Lưỡi Kiếm của Thần Shiva
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 5 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 62 bài trong đề mục
Quang11 09.09.2016 00:44:54 (permalink)
0
Chương 28
Trung Tâm CNN
190 đường Marietta, thành phố Atlanta, tiểu bang Georgia
Thứ Bảy, 29 tháng 11, 10:19 giờ địa phương
 
Đoạn phim kết thúc và Irene Schick lại nhấn nút ngay lập tức để xem lại. Cô đã xem đoạn phim năm lần liên tiếp, mà vẫn không tin được mắt mình. Cô cho phim chạy nhanh đến đoạn súng trường tiến công bắt đầu bắn vào đám đông và các thân xác bắt đầu đổ xuống đất.
 
Âm thanh bị ù đi và gần như không thể nghe hiểu được, nhưng đoạn phim thật là đáng kinh ngạc… Binh lính Trung quốc đang bắn gục dân chúng đang yên ổn biểu tình mà không có một sự khiêu khích nào cả. Máu me. Kinh hoàng. Đám đông bỏ chạy dẫm đạp lên nhau như đàn dê bò.
 
Các nhà hoạt động chính trị Tây Tạng đã tố cáo Trung quốc hành động hung bạo như vậy nhiều lần từ lúc những vụ bạo động năm 2008, nhưng mọi chứng cớ hiếm hoi có được đều thiếu chất lượng và tính cách thuyết phục.
 
Nhưng cảnh tượng đang diễn ra trên màn hình máy vi tính của cô là hàng thật rồi. Nghe thì có vẻ thiếu tế nhị, nhưng đoạn phim này giống như ‘khẩu súng nòng còn bốc khói’ trong truyền thuyết đó! Không phải chỉ có một hay hai kẻ bạo động bị bắn gục trong hoàn cảnh không chắc chắn nào đó, mà là hàng trăm người chết hay bị thương. Hay nhiều hơn thế nữa. Cô sẽ phải lập ra một tổ để nghiên cứu mỗi một khung hình trong đoạn phim này, đếm số thi thể và ghi nhận mọi chi tiết nhỏ nhặt có thể bị bỏ sót nếu không tra xét tỉ mỉ.
 
Theo lời của Byron Maxwell của hội Ân Xá Quốc Tế, đoạn phim được thu từ một chiếc điện thoại di động. Dựa theo chất lượng hình ảnh, có lẽ đó là một di động loại tốt. Ngay cả khi chiếu lớn trên màn ảnh LCD 25 inch của Irene, hình ảnh vẫn rõ nét và trong vắt. Còn thua xa cấp độ chuyên nghiệp, nhưng thừa để đem lên truyền hình.
 
Thế nào khúc phim cũng mất đi vài chi tiết và bị sai lệch chút đỉnh khi bị chuyển qua dạng A-roll, nhưng điều này cũng chỉ làm tăng thêm tính chất kịch nghệ và tạo nên cảm giác chân thật trong trí của khán giả truyền hình.
 
Họ sẽ đưa gã du khách đã thu phim lên một đài truyền hình địa phương của đài CNN mẹ ở tiểu bang California, hay chỉ cần phỏng vấn bằng âm thanh thôi trong khi chiếu đoạn phim của gã. Họ cũng có thể cho một phát ngôn nhân của hội Ân Xá Quốc Tế một chút thời giờ trên truyền hình, để trả ơn họ đem đến đoạn phim cho đài. Irene đã bắt đầu hoạch định đoạn phóng sự đầu tiên trong đầu. Câu chuyện này sẽ lên hàng đầu suốt nhiều ngày đó! Cô đã linh cảm thế rồi.
 
Cô nhấc điện thoại, bấm một loạt số và bắt đầu nói ngay khi bên kia bắt máy. “Roger à, đây là Irene. Phải bao lâu mới có thể phái Tom Gwinn hay Kelly Spencer qua Tây Tạng với cả một đội vậy?”
 
Ngập ngừng một chút, rồi chủ nhiệm cao cấp Roger Calloway nói. “Cô hỏi thật đấy hả?”
 
“Thật chứ sao không?” Irene đáp. “Chúng ta sắp phải có một nhóm giỏi nhất ngay tại Tây Tạng đó! Thật gấp đó!”
 
Cô lại nhìn vào cảnh thảm sát trên màn hình. “Bám chặt lấy ghế đi nhé, Roger. Tôi sắp thả một quả bom tấn vào lòng ông đó!”
 
#31
    Quang11 09.09.2016 00:50:15 (permalink)
    0
    Chương 29
    Tàu ngầm USS California (SSN-781)
    Phía bắc vịnh Bengal
    Chủ Nhật, 30 tháng 11, 18:24, giờ địa phương
     
    Thanh âm viên sĩ quan phụ trách Sonar vang lên trên mạng. “Phòng điều khiển, đây là Sonar. Sierra Một Năm đi hướng không-ba-chín. Vật tiếp xúc cho thấy đang trôi dạt chậm về phía phải.”
     
    Hạm trưởng Patke vỗ vai viên sĩ quan trực phòng điều hành (Officer of the Deck, OOD). “Hãy hướng vài độ về phía phải, và duy trì tư thế càng ở giữa xoáy nước của hắn càng tốt.”
     
    Viên OOD gật đầu. “Aye-aye, thưa ông.” Gã nhỏ tiếng ra lệnh cho thủy thủ cầm lái.
     
    Sierra Một Năm chính là số hiệu truy tầm sonar để chỉ một chiếc tàu ngầm hạt nhân tấn công của Trung quốc thuộc lớp Shang (34). Chiếc USS California đã theo đuôi chiếc tàu ngầm Trung quốc suốt gần 24 giờ rồi, và lúc này họ đang chuẩn bị theo nó xuyên qua chu vi phòng vệ của biên đội tàu sân bay của Ấn Độ.
     
    Patke và thủy thủ đoàn của hắn cũng từng thi hành một hành động y như vậy trước đó năm ngày, khi họ lẻn qua vòng phòng ngự của các chiến hạm bao quanh chiếc tàu sân bay của Trung quốc, gần phần cuối phía nam của vịnh Bengal. Thế rồi, họ lại nhận được lệnh hủy bỏ cuộc theo dõi, mà chuyển qua tìm kiếm và theo đuôi chiếc tàu ngầm tấn công của Trung quốc này. Và bây giờ, họ đang ở phần đầu phía bắc của vịnh, lần mò theo chiếc tàu ngầm kia khi mà nó cũng thực hành cùng một hành động đối với hạm đội Ấn Độ.
     
    Mà chắc họ cũng sẽ thành công. Viên hạm trưởng của chiếc tàu ngầm Trung quốc rất có tài và thận trọng, và chiếc tàu của y cũng khá êm ắng. Dù sao thì cũng là sự êm ắng ở mức cao nhất mà tàu ngầm Trung quốc có thể đạt được.
     
    Hạm trưởng Patke liếc nhìn đồng hồ. Đã gần 18:30 rồi. Trên mặt nước, lúc này thế giới đã ở trong trạng thái ánh sáng kỳ lạ được gọi là ‘hoàng hôn hải lý’, khi mà mặt trời đã xuống dưới đường chân trời, nhưng tia sáng của nó vẫn chiếu sáng bầu trời. Mặt biển sẽ quá tối để có thể nhận ra chi tiết với mắt thường, mà bầu trời vẫn còn sáng trưng làm cho mắt người ta không làm quen được với bóng tối.
     
    Đây là thời điểm trong ngày mà phi hành đoàn trên máy bay và các nhân viên gác trên chiến hạm bị khó khăn nhất khi muốn nhận ra dáng của một chiếc tàu ngầm đang lặn gần mặt nước, hay vạch sóng rẽ bởi tiềm vọng kính đang nhô ra khỏi mặt nước.
     
    Patke gật gù. Gã hạm trưởng Trung quốc làm đúng bài vở đó! Nếu tiếng động từ lò phản ứng hạt nhân của nó không bị phát hiện, gã sẽ lọt qua vòng phòng ngự của các khu trục và khu trục hạm nhẹ của Ấn Độ, và đến trung tâm của biên đội tàu sân bay.
     
    -***-
     
    Nửa giờ sau, rõ ràng là gã hạm trưởng của chiếc Sierra Một Năm đã thành công đạt được mục đích của gã. Chiếc tàu của gã đã lọt hẳn vào bên trong vòng đai của chiếc tàu sân bay Ấn Độ, chiếc INS Vikrant. Chính chiếc tàu của Patke, chiếc California thì vẫn lặng lẽ bám theo đuôi nó, lợi dụng âm thanh từ chân vịt và lò phản ứng hạt nhân của chiếc tàu ngầm Trung quốc để làm lá chắn tránh bị phát hiện.
     
    Sierra Một Năm, chiếc tàu lớp Shang (Thương) kia, là một chiếc tàu ngầm Trung quốc thuộc thế hệ thứ nhì và tiếng ồn của nó đã nhỏ hơn lớp Han (Hán) cũ một cách đáng kể. Nhưng mà giữa ‘ít ồn’ và ‘êm lặng’ là cả một thế giới khác biệt. Cho dù với tài nghệ của gã hạm trưởng, Sierra Một Năm có thể hơi quá ồn một tý để có thể tránh bị phát hiện bởi các nhân viên sonar trên hạm đội Ấn Độ. Mà vì khoảng cách theo dõi gần gũi, điều này có lẽ tương đương như chiếc California cũng sẽ bị phát hiện luôn.
     
    Patke tháo cặp kiếng xuống, chà chà xống mũi, rồi lại đeo kiếng lên. Bám sát theo một chiếc tàu ngầm có thể là địch, bình thường đã là chuyện rũi ro rồi. Mò mẫm bên trong chu vi phòng thủ của tàu sân bay của một nước khác, lại nâng mức rũi ro lên một tầng cấp khác hẳn. Mà giờ đây, chiếc California lại đang làm cả hai điều này. Chỉ cần bất cứ chuyện không may nào xảy ra, chỉ cần ba giây thời gian là cả tình huống trôi xuống cống ngay.
     
    Patke nhìn bức bản đồ hành quân lần cuối, rồi đi về chiếc cửa kéo dẫn đến phòng kiểm soát sonar. Hắn tựa vào bệ cửa và nhìn vào căn phòng đen tối. Chuyên viên sonar hàng đầu của chiếc tàu, thượng sĩ Lanier Philips là nhân viên trực lúc này.
     
    Hạm trưởng ra hiệu cho chuyên viên sonar: “Như thế nào, thượng sĩ?”
     
    Viên trưởng toán sonar ngẩng đầu, nét mặt điển hình của dân da đen căng thẳng vì tập trung. Gã đẩy ống nghe choàng đầu sang bên một chút để lộ lỗ tai phải ra, tay trái thì ấn ống nghe còn lại mạnh hơn vào tai trái. “Chúng ta theo dấu tên này rõ ràng, thưa hạm trưởng. Ông cũng biết cái tiếng rì rào tần số thấp kỳ cục của lớp tàu Han do hệ thống thoát nhiệt của chúng chứ? Có vẻ như lớp Shang cũng có thiết kế giống như vậy. Tầng decibel thì thấp hơn nhiều, nhưng cũng một loại âm thanh như vậy.”
     
    Viên thượng sĩ quay đầu trở về loạt màn hình sonar. “Nếu ông cứ để cho chúng ta ở phía sau nó như thế này, chúng tôi có thể theo dõi vĩnh viễn.”
     
    Hạm trưởng Patke gật đầu. “Thế còn đám bạn Ấn Độ của chúng ta bên trên kia thì sao? Sonar của họ có khả năng dò ra thằng này không?”
     
    Viên trưởng toán sonar nhíu mày nhìn màn hình và ngoái đầu lại đáp. “Khó mà nói chắc được, hạm trưởng à, nhưng mà tôi không tin lắm. Âm thanh chính mà chúng ta đang theo dõi cũng không lớn lắm. Chúng ta có thể phát hiện được nó, nhưng mà chúng ta đang bám chặt vào đuôi nó. Hơn nữa, nó đang chạy bên dưới lớp âm, mà chúng ta cũng thế. Chúng ta đang ở cùng một vùng nước với nó, do đó chúng ta theo dõi nó dễ hơn.”
     
    Lớp âm là một vách ngăn âm thanh được tạo nên bởi sự chuyển tiếp từ vùng có nhiệt độ gần như không thay đổi gần mặt nước và vùng ‘thermocline’, một vùng có nhiệt độ nước thấp đi thật nhanh đến tận độ sâu khoảng 600 m. Sự thay đổi nhiệt độ kịch liệt này làm cho phần lớn tín hiệu âm thanh của một chiếc tàu ngầm bị lệch đi khỏi các cảm biến sonar được lắp ở vỏ các chiến hạm mặt nước. Điều này không làm cho tàu ngầm trở nên vô hình trên phương diện âm thanh đối với chiến hạm mặt nước, nhưng nó tạo ra một lợi thế chiến thuật mà mọi hạm trưởng tàu ngầm tài giỏi đều biết cách lợi dụng.
     
    Patke lại gật gù. Nếu thượng sĩ Philips nói đúng, các chiến hạm Ấn Độ trên mặt nước có thể sẽ không nhận ra sự hiện diện của Sierra Một Năm.
     
    Patke vừa định bỏ đi, thì viên trưởng toán sonar lại lên tiếng. “Sao lạ thế…?”
     
    Patke quay lại. “Anh có chuyện gì sao, thượng sĩ?”
     
    Thượng sĩ Philips nghiêng đầu qua một bên và nhìn chăm chú vào một màn ảnh sonar nhìn giống như thác nước chảy ào ào xuống. “Có tiếng động thoáng qua… Nghe giống như…”
     
    Viên chuyên gia sonar chợt ngồi thẳng dậy và bấm máy nói. “Phòng chỉ huy, Sonar đây. Sierra Một Năm đang cho nước vào ống phóng (35)! Tôi lặp lại, nó đang xả nước vào ống phóng!”
     
    “Cứt chó!” Một người nào đó trong phòng kiểm soát nói. “Nó sắp bắn!”
     
    Patke chạy vội 5-6 bước về vị trí của viên sĩ quan trực OOD. Người nào đó vừa kêu lên, nói đúng rồi. Sierra Một Năm đang chuẩn bị phóng ngư lôi.
     
    Chết tiệt! Patke cứ tưởng rằng chiếc tàu ngầm Trung quốc đang thi hành một nhiệm vụ dò thám. Hắn không ngờ bọn khốn kiếp này lại khai hỏa.
     
    Hắn cất cao giọng. “Mọi vị trí nghe đây, đây là hạm trưởng. Tôi nắm lại quyền chỉ huy rồi. Hoãn lại mọi báo cáo. Bánh lái, bẻ phải tối đa, hướng mới là một-chín-không! Sĩ quan lặn, cho chúng ta đi xuống! Cho độ sâu mới là 180 mét.”
     
    Không chờ nghe lời đáp trả, hắn lại phát một loạt mệnh lệnh khác. “Kiểm Soát Vũ Khí, chuẩn bị ống phóng số một, ba và năm. Đừng cho nước vào cho đến khi được lệnh của tôi. Biện Pháp Đối Phó, chuẩn bị phóng mồi nhử.”
     
    Sàn tàu nghiêng đi dưới chân hắn khi chiếc California chúi đầu xuống và đảo qua phải để đổi độ sâu và hướng đi.
     
    Viên trưởng toán sonar lại lên tiếng trên mạng. “Chỉ huy, Sonar đây. Sierra Một Năm đang mở cửa ống phóng.”
     
    “Khoan đã.” Patke nói khẽ. “Đừng bắn vội, thằng chó đẻ ngu xuẩn này. Chờ một tý nữa hãy phóng ngư lôi của mày…”
     
    Cái mà chiếc California cần bây giờ là khoảng cách, càng cách xa hướng đi của Sierra Một Năm càng tốt trước khi chiếc tàu ngầm Trung quốc bắt đầu phóng ngư lôi. Bởi vì khoảng 30 giây sau khi phát hiện ngư lôi được phóng, người Ấn Độ sẽ cho mọi thứ khí tài chống tàu ngầm của họ xông vào khu vực biển này. Cả vùng này sẽ chen chúc những chiếc khu trục nhẹ, trực thăng, và những chiếc hộ vệ hạm corvette chống tàu ngầm thuộc lớp Kamorta đã làm Hải quân Ấn Độ hãnh diện biết mấy. Tất cả những khí tài ấy sẽ phóng ngư lôi vào bất cứ vật gì lớn hơn một con cá thu. Mà chiếc tàu ngầm Trung quốc, chiếc Sierra Một Năm kia, có lẽ sẽ phóng ra vài món vũ khí để phản kích trong khi tìm cách đào thoát.
     
    “Đã vượt qua 90 mét.” Viên sĩ quan Lặn báo cáo.
     
    “Tốt lắm.” Patke nói. Còn chưa đủ sâu, nhưng đã không còn thời giờ nữa rồi. Nếu chiếc California muốn thoát thân, thì cái nó cần là tốc độ. Hắn chỉ đành phải chấp nhận mức rủi ro bị phát hiện cao hơn thôi. “Bánh Lái, thẳng phía trước tốc độ cao nhất.”
     
    Viên sĩ quan Bánh Lái lập tức trả lời. “Thẳng phía trước nhanh nhất, aye!”
     
    Có khoảng 90 giây tương đối im lặng rồi tiếng của viên trưởng toán sonar lại vang lên. “Chỉ Huy, Sonar đây. Ngư lôi trong nước, hướng đi không-bốn-không! Hình như là hai chiếc thuộc loại đuổi theo đường tàu chạy, nhắm vào chiếc tàu sân bay Ấn Độ.”
     
    Patke liếc nhìn màn hình tác chiến. Khoảng cách với Sierra Một Năm đang tăng nhanh, nhưng vẫn chưa đủ.
     
    “Cái này giống như thời tôi còn bé vậy.” Viên OOD nói nhỏ.
     
    “Tại sao vậy?” Patke hỏi. Hắn không thể tưởng tượng ra thời thơ ấu của ai lại có thể giống như tình huống của họ lúc này cả.
     
    “Thằng em tôi hay trộm mấy cái bánh trong hủ đựng.” Viên OOD nói. “Mà tôi lại là thằng luôn bị đòn vì mất bánh. Nó ăn bánh, còn tôi thì ăn đòn.”
     
    Viên OOD hất mặt về hướng màn hình tác chiến. “Tôi nghĩ là đó là chuyện đang xảy ra bây giờ, thưa hạm trưởng. Bọn Trung quốc thò tay vào hủ bánh của Ấn Độ và vồ lấy một nắm bánh ngon lành. Mình thì không hề đụng vào miếng bánh nào, mà lại sắp bị ăn đòn đây.”
     
    Patke nhìn vào khoảng cách càng lúc càng gia tăng trên màn hình. “Có lẽ là không đâu.” Hắn nói. “Không chừng lần này chúng ta hên rồi.”
     
    Bốn hay năm phút sau, sonar bắt đầu báo cáo là có ngư lôi vào nước, nhưng sau đó các ước tính đều cho là chúng ở cách một khoảng cách an toàn, về phía đông bắc.
     
    Mọi người trong phòng kiểm soát bắt đầu thở phào nhẹ nhỏm.
    “Đó! Chúng ta không lấy được miếng bánh nào.” Hạm trưởng Patke nói. “Nhưng mà ít ra chúng ta cũng không bị ăn đòn oan uổng.”
     
    Có lẽ do thách thức số mệnh. Hay có lẽ hoàn toàn là một sự trùng hợp. Mà cũng có thể là xui xẻo. Chỉ chưa đến 10 giây sau, viên trưởng toán sonar lại báo cáo. “Chỉ Huy, Sonar đây. Chúng ta vừa bị một chiếc máy bay cánh quạt nhiều động cơ bay qua trên đầu. Có nhiều phao âm (35A) được thả trong nước!”
     
    “Thả hai quả nhiễu âm ra.” Patke ra lệnh.
     
    Viên OOD quay sang trạm Kiểm Soát Biện Pháp Đối Phó. “Aye-aye, thưa ông. Thả nhiễu âm ngay bây giờ.”
     
    Hai tiếng hơi ép và hai tiếng bụp-bụp cho hay hai quả nhiễu âm đã được thả ra.
     
    Hắn nói. “Thế là anh bạn chúng ta bên trên đã có thứ gì đó để lắng nghe rồi. Bây giờ, chúng ta hãy tách ra khỏi đã. Bẻ sang trái, đi hướng mới là một-năm-không.”
     
