ vắng. Nào sương mù là là bay từng đám dưới chân. Nào những con đường lên dốc, xuống dốc khiến những mái nhà trồi lên, hụp xuống theo, y như những con thuyền tròng trành lượn theo giợn sóng xa xa ngoài biển.
Đang đói suốt một ngày đi đường, tôi và Sơn, vèo một cái, mỗi người đã ăn hết một dĩa cơm sườn nướng một cách ngon lành. Trong lúc mọi người đang nhâm nhi cà phê, nghe nhạc. Họ đã ăn từ chiều. Chúng tôi tiếp tục uống cà phê và trò chuyện. Sơn ít nói, chỉ ngồi nghe. Thỉnh thoảng góp vài câu gọi là. Có lẽ lần đầu còn giữ kẽ chăng? Ba anh: Lãng, Hinh, Đạo chốc chốc lại ngó chăm chăm vào Sơn, nửa như tò mò, nửa như quan sát. Phải chăng cái phong thái nghệ sĩ của Sơn đã gây cho người ta cái ấn tượng đầu tiên? Đối với tôi hay Sang, cái hình ảnh Trịnh Công Sơn, với một khuôn mặt ngăm đen, đôi mắt nhỏ mơ màng sau cặp kính cận khổ lớn, gọng đồi mồi che gần hết nửa khuôn mặt, trong hai năm học tại Qui Nhơn đã quá quen thuộc. Nhưng giờ đây, với những người bạn mới, chân chỉ hạt bột, mới rời ghế nhà trường, lần đầu tiên bước chân ra ngoài xã hội thì hình ảnh một ngươi nghệ sĩ như Sơn tự nhiên với mái tóc thưa, hơi dài, cái trán hói cao, đôi kính cận to quá khổ, hàng ria mép lưa thưa, vừa như râu, vừa như lông, mãnh và mịn khiến người ta thấy lạ nhưng ưa nhìn và có cảm tình ngay.
Gần chín giờ, mọi người dục về. Tôi và Sơn muốn nán lại chút nữa để được hưởng thêm cái hương vị ngọt ngào, đậm đà kỷ niệm của ngày đầu tiên đặt chân lên xứ Thượng. Nhưng anh Lãng cho biết, đúng chín giờ là nhà máy điện sẽ cúp.
Đêm đó, chúng tôi trãi chiếu, chăn xuống thềm nhà, năm người bạn trẻ, trừ anh Lãng nằm trên giường, tuổi sàng sàng từ hai bốn đến hai sáu, cùng nhau trao đổi những chuyện quê hương đi dần từ Sài Gòn ra đến Huế rồi thiếp vào giấc ngủ. Lúc bừng mắt dậy đã chín giờ sáng.
Sáng thứ Hai, trình diện tại Ty để chờ bổ nhiệm, chúng tôi gặp hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đã đến từ thứ Bảy, Chủ Nhật. Sư phạm Qui Nhơn đủ mặt: Lê Thị Ngọc Trinh, Đỗ Thị Nghiên, Trương Khắc Nhượng. Sư phạm Sài Gòn: Nam có Nguyễn Hảo Tâm, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Nghị. Nữ có: các cô Nguyệt, Châu, Hải, Trang... Sư phạm Long An chỉ có một ngoe là Ngô Thanh Bạch.
Ty Trưởng đương nhiệm là Ông Trương Cảnh Ngôn, sắp về hưu. Đỗ Thị Nghiên, Trương Khắc Nhượng, Nguyễn Hảo Tâm và tôi cùng được bổ nhiệm về trường Tân Bùi, xứ Tân Bùi, cách trung tâm Bảo Lộc chừng năm cây số. Lê Thị Ngọc Trinh bổ về trường Nữ Bảo Lộc ngay trung tâm phố. Nguyễn Văn Ba phụ chân kế toán tại Ty. Riêng Trịnh Công Sơn được "biệt nhãn" hơn bổ về một trường Sơ Cấp Thượng, ở sát nách Ty, chừng non cây số. Với chức vụ là Trưởng Giáo. (Xin chú ở đây, theo qui chế Bộ Giáo Dục bấy giờ: một trường chỉ có lớp bốn trở xuống gọi là trường Sơ cấp. Đứng đầu là Trưởng Giáo, phải dạy lớp và không có phụ cấp chức vụ 200$. Trường từ năm lớp trở lên mới được gọi là trường Tiểu học. Đứng đầu là Hiệu Trưởng có phụ cấp chức vụ, vẫn phải đứng lớp. Truờng có từ mười lớp trở lên, Hiệu Trưởng mới được miễn dạy.
Ngạch chúng tôi là Giáo Học Bổ Túc, chỉ số lương tập sự là 320, ngân sách do Bộ Quốc Gia Giáo Dục đài thọ, như đã nói ở trên.
Sau khi phân bổ xong, Ty cho chúng tôi được nghỉ một tuần để thu xếp nơi ăn chốn ở. Thứ hai tuần tới sẽ trình diện nhiệm sở mới.
Khi về đến nhà, chúng tôi bò lăn ra cười với cái chức Trưởng giáo của Sơn. Lần đầu nghe tới chức Trưởng Giáo, ai cũng liên tưởng tới chức Trưởng Lão Hộ Pháp trong Ma Giáo, truyện chưởng Kim Dung.
Mấy ngày thong thả, tôi và Sơn đi dạo khắp nơi để tìm nhà trọ. Thật đúng như lời của một bản nhạc "đi dăm phút đã trở về chốn cũ..." Phố Bảo Lộc nằm dọc theo quốc lộ, chỉ có một đoạn ngắn chưa đầy nửa cây số. Bắt đầu từ trường Nông Lâm Súc, chạy thoai thoải xuống dốc, đến cuối dốc là một cái hồ nước, trông giống như cái lòng chão là hết. Lên dốc, hai bên là những đồi trà ngút ngàn. Lâm Đồng là xứ trà. Xưa kia B"Lao do người Pháp khai khẩn trồng trà và chế biến trà. Họ có nhiều trang trại lớn và có cả sân bay tư nhân. Năm chúng tôi được bổ về đây thì chỉ còn hai người Pháp già lấy vợ Việt Nam là còn ở lại. Những trại chủ khác đã bán lại cơ sở cho người Việt hoặc bỏ hoang để về nước vì không chịu nổi Việt Cộng thu thuế.
Bảo Lộc là đọc theo âm Việt của tên Thượng là B"Lao. Năm 1954, ông Diệm đưa số người Bắc di cư lên đây khẩn hoang lập nghiệp. Họ toàn là người Công Giáo. Dẫn đầu là một cha xứ. Người xứ nào ở ngoài Bắc thuộc làng gì thì lên đây qui tụ lại thành một xứ, lấy tên làng mình ghép thêm chữ Tân để thành tên của xứ mình. Ví dụ: làng Bùi Chu thành Tân Bùi. Theo thứ tự, hướng từ Định Quán lên cao dần, qua khỏi khu vực sông La Ngà là đèo Ma Đa Gui, ranh giới tỉnh Lâm Đồng. Quận Bảo Lộc bắt đầu từ xứ Tân Bùi. Tiếp theo là Tân Hà. Phố Bảo Lộc nằm giữa. Rồi đến Tân Thanh, Tân Phát. Xa vào tận buôn Thượng còn thêm Tân Rai và Tân Lú. Tôi chưa đến đó bao giờ. Chỉ đọc thấy trên bản đồ hành chánh. Mỗi xứ đạo do một cha xứ cai quản, cả phần hồn lẫn phần xác. Phụ tá có các ông trùm. Xứ có lực lượng vũ trang riêng để tự vệ an ninh và đánh trả Việt Cộng. Chung quanh xứ bảo bọc bởi hàng rào tre kiên cố. Kẻ lạ muốn vào xứ phải có người trong xứ quen và hướng dẫn. Xứ được xây dựng theo đồ hình bát quái. Trung tâm là nhà thờ. Dưới mỗi nhà đều có đường hầm ăn thông với đường hầm chính dẫn tới nhà thờ. Đường hầm được đào và xây dựng rất rộng rãi, chắc chắn. Suốt những năm ông Diệm chấp chánh, không một tên du kích nào dám bén mãng đến quấy rối. Nghe nói lúc đầu cũng có vài tên cố thâm nhập nhưng đều bị giáo dân tóm cổ tức khắc. Trong khi đó, tại trung tâm phố, khu tập trung đông đảo dân Nam, Ngãi, Bình, Phú, Thừa Thiên theo đạo Phật đa số thì Việt Cộng lại dễ dàng trà trộn rãi truyền đơn và treo cờ. Kể từ năm 1964, khi chúng tôi dạy học tại đây, trở về sau, những chính quyền kế tiếp không chú trọng đến kế hoạch ấp chiến lược nữa, thu hồi toàn bộ vũ khí của các xứ, nên vấn đề an ninh lỏng lẽo dần.
