Lưỡi Kiếm của Thần Shiva
Thay đổi trang: << < 45 > | Trang 4 của 5 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 62 bài trong đề mục
Quang11 09.09.2016 02:47:19 (permalink)
0
Chương 43
USS Towers (DDG-103)
Vịnh Bengal
Thứ Hai, 1 Tháng 12, 17:34 giờ địa phương
 
Viên sĩ quan Tác Chiến (TAO) chỉ vào màn hình Aegis. “Báo động tập kích, thưa Đại tá. Hai mươi Bogies bay cao đang tiếp cận từ hướng Tây Nam. Không tín hiệu truyền tin, không IFF. Hướng bay là khoảng hai-một-bốn. Xem ra chúng đang lập đội hình để không kích chiếc Midway đó.”
 
Bowie gật đầu. “Hawkeye nói sao?”
 
“Hawkeye đồng ý là đây có lẽ là một cuộc tập kích vào chiếc tàu sân bay, thưa đại tá. Họ đang chỉ dẫn cho ba nhóm tuần tra tác chiến thu dọn chiến trường, trong trường hợp có tên nào vượt qua khỏi chúng ta.”
 
Bowie nhìn vào đám phù hiệu máy bay địch. Hai mươi hình chữ V ngược đang tiến về phía chiếc Towers và chiếc tàu sân bay nằm phía bên kia của vòng tên lửa phòng vệ.
 
Phải mất vài giây hắn mới ý thức rằng có cái gì đó có vẻ không đúng trong trận hình của các mục tiêu trên màn ảnh. Các phù hiệu máy bay địch đang tiến đến đều đặn, nhưng tốc độ tiếp cận có vẻ không đủ nhanh.
 
Hắn hỏi. “Bọn bogies này bay nhanh bao nhiêu thế?”
 
Viên TAO kiểm tra một khung số trên máy của gã. “Tốc độ phi hành khoảng 400 hải lý/giờ.” (ND: 400 hải lý = 720 km)
 
Bowie nhíu mày. “400 hải lý? Cái này hơi chậm cho một vụ không kích, phải không?”
 
“Quả thật là không bình thường.” Viên TAO nói. “Nhưng mà chúng ta chưa từng thấy qua hải quân Trung quốc thực hành một vụ không kích nào chống lại một chiếc tàu sân bay cả. Không ai biết chắc chiến thuật của họ trong một phi vụ như vậy là như thế nào cả.”
 
“Cái đó thì anh nói đúng rồi.” Trung Tá Silva bình thản nói. “Nhưng mà 400 hải lý vẫn là cực kỳ chậm chạp cho một vụ không kích đó!”
 
Trước khi viên TAO kịp đáp, báo cáo vang lên trên mạng từ nhóm Tác Chiến Điện Tử (Electronics Warfare, EW). “TAO, đây là EW. Nhóm Bogies vừa bật sáng lên rồi. Tôi đang theo dõi hai mươi, chính là hai-không, mục tiêu phát sóng X-band. Theo chữ ký ‘Doppler xung’ của chúng, rõ ràng là ra-đa điều khiển vũ khí KLJ-10. Ước lượng đầu tiên là tiêm kích J-10.”
 
Viên TAO bấm nút nói. “EW, TAO đây. Nghe rõ. Chuẩn bị quấy phá và bắn chaff.”
 
Gã thả nút nói ra và quay sang vị sĩ quan chỉ huy. “Đại tá, xin được phép khai hỏa vào đám Bogies đang tiếp cận.”
 
Bowie ngập ngừng. Có cái gì đó có vẻ không được đúng trong cách hoạt động của đám Bogies. Tín hiệu EW và đường bay tiếp cận cộng lại cho thấy là một vụ tấn công cỡ lớn bằng máy bay tiêm kích từ chiếc tàu sân bay Trung quốc, nhưng tốc độ tương đối chậm của đám máy bay lại kỳ quái.
 
Tốc độ chỉ bằng 2/3 tốc độ âm thanh cũng không phải là rề rà gì, nhưng mà tiêm kích J-10 có thể bay nhanh hơn Mach 2 (36). Tại sao chúng không tận dụng sở trường tốc độ của mình nhỉ? Thật là không hợp lý.
 
Hay đúng hơn là điều này không hợp lý đối với Bowie. Nó rõ ràng là hợp lý đối với kẻ đã lập lên kế hoạch cho cuộc không kích này. Chắc chắn phải có lý do nào đó khiến kẻ này không làm theo chiến thuật được mọi người chấp nhận. Dĩ nhiên, không có khả năng Bowie có thể chợt nghĩ thông suốt được nguyên nhân ấy trong vòng vài giây tới. Tốc độ nhanh hay chậm, máy bay địch cũng vẫn đang bay về phía chiếc tàu sân bay Mỹ. Nhiệm vụ của chiếc Towers là bảo đảm chúng không đến gần đủ để phóng phi đạn vào chiếc Midway.
 
Điều này khiến cho việc quyết định thật là dễ dàng. Bowie nhìn vào mắt viên TAO, nói. “Tiến hành đi. Anh được phép điều hành mọi vũ khí.”
 
Viên TAO lại bấm nút nói ngay tức khắc. “Điều Khiển Vũ Khí, đây là TAO. Tấn công các mục tiêu Không Không Một đến Không Hai Không bằng tên lửa.”
 
“TAO, Điều Khiển Vũ Khí đây. Tấn công mục tiêu Không Không Một đến Không Hai Không bằng tên lửa, aye. Chờ một chút…”
 
Một loạt chấn động liên tiếp chuyền suốt thân chiếc chiến hạm, kèm theo một loạt tiếng gầm xa xôi khi 20 quả tên lửa SM-3 (37) vọt vào không trung.
 
Tiếng nói của viên sĩ quan Điều Khiển Vũ Khí vang lên trên mạng. “TAO, đây là Điều Khiển Vũ Khí. Hai mươi con chim đã cất cánh. Không thấy con nào trục trặc.”
 
Chúng xuất hiện trên màn hình Aegis chỉ 2 giây sau: phù hiệu màu xanh lơ của 20 tên lửa bạn nhanh chóng tiếp cận phù hiệu máy bay địch.
 
Bowie nhìn đám phù hiệu tiếp cận nhau suốt vài giây trước khi với tay đến ống nghe và nhấn nút của hệ thống 1-MC của chiến hạm. Khi hắn lên tiếng, tiếng nói của hắn vang lên ở mỗi chiếc loa trên cả chiến hạm.
 
“Toàn bộ thủy thủ đoàn nghe đây, đây là hạm trưởng. Chúng ta vừa phóng tên lửa vào một nhóm lớn máy bay địch. Lần này là thật đó, quý vị. Đây là vì sao quý vị đã phải huấn luyện cực khổ và tôi biết mọi người đã sẵn sàng. Hãy tiếp tục chú tâm. Hãy tiếp tục mạnh mẽ. Và hãy chuẩn bị cho tất cả mọi thứ.”
 
Hắn thả nút nói ra và nói thì thào. “Chúc mọi người may mắn. Mọi người chúng ta.”
 
***
 
Xianglong:
 
Với động cơ phản lực lắp bên trên và đuôi hình chữ V, chiếc máy bay không người lái Xianglong nhìn giống như chiếc RQ-4 Global Hawk do hãng Northrop Grumman thiết kế, đã từng thu hút biết bao sự chú ý từ giới báo chí trong suốt thời gian Hoa Kỳ tham chiến tại Iraq và Afghanistan. Tuy vậy, mặc dù bề ngoài tương tự như chiếc máy bay không người lái của Mỹ, khả năng của chiếc Xianglong vẫn còn là một bí ẩn đối với các phân tích gia và kỹ sư Hoa Kỳ.
 
Tên của nó có thể được dịch quấy quá sang tiếng Anh là ‘cắc kè bay’, nhưng nhà sản xuất chiếc máy bay không người lái này chắc chắn là ưa chuộng cách dịch hoành tráng hơn là “rồng bốc cao” (thăng long).
 
Các phân tích gia Tây phương đã đoán đúng khi cho rằng chiếc Xianglong có nhiệm vụ chính là trinh sát chiến lược tầm xa ở độ cao. Tuy nhiên mô-đun đang được lắp trên hai cánh máy bay có công năng khác hẳn.
 
Mô-đun lắp bên cánh trái là một dụng cụ làm khuếch đại ảnh chiếu ra-đa, để tăng cường độ và phóng ngược trở về các tín hiệu ra-đa khiến cho chiếc máy bay nặng 7,5 tấn này có vẻ lớn hơn nhiều trong cảm biến của quân địch. Cho lần nhiệm vụ này, hình ảnh ra-đa của chiếc máy bay đã được tăng lên gấp đôi, khiến cho chiếc Xianglong thon gọn có một hình ảnh ra-đa rất giống như một chiếc tiêm kích J-10 của Trung quốc nặng 16 tấn.
 
Mô-đun bên cánh phải là một trang bị phát tín hiệu vi sóng và nó đang phát ra tín hiệu X-band không khác gì tín hiệu ‘doppler xung’ của ra-đa kiểm soát vũ khí Chengdu KLJ-10 của tiếm kích J-10.
 
Hai mô-đun mồi nhử và giả lập điện tử của gói lừa gạt này rất thành công giả dạng một chiếc tiêm kích J-10. Nhược điểm chính yếu trong vụ lừa gạt này là tốc độ quá thấp của chiếc máy bay không người lái.
 
Chiếc Xianglong có động cơ phản lực là một trong những chiếc máy bay không người lái nhanh nhất trên địa cầu, còn nhanh hơn chiếc MQ-9 Reaper của Mỹ đến 180 km/giờ. Tuy nhiên, cho dù chiếc Xianglong có nhanh đối với mọi máy bay không người lái khác đi nữa, nó cũng vẫn không đủ nhanh để giả tốc độ của một chiếc J-10.
 
Chiếc Thăng Long này không phải là một mồi nhử hoàn hảo, nhưng nó cũng vẫn là một mỗi nhử rất tốt. Mà nếu không được hoàn hảo, thì nhược điểm này lại được bổ xung bằng số lượng. Nó không hoạt động đơn lẻ mà còn có 19 chiếc khác cùng thiết kế và khả năng bay quanh nữa. Toàn bộ vụ lừa gạt này làm chúng trở thành những mục tiêu quá hấp dẫn khiến cho những chi tiết nhỏ như tốc độ bị bỏ qua.
 
Mà các gói lừa gạt ấy còn chưa xử dụng hết mọi chiêu thức chiến thuật của chúng. Chúng còn vài chiêu thức còn chưa thi thố nữa.
 
***
 
USS Towers:
 
“TAO, Không Gian đây. Bogies đang phóng chaff và bắt đầu né tránh!”
 
“TAO, aye!”
 
Các thao tác tránh né lập tức hiện rõ trên các màn hình Aegis, khi các máy bay địch nhào lộn để tránh các quả tên lửa đang lao vào chúng.
 
Mắt của Bowie vẫn dán vào các phù hiệu xanh và đỏ đang nhảy múa loạn xạ. Vẫn có cái gì đó không đúng. Hắn không làm sao xác định được vấn đề, nhưng hắn không cách nào gạt bỏ ý tưởng là có điều gì đó không đúng trong phương cách đám Bogies tránh né.
 
Rồi, đột nhiên hắn bừng tỉnh. Hắn vỗ vai viên TAO. “Kiểm tra tốc độ của chúng đi. Bọn Bogies bay nhanh bao nhiêu?”
 
Viên TAO nhanh nhẹn bấm một số nút trên bàn phiếm. “Có vẻ như… khoảng 400 hải lý. Nhanh hay chậm hơn một chút.”
 
Viên TAO ngước nhìn thượng cấp. “Cái này không đúng…”
 
“Không.” Bowie nói. “Quả là không đúng. Bọn Bogies nhào lên lộn xuống như điên, nhưng mà không một tên nào bật lên buồng đốt hai lần để tránh tên lửa của chúng ta.”
 