    Viên sĩ quan bánh lái đáp lời và bẻ tay lái sang trái, bắt đầu cho chiếc California chậm rãi quay mũi.
     
    Patke ngước đầu nhìn lên, như hắn có thể thấy được qua vách thép và nước biển chiếc máy bay săn tàu ngầm của Ấn Độ đang bay vòng trên bầu trời đêm. “Cho người anh em sống yên một chút chứ, các bạn. Không phải chúng tôi bắn vào tàu sân bay của các bạn đâu. Mà chúng tôi cũng không có lấy trộm mấy miếng bánh của các bạn đâu.”
    -=-=-=-=-=-=-
    Chú Thích:
    (34) Tàu ngầm tấn công lớp Shang của Trung quốc, bắt đầu hoạt động từ năm 2006, có trang bị ống phóng dựng thẳng để phóng tên lửa siêu thanh chống hạm YJ-18 và tên lửa hành trình chống hạm CJ-10 phiên bảng cho tàu ngầm. Tàu dài 110 m, bề ngang 11 m, lượng choáng nước 7.000 tấn khi lặn, có trang bị 6 ống phóng ngư lôi. Tốc độ 30 hải lý/giờ hay 50 km/g. Trung quốc cho biết âm thanh êm như tàu ngầm Akula của Nga, 110 decibel; nhưng hải quân Hoa Kỳ cho biết hình 093 ồn hơn tàu ngầm lớp Victor III của Nga được bắt đầu sử dụng năm 1979.
     
    (35) Cho nước vào ống phóng: có hai cách để phóng ngư lôi hay tên lửa hành trình từ tàu ngầm qua ống phóng ngư lôi. Thứ nhất là dùng hơi ép phóng mạnh quả đạn ra; cách này đạn được phóng ra nhanh sau khi cửa ống phóng được mở ra, nhưng gây ra tiếng động mạnh, khiến cho tàu ngầm và cuộc tấn công sớm bị phát hiện; cách này thường được chiếu trong phim ảnh vì có tính chất kịch nghệ hơn; tên lửa chỉ có thể phóng bằng cách này. Cách thứ nhì là sau khi mở cửa ống phóng, ngư lôi được cho bơi ra thật chậm; ngư lôi có thể bơi chậm cách tàu ngầm xa hay gần tùy ý người điều khiển, rồi gia tốc khi đến gần mục tiêu; ngư lôi hiện đại được điều khiển bằng dây điện nhỏ do ngư lôi trải ra, chiều dài dây có thể là vài ngàn mét; phương pháp này dùng để đánh lén rất hữu hiệu, vì êm ru có thể tạo được bất ngờ. Cả hai phương pháp đều phải cho nước tràn vào ống phóng trước khi mở cửa. Nước có thể bị tống ra ngoài sau khi bắn hoặc nhiệm vụ bị hủy bỏ bằng cách dùng hơi ép.
     
    (35A) Phao âm, tiếng Anh là ‘sonobuoy’, là loại phao được tàu mặt nước hoặc máy bay thả xuống nước để truy lùng tàu ngầm. Phao có trang bị phát ra âm thanh theo một tầng số nhất định. Khi âm thanh chạm vào một vật thể trong nước, sẽ dội lại và được phao ghi nhận. Máy vi tính trên phao dùng khoảng cách thời gian âm thanh phat đi và quay về, và phương hướng để biết vị trí của vật thể. Sau đó, phao âm phát tín hiệu báo cáo cho máy bay hay tàu. Phao âm bao giờ cũng được triển khai thành chuỗi nhiều cái. Do đó, báo cáo từ nhiều phao được dùng để xác định tọa độ, chiều sâu, tốc độ và hướng đi chính xác của vật thể. Nhờ đó, tàu hay máy bay xác định vật thể ấy có phải là tàu ngầm hay không, rồi phóng ngư lôi một cách chính xác.
     
     
    #32
      Quang11 09.09.2016 00:52:18 (permalink)
      0
      Chương 30
      Trung Tâm Công Tác Không Gian số 21
      Trạm Không Quân Onizuka
      Sunnyvale, tiểu bang California
      Chủ Nhật, 30 tháng 11, 04:30 giờ địa phương
       
      Thượng sĩ Jennifer Thaxton bấm một cái nút trên màn hình để tắt tiếng cảnh báo trên màn hình SAWS của cô. Cái Satellite Analyst Workstation – SAWS (trạm làm việc của nhân viên giải tích vệ tinh) đang theo dõi dữ liệu viễn trắc từ GEO-3, một vệ tinh của Không Quân Hoa Kỳ thuộc loại dò tìm và theo dõi tín hiệu hồng ngoại hiện đang bay bên trên miền bắc Trung quốc. Vệ tinh vừa mới phát ra một cảnh báo, cho biết là có một cụm nhiệt năng vừa bộc phát nơi phần cuối của sa mạc Gobi bên Trung quốc.
       
      Thaxton đưa lên màn hình một cái lưới GPS và lồng nó lên địa điểm phát ra nhiệt năng. Cô đã chắc chắn tới 90% địa điểm của điểm nóng bất ngờ này rồi, nhưng vẫn muốn chắc chắn 100%. Cô ra lệnh cho phần mềm đến ngay trung tâm của điểm nóng hồng ngoại và đọc tọa độ. Đúng y chang như cô nghĩ.
       
      Một loạt gõ trên bàn phím đưa lên màn ảnh lịch trình của mọi hoạt động của cơ sở này được công bố từ trước. Thaxton lướt mắt qua, rồi lại gọi lên một màn hình khác chứa dữ liệu đạn đạo được hai vệ tinh mang ra-đa khẩu độ tổng hợp của Không Quân và một vệ tinh Onyx của Phòng Trinh Sát Quốc Gia (National Reconnaissance Office).
       
      Sau vài giây so sánh dữ liệu từ cả ba vệ tinh, thượng sĩ Thaxton kéo cần vi âm của ống tai nghe đến gần miệng và bấm nút nói. “Sĩ quan trực, đây là tổng đài 14. GEO-3 vừa phát hiện một vụ phóng tên lửa đột xuất từ Trung Tâm Phóng Vệ Tinh Jiuquan ở nam sa mạc Gobi. Đánh giá sơ khởi đạn đạo có lẽ là một vụ phóng vệ tinh lên quỹ đạo thấp.”
       
      Viên sĩ quan trực, thiếu tá Saunders, đáp đã nhận được báo cáo. Gã xuất hiện ngay bên cạnh Thaxton gần như trước khi cô kịp nhấc tay khỏi núp bấm nói. “Cô phân tích thế nào, thượng sĩ?”
       
      “Còn quá sớm để có thể biết chắc, thưa thiếu tá, nhưng chắc chắn không phải là đạn đạo của vũ khí. Nếu phải đoán bậy một phát, tôi cho rằng người Trung quốc đang triển khai một vệ tinh trinh sát có quỹ đạo thấp.”
       
      Cô đặt ngón tay lên màn hình và vạch ngón tay theo một đường cong màu xanh lục. Khi đi đến điểm cuối của đường cong, cô tiếp tục vạch ngón tay vẽ tiếp đường cong theo trí tưởng tượng của mình. “Có lẽ họ chuẩn bị đưa một con mắt lên trời bên trên vùng đang rắc rối ở vịnh Bengal.”
       
      Viên sĩ quan trực gật đầu, nói. “Tôi nghĩ cô nói đúng. Để tôi chuyển nhận định của cô lên trên, cùng với các số liệu.”
       
      “Chậm đã, thiếu tá.” Thaxton nói. “Cái đó chỉ là phỏng đoán của tôi thôi. Không chừng nó sai bét đó!”
       
      “Hiểu rồi.” Viên sĩ quan trực đáp. “Nhưng mà phỏng đoán giỏi. Mà bản thân tôi cho rằng cô đoán trúng y chóc rồi.”
       
      #33
        Quang11 09.09.2016 01:10:07 (permalink)
        0
        Chương 31
        Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway (CVN-82)
        Vịnh Bengal
        Chủ Nhật, 30 Tháng 11, 20:25 giờ địa phương
         
        Đô đốc Richard Zimmerman đang ngồi trên ghế chỉ huy được nâng cao, mặt hướng về phía năm màn hình hành quân lớn che kín vách tường của phòng chỉ huy. Mỗi màn hình đường chéo 1,8 mét đều lấm tấm những phù hiệu chiến thuật khó hiểu tượng trưng cho những máy bay, tàu ngầm và tàu mặt nước trong phạm vi trách nhiệm của chiếc hàng không mẫu hạm của ông.
         
        Các phù hiệu đều được đánh màu để phân loại: màu xanh lơ là bên bạn, trắng là trung lập hay không rõ. Một màu phân loại khác, màu đỏ cho bên địch, hiện nay không được dùng bởi vì biên đội của chiếc USS Midway chỉ hiện diện trong vùng này với tư cách là một lực lượng dùng để ổn định mà thôi. Trên lý thuyết, Hải quân Hoa Kỳ là bên trung lập, có nghĩa là trong vùng này không có lực lượng thù nghịch nào. Ít ra, không phải thù nghịch với Hải quân Hoa Kỳ.
         
        Đô đốc nhìn chằm chằm vào ký hiệu hình nửa vòng tròn tượng trưng cho tàu ngầm USS California. Mấy gã này suýt tý nữa đã bị lực lượng chống tàu ngầm của Ấn Độ đang hộ vệ chiếc hàng không mẫu hạm INS Vikrant đánh cho tét đít, chỉ mới cách đây chừng một giờ thôi. Chuyện này đã xảy ra khi mà một chiếc tàu ngầm tấn công Trung quốc đập cho chiếc Vikrant một phát nên thân.
         
        Giờ đây, chiếc Vikrant đang bốc cháy và cố gắng không chìm nghỉm, ở một nơi nào đó phía bắc của vịnh; trong khi đó, bất cứ vật gì nhúc nhích gần nơi đó đều bị người Ấn Độ đập tơi bời. Chỉ có trời mới biết hạm trưởng chiếc California làm thế nào để thoát thân nguyên vẹn.
         
        “Trung lập cái con khỉ.” Đô đốc nói. “Ở chỗ này mà trở thành trung lập thêm tý nữa là tất cả chúng ta sẽ về nhà trong túi đựng xác thì có.”
         
        Mà ông cũng không thể oán trách Hải quân Ấn Độ được. Họ nào có nhắm vào chiếc California đâu? Họ chỉ muốn thịt chiếc tàu ngầm tấn công Trung quốc đã đục thủng mấy lỗ to tướng vào chiếc tàu sân bay của họ thôi; chẳng qua, ngón tay bấm cò của họ hơi quá nhạy rồi.
         
        Đô đốc Zimmerman nắm chặt tay ghế. Nếu có kẻ nào bắn thủng hai lỗ thủng to tướng, lửa cháy tùm lum ở chiếc tàu sân bay của ông hả, có lẽ ông cũng làm y như người Ấn Độ lúc này thôi… Đập bẹp dí bất cứ thứ gì trong tầm tay.
         
        Mắt ông lướt qua căn phòng tối đèn. Phòng chỉ huy, được gọi là Flag Plot (*) tràn đầy những màn hình và những trang bị phụ trợ. Các vách tường gắn đầy những thiết bị thông tin liên lạc, bảng báo cáo bằng kỹ thuật số cho thấy trạng thái của ra-đa và máy vi tính; tất cả những thứ này chuyên cung cấp cho đô đốc và các nhân viên phụ tá mọi thông tin cần thiết để chỉ huy một chiếc tàu sân bay và cả nhóm tác chiến của nó.
         
        (* người dịch, Flag Plot, mảnh đất cắm cờ: cấp tướng được quyền trưng cờ của mình nơi phòng làm việc hay ngoài cửa chính của kiến trúc có văn phòng của mình; trong trường hợp có nhiều tướng trong cùng một kiến trúc, trước cửa sẽ treo cờ của vị tướng có cấp cao nhất; chuẩn đô đốc nửa dưới, cờ một sao; chuẩn đô đốc nửa trên, cờ hai sao; phó đô đốc, cờ ba sao; đô đốc, cờ bốn sao. Chỉ huy hàng không mẫu hạm và cả hạm đội bảo vệ thường là chuẩn đô đốc nửa dưới, một sao, nhưng thường vẫn được gọi là ‘đô đốc’ vì lịch sự, trừ phi cố ý muốn cho rõ ràng cấp bậc)
         
        Như thường lệ khi chiếc tàu sân bay được triển khai, Flag Plot tràn đầy những hoạt động, nhưng trong im lặng. Các nhân viên điều hành những hệ thống hay dùng máy thông tin liên lạc đều nói nhẹ tiếng qua ống nghe choàng đầu. Tiếng thì thào của họ cũng không lớn hơn tiếng quạt làm nguội thiết bị điện tử bao nhiêu.
         
         “Thưa đô đốc, nếu đô đốc có thời giờ…”
         
        Tiếng nói từ bên trái chiếc ghế của đô đốc vang lên, chỉ cách cánh tay ông 15 cm. Chính là gã trung úy phụ tá mới, cái gã làm người ta rùng mình: Muller, hay là Moyer… cái tên đại khái như thế. Chính là cái gã cứ hay như chợt biến ra từ không khí.
         
        Đô đốc đã từng nhìn gã đi vào và đi ra khỏi các căn phòng, nên biết rằng gã không có pháp thuật hay biết thuấn di gì cả. Bạn có thể thấy gã di động, nếu bạn cố tâm chú ý. Nhưng nếu bạn không để ý đến gã, gã cứ như chợt biến ra vậy, mà luôn luôn cầm trong tay tấm bìa cứng kẹp giấy.
         
        Gã trung úy đưa tấm bìa cứng ra. “Thưa đô đốc, nếu đô đốc có thời giờ...” Gã lại nói.
         
        Đô đốc Zimmerman nhận tấm bìa, cố kềm cảm giác muốn giật nó khỏi tay gã sĩ quan trẻ. Trang giấy bìa màu trắng viền đỏ và có chữ đỏ, cho thấy là tài liệu bên dưới được liệt vào hàng Mật.
         
        Đô đốc lật trang bìa để lộ ra một bức điện và bắt đầu đọc.
         
         
         
        //SSSSS//
         
        //MẬT//
         
        //KHẨN//KHẨN//KHẨN//
         
        //301332Z NOV//   (dịch giả: ngày 30, 13:32 Giờ Phối hợp Quốc tế tức là giờ zulu theo cách nói quân đội, tháng 11)
         
         
         
        TỪ COMPACFLT// (dịch giả: COM – commander, PAC – Pacific, FLT – Fleet, chỉ huy trưởng hạm đội Thái Bình Dương)
         
         
         
        CHO COMCARSTRKGRU FIVE// (dịch giả: COM – commander, CAR – Carrier, STRK – Strike, GRU – Group; Chỉ huy trưởng nhóm tác chiến tàu sân bay số 5)
         
        USS MIDWAY//
         
        USS TOWERS//
         
        USS FRANK W FENNO//
         
        USS DONALD GERRARD//
         
         
         
        INFO COMSEVENTHFLT// (dịch giả: chỉ huy trưởng Đệ Thất Hạm Đội)
         
        CTF SEVEN ZERO// (dịch giả: nhóm tác chiến tàu sân bay số 70)
         
         
         
        ĐỀ TÀI/CẢNH BÁO VỆ TINH ĐƯỢC PHÓNG//
         
         
         
        THEO BÁO CÁO/SPACEOPCEN AF/301241Z NOV// (dịch giả: SPACEOPCEN viết tắc của Trung Tâm Công Tác Không Gian; AF – Air Force, Không quân; ngày 30, 12:41 giờ zulu, tháng 11)
         
        TRUNG TÂM CÔNG TÁC KHÔNG GIAN SỐ 21 CỦA KHÔNG QUÂN HOÀI NGHI QUÂN GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN (PLA) PHÓNG VỆ TINH NGÀY HÔM NAY
         
         
         
        1. (MẬT) BÁO CÁO CHO HAY VỆ TINH QUỸ ĐẠO THẤP ĐƯỢC PHÓNG ĐỘT XUẤT TỪ TRUNG TÂM PHÓNG VỆ TINH JIUQUAN CỦA PLA Ở NAM SA MẠC GOBI KHOẢNG TRƯỚC ĐÂY MỘT GIỜ.
         
        1. (KÍN) ĐẠN ĐẠO VÀ QUỸ ĐẠO KHÔNG GIỐNG PHI THUYỀN CÓ NGƯỜI HAY BẤT CỨ VŨ KHÍ HAY VỆ TINH MANG VŨ KHÍ NÀO.
         
        1. (MẬT) ĐÁNH GIÁ SƠ KHỞI CỦA KHÔNG QUÂN LÀ VỆ TINH THUỘC LOẠI HAIYANG HY-2F HAY HY-3, CHUYÊN DÙNG CHO THEO DÕI BẰNG RA-ĐA, HÌNH ẢNH VÀ ĐA PHỔ KHU VỰC VỊNH BENGAL.
         
        1. (MẬT) VẬN TỐC VỆ TINH ĐƯỢC CỐ TÌNH GIẢM XUỐNG ĐỂ TIẾN VÀO VỊ TRÍ ĐỊA TĨNH TỪ QUỸ ĐẠO THẤP. TRUNG TÂM CÔNG TÁC KHÔNG GIAN SỐ 21 CHO BIẾT QUỸ ĐẠO KHÔNG ỔN ĐỊNH VÀ SẼ PHÂN RÃ TRONG VÒNG MƯỜI NGÀY.
         
        1. (MẬT) ĐỂ TIỆN LÊN KẾ HOẠCH VÀ LIÊN LẠC, VỆ TINH NÀY ĐÃ ĐƯỢC MỆNH DANH REDBIRD MỘT.
         
        1. (MẬT) DỰA THEO CÁCH HOẠT ĐỘNG TRƯỚC ĐÂY VÀ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÁC VỆ TINH CỦA PLA ĐÃ ĐƯỢC TRIỂN KHAI ĐỂ CHỈ BAO PHỦ KHU VỰC VỊNH BENGAL KHOẢNG SÁU GIỜ MỖI HAI MƯƠI BỐN GIỜ THÔI. NAY, TRONG VÒNG ĐỜI CỦA NÓ, REDBIRD MỘT SẼ CUNG CẤP CHO PLA THÔNG TIN TRINH SÁT SUỐT NGÀY.
         
        1. (MẬT) MỌI ĐƠN VỊ PHẢI RÕ LÀ TOÀN BỘ KHẢ NĂNG CỦA VỆ TINH LOẠI HY-2F VÀ HY-3 CÒN CHƯA ĐƯỢC RÕ. REDBIRD MỘT CÓ KHẢ NĂNG NHẬN DIỆN QUA ĐỘ PHÂN GIẢI CAO VÀ THEO DÕI MỌI TÀU MẶT NƯỚC VÀ MÁY BAY TRONG KHU VỰC. ĐỀ NGHỊ CÁC VỊ CỨ GIẢ ĐỊNH LÀ PLA THÔNG TỎ MỌI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC VỊ CHO ĐẾN KHI QUỸ ĐẠO PHÂN RÃ VÀ SỰ HƯ HẠI CỦA REDBIRD MỘT ĐÃ ĐƯỢC XÁC NHẬN, KHOẢNG MƯỜI NGÀY KỂ TỪ HÔM NAY.
         
        1. (KHÔNG MẬT) CHÚC MAY MẮN VÀ HÃY CẨN THẬN HÀNH SỰ! ĐÔ ĐỐC STANFORD GỬI.
         
         
         
        //301332Z NOV//
         
        //KHẨN//KHẨN//KHẨN//
         
        //RBT 2034539//
         
        //MẬT//
         
        //SSSSSS//
         
         
         
        Đô đốc đọc qua bản tin hai lần trước khi ký tên ở đầu trang giấy và trả tấm bìa lại cho trung úy Quỷ Dị. Ông nói. “Chẳng lẽ giởn với tôi à?”
         
        Viên trung úy kẹp tấm bìa vào nách. “Sao ạ, thưa đô đốc?”
         
        “Không có gì.” Đô đốc gầm gừ, phất tay cho gã sĩ quan trẻ quỷ dị rời đi.
         
        Khi ông đảo mắt quanh vài giây sau, gã Trung Úy Phụ Tá đã biến mất rồi. Ông không hề nghe tiếng cửa mở hay đóng gì cả, nhưng gã trung úy đã không còn trong Flag Plot. Gã làm thế nào mà biến mất như thế nhỉ?
         