Trở lại chuyện chúng tôi đi tìm nhà trọ. Suốt mấy ngày, Sơn và tôi lang thang khắp ngõ để tìm nhà thuê, nhưng không nơi nào vừa ý. Nhất là nhà vệ sinh thì khiếp quá. Tất cả các nhà đều đào hố xí sau vườn. Gác ngang miệng hố là hai thanh gỗ. Che chung quanh bằng những tấm cót tre. Không có mái che. Ngày mưa phải đội nón lá mà ngồi. Nhặng xanh hằng ngàn con bay vù vù từ dưới hố lên, bu cả vào người. Dòi bọ trắng nhởn to bằng đầu đũa, bò lổn nhổn khắp mặt đất. Eo ơi! Còn những ngày nắng oi nồng, cái mùi xú uế từ dưới xông lên càng khiếp đảm.
Trong lúc loay hoay tìm nhà, có ai đó mách chúng tôi, ở về phía Ty Công Chánh có ngôi biệt thự vừa xây xong, chủ nhà muốn cho thuê nhưng hơi đắt. Sơn và tôi đến ngay. Nhà rất đẹp, tọa lạc trên một khu quang đãng, thoáng tầm nhìn. Chung quanh hàng rào bao bọc, phía trước có cổng. Nhà có ba phòng ngủ, một phòng khách. Nhà bếp rộng chia làm hai, một nửa là bếp, một nửa là phòng tắm và vệ sinh. Chủ nhà là một người đàn bà tuổi trạc độ ba mươi, người mãnh dẽ. Bà hiện là Trưởng Phòng Kế Toán của Ty Công Chánh Lâm Đồng. Bà sống với đứa con gái nhỏ sáu tuổi tên Đào. Chồng bà đang làm việc ở Sàigòn, bà cho biết. Sau khi nói chuyện độ dăm phút, chúng tôi bằng lòng thuê toàn bộ căn nhà, trừ một phòng cho bà và đứa con gái để ở, với giá 1.200 đồng. Nếu muốn ăn cơm tháng thì bà nấu luôn cho. Ngày ba bữa, mỗi người trả thêm ba trăm đồng. Chúng tôi ra về với lòng thơ thới vì đã tìm được nơi ăn ở vừa ý. Trên đường về Sơn cứ lẩm bẩm: Đàn bà mà tên Phi lại lót Thị, Thị Phi... Thị Phi!
Sơn tủm tỉm cười một mình. Tôi biết Sơn đang nghĩ gì về bà chủ nhà trẻ, sống một mình. Chúng tôi rủ thêm hai người bạn nữa để chia bớt phòng và chia bớt tiền. Hai anh Nguyễn Hảo Tâm và Nguyễn Văn Ba đến xem nhà và đồng ý ngay. Sơn và tôi có công tìm nhà, nên được ưu tiên ở căn phòng trước, có cửa sổ quay ra mặt đường. Tâm và Ba ở căn kế. Bà chủ nhà căn trong cùng. Ba phòng ăn thông ra phòng khách. Phòng khách có cửa hông thông với nhà bếp. Từ lúc chúng tôi về ở, trừ những lúc dọn cơm cho chúng tôi hay những lúc đi làm chạm mặt ở phòng khách, bà chủ cùng đứa con gái đóng cửa im ỉm, nói chuyện rầm rì ở trong buồng, ít khi ló mặt ra ngoài. Mấy tháng sau, bà thuê được một cô người làm. Cô này độ chừng hơn hai mươi, có da thịt, tính tình hiền hậu, hơi quê mùa nhưng dễ thương. Cô giúp bà chủ đi chợ nấu ăn cho chúng tôi. Cô ngủ ở nhà bếp.
Nhớ lại một mẫu chuyện vui. Có lần bà chủ nghỉ phép nửa tháng về Sài Gòn với gia đình, bà yêu cầu chúng tôi tìm chỗ ăn tạm trong thời gian này. (lúc đó chưa có cô giúp việc) Bốn chúng tôi thay phiên nhau đi chợ nấu ăn mỗi người một ngày. Sở dĩ chúng tôi không đi ăn tiệm là vì hai lý do. Thứ nhất là làm biếng đi xa. Từ nhà đến tiệm ăn xa hơn đến chợ. Thứ hai, có cơ hội để thử mình có khả năng tự lực cánh sinh hay không? Đầu tiên, tôi xung phong trước. Bữa ăn có cá chiên dầm mắm tỏi ớt, chắm với dưa leo, rau sống, xà lách. Hội đồng chấm điểm: Tạm được! Ngày thứ hai, Nguyễn Văn Ba. Thịt ba chỉ kho hột vịt ăn với dưa cải và cà pháo muối mặn. Điểm: Khá. Đêm đó chúng tôi lục đục thức dậy uống nước và đi tiểu suốt. Nguyễn Hảo Tâm người Sài Gòn, giả giọng Bắc của Ba, ngâm ư ử chọc Văn Ba:
Em ơi! Mở cửa cho anh ra!
Kẻo anh chết khát trong vại cà nhà em!
Ngày thứ ba, Hảo Tâm vác chiếc bụng phệ đi chợ. Vậy mà thoáng cái đã về, xăn tay áo vào bếp. Trưa hôm đó chúng tôi được thưởng thức món hột vịt luộc, dầm xì dầu ớt chanh, chấm với giá chua, rau sống. Sơn rên rỉ : Chắc cái rô bi nê nước của bà chủ nhà đêm nay hư quá! Văn Ba được dịp trả thù câu chọc tối qua của Hảo Tâm:
- Này ông Tâm! Cái câu "Kẻo anh chết khát trong hủ giá chua nhà em" tối nay đọc nghe trúc trắc quá, ông ráng sửa lại nghe cho êm tai nhá!
Tâm cười giả lả:
- Nè... nè tráng miệng với chuối bồ hương đi! Ngon lắm đó.
Ngày thứ tư đến lượt Sơn. Anh rũ tôi đi cho có bạn. Hóa ra anh chàng mắc cỡ. Anh thủ sẵn trong túi hồi nào không hay một cái bao bằng giấy xi măng. Miệng ngậm ống vố phì phèo, tay chắp sau đít, anh lững thững vào chợ như người đi dạo cảnh. Tôi theo sau không ý kiến, mắt đảo quanh đám người Thượng, xem họ mua bán đổi chác những thổ sản mang từ trên núi xuống. Nhiều nhất là phong lan. Nhưng chỉ là những loại thường như hoàng lan, hoàng điệp, hàm rồng, long tu, địa lan... Mấy thứ này rẽ tiền. Chỉ năm, mười đồng một nhánh. Tháng đầu tôi ham, mua về treo đầy trong phòng. Song nó cứ rũ ra, chết dần. Có người bày cách, phải treo nó ngoài trời cho có đủ sương và nắng gió nó mới sống. Tôi làm theo. Nhưng mấy chục nhánh cũng lần lượt héo sầu, đổi sang màu vàng rồi chết khô. Có lẽ nó nhớ bạn, nhớ rừng chăng?