“Chúng là mồi nhử.” Viên TAO nói.
 
Bowie gật đầu. “Chắc chắn là vậy rồi.”
 
Hắn với tay lên bên trên đầu, giật mạnh ống nghe màu đỏ của hệ thống Đỏ của Hải quân và áp mạnh vào tai. Hắn bấm nút nói và chờ một thoáng cho hệ thống mã hóa kích hoạt: một loạt tiếng ríu rít mà máy truyền tin tần số cực cao UHF dùng để đồng bộ hóa tín hiệu mã hóa của nó với vệ tinh truyền tin mật. “Alpha Whiskey, đây là Towers. Tập kích của quân địch từ hướng hai-một-bốn của tôi được đánh giá là tấn công giả. Tôi lặp lại, Bogies đang bay theo hướng hai-một-bốn có lẽ là mồi nhử! Đơn vị của tôi sẽ tiếp tục tấn công và theo dõi, nhưng đoán rằng sẽ có tập kích khác từ những phương vị khác. Hết!”
 
Viên sĩ quan Phối Hợp Không Chiến trên chiếc hàng không mẫu hạm trả lời sau 10 giây. “Towers, đây là Alpha Whishey. Roger tất cả và đồng ý. Chúng tôi đã thấy nhiều Viper đang tiếp cận, hướng bay không-bảy-năm. Cẩn thận nhé. Alpha Whiskey, hết!”
 
***
 
Viper (đang bay):
 
Chúng bay thật thấp và thật nhanh. Bốn mươi quả tên lửa chống hạm 3M-54E2 (38), bay cách lớp sóng biển 3,5 m với tốc độ 0,8 Mach.
 
Theo cách chỉ định của khối NATO, chúng thuộc gia đình phi đạn hành trình SSN-27 được gọi chung là Sizzler. Phiên bản Trung quốc của phi đạn này đã lần lượt được đề cao rồi hạ thấp bởi bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ từ hơn một thập niên. Giới báo chí Tây phương đã mệnh danh phi đạn 3M-54E2 là Sát Thủ Tàu Sân Bay của Trung quốc. Lời nhận định này chưa từng được biểu diễn qua trong thực chiến. Cho đến nay.
 
Mỗi quả phi đạn đã tắt ra-đa truy tìm của nó trong giai đoạn này của hành trình, chỉ bay theo một đường bay đã được lập trình, lâu lâu lại được điều chỉnh nhờ tín hiệu định vị từ nhóm vệ tinh Beidou, phiên bản GPS của Trung quốc đã triển khai.
 
Các quả phi đạn đang bay một cách mù lòa, nhưng nhìn từ chính diện, tiết diện ra-đa của chúng khá nhỏ. Thêm vào đó là việc chúng không phát ra tín hiệu nào và lộ tuyến sát mặt nước khiến chúng khó bị phát hiện và theo dõi.
 
Tuy nhiên tất cả sẽ thay đổi trong vòng vài phần ngàn giây tới đây, khi mà chúng cùng lúc bật hết mức ra-đa truy lùng mục tiêu. Khi ấy, cả 40 quả phi đạn sẽ lập tức hiện rõ trên cảm biến của chiến hạm và máy bay Mỹ, tuy nhiên chúng sẽ bù đắp việc bị lộ diện bằng cách tăng tốc lên Mach 2.2 cho giai đoạn cuối của cuộc tấn công.
 
Phát ‘nhảy vọt’ siêu âm này chỉ chừa vài giây cho các phương tiện đánh chặn của đối phương nhận diện nguy cơ và phản ứng lại. Trên lý thuyết, khoảng thời gian để mục tiêu (chiến hạm) khai hỏa chống cự sẽ quá ngắn để có thể sử dụng hữu hiệu.
 
Lý thuyết này sắp được đem ra nghiệm chứng.
 
***
 
USS Towers:
 
Màn kịch diễn ra trên màn hình tác chiến thành hai cảnh, cách biệt bởi cả thời gian lẫn không gian. Phía tây nam, Cảnh Một đã gần như kết thúc rồi. Né tránh thế nào đi nữa thì các quả tên lửa SM-3 được chiến hạm phóng đi cũng vẫn đánh tan đám Bogies đang tới gần. Giờ phút này thì Bowie đã biết chắc rằng chúng chỉ là mồi nhử mà thôi.
 
Cảnh Hai đang diễn ra phía đông. Bốn mươi phù hiệu phi đạn đã xuất hiện và đang tiếp cận chiếc Midway với một tốc độ khó tin.
 
Hai phi tuần đang được điều đến để ngăn chặn nhóm Viper này, nhưng cũng như mọi người khác trong biên đội, họ đã bị lừa cho dời chú ý đến nơi khác. Cho dù đã bật buồng đốt hai, đợi đến khi các chiếc tiêm kích F/A-18 bay đến vị trí thì cuộc chạm trán đã kết thúc rồi.
 
Chiếc Midway cũng có lực lượng phòng không của chính nó: hai ụ phóng tên lửa ‘xoáy’ Rolling Airframe Missile (39), ba giàn phóng tên lửa Sea Sparrow (40) và bốn khẩu CIWS, loại súng Gatling 20 mm thường được gọi là Phalanx. Chiếc tàu sân bay này có thể tự bảo vệ nếu phải đối đầu với một số phi đạn hành trình vừa phải, bay với tốc độ cận âm. Nhưng mà số lượng Vipers đang tiếp cận không vừa phải tý nào cả và chúng lại bay với tốc độ siêu âm.
 
Vật duy nhất chặn giữa chiếc hàng không mẫu hạm và sự diệt vong là chiếc USS Frank W. Fenno, một chiếc khu trục hạm tên lửa dẫn đường lớp Arleigh-Burke (41) được bố trí ở phía đông vòng đai phòng thủ của biên đội.
 
Trong khi Bowie và nhân viên trong phòng hành quân CIC quan sát các màn hình chiến thuật, chiếc Fenno bắt đầu phóng tên lửa SM-3 từng chùm. Những phù hiệu tên lửa bạn chồng lên nhau và che lẫn nhau suốt nhiều giây, rồi bắt đầu tách ra, mỗi quả bay về hướng mục tiêu riêng của mình.
 
Chúng quá nhiều để có thể đếm bằng mắt thường trong khoảng thời gian chặn đánh ngắn ngủi, nhưng phần mềm của hệ thống Aegis đã cho biết tổng số. Tám mươi quả tên lửa. Chiếc Frank W. Fenno phóng tên lửa theo phương án ‘bắn-bắn-nhìn-bắn’. Phóng hai quả tên lửa nhắm vào mỗi quả Viper đang tiếp cận, theo dõi bằng ra-đa để xác định đã phá hủy được bao nhiêu, rồi lại bắn tiếp vào những quả Viper nào còn sống sót sau đợt công kích đầu.
 
Phản ứng đầu tiên của Bowie là cho rằng đó là một sai lầm, nhưng có lẽ không đúng thế. Hắn không biết chiếc tàu khu trục kia mang theo vũ khí như thế nào, nhưng có lẽ cũng không khác bao nhiêu so với chiếc Towers. Chiếc Fenno có khoảng 90 quả SM-3, xê xích chút đỉnh. Điều này có nghĩa là hạm trưởng của chiếc Fenno vừa phóng đi khoảng 90% số tên lửa phòng không trong đợt đầu tiên rồi. Thông thường, cái này không phải là một quyết định mà một hạm trưởng tàu khu trục khôn ngoan sẽ làm. Nhưng mà đám Viper lao đến quá nhanh. Chiếc Fenno sẽ không có cơ hội để bắn lần thứ nhì nữa. Những gì còn sống sót qua đợt đầu sẽ đánh trúng chiếc hàng không mẫu hạm chắc rồi.
 
Bowie dập ống nghe của điện thoại Đỏ Hải quân xuống bệ. “Trời ơi! Có cách nào chúng ta có thể giúp chiếc Fenno đánh chặn đám Viper này không?”
 
Viên sĩ quan Tác Chiến lắc đầu. “Không một hi vọng nào, hạm trưởng ạ. Cho dù chúng ta có xạ trường thông thoáng đi nữa, chúng cũng cách quá xa. Đợi đến khi đạn của chúng ta đến nơi, cũng đã quá muộn rồi.”
 
“Không có gì anh có thể làm cả.” Silva nói nhẹ.
 
Bowie quay sang. Nàng đang đứng kế bên hắn. Hắn thở hắt ra. “Tôi biết chứ. Nhưng mà tôi không thích chút nào.”
 
Hắn lại quay sang màn hình Aegis, nói. “Khốn kiếp! Khốn kiếp! Khốn kiếp! Khốn kiếp!”
 
***
 
Cuộc chạm trán diễn ra trên các màn hình lớn. Phù hiệu hai quả tên lửa bạn nhập vào phù hiệu một quả tên lửa địch khi các quả tên lửa đầu tiên của chiếc Fenno tiêu diệt một quả Viper. Rồi các phù hiệu chiến thuật giống như phi nước đại, phù hiệu xanh và đỏ nhấp nháy, giao thoa, biến mất và thay đổi vị trí bằng một tốc độ không thể nào theo dõi được.
 
Khi tất cả chấm dứt, 9 quả tên lửa địch vẫn còn trên màn hình, lao nhanh đến cái vòng tròn xanh lơ to tượng trưng cho chiếc hàng không mẫu hạm Mỹ.
 
***
 
USS Midway:
 
Đô đốc Zimmerman nắm chặt tay cầm của ghế và nhìn chăm chú các phù hiệu tên lửa đang lao nhanh đến trên màn ảnh chiến thuật lớn. Ông đã kiểm tra lại lần nữa dây cài an toàn của ghế. Ông không muốn bị hất văng trong căn phòng chỉ huy như một con búp bê vải khi những quả tên lửa khốn kiếp ấy đánh trúng.
 
Ông nghe các tiếng gào rú xa xôi khi các quả tên lửa RAM và Sea Sparrow lao đi, nhiều lần còn được nhấn mạnh bởi âm thanh sắc bén như kim loại bị xé của các khẩu CIWS đang bắn. Các phù hiệu tên lửa bạn nhấp nháy thoáng qua trên màn ảnh chiến thuật và phù hiệu địch biến mất. Một số Viper đã bị đánh gục rồi. Bao nhiêu quả bị hạ, ông cũng không biết, nhưng mà trên màn ảnh vẫn còn hai hay ba phù hiệu địch khi quả tên lửa địch đầu tiên húc vào bên phải của thượng tầng kiến trúc.
 
Đô đốc bị bắn vào dây an toàn mạnh đến nỗi ông có cảm giác như bị một gã võ sĩ đấm một quyền vào bao tử vậy. Ánh đèn nhấp nháy, nhưng hệ thống điện có vẻ không sao, ít nhất là trong phòng chỉ huy.
 
Tai ông kêu ù ù và mắt ông dường như không tập trung được. Ông ngửi thấy mùi khói và ông nghe được ai đó đang kêu la những gì nghe như mệnh lệnh, nhưng các từ trong âm thanh ấy không mang theo nghĩa lý gì đối với ông cả.
 
Ông ngẩng đầu lên và mắt ông tìm được các màn ảnh chiến thuật lớn. Bốn màn ảnh trong nhóm đã tối thui, nhưng màn ảnh tận cùng bên phải cho thấy cả đám ký hiệu đủ màu đang nhảy múa. Một dấu hiệu màu đỏ kỳ dị lao ngay vào giữa cái vòng tròn xanh lơ lớn.
 
Hai phù hiệu chạm vào nhau và đô đốc cảm thấy mình lại bị hất mạnh vào dây an toàn một lần nữa.
 
Đèn đuốc tắt hết.
 