        Đô đốc lại quay mắt về các màn hình hành quân. Redbird Một có lẽ đang theo dõi mọi động tĩnh của nhóm tác chiến, mọi chuyến bay và mỗi lần chiếc Midway hay các chiến hạm hộ vệ chuyển hướng hay đổi tốc độ. Nhưng mà trong bức điện của Hạm Đội Thái Bình Dương, không có một điều gì chỉ định chiếc vệ tinh ấy là thù nghịch cả. Và như vậy là đô đốc Zimmerman không có quyền bắn hạ nó.
         
        Cái dụng cụ thám sát mới này của Trung quốc chính thức là trung lập. Lại cái từ ‘trung lập’ này nữa…
         
        Đô đốc dựa ra lưng ghế. Trung lập. Ông bắt đầu ghét cay ghét đắng cái từ này rồi.
         
        #34
          Quang11 09.09.2016 01:22:56 (permalink)
          0
          Chương 32
          Trung Tâm CNN
          190 đường Marietta, thành phố Atlanta, tiểu bang Georgia
          Chủ Nhật, 1 tháng 12, 09:22 giờ địa phương
           
          Ngược với tiên đoán của Irene Schick, đoạn phim về vụ thảm sát ở Lhasa không được chiếu trong mục tin hàng đầu. Cô vẫn tin tưởng rằng vụ thảm sát này sẽ chiếm ngự các bản tin trong suốt nhiều ngày, nhưng giám đốc tin tức, Lloyd Neilson không đồng ý với cô.
           
          Neilson làm việc rất giỏi, mà hắn và Irene hiếm khi nào xung khắc nhau. Tuy nhiên hắn lại không đồng ý với nhận định của Irene về tầm mức quan trọng của mẩu tin này. Trung quốc và Ấn Độ đang leo thang trong một cuộc chiến có thể trở thành một cuộc chiến toàn diện giữa hai cường quốc hạt nhân. Trên một cái nền lớn như thế, Neilson cho rằng chuyện bắn gục một số người biểu tình ở Tây Tạng chỉ có thể bị lạc mất trong vô vàn mẩu tin mà thôi.
           
          Hắn đã bác bỏ đề nghị của Irene cả trên phương diện giờ chiếu lẫn chương trình mà mẩu tin nên được lồng vào. Irene thì muốn cho mẩu tin vào mục tin hàng đầu vào buổi tối thứ bảy, với mọi sự rầm rộ, và được loan báo bởi một trong những tay neo tin tức gạo cội nhất. Tuy nhiên, đoạn phim ở Tây Tạng bị nhét vào một chương trình nhàm chán phát vào buổi sáng Chủ Nhật, 22 phút sau khi mọi mục tin sốt dẻo đã được trình chiếu vào đầu giờ.
           
          Nếu là phần đông những mẩu tin khác, điều này đã là bản tuyên án tử hình rồi. Nhưng mẩu tin này thì không như thế. Đúng y như lời Irene đã lặp đi lặp lại với Nielson, vụ Tây Tạng này sẽ không biến mất trong yên lặng.
           
          Cô không hề ngờ được lời dự đoán của cô sẽ chuẩn xác như thế nào.
           
          #35
            Quang11 09.09.2016 01:35:54 (permalink)
            0
            Chương 33
            Khu Trục Hạm USS Towers (DDG-103)
            Vịnh Bengal
            Chủ Nhật, 30 Tháng 11, 21:47 giờ địa phương
             
            Có tiếng gõ nhẹ nơi cửa phòng của trung tá Silva, rồi sau một khoảnh khắc chờ đợi lịch sự, cửa được mở ra. Đại tá Bowie đứng ở lối vào. “Xin chào buổi tối, Kat. Tôi vào, không làm phiền cô chứ?”
             
            Silva ngước mắt lên từ chồng giấy tờ trên cái bàn xếp nhỏ xíu trong căn phòng tạm thời của nàng. Nàng vẫn đang cực khổ trong đống công việc hành chánh chi li, để chuẩn bị cho lễ bàn giao ngày thứ sáu.
             
            Nàng đang tính đánh một giấc trong vài phút kế tới, do đó đang mặc bộ đồ ngủ thường lệ khi trên tàu: quần tập thể dục và áo thun. Tối nay, chiếc quần là màu xám thông dụng, còn chiếc áo thun thì màu xanh lơ đậm có dán hình huy hiệu sĩ quan chiến hạm mặt nước màu hoàng kim trên vai. Khi ở nhà, nàng thích mặc vớ và đồ lót khi ngủ, nhưng trên tàu nàng có thể bị gọi dậy bất cứ lúc nào giữa đêm. Mặc dù không hợp cách, nhưng áo thun và quần tập làm nàng có thể trình diện với y phục đầy đủ những khi có thao diễn hay trường hợp khẩn cấp.
             
            Nàng dựa người vào lưng ghế. “Chào buổi tối, Jim. Mời anh vào.”
             
            Bowie bước vào căn phòng, đóng cửa lại. Hắn đưa ra một tập hồ sơ. “Không biết cô đã đọc qua các bản tin mới nhất chưa. Tôi nghĩ có thể cô cần đọc qua trước khi ngủ.”
             
            Silva phất tay về phía giấy tờ trên bàn. “Bản tin về vệ tinh trinh sát của Trung quốc hả? Tôi thấy qua rồi. Tôi có một bản sao ở đây nè.”
             
            Đại tá Bowie lắc đầu và đưa tập hồ sơ ra. “Không phải cái đó. Một bản tin khác, từ Phòng Nhân Sự.”
             
            Silva nhận lấy tập hồ sơ, mở ra và đọc trang giấy bên trong.
             
             
             
            //UUUUU//
             
            //KHÔNG MẬT//
             
            //ƯU TIÊN// ƯU TIÊN// ƯU TIÊN//
             
            //301355Z NOV//
             
             
             
            TỪ BUPERS//  (dịch giả: BUPERS, viết tắt của Bureau of Personnel, Phòng Nhân Sự)
             
             
             
            GỬI USS TOWERS//
             
             
             
            BẢN SAO CHO COMCARSTRKGRUP FIVE
             
                          COMDESRON ONE FIVE//
             
             
             
            ĐỀ TÀI/BÀN GIAO QUYỀN CHỈ HUY USS TOWERS//
             
             
             
            1.  KHÔNG MẬT) BUPERS NHẬN ĐỊNH USS TOWERS ĐANG TRIỂN KHAI VỊNH BENGAL THEO LỆNH HÀNH QUÂN KHÔNG NHẮC ĐẾN TRONG BẢN TIN NÀY.
             
            2.  (KHÔNG MẬT) XÉT VÌ TRIỂN KHAI NGOÀI DỰ LIỆU, BÀN GIAO QUYỀN CHỈ HUY NAY BỊ HOÃN LẠI CHO ĐẾN KHI CUỘC HÀNH QUÂN CHẤM DỨT.
             
            3.   (KHÔNG MẬT) ĐẠI TÁ SAMUEL HARLAND BOWIE ĐƯỢC LỆNH Ở LẠI USS TOWERS VỚI TƯ CÁCH HẠM TRƯỞNG SUỐT CUỘC HÀNH QUÂN NÀY, HAY ĐẾN KHI USS TOWERS ĐƯỢC CHUYỂN KHỎI KHU VỰC HÀNH QUÂN.
             
            4.   (KHÔNG MẬT) NAY, THÔNG BÁO CHO CHỈ HUY TRƯỞNG HẠM ĐỘI KHU TRỤC MỘT NĂM BIẾT VIỆC ĐẠI TÁ BOWIE BỊ ĐIỀU KHỎI USS TOWERS BỊ HOÃN LẠI. NGÀY GIỜ MỚI SẼ ĐƯỢC THÔNG BÁO SAU.
             
            5.   (KHÔNG MẬT) TRUNG TÁ KATHERINE ELIZABETH SILVA NAY ĐƯỢC LỆNH Ở LẠI USS TOWERS VỚI TƯ CÁCH HẠM TRƯỞNG DỰ BỊ TRONG THỜI GIAN HÀNH QUÂN NÀY, HAY ĐẾN KHI USS TOWERS ĐƯỢC CHUYỂN KHỎI KHU VỰC HÀNH QUÂN. ĐỀ NGHỊ TRUNG TÁ SILVA DÙNG THỜI GIAN NÀY TIẾP TỤC CHUẨN BỊ TIẾP THU QUYỀN CHỈ HUY, DƯỚI ĐIỀU KIỆN CÁC CÔNG VIỆC CHUẨN BỊ KHÔNG TRỞ NGẠI NHU CẦU NHIỆM VỤ CỦA CHIẾN HẠM.
             
            6.   (KHÔNG MẬT) CHI TIẾT KHÁC SẼ ĐƯỢC CHUYỂN QUA SEPCOR.
             
             
             
            //301355Z NOV//
             
            //ƯU TIÊN// ƯU TIÊN// ƯU TIÊN//
             
             
             
            //KHÔNG MẬT//
             
            //UUUUU//
             
             
             
            Silva khép tấm bìa lại và đặt lên bàn. Nàng nói. “Thật ra tôi đã dự liệu chuyện này rồi.”
             
            “Tôi cũng vậy.” Bowie nói. “Nhưng mà tôi biết chuyện này làm cô bực bội như thế nào. Tôi đã sẵn sàng chuyển giao cho cô trong năm ngày nữa thôi.”
             
            Hắn mỉm cười yếu ớt. “OK, có lẽ không phải là sẵn sàng thật. Tôi không nghĩ bất cứ ai sẽ sẵn sàng chuyển giao quyền chỉ huy của một chiến hạm, nhưng mà tôi đã chuẩn bị rồi.”
             
            Silva thở dài nặng nề. “Tôi biết là anh đã, Jim à, và tôi cám ơn anh. Mà tôi cũng hiểu tại sao Phòng Nhân Sự lại làm thế. Đâu thể nào thay tướng giữa cuộc chiến được chứ! Nhưng không thể nào giấu diếm được là tôi rất thất vọng.”
             
            “Tôi hiểu mà.” Bowie nói. “Nếu tôi ở vào trường hợp của cô, tôi đã cào nát lớp sơn khỏi vách tường rồi.”
             
            “Tôi cũng muốn làm thế lắm.” Silva đáp. “Nhưng mà cái này vẫn chưa là tường của tôi, nên tốt nhất là tôi cứ để sơn nguyên vẹn đi vậy.”
             
            Bowie vỗ vỗ vào vách tường cạnh cửa. “Chẳng bao lâu nữa đều là của cô thôi mà. Trước khi cô kịp nhận ra nữa đó!”
             
            Silva nhìn xuống tập hồ sơ đã đóng. “Ừ”. Nàng nói, sự thất vọng rõ ràng trong giọng. “Sớm thôi.”
            #36
              Quang11 09.09.2016 01:57:08 (permalink)
              0
              Chương 34
              ----------
              Người gởi: katherine.silva@navy.mil
              Ngày giờ: Chủ Nhật, 30 Tháng 11, 23:52
              Người nhận: harry.silva@nauticalcomposites.com
               
              Đề Tài: Kế Hoạch Thay Đổi
               
              Bố thương,
               
              Mới nhận được một tin xấu nhỏ vài giờ trước. Phòng Nhân Sự ra lệnh hoãn ngày chuyển giao quyền chỉ huy của con cho đến khi lần triển khai này chấm dứt. Vì vậy, Jim Bowie vẫn được ngồi trên cái ghế nóng bỏng ấy thêm một thời gian nữa, trong khi con gái cưng của bố tiếp tục kiên nhẫn chờ đến phiên của mình.
               
              Thật ra, có lẽ con cũng không có gì để phàn nàn cả. Jim là một hạm trưởng xuất sắc và là một người rất là được. Anh ấy giúp đỡ con không thể nào hơn được và rất sâu sắc. Thủy thủ đoàn sùng bái anh ta lắm. Khỏi cần phải nói, con không vui vẻ gì vì cuộc đình hoãn này, nhưng mà nếu đã phải ngồi yên chờ thời, ít ra biết rằng người đang chiếm chỗ chơi của con là một tay chơi giỏi cũng đủ an ủi rồi.
               
              Trước khi bố kịp có ý nghĩ gì, phải nói trước là Jim không phải là mẫu người của con đâu. Vậy xin bố đừng có bắt đầu tính toán gì. Anh ấy đã có bạn gái lâu năm hay vợ sắp cưới, hay gì đó. Con cũng không rõ chi tiết, mà con cũng không tính hỏi. Khi nào con quyết định có một mối quan hệ đứng đắn, thì chắc chắn sẽ không phải cùng một người trong Hải quân đâu. Bố đừng hiểu lầm, con thích đàn ông mặc quân phục, nhưng mà con nghĩ có một hạm trưởng trong gia đình là đã là quá đủ rồi. Vả lại, con đã định sẽ cưới chiếc tàu này trong vòng hai năm tới đây rồi.
               
              Tình huống này cũng có một mặt tốt. Con được dịp nhìn chiếc tàu mới của con và thủy thủ đoàn hành động dưới áp lực trước khi con nắm quyền. Tụi con có một chiến đoàn Ấn Độ ở một bên và một chiến đoàn Trung quốc ở bên kia. Cái này khá giống như trên đe dưới búa vậy. Tụi con không ở trong hoàn cảnh tác chiến, và (lạy Chúa) tụi con sẽ không ở trong hoàn cảnh đó, nhưng mà tình hình căng thẳng lắm. Thủy thủ đoàn làm việc thật là gọn đẹp. Chưa gì mà con đã rất hãnh diện vì mỗi người nam và nữ trên chiến hạm này, và con sẽ hãnh diện chỉ huy họ khi thời điểm ấy đến.
               
              Cho con hôn Mẹ một cái và nhớ đừng cho Snickers (dịch giả: tên con chó) ăn đồ thừa dưới gầm bàn. Mười hai năm rất dài đối với một con chó, mà ở độ tuổi đó, tụi nó dễ bị đau tim lắm. Bố chỉ cần gãi vào sau tai nó và nhớ nói với nó là của con gửi tặng nó đó.
               
              Thương bố,
               
               
              Kat
               
              Trung tá Katherine Silva
              USS Towers (DDG-103)
              -----------
               
              #37
                Quang11 09.09.2016 01:59:21 (permalink)
                0
                Chương 35
                Quán U Street Café
                Thủ Đô Washington
                Chủ Nhật, 30 tháng 11, 18:30 giờ địa phương
                 
                Gregory Brenthoven tìm một cái bàn tận bên trong của quán cà-phê. Hắn chọn một chiếc ghế đưa lưng ra cửa quán để có thể thỏa thích ngắm bức tranh màu sắc rực rỡ làm cả vách tường sáng rực do họa sĩ Joel Bergner vẽ.
                 
                Brenthoven mở nắp ly cappucino và đổ hai gói đường vào lớp sữa hấp bên trên cà-phê. Những viên đường nâu thô nhanh chóng chìm vào lớp bọt sữa, để lại một lỗ thủng thẳng đến chất cà-phê đen bên dưới. Hắn khoắng vài vòng thật nhanh bằng một cây que gỗ rồi đóng nắp ly cà phê lại.
                 
                Hương thơm bốc lên từ ly cà phê thật tuyệt vời. Trong thủ đô có biết bao quán cà-phê sang trọng hơn, nhưng qua suốt sự nghiệp lâu dài của hắn ở Washington, hắn chưa từng phát hiện ra chỗ nào làm ra tách cappucino ngon như ở đây.
                 
                Hắn cũng có mua một ổ bánh mì tròn mềm, kẹp thịt gà nướng và trái bơ, nhưng hắn để yên nó trên bàn trong khi mắt thì ngắm nghía bức tranh.
                 
                Bức họa bất thường của Bergner vẽ cảnh đường U Street lịch sử được treo giữa, bên trái là chân dung của huyền thoại nhạc jazz Billie Holiday và Duke Ellington, còn bên phải là đám đông người liên hoan trên đường phố trong đêm bầu cử năm 2008, khi mà cuối cùng bức rào màu da của Tổng Thống Hoa Kỳ bị đột phá. Bên trong bức tranh là một đoạn đường cong cong, có một chiếc xe mui trần của những năm 1920 đang chạy ngang qua rạp Roosevelt Theater khi xưa.
                 
                Bức tranh dùng màu sắc thiên về màu cam và vàng, làm nó trông có vẻ cổ xưa, gương mặt của những nhân vật thì lại trộn lẫn vẻ cam chịu và lạc quan kỳ quái.
                 
                Brenthoven mở nắp ly và nhấp một ngụm cappucino. Vẫn còn nóng quá, nhưng mà ngon làm sao ấy.
                 
                Đôi mắt hắn di chuyển từ bên này sang bên kia bức tranh, mà không chăm chú vào nơi nào cả. Hắn đã ngắm bức tranh này hằng mấy trăm lần rồi từ ngày mà Bergner hoàn thành năm 2009, nhưng hắn vẫn không rõ vì sao nó lại làm hắn xúc động sâu xa như vậy. Trong ấy có một thứ gì đó, bên dưới lớp sơn, như một bản tin đã được mã hóa một kín đáo, chứa đầy tuyệt vọng và hi vọng. Một sự nhận thức rằng thế giới có thể là một nơi tốt lành hơn là thế này… đáng lý là một nơi tốt lành hơn… nhưng ngay cả trong hoàn cảnh bất công và bị áp bức, người ta vẫn có lý do để trông mong vào một ngày mai tươi đẹp hơn.
                 
                Brenthoven lại nhấp một ngụm cappucino và bắt đầu nghĩ đến việc bóc lớp giấy gói ổ bánh mì ra.
                 
                Dĩ nhiên, hắn có thể hiểu sai hoàn toàn ý tưởng trong bức họa mà họa sĩ định bày tỏ. Hắn chưa bao giờ gặp qua Joel Bergner và hắn cũng chưa từng thử tìm hiểu về biểu tượng mà họa sĩ định bày tỏ. Nhưng mà đó là điều mà bức họa nói lên với Brenthoven và đối với hắn, cái đó chính là biểu tượng duy nhất mà hắn quan tâm.
                 
                “Xin chào buổi tối, ông Brenthoven.” Một thanh âm vang lên sau lưng hắn.
                 
                Brenthoven ngoái đầu nhìn lại. Hắn bất ngờ khi đối phương gọi hắn bằng tên, mà còn bất ngờ hơn khi hắn nhận ra người đã lên tiếng. Đó là Gita Shankar, bà Đại Sứ Ấn Độ.
                 
                Bà ta nâng một cái ly giấy mang nhãn hiệu của quán cà-phê. “Cho phép tôi ngồi chung bàn với ông nhé?”
                 
                Vẫn còn hơi chưng hửng vì cuộc chạm trán bất ngờ, Brenthoven phải mất vài giây mới đáp. “Dĩ nhiên. Vâng, mời bà.”
                 
                Bà đại sứ chọn ghế đối diện hắn và mở nắp ly giấy của mình.
                 
                Brenthoven gật đầu hướng ly giấy của bà ta. “Cà-phê à?”
                 
                “Đúng ra là trà.” Bà đại sứ đáp. “Với sữa. Có vẻ như đây là cái thứ gần giống với trà ‘chai’ nhất mà tiệm này có thể pha được. Trừ phi tôi muốn thử cái thứ gọi là smoothie (sinh tố).”
                 
                “Nếu bà không quen uống smoothie, thì an toàn nhất là bà cứ uống trà đi.” Brenthoven nói.
                 
                Hắn hơi ngả ly về phía bà đại sứ ra dấu mời, rồi nhấp một ngụm. Khi đặt ly xuống, hắn nhìn vào mắt người đàn bà Ấn. “Tôi có cảm giác là bà không phải là khách hàng quen thuộc của tiệm này.”
                 
                Bà đại sứ Shankar nghịch với cái nắp ly giấy, nói. “Ông dĩ nhiên đoán đúng rồi. Tôi chưa bao giờ đến đây cả.”
                 
                Brenthoven gật đầu. “Vậy, cho tôi hỏi chuyện gì đưa bà đến nơi này?”
                 
                “Chắc hẳn ông đã biết câu trả lời rồi mà.” Bà đại sứ đáp. “Tôi ở nơi này là vì ông đang ở nơi này.”
                 
                Brenthoven lại gật đầu. “Bà cho người theo dõi tôi à?”
                 
                Bà đại sứ nhăn mặt. “Với mọi thiện ý, tôi xin cam đoan với ông.”
                 