Sơn xăm xăm đi tới hàng đồ khô, gia vị và nói với bà bán hàng:
- Bà cho tôi một chục trứng gà, một ít củ hành và tỏi. Tính hết bao nhiêu?
Bà bán hàng nói giá tiền và hỏi lại:
- Cậu có cái gì đựng không? Đi chợ mà đi hai tay không vậy?
Sơn nhanh nhẹn rút trong túi quần ra cái bị giấy xi măng đưa cho bà bán hàng và nói:
- Bà bỏ hết vô đây là được rồi.
Trả tiền xong, Sơn quành qua hàng thịt mua một miếng thịt ba chỉ. Trở lại hàng rau mua thêm mấy trái cà chua.
- Xong! Ông thấy tôi có nghề không? Sơn hỏi tôi mà không cần câu trả lời.
Vừa về đến nhà đã thấy hai chàng Tâm và Ba chờ sẵn.
- Nào! Bữa nay coi anh chàng nhạc sĩ của mình nấu nướng ra làm sao!
Sơn cười hì hì:
- Được rồi! Mấy ông vô hết trong này coi tôi trổ tài nghe.
Sơn vào bếp chỉ huy ba chúng tôi, người này lột vỏ hành, tỏi, người kia rửa cà, thái lát mỏng, người nọ cắt thịt ba chỉ thành sợi như chiếc đũa. Chúng tôi làm theo răm rắp. Mọi việc đâu vào đấy. Và giục Sơn ra tay vì trời đã khá trưa rồi. Sơn bắt đầu đổ dầu chiên vào chão. Trong khi chờ đợi dầu nóng, Sơn giảng giải cách làm các món:
- Các ông sẽ được thưởng thức món hột gà "ốp la" và hột gà đổ chả nghe! (Sơn thường đệm tiếng "nghe" ở cuối câu rất nhẹ và rất dễ thương) Phải đợi dầu thật nóng, bốc khói, rồi khử dầu bằng vài tép tỏi đập dập cho thơm-Sơn nói tiếp:
- Bây giờ mấy ông coi nghe!
Sơn cầm lấy một trứng gà bằng hai tay, vừa làm vừa giảng tiếp:
- Mình phải cầm trứng bằng tám ngón tay như thế này, từ ngón trỏ đến ngón út, hai ngón tay cái bấm vào trứng để bóp quả trứng. Nè! Chú ý nè!
Chúng tôi ngó theo bàn tay Sơn, những ngón tay thuôn dài đang ôm lấy quả trứng. Những ngón tay khô, xương và da. Phải cho có thêm một ít thịt thì bàn tay Sơn chắc đẹp không thua gì bàn tay con gái. Sơn bóp mạnh hai ngón tay. Lòng trắng, lòng đỏ trứng gà thay vì lọt vào chão, lại vọt xuống đất đánh "bạch" một tiếng. Một trứng đi đời. Sơn bào chữa:
- Tại tôi bóp mạnh quá!
Chúng tôi khuyến khích:
- Làm lại! Làm lại!
Sơn làm thêm hai lần nữa, tình trạng vẫn y như cũ. Một đống trứng nhầy nhụa dưới chân. Ba la lên:
- Thôi! Thôi! Ông Sơn ơi, làm ơn tránh ra cho chúng tôi làm. Mà ông có biết làm không thì bảo?
Sơn nói:
- Hồi nhỏ tôi thấy má tôi làm như vậy mà!
Tâm hỏi lại:
- Mà ông đã làm thử lần nào chưa?
- Chưa!
- Vậy mà cũng bày!
Tôi chọc quê Sơn bằng cách hát nhại "Dã Tràng Ca": "Thôi! Còn gì nữa đâu! Còn gì nữa đâu! Mà không ăn rau..."
Sơn nổi cáu, xì nẹt:
- Thôi cha! Cha sửa lời làm hư hết bản nhạc của tôi đó cha.
Sau đó chúng tôi đập hết những trứng còn lại vào trong một cái tô lớn. Trộn thêm đường, hành củ, cà chua, thịt ba chỉ, tiêu, xì dầu đánh đều lên thành một món hổ lốn, đổ vào chảo thành hai lượt cho mau chín và không bị cháy phía dưới. Không ngờ bữa cơm ấy lại vui và ngon ra phết. Ai nấy vừa ăn vừa nhắc lại cảnh Sơn bóp trứng mà cười. Dứt bữa ăn, Sơn trịnh trọng đứng lên tuyên bố:
- Bắt đầu chiều nay đi ăn cơm tiệm!
Không ngờ cái lệnh vô tình ấy lại hợp cả cho chúng tôi. Không ai bảo ai, cả ba chúng tôi đồng thanh vừa cười, vừa hô to:
- Ăn cơm tiệm! Đã đảo đi chợ!
Những ngày chúng tôi sống chung với nhau trong "ngôi biệt thự" của bà Trần Thị Phi thật là vui nhộn. Cũng chính trong căn phòng có khung cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác các nhạc phẩm để đời: "Chiều Một Mình Qua Phố", "Lời Buồn Thánh", "Vết Lăn Trầm"- và "Ca Khúc Da Vàng."
**********************************************8
* Bài viết " một quãng đời của Trịnh Công Sơn " của tác giả / cựu thày giáo / đồng nghiệp của Trịnh Công Sơn khá dài ( phần trích dẫn ở trtên chĩ khoảng 1/4 ) chủ yếu tác giả nêu ra , đưa lên , mô tả chân thực một khoảnh ngắn trong cuộc đời của con người danh tiếng như cồn này đó là quãng đời của thày giáo Trịnh Công Sơn sống giữa lòng bạn bè của mình . Nhũng kỷ niệm rất nhỏ nhưng rất người được tác giả viết rất tỷ mỷ khiến cho người đọc có quyền tin vào độ chính xác chân thực rất cao ( từ chuyện hai người / tác giả và TCS / ngày đầu tiên nhận nhiệm sở đến chuyện hai người đi thuê nhà . bữa cơm và tài làm món trứng của T.C.S v.v và v.v. ) . Thế mà than ôi chỉ năm năm sau thôi khi vừa có chút tiếng tăm con người sống chỉ cần một tấm lòng ấy chẳng còn nhớ gì nữa cả . . (năm 1972 . triển lãm tranh ở Nha Trang . TCS đã vờ đi không nhận ra ( ?) không nhớ ra người bạn của mình . .)
Ban đầu tôi định post đầy đủ bài viết trên , nhưng nay cũng từ ý anh NHĐoàn và tự mình cũng nhận thấy là thừa thãi nên chỉ trích dẫn lại những đoạn có thể làm câu trả lời cho những định đề tôi đưa ra ở bên trên thôi :
Trịnh Công Sơn và Tình Bè Bạn
Sau một tuần, anh em lục tục lên đủ mặt.
Bữa tiệc tẩy trần thật tưng bừng. Chúng tôi thầu hết tầng lầu trên của Câu Lạc bộ. Bây giờ thì ăn nói thoải mái, không còn phải e dè mấy tên du đãng tép riu. Sau vài ly máy nóng, chúng tôi tha hồ kể "chuyện nhà binh". Chuyện khói lửa bốn vùng chiến thuật nguội dần. Có anh sực nhớ tới Trịnh công Sơn, hỏi trống không:
- Có ai biết anh chàng Sơn nhà mình bây giờ ở đâu, làm gì không hè?
Hiện đáp:
- Tôi biết. Sơn bây giờ nổi tiếng lắm. Không những trong nước mà cả thế giới cũng biết.
Bạch không tin:
- Thôi cha! Xạo vừa vừa thôi! Thằng chả trốn lính, làm ăn gì được mà nổi tiếng!