-=-=-=-=-=-
Chú Thích:
(36) Mach: đơn vị đo lường tốc độ bay. Mach 1 là tốc độ âm thanh, khoảng 340 m/giây hay 1.200 km/giờ. Thí dụ, Mach 2 = hai lần tốc độ âm thanh; Mach 0,8 = 0,8 X 1,200 km/giờ = 980 km/giờ.
 
(37) SM-3, RIM-161 Standard Missile 3: tên lửa phòng không của Hải quân Hoa Kỳ là một thành phần của hệ thống chống tên lửa đạn đạo Aegis, có khả năng chống tên lửa đạn đạo tầm ngắn và trung, và chống vệ tinh ở quỷ đạo thấp. Ngoài hải quân Hoa Kỳ, hải quân Nhật cũng triển khai loại tên lửa này. Ngoài ra, phiên bản phóng từ mặt đất cũng được sử dụng ở Ba Lan và Romania. Phiên bản mới nhất có tầm hoạt động lên đến 2.500 km và cao độ 1.500 km, tốc độ 4,5 km/giây (Mach 15,25).
 
(38) 3M-54E2 Klub là phi đạn do Nga sản xuất. Dòng phi đạn đa năng hai tầng này gồm nhiều loại đầu đạn khác nhau: chống tàu, đối đất và chống tàu ngầm; và nhiều loại động cơ khác nhau gồm nhiên liệu rắn/rắn, tua-bin/rắn. Hiện tại, chỉ có phiên bản 3M-54E1; tác giả hư cấu phiên bản 54E2 có thể bay thấp hơn (3,5 m thay vì 5-10 m), do đó càng khó bị phát hiện hơn. Phiên bản phi đạn hành trình còn được gọi là Kalibr 3M-14 và 3M-14T đã được Nga bắn vào Syria từ chiến hạm lớp Gepard và Buyan-M cuối năm 2015 (tháng 10-11) và từ tàu ngầm Kilo. Tàu ngầm Kilo của Việt Nam được trang bị phiên bản 54E hay 54E1; một số tàu mặt nước Việt Nam được trang bị phiên bản 54TE có đặc tính tương tự như 54E1. Phiên bản 54E1 mang đầu đạn nặng 400 kg và có tầm bắn 300 km (phiên bản 54E đầu đạn 200 kg, tầm 220 km). Phi đạn này bay sát mặt nước với tốc độ Mach 0,8, rồi khi tiếp cận mục tiêu, lao nhanh đến với tốc độ hơn Mach 2. Dòng phi đạn chống tàu này có khả năng lẫn tránh với góc độ và tốc độ cao khi bị ra-đa từ mục tiêu theo dõi, thay vì chỉ bay đường thẳng như nhiều loại phi đạn chống tàu khác.
     
Cần ghi nhận là các phiên bản xuất khẩu như 54E đều có công năng kém hơn phiên bản nội địa dành cho lực lượng quân sự Nga rất nhiều. Dòng phi đạn này được khối NATO mệnh danh là SSN-27 Sizzler.
 
(39) Rolling Airframe Missile (RAM), RIM-116 là loại tên lửa phòng thủ tầm ngắn cho chiến hạm, được thiết kế bởi một nhánh của hãng General Dynamics (nay đã được hãng Raytheon mua lại) từ năm 1976 cho hải quân Đan Mạch, Tây Đức; về sau, Đan Mạch rút lui, nhưng hải quân Hoa Kỳ lại tham gia. Tên lửa được triển khai từ năm 1992 và được liên tục nâng cấp về mọi phương diện (tên lửa, ra-đa điều khiển, ổ chứa) cho đến ngày nay. Tên lửa được thiết kế để phòng thủ chống phi đạn và có khả năng truy lùng
                 
mục tiêu bằng hệ thống hồng ngoại và tín hiệu ra-đa do chính mục tiêu phát ra.
 
(40) Sea Sparrow RIM-7 là tên lửa phòng thủ phi đạn chống hạm. Tên lửa này được triển khai từ tên lửa Sparrow, một loại tên lửa không-đối-không từ thập niên 1960. Dòng tên lửa Sparrow ban đầu không được hữu hiệu lắm trong chiến tranh Việt Nam, nhưng dần dần được nâng cấp và trở nên rất đáng sợ. Đây là loại tên lửa truy lùng mục tiêu nhờ vào ra-đa của chiến hạm (hay của máy bay tiêm kích khi được sử dụng không đối không) chiếu rọi. Cho đến ngày nay, tên lửa này vẫn còn được sử dụng qua nhiều lần nâng cấp và có thêm công năng hạm-đối-hạm. Tầm hoạt động là 19 km, tốc độ bay 4.250 km/giờ, đầu đạn 41 kg.
       
 
(41) Arleigh-Burke, lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường của Hải quân Hoa Kỳ đầu tiên được thiết kế dùng hệ thống tác chiến Aegis làm trụ cột (trước kia, Aegis chỉ được sử dụng trên tuần dương hạm lớn hơn). Đây là một lớp tàu khu trục đa năng: chống không, chống ngầm và chống tàu mặt nước. Lớp mới nhất có lượng choáng nước là 9.800 tấn, dài 155 m, rộng 20m. Tàu được trang bị 96 ống phóng tên lửa thẳng đứng, có khả năng phóng các loại tên lửa và phi đạn hành trình của Hải quân Hoa Kỳ như Tomahawk, RIM-66M, RIM-161; ngoài ra còn có hai bệ phóng phi đạn chống tàu Harpoon; một khẩu đại bác 127 mm, một khẩu Phalanx CIWS và hai đại bác 25mm; hai dàn phóng tổng cộng 6 ống ngư lôi. Tàu mang theo 1 trực thăng MH-60R Seahawk. Đây là tàu khu trục trụ cột của Hải quân Hoa Kỳ, được đánh số từ DDG-51 đến 126.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2016 02:51:15 bởi Quang11 >
#46
    Quang11 09.09.2016 03:11:11 (permalink)
    0
    Chương 44
    Phòng Tình Huống, Nhà Trắng
    Thủ Đô Washington
    Thứ Hai, 1 Tháng 12, 09:48 giờ địa phương
     
    Tổng thống Wainright lật bìa màu xanh lơ của tập hồ sơ và bắt đầu đọc lướt qua trang đầu của tập thuyết trình bên trong. Sau khi lướt qua tài liệu gần hai phút, ông ngẩng đầu lên. “OK, tôi đã xem các đồ thị và số liệu rồi. Bây giờ, tôi muốn ai đó dịch ra thành tiếng Anh cho tôi đi.”
     
    Ông đóng tập hồ sơ lại và đặt nó lên mặt bàn. “Tệ hại đến mức nào vậy?”
     
    Đô đốc Casey, Tham Mưu Trưởng Hải quân đứng lên. “Không khả quan, thưa ngài tổng thống.”
     
    Ông hướng cần điều khiển từ xa vào cái màn ảnh chiếm cả vách tường của phòng Tình Huống. Huy hiệu của Tổng thống được thay thế bởi một loạt hình chụp chiếc hàng không mẫu hạm USS Midway. Chiếc tàu này đang nghiêng bên phải ở góc 15 hay 20 độ. Nhiều bức hình cho thấy khói cuồn cuộn bốc lên từ một lỗ hổng ở thượng tầng kiến trúc và một lỗ hổng khác to hơn thấp trên thân tàu. Hình cận cảnh của hai chỗ hư hại này rõ ràng là được chụp một khoảng thời gian sau khi xảy ra, sau khi hỏa hoạn đã được dập tắt.
     
    “Cái chúng ta đang nhìn là nơi hai phi đạn chống hạm đánh trúng.” Viên đô đốc tham mưu trưởng nói. “Dựa theo lộ trình phi hành, tín hiệu điện tử phát ra và đánh giá thiệt hại, chúng tôi tin rằng cả hai phi đạn này đều là phiên bản SSN-27 Sizzler của Trung quốc được phóng từ máy bay tiêm kích.”
     
    Màn ảnh lần lượt chiếu qua hơn 10 hình cận cảnh khác, được chụp từ nhiều góc khác nhau. Từ tầm xa ảnh được chụp, nơi trúng đạn nhìn giống như những cái hố sâu. Mép của hai lổ hổng bị nám đen và loang lỗ, các kết cấu bằng thép và nhôm của chiếc tàu khổng lồ bị nghiền nát, cháy nám và vặn cong một cách hỗn loạn.
     
    Đô đốc Casey bấm nút ngưng chiếu các bức hình. Trên màn hình lúc này là một bức hình chụp từ tầm xa trung bình của toàn bộ chiếc tàu bị thương, rõ ràng là được chụp từ một chiếc trực thăng. Độ nghiêng của thân tàu càng thêm rõ ràng so với các bức hình trước.
     
    “Như ngài có thể thấy đó,” viên đô đốc nói, “một quả phi đạn đánh trúng ngay ở vạch nước, gây thiệt hại ở những phần bên trên lẫn bên dưới mực nước và đục thủng thân tàu làm ngập nước nghiêm trọng. Điều này làm cho tàu bị nghiêng hẳn về bên phải, mà nước chửa cháy được bơm vào lại càng làm ngập nghiêm trọng hơn nữa.”
     
    Vị Tham Mưu Trưởng đặt cần điều khiển xuống bàn họp. “So với mức thiệt hại nghiêm trọng như thế, thiệt hại nhân sự tương đối nhẹ. Sáu tử vong và 19 bị thương. Ba trong số người bị thương đang trong tình trạng nguy kịch và một số hay tất cả những người này có thể sẽ không qua khỏi.”
     
    Tổng thống thở dài nặng nề. “Chúng ta biết những gì về vụ tập kích này?”
     
    Bà Tổng Trưởng Quốc Phòng cũng đậy tập hồ sơ của bà ta lại và đứng lên. “Thưa ngài Tổng thống, không cần nói chi tiết, nhưng nói tóm lại là chúng ta bị lừa gạt.”
     
    Bà với lấy cần điều khiển từ xa và đô đốc Casey đưa nó cho bà ta.
     
    Bà bấm vài nút và hình ảnh của chiếc hàng không mẫu hạm bị thương được thay thế bởi bản đồ của vịnh Bengal. Ba phù hiệu màu xanh lơ tượng trưng cho ba chiếc tàu khu trục của Hải quân Hoa Kỳ tạo thành một tam giác, ở trung tâm là dáng chiếc hàng không mẫu hạm.
     
    “Cuộc tập kích diễn ra trong hai đợt.” Bà Bộ Trưởng Quốc Phòng nói. “Đợt đầu tiên được phát hiện vào khoảng 17:28, chính là 5 giờ 28 chiều giờ địa phương.”
     
    Bà bấm nút và một nhóm hình dáng máy bay màu đỏ xuất hiện bên trái và hơi ở phía dưới biên đội hàng không mẫu hạm. “Hai mươi máy bay tiêm kích tiếp cận từ hướng tây nam. Chúng ta không rõ đích xác là loại khí tài nào được sử dụng, nhưng dường như cả đợt này đều là máy bay không người lái được trang bị những hệ thống điện tử đánh lừa tiên tiến. Chúng tôi hoài nghi là chúng được phóng đi từ chiếc hàng không mẫu hạm Trung quốc, nhưng hiện nay điều này cũng vẫn là giả thuyết mà thôi. Chúng đã thành công mô phỏng rất giống một nhóm máy bay tiêm kích J-10 của Trung quốc. Mà, bởi vì hướng bay và đặc điểm trên ra-đa của chúng, chúng bị nhận diện lầm là cuộc tập kích thật sự nhắm vào chiếc Midway.”
     
    Bà lại bấm nút và một nhóm hình dáng tên lửa màu đỏ xuất hiện phía bên phải của biên đội hàng không mẫu hạm. “Đợt thứ nhì xuất hiện từ phía đông, khoảng 10 phút sau, khi mà các tàu hộ vệ và máy bay đang giao chiến với nhóm mồi nhử trong đợt đầu tiên. Đợt thứ nhì gồm có 40 phi đạn chống hạm, tất cả đều nhắm vào chiếc tàu sân bay của chúng ta.”
     