                Brenthoven đáp lại cái nhăn mặt của bà ta bằng một cái nhíu mày. Rõ ràng là hắn đã trở nên thiếu thận trọng rồi. Hắn chưa từng cần đến sự bảo vệ của Mật Vụ, nhưng mà nếu mọi cử động của hắn lại dễ bị theo dõi như vậy thì có lẽ đã đến lúc phải suy nghĩ đến an toàn cá nhân nhiều hơn rồi.
                 
                Hắn nhìn vị khách không mời. “Bà đã tìm được tôi rồi, và tôi có thể hứa sẽ hoàn toàn chú tâm nghe bà nói, thưa bà Đại Sứ.”
                 
                “Tôi xin ông.” Bà ta nói. “Hãy gọi tôi là Gita đi.”
                 
                “Vậy bà gọi tôi là Gregory đi.” Hắn nói. “Nhưng mà tôi vẫn muốn biết tại sao bà lại phải cho người theo dõi tôi đến đây. Tôi đoán là bà muốn bàn chuyện gì đó ngoài con đường ngoại giao thông thường. Như tôi đã nói, tôi lắng nghe đây.”
                 
                Viên đại sứ Ấn Độ nâng ly lên, rồi lại hạ tay xuống mà không uống một hớp. “Ông nói đúng, dĩ nhiên. Tôi muốn nói chuyện với ông một cách không chính thức và ngoài đường lối thông thường.”
                 
                Brenthoven lại nhấp một ngụm cappucino. “Về chuyện gì?”
                 
                “Về địa điểm thủy điện mà chúng ta đã bàn qua. Và về ý định mà nước tôi có thể có đối với địa điểm ấy, trong một tương lai gần.”
                 
                “Tôi hiểu rồi.” Brenthoven nói. Bà đại sứ rõ ràng không muốn nhắc đến cái tên Đập Nước Tam Hiệp ở nơi công cộng này và mọi thảo luận về kế hoạch hủy hoại nó của nước Ấn Độ cũng sẽ được nhắc đến một cách gián tiếp thôi. Như vậy cũng được. Brenthoven cũng biết cách nói quanh co như bất cứ nhân viên chính phủ nào khác.
                 
                “Bà có điều gì rõ rệt muốn cho tôi biết về dự định của quý quốc đối với địa phương thủy điện ấy không?”
                 
                “Có.” Viên đại sứ đáp. “Nói một cách không chính thức, tôi được phép cho ông rõ là hành động của chúng tôi sẽ xảy ra vào hai ngày nữa.”
                 
                Bà nhìn đồng hồ trên tay. “Khoảng 48 giờ kể từ bây giờ.”
                 
                Brenthoven ngồi thẳng dậy. “48 giờ? Bà nghiêm túc chứ?”
                 
                “Tôi thật nghiêm túc.” Bà Đại Sứ Shankar nói. “Ngày giờ này được cho chia xẻ với ông hoàn toàn trong sự tín cẩn. Chúng tôi trông mong ông bảo vệ tin tức này như bảo vệ bí mật quân sự của một đồng minh thân cận vậy. Nếu nó được tiết lộ cho những người không nên biết, mọi sự tín nhiệm giữa chính phủ tôi và chính phủ ông sẽ bị phá hỏng không thể bào chữa.”
                 
                “Tôi hiểu được.” Brenthoven nói. “Nhưng mà tôi không hiểu vì sao quý vị lại chia sẻ điều này với chúng tôi. Nếu tin tức này quan trọng đến vậy, mà tôi đồng ý là nó quan trọng thật, tại sao lại không giữ kín nó trong nội bộ của quý vị chứ?”
                 
                “Tại vì vẫn còn thời gian để quý chính phủ thuyết phục các lãnh đạo của chúng tôi bỏ qua kế hoạch ấy.” Bà đại sứ đáp.
                 
                Brenthoven nhìn bà trừng trừng. “Làm sao được? Chúng tôi phải làm gì để thuyết phục quý chính phủ bỏ qua kế hoạch này?”
                 
                Đại sứ Shankar mỉm cười. “Chúng ta đã bàn qua chuyện này rồi mà. Quý vị có thể tham gia cuộc chiến bên phía chúng tôi và giúp chúng tôi ép nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ngừng hành vi xâm lược của họ, mà không cần phải dùng đến những chọn lựa chiến lược không tưởng.”
                 
                “Chúng tôi không thể làm vậy được.” Brenthoven nói. “Nước CHNDTH không làm gì để khiêu khích Hoa Kỳ cả. Chúng tôi không có lý do gì để trực tiếp tham gia quân sự.”
                 
                Bà đại sứ có vẻ ngạc nhiên. “Bắn hạ máy bay quân sự của quý vị còn chưa đủ khiêu khích sao?”
                 
                Brenthoven cảm thấy trong ngực thắt lại. “Thưa bà đại sứ, bà đang nói gì đó?”
                 
                “Ồ!” Bà đại sứ nói. “Tôi tưởng đâu ông đã biết…”
                 
                Gút thắt trong lồng ngực Brenthoven lại chặt thêm. “Biết cái gì?”               
                 
                “Cuộc không chiến diễn ra trước đây khoảng một giờ.” Bà ta nói. “Hai chiếc F-18 từ tàu sân bay của quý vị bị hai phi đội tiêm kích Trung quốc tấn công. Tôi không rõ thiệt hại bên phía Trung quốc ra sao, nhưng tôi biết một chiếc máy bay của quý vị bị tiêu diệt. Tôi nghĩ là chiếc kia bị thiệt hại, nhưng tôi chưa được thuyết trình chi tiết.”
                 
                Brenthoven lắc đầu. “Không thể nào đâu, thưa bà đại sứ… Gita. Nếu có, tôi đã được thông báo rồi.”
                 
                Hắn mò mẩm tìm chiếc điện thoại di động và móc nó ra từ túi quần. Nó bị tắt. Pin đã cạn hay phần mềm đã kích hoạt lại, hay cái gì đó. Chuyện gì xảy ra cho nó không quan trọng. Cái quan trọng là cái vật khốn kiếp này đã tự tắt đi rồi.
                 
                Nó đã tắt đi bao lâu rồi nhỉ? Hắn đã mất liên lạc bao lâu rồi? Có lẽ hiện giờ đang có một nhóm nhân viên tại căn nhà của hắn và chắc họ đã thử điện thoại cho hắn cả năm chục lần rồi. Cả ở nhà lẫn máy di động của hắn nữa. Thế nhưng, nó lại nằm im rơ trong túi hắn như một khối sắt vô dụng.
                 
                Hắn nhấn mạnh vào nút bật máy và chiếc di động bắt đầu quá trình kích hoạt. Không chờ nó hoàn tất quá trình, hắn cũng đã biết mình sẽ thấy gì rồi. Ít nhất là hai chục bản thư thoại và cũng chừng ấy tin nhắn.
                 
                Mẹ nó! Mẹ nó!
                 
                Hắn đứng bật dậy. “Cho tôi xin lỗi, Gita. Tôi phải đi đây.”
                 
                Bà đại sứ cũng đứng dậy theo. “Đương nhiên rồi, Gregory. Anh bận việc mà.”
                 
                Giọng bà đanh lại. “Nhưng đừng quên lời tôi vừa nói. Bốn mươi tám giờ.”
                 
                 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2016 02:00:47 bởi Quang11 >
                #38
                  Quang11 09.09.2016 02:02:51 (permalink)
                  0
                  Chương 36
                  Phi tuần tác chiến                                                                                   
                  VFA-228 – Marauders (Quân Cướp)
                  Vịnh Bengal
                  Thứ Hai, 1 tháng 12, 06:26 giờ địa phương
                   
                  Thiếu Úy Rob “Monk” Monkman dìu chiếc Boeing F/A-18E Super Hornet bị thương của gã chậm rãi quẹo phải và cố gắng lờ đi các rung động càng lúc càng mạnh đang chấn động chiếc tiêm kích. Chiếc hàng không mẫu hạm chỉ còn cách hơn 95 km một chút thôi. Gần về đến nhà rồi. Gần đến nhà rồi…
                   
                  Gã không cảm thấy mình như một nhà sư tý nào vào lúc này. Sự bỡn cợt khoác lác về cao thủ Thiếu Lâm của gã dường như đi vắng mất rồi. Lúc này đây, gã chỉ cảm thấy mình là tên Robby Monkman tầm thường, và gã đang khiếp đảm đến nổi muốn đái ra quần rồi.
                   
                  Gã phớt lờ vô số tín hiệu cảnh báo đỏ nhấp nháy trên màn hình trước mặt. Cái màn hình tinh thể lỏng ấy được thiết kế để gã có thể điều khiển bằng đầu ngón tay và chỉ báo hầu hết mọi hệ thống trên máy bay, nhưng gã đã không còn theo dõi được số lượng cảnh báo tán loạn trên đó nữa. Chiếc Hornet của gã bị thương nặng, ít nhất gã cũng biết được điều ấy. Gã cũng biết gã không hi vọng gì có thể sắp xếp được vô số bản tin trong trí để hiểu được một cách rõ ràng là mọi thứ đã tệ hại như thế nào.
                   
                  Hệ thống phi hành kỹ thuật số của chiếc Super Hornet có khả năng phát hiện các hư hỏng do chiến đấu và tự động điều chỉnh để bù vào phần hư hỏng. Có lẽ nó đang làm tốt phần hành ấy, bởi vì chiếc máy bay của Monk bị trúng một quả tên lửa đã hơn một giờ rồi mà gã vẫn còn trên không trung.
                   
                  Động cơ bên phải đã tắt ngúm và gã đã bị mất cả đống nhiên liệu, nhưng hệ thống điều khiển fly-by-wire (hệ thống điều khiển thông qua máy vi tính, chứ không phải trực tiếp do người điều khiển) có khả năng dư thừa bốn lần, vẫn còn làm theo mệnh lệnh của gã nếu gã không cưỡng ép máy bay quá sức. Lúc gã trải qua khóa huấn luyện sơ cấp để lái tiêm kích Hornet tại NAS Lemoore (NAS: Naval Air Station, căn cứ không quân Hải quân) và khóa huấn luyến cao cấp ở NAS Fallon, người ta đã nói qua là chiếc Super Hornet bền bỉ như thế nào rồi. Quả thật, chiếc máy bay này thật xứng với danh tiếng có thể chịu đòn của nó.
                   
                  Tuy nhiên, cho dù khung máy bay được chế tạo bền chắc như thế nào, các hệ thống được thiết kế thừa khả năng ra sao cũng đã không cứu mạng gã Poker được. Rob đã trông thấy quả tên lửa không-đối-không Trung quốc đâm thẳng vào buồng kính của chiếc Hornet của Poker, khiến cả phần buồng lái của chiếc tiêm kích ấy nổ tung thành mảnh vụn titanium. Và Rob đã đảo chiếc Hornet của chính mình quay lại nhanh chóng để thấy phần còn lại của chiếc máy bay của viên phi công dẫn đội của gã đâm vào biển.
                   
                  Không có ghế lái được bắn ra. Không có chiếc dù nào mở bung ra. Mà gã cũng không nghĩ là sẽ thấy dù. Gã đã biết ngay khi quả tên lửa đánh trúng rằng Owen ‘Poker’ Dowell đã chết rồi.
                   
                  Nhưng mà tâm tư đau buồn vừa thoáng qua tâm trí của Rob đã tan biến ngay. Gã đã quay sự chú ý và phẫn nộ vào lũ con hoang Trung quốc đã vừa bắn gục bằng hữu và thầy của gã.
                   
                  Rob không rõ vì sao đám phi công Trung quốc lại khai hỏa. Đây chỉ là một cuộc bay chặn thông lệ: hai chiếc F-18 của Hải quân chặn hai cặp Bogies ở phần rìa của vòng đai phòng thủ 480 km của toán tuần tra không phận.
                   
                  Họ đã đến gần đối phương đủ để nhận diện chúng là những chiếc J-15 Trung quốc, xác nhận báo cáo của chiếc E-2D Hawkeye đang thi hành nhiệm vụ cảnh báo sớm cho phi đoàn của tàu sân bay Midway.
                   
                  Trong suốt tuần qua, đã có ít nhất là hằng chục vụ ngăn chặn như vậy, khi mà quân Trung quốc thăm dò vòng đai phòng thủ 480 km của chiếc USS Midway. Nhưng mà đám Bogies Trung quốc luôn luôn quay đầu đi và chưa từng có dấu hiệu bất ổn nào cả.
                   
                  Thế rồi chúng lại bắn hạ Owen Dowell không một lời cảnh báo. Trước đó không có ra-đa phát sóng mạnh lên, không có cảnh báo bị hệ thống kiểm soát vũ khí tỏa định gì hết. Chỉ có một quả cầu lửa đột ngột khi gã Poker lảnh một quả tên lửa ngay vào mặt. Có lẽ cái này có nghĩa là quả tên lửa Trung quốc là một loại tên lửa tầm nhiệt, hay một loại nào khác không cần phải phát sóng để tìm mục tiêu, bằng không các cảm biến trên hai chiếc Super Hornet đã cảnh báo rồi.
                   
                  Rob mặc kệ các thứ chi tiết kỹ thuật. Gã chỉ chăm chú vào việc trả đũa những thằng *** giảo hoạt đã giết Poker mà thôi.
                   
                  ***
                   
                  Lúc này, trong khi bay về chiếc Midway, Rob không còn nhớ gì mấy về cuộc giao chiến nữa. Gã biết mình đã bắn hạ hai Bogies và làm thiệt hại một chiếc thứ ba. Gã biết mình đã dính đạn trong lúc hỗn chiến.
                   
                  Gã biết hai cánh trống rỗng không còn một món vũ khí và khẩu súng 20 mm hết sạch đạn rồi. Phần lớn chi tiết của cuộc cẩu chiến (*) đã phai nhạt cùng với cơn phẫn nộ, nhưng mà gã quả thật đã bắn hết sạch thùng đạn vào lũ con hoang kia rồi.
                   
                  (* ND: cẩu chiến, dogfight. Từ này bắt nguồn từ Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918) để dùng chỉ chiến đấu giữa máy bay. Khi chiến đấu, hai bên đều tìm cách tiến vào yếu điểm của đối phương, tức là sau lưng; do đó, cả hai sẽ thi hành những động tác nhào lộn, truy đuổi, … rất giống hai con chó đánh nhau. Ngày nay, chiến đấu trên không vẫn không mấy thay đổi: sau khi bắn xong tên lửa điều khiển bằng ra-đa ở tầm xa, hai bên sẽ dùng đến tên lửa tầm nhiệt, rồi súng. Khi lọt vào tầm tên lửa tầm nhiệt, chính là lúc bắt đầu cẩu chiến. Máy bay tiêm kích được thiết kế để thay đổi tư thế và phương hướng nhanh hơn, để mau chóng tìm đến yếu điểm của đối thủ: sau lưng)
                   
                  Gã kiểm tra khoảng cách với tàu sân bay. Đã đến giờ báo cáo rồi. Do đó, gã bấm nút nói. “Tấn Công. Hai Không Chín ở 84. Một động cơ, tình trạng bốn chấm ba.”
                   
                  Bản báo cáo của gã, đối với người không ở trong nghề phi hành thì có vẻ như mật mã, nhưng lại cho bộ chỉ huy Tấn Công mọi thứ mà họ cần biết: Monk đã ở 84 km cách chiếc tàu sân bay, chỉ còn một động cơ và 4,300 cân nhiên liệu.
                   
                  Tấn Công trả lời lập tức. “Roger, Hai Không Chín. Nháy Ident (**) đi.”
                   
                  Monk bật nút cho hệ thống IFF phát ra mạnh thêm (** IFF: Identification Friend-Foe, nhận diện bạn hay địch. Mọi máy bay quân sự đều có trang bị thiết bị phát tín hiệu để nhận diện địch-bạn). Như thế, ký hiệu của máy bay gã sẽ thoáng nhấp nháy trên màn hình theo dõi trên tàu sân bay, để xác nhận lai lịch của gã và làm cho máy bay của gã dễ được theo dõi hơn trong các ký hiệu ra-đa hỗn loạn trên bầu trời nhộn nhịp.
                   
                  Gã lại kiểm tra tình trạng nhiên liệu. Thật là khít khao. Một chiếc Super Hornet mạnh khỏe sẽ đốt khoảng 1.100 cân dầu trong một lần hạ cánh bình thường. Monk không rõ mức tiêu thụ dầu hiện tại của mình, nhưng mà máy bay của gã rõ ràng là không được mạnh khỏe rồi và mức tiêu thụ dầu chắc chắn sẽ cao hơn bình thường.
                   
                  Gã đã sống sót qua cuộc cẩu chiến và đã cà nhắc lết về nhà. Lẽ nào đã đến gần tàu sân bay đến thế, để rồi hết dầu trước khi hạ cánh? Như thế, không phải là mỉa mai lắm sao?
                   
                  Gã không có cách nào biết được khung máy bay bị hư hại đến đâu, hay lồng kính có mở ra hay không nếu gã phải nhảy dù. Nếu lồng kính bị kẹt, chiếc ghế ngồi có trang bị động cơ phản lực nhiên liệu đặc sẽ dập gã vào lớp nhựa acrylic trong và dày với một gia tốc 13G. Y như lời gã Poker đã chết thường nói, ‘cục thịt băm đặt trên đường xa lộ cao tốc’.
                   
                  Gã lắc đầu thật nhanh để làm tâm trí trong sáng một chút. Đã đến lúc ngừng suy tư về những thứ tệ hại có thể xảy ra. Gã phải tập trung vào việc duy trì chiếc máy bay trên không trung. Bay, định hướng, liên lạc. Đó là những thứ mà gã cần làm. Bay, định hướng, liên lạc. Quên đi những thứ có thể lấy mạng mình.
                   
                  ***
                   
                  Tiếng nói của phi đoàn trưởng vang lên trên điện đài. “Hai Không Chín, Barnstormer đây. Được rồi anh bạn, bắt đầu danh sách nhé.”
                   
                  Trên tàu sân bay, Chuck ‘Barnstormer’ Barnes đang cầm một quyển NATOPS chỉ dẫn và liệt kê các tiết mục cần kiểm tra cho tiêm kích F/A-18E. Như mọi phi công trong Hải quân khác, Monk có một bản bỏ túi của quyển sách này trong buồng lái, nhưng nội dung của bản liệt kê được soạn ngắn lại tới mức tối thiểu để có thể sử dụng nhanh chóng và dễ dàng. Điều khiển một chiếc máy bay phản lực không chừa lại cho bạn bao nhiêu thời giờ để mà đọc những bài viết kỹ thuật dài lê thê, do đó các tình huống bị hư hại nhiều nơi không được ghi vào đó. Các trường hợp khẩn cấp cở lớn phải dùng đến quyển NATOPS nguyên bản, và Chuck Barnes đã sẵn sàng dìu dắt Monk qua bản liệt kê những thao tác kiểm tra và các phương sách khẩn cấp.
                   
                  Sau khi đã làm xong tất cả những gì có thể làm qua bản liệt kê ấy, Monk đã bay đến địa điểm cách tàu 40 km. Bây giờ là lúc chuyển qua Trung Tâm Kiểm Soát Không Lưu.
                   
                  Gã lại bấm nút nói. “Marshal, Hai Không Chín cách bốn không. Một động cơ, ba chấm bảy.”
                   
                  “Roger một động cơ.” Marshal đáp. “Chúng tôi sẽ đưa bạn đến trực tiếp.”
                   
                  Đây là một quyết định làm gã cảm thấy an ủi, mặc dù là đương nhiên. Monk được cho phép vượt qua phương thức bay để kiểm soát thông lưu, được gọi là ‘stack’ (đống: máy bay bay vòng, hay xếp hàng chờ hạ cánh, theo một thứ tự ưu tiên nào đó, như tình trạng nhiên liệu, cấp bực hành khách, v.v.) và trực tiếp tiến hành quá trình hạ cánh.
                   
                  Gã đã không còn đủ nhiên liệu để đợi chờ đến phiên trong stack nữa, cho dù là gã không phải bay chỉ với một động cơ. Như thường lệ, có một chiếc máy bay tiếp tế dầu đang bay quanh tàu sân bay ở độ cao 3.000 bộ. Thể lệ thông thường là hẹn gặp nhau với chiếc máy bay tiếp tế dầu, chuyển vào một ít dầu, rồi mới tiến hành hạ cánh với một lượng dầu an toàn. Tuy nhiên một trong những dấu hiệu màu đỏ đang nhấp nháy trên màn hình của Monk cho gã biết rằng nhiều thành phần trong hệ thống dầu của chiếc Super Hornet, kể cả ống tiếp dầu có thể co ra thụt vào, đã không vượt qua kiểm tra. Quyết định không mạo hiểm tiếp dầu đã được cấp trên đặt ra rồi.
                   