Hiện vẫn bằng cái giọng rề rà bỡn cợt, nửa đuà nửa thật:
- Tôi làm việc ở cơ quan ninh quân đội, địa bàn Sài Gòn- Chợ Lớn, nên biết một ít về ông Sơn nhà mình. Đầu tiên ông ta được một tay có cở trong không quân che chở, cấp cho một cái thẻ "Chứng chỉ tại ngũ" chức vụ binh nhì lèo.
Có tiếng lao nhao:
- Ai vậy? Ai vậy? Ông biết không?
- Sao lại không! Đại Tá Lưu Kim Cương chớ ai vào đây nữa! Cảnh sát biết thừa đi chứ. Nhưng không dám đụng vào ổ kiến lửa.
Hiện cười cười, tợp thêm một ngụm bia rồi tiếp:
- Sau tay này tịch. Cụ Sơn nhà mình bèn làm một bản nhạc để tạ ơn người che chở mình. Bản nhạc có tên là "Cho một người nằm xuống".
Tín nhảy vô vòng chiến:
- Ông rề rà bỏ mẹ! Thế thì tôi hỏi ông nhé! Bao nhiêu năm ông già Thống còng lưng dạy thế cho ông ấy, để ông ấy lo việc công danh của mình, ông ấy có làm bản nhạc nào tên là "Cho một người dạy thế" để tạ ơn ông Thống không?
Hiện vẫn đũng đỉnh:
- Ấy! Cái này thì tôi không biết. Nhưng ông Thống chưa tịch thì làm gì có nhạc để tặng? Còn ông Sơn sẽ làm hay không thì có dịp gặp mặt tôi sẽ hỏi lại rồi cho ông biết sau.
Tín thở hắt ra:
- Nói như ông chán bỏ mẹ!
Đạo sốt ruột:
- Sau khi Lưu Kim Cương chết rồi thì ai là cái ô dù của ông Sơn?
- Cái ô dù hãy còn bé lắm. Phải nói là cây đa cổ thụ mới đúng.
Nói tới đây, Hiện dừng lại, thong thả rót bia vào ly mình một cách chậm rãi để bọt khỏi tràn miệng ly rồi nâng ly lên làm mấy tợp, mặc cho bao nhiêu con mắt đang hau háu chờ đợi.
Nghị nóng nảy văng tục:
- Mẹ! Cứ vờ vịt! Ông đấm buồi vào!
Hiện khà một tiếng sảng khoái, đưa tay chùi mép rồi mới tiếp:
- Cây đa cổ thụ là tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương đấy.
- À ra thế đấy! Nhiều tiếng xì xào.
Lãng từ đầu đến giờ vẫn ngồi im lặng nhâm nhi ly bia lắng nghe anh em kể chuyện "đường xa xứ lạ" thích lắm vì không được cái "hân hạnh", "Tòng quân giết giặc" để "Dong vó ngựa trên đường chinh chiến", bây giờ mới lên tiếng:
- Moa... moa thì "mo phú" tay nào che chở cho ông Sơn. Việc bắt ông Sơn là việc của mấy ông "cớm". Moa... moa thì moa bực cái ông Sơn nhà mình. Bực lắm cơ. Moa có mua mấy tập nhạc của ông ấy khi mới xuất bản. Tập nào cũng ghi tiểu sử có đủ thứ trên đời mà không thấy tập nào ghi lấy một dòng như "dạy học tại Bảo Lộc từ năm 1964 đến 1967" họặc "Học Sư phạm Qui Nhơn" chẳng hạn. Moa bực là nghĩ: Chẳng lẽ ông ta có mặc cảm xấu hổ với nghề dạy học chăng?
. . . .
. . . . . .
Tiếng cười nói lại xôn xao, náo nhiệt. Sực nhớ ra điều gì, Tín vùng nói lớn giữa tiếng ồn ào:
- Này các cụ! Còn em bé Đỗ thị Nghiên "cúng" cây đàn ghi ta cho ông Sơn ba năm có được xơ múi gì không?
Đạo là người rời Bảo Lộc sau cùng nên biết chuyện này, đáp ngay:
- Em Nghiên trước khi theo chồng về Huế có đến đòi lại cây đàn. Cũng còn may! Nếu không thì ông Sơn cũng đã quên.
Tín quay sang tôi móc lò:
- Còn ông mãnh này! Ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu ba năm trời có được xơ múi gì không?
Tôi thật thà trả lời:
- Có! Hồi đầu tiên Sơn có tặng cho tôi và ông Lợi, mỗi người một bản "Chiều Một Mình Qua Phố".
Tín vặn:
- Bấy nhiêu thôi à! Thế mấy tập Tình ca-Ca khúc da vàng không tặng sao?
- Sơn nói nhà xuất bản cho ít quá nên không đủ tặng.
Hiện tiếp lời:
- Mấy ông đừng trách! Ông Sơn bây giờ bạn đông lắm, đếm không hết. Ông ấy bây giờ đi đâu cũng có một đám bu quanh như nhặng xanh bu c. ngựa vậy.
Anh chàng Sang ngồi im từ đầu đến cuối, bây giờ như cóc mở miệng:
- Mấy cha cứ nói chuyện trên trời, dưới đất. Hồi còn ở đây, ông Sơn đã dự đoán sau hai mươi năm nội chiến, những người còn lại đều là một "lũ bội tình". Thì ông ấy có chút bạc ơn với nghề dạy học và chút bạc nghĩa với những người bạn ở cái xứ Thượng heo hút này cũng là chuyện nhỏ trong cuộc đời "vĩ đại" của ông ấy mà thôi. Có đáng gì đâu mà nhắc tới!
Câu chuyện nhạt dần, không khí cũng lắng dần. Có lẽ mọi người đã ngấm say. Lần đầu tiên trở lại Bảo Lộc, sau ba năm, tôi thấy anh Lãng không còn đòi về trước để trùm mền và xoa dầu Nhị Thiên đường như xưa. Có lẽ anh đã từ chức "ông Trùm" rồi chăng? Mừng cho anh.
. . .
. . . .
Giã Từ
Tháng 11 năm 1991, tôi đem hết gia đình vào Sài Gòn để chờ máy bay. Thời gian này, tôi gặp lại Lãng, Hinh, Tâm lùn và Sang. Lãng vẫn tiếp tục dạy học vì anh không có "nợ máu" với nhân dân. Anh được chuyển sang dạy cấp hai. Nay anh đã có vợ và hai con. Tâm cùng vợ bán sữa đậu nành sống lây lất qua ngày. Tối hì hục xay đậu. Sáng hì hục đẩy xe ba gác ra chợ Bà Chiểu bán. Sang cũng tốt nghiệp từ một trại Cải Tạo miền Nam, về vớ được một bà lỡ thì, bán chuối ở chợ Ông Tạ. Ngày ngày phụ với vợ vác những quầy chuối bán từ đầu chợ đến cuối chợ. Hinh cũng đã có vợ và một con. Phụ một chân sai vặt cho "ông bà bô" bán hàng trong một quán cóc ở Gò Vấp, kiếm cơm ngày hai bữa.
Trong một bữa nhậu chia tay cuối cùng gần cổng xe lửa số 6 (bò bảy món Ánh Hồng xưa) thăm hỏi những bạn bè cũ còn lại được những ai, thì được biết Đỗ Danh Đạo vượt biên, nay đang ở Tây Đức. Còn bao nhiêu thất tán trong trận cuồng phong thổi vào Sài Gòn tháng tư, bảy lăm. Bấy lâu không gặp lại một ai. Bữa ăn thật buồn. Tâm lùn cố pha trò nhưng vẫn không đánh tan nỗi u sầu nặng trĩu trong lòng mọi người. Lãng vẫn còn nói lắp:
- Thế... thế, trước khi rời khỏi Việt Nam, ông có định đến thăm Trịnh Công Sơn lần chót không?