    Bà gật đầu về phía viên tham mưu trưởng Hải quân. “Như đô đốc Casey đã nói qua, các phi đạn này có lẽ là phiên bản SSN-27 Sizzler được phóng từ máy bay của Trung quốc. Máy bay phóng phi đạn không hề được phát hiện, khiến cho chúng tôi đoán rằng các máy bay tập kích ấy đã bay rất sát mặt nước và phóng phi đạn ngay ở tầm tối đa của phi đạn SSN-27. Khoảng 290 km. Các quả phi đạn ấy không hề bị phát hiện cho đến khi chúng bật ra-đa lên cho đoạn đường cuối cùng và gia tốc lên Mach 2.”
     
    Bà ta lại bấm nút và chiếc tàu khu trục ở rìa phía đông của biên đội sáng lên. “Chiếc duy nhất ở vị trí có thể giao chiến là chiếc USS Frank W. Fenno. Khoảng thời gian để nhắm bắn rất eo hẹp, nhưng chiếc Fenno cũng hạ sát được 31 quả phi đạn. Vũ khí tự vệ của chiếc Midway thành công bắn hạ bảy trong số chín quả còn lại.”
     
    Bà bộ trưởng Quốc Phòng ngồi xuống. “Hai quả phi đạn cuối cùng lọt qua được. Và chúng ta đã thấy hậu quả rồi đó.”
     
    Tổng thống Wainwright nhìn vào bản đồ trên màn hình lớn. “Như vậy cái đợt thứ nhì ấy, những chiếc máy bay tập kích cũng bay từ chiếc tàu sân bay Trung quốc sao?”
     
    Viên Tham Mưu Trưởng lắc đầu. “Có lẽ không phải, thưa ngài tổng thống. Để tránh ngoài tầm ra-đa của biên đội của chúng ta, máy bay từ chiếc Liêu Ninh phải bay vòng về phía đông, qua các đảo Andaman và Nicobar, rồi bay lên phía bắc và dọc theo chiều dài của biển Andaman; sau đó, chúng phải quẹo sang phía tây, ngược trở về vịnh Bengal. Cho dù có được tiếp tế nhiên liệu trên không nhiều lần, điều này cũng vẫn vượt quá khả năng của máy bay của tàu sân bay Trung quốc. Mà sau đó, chúng còn phải quay ngược lại và bay ngược lại hành trình đó để quay về.”
     
    “OK,” tổng thống nói, “chúng từ đâu đến chứ?”
     
    “Chúng tôi không biết chắc,” bà bộ trưởng Quốc Phòng nói, “nhưng đoán là Miến Điện. Họ có chung biên giới với Trung quốc và Trung quốc là một đồng minh thân cận với Miến Điện và một trong những đối tác thương mại hàng đầu của họ. Chúng tôi không nghĩ là quân đội Miến Điện chính là kẻ làm ra vụ tập kích này, nhưng có thể họ đã cho phép các sân bay quân sự của họ được sử dụng như địa điểm tập họp cho máy bay tiêm kích Trung quốc.”
     
    Tổng thống nén nhăn mặt. Nước Cộng Hòa Miến Điện không ưa thích gì Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã trừng phạt kinh tế nước này từ cuối thập kỹ 1990 để trừng phạt chính phủ Miến Điện vi phạm nhân quyền càng ngày càng trầm trọng từ suốt nhiều thập kỷ.
     
    Trong những ngày tháng mà ông còn ở Thượng Viện, chính Wainright đã dẫn đầu một vụ vận động gồm nhiều nước để thuyết phục khối Liên Minh Âu châu thắt chặt hơn các trừng phạt kinh tế của họ chống lại Miến Điện. Chính phủ Miến Điện không có lực lượng quân sự hay kinh tế để trực tiếp chống lại Hoa Kỳ, nhưng họ rất có thể sẵn lòng lợi dụng thời cơ để giúp các bạn bè Trung quốc của họ thọc vào mắt Mỹ một phát thật đau.
     
    “Thôi được rồi.” Tổng thống nói. “Chúng ta có những lựa chọn nào?”
     
    Suốt nhiều giây, không ai lên tiếng.
     
    Cuối cùng, vị Tham Mưu Trưởng chồm người ra phía trước. Lớp da nhăn nheo trên khuôn mặt rám nắng của ông trông rất giống bức tranh trứ danh Ngư Phủ Gloucester do Joseph Margulies vẽ. “Nói thật ra, thưa ngài tổng thống, tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta tăng độ lửa lên rồi. Ngay trước khi vụ tập kích vào chiếc Midway xảy ra, chúng ta đã công bố Quy Định Tác Chiến mới cho các lực lượng hải quân trong vùng rồi. Từ khi xảy ra vụ tập kích, chúng ta vẫn đang trong tư thế phòng thủ. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên tiếp tục kế hoạch và tấn công chiếc tàu sân bay Trung quốc và mọi đơn vị quân sự của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trong khu vực.”
     
    Ông tổng thống lắc đầu. “Thượng Đế ơi, tại sao chúng ta lại đi đến mức chạm súng với Hải quân Trung quốc chứ?”
     
    Đô đốc Casey nhướng mày. “Chắc đó là một câu hỏi tu từ, phải không, thưa ngài tổng thống?”
     
    “Không đâu, không tu từ đâu.” Ông tổng thống nói. “Sáng nay, khi đồng hồ báo thức vang lên, tôi không nghĩ là chúng ta sẽ lâm chiến với nước CHNDTH trước giờ ăn trưa đó!”
     
    “Thưa ông, chúng ta không ở trong tình trạng chiến tranh.” Bà bộ trưởng Quốc Phòng nói. “Giao tranh đã leo thang xa hơn những gì chúng ta dự trù, nhưng vẫn còn là một vụ xung đột khu vực, với mức hành quân giới hạn. Chúng ta không ở trong tình trạng chiến tranh với nước CHNDTH.”
     
    Ông tổng thống nhìn sang bà. “Nhưng mà tình hình không có dấu hiệu gì là sẽ bình ổn xuống, phải không? Nó đang leo thang, như bà đã vạch ra đó. Bà có dám bảo đảm là cuộc xung đột này sẽ không lan rộng ra cho đến khi chúng ta lâm vào chiến tranh với Trung quốc không?”
     
    “Thưa ngài, không ạ.” Bà bộ trưởng nói. “Tôi không thể bảo đảm gì hết. Tất cả những gì tôi có thể cống hiến là những lời khuyên tốt nhất của tôi thôi. Mà tôi trang trọng tin rằng nếu chúng ta thối lui lúc này, thì sẽ có chiến tranh đó!”
     
    Đô đốc gật đầu. “Thưa ngài tổng thống, chúng ta nhảy vào vụ cẩu chiến này là để ngăn chặn Ấn Độ phá hủy đập Tam Hiệp. Nếu chúng ta thối lui bây giờ, người Ấn Độ sẽ thi hành cuộc tập kích ấy của họ, như đã lên kế hoạch. Mà ông cũng nhớ điều gì sẽ xảy ra sau đó… Ngập lụt thảm thiết ở lưu vực sông Dương Tử. Ba thành phố lớn sẽ bị xóa sạch và phân nửa cơ sở công nghiệp của Trung quốc sẽ trôi ra biển. Số thương vong lên đến hàng mấy chục triệu người, có thể cả trăm triệu người. Khi Trung quốc phản kích, mà chắc chắn họ sẽ phản kích, họ sẽ đánh cho Ấn Độ trở về thời Đá Đẻo đó!”
     
    “Tôi đồng ý.” Bà bộ trưởng Quốc Phòng nói. “Chúng ta có thể sẽ chứng kiến một cuộc giao tranh bằng vũ khí hạt nhân toàn diện giữa Trung quốc và Ấn Độ. Nhưng mà, cho dù những cuộc phản kích không đến mức hạt nhân đi nữa, con số thương vong cũng vẫn vượt xa tổng số thương vong của Thế Chiến Thứ Hai.”
     
    “Và còn có một khía cạnh khác trong vụ việc này nữa.” Đô đốc Casey nói. “Nếu chúng ta bị đánh sặc máu mũi, mà lại rút lui khỏi cuộc chiến, mức răn đe của nước ta tạo ra sẽ trôi xuống cống mất thôi. Chúng ta sẽ ra hiệu cho toàn thế giới rằng Trung quốc là lực lượng quân sự chủ yếu trên địa cầu. Chẳng khác nào chúng ta trao cương cho họ vậy.”
     
    Ông tổng thống ngồi im suốt nhiều giây. Cuối cùng, ông chậm rãi gật đầu. “OK. Chúng ta ở lại vòng chiến vậy. Xem ra bất cứ lựa chọn nào khác cũng chỉ đưa đến càng nhiều đổ máu về lâu về dài thôi.”
     
    Ông quay sang vị đô đốc. “Chúng ta có sẵn sàng cho chuyện này không? Phương tiện chiến đấu chủ yếu của chúng ta đã bị hư hại rồi. Có thể là tàn phế nữa. Theo tôi thấy, chúng ta có thể là không có sức để làm chuyện này.”
     
    “Chúng ta sẽ phải chuyển thêm vài khí tài đến khu vực hành động.” Đô đốc Casey đáp. “Nhưng bước đầu của chúng ta phải làm là gửi lời đến cho các đơn vị trong khu vực. Tấn công đám người xấu và tấn công ngay tức khắc.”
     
    Tổng thống Wainright xoa nắn sau gáy. “Họ làm được không?”
     
    Viên Tham Mưu Trưởng nghiêm trọng gật đầu. “Nếu chúng ta ra lệnh cho họ, thưa ngài tổng thống, tôi xin hứa với ngài rằng họ sẽ làm được.”
     
    #47
      Quang11 09.09.2016 03:13:19 (permalink)
      0
      Chương 45
      USS Towers (DDG-103)
      Vịnh Bengal
      Thứ Ba, 2 tháng 12, 03:17 giờ địa phương
       
      Katherine Silva đang nằm mơ về thành phố Savannah khi điện thoại reng vang. Những đoạn ký ức về thời thơ ấu dính chằn vào nhau không theo thứ tự nào cả.
       
      Những viên đá lát trên con đường River ẩm ướt và bóng loáng sau cơn mưa đêm. Những ngọn sóng bập bềnh trên con sông đen tối phản chiếu lại ánh đèn từ tiệm ăn và các gian hàng. Ngọn gió mang theo mùi muối mặn chát của đại dương và mùi vị của các thành phố, quốc gia và cả những đại lục đâu đó dưới lằn chân trời.
       
      Khi ấy, Kat 8 tuổi. Bố nàng có dáng người cao lớn ấm áp dưới ánh đèn đường vàng vọt. Cả thế giới đang nằm ở phương xa kia, nàng biết chắc như thế. Nàng đã biết thế ngay từ lần đầu nàng nhìn thấy dòng sông và cửa sông mở rộng ra đại dương chỉ cách nơi nàng đang đứng vài km. Đối với nàng, thế giới không phải là ở nơi này, trên bờ sông này, hay ít nhất là những phần quan trọng nhất của thế giới. Chúng ở phương xa kia, nơi mà bầu trời chạm vào đại dương.
       
      “Con sẽ làm một hải tặc.” Nàng nói bằng một giọng trang trọng.
       
      Bố nàng không hề bật cười. Ông nói. “Bố tưởng con muốn làm thuyền trưởng một tàu đánh tôm mà?”
       
      “Hay là hải tặc cũng được.” Kat nói. “Hay đóng một chiếc tàu cho riêng con và chu du vòng quanh thế giới.”
       
      Nàng dang rộng đôi tay để bao gồm cả con sông lẫn đại dương ở cuối con sông, nói. “Con muốn được ở ngoài kia kìa.”
       
      Bố nàng gật đầu. “Bố biết.” Mà ông quả thật đã biết.
       