                  ***
                   
                  Khi còn cách xa 8 km, Monk chỉ còn lại 3.200 cân dầu. Rõ ràng là gã sẽ phải móc dính ngay tại lần đầu hạ cánh. Nếu gã móc hụt sợi cáp trong lần đầu, có thể là gã còn đủ dầu để thử lần thứ hai. Nhưng mà chắc chắn người ta sẽ phải căng lưới cho lần thứ hai.
                   
                  (ND: máy bay đáp xuống tàu sân bay được trang bị một móc thép; tàu sân bay có ba sợi cáp để máy bay hạ cánh và một tấm lưới để cản máy bay nếu cần. Tuy nhiên dùng lưới sẽ làm máy bay hư hại, nên nếu không móc được ba sợi cáp, phi công sẽ thử quay lại và hạ cánh lần nữa. Lưới chỉ để dùng trong trường hợp khẩn, khi máy bay bị hư hại hệ thống hạ cánh hay phi công bị thương.)
                   
                  Không một phi công Hải quân nào lại muốn hạ cánh kiểu ấy cả, khi mà máy bay của mình bị lưới ny-lông chụp cứng như một con ruồi sa lưới nhện. Tuy hạ cánh như thế không hay tý nào, nhưng cũng còn đỡ hơn là phải nhảy dù.
                   
                  Bây giờ thì chiếc tàu sân bay đã ở trong tầm mắt, một khối đen nhỏ nơi xa.
                   
                  Khi còn cách 1,2 km Monk trông thấy quả ‘banh’, tên gọi bộ đèn màu Fresnel của hệ thống đáp máy bay. Quả bóng vàng cam nằm hơi phía dưới dãy đèn xanh lục nằm ngang, cho thấy là gã đang ở vị trí hơi thấp, nhưng hướng bay thì tốt.
                   
                  Gã tăng thêm lực vào cái động cơ còn lại và bấm nút nói. “Marauder Hai Không Chín, Super Hornet ‘banh’, hai chấm tám, một động cơ.”
                   
                  Viên sĩ quan chỉ huy hạ cánh đáp. “Roger ‘banh’.”
                   
                  Chiếc tàu sân bay chỉ vài phút trước còn trông nhỏ xíu bây giờ đang to lên nhanh chóng, nhưng Monk tập trung vào quả banh, hướng tiếp cận và góc độ máy bay. Quả banh, phương hướng, góc độ. Không còn gì khác. Giống y như khi huấn luyện vậy. Quả banh… Phương hướng… Góc độ…
                   
                  Thanh âm của viên sĩ quan chỉ huy hạ cánh vang lên trong tai nghe. “Thêm chút sức lực.”
                   
                  Monk ấn cần tăng thêm lực vào động cơ và máy bay của gã bay thẳng lại một chút. Vài giây sau, bánh xe của gã đâm sầm xuống sàn tàu. Gã lập tức nhấn cần tăng lực, cái động cơ duy nhất còn lại hú lên hết mức để dự trù trường hợp gã bắt hụt các sợi cáp và phải bốc lên lại.
                   
                  Móc thép sau đuôi bắt được sợi cáp thứ hai. Không phải là một cuộc hạ cánh hoàn hảo gì, nhưng cũng được. Thân thể gã lao ra phía trước chống lại dây an toàn trong khi sợi cáp làm chiếc máy bay giảm tốc độ, rồi khiến nó ngừng hẳn lại.
                   
                  Gã đã hạ cánh rồi.
                   
                  Một gã thủy thủ mặc sơ-mi vàng chạy về phía gã, ra hiệu giảm lực động cơ. Monk hạ lực động cơ xuống trở lại bình thường và tiếng nói của sĩ quan không lưu vang lên trong tai. “Hai Không Chín, Boss đây. Chúng tôi sẽ tắt máy cho anh ngay bây giờ.”
                   
                  Monk tiếp nhận lệnh tắt máy, ra hiệu đã hiểu khi gã sơ-mi vàng ra dấu đã chêm bánh, rồi tắt máy. Sự yên lặng trong buồng lái làm gã cảm thấy như bị điếc.
                   
                  Toán nhân viên trên sân bay đã bắt đầu xông đến máy bay của gã, lái xe kéo đến để lôi chiếc máy bay bị thương của Monk về vị trí đậu đã được chỉ định.
                   
                  Thế rồi, với chiếc máy bay đã đáp xuống an toàn, bàng quang của Monk xả ra và gã tiểu tiện ngay trong bộ đồ phi hành.
                   
                  Thế này thì hay rồi… Rồi đây gã sẽ nghe kể về chuyện này cho đến hết sự nghiệp của mình. Sẽ không ai nhắc nhở gì đền hai chiếc Bogies mà gã đã bắn hạ, hay chiếc thứ ba mà gã đã bắn thủng lỗ chỗ, hay việc mà gã duy trì một chiếc máy bay hư hại nặng nề trên không suốt 480 km rồi thành công một cuộc hạ cánh khó khăn. Gã sẽ chỉ nghe người ta nói đến chuyện gã đái dầm trong tả.
                   
                  Tuy nhiên không ai nhắc đến bộ đồ phi hành sủng nước tiểu. Không ai chế nhạo gã đã đái dầm. Không ai có ý đổi biệt hiệu của gã thành ‘Cái Bô’ hay ‘Thằng mặc tả’. Nếu mà sự kiện Rob không kiểm soát được bàng quang của mình được người ta bàn thảo qua, thì gã không nghe qua bao giờ.
                   
                  Mà không ai còn gọi gã là tay mơ nữa.
                   
                  #39
                    Quang11 09.09.2016 02:05:32 (permalink)
                    0
                    Chương 37
                    Phòng Tình Huống, Nhà Trắng
                    Washington D.C.
                    Chủ Nhật, 30 tháng 11, 20:33 giờ địa phương
                     
                    Tổng thống Wainright bước vào phòng Tình Huống, một nhân viên Mật Vụ theo sau. Gã Mật Vụ tiến đến vị trí thường lệ của gã trong góc phòng, còn tổng thống thì ngồi vào ghế của ông. “Có ai làm ơn cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra không?”
                     
                    Viên Sĩ Quan trực hé miệng, nhưng Đô Đốc Casey, Tham Mưu trưởng Hải quân, dành trả lời. “Đã có một cuộc không chiến xảy ra trên bầu trời Vịnh Bengal, thưa ngài tổng thống. Hai chiếc F/A-18 Super Hornet cất cánh từ chiếc USS Midway được điều đi xua đuổi bốn chiếc J-15 tiêm kích xung kích của Trung quốc cất cánh từ chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh. Máy bay từ chiếc Midway đã từng bay phi vụ ngăn chặn như vậy cả 10 hay 12 lần rồi, trong suốt tuần qua. Cho tới nay, các phi vụ này đều kết thúc yên lành, các tiêm kích Trung quốc luôn luôn quay đầu trở về, ngay khi những chiếc Hornet xuất hiện.”
                     
                    “Chúng tôi không rõ tại sao lần này lại khác.” Ông ta nói tiếp. “Chúng ta chỉ biết chắc một điều là các chiếc J-15 đã khai hỏa vào Hornet của chúng ta và một cuộc không chiến diễn ra. Một trong những chiếc Hornet bị bắn rơi và chiếc kia bị hư hại ít nhiều, nhưng bay về an toàn. Ít nhất là hai máy bay Trung quốc bị tiêu diệt. Một chiếc máy bay Trung quốc thứ ba bị hư hại, nhưng vẫn còn bay khi nó vượt qua khỏi tầm ra-đa của chúng ta. Như vậy, có lẽ chiếc đó không bị bắn rơi.”
                     
                    Tổng thống nhìn trừng vào Tham Mưu trưởng Hải quân. “Chúng ta có chắc chắn rằng phi công của chúng ta không khai hỏa trước chứ?”
                     
                    Bộ trưởng Quốc Phòng (BTQP), bà Mary O’Neil-Broerman, đáp. “Hoàn toàn chắc chắn. Chúng ta có báo cáo của gã phi công Hornet còn sống sót, mà lời tường thuật của gã đã được xác nhận bởi dữ liệu từ hệ thống cảm biến trong máy vi tính trên máy bay của gã. Nó còn được chứng thực bởi dữ liệu được chiếc E-2D Hawkeye khi ấy đang thi hành nhiệm vụ cảnh báo sớm, thu được. Chính tôi chưa thấy qua các dữ liệu ấy, thưa ngài, nhưng chúng tôi được báo cáo trực tiếp từ đô đốc Zimmerman rằng dữ liệu do ra-đa của chiếc Hawkeye thu được không nghi ngờ gì cho thấy máy bay Trung quốc tấn công không cảnh báo, lẫn khiêu khích. Một chiếc Super Hornet của chúng ta bị tiêu diệt vì quả tên lửa đầu tiên. Chiếc Hornet kia tiếp chiến và đuổi tiêm kích Trung quốc chạy mất.”
                     
                    Tổng thống nhướng một bên lông mày. “Phi công của chúng ta một đối bốn mà dành được thượng phong sao?”
                     
                    Bà BTQP gật đầu. “Vâng, thưa ngài. Tôi được nghe từ nguồn tin chính xác là gã đã đạp một cước thật đau vào đít của cả bốn tên.”
                     
                    “Ừ, nghe có vẻ là thế thật.” Ông tổng thống nói. Giọng ông đã trở nên bình ổn hơn. Ông hỏi. “OK, vậy chúng ta phải làm gì đây?”
                     
                    Lần này, Tham Mưu trưởng Hải quân lên tiếng. “Thưa ngài tổng thống, ngay lúc này, chiếc USS Midway đã gia tăng số phi vụ tuần hành tác chiến lên gấp đôi và nới rộng vòng đai phòng thủ ra thêm 30 km. Ngoài ra, các chiến hạm hộ vệ trong nhóm đang ở trong tình trạng báo động cao và được phép khai hỏa vào mọi mục tiêu trên không nghi ngờ là thù địch nếu chúng phớt lờ cảnh báo qua điện đàm và tìm cách xuyên qua vòng phòng ngự của tàu sân bay.”
                     
                    Không ai quanh bàn bình luận gì về sự kiện cái từ ‘mục tiêu’ lần đầu tiên đi vào buổi nói chuyện.
                     
                    “Tôi rõ rồi.” Tổng thống nói. “Các phương án ấy có đủ để bảo vệ chiếc tàu sân bay của chúng ta chưa?”
                     
                    “Nói thật ra, thưa ngài, có lẽ như thế chưa đủ.” Tham Mưu trưởng Hải quân đáp. “Nhưng mà chúng ta chỉ có đi đến mức ấy, nếu không muốn các lực lượng của chúng ta tiến vào tư thế tấn công.”
                     
                    Tổng thống quay sang ông ta. “Đô đốc đề nghị những gì?”
                     
                    Viên đô đốc mím môi. “Cho phép tôi nói thẳng, thưa ngài. Quân của chúng ta bây giờ đầu óc như trong sương mù vậy. Nếu muốn cho họ chiến đấu, chúng ta nên tháo xiềng cho họ và để họ đưa chiến cuộc vào địa bàn đối phương. Nếu không muốn họ chiến đấu, chúng ta nên rút họ ra khỏi khu vực ấy trước khi càng thêm nhiều người thiệt mạng bởi những cái gọi là lực lượng trung lập. Xin thứ cho tôi ví von không đúng chỗ, nhưng mà chúng ta hoặc là lưới cá, hoặc là cắt đứt lưới đi, thưa ngài. Mình không thể nào chiến thắng khi mà cứ chờ cho đối thủ bắn vào đầu mình, rồi mới quyết định có nên bắn trả hay không.”
                     
                    “Cái này… chúng ta không hề dự định là một cuộc hành quân tác chiến.” Tổng thống nói. “Chúng ta cho nhóm của chiếc Midway vào vịnh Bengal là để tạo ảnh hưởng ổn định tình hình.”
                     
                    “Nếu vậy, tôi nghĩ chúng ta không sai khi nói rằng dự tính này đã không thành công rồi, thưa ngài.” Đô đốc nói. “Sự hiện diện của chiếc Midway không hề ngăn cản quân Trung quốc đánh tơi tả chiếc tàu sân bay Ấn Độ. Nó cũng không ngăn được bọn chúng thử đột phá không phận tàu sân bay của chúng ta. Và nó cũng không ngăn chúng khai hỏa vào phi tuần phòng thủ của ta. Tôi không biết chúng ta đạt được những gì ở đó, nhưng mà chắc chắn là chúng ta không hề ổn định tình hình chút nào cả.”
                     
                    Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, đại tướng Lục quân Horace Gilmore, chỉnh lại cặp kính cận, nói. “Tôi cũng đồng ý, thưa ngài tổng thống. Người Trung quốc không có vẻ gì là để ý đến ổn định cả. Chúng đã khai hỏa vào Hải quân của chúng ta và Ấn Độ. Và bây giờ chúng lại có một vệ tinh chuyên dùng cho khu vực này, để quan sát mọi hành động của chúng ta. Mỗi khi chúng ta phóng một chiếc trực thăng hay tiếp dầu cho một chiếc chiến hạm, chúng đều thấy cả. Theo như tôi thấy, thưa ngài, chúng đang chuẩn bị tác chiến cường độ lớn đó!”
                     
                    “Chúng ta không thể khẳng định điều đó.” Tổng thống nói. “Ngay bây giờ, tất cả chỉ là phỏng đoán mà thôi.”
                     
                    “Ngài nói đúng.” Bà BTQP nói. “Chúng ta không nói chắc được. Nhưng có lẽ chúng ta sẽ không nhận được dữ liệu xác định cho đến khi đã quá muộn. Lời Đô đốc Tham Mưu trưởng nói là đúng, thưa ngài tổng thống. Nếu ngài chờ bên kia bắn ngài ngay vào mi tâm, có thể ngài không còn kịp bắn trả đâu.”
                     
                    Tổng thống lắc đầu. “Tôi sẽ không để bất cứ ai uy bức tôi làm một quyết định hấp tấp đâu.”
                     
                    Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia lên tiếng. “Thưa ngài, lập ra chính sách quân sự không phải là phần hành của tôi, mà tôi cũng không muốn ép ngài làm điều gì cả. Nhưng mà đây là một trường hợp mà chúng ta không có quyền lựa chọn thời gian.”
                     
                    Tổng thống quay sang hắn. “Anh muốn nói gì vậy, Greg?”
                     
                    Brenthoven liếc nhìn đồng hồ trên tay. “Cho phép tôi nhắc ngài là chính phủ Ấn Độ dự tính tiến hành vụ tập kích Shiva của họ vào đập nước Tam Hiệp chỉ 45 giờ nữa thôi. Nếu mà phản ứng của Trung quốc chỉ cần gần như chúng ta tưởng tượng, có lẽ viễn ảnh trước mắt là một trận giao đấu vũ khí hạt nhân tầm mức lớn ở vùng nam và đông Á châu đó!”
                     
                    “Tôi không có quên đâu!” Tổng thống gắt lên. “Tôi chỉ muốn tập trung vào vụ khủng hoảng mà thôi.”
                     
                    “Tôi hiểu rồi.” Brenthoven nói. “Nhưng mà tôi không nghĩ chúng ta có thể tách rời vụ này khỏi vụ kia được. Bất cứ chuyện gì chúng ta làm cho, với, hay chống lại Trung quốc đều sẽ ảnh hưởng đến Ấn Độ. Bất cứ chuyện gì chúng ta làm cho, với, hay chống lại Ấn Độ đều sẽ ảnh hưởng đến Trung quốc. Mà nếu chúng ta cố gắng giữ nguyên trạng, Ấn Độ sẽ tiến hành kế hoạch tàn phá trung tâm Trung quốc.”
                     
                    Brenthoven giơ một bàn tay lên, cả năm ngón xòe ra. “Theo tôi thấy, chúng ta có năm phương cách để tiến hành…”
                     
                    Hắn gập một ngón tay lại. “Thứ nhất, chúng ta không làm gì cả và hi vọng rằng Ấn Độ chỉ lừa phỉnh về vụ tập kích đập nước Tam Hiệp. Dĩ nhiên, nếu họ thật ra không lừa phỉnh, nhóm của chiếc USS Midway sẽ nằm khá gần nơi trung tâm khi mà các đầu đạn hạt nhân bắt đầu bay loạn xạ.”
                     
                    Hắn gập ngón thứ nhì. “Thứ hai, chúng ta tích cực thử ngăn vụ tập kích của Ấn Độ vào đập Tam Hiệp. Điều này có nghĩa là trực tiếp hành động quân sự chống lại Ấn Độ. Nó cũng có nghĩa là để cho Hoa Kỳ liên kết với Trung quốc, kẻ xâm lược trong cả vụ rối rắm này.”
                     
                    Ngón tay thứ ba hạ xuống. “Thứ ba, chúng ta tiết lộ kế hoạch tập kích đập Tam Hiệp cho chính phủ Trung quốc và tin tưởng rằng Trung quốc sẽ bảo vệ được cái đập nước ấy. Điều này có nhiều may rủi vì nhiều nguyên nhân, trong số đó chính là chính phủ Ấn Độ sẽ biết ngay chúng ta chính là kẻ đã tiết lộ ra. Điều này chỉ kém trực tiếp tập kích Ấn Độ mà thôi, nhưng chắc chắn sẽ đưa Hoa Kỳ vào thành phần ‘kẻ địch’.”
                     
                    Hắn gập ngón thứ tư. “Thứ tư, chúng ta đồng ý với Ấn Độ và tham dự vào bên phe Ấn Độ. Điều này có nghĩa hành động quân sự trực tiếp chống lại Trung quốc, nhưng ít ra chúng ta cũng không đi theo phe xâm lược. Hơn nữa, bởi vì Trung quốc đã tấn công lực lượng của chúng ta mà Ấn Độ thì không có, do đó điều này hợp lý hơn trên phương diện chính trị và ngoại giao.”
                     
                    Ngón cuối cùng cũng gập xuống. “Thứ năm, chúng ta rút mọi lực lượng ra khỏi vùng ngay tức khắc và hi vọng rằng sẽ không có những cụm mây hình nấm cùng khắp Á châu vào giờ này tuần tới.”
                     
                    Brenthoven hạ tay xuống. “Thưa ngài tổng thống, e rằng tôi phải nói là đại tướng Gilmore, đô đốc Casey và bà bộ trưởng đã nói đúng. Bây giờ là lúc hành động quyết liệt, hay rút khỏi nơi ấy và cầu nguyện mọi sự sẽ êm đẹp.”
                     
                    Tổng thống Wainright xoa nắn hai bên thái dương. “Anh nói là tôi đã bị đẩy vào góc tường rồi và không có giải pháp nào tốt cả sao?”
                     
                    Bà BTQP lắc đầu. “Hoàn toàn không phải, thưa ngài tổng thống. Chúng tôi muốn nói là hoàn cảnh đã đẩy chúng ta vào một góc tường rồi và chúng ta không có một phương án nào hấp dẫn cả. Chúng ta có nhiều lựa chọn, thưa ngài. Ngài có nhiều lựa chọn. Tiếc thay, chẳng qua chúng không phải là những lựa chọn mà chúng ta mong muốn vào lúc này thôi.”
                     
                    “Thì cũng như thế cả.” Tổng thống nói.
                     
                    Đại tướng Gilmore nhíu mày, nói. “Không phải bao giờ chúng ta cũng có thể lựa chọn chiến trường. Nhưng chúng ta vẫn có thể lựa chọn sẽ chiến đấu như thế nào và chiến đấu chống lại kẻ nào. Điều này không có nghĩa là chúng ta có thể cưỡng ép người nào trở thành đồng minh của mình, nhưng nó có nghĩa là chúng ta có thể làm họ hối hận đã trở thành kẻ địch của chúng ta.”
                     
                    Tổng thống phất tay. “Thôi được rồi. Hùng hổ như thế là đủ rồi. Như vậy đề nghị của mọi người là chúng ta về phe người Ấn Độ.”
                     
                    “Thưa ngài, vâng ạ.” Viên đại tướng nói. “Hoặc là như thế, hoặc là rút chân ra khỏi khu vực ấy và hụp đầu xuống để tránh đạn cho tới khi người Ấn Độ và Trung quốc giải quyết xong vụ lộn xộn của họ.”
                     