Mọi người lúc ấy mới chợt nhớ ra là mình còn một người bạn tên là Trịnh công Sơn. Tôi hơi e ngại chuyện đến thăm. Sợ bị hiểu lầm dựa hơi, nhờ cậy. Tôi kể lại chuyện gặp hai ông Trịnh ở Nha Trang năm 1970, Sơn không thấy tôi hay không nhận tôi. Sang chép miệng:
- Đọc báo thấy nói ổng quen toàn những văn nghệ sĩ từ cái thời Nhân văn Giai phẩm ngoài Bắc như Văn Cao, Phùng Quán, Hoàng Cầm... không hà!
Sang lại chửi đổng:
- Mẹ! Thấy sang bắt quàng làm họ!
Hinh tiếp lời:
- Tôi có lần đến cà phê của anh ta. Chung quanh anh ta lúc nào cũng có một đống bu quanh.
Tâm hỏi:
- Thế anh ta có nhìn thấy ông không?
Hinh tặc lưỡi:
- Anh ta lúc nào cũng bận tíu tít với cái đám bung xung thì làm gì có thì giờ nhìn thấy tôi!
Tâm phấn khích quay sang tôi:
- Ngày mốt ông lên máy bay hả? Được rồi, trưa mai 12giờ, dẹp hàng xong, tôi chở ông lên chỗ ông Sơn ở, ông vào xem thử ra sao! Bây giờ Nhà nước cấp cho ông ta một cái vi la to lắm không biết của ai chạy bỏ lại. Mẹ! Không biết làm đến chức gì mà ngon thế? Tâm lại chửi đời. Các bạn xúm nhau mỗi người một câu, xúi tôi đi thử:
- Ông cứ đi thử cho biết tình đời! Chết thằng tây đen nào mà sợ!
Trưa hôm sau, Tâm chạy chiếc xe Honda cà tàng, xành xạch chở tôi đến vi la của Sơn đang ở. Tâm dừng xe bên kia đường chói chang nắng gắt giữa trưa, bảo tôi qua bấm chuông. Căn biệt thự có tường vây cao quá đầu bao bọc. Dọc bên trong có trồng trúc kiểng cao quá tường. Tôi bấm chuông. Cánh cửa sắt hé mở. Dưới tàn một khóm trúc ngay cổng, hai thanh niên vạm vỡ đang ngồi nhâm nhi. Chai Whisky vơi quá nửa. Một người hỏi tôi:
- Ông hỏi ai? Có việc gì?
- Tôi là bạn của ông Sơn lâu lắm rồi. Đến thăm thôi, không có việc gì cả!
- A! Anh Sơn đang nghỉ trên lầu! Ông đứng đây chờ một chút. Tôi lên thông báo rồi cho ông hay.
Anh ta bỏ ly rượu xuống bàn, bước vào nhà. Độ hai phút trở ra nói:
- Anh Sơn đang mệt cần nghỉ ngơi, sáng giờ uống hơi nhiều. Nếu ông cần gì, xin viết giấy để lại, chúng tôi sẽ trình với anh Sơn.
Nói xong anh ta xé trong tập sổ tay một tờ giấy con đưa cho tôi và cây viết Bic. Tôi lưỡng lự không biết phải viết cái gì. Nhìn qua bên kia đường thấy Tâm đang đưa tay quẹt mồ hôi trán, lòng tôi bất nhẫn. Tôi lia ngay một hàng không nghĩ ngợi: "Anh Sơn! Từ năm 1967 đến nay mới có dịp vào Sài Gòn. Ngày mai tôi sẽ lên máy bay đi Hoa Kỳ, nên ghé thăm anh tí chút, nhưng không được gặp. Thôi, xin hẹn lại kiếp sau". Đưa trả lại tờ giấy cho ngươì bảo vệ, tôi quay lưng đi thẳng.
Trên đường về, Tâm hỏi:
- Sao? Không có Sơn à?
- Có! Nhưng tên bảo vệ nói là Sơn sáng nay uống rượu hơi nhiều nên mệt, cần nghỉ ngơi. Hắn bảo tôi cần gì thì viết giấy để lại.
- Ông có viết không?
- Ban đầu tôi định không viết. Nhưng nhìn thấy ông đứng ngoài nắng nhễ nhại mồ hôi, tôi đâm bực, viết đại một câu cho bỏ ghét. Bây giờ nghĩ lại thấy cải lương quá!
- Câu gì mà cải lương?
- Xin hẹn lại kiếp sau!
Tâm cười ha hả:
- Thì đúng boong! Ông qua Mỹ rồi, làm gì có ngày về lại Việt Nam để gặp lại nhau? Không là kiếp sau à!
Tâm lại hỏi:
- Ông có nghĩ rằng họ sẽ đưa tờ giấy đó cho ông Sơn không?
- Không! Tôi nghĩ là không! Lúc tôi viết mấy chữ đó, liếc mắt thấy nó nhếch mép cười. Tôi chắc rằng khi quay lưng đi, chúng nó sẽ vất vào giỏ rác ngay. Vã lại, với chức quyền như Sơn hiện giờ thì ngày nào lại chẳng có khối thằng đến xưng là bạn để cầu cạnh, lợi dụng. Họ bận tâm làm gì!
Tâm vẫn ức:
- Ông Sơn làm nhạc thì ăn cái dải gì mà cầu cạnh?
Tôi phì cười vì cái ý nghĩ đơn giản của Tâm:
- Bán sữa đậu nành như ông, bán chuối lề đường như ông Sang thì không cần. Nhưng ông viết văn, làm nhạc thì phải khom lưng cười cầu tài đó!
- Sao ông biết?
- Tôi không biết ông Sơn đang nắm giữ chức vụ gì, nhưng cứ suy đoán thì thấy ngay. Này nhé! Cứ đem so sánh với những tay một đời theo đảng, mấy ai đã được ân sũng như thế? Vi la này! Những hai bảo vệ này! Còn vô khối bỗng lộc ngõ trước, ngõ sau thì đủ biết Sơn đang giữ chức vụ lớn và quan trọng lắm.
- Mới tới đây có mấy phút mà nghe ông nói như thánh nói!
- Cần gì phải thánh mới biết! Cứ nhìn đầy tớ gác cổng mà uống whisky thì biết ngay đời sống của thầy!
.*********************************************** . . . . . .
anh hoang lien công viết
khi đọc bài này , có thể ta hơi bị bất ngờ. Nhưng nhân tài thì vẫn có sai sót, và những sai sót bé bỏng và đáng yêu.
HLC.
***************************************
( anh ngo huu đoàn viết )
Tui đã đọc qua bài này, không biết bài viết này còn khúc nào nữa hay không, hay là chỉ bấy nhiêu, nếu chỉ bấy nhiêu mọi người có thể bàn luận, kẻo như lần trước, ý kiến xong lại nghe "còn tiếp ..." thì hơi kẹt!
Theo thiển cận (tạm gọi cho đỡ trách nhiệm) của tôi:
- Mấy ý đầu là đưa vấn đề
- Phần thứ 2, dài sau đó, kể về kỷ niệm, hồi ức, khúc này hay và chi tiết lắm
- Phần thứ 3, phần chí để giải quyết vấn đề, phần này đưa ra 3 ý chính
a. Cuộc triển lãm tranh TCS ở Nha Trang
b. Lần đến thăm TCS sau nhiều năm ko gặp trước khi tác giả đi Hoa Kỳ diện H.O
c. TCS với các mối quan hệ: Lưu Kim Cương, Nguyễn Cao Kỳ, Võ Văn Kiệt, Lê Thanh Hải.