      ***
       
      Bây giờ, Kat đang 12 tuổi, đứng trên sàn gập ghềnh của chiếc bè tự chế, tay bám chặt vào cột buồm của chiếc bè chòng chành trên sóng. Được chế từ hai tấm nâng hàng bằng gỗ nối lại với bằng vài tấm ván gỗ phế liệu được đóng đinh lại, chiếc bè được làm nổi bằng ba cái ruột bánh xe tải và sáu bình sửa; tất cả được cột cẩn thận bên dưới hai tấm nâng hàng bằng dây nhợ.
       
      Nàng đặt tên cho chiếc bè là Spray, theo tên chiếc thuyền một cột buồm trứ danh của Joshua Slocum, người đầu tiên lái tàu buồm quanh trái đất một mình.
       
      Đây là chuyến đi đầu tiên của chiếc Spray và Kat chỉ định đi một chuyến ngắn thôi. Chỉ một vòng nhỏ trên sông Wilmington, dùng chiếc buồm làm từ tấm ga trải giường để đi ngược dòng, rồi xuôi theo dòng trở về điểm xuất phát.
       
      Nhưng Kat đã không làm sống thuyền cho chiếc bè, nó là một bộ phận cần thiết hơn là nàng tưởng tượng. Tha hồ cho nàng căng buồm hay bẻ bánh lái được làm từ ván ép, chiếc bè cứ trôi theo dòng sông. Lúc này, nàng đã rời bến được mấy giờ rồi, cố gắng nhích lại gần bờ hơn trong khi chiếc bè tiếp tục trôi dạt xuống hạ lưu.
       
      Nàng biết là nàng đã bị cháy nắng nghiêm trọng rồi và nàng đã uống cạn chai 7-Up từ lâu, mà nó cũng là số lương thực duy nhất được mang theo cho chuyến đi này. Giữa lòng sông, một chiếc du thuyền thon dài sơn xanh lơ đang chạy ngược dòng một cách dễ dàng.
       
      Kat nghĩ đến việc vẫy tay gọi chiếc thuyền ấy lại, nhưng nàng quá kiêu hãnh để xin được cứu. Nàng không hề bị thương và chiếc bè vẫn còn tốt, mặc dù không thể nào bẻ lái được. Nàng phải đưa chiếc Spray về bến. Là thuyền trưởng, đó là phận sự của nàng.
       
      Nàng dùng tay che nắng và quan sát địa hình ven sông. Chẳng bao lâu nữa, nàng sẽ trôi ngang qua bến thuyền đánh tôm ở Thunderbolt và nàng tin rằng nàng sẽ cập đủ gần để có thể bám vào mỏm một bến tàu.
       
      ***
       
      Lúc này, Kat 5 tuổi, đang ngồi khoanh chân dưới một gốc cây sồi phủ rêu gần bờ ao của công viên Daffin. Nửa ổ bánh mì trắng đã cũ đặt nơi chân. Nàng đang chăm chú trong công việc, cẩn thận xé từng lát bánh thành độ một chục miếng nhỏ và ném chúng cho một lũ vịt ân cần.
       
      Bọn vịt bơi thành vòng tròn và vỗ cánh, đầu vọt nhanh để kẹp những mẫu bánh khi chúng rơi xuống nước, đôi khi còn chụp được một miếng đang bay trên không. Chúng kêu quàng quạc, ồn ào và thích thú. Kat cười rộ sung sướng và lại cầm lên lát bánh khác.
       
      ***
       
      Thế rồi điện thoại reo lên và giấc mộng tan biến như một bong bóng xà phòng nổ bụp.
       
      Kat Silva mở một mắt ra và mò mẩm điện thoại cạnh giường. Nàng kéo ống nghe ra khỏi bộ phận kẹp giữ và áp vào tai. “Trung Tá Silva nghe đây.”
       
      Tiếng nói bên kia đường giây nhanh nhẹn và tỉnh táo. “Trung tá, đây là sĩ quan điều hành. Đại tá Bowie đang triệu tập một buổi họp chiến lược với mọi sĩ quan cao cấp trong phòng ăn trong vòng 15 phút tới. Ông ấy hi vọng trung tá có thể tham dự.”
       
      Silva nheo mắt nhìn những con số sáng đèn trên đồng hồ. Nàng nói. “Hiểu rồi. Tôi đến đây.”
       
      Nàng mò mẩm tìm nút đèn, bật đèn lên và lăn xuống giường. Nàng rất muốn leo trở vào chăn và tiếp tục ngủ. Cũng không phải nàng cẩn nghỉ ngơi gì. Nàng đã quen thức dậy vào bất cứ giờ nào, và nàng đã tập được từ lâu làm thế nào để tỉnh táo ngay lập tức và đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ.
       
      Vấn đề là nàng không hề có nhiệm vụ nào cả. Vụ Trung quốc tập kích đã chứng minh điều đó. Bowie đã chỉ huy chiếc tàu chiến này qua suốt vụ chạm trán, tiếp nhận các báo cáo, nhận định tình huống và ban phát mệnh lệnh. Kat chỉ đứng vẩn vơ bên cạnh, với hai tay thọt trong túi mà thôi. Có lẽ nàng đã không thốt ra quá 5-6 chữ suốt thời gian ấy, mà không một chữ nào có chút ích lợi hay sâu sắc gì cả.
       
      Nàng đã tiến lên chiếc Towers để nhận trách nhiệm chỉ huy. Thay vì thế, nàng đang đối diện với thực chiến lần đầu tiên trong đời và nàng chỉ có mặt như một khách qua đường mà thôi.
       
      Cái đó không phải do lỗi của Jim Bowie. Nó chỉ là một trục trặc thời gian mà thôi. Nếu vụ rắc rối giữa Trung quốc và Ấn Độ xảy ra chậm hai tuần thôi, nàng đã là người chỉ huy khi chiếc Towers được triển khai rồi. Đây chỉ là vận mệnh mà thôi, không là cái gì khác hơn.
       
      Jim rõ ràng đã cố gắng để làm mọi thứ dễ chịu hơn cho nàng. Hắn đã thận trọng để nàng tham dự vào mọi vận hành trong nhóm chỉ huy cao nhất và nàng rất hân thưởng điều đó. Nhưng mà tình huống này thật là làm người ta bực bội. Đáng lý mọi việc không thể xảy ra như thế này được.
       
      Náng với tay lấy một bộ quần áo mới ủi. Nàng còn đủ thời gian để rửa mặt và chải sơ mái tóc trước khi tiến vào buổi họp.
       
      ***
       
      Silva bước vào phòng ăn khoảng năm giây trước viên sĩ quan điều hành, Thiếu Tá Brian Matthews. Trong khi Silva ngồi xuống một cái ghế, viên sĩ quan điều hành liếc mắt điểm danh số sĩ quan đang ngồi quanh bàn. Sĩ quan cầm đầu mọi ban ngành trên tàu đều đã có mặt. Viên sĩ quan hành quân, Đại Úy Sue Meyer, đang ngồi trong ghế quen thuộc của cô ta đối diện với cửa ra vào. Bên trái cô là viên sĩ quan Hệ Thống Tác Chiến, Đại Úy Ben Lambert; bên phải là Kỹ Sư Trưởng, Thiếu Tá Chris Bronson và sĩ quan Quân Nhu, Đại Úy Pat Connelly.
       
      Viên sĩ quan điều hành nhấc điện thoại và bấm ba số. “Chúng tôi đã sẵn sàng rồi, thưa Đại tá.”
       
      Đại tá Bowie bước vào khoảng bốn phút sau. Hắn gật đầu chào toàn thể các sĩ quan và tự rót cho mình một tách cà-phê trước khi ngồi vào ghế ở đầu bàn.
       
      “Tôi xin lỗi vì giờ giấc trễ thế này và vì khẩn cấp triệu tập mọi người.” Hắn nói. “Tôi biết là nhiều người trong quý vị chưa được ngủ bao nhiêu.”
       
      Đại Úy Meyer suýt đáp lại theo phản ứng tự nhiên, nhưng dừng lại vừa kịp lúc. Cô ta là một người hăng hái, không cho phép mình ngủ nghỉ bao nhiêu. Nhận xét đắc ý nhất của cô về vấn đề ngủ nghe rất thô lỗ, không hợp thời và còn có tính cách khiêu khích tình dục nữa. “Ngủ chỉ để dành cho pussies (ND: pussy = tiếng lóng chỉ phụ nữ, nhưng cũng có nghĩa là âm hộ).” Tuy nhiên lúc này là hạm trưởng đang nói, cô đành quyết định im miệng vậy.
       
      Bowie nói tiếp. “Tình hình chiến thuật của chúng ta đã thay đổi rồi và chúng ta cần phải làm vài quyết định. Xét đến những hư hại do cuộc tập kích hồi chiều qua, đô đốc Zimmerman đã quyết định đưa chiếc Midway ra khỏi vịnh Bengal.”
       
      Viên sĩ quan điều hành có vẻ kinh ngạc. “Chúng ta rút lui ra khỏi khu vực hành quân sao?”
       
      Bowie mỉm cười. “Cái đó còn tùy anh định nghĩa từ ‘chúng ta’ như thế nào đã. Chiếc tàu sân bay khẳng định là rút đi rồi, nhưng đô đốc đang định tách hai chiếc khu trục ra để hoạt động độc lập. Vì vậy mà tôi triệu tập buổi họp vào cái giờ giữa đêm này. Đô đốc đã ra lệnh cho chúng ta lập một kế hoạch để tiêu diệt các tàu hộ vệ cho chiếc tàu sân bay Trung quốc. Ông ấy muốn ít nhất là một phương sách sơ khởi lúc sáu giờ sáng.”
       
      Đại tá Bowie nhìn đồng hồ. “Điều đó cho chúng ta được khoảng hai giờ rưỡi để lập ra một kế hoạch sơ khởi cho một cuộc tấn công.”
       
      Đại úy Meyer chu môi. “Tại sao lại suy tính đến mấy chiếc tàu hộ vệ ấy chứ? Mối nguy lớn nhất là phi đoàn Trung quốc. Chúng ta nên tấn công vào chiếc hàng không mẫu hạm thì hay hơn.”
       
      “Đô đốc Zimmerman đã có kế hoạch cho chuyện ấy rồi.” Bowie nói. “Ông ấy sẽ dùng lực lượng không quân của chiếc Midway để đánh gục chiếc Liêu Ninh. Phận sự của chúng ta là làm suy yếu biên đội Trung quốc để chuẩn bị cho cuộc tấn công chính.”
       
      “Tôi tưởng đâu chiếc Midway đã bị loại khỏi vòng chiến rồi mà.” Viên sĩ quan điều hành nói. “Làm cách nào nó có thể phóng máy bay được?”
       
      “Người ta đã bảo là không cần phải lo về việc đó.” Bowie nói. “Đô đốc Zimmerman đã có kế hoạch rồi. Chúng ta chỉ cần tập trung vào việc xóa sạch đám tàu hộ vệ thôi.”
       
      Viên sĩ quan phụ trách Hệ Thống Tác Chiến nhướng một bên lông mày. “Xóa sạch chúng à?”
       
      “Phải.” Bowie đáp. “Chúng ta không phải chỉ loại chúng ra khỏi vòng chiến. Mệnh lệnh của chúng ta là đánh chìm chúng. Tất cả tàu hộ vệ trong biên đội Trung quốc.”
       
      Đại tá Bowie dừng lại để nhóm sĩ quan hấp thu lời của mình. Không phải đánh thương tàu Trung quốc. Không phải đánh bại chúng. Mà là đánh chìm chúng. Hủy diệt chúng hoàn toàn.
       
      Sau nhiều giây im lặng, Trung tá Silva lên tiếng. “Còn các chiếc tàu ngầm Trung quốc thì sao? Chúng ta có tấn công chúng không? Hay chúng ta tìm cách tránh né chúng?”
       