                    Ông tổng thống ngồi yên không nói năng gì suốt nhiều phút. Sau cùng, ông chồm người ra phía trước và chống cùi chỏ lên bàn họp. “Tôi chưa sẵn sàng quyết định gì cả. Tôi phải suy nghĩ đã.”
                     
                    “Chúng ta không có nhiều thời gian đâu, thưa ngài.” Viên Tham Mưu Trưởng Hải quân nói.
                     
                    “Tôi cũng hiểu được điều đó.” Tổng thống nói. “Các vị đã nhấn mạnh điểm này thật rõ rồi. Nhưng đây là một quyết định khổng lồ với nhiều ảnh hưởng sâu xa. Tôi không thể nào làm quyết định như thế trong lúc nhất thời được.”
                     
                    “Đã hiểu.” Bà BTQP nói. “Nhưng mà tôi có một kiến nghị trong khi ngài nghiền ngẫm vấn đề này.”
                     
                    “Kiến nghị gì?” Tổng thống hỏi.
                     
                    “Tôi nghĩ chúng ta nên cho phép Hải quân bắn hạ cái vệ tinh kia của Trung quốc.” Bà BTQP đáp. “Nếu ngài quyết định rút lui khỏi khu vực, việc này giúp chúng ta chuyển quân an toàn hơn nhiều. Còn nếu ngài quyết định chiến đấu, chắc chắn là chúng ta không muốn cái vật ấy tòn ten trên không phận vùng chiến.”
                     
                    Tổng thống Wainright đảo mắt quanh phòng, lặng lẽ trưng cầu ý kiến của mọi người. Mọi người đều gật đầu.
                     
                    “Được lắm.” Ông nói. “Làm thế đi. Bắn cái vật khốn kiếp ấy xuống.”
                     
                    #40
                      Quang11 09.09.2016 02:08:09 (permalink)
                      0
                      Chương 38
                      Khu Trục hạm USS Towers (DDG-103)
                      Vịnh Bengal
                      Thứ Hai, 1 tháng 12, 11:27 giờ địa phương
                       
                      Trung Úy Lambert, viên sĩ quan phụ trách Hệ Thống Tác Chiến cho chiến hạm, bước vào phòng hành quân CIC và tiến thẳng đến nơi Đại Tá Bowie và Trung Tá Silva đang đứng.
                       
                      “Mọi thứ tốt đẹp, thưa hạm trưởng.” Lambert nói. “Đắp vá phần mềm đã được nạp vào rồi và ra-đa SPY đã được khởi động lại và vận hành tốt.”
                       
                      ‘Đắp vá’ là một chương trình phần mềm để sửa đổi tham số vận hành của hệ thống ra-đa AN/SPY-1D(V)2 của chiến hạm khiến nó có thể theo dõi mục tiêu ở cao độ quá 61 km. Với một công xuất hơn 4 megawatt, được điều hành bởi một hệ thống vi tính đa năng, SPY có thừa khả năng phát hiện những vật thể từ mặt địa cầu cho đến quỹ đạo thấp. Ngoài các vệ tinh gần mặt đất, hệ thống này còn có thể theo dõi bất cứ loại rác không gian nào đủ lớn để ra-đa có thể phát hiện. Bởi vì có khoảng 10 triệu vật thể nhân tạo bị vứt bỏ trong không gian trong suốt nửa thế kỷ phóng phi thuyền có người hay không có người, điều này có thể làm màn hình ra-đa bị ngập tràn bởi những phát hiện vô ích.
                       
                      Để tránh cho các dữ liệu vô dụng ấy áp đảo các nhân viên ra-đa, phần mềm của radar SPY chứa một chương trình con để cưỡng ép hệ thống bỏ qua mọi phát hiện ở cao độ hơn 61 km khi hoạt động bình thường. Trong những trường hợp hiếm hoi phải theo dõi các vật thể trong không gian, người ta phải dùng đến phần mềm ‘đắp vá’: một mã chương trình nhỏ có thể nạp vào hệ thống để tháo gỡ rào cản điện tử cho SPY, khiến cho ra-đa có thể nhìn thấy đến tận mức khả năng của nó.
                       
                      Báo cáo của viên sĩ quan hệ thống tác chiến xác nhận rằng việc này vừa được làm xong. Đắp vá phần mềm đã được nạp vào hệ thống, SPY có thể hoạt động thỏa sức và bây giờ có thể theo dõi những mục tiêu trong không gian.
                       
                      Đại tá Bowie gật đầu. “Làm hay lắm. Phải mất bao lâu chúng ta mới có thể theo dõi Redbird 1?”
                       
                      “Có lẽ không lâu đâu.” Viên trung úy đáp. “Có lẽ SPY đã bám chặt vào nó rồi, nhưng nhân viên của chúng ta còn cần 15 phút để tìm ra con cừu trong bầy dê và xác định mục tiêu.”
                       
                      ****
                       
                      Các nhân viên Truy Tìm Không Gian mất 8 phút mới nhận định được ký hiệu ra-đa tương ứng với chiếc vệ tinh thám sát của Trung quốc, và thêm 12 phút nữa để kiểm tra vị trí và lộ tuyến của mục tiêu với dữ liệu mà Không Quân cung cấp.
                       
                      Cuối cùng, viên sĩ quan chỉ huy nhóm Không gian vang lên trong mạng thông tin chiến thuật. “TAO, Không gian đây. Chúng tôi đã theo dõi Redbird 1 với mức tin cậy cao. Mục tiêu này được chỉ định là Lộ Tuyến Không Không Một.”
                       
                      Viên sĩ quan Tác Chiến (tactical action officer, TAO) bấm nút nói. “TAO, aye.”
                       
                      Viên TAO quay sang đại tá Bowie. “Đã khóa vào mục tiêu và đang theo dõi, thưa Đại Tá. Xin phép cho khai hỏa.”
                       
                      Đại tá mỉm cười. “Anh hoàn toàn chắc chắn là chúng ta đang theo dõi đúng vệ tinh, phải không? Bởi vì, nếu tôi hạ lệnh mà chúng ta cắt ngang chương trình truyền hình thiếu nhi Disney Channel, tôi sẽ vĩnh viễn không dám ló mặt ở câu lạc bộ sĩ quan nữa đâu. Còn chưa nói đến các siêu thị quân đội nữa.”
                       
                      Viên TAO đáp lại với một cái nhún vai đầy kịch tính. “Tôi không dám nói là hoàn toàn chắc chắn là chúng ta đang theo dõi đúng vệ tinh. Nhưng mà gần như hoàn toàn. Như thế đã đủ chứ?”
                       
                      “Cũng đành vậy thôi.” Bowie nói. “Tốt lắm. Anh được lệnh khai hỏa.”
                       
                      Viên TAO cười toét miệng và nói vào ống nghe. “Kiểm Soát Vũ Khí, TAO đây. Xử lý Không Không Một bằng tên lửa đi.”
                       
                      “TAO, đây là Kiểm Soát Vũ Khí. Xử lý Không Không Một bằng tên lửa, aye.”
                       
                      ***
                       
                      Một cái nắp bằng thép mở tung trên sàn tên lửa ở phía sau của chiếc khu trục hạm, để lộ ra lớp màn chống mưa nắng có thể bay xuyên qua, dùng để che bên trên ống phóng tên lửa thẳng đứng. Chưa tới một phần ngàn giây sau, lớp màn ấy nát bấy khi một quả tên lửa SM-3 Block II gầm to, bay ra khỏi ống phóng và lao vào bầu trời mang theo một dãi lửa và khói.
                       
                      ***
                       
                      Trong phòng hành quân CIC, viên sĩ quan Kiểm Soát Vũ Khí bấm nút nói trên dụng cụ nghe choàng đầu. “TAO, Kiểm Soát Vũ Khí đây. Chim đã rời ổ, không thấy trục trặc gì.”
                       
                      Khi gã lên tiếng, tiếng gào rú của quả tên lửa đang tan đi rồi.
                       
                      ***
                       
                      Tên lửa SM-3: phần động cơ đẩy phụ tầng một hoạt động 6 giây trước khi cạn nhiên liệu và được thả ra, để lộn nhào xuống biển. Kịp lúc động cơ phản lực của tầng thứ hai được kích hoạt, quả tên lửa đã vượt qua tầng đối lưu và đang lao lên qua cao độ 21.300 m, nơi mà bầu trời xanh trở nên đậm màu.
                       
                      Phần đẩy tốc độ nhanh của tầng thứ hai kéo dài 7 giây, rồi quả tên lửa lướt đi gần nửa phút mà không dùng đến động cơ, vượt qua tầng tỉnh khí vào tầng giữa. Lúc này, bầu trời đã trở thành hoàn toàn đen tối và mặt phẳng của địa cầu đã biến thành mặt cong của một quả cầu.
                       
                      Tạm thời không có sức đẩy của động cơ, quả tên lửa chỉ mất một chút tốc độ thôi, bởi vì quán tính, khối lượng bị giảm do tầng một đã được thả đi và lực cản của không khí giảm sút. Mặc dù tầng điện ly còn vươn lên đến độ cao khoảng 1.126 km, phần lớn không khí của địa cầu, hơn 99% số phân tử khí đã bị bỏ lại.
                       
                      Tầng thứ hai lại kích hoạt trong 35 giây cho đến khi nhiên liệu đã bị tiêu hao hết, rồi cái vỏ của động cơ đẩy phụ tầng hai được thả đi. Đến lúc này, gần như 75% khối lượng của quả tên lửa đã bị sử dụng và vứt bỏ rồi.
                       
                      Phần điều khiển của tên lửa định vị bằng GPS và thực hiện vài chỉnh sửa nhỏ cho lộ tuyến của tầng động cơ phản lực thứ ba. Tầng này cũng được thiết kế để kích hoạt hai lần: lần đầu dùng sức đẩy mạnh và lần sau dùng sức đẩy nhẹ hơn kèm với những điều chỉnh cuối cùng cho lộ trình.
                       
                      Tầng ba không tự động tách rời ngay khi lần đẩy thứ nhì chấm dứt. Thay vì thế, máy điện toán trong tên lửa kích hoạt những động cơ phản lực nhỏ để điều chỉnh góc bay khiến cho mũi của tên lửa hướng xuống phía dưới, chếch khỏi đường bay. Một loạt khối chất nổ nhỏ xíu đồng thời được kích hoạt, cắt đứt cái vòng giữ đầu tên lửa hình nón vào thân tên lửa. Trong chốn không gian gần như chân không này, cái mũ chụp giúp tên lửa xuyên qua không khí dễ hơn đã không còn cần thiết nữa. Đầu tên lửa rơi vào không khí và sẽ cháy tiêu khi quay trở vào khí quyển.
                       
                      Sau khi công tác sau cùng ấy đã được hoàn tất, các động cơ nhỏ của tầng ba lại được kích hoạt để hướng mũi của vũ khí về đúng góc độ cần thiết cho vụ đánh chặn. Mũ che hình nón đã được tách bỏ, bây giờ cái hình xuyến dài kỳ dị của chiếc Lightweight Exo-Atmospheric Projectile, LEAP (Đầu Đạn Ngoài Khí Quyển Hạng Nhẹ) hoàn toàn lộ ra.
                       
                      Viên LEAP chỉ nặng 9 kg và không chứa chất nổ. Mà nó cũng không cần chất nổ. Viên đầu đạn động lực này đang di chuyển với tốc độ hơn 9.500 km/giờ. Cộng vào tốc độ quỹ đạo của chiếc vệ tinh mục tiêu, hai vật thể đang lao vào nhau với tốc độ là 36.700 km/giờ.
                       
                      30 giây trước khi va chạm, viên LEAP tự động tách rời khỏi tầng ba của tên lửa. Cảm biến trong viên LEAP nhận định mục tiêu không chút khó khăn, xác nhận vị trí bằng GPS lần cuối và dùng một loạt điều chỉnh nhỏ bằng các động cơ phản lực của nó để tăng thêm phần chính xác cho góc độ tiếp cận mục tiêu.
                       
                      ***
                       
                       Vệ tinh Haiyang HY-3 của Trung quốc được cường hóa chống va chạm. Nó được thiết kế để có thể chịu đựng va chạm bởi những vẫn thạch siêu nhỏ và phế liệu nhân tạo. Tuy nhiên, nó không được thiết kế để có thể sống sót qua 43.5 triệu kg lực do một vật thể có khối lượng 9 kg có tốc độ tổng hợp hơn 36.000 km/giờ đem lại.
                       
                      Chính xác là 297,352 giây sau khi được phóng, viên LEAP phá tan Redbird Một bằng 130 megajoule năng lượng nhiệt động học. Nếu có ai quan sát, mắt của y sẽ bị chớp sáng lóa mắt do sự va chạm ấy làm mù ngay lập tức và không bao giờ phục hồi được.
                       
                      Tuy nhiên mọi nhân chứng đều ở 200 km bên dưới, chỉ quan sát phát va chạm qua màn hình ra-đa thôi. Các hệ thống cảm biến và màn hình chỉ ghi nhận sự kiện vệ tinh bị phá hủy, nhưng không thể nào diễn đạt được cái lực lượng khủng bố vừa bộc phát ra theo mệnh lệnh của họ.
                       
                      Trên chiếc USS Towers:
                       
                      “TAO, đây là Không Gian. Chúng tôi xác định Không Không Một đã bị đánh chặn. Chúng tôi dò thấy một cụm phế liệu đang lan rộng từ địa điểm va chạm.”
                       
                      Viên sĩ quan Hệ Thống Tác Chiến quay sang viên đại tá. “Tôi nghĩ rằng cái này có thể xem như một vụ bắn hạ thành công đó, hạm trưởng.”
                       
                      Bowie gật đầu và nhìn quanh phòng hành quân CIC cho đến khi nhìn thấy thượng sĩ Kenfield. Gã Chuyên viên tác chiến đồ sộ này đang chúi đầu vào một bản vẻ lộ trình điện tử. Đại tá Bowie chờ khi gã chú ý đến mình và gật đầu. “Này Ruộng Đồng Thênh Thang… Cho chúng ta nghe một bài đi.”
                       
                      Gã thủy thủ đồ sộ cười toét miệng. “Là mệnh lệnh sao, hạm trưởng?”
                       
                      “Chứ còn gì nữa!” Bowie nói.
                       
                      Gã thủy thủ gật đầu. “Aye-aye, hạm trưởng!” Gã tằng hắng và hít một hơi thật sâu.
                       
                      Lúc này, Trung tá Silva đã quen thuộc với tiết mục của gã chuyên viên tác chiến cấp 2 này rồi, nên biết gã sắp làm gì. Nàng nén phản ứng bịt tai.
                       
                      Nếu có thể, tiếng gào của Ruộng Đồng Thênh Thang còn to hơn lần trước nữa. Nó dường như làm cho cả không khí cũng chấn động và cũng như lần trước, nó lập tức được hưởng ứng bởi tiếng gầm rú của mọi người nam và nữ trong phòng hành quân CIC. Bowie mỉm cười hài lòng và tán thưởng.
                       
                      Khi tiếng gào dần tan đi, trung tá Silva nghiêng người qua Bowie. “Trước khi liên hoan quá mức, chúng ta nên kiểm tra xem đài truyền hình Disney Channel vẫn còn phát tuyến hay không. Nếu chúng ta vừa hạ lầm vệ tinh nào khác, cả đám chúng ta nên đổi tên họ và chuyển nhà đi thành phố khác đó!”
                       
                      #41
                        Quang11 09.09.2016 02:10:26 (permalink)
                        0
                        Chương 39
                        Nhà Trắng
                        Washington, DC
                        Thứ Hai, 1 Tháng 12, 1:09 giờ địa phương
                         
                        Tổng thống Dalton Wainright ngồi một mình trong căn phòng Bầu Dục, gập người trên bàn làm việc. Trán ông đặt trên mặt bàn gỗ được đánh bóng loáng, xưa kia đã từng là ván đóng vỏ của chiếc HMS Resolute. Chỉ ngoại trừ các tổng thống Johnson, Nixon và Ford, mọi vị tổng thống Hoa Kỳ từ năm 1880 đã dùng cái bàn giấy Resolute này, hoặc là đặt trong Phòng Bầu Dục, căn phòng làm việc của tổng thống, hoặc là trong thư phòng của tổng thống trong khu vực cư ngụ của tổng thống trong Nhà Trắng.
                         
                        Wainright ước ao có thể dùng cái bàn này để triệu hồi sự khôn ngoan của các tổng thống tiền nhiệm. Biết đâu nếu ông tập trung tư tưởng đủ mức, tri thức và sự sáng suốt của tất cả bọn họ sẽ thấu qua lớp gỗ màu nâu đỏ và truyền vào óc của ông.
                         
                        Năm 1899, tổng thống William McKinley đã ký bản hiệp ước với nước Tây Ban Nha trên chiếc bàn giấy Resolute này, chính thức kết thúc cuộc chiến giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ. Gần nửa thế kỷ sau đó, một tấm bửng ‘khiêm tốn’ được lắp vào để che khoảng trống ở phía trước vì tổng thống Franklin D. Roosevelt muốn che cặp nẹp thép kẹp đầu gối của ông khỏi ánh mắt của công chúng (ND: tổng thống Franklin D. Roosevelt có tật chân và phải ngồi xe lăn). Tuy nhiên tổng thống Roosevelt đã mất trước khi bàn giấy được sửa chữa, khiến cái bàn trứ danh và phần còn lại của Đệ Nhị Thế Chiến rơi vào tay của tổng thống Harry Truman.
                         
                        Truman đã ngồi nơi bàn giấy này trong khi khổ sở suy tư xem có nên thả bom nguyên tử vào thành phố Nhật Bản hay không. Tổng thống John F. Kennedy đã trải qua vụ Vịnh Con Heo và cơn Khủng Hoảng Phi Đạn ở Cuba từ cái bàn này và đã thành công đưa thế giới trở về từ bờ vực thẳm chiến tranh hạt nhân, mặc dù Chủ Tịch Nikita Khrushchev đã hứa hẹn rằng Liên Bang Sô Viết sẽ chôn vùi Hoa Kỳ.
                         
                        Biết bao lịch sử đã được quyết định tại cái bàn giấy này. Biết bao dự luật đã được ký thành luật lệ chính thức hoặc bị phủ quyết trên cái bàn giấy này. Tương lai của nhiều quốc gia đã được quyết định từ cái chỗ mà Dalton Wainright đang ngồi này.
                         
                        Tuy nhiên nếu cái bàn giấy này có chứa đựng một nguồn cảm hứng nào đó, thì Wainright cũng đã không thành công tiếp thu được nó. Mặc dù đã có biết bao sự kiện huy hoàng xảy ra, cái bàn giấy này cũng không phải là một tấm phù chú gì cả. Nó chẳng có tý năng lượng và không đem lại một điểm hiểu biết nào hết.
                         
                        Ông nâng đầu lên độ 5 cm, rồi lại thả trở lại mặt bàn một cái ‘bịch’ nặng nề.
                         
                        “Tôi đã bảo anh rồi mà, Dal.” Một âm thanh vang lên. “Anh sẽ chẳng đi được đến đâu nếu cứ đập đầu vào bàn mà!”
                         
                        Wainright ngồi thẳng dậy. Không ai có thể đi vào Phòng Bầu Dục mà không được mời, nhất là vào lúc một giờ sáng.
                         
                        Đang đứng nơi ngưỡng cửa phòng chính là cựu tổng thống Frank Chandler, ông xếp cũ của Wainright, và chính là người đã ném chức tổng thống vào lòng Wainright.
                         
                        Wainright đứng lên. “Làm thế nào mà anh vào đây được vậy? Chẳng lẽ có ai quên thu hồi chìa khóa của anh khi họ đá đít anh ra khỏi tòa nhà này sao?”
                         
                        Chandler cười toét miệng. “Nào phải. Tôi cố ý để một cửa sổ không khóa để có thể lỏn vào khi nào tôi muốn mà!”
                         
                        Hai người tiến lại gần nhau. Họ chạm mặt gần chính giữa căn phòng và bắt tay nhau.
                         
                        “Trời ơi, thật là vui khi gặp lại anh, Frank à.” Tổng thống nói. “Nhưng mà nói thật nhé, anh làm sao vào đây được vậy? Tôi có cần phải đuổi đám Mật Vụ hay không đây?”
                         
                        Frank Chandler lắc đầu. “Không đâu. Tôi tới đây với tư cách là khách riêng của viên Chánh Văn Phòng của anh mà. Hắn gọi tôi và nói với tôi rằng anh lại đang đập đầu vào bàn ghế, do đó tự nhiên là tôi phải chạy đến rồi.”
                         