Trong ý chính này tôi thấy tác giả cũng không đủ thuyết phục
a'/ Tại cuộc triển lãm tranh mà cho rằng TCS "cố quên bạn" thì nghe hơi có vẻ áp đặt, Vì sao? vì trong bài không có câu đối thoại nào của TCS với tác giả bài viết này. Điều đó có nghĩa là có thể TCS không thấy thật trong lúc triễn lãm đông đúc người.
b'/ Lần đến thăm mà ko gặp được TCS vì lý do 2 bảo vệ cho biết ông đang nghĩ vì mới uống rượu nhiều cũng là chuyện bình thường. Vì lúc đó, ông chưa biết bạn ông là ai, đương lúc mệt cũng có thể xử lý thông tin bằng cách đó. 2 bảo vệ uống whisky cũng không là chi tiết quan trọng (nếu có). Uống whisky cũng ko sao, và biết đâu vỏ whisky ruột chuối hột thì sao?
c'/ Nói tới cái này là cái quan trọng, nhưng nói bấy nhiêu đó thì ít thông tin quá. Theo tui biết thì tác phẩm TCS bị cấm phổ biến không những ở chính quyền Miền Bắc mà còn bị cấm dữ dội ở Miền Nam. Những người này chơi với TCS là do TCS hay là do họ ngưỡng mộ tài năng âm nhạc thì cũng không xác định được. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là người của chính quyền Miền Bắc nhưng là bạn thân với TCS, nhiều lần ông này đã che chở TCS trong những lần đi Âu, Mỹ bị người Việt hải ngoại phản kháng (phản kháng vì những câu đại khái như "em ra đi nơi này vẫn thế/ lá vẫn xanh trên con đường nhỏ". Nếu nói TCS thân Miền Nam để được yên ổn thì tại sao 30/4/75 ông ko đi, trong khi nhiêu người tình nguyện tới chở, sau này còn bảo lãnh? Nếu thân Miền Bắc để hưởng lợi thì tại sao ông phải bị khổ sở vì những câu đại khái như "sẽ có một ngày mùa thu Hà Nội trả lời cho tôi/ sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi". Những chương trình của ông cũng không được nhà nước "mặn mà" dù ông là một nhạc sỹ tài năng sáng giá của VN. Có lần Phạm Duy đã phá đám ông bằng cách cho đàn em cướp sân khấu trong lúc giải lao để hát bài "cớ gì mà buồn (?)" ( của Phạm Duy) trong khi chương trình của ông là Ca khúc da vàng, Kinh Việt Nam. Có người đã cúp điện khi tiết mục của ông bắt đầu tại Nhà văn hóa Thanh Niên (sau 75). Có người tới chơi nhà ông rồi đái lên tranh của ông. Nếu ông là người như mọi người bình thường (chứ chưa kể tầm thường) thì mấy vụ đó ẩu đả xảy ra là ko tránh khỏi, và công chúng quên sao được?
- Một ý là TCS không hề đề cập tới thơì gian làm trưởng giáo ở B'lao, tôi cũng chưa rõ vì sao không thấy ông viết về công việc này?
Nếu ông TCS xấu thì những người ganh tỵ ông đã lên tiếng lâu rồi, bên cạnh đông đảo bạn bè yêu quý ông thì cũng có một ít người ganh tỵ tài năng không, thì họ (người ganh tỵ) đã "khai thác" lâu rồi chứ không phải đợi đến hôm nay để cho tác giả bài trên lên tiếng. Có người (nhạc sỹ) đã tuyên bố viết nhạc như TCS họ có thể viết 10 bài/ngày, cả sự nghiệp của TCS họ chỉ làm trong 3 tháng!. Tôi nghĩ, những người ngưỡng mộ TCS thì hãy yên trí tin rằng TCS là một tài năng lớn, một nhân cách lớn, vì TCS đã qua "thử thách" nhiều rồi!
Bài này bạn guest post cho tui thấy được và tin hơn ông Nguyễn Đắc Xuân, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về TCS, giai đoạn dạy học ở B'Lao.
Cảm ơn bạn nhiều !
**************************************************
nguyetthao viết
* Nguyêtthao chẳng biết quan điểm của anh H.L.C anh N.H. Đ về tình " bẳng hữu " như thế nào , chứ riêng nguyetthao có vài người bạn trai , tất cả họ đều nâng niu kính quí hai chữ bằng hữu này vô cùng . Tình cha mẹ con cái anh chị em có máu mủ buộc chặt Tình vợ chồng phu thê có nợ và nghĩa trói ràng , nhưng riêng tình bằng hữu thì chỉ có mỗi một tấm lòng nghĩ về nhau đối với nhau là thiêng liêng màu nhiệm . Chẵng biết anh H.LC nghĩ sao mà bảo rằng việc quên hẳn cả một thời gian , quên hẳn tất cả những người bạn hàn vi của mình như vậy là một sai sót nhỏ bé đáng yêu . Nguyêtthao mong rằng trong cuộc đời anh đửng bao giờ có những nét đáng yêu như vậy ?!
* Hai phần a và b mà anh N.H.Đ lập luận nguyetthao miễn bàn / một ý là áp đặt và một ý là cãi lỳ thì tranh luận muôn đời không hết . Cứ để thiên hạ phán xét thôi . nguyetthao chỉ nêu ra hai khía cạnh: một là có một gã muốn quên đi tất cả và hai là có những con người không muốn ( không có ý định ) vơ vào .
* Cái điềm thứ ba / cái điều mà anh NHĐ CHO LÀ QUAN TRỌNG NHẤT thì anh NHĐ lạc đề rồi . Toàn bộ bài viết không đặt ra vấn đề tcs ở " phe " nào / CS hay MỸ Nguỵ / tất cả bài viết chỉ nói về tình bạn bè bằng hữu / và chinh cung cách cư xủ của tcs đối với bạn bè / cũng như đối với thời hàn vi của mình / không dám nghỉ tới không dám nhớ tới / đủ noí lên bản chất đam mê DANH và LỢI ở con người này rồi .
Những người này chơi với TCS là do TCS hay là do họ ngưỡng mộ tài năng âm nhạc thì cũng không xác định
được
Những danh tánh Đạo - Lãng - Sang - Hiện - Tín -cô giáo Nghiên và tác giả Ng t Ty v. v. không phải là những người chơi với tcs hay fan của tcs mà đó là những nhà giáo đồng nghiệp của tcs / Cuộc đời họ sống bằng nghề giáo / hảnh diên là thày giáo ( khác hẳn với kẻ không dám nhận mình là thày giáo bởi vì mình là một vĩ nhân ) . Rõ ràng thì chỉ những con người to lớn cỡ NG q Sáng mới xứng đáng là bạn của tcs thôi .
Những danh tánh trên không làm nghề nhạc sỹ cũng chẳng ganh tỵ chút gì về tăm tiếng của tcs cả .
*Công khai bài hồi ký này , tác giả không có ý định , ý đồ lật mặt nạ tcs ( nếu có ý đó thì đã làm lâu rồi ) bơỉ vì không nhờ vả gì nên cũng chẳng cay cú oán hận gì ( xem cách viết thì rõ ) . Bài hồi ký này xuất hiện do chủ ý tác giả muốn đòi lại BẢN QUYỀN ( tức là những dữ liệu ,sự kiện trong bài viết ) đã vô tình bị một người khác đánh cắp .
* Nguyetthao hoàn toàn tôn trong quyền tự do sùng bái . Và từ bao đời nay rồi sự thật thì cũng luôn luôn phũ phàng .
*******************************************
anh hoang lien cong viêt
Bạn nói gì tôi thật sự không hiểu, những ngừoi bạn đó có vẻ tự ti , mặc cảm quá hay sao, đợi đến khi người ta chết mới đào mồ người ta lên xử hay sao, những chuyện riêng tư giữa họ chỉ thật sự có vậy thôi sao, tôi hy vọng bạn lý giải được chỗ này bạn sẽ thấy nhạc sĩ Trịnh công Sơn đáng yêu biết bao nhiêu. Một người bạn chân chính bao giờ hơn ai hết phải hiểu bạn mình, là ngừoi cho ta sự tin tưởng,và hành xử với ta sự cao thượng,chứ không phải đi đào ra những sự tỵ hiềm cá nhân.
nhạc Trịnh công Sơn là một thứ văn học và là một thứ thánh giáo cho tôi, tất nhiên tư cách của ông là điều tôi học hỏi, tôi yêu nhạc của ông há rằng tôi lại không thấy trong đó một tính cách vĩ đại.