      “Chiếc USS California được lệnh chăm sóc tàu ngầm địch.” Bowie nói. “Nếu lỡ chúng ta đụng phải một chiếc, chúng ta được phép tấn công nó. Nhưng chúng ta không thể chủ động tìm cách săn tàu ngầm.”
       
      Viên sĩ quan Hệ Thống Tác Chiến giơ một ngón tay lên. “Tôi đoán là chúng ta sẽ hành động chung với chiếc Donald Gerrard…”
       
      “Đúng rồi.” Bowie nói. “Chiếc Fenno đã phóng mất 80 quả tên lửa rồi, cũng chính là phần lớn đạn dược của nó. Do đó, nó sẽ đi theo chiếc Midway để phòng vệ. Như vậy, chỉ còn hai chiếc Towers và Gerrard để làm công việc bẩn thỉu này thôi.”
       
      Hắn uống một ngụm cà-phê và đặt tách xuống bàn. “Đó là tất cả thông số cho công tác này. Bây giờ, chúng ta chỉ cần có một kế hoạch để thi hành tốt mà thôi.”
       
      Không ai nói năng gì suốt nhiều phút, trong khi mọi người đều nghiềm ngẫm vấn đề và suy nghĩ một phương án chiến thuật khả thi.
       
      Lần nữa, lại là Trung Tá Silva phá tan im lặng. Nàng nói. “Tôi nghĩ chúng ta nên cuốn gói chạy cho nhanh. Chiếc Midway đã rút đi rồi và chúng ta cũng nên làm thế. Rút lui toàn bộ. Hãy nhìn nhận là chúng ta đã bị đá vào mông một phát thật đau và chạy về nhà đi thôi.”
       
      Ba-bốn người định đáp lại, nhưng Bowie giơ một tay lên. “Nói tiếp đi…”
       
      Silva nhìn qua các gương mặt chấn động và bàng hoàng quanh bàn. Nàng không nói ngay, hả hê vì khoảng thời gian khó tin ấy.
       
      Cuối cùng nàng nói. “Tôi đang nghĩ đến Tôn Tử. Cái đoạn trứ danh trong Tôn Tử Binh Pháp mà ông ta nói là mọi sự trong chiến tranh đều dựa vào trá ngụy… Tấn công khi bạn có vẻ như không có sức và cho địch tưởng là bạn ở nơi xa khi bạn đang ở gần bên. Tôi chưa bao giờ cố ý ghi nhớ đoạn văn ấy, nhưng mà khái niệm ấy có thể áp dụng vào hiện trạng của chúng ta rất tốt.”
       
      Không ai đáp lại, vì vậy nàng nói tiếp. “Bọn Trung quốc đánh chiếc INS Vikrant te tua. Hải quân Ấn Độ phản ứng lại bằng cách rút cả biên đội tàu sân bay lên tận vùng cực bắc của vịnh, nơi mà họ có thể dựa vào các lực lượng phòng thủ trên bờ và sự yểm hộ của không quân đóng trên đất liền. Cái đó cũng là một giải pháp hợp lý lắm chứ. Khi bạn bị phỏng ngón tay, thì bạn rút tay ra khỏi ngọn lửa mà… Thế thì… Bọn Trung quốc cũng đã đánh te tua chiếc tàu sân bay của chúng ta vậy, và chúng cũng biết là chúng ta chưa từng mất một chiếc tàu sân bay nào trong lúc chiến đấu, từ thời Thế Chiến Thứ Nhì đến nay. Chúng cũng biết tàu sân bay quan trọng ra sao cho sự bảo an quốc gia của chúng ta. Nếu chúng ta co cụm lại và hộ tống chiếc tàu sân bay ra khỏi khu vực nguy hiểm, tôi dám cá là họ sẽ cho rằng việc đó cũng là một giải pháp hợp lý vậy.”
       
      Bowie gật đầu. “Tiếp đi…”
       
      “Như vậy,” Trung tá Silva nói, “chúng ta cứ duy trì vị trí của mình trong vòng đai phòng thủ và hộ tống chiếc Midway rút lui khỏi vịnh Bengal, cho đến khi…”
       
      Viên sĩ quan điều hành đập mạnh bàn tay vào mặt bàn. “Cho đến khi chúng ta tiến đến lối vào giữa quần đảo Nicobar. Rồi chiếc Midway cứ tiếp tục đi xuyên qua đến biển Andaman, trong khi chúng ta tách ra và chạy nước rút dọc theo bờ biển, lợi dụng lưu thông trên biển và hình ảnh ra-đa phản chiếu rối reng bởi quần đảo để che đậy cho chúng ta chạy nhanh về phía nam.”
       
      Silva mỉm cười. “Anh hiểu nhanh đấy, Brian.”
       
      Các viên sĩ quan còn lại bắt đầu trao đổi những ánh mắt hứng khởi.
       
      Bowie gật đầu tán thưởng. “Chúng ta có thể tiếp cận đoạn sau cùng sau khi mặt trời lặn chiều tối ngày mai. Tiến đến trong tối tăm và yên lặng, hoàn toàn EMCON (*) và hoàn toàn trong trạng thái tàng hình.”
       
      (* EMCON: Emission hay Emanation Control, tình trạng kiểm soát chặt chẻ mọi bức xạ. Ra-đa và mọi hệ thống phát tín hiệu khác như truyền tin, sonar, đèn đóm, âm thanh, v.v…. đều bị tắt hay giảm tối đa, để tránh bị địch phát hiện)
       
      “Chính thế.” Silva nói. “Nếu chúng ta làm đúng đắn, chúng ta có thể chui lọt vào bên trong vòng đai phòng thủ của chúng. Thế rồi, chúng ta nổ súng và tông sập cửa nhà chúng.”
       
      Đại úy Meyer nhe răng cười. “Tôi rất khoái cách cô suy nghĩ, thưa cô. Cô thật âm hiểm.”
       
      Viên sĩ quan điều hành trừng mắt nhìn cô ta. “Này, đại úy…”
       
      Viên sĩ quan hành quân giơ hai tay lên ra dấu đầu hàng. “Xin lỗi, nhưng mà tôi không tìm được từ nào khác để nói cả…”
       
      Viên sĩ quan điều hành đập mạnh lên bàn. “Thôi đủ rồi, Đại úy!”
       
      Viên sĩ quan hành quân nhăn mặt. “Xin lỗi, tôi không để nó xảy ra nữa đâu.” Cô quay sang Trung tá Silva. “Không phải thất kính đâu, thưa cô.”
       
      Viên sĩ quan điều hành dường như muốn nói thêm gì đó, nhưng Đại tá Bowie đã lên tiếng. “Tôi nghĩ đây là một kế hoạch xuất sắc, Trung tá Silva. Chúng ta hãy bàn luận thêm chi tiết đi, rồi tôi sẽ chuyển lên cho đô đốc.”
       
      Cuộc bàn thảo chiến thuật lập tức bắt đầu đầy hăng hái.
       
      Khoảng 10 phút sau khi bắt đầu, lời Đại Úy Meyer lại hiện lên trong óc Silva và nàng phải nén cười. Âm hiểm sao?… Nàng thích.
       
      #48
        Quang11 09.09.2016 03:15:33 (permalink)
        0
        Chương 46
        Tiểu đoàn Tên Lửa Phòng Không Hồng Kỳ 12
        Zigong, Trung quốc
        Thứ Ba, 2 Tháng 12, 11:58 giờ địa phương
         
        Ánh đèn vàng nhấp nháy làm Chao Peng chú ý ngay. Gã nhấn một nút bấm để tắt đèn cảnh báo, trước khi tiếng còi báo động kịp vang lên nếu đèn cảnh báo không được đáp nhận sau 5 giây.
         
        Chao Peng mang quân hàm thượng sĩ. Gã làm phận sự rất giỏi gian và hãnh diện vì điều đó. Gã là một chuyên viên ra-đa đánh chặn được 3 năm rồi và chưa lần nào còi báo động vang lên trong ca trực của gã. Chưa bao giờ gã ngủ gật trước máy điện toán và gã kiên quyết sẽ không bao giờ để việc ấy xảy ra cho mình.
         
        Bấm nút thật nhanh trên bàn phiếm, Chao gọi lên màn ảnh thông số của vụ cảnh báo và đọc qua đặc điểm phi hành của mục tiêu. Dữ liệu hiện lên sáng rực trên màn ảnh.
         
        Được đặt giữa một vòng gồm sáu dàn phóng tên lửa KS-1A lưu động, H-200 là một hệ thống ra-đa có khả năng quét tia điện tử cực kỳ hữu hiệu. Giàn ăng-ten đã định pha có hình dáng như một tấm bia, có khả năng phát hiện, nhận diện và theo dõi ba mục tiêu trên không cùng lúc và có thể phóng và kiểm soát sáu quả tên lửa đánh chặn.
         
        Sự nhạy cảm của hệ thống H-200 vừa hay, lại vừa dở. Nó khiến cho kẻ địch khó lòng trốn khỏi nó, nhưng nó cũng khiến cho số báo động lầm rất cao. Hệ thống này bám dính vào máy bay hàng không dân sự và máy bay tư nhân một cách đều đặn.
         
        Chao không nghi ngờ gì lần cảnh báo này cũng sẽ lại là một máy bay phản lực hàng không dân sự khác. Nhưng gã quá giỏi dan và chăm chỉ để cho phép mình lơi lỏng phương thức hành sự đúng đắn. Đôi mắt sắc bén của gã lướt nhanh xuống các cột số dữ liệu của mục tiêu, rồi nhịp tim của gã chợt bắt đầu tăng nhanh.
         
        Lần này không phải là một chiếc máy bay hàng không đi lạc khỏi đường bay dân sự; lần này là những mục tiêu di động nhanh, tất cả đều bay ở cao độ không đến 200 m. Chao phản ứng một cách tự động, bàn tay phải của gã vọt lên để đập mạnh vào nút bấm còi báo động.
         
        Khi tiếng còi bắt đầu hú lên không ngừng, Chao đã xoay ống nói của bộ nghe đeo đầu vào trước môi. Gã bấm nút nói. “Sĩ quan trực, đây là nhân viên ra-đa đánh chặn. Tôi phát hiện 10 mục tiêu đã được xác thực, đang hướng đến vị trí này. Phi đạo cho thấy là phi đạn hành trình đối đất. Xin phép được chuẩn bị tên lửa để xạ kích.”
         
        Tiếng nói của viên sĩ quan trực nghe có vẻ kinh nghi và bối rối. “Chờ đã! Anh có chắc không? Không phải là hệ thống bị trục trặc chứ? Hay là một cuộc tập trận?”
         
        Chao thầm chưởi thề và lại bấm nút nói. “Thưa Trung Úy, không phải trục trặc đâu ạ. Không phải tập trận đâu ạ. Vị trí này của chúng ta đang bị tấn công và phi đạn đang tiếp cận rất nhanh. Không còn thời gian để bàn thảo nữa, thưa Trung Úy. Tôi xin được phép chuẩn bị tên lửa để xạ kích.”
         
        “Nếu anh chắc chắn là vậy…” Viên sĩ quan trực nói ngờ nghệch. “Tôi muốn nói là, được! Anh được phép chuẩn bị xạ kích! Xạ kích vào mục tiêu đi!”
         
        Hai bàn tay của Chao đã chạy trên bàn phiếm. “Vâng, thưa Trung Úy. Chuẩn bị khai hỏa ngay bây giờ.”
         
        Cả đội phòng không gồm những giàn phóng tên lửa đôi lập tức tỉnh dậy. Cả sáu giàn hướng vào những góc độ khác nhau khi hệ thống ra-đa H-200 chỉ định một mục tiêu cho từng giàn phóng. Vài giây sau, quả tên lửa đầu tiên vọt ra khỏi đường ray, năm quả khác liên tiếp vọt ngay sau đó.
         
        Bia ăng-ten ra-đa được lắp ở phần trước khung gầm của một chiếc xe tải quân sự 10 bánh. Chao đang ngồi trong phòng điều khiển của hệ thống H-200, như một cái thùng bằng thép nằm ở phần sau của khung gầm chiếc xe tải, cách cái bia ăng-ten to lớn kia vài mét.
         