                        “Bị chính nhân viên của mình nói xấu mà!” Wainright vờ chán nản, nói. “Mà viên Chánh Văn Phòng trung kiên của tôi ở đầu rồi nhỉ? Tôi muốn đá vào mông hắn vì đã lôi anh vào đây mà không bàn qua với tôi trước.”
                         
                        “Tôi nghĩ là hắn đang trốn trong phòng làm việc của hắn rồi.” Chandler nói. “Có lẽ đang hi vọng anh không đá vào mông của hắn vì đã mang tôi vào đây.”
                         
                        “Tôi sẽ sa thải tên phản bội ấy ngày mai vậy.” Wainright nói. “Hay không chừng, tôi sẽ cho xử bắn hắn đó!”
                         
                        Chandler liếc mắt về phía cái bàn giấy Resolute. “Cái bàn ấy là một trân bảo quốc gia đó, Dal. Nếu anh cần húc đầu vào bàn ghế, chúng ta có thể sắm cho anh thứ gì đó từ IKEA (*) để anh khỏi phải làm hỏng những vật truyền thừa của các tổng thống tiền nhiệm.”
                         
                        (* IKEA là một hãng bán bàn ghế rẻ nhưng tốt, có cách thiết kế đơn giản, nhẹ nhàng. Hãng bắt nguồn từ Thuy Điển rồi lan tràn nhiều nơi trên thế giới.)
                         
                        Cả hai cười phá lên. Họ đều lựa cho mình một chiếc ghế trong số những chiếc được xếp thành vòng tròn và ngồi xuống thoải mái. Rồi đột nhiên, mọi sự cười cợt đều biến mất khỏi căn phòng.
                         
                        “Tôi không tính sẽ gọi anh.” Wainright nói. “Nhưng mà tôi thật mừng là anh đã đến.”
                         
                        Chandler nới lỏng gút cà-vạt. “Anh biết câu nói người ta thường dùng mà… Tôi phục vụ theo nhã hứng của tổng thống.”
                         
                        Wainright nhìn chằm chằm vào ông xếp cũ của mình suốt vài giây, nhưng không nghe ra tý mỉa mai nào trong giọng nói của người kia.
                         
                        “Tôi đang ở trong vũng nước quá sâu cho tôi rồi.” Cuối cùng, ông nói. “Tôi muốn nói là, tôi biết đã vượt quá hạn lượng của mình ngay khi anh mời tôi ứng cử chung với anh. Nhưng tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể thật sự thắng trong lần bầu cử ấy, mà ứng cử chức vụ phó tổng thống có vẻ như là một cách rất tốt để chấm dứt sự nghiệp chính trị của tôi.”
                         
                        Chandler nhún vai, nói. “Tôi cũng không ngờ chúng ta sẽ thắng. Tôi nghĩ rằng anh cũng biết thế khi tôi mời anh đứng chung liên danh. Nhưng mà chúng ta cũng đã thắng rồi…”
                         
                        Tổng thống Wainright gật đầu. “Chúng ta đã thắng rồi… Hay ít ra, tôi đã thắng rồi. Bởi vì anh để tôi ở lại lảnh của nợ này, Frank ạ.”
                         
                        Ông cựu tổng thống lại nhún vai. “Sự nghiệp chính trị của tôi đã kết thúc sau vụ việc ở Kamchatka. Anh cũng biết thế mà, Dal. Tôi là vị tổng thống đầu tiên sau Harry Truman đã hạ lệnh tấn công bằng vũ khí hạt nhân. Và không như Harry, tôi đã không chấp nhận việc đầu hàng của các thế lực Quốc Xã.”
                         
                        Chandler thở dài. “Nếu tôi không từ chức, tôi đã bị buộc tội. Dù thế nào đi nữa, anh cũng sẽ leo lên chiếc ghế này thôi. Do đó tôi đã lựa chọn ra đi một cách êm đẹp, trong lúc mà bỏ đi vẫn còn là một sự lựa chọn của tôi.”
                         
                        “Tôi cũng biết là anh không có lựa chọn nào khác.” Wainright nói. “Và tôi biết anh đã đánh ván bài hay nhất với quân bài anh được chia cho. Nhưng cái mà tôi không biết, là tôi nên làm cái gì bây giờ…”
                         
                        Frank Chandler ngã người vào lưng ghế. “Ồ… Cái đó thì đơn giản. Hãy lắng nghe lời khuyên của thuộc hạ, nhưng hãy tự mình suy nghĩ. Rồi cố gắng làm ra quyết định tốt nhất mà anh có thể.”
                         
                        Ông lau tay một cách mạnh mẽ, như chùi đi bụi cát sau khi hoàn tất tốt một công việc vậy. “Nếu anh chỉ muốn biết chừng đó, tôi sẽ quay lại máy bay để trở về nhà.”
                         
                        “Tôi không nói đùa đâu.” Tổng thống nói. “Tôi đang gặp những khó khăn trọng đại đó!”
                         
                        “Tôi cũng không phải nói đùa đâu.” Chandler nói. “Và đó cũng là một câu trả lời nghiêm túc. Nghe thì có vẻ tầm thường, nhưng điều tôi vừa nói với anh là tất cả những gì anh cần biết để làm tốt công việc này đó!”
                         
                        Wainright khịt mũi. “Nhìn nè, tôi không rõ anh đã rõ bao nhiêu về tình hình ở Á Châu, nhưng mà cả châu ấy đang sắp sửa nổ tung đó!”
                         
                        Ông nhìn đồng hồ. “Chỉ hơn một giờ trước đây, chúng ta vừa bắn hạ một vệ tinh trinh sát của Trung quốc trên bầu trời vịnh Bengal. Khoảng 41 giờ sau đây, nước Cộng Hòa Ấn Độ sẽ thực thi một cuộc tập kích mang tính hủy diệt đối với hạ tầng cơ sở của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Trừ phi đám cố vấn quân sự của tôi và toàn bộ cơ sở tình báo của chúng ta đều sai lầm, Trung quốc có lẽ sẽ đáp trả bằng một trận tập kích hạt nhân chiến lược. Mà cách duy nhất mà tôi có thể khiến chính phủ Ấn Độ thối lui, là bước vào vòng chiến và giúp họ chống lại quân đội Trung quốc.”
                         
                        Ông nhắm mắt và xoa hai bên thái dương. “Bất cứ tôi làm gì, phân cũng sẽ văng lên quạt rồi bắn đi mọi nơi mà thôi.”
                         
                        “Có lẽ anh nói đúng.” Frank Chandler nói. “Nhưng mà anh không thể để điều đó cản bước đi của mình được.”
                         
                        Tổng thống mở mắt ra. “Anh muốn nói gì?”
                         
                        “Theo tôi hiểu, có vẻ như anh đang cố gắng không phạm sai lầm, đúng không?”
                         
                        “Dĩ nhiên là tôi đang cố gắng không phạm sai lầm rồi!” Tổng thống gắt gỏng. “Nếu tôi xử trí vụ này tầm bậy, rất nhiều người sẽ mất mạng ở vùng ấy đó!”
                         
                        Chandler lật ngửa hai bàn tay lên. “Phải rồi, thật ra tôi không còn được nghe thuyết trình ở phòng Tình Huống nữa, nhưng theo những gì tôi được thấy trên đài CNN, ở bên ấy người ta đã mất mạng rất nhiều rồi mà. Những người Tây Tạng biểu tình đó! Cả một ngôi làng đầy thường dân Ấn Độ. Thủy thủ Trung quốc. Thủy thủ Ấn Độ. Một số phi công của chúng ta nữa. Mà tình trạng này chỉ càng lúc càng tệ hại hơn thôi.”
                         
                        Tổng thống nhìn chằm chằm vào ông ta. “Ý anh muốn nói là…?”
                         
                        “Ý tôi là thế này.” Chandler nói. “Anh không thể nào lãnh đạo bằng cách lẫn trốn khó khăn.”
                         
                        Ông mỉm cười. “Để tôi chia xẻ một mẩu khôn ngoan thật sự với anh nhé. Có đôi khi, chúng ta cứ mãi lo cố gắng không làm điều gì sai lầm, mà quên mất làm cái điều đúng.”
                         
                        “Cái này nghe quen tai lắm.” Tổng thống nói.
                         
                        Chandler gật đầu. “Câu ấy nên nghe quen tai với anh mà. Chính anh đã nói với tôi như thế khoảng sáu giờ sau khi tôi tuyên thệ tổng thống.”
                         
                        Wainright phẩy tay. “Tôi chỉ nói nhảm thôi mà. Nếu tôi nhớ không lầm, đêm ấy chúng ta đã dự chín hay mười buổi tiệc đăng nhiệm khác nhau. Khi ấy, rượu champagne đã dâng lên đầu tôi rồi.”
                         
                        Chandler lắc đầu. “Xin tha lỗi cho tôi, ngài tổng thống ạ, nhưng mà nói thế là phân bò nguyên chất rồi! Khi ấy, anh tỉnh táo như một quan tòa vậy. Mà câu ấy thế mà lại là một lời khuyên thật là hay. Nó giúp tôi tiến tới trước, mỗi khi mà tôi gặp phải một sự chọn lựa khó khăn mà tôi không muốn làm.”
                         
                        Ông lại mỉm cười. “Vì vậy, bây giờ tôi lại đem lời khuyên ấy trả lại cho anh. Hãy chấm dứt việc tìm cách tránh sai lầm. Cái đó chỉ khiến cho anh do dự triền miên mà thôi. Quên nó đi và tập trung làm cái điều mà anh cho là đúng. Có thể anh sẽ phải gánh chịu nhiều hậu quả. Hắc, gần như chắc chắn sẽ có nhiều hậu quả rồi. Quy tắc của trò chơi là như thế mà!”
                         
                        Ông đứng lên. “Hãy nghe thuộc hạ nói, nhưng mà anh hãy tự làm quyết định. Anh chỉ có thể làm chừng đó thôi. Đó là những gì mà mọi người có thể làm được, kể cả những vị đã từng ngồi trong phòng làm việc này trước chúng ta. Mà bây giờ, thưa ngài tổng thống… đã đến phiên của ngài rồi đó!”
                         
                        Không nói thêm một lời nào nữa, Frank Chandler bước ra cửa và biến mất.
                         
                        ***
                         
                        Ông tổng thống ngồi yên nhiều phút sau khi vị lãnh đạo tối cao tiền nhiệm đã rời khỏi phòng.
                         
                        Cuối cùng, ông đứng lên, tiến đến bàn giấy và nhấc điện thoại lên. Ông nhấn số của viên sĩ quan trực phòng Tình Huống.
                         
                        “Đây là tổng thống.” Ông nói. “Bắt đầu đánh thức mọi người dậy đi. Tôi muốn toàn bộ nhân viên quân sự trong phòng Tình Huống trong vòng một giờ.”
                         
                        Ông gác máy. Đã đến giờ đi làm rồi.
                         
                        #42
                          Quang11 09.09.2016 02:13:48 (permalink)
                          0
                          Chương 40
                          Phòng thu hình, đài truyền hình Fox News
                          1211 Avenue of the Americas
                          Thành Phố New York, tiểu bang New York
                          Thứ Hai, 1 Tháng 12, 05:30 giờ địa phương
                           
                          Màn ảnh tràn ngập hình ảnh địa cầu do máy điện toán tạo ra, di chuyển xung quanh là hình ảnh cả đám vệ tinh cũng do máy điện toán vẽ ra. Mỗi vệ tinh phóng ra một vầng bán trong suốt cho thấy phạm vi được mỗi vệ tinh bao trùm trên địa cầu. Ở góc trái của màn ảnh là phù hiệu đỏ, trắng và xanh dương của đài truyền hình Fox News Channel.
                           
                          Tiếng nói của phóng viên thời sự, Ted Norrow, cất lên để giải thích hình ảnh đang chiếu.
                           
                          “Đây là quỹ đạo thấp, nơi mà khoảng 3.800 vệ tinh nhân tạo đang bay quanh thế giới không ngừng nghỉ, để cung cấp cho chúng ta thông tin liên lạc điện thoại, truyền hình, tín hiệu định vị GPS, theo dõi thời tiết, mạng internet và hằng ha sa số những dịch vụ khác tối cần thiết cho nền văn minh hiện đại.”
                           
                          Hình ảnh đổi thành cận cảnh gương mặt đẹp trai của Ted Norrow, đang nhìn thẳng vào máy thu hình với một vẻ mặt trầm trọng. Sau thoáng chốc, máy thu hình lui lại để chiếu xa hơn cảnh bàn giấy của đài Fox News, với hình ảnh địa cầu thu nhỏ lại nằm bên trên vai trái của Norrow.
                           
                          Một khung nhỏ hiện ra bên dưới màn ảnh, bên trong có phù hiệu của Fox News và hình vẻ một chiếc vệ tinh lồng trong khung ngắm bắn chữ thập. Dòng chữ “Tin Nóng” màu bạc hiện ra bên dưới.
                           
                          “Khoảng 70% vệ tinh trong quỹ đạo thấp được sở hửu và điều khiển bởi giới thương doanh.” Phóng viên nói. “Số 30% còn lại thuộc về các lực lượng quân sự và tình báo của Hoa Kỳ và các nước khác.”
                           
                          Hình ảnh trên màn ảnh đổi thành cận cảnh của một chiếc vệ tinh lơ lửng trong không gian đen ngòm.
                           
                          “Theo những nguồn tin chưa được phối kiểm,” Norrow nói tiếp, “vào khoảng năm giờ trước đây, một chiếc chiến hạm của Hải Quân Hoa Kỳ đã xạ kích và phá hủy một chiếc vệ tinh quân sự của Trung quốc bên trên vịnh Bengal. Một lần nữa, tôi phải nhấn mạnh rằng các báo cáo này chưa được phối kiểm. Chúng tôi đang chờ đợi lời tuyên bố từ bộ Quốc Phòng trong giây lát, nhưng ngay lúc này, chúng tôi chưa có kiểm chứng từ một nguồn tin đáng tin cậy nào hết.”
                           
                          Hình ảnh lại đổi thành tòa nhà Năm Góc được quay từ trực thăng. Tiếng nói của Ted Norrow lại vang lên. “Xét đến tình hình giao tranh càng lúc càng tăng lên giữa Hoa Kỳ và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, vụ bắn hạ một chiếc vệ tinh Trung quốc có thể dẫn đến những hậu quả quốc tế nghiêm trọng.”
                           
                          Hình ảnh lại đổi thành hai khung hình song song, mỗi khung đều có hình bán thân của một người đàn ông. Người bên trái là một trung niên trong một bộ com-lê xám than cắt may vừa vặn và một chiếc cà-vạt nâu có huy hiệu của trường đại học Harvard. Người bên khung hình phải thì trẻ hơn và ăn mặc bình thường hơn, người khoác một chiếc áo vét bằng vải nhăn nheo và áo sơ-mi để hở cổ.
                           
                          Tiếng nói của phóng viên tiếp tục. “Từ phòng thu hình của chi nhánh Fox News ở Arlington, tiểu bang Virginia và Philadelphia, tiểu bang Pennysilvania, chúng tôi đã mời Tiến Sĩ Martin Crane của viện Quốc Gia về Phân Tích Chiến Lược và ông Jason Walsh từ Trung Tâm Phát Triển Thế Giới. Quý vị, cám ơn hai vị đã nhận lời mời của chúng tôi vào giờ giấc sớm như thế này.”
                           
                          Người đàn ông trung niên gật đầu. “Rất vui lòng góp mặt ở đây, Ted ạ.”
                           
                          Người đàn ông trẻ hơn mỉm cười và cũng gật đầu. “Cám ơn anh đã mời tôi.”
                           
                          “Tiến Sĩ Crane, chúng ta hãy bắt đầu từ ông vậy.” Norrow nói. “Nếu báo cáo này đúng sự thật và Hải Quân Hoa Kỳ quả thật đã bắn hạ một vệ tinh quân sự Trung quốc, các hậu quả trong cuộc đụng độ hiện nay có thể ra sao? Và, quan trọng hơn là, đây có thể nào là bước đầu cho một cuộc leo thang trong chiến tranh vệ tinh không?”
                           
                          Người trung niên trong khung bên trái chỉnh lại cà-vạt. “Trước hết, cho tôi nói là còn hơi sớm để nhảy đến kết luận. Chúng ta không có bất cứ thông tin đáng tin cậy nào về vụ xạ kích này, nếu quả thật nó đã xảy ra. Thứ nhì, để dễ bàn chuyện, cứ cho rằng Hải Quân Hoa Kỳ đã phá hủy một vệ tinh tình báo của Trung quốc, vậy thì chúng ta không thể bàn thảo về sự khôn ngoan hay hậu quả của hành động này cho đến khi chúng ta hiểu được tình huống đã khiến hành động ấy diễn ra.”
                           
                          Màn ảnh lại chuyển qua thành ba khung, với Ted Norrow quay ngang, mặt hướng về hai khung hình chứa hai nhân vật gã đang phỏng vấn.
                           
                          Phóng viên gật đầu. “Tiến sĩ có thể nói rõ hơn không?”
                           
                          Trước khi tiến sĩ Crane kịp trả lời, người đàn ông trẻ hơn đã bật cười. “Câu hỏi này thật ngớ ngẩn đó, Ted à. Anh giờ này đã phải biết rằng tiến sĩ thông thái của chúng ta có thể nói rõ hơn về mọi chuyện, cho dù ông ấy có hiểu hay không mà.”
                           
                          Crane lờ đi lời châm chọc. “Chúng ta phải nhìn đến tình huống ở vịnh Bengal, bắt đầu từ vụ tập kích không có khiêu khích nào của Trung quốc vào hai máy bay của Hải quân Hoa Kỳ và cái chết của viên phi công Mỹ vài giờ trước khi xảy ra vụ việc vệ tinh này. Mà cả trước đó nữa, khi mà người Trung quốc đánh thương chiếc tàu sân bay Ấn Độ, INS Vikrant. Cái mà ông Walsh có vẻ như không hiểu là…”
                           
                          Người đàn ông trẻ hơn cắt lời. “Để tôi nói cho ông nghe cái mà tôi không hiểu, tiến sĩ Crane à. Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại dính líu vào thêm một vụ chạm trán quân sự khác không có quan hệ gì với chúng ta. Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại vẫn cứ cố gắng đóng vai cảnh sát cho cả thế giới. Chẳng lẽ chúng ta không học được điều gì từ Iraq và Afghanistan sao?”
                           
                          Ted Norrow giơ một tay lên. “Chờ chút đã… Có phải anh muốn nói là sự bình ổn của Á Châu không phải là một nỗi lo lắng chính đáng của Hoa Kỳ không?”
                           
                          Walsh lắc đầu. “Tôi không hề nói như thế. Nhưng mà tại sao chúng ta cứ cho rằng can thiệp quân sự là một công cụ hữu hiệu để bình ổn một khu vực chứ? Đã có bao giờ làm được như thế chưa?”
                           
                          “Vậy chứ Đệ Nhị Thế Chiến thì sao?” Tiến sĩ Crane hỏi. “Anh thành thật tin rằng Hirohito sẽ nới lỏng vòng tay siết chặt của lão ra khỏi Thái Bình Dương nếu chúng ta gởi cho lão một bức thư khiếu nại sao? Và còn Adolf Hitler thì sao? Nếu quân Đồng Minh không cùng dồn toàn lực chống lại Đế Chế Thứ Ba, phần lớn Âu Châu và Phi Châu, nếu không phải là cả thế giới, đã phải sống dưới gót giầy sắt của Quốc Xã cho đến bây giờ rồi. Dĩ nhiên ngoại trừ người Do Thái bởi vì họ đã bị tận diệt rồi.”
                           
                          Walsh đảo tròng mắt. “Ồ, chúng ta lại bàn tới Hitler nữa rồi. Mỗi khi ông cần một ông Kẹ để biện hộ cho chủ nghĩa bành trướng quân sự của ông, ông lại đem bọn Quốc Xã ra. Tôi rất tiếc là phải mang lại thông tin mới cho ông, thưa tiến sĩ, chuyện đó đã xảy ra gần 75 năm về trước rồi. Chuyện xưa như vậy thì liên can gì đến tình hình chính trị hiện nay ở Á Châu chứ?”
                           
                          “Chúng ta đang nói lạc đề rồi đó.” Phóng viên nói.
                           