để tóm lại câu chuyện này, tôi trích ý trong điếu văn của nhạc sĩ Trần long Ẩn đọc trong ngày tang lễ nhạc sĩ Trịnh công Sơn. -Trịnh công Sơn vĩnh biệt chúng ta đó là một mất mát lớn,ông là một nhạc sĩ thiên tài, nhưng vượt lên trên hết đó là một "nhân cách" lớn đã để lại cho cuộc đời chúng ta.
HLC.
**************************************************
nguyetthao viết
Anh H.LC .
Chúgta có thể kết thúc tranh luận ở đây .
Đạo đức nhân cách một con ngưyơì không thể do người này ( Ng Q. Sáng phán ) không thể nghe(Tr. L Ẩn đọc) . Nhân cách một con người thể hiện qua tấm lòng họ đối xử với bằng hửu bạn bè với cộng đồng xã hội .
Mê tín sùng bái là quyên mỗi người .
Tài năng không phải nhân cách ( như phạm duy ấy là giống gì )
Anh bào nhửng người bạn của tcs trong bài viết trên là tự ty là mặc cảm . Không đâu . họ không phải hạng người mê say danh lợi thấy bạn mình sang mà vơ vào ( như tcs vơ vao trịnh cung . luu kim cuong lê thanh hai vo van kiêt ).
Theo nguyetthao thì anh hãy đọc kỹ bài viết trên .
nhân cách tcs tuỳ thuộc vào độ chuẩn xác chân thực của bài viết này . Không nên nghe người này phán người kia bảo kẻ nọ tung ho rồi mình tung hô theo .
Anh cố gắng giảm bớt sự mê tín . hảy cùng nguyetthao tìm ra sự thật .
Còn tranh luận kiểu u lỳ như anh viết thì cho nguyetthao xin thôi .
nguyetthao
*************************************************
nguyetthao viet
Nguyetthao không nghĩ là trình độ như anh HLC anh NHĐ mà lại cứ cố u lỳ ngây thơ như vây .
GIa đình đang yên ấm , nguyetthao đang đường đường là dâu thảo vợ hiền từ mẫu . Bỗng đâu nhận được một lá thư thế này :
"Tối ngày 29/2/2008 chúng tôi thấy cô nguyễn thị nguyetthao cùng một người đàn ông bước vào kách sạn NumberOne ở đường số 2 quận 3. Hai người lên phòng 405 ( lầu 3 ) và ở chung với nhau từ 22g đến 5g sáng ngày 01/ 03 . hoá đon thanh toán num . . total 1000000đ . Tại sỗ trực của khách sạn vả sổ luư tạm trú địa phương danh tánh 2 người đăng ký ngủ phòng 405 theo C.MND thì người đàn ông tên là Ng X còn đàn bà tên nguyễn thi nguyetthao. "
Để gỡ lại danh dự cho mình / công việc đầu tiên nguyetthao làm không phải là đi tim tác giả bức thư là ai ? ở đâu ? động cơ gì ?
Mà trước nhất nguyetthao phải chứng minh : đây là lá thư có tính cách vu khống .
Có 3 sự viêc phải minh chứng :
1/ người đàn bà ấy không phải là tôi ./ tôi aliby / bởi vì tối ấy ( đêm ấy ) tôi ở đâu /với ai /làm công việc gì
2/ Ở quận 3 mình không có cái khách sạn nào tên NOne . / NOne là một nhà nghì nhỏ không có lầu 3 nên cũng không có phòng 405.
3/Lần ngược dấu vết thì người đàn ông tên Ng X thì hoàn toàn không có thực
Đây là những dẫn chứng / theo nguyetthao /tốt nhất thanh minh cho mình .
( Nếu không thanh minh được thì bào chữa . Bào chữa kiểu : tại chồng tôi đủ thứ bất lực / bỏ bê gia đình / nhậu nhẹt . . chứng minh được như vậy thì người ta sẽ thông cảm cho )
Còn theo anh HLC và anh NHĐ thì không nhất thiết phải như thế : bởi vì " ngốc quá nguyetthảo ơi là nguyetthão . tại sao lại không :
1/ Nhờ tổng thống Bush bảo Bill xác nhận cho mấy câu " Không thể như thế được một thiên tài window như cô nguyetthảo này thì không bao giờ làm chuyện tầm bậy đó cả . ( Bill nói là thánh nói mà )
2/ Đến Geneve nhờ ban quàn lý giải thưởng NOBEL bảo lãnh cho " " một nhà thơ thiên tài như cô nguyetthao đang được đề nghị trao giải thưởng văn chương này thì không thể nào có hành động ngoại tình như thế đựoc .
3/Ra Hanôi nhờ một nữ tổng bí thư danh tiêng tiếng nào đó " bao năm nay nguyetthao nổi tiếng là dâu thảo vợ hiền , đẽ hai đứa con là cháu ngoan , Năm năm liền đạt danh hiệu phụ nữ 3 đảm , được tổ dân phố tuyên dương . uỷ ban phường khen thưởng . . . Một con người như thế thì / nhân danh tổng bí thư tôi bảo đảm / không thể nào . hư hỏng được .
Theo nguyetthao . nếu chúng ta cứ ngoan cố mỗi bên theo một phương pháp ( kiểu như trên ) thì chẳng đến đâu cả . Nên kết thúc là tốt nhất .
Tuy nhiên trước khi kết thúc nguyetthao muốn đặt lại 2 vấn đề
Một /
ý là TCS không hề đề cập tới thơì gian làm trưởng giáo ở B'lao, tôi cũng chưa rõ vì sao không thấy ông viết về công việc này? .
Câu trả lời chì có thể là :
1/ VVới ai thì nghề dạy học là cao quý chư với vỹ nhân với thiên tài tcs thì đó là cái nghề hèn " Không lẽ ta đây mà có thời phải làm thày dạy học mấy thằng thượng con à "
2/ Có thể cái nghề dạy học không đến nỗi hèn lắm , nhưng nhắc đến cái nghề đó là lại phải nhắc đến cái đám bạn thày giáo mạt hạng !
nguyetthao không nhớ đọc ở đâu câu này : " quá khứ , nguồn cội là sương sống hình thành nhân cách con người "
Hai /
Ngoại trừ những người có lý tưởng và có nhiệm vụ về điệp báo ( như các anh hùng Phạm X. Ân - Phạm N. Thảo v.v. )phải chấp nhận một lối sống thế nào đó ( để hoàn thành nhiệm vụ công tác ) . Còn ông nhạc sỹ tcs này chẳng phải là điệp viên gì cả mà ông ta khéo luồn cúi đến độ cả hai thời kỳ ông toàn là em cháu / con / bạn / lính lác / hay tài lọt gì đó cho các ông lớn không ? hai anh có bao giờ suy nghĩ vấn đề này chưa nhỉ ? Thêm nữa biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ công cán đày trời mà ân huệ hưởng chẳng bao nhiêu chỉ riêng ông nhạc sỹ này công cán bao nhiêu mà được cấp căn nhà to đùng thế nhỉ ?!
Cứ chậm rãi nghiền ngẫm đi rồi chân lý sẽ loé ra từ bóng tối !
nguyetthao
*****************************************
anh hoang lien cong viết
tôi yêu cầu bạn hãy cẩn thận trong cách nói năng, mỗi người có một quan điểm riêng của mình và hãy bảo vệ nó, và tôi nhắc lại điều này - ở chợ có văn hoá của chợ, và ở đây không phải là một cái chợ.