        Mặc dù xe được trang bị bộ phận giảm sóc cỡ lớn, gã vẫn cảm nhận được sự chấn động do các quả tên lửa lao đi truyền vào đế giầy. Trên màn ảnh theo dõi, mỗi quả tên lửa đánh chặn bay thành một đường cong về phía một quả phi đạn hành trình đang tiếp cận.
         
        Khả năng toán học và định vị trong không gian của gã cao hơn người thường nhiều. Gã không phải là một thiên tài gì, nhưng gã có một năng khiếu bẩm sinh trong việc giải những bài toán và hình học hơn xa phần đông người thường.
         
        Khi mới gia nhập quân đội, một viên đại úy của QGPND đã nhận ra Chao có khả năng ước tính chính xác đạn đạo mà không cần phải dùng dụng cụ hay mảnh giấy nháp nào. Chao có năng khiếu thông hiểu các vật thể sẽ di chuyển như thế nào trong không gian 3 chiều và trọng lực và lực cản của không khí sẽ ảnh hưởng đến đường bay của vật thể như thế nào.
         
        Mắt gã dán chặt vào màn ảnh theo dõi. Giờ phút này, gã không cần phải dùng đến các năng khiếu kia để hiểu rằng mình chỉ còn cách cái chết vài giây mà thôi.
         
        Cả đội phòng không chỉ mang 12 quả tên lửa mà thôi, mỗi giàn hai quả. Mà hệ thống H-200 chỉ có thể điều khiển 6 quả cùng lúc. Sáu quả còn lại phải chờ đến đợt thứ nhì, sau khi các kênh điều khiển của ra-đa đã được giải tỏa do sự thành công hay thất bại của 6 quả tên lửa trong đợt đầu. Nhưng mà sẽ không còn thời gian cho một đợt thứ hai nào nữa rồi.
         
        Như thế, bài toán thật là đơn giản mà cũng không thể thay đổi được. Lúc này, có 10 quả phi đạn hành trình đang lao tới, trong số đó chỉ có 6 quả được chỉ định tên lửa đánh chặn mà thôi. Bốn quả kia sẽ tự do tiến đến mục tiêu. Chẳng may Chao Peng lại đang ngồi ngay tại chính giữa khu vực mục tiêu ấy, cái này có nghĩa là gã sắp bị nổ tan xác.
         
        Trong một thoáng thời gian, gã tính đến chuyện tông cửa của căn phòng điều khiển ra và bỏ chạy tháo thân. Nhưng mà đã không còn thời gian để chạy nữa rồi. Chỉ còn đủ thời gian để lóe lên một tia hoảng hốt.
         
        Phi đạn địch đã đến nơi rồi.
         
        Gã không hề nghe được âm thanh quả phi đạn đầu tiên đập xuống. Gã chỉ cảm nhận thoáng qua cái cảm giác như cân nặng hơn khi mà khung gầm nặng nề của chiếc xe tải chở ra-đa rời khỏi mặt đất do sức ép của phát nổ. Gã thoáng thấy nền thép dầy uốn cong dưới đôi chân gã. Rồi đột nhiên, cả thế giới như tan rã trong một âm thanh và một sự hung bạo mà Chao Peng chưa từng tưởng tượng ra nổi.
         
        Và rồi không còn gì nữa.
         
        #49
          Quang11 09.09.2016 03:18:54 (permalink)
          0
          Chương 47
          Phòng Tình Huống, Nhà Trắng
          Thủ Đô Washington
          Thứ Ba, 2 Tháng 12, 07:30 giờ địa phương
           
          Tổng thống ngồi vào vị trí của mình nơi đầu bàn. “OK, nói cho tôi nghe về vụ phi đạn tập kích này đi!”
           
          Viên sĩ quan trực phòng Tình Huống chỉa cần điều khiển từ xa về phía màn hính chính và ba bức ảnh độ phân giải cao được chụp từ vệ tinh hiện ra; ảnh được phóng đại để lộ rõ chi tiết. Trong mỗi bức ảnh, có thể thấy một cái hố hình tròn do một vụ nổ. Nhiều mảnh vỡ thiết bị máy móc nằm bên trong và chung quanh các hố ấy: những mẩu kim loại cháy nám và cong queo không thể nào cho thấy ban đầu chúng là vật gì nữa.
           
          Viên sĩ quan trực nhìn ông tổng thống. “Thưa ngài, cái chúng ta đang nhìn là những gì còn lại của ba vị trí tên lửa phòng không của QGPND, nằm, theo thứ tự, ở các tỉnh Trung quốc là Tự Cống, Thành Đô và Trùng Khánh.”
           
          Hắn bấm nút khiến một bản đồ lục địa Trung quốc hiện ra, với ba thành phố vừa được nói đến được khoanh tròn màu đỏ. Ba vòng tròn này tạo thành một tam giác vuông gần hoàn hảo, xoay khoảng 10 độ về phía tây, đáy tam giác gần như song song với dòng sông Dương Tử gần đó.
           
          “Theo như Phòng Trinh Sát Quốc Gia khôi phục lại, cả ba địa điểm này bị tập kích cùng lúc bởi nhiều vũ khí tầm xa, được phóng đi bởi những giàn phóng lắp trên xe từ một tiểu bang Ấn Độ là Arunachal Pradesh. Ước tính tốc độ phi hành của các vũ khí này là Mach 0,7 và lộ trình đến mục tiêu từ 800 đến 900 km. Dựa theo thông số hiệu suất và tầm xa tương đối, chúng tôi tin rằng vũ khí trong cuộc tập kích này có lẽ là dòng phi đạn hành trình Nirbhay.”
           
          Tổng thống Wainright gật đầu. “Chúng ta biết được những gì về các địa điểm mục tiêu? Các thành phố này có bất cứ ý nghĩa quân sự hay chính trị nào khiến cho Ấn Độ tuyển chọn chúng làm mục tiêu hay không?”
           
          Bà bộ trưởng Quốc Phòng lên tiếng. “Chính các thành phố thì không có, thưa ngài. Nhưng mà vị trí địa lý của ba vị trí tên lửa này có thể là quan trọng.”
           
          Tổng thống ra hiệu cho bà nói tiếp.
           
          Bà bộ trưởng lấy một dụng cụ phát tia laser từ bàn họp, bật nó lên và chỉ tia sáng laser vào màn hình chính. Điểm sáng laser vòng vo trên bản đồ, gần phía đông của tiểu bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ. Bà nói. “Đây là đại khái điểm phóng của vụ tập kích bằng phi đạn hành trình.”
           
          Bà dời tay và điểm sáng laser chuyển sang phía đông. “Đây là vị trí của đập Tam Hiệp, trên con sông Dương Tử, gần thành phố Nghi Xương.”
           
          Bà bắt đầu di chuyển tia laser tới lui. Trên màn hình chính, điểm sáng vạch thành một đường từ đông Ấn Độ đến vị trí của Đập Tam Hiệp. Mỗi lần tới lui, đường thẳng này lại tiến thẳng vào ngay giữa cái tam giác tạo ra bởi các thành phố Tự Cống, Thành Đô và Trùng Khánh.
           
          Tổng thống nhìn bà. “Bà muốn nói là người Ấn Độ đang dọn sạch một con đường cho cuộc tấn công bằng phi đạn hành trình vào đập Tam Hiệp sao?”
           
          Bà bộ trưởng QP tắt cây chiếu laser và đặt nó trở lại bàn họp. “Có vẻ là như vậy đó, thưa ngài tổng thống. Nếu giả định là họ định phóng phi đạn từ Arunachal Pradesh, thì họ sẽ phải loại trừ ba vị trí tên lửa Trung quốc ấy mới có được lộ trình sạch sẽ đến mục tiêu.”
           
          Ông tổng thống thở dài. “Như vậy là chúng ta vẫn còn kẹt với cái Shiva quái quỷ gì đó sao? Tôi tưởng đâu người Ấn Độ sẽ không tiếp tục xua đám chó dữ nữa, một khi chúng ta đã đồng ý giúp họ chống lại biên đội tàu sân bay Trung quốc chứ?”
           
          Viên Cố Vân An Ninh Quốc Gia lên tiếng. “Thưa ngài, tôi có hẹn gặp bà đại sứ Shankar lúc 10 giờ sáng nay. Việc này hiển nhiên sẽ là đề tài thảo luận chính yếu của chúng tôi rồi.”
           
          Tổng thống gật đầu. “Nhưng mà…”
           
          “Nhưng mà tôi gần như đã biết bà ấy sẽ nói gì rồi.” Brenthoven nói. “Họ rất cảm kích sự trợ giúp của chúng ta và biểu hiện đoàn kết của chúng ta, nhưng các đóng góp của chúng ta vào cuộc chiến không làm cho Trung quốc ngừng xâm lược.”
           
          Tổng thống ngả người ra ghế. “Như vậy, đồng hồ vẫn còn tiếp tục đếm ngược sao?”
           
          “Tôi e là thế, thưa ngài tổng thống.” Viên Cố Vân An Ninh Quốc Gia nói. Hắn liếc nhìn đồng hồ. “Và bây giờ chúng ta chỉ còn khoảng 11 giờ trước khi người Ấn Độ tiến hành kế hoạch của họ.”
           
          #50
            Quang11 09.09.2016 04:39:27 (permalink)
            0
            Chương 48
            Đại lễ đường Nhân dân
            Thiên An Môn
            Bắc Kinh, Trung quốc
            Thứ Ba, 2 tháng 12, 20:49 giờ địa phương
             
            Jia Bangguo đang đứng với hai tay chống lên mặt bàn họp bằng gỗ tếch. Mắt hắn đảo nhanh qua các lãnh tụ quanh bàn, ước lượng tám người kia trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản.
             
            “Thưa các đồng chí,” hắn nói, “chúng ta có rất ít thời giờ. Chúng ta phải khẩn trương tiến hành xả nước đập Tam Hiệp. Và toàn bộ đồng bằng Trường Giang phải được di tản ngay.”
             
            Trong bất cứ hội nghị nào trong nước CHNDTH, lời của Jia đã được tán thành ngay rồi, tiếp theo là tiến hành ngay lập tức. Thân là Đệ Nhị Phó Chủ Tịch và Bí Thư của Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc, trên danh nghĩa hắn là người quyền thế thứ ba ở Trung quốc.
             
            Nếu đây là một cuộc họp toàn thể Bộ Chính Trị, hắn đã có thể gom góp đủ số phiếu để chống lại bất cứ đối thủ nào. Nhưng trong Ban Thường Vụ, hắn không có số quan chức để ủng hộ mình. Ở nơi đây, nơi trung tâm của tập đoàn lãnh tụ trung ương của Trung quốc, hắn chỉ có thể dựa vào lực thuyết phục của mình mà thôi.
             
            “Chúng ta có rất ít thời gian.” Hắn lặp lại. “Nếu chúng ta hạ lệnh lập tức, chúng ta có thể khiến cho lượng nước do đập Tam Hiệp lưu trữ hạ xuống đến mức độ có thể kiểm soát trong vòng hai ngày. Sau đó, nếu đập nước bị tấn công, ngập lụt ở hạ lưu chỉ sẽ là một sự phiền phức, chứ không phải là tai họa nữa.”
             
            “Hoàn toàn không được!” Ma Yong gắt. “Khôi hài! Tua-bin thủy điện ở Tam Hiệp cung cấp gần như 15% số điện mà toàn quốc cần dùng. Nếu chúng ta hạ mực nước xuống mức như để phòng lũ lụt, điều này sẽ ảnh hưởng đến cơ sở công nghiệp của chúng ta, sản xuất lương thực của chúng ta, giao thông, thông tin liên lạc… Tôi cũng không dám tính toán là nền kinh tế cả nước sẽ bị thiệt hại như thế nào nữa.”
             
            Ma Yong là Bí Thứ của nhóm lãnh đạo Tài Vụ và Kinh Tế. Sự quan tâm đầu tiên, sau cùng và duy nhất của hắn là sức mạnh kinh tế của Trung quốc. Điều này khiến hắn trở thành địch thủ của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào đe dọa đến tài vụ của Trung quốc.
             
            “Nếu vậy thì tôi đề nghị làm một bài tính khác vậy.” Jia nói. “Đồng chí thử tính xem giao thông và kinh tế của chúng ta sẽ bị thiệt hại như thế nào, nếu phân nửa số các cây cầu cho cả xe lửa lẫn xe cộ của Trung quốc bị quét sạch bởi một trận lũ lụt thảm khốc. Và trong khi còn đang tính toán với những con số, đồng chí cũng nên ước lượng xem nền kinh tế quý báu của đồng chí sẽ phải mất bao lâu mới hồi phục lại được khi mà 400 triệu đồng chí của chúng ta bị thiệt mạng.”
             
            “Bằng chứng của đồng chí đâu?” Mã hỏi bằng một giọng chua loét. “Làm thế nào đồng chí biết được bọn Ấn Độ sẽ tấn công đập Tam Hiệp chứ? Có phải bọn chúng đã chia sẻ kế hoạch bí mật của chúng với đồng chí rồi? Hay đồng chí có những nguồn tình báo riêng, hoạt động bên trong chính phủ Ấn Độ?”
             
            “Đương nhiên là không.” Jia nói. “Nhưng mà tôi có thể đọc một tấm bản đồ. Khi triệt tiêu cứ địa tên lửa phòng không của chúng ta ở Thành Đô, Tự Cống và Trùng Khánh, bọn chúng đã dọn sẵn một con đường cho một vụ cường kích bằng phi đạn hành trình vào đập này rồi. Tôi nói này, các đồng chí, bọn Ấn Độ đang định tấn công đập Tam Hiệp đó!”
             
            Câu này khiến một loạt xì xầm chạy quanh bàn họp.
             
            Đệ nhất Phó Chủ Tịch Lu Shi giơ một tay lên và mọi tiếng nói lắng xuống. Lão chậm rãi nói. “Đồng chí Jia ơi, tôi không hoài nghi gì lòng chân thành của đồng chí và các mối lo lắng của đồng chí đáng để chúng ta cẩn thận suy xét. Nhưng mà, có một thứ gọi là quá cẩn thận đó! Như đồng chí Ma vừa nhận định, chúng ta không hề có bất kỳ chứng cứ nào rằng láng giềng phía nam của chúng ta đang dự tính phá hủy đập Tam Hiệp. Một cuộc tấn công như thế chính là một vụ cường kích trực tiếp và sẽ làm hạ tầng cơ sở nước ta tàn phế. Chính phủ Ấn Độ thừa hiểu là khi ấy chúng ta sẽ bị buộc phải dùng đến các phương tiện chiến lược mà.”
             
            Câu nói cuối cùng này làm bầu không khí đông cứng lại. Trong số lãnh tụ tối cao của đảng Cộng Sản, cái từ “chiến lược” là nói trại cho “hạt nhân” mà mọi người đều hiểu.
             
            Wei Jintao, Bí Thư của Quốc Vụ Viện, chụm các đầu ngón tay vào nhau. “Có lẽ chúng ta nên cho tình hình xuống thang đi, trước khi buộc phải suy xét đến… ơ… phương tiện chiến lược.”
             
            Hắn nhìn qua Lu Shi. “Nếu mục đích của chúng ta là trừng phạt Ấn Độ đã chứa chấp kẻ thù của Trung quốc, chúng ta chắc chắn đã đạt được rồi. Nếu mục đích của chúng ta là biểu diễn uy thế quân sự trong khu vực này, chúng ta cũng đã đạt được luôn rồi. Tôi không rõ chúng ta trông mong đạt được những gì nữa khi tiếp tục cuộc xích mích với Ấn Độ này.”
             
            Trước khi Lu kịp trả lời, Jia lại lên tiếng. “Tại sao chúng ta lại phải nói vòng vo như thế này chứ? Chúng ta là cấp lãnh đạo cao nhất trong quốc gia này. Nếu chúng ta không thể nói thẳng ở nơi này, làm sao chúng ta có thể làm ra những quyết định thẳng thắng mà chúng ta cần làm được chứ hả? Nếu chúng ta đang nói đến vũ khí hạt nhân, thì chúng ta không nên ngụy trang bằng cách gọi chúng là ‘phương tiện chiến lược’ nữa. Và chúng ta nên ngừng giả vờ như đây là một cuộc ‘xích mích’. Mọi người trong phòng này đều biết là chúng ta đã tiến qua khỏi cái đó rồi. Nếu chúng ta lột bỏ cách nói chuyện quanh co, thì chúng ta đang bàn đến khả năng chiến tranh hạt nhân với Ấn Độ đó!”
             
            Hắn gõ mạnh một ngón tay xuống mặt bàn. “Đúng, tôi nói thẳng những từ ấy ra đó. Chiến tranh hạt nhân. Mọi người chúng ta nên suy nghĩ đến các từ này và chúng ta nên suy nghĩ chúng mang ý nghĩa gì. Tại vì chúng ta đang loạng choạng đi về chiều hướng đó và không ai ở cái bàn muốn nhìn nhận điều ấy cả.”
             
            Nhiều thành viên trong hội đồng có vẻ như muốn đồng ý, nhưng không ai lên tiếng.
             
            Lu Shi lạnh nhạt nhìn Jia, nhưng tiếng nói của lão vẫn bình thản. “Một lần nữa, đồng chí Jia, tôi nhìn nhận lòng chân thành của đồng chí và tôi không muốn xem nhẹ sự quan tâm của đồng chí. Nhưng tôi nghĩ rằng đồng chí phản ứng thái quá rồi. Chúng ta đã đánh bại chiếc tàu sân bay Ấn Độ. Chúng ta đã cho Hải quân Mỹ thấy rằng chúng không thể xen vào việc của Trung quốc mà không lãnh nhận hậu quả. Các cuộc giao chiến chính yếu đã qua rồi. Có thể còn vài vụ đụng chạm nhỏ chúng ta còn phải ứng phó, nhưng mà công việc còn lại chủ yếu là chính trị, chứ không phải quân sự nữa.”
             
            Wei Jintao nhướng một bên lông mày. “Xin đồng chí nói rõ điều này, được không, đồng chí Lu?”
             
            Lu Shi không đáp. Tuy nhiên, Chủ Tịch Xiao Qishan tằng hắng. Mọi ánh mắt lập tức quay sang lão ta.
             
            Từ sau lần giải phẩu tim hồi năm ngoái, đã từng có một âm mưu đẩy lão ra khỏi vị trí và nhiều lần vận động kín đáo để đẩy lão vào hưu trí. Nhưng Lu Shi đã không ngừng đấu tranh để giữ lão tại chức.
             
            Mọi người đều hiểu rằng Lu Shi sẽ thừa kế lão trong ngôi vị Chủ Tịch nhà nước; điều này làm người ta khó hiểu nổi sự kiên trì ủng hộ lão của Lu Shi. Không ai hiểu nổi vì sao Lu Shi lại cố tình trì hoãn lại việc lão nắm giữ quyền lực tối cao. Phải chăng đó chỉ đơn giản là lòng trung thành với lão chủ tịch? Hay là Lu đang tiến hành theo một thời khắc biểu nào đó mà sự trì hoãn là điều cần thiết và mong muốn? Hay là một điều gì khác hẳn? Mặc dù có biết bao phỏng đoán, dường như không ai biết được đáp án.
             
            Mục đích Lu tiếp tục ủng hộ lão Xiao Qishan thì không rõ ràng, nhưng thành quả của nó thì không bí ẩn chút nào. Lão chủ tịch cũng đã đáp lại sự ủng hộ ấy y như vậy, bằng cách giao hết quyền lực và sức ảnh hưởng của lão cho Lu Shi.
             
            Lão Xiao bao giờ cũng giả vờ đấu tranh tư tưởng và ra vẻ khách quan, nhưng mà, khi những lời lẽ văn hoa được gạt bỏ đi và các hành vi của lão được đánh giá lại, lão lãnh tụ già nua luôn luôn ủng hộ Lu Shi.
             
            Chủ Tịch Xiao lại đằng hắng, lần này nhẹ hơn. Nhiều gương mặt quay về phía lão mang vẻ trông chờ, như thể vài thành viên đang mong mỏi rằng tình thế nghiêm trọng sẽ buộc lão Xiao rời khỏi phe Lu Shi và nắm lại quyền lãnh đạo. Kéo mọi người lại từ bờ vực tai họa.
             
            Nếu thế thì họ đã bị thất vọng rồi.
             
            Lão Xiao nói. “Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa không còn là một quốc gia của người nhà quê nữa rồi. Chúng ta là một cường quốc kinh tế của toàn thế giới và QNDGP đang nhanh chóng trở thành một lực lượng quân sự hàng đầu trên địa cầu. Các quốc gia khác trên thế giới phải được bài học rằng chúng ta không còn thể nào bị dồn vào chân tường nữa rồi.”
             
            Jia Bangguo và Wei Jintao trao đối ánh mắt từ hai bên bàn. Những lời từ miệng của lão Xiao rõ ràng là kịch bản của Lu Shi.
             
            Lão chủ tịch tiếp tục nói. “Tôi đã phát lệnh cho đại sứ của chúng ta ở Hoa Kỳ và Ấn Độ, vạch rõ chi tiết của các yêu cầu của chúng ta cho chính phủ của hai nước này. Nếu Ấn Độ muốn tái lập bang giao bình thường với Trung quốc, họ phải chấm dứt việc chứa chấp kẻ thù của chúng ta, bao gồm cả bọn khủng bố vẫn đang xúi dục bạo động ở khu vực tự trị Tây Tạng. Để biểu lộ thiện chí, họ phải bắt đầu bằng cách trục xuất tên đầu sỏ quấy động, Đạt Lai Lạt Ma. Cũng như thế, Hoa Kỳ đã được cảnh báo rồi… Những ngày tháng quân đội Mỹ thống ngự đã chấm dứt rồi. Nếu chúng còn thử xen vào việc của nước ta, chúng sẽ khám phá ra rằng cái thế lực ngày càng thụt lùi của chúng đã không còn chống lại chúng ta được nữa.”
             
            Lu Shi gật đầu. “Nói hay quá, thưa đồng chí Chủ Tịch.”
             
            Lão hướng ánh mắt hung hăng đến mỗi thành viên, nói. “Đây là thời cơ của chúng ta. Ngôi sao của Tây phương đã rơi rụng rồi, còn ngôi sao của chúng ta lại đang bốc lên. Nếu ý chí của chúng ta vẫn cứng cỏi, chúng ta sẽ làm chủ thế kỷ này đó!”
             
            Tiếng nói của lão dịu xuống. “Đây là thời đại của Trung quốc. Chúng ta không thể nào vứt nó đi được.”
             
            ***
             
            Mười phút sau khi cuộc họp chấm dứt, Jia Bangguo đuổi theo kịp Wei Jintao đang ra khỏi khu kiến trúc. Hai người đi sánh vai xuống các bậc thang đá từ Đại lễ đường Nhân dân đưa đến quảng trường Thiên An Môn. Cả hai đều có xe hơi riêng đang nổ máy chờ ở lề đường, nhưng họ ra hiệu cho tài xế chờ và cùng nhau đi qua hàng rào an ninh để đứng yên trong đêm lạnh lẽo.
             
            Bảy ngôi sao trong chùm Bắc Đẩu Thất Tinh chiếu sáng trong màn đêm. Chùm sao này tượng trưng cho mùa đông và truyện thần thoại kể lại nó được tạo ra trong kinh hoàng, tử vong và là hậu quả của những hành động bất cẩn của những người được cho là