                          “Không đâu.” Tiến sĩ Crane nói. “Chúng ta không hề lạc đề. Tại vì, không kể đến việc ông Walsh không học hỏi gì được từ lịch sử ra, quả thật có một mối liên hệ chặt chẻ giữa Đệ Nhị Thế Chiến và cuộc xung đột hiện tại với Trung quốc.”
                           
                          Ted Norrow nhấc tay phải lên ra dấu mời. “Cho tôi xin ông giải thích lời ấy nhé?”
                           
                          “Phải rồi, làm ơn đi.” Walsh nói. “Khai hóa chúng tôi đi. Mở mang trí tuệ chúng tôi với.”
                           
                          “Tôi có thể nói tóm gọn trong một chữ mà thôi.” Tiến sĩ Crane đáp. “Chủ nghĩa biệt lập.”
                           
                          Ông ta nhấn mạnh chữ ấy bằng một nụ cười chua chát. “Trong những năm cuối thập niên 1930 và đầu 1940, trào lưu biệt lập ở Mỹ đủ mạnh để khiến chúng ta giữ quân lại trong nước. Chúng ta ngồi ỳ ra đó trong khi hai nước Đức và Nhật đang đục khoét phần còn lại của thế giới và tàn sát hàng triệu người. Khi ấy, những người phe biệt lập cũng ca cùng bài ca như ông Walsh và đồng bạn đang ca hát bây giờ. Đừng dính dáng vào các vấn đề ở nước ngoài. Những chuyện ấy không phải là chuyện của chúng ta. Chúng ta nào phải là cảnh sát cho cả địa cầu đâu. Nhưng mà, nếu nhóm người biệt lập kia chiến thắng trong cuộc khẩu chiến khi ấy, ngày nay thế giới sẽ ra sao?”
                           
                          Walsh cười khẩy. “Lại một lần nữa, tiến sĩ Crane đơn giản hóa lập trường của tôi rồi. Tôi không hề nói rằng can thiệp quân sự của Hoa Kỳ không bao giờ cần thiết. Dĩ nhiên là nó cần thiết trong vài trường hợp nào đó rồi. Tôi còn có thể tiến một bước xa hơn và nói rằng, trong một vài trường hợp, hành động quân sự của Mỹ không những là đáp án tốt nhất, mà còn là đáp án duy nhất nữa. Nhưng mà nói thế đâu có phải là nó là đáp án cho mọi cuộc xung đột của nước khác chứ. Chẳng lẽ sự lựa chọn của chúng ta luôn luôn giới hạn đến nỗi chúng ta phải vớ lấy súng mỗi khi trên thế giới có một vụ khủng hoảng nào sao?”
                           
                          Crane há miệng để trả lời, nhưng Ted Norrow đã giơ tay lên chặn cuộc bình luận. Gã nói. “Tôi phải cắt đứt hai ông ở đây. Chủ nhiệm vừa cho tôi biết là đài Fox News vừa nhận được lời tuyên bố từ nhà Năm Góc, xác nhận rằng chiếc USS Towers quả thật đã bắn hạ một chiếc vệ tinh do thám của Trung quốc trên không phận vịnh Bengal. Chúng tôi đang trông chờ thêm chi tiết trong vài phút tới, nhưng mà hiện tại, chúng tôi có thể xác nhận rằng những báo cáo ban đầu là chính xác.”
                           
                          “Thế là đi tong vai trò kẻ giữ gìn hòa bình công bình của chúng ta rồi.” Walsh nói với giọng chua chát. “Hãy nhớ rằng những gì xảy ra kế tiếp, là do chính chúng ta tạo ra đó!”
                           
                          #43
                            Quang11 09.09.2016 02:38:15 (permalink)
                            0
                            Chương 41
                            USS Towers (DDG-103)
                            Vịnh Bengal
                            Thứ Hai, 1 tháng 12, 17:21 giờ địa phương
                             
                            Đại tá Bowie đang ngồi một mình trong phòng ăn thì Trung tá Silva bước vào. Đài phát thanh Quân Đội Hoa Kỳ đang được phát trên máy truyền hình, nhưng Bowie đã tắt âm thanh trong khi hắn đang ghi xuống vài chỉnh sửa vào lệnh hành quân cho đêm nay.
                             
                            Hắn ngẩng lên khi Silva bước vào. “Cô khỏe chứ, Kat?”
                             
                            Nàng tiến thẳng đến máy pha cà-phê, nói. “Khỏe lắm. Nhưng mà ngay lúc này, tôi sẵn sàng vật nhau với một con cá sấu cở vừa vừa để được một tách cà-phê Starbucks.”
                             
                            Nàng nhìn vào bên trong bình cà-phê, cúi xuống để hít mùi cà-phê và quyết định rằng nó cũng còn mới đủ để uống. Nàng tự rót cho mình một tách, rồi ngước nhìn Bowie. “Anh có muốn một tách không, sẵn tôi đang rót đây?”
                             
                            “Nghe được đó.” Bowie nói. “Cho tôi một tách thường lệ… một tách Grande Caramel Macchiato và một cái bánh việt quất nhé.”
                             
                            “Tới ngay.” Silva nói. Nàng rót cho hắn một tách cà-phê Hải quân đen. “Ông trả bằng tiền mặt hay thẻ tín dụng?”
                             
                            Nàng đưa cho hắn tách cà-phê và thả người xuống một chiếc ghế có thể nhìn thấy truyền hình.
                             
                            Trên màn ảnh, một đám người đi biểu tình đang vung vẩy những biểu ngữ vẽ tay bên kia đường của một ngôi kiên trúc có tường bao cao. Đám người đó rõ ràng rất xúc động, nhưng vẫn tuân thủ hàng rào được cảnh sát thiết lập ngăn họ tiến gần đến vách tường. Nhiều người trong đám đang hô hào gì đó, nhưng âm thanh của máy truyền hình đã bị tắt rồi.
                             
                            Hình ảnh chuyển qua một đám đông khác. Người trong đám đông này ăn mặc khác hẳn và kiến trúc và màu sắc của nhà cửa cũng khác, nhưng sự phẫn nộ của hai đoàn người biểu tình cũng như nhau.
                             
                            Bản tin tức lại chuyển qua một đám đông khác nữa và đám này gần tiến đến bạo loạn rồi. Nhiều người đang ném đá và chai lọ qua tường cao. Đôi khi, có chai va vào tường và bể tung, làm vách tường đá tung tóe một thứ chỉ có thể là sơn đỏ. Ở hậu cảnh, nhiều xe tải đang thả xuống từng nhóm cảnh sát chống bạo động.
                             
                            Màn ảnh lại thay đổi. Một đám đông khác, nhóm này đang đốt những lá cờ màu đỏ rồi thả xuống mặt đường mặc cho chúng bốc cháy.
                             
                            Silva nhìn qua Bowie. “Chuyện quái gì xảy ra thế này?”
                             
                            Bowie liếc nhìn màn ảnh, nói. “Khi nãy, tôi đã xem qua rồi. Theo như tôi hiểu, quân đội Trung quốc xả súng bắn gục cả trăm người biểu tình ở Tây Tạng hồi tuần trước. Trung quốc giữ kín chuyện này cho đến khi một đoạn phim được chiếu trên đài CNN. Một du khách Mỹ, McDowell hay McDonald hay gì đó, chứng kiến toàn bộ sự việc từ cửa sổ phòng khách sạn của hắn ta. Hắn quay toàn bộ vào chiếc di động và giao cho báo chí. Cái này chính là hậu quả. Người Tây Tạng và người ủng hộ Tây Tạng đang biểu tình phản đối bên ngoài sứ quán và tòa lãnh sự Trung quốc khắp thế giới.”
                             
                            “Một số vụ biểu tình này không có vẻ gì là bất bạo động cả.” Silva nói.
                             
                            “Ờ.” Bowie đáp. “Và chính phủ Trung quốc đang đổ thừa chuyện này vào Hoa Kỳ.”
                             
                            Silva trố mắt nhìn hắn. “Cái gì?”
                             
                            Bowie buông cây viết xuống. “Một phát ngôn nhân của bộ Chính Trị Trung Ương xuất hiện vừa rồi, và đọc một bài phát biểu. Bọn chúng nói là cái gã du khách ấy, McDonald, chính là một quân cờ nằm vùng của CIA được phái vào Tây Tạng để gây xáo trộn. Bọn chúng cũng tố cáo rằng các đài thông tin Mỹ hoạt động theo chỉ thị của chính phủ liên bang và Hoa Kỳ đang cố gắng làm cả thế giới mang ấn tượng xấu với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.”
                             
                            Silva nhướng một bên lông mày. “Báo chí làm theo chỉ thị của chính phủ Hoa Kỳ à? Bọn chúng rõ ràng không hiểu tự do ngôn luận là như thế nào mà.”
                             
                            “Bọn chúng hiểu chứ.” Bowie nói. “Nhưng mà bọn chúng lọt vào một vũng bùn lầy với Ấn Độ rồi, và bọn chúng đang cố gắng không lộ ra mình là kẻ xấu xa, ít nhất là trong mắt dân chúng của chính bọn chúng.”
                             
                            Hắn xoay tách trên mặt bàn, khiến cà-phê bên trong xoáy tròn. “Nếu tôi gieo quẻ đúng, chúng ta sẽ có hành động nào đó không lâu nữa đâu. Trung quốc quả thật tức giận chúng ta vì vụ việc Tây Tạng này, mà bắn rơi chiếc vệ tinh của bọn chúng không làm chúng bớt giận chút nào cả.”
                             
                            Silva đang định lên tiếng thì cửa phòng ăn mở ra và viên sĩ quan điều hành, Thiếu Tá Matthews, bước vào cầm trên tay một tập hồ sơ. Gã gật đầu chào hai viên sĩ quan kia. “Chào buổi tối, hạm trưởng. Chào buổi tối, Trung Tá. Xin lỗi vì đã chen vào.”
                             
                            Gã bước qua và đưa tập hồ sơ cho vị hạm trưởng.
                             
                            Bowie nhận lấy và mở nó ra. “Có chuyện gì vậy, Brian?”
                             
                            “Có thay đổi trong ROE (*).” Viên sĩ quan điều hành nói. “Các bằng hữu Trung quốc của chúng ta vừa được chính thức chỉ định là kẻ địch.”
                             
                            (*ROE, Rule of Engagement: quy định tác chiến. Quy định chi tiết chỉ rõ ai được xem là địch và bạn, khi nào thì được phép chiến đấu và chiến đấu đến mức độ nào, thí dụ như chỉ được tự vệ khi bị tấn công, hay được phép tấn công với loại vũ khí nào: quấy rối điện tử, hay loại và kích cỡ bom đạn, tầm xa, v.v.)
                             
                            Bowie nghiến răng và đọc lướt qua bản tin.
                             
                             
                             
                            //SSSSSSS//
                             
                            //MẬT//
                             
                            //KHẨN//KHẨN//KHẨN//
                             
                            //011027Z DEC//
                             
                             
                             
                            NGƯỜI GỬI COMPACFLT//  (ND: viết tắc cho Commander Pacific Fleet, Chỉ Huy Trưởng Hạm Đội Thái Bình Dương)
                             
                            NGƯỜI NHẬN COMCARSTRKGRU FIVE// (ND: viết tắc cho Commander Carrier Strike Group Five, Chỉ Huy Trưởng Nhóm Tác Chiến Tàu Sân Bay Năm)
                             
                                          COMDESRON ONE FIVE// (ND: Commander Destroyer Squadron 15, Chỉ Huy Trưởng Hạm Đội Khu Trục hạm 15)
                             
                                          USS MIDWAY//
                             
                                          USS TOWERS//
                             
                                          USS FRANK W FENNO//
                             
                                          USS DONALD GERRARD//
                             
                             
                             
                            THÔNG TIN COMSEVENTHFLT// (Commander Seventh Fleet, Chỉ Huy Trưởng Đệ Thất Hạm Đội)
                             
                                          CTF SEVEN ZERO//          (Carrier Task Force 70, Nhóm Tác Chiến Tàu Sân Bay 70)
                             
                             
                             
                            ĐỀ MỤC/PHẦN BỔ SUNG QUY ĐỊNH TÁC CHIẾN//
                             
                             
                             
                            CHIẾU THEO/A/LỆNH/CJCSI 3121.01F
                             
                            CHIẾU THEO/B/RMG/COMPACFLT/210114Z NOV//
                             
                             
                             
                            A LÀ QUY ĐỊNH TÁC CHIẾN HIỆN HÀNH CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG THAM MƯU TRƯỞNG CHO MỌI LỰC LƯỢNG QUÂN SỰ HOA KỲ
                             
                            B LÀ QUY ĐỊNH TÁC CHIẾN CŨ DÀNH CHO CÁC ĐƠN VỊ HẢI QUÂN HOA KỲ HOẠT ĐỘNG TẠI KHU VỰC ẤN ĐỘ DƯƠNG VÀ VỊNH BENGAL
                             
                             
                             
                            1. (MẬT) B NAY BỊ HỦY BỎ. QUY ĐỊNH TÁC CHIẾN ĐƯỢC SỬA ĐỔI NHƯ SAU.
                            2. (MẬT) MỌI KHÍ TÀI VÀ ĐƠN VỊ CỦA QUÂN ĐỘI GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN (PLA) TRONG KHU VỰC HOẠT ĐỘNG CỦA QUÝ VỊ NAY ĐƯỢC XEM LÀ KẺ ĐỊCH. QUÝ VỊ ĐƯỢC LỆNH TÁC CHIẾN VÀ TIÊU DIỆT LỰC LƯỢNG QUÂN SỰ CỦA PLA CÀNG NHIỀU CÀNG TỐT, THEO LUẬT PHÁP CHIẾN TRANH.
                            3. (MẬT) KHÍ TÀI VÀ ĐƠN VỊ CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ ĐƯỢC XEM LÀ QUÂN BẠN. TUY HIỆN NAY KHÔNG CÓ KẾ HOẠCH TÁC CHIẾN CHUNG GIỮA HOA KỲ VÀ ẤN ĐỘ, LỆNH CHO QUÝ VỊ TRÁNH TỐI ĐA CAN THIỆP VÀO CÁC HÀNH ĐỘNG QUÂN SỰ CỦA ẤN ĐỘ, THEO LUẬT PHÁP CHIẾN TRANH.
                            4. (MẬT) CÓ NHIỀU DỮ KIỆN ĐỊA CHÍNH TRỊ ĐÒI HỎI MỘT KẾT THÚC NHANH VÀ DỨT KHOÁT CHO CUỘC CHIẾN NÀY. CÁC DỮ KIỆN NÀY KHÔNG THỂ ĐƯỢC NHẮC TỚI Ở CẤP BẬC NÀY, TUY NHIÊN BỘ TRƯỞNG HẢI QUÂN LƯU Ý MỌI NGƯỜI RẰNG NẾU THẤT BẠI TRONG VIỆC GIÀNH ƯU THẾ NHANH CHÓNG TRONG VÙNG CỦA QUÝ VỊ SẼ ĐEM ĐẾN NHIỀU HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG CHO AN NINH QUỐC GIA VÀ ỔN ĐỊNH TOÀN CẦU.
                            5. (KHÔNG MẬT) MAU CHÓNG TIẾN HÀNH. TẤN CÔNG MẠNH. TẤN CÔNG NHANH. CHÚC MAY MẮN! ĐÔ ĐỐC STANDFORD GỬI.
                             
                             
                             
                            //011027Z DEC//
                             
                            //KHẨN//KHẨN//KHẨN//
                             
                            //RBT 2034539//
                             
                            //MẬT//
                             
                            //SSSSSSSS//
                             
                             
                             
                            Bowie đọc xong, đưa bản tin cho Trung tá Silva.
                             
                            Nàng chỉ vừa đọc vài hàng đầu thì còi điện hú lên chói tai trên hệ thông loa 1-MC của chiến hạm.
                             
                            Tiếng còi cảnh báo được thay thế nhanh chóng bởi tiếng nói của viên sĩ quan trực tại phòng điều hành. “Báo động, báo động. Mọi nhân viên vào vị trí chiến đấu. Cho mọi nơi trên tàu vào tình trạng Zebra. Sĩ quan chỉ huy, yêu cầu ngài đến phòng hành quân CIC lập tức.”
                             
                            Đại tá Bowie lao ra khỏi ghế và đã đến cửa phòng trước khi báo động kịp lặp lại. “Cô theo chứ, Kat? Có vẻ như nó (*) sắp văng trúng quạt trần sớm hơn là tôi dự trù.”
                             
                            (* ND: tục ngữ Mỹ “the shit hits the fan!”, “phân văng lên quạt trần (rồi bắn tung tóe)!” có nghĩa “rắc rối to rồi!”)
                             
                            #44
                              Quang11 09.09.2016 02:41:55 (permalink)
                              0
                              Chương 42
                              -------------
                              Người gửi: robert.monkman@navy.mil
                              Ngày: Thứ Hai, 1 Tháng 12, 17:34
                              Người nhận: b.haster@ucsd.edu
                               
                              Đề tài: Poker
                               
                              Beth yêu dấu,
                               
                              Anh phải thú thật là anh vẫn còn rối bời vì chuyện xảy ra cho Poker. Một giây trước đó, hắn còn ngay ở bên phải của anh; một giây sau, chiếc 18 của hắn đã lao đầu xuống trong biển lửa.
                               
                              Anh cũng không thể hiểu nổi chuyện xảy ra như thế nào nữa. Hắn là một phi công rất tài giỏi. Một phi công xuất sắc. Cho dù anh có tự khoe khoang như thế nào đi nữa, hắn vẫn giỏi hơn anh nhiều. Nhưng bây giờ hắn đã chết, mà không hiểu sao anh vẫn còn sống.
                               
                              Ước gì anh có thể thu lại những gì ngu xuẩn anh đã nói với hắn. Tên của hắn viết tắt là O.W. và anh thường nói với mọi người rằng hai chữ ấy là viết tắt cho Orville Wright (người dịch: một trong hai anh em nhà Wright đã chế tạo thành công chiếc máy bay đầu tiên). Anh chỉ biết chế giễu hắn là cổ lổ xỉ và đã đến lúc hắn nên trình diện ở viện dưỡng lão, để dành chỗ cho những phi công thật sự.
                               
                              Poker là một thằng thật tốt. Một sĩ quan tốt và một người tốt. Hắn để ý đến thủ hạ. Hắn giúp đỡ anh, dìu dắt anh và giúp anh tránh khỏi rắc rối. Anh đã chẳng bao giờ lấy được bằng hạ cánh ban đêm nếu không có hắn giúp đỡ.
                               
                              Mà anh thì tạ ơn hắn như thế nào chứ? Anh ngồi ì ra như một thằng ngu trong khi bọn Trung quốc khốn nạn ấy bắn hắn rơi khỏi bầu trời. Bây giờ hắn đã ra đi rồi và anh sẽ không bao giờ có thể nói cho hắn biết hắn quan trọng với anh như thế nào nữa.
                               
                              Anh xin lỗi. Anh biết là anh cứ nói đi nói lại hoài về chuyện này, nhưng mà nó làm anh ray rức quá. Mọi người đối xử với anh như anh là một tay cừ khôi lắm, bởi vì anh đã bắn hạ hai chiếc J-15 và bắn tóe cứt một chiếc khác. Nhưng mà nếu anh thật cừ khôi thì anh ở nơi nào khi mà Poker cần đến anh chứ?
                               
                              Anh đã tiếp tục bay tuần tiễu, nhưng anh không chắc anh nên bay. Phi công tiêm kích gì mà lại để cho chỉ huy của mình bị bắn rơi chứ? Lỡ chuyện ấy lại xảy ra nữa thì sao? Lỡ mạng anh xúi quẩy và ai bay với anh sẽ gặp họa thì sao?
                               
                              Anh không biết, Beth à. Anh không còn biết gì nữa cả. Ước gì anh có thể nói chuyện với em lúc này. Ước gì anh có thể nghe được tiếng nói của em và bàn chuyện với em cho đến khi mọi thứ bắt đầu mạch lạc hơn cho anh.
                               
                              Ước gì…
                               
                              Khoan đã. Còi báo động đang hú lên kìa. Anh phải chạy đến vị trí tác chiến ngay bây giờ.
                               
                               
                              Yêu em!
                               
                              Anh sẽ viết thêm,
                               
                              Rob
                               
                              Thiếu Úy Robert J. Monkman
                              VFA-228 Marauders
                              USS Midway (CVN-82)
                              -------------
                               
                               
                              #45
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 5 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 62 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9