Riêng câu chuyện của Trịnh công Sơn. Tôi nhớ lại một câu nói này không biết của ai, nhưng tôi tâm đắc nó,- muốn đấu tranh(đấu tranh giải phóng dân tộc,trong đó bao gồm cả trí thức và văn nghệ sĩ nữa) thì trước hết mình phải sống (tồn tại) đã.Người đấu tranh cho dân tộc thì phải biết đâu là điểm trọng yếu nên đi và đâu là điểm nên nhịn. lịch sử Trung hoa có Hàn tín , lịch sử Việt nam có Quan Trung có Nguyễn Trãi, đó là những tấm gương lớn để cho thế hệ đời sau học hỏi.
nói đến Trịnh công Sơn tôi nhớ một câu chuyện, khi Khánh Ly ở Hải Ngoại có đăng bài viết ca ngợi về ông, nhưng ông đã lên tiếng trong báo giới trong nước rằng - tôi với khánh ly gặp nhau đó là một cuộc hạnh ngộ trong đời, chúng tôi yêu thương và coi như ruột thịt, nhưng những gì Khánh Ly nói là để ca ngợi về một người đã chết. vâng các bạn thấy đó , đó là sự yếu mềm , sự bé bỏng của một con người có phải không, ( ta thấy ở đây một sự hờn giận và cố tránh đi một tơ lòng sâu nặng của ông).
Và một câu chuyên nữa trong một bài viết của nhà thơ Lâm thị Mỹ Dạ kể rằng, có một lần Trịnh công Sơn nhớ Khánh Ly trong nỗi nhớ ray rức ông đã viết hai chữ Khánh Ly lên đầy một trang giấy, điều này bạn có thấy bé bỏng và đáng yêu không các bạn.
Vĩ nhân cũng có lúc yếu mềm và " tôi ơi đừng tuyệt vọng", và "ngừoi ấy" tại sao lại để cho các bạn của ông phải phàn nàn thế. và thưa ông có nhiều người đang bảo vệ cho ông , thưa ông.
**********************************
phương lạc viêt
môt /
Tôi thấy là trong khi cô nguyetthao muốn đưa vấn đề - muốn :
a/ nhấn mạnh về độ chuẩn xác , về tình chân thực của bài viết để tìm ra một phần nào " chân lý "
b/ được đọc lại những phản biện ( bào chữa )về cung cách hành xử ( theo nội dung trong bài viết kiểu như tại sao tcs phải thế này , tại sao phải thế kia thì " phía bên kia " chỉ có biết cả vú lấp miệng em .
tôi khuyên nguyetthao stop lại là tốt nhất .
hai /
Trở lại câu nói làm nên sự " bất hủ ?! " của con người tcs :
Sống trên đời , con người cần có một tấm lòng !
có ai đó hỏi ": để làm gì "
Phải chăng khi đang ba hoa về một thứ đạo giáo tcs nào đó con người ông nhạc sỹ này bất chợt giật mình nhớ đến thuở mình làm thày mấy thằng thượng con , nhớ đến ơn nghĩa của cái đám thày giáo mạt hạng ( bạn bè của tcs thế này ư ) và một chút lương tâm hối hận khiến ( hoặc là sợ hố hàng ) vĩ nhân của chúng ta phán một câu lãng nhách :
" chỉ để gió cuốn đi thôi "
Kính xin các tín đồ của tcs " giải mã " cho "danh ngôn " này
ba/
nhưng những gì khánh ly nói là để ca ngợi về một t người đã chết
Lại phải chăng con người ta củng có một lúc nào đó phải trở về cái tính bổn thiện của mình . Khi nói câu này chính là lúc vỹ nhân của chúng ta bị lương tâm dày vò cắn rứt khủng khiếp đây .
về một người đã chết !
"thằng " ngưòi tcs nào đã chết ?
lúc này tăm tiếng và uy thế nhạc sỹ ưu tú` tcs đang lưng danh thiên hạ mà !
chính là "thằng" thày giáo tcs đã chết đấy !
bốn /
Dầu gì tcs - với tôi - cũng có điều đáng nể :
- thứ nhất sống thật với lòng mình khi dám quẳng vào mặt bạn bè " tấm lòng tôi chỉ để gió cuốn đi thôi ". .
- thứ hai còn một chút liêm sỉ khi dám xác nhận rằng : đã có một thằng bội bạc trong tôi đã chết
năm /
Phương lạc sẵn sàng thưa chuyện hầu chuyện . Nhưng đừng bao giờ xử dụng cái kiểu tranh luận cả vú lấp miệng em .
******************************************
hoang lien cong viết
Thưa tất cả các bạn , như các bài của tôi đã viết , tôi không cố tranh luận về vấn đề này, cho dù câu chuyện này có thật hay không, thiết nghĩ , một người như Trịnh công Sơn quá đủ để cho tôi ngưỡng mộ, nhân vô thập toàn, mỗi người có một quan điểm riêng để sống. tôi dựa vào câu nói của thi hào goocki :'" văn học là nhân học", vậy thì âm nhạc của trinh công Sơn đủ cho tôi thấy nhân cách của một con người,
trở lại với câu"sống trong đời sống cần … để gió cuốn đi" tôi không cho đó là môt câu hay, và tôi chẳng bao giờ cho rằng câu này là một cao đạo gì hết. và thực tế như vậy, không phải thiên tài thì câu nói nào cũng đúng cũng hay, nhân câu chuyện này tôi liên hệ tới câu chuyện danh hoạ picasso.,có một lần nguời bạn của ông đem một bức hoạ và hỏi ông bức hoạ này có đẹp không, ông trả lời không đẹp, người kia bảo rằng bức hoạ này chính do ông vẽ , và picasso trả lời, tranh của picasso không phải cái nào cũng đẹp. và tôi cũng chưa thấy một nhà bình luận văn học nào,(có hoặc chưa có) bình luận câu nói trên của Trịnh công Sơn để cho tôi có thể tâm đắc. và tôi chắc chắn tôi không bao giờ bị lạc đề trong câu nói này.
Nếu ở đây chỉ tranh luận có hay không có cho một vấn đề theo tôi là phải có nhiều bằng cớ, và bằng cớ thì không thể dựa trên một văn bản xa tít với đông đảo công luận. ít ra là nó phải đựoc đăng tải trên các báo có uy tín v,v.
Kẻ nào chưa tìm được ra bằng cớ manh mối xác đáng mà đã vội vàng hạ uy tín của một con người là một tội lỗi.
Thưa các bạn , cái lớn lao nó nằm ở đâu phải phân định cho ràch ròi.
Phạm Xuân Ẩn và Trịnh công Sơn là ở cùng một chiến tuyến, nhưng sự đấu tranh của họ nằm trên những bình diện khác nhau.
Phạm xuân Ẩn là một thành tích có thể nhìn thấy và hiểu được .còn Trịnh công Sơn đấu tranh cho dân tộc lại phải đươc hiểu trên một bình diện khác, nó không được hiểu như một logic sẵn có. Những bản nhạc , " Người con gái Việt nam da vàng, người già em bé, đại bác ru đêm, v.v.." càng nghe càng bị cuốn hút và có một sự khai mở cho tâm hồn, chứ nó không phải là những logic suy diễn để rồi nghi ngờ. Sự đấu tranh cho độc lập dân tộc không chỉ đơn thuần dựa vào vũ lực mà hãy thức tỉnh tiềm năng trong lòng dân. Đây là một đức tính yêu nước của người Việt mà tôi ngưỡng mộ ở Trịnh công Sơn; tôi lại phải tranh luận câu chuyện trên kia để làm gì, và tôi cũng không phản đối việc tranh luận của các bạn, tôi chỉ nói quan điểm của tôi với sự việc này, và đối với tôi đó là việc vô bổ.
*************************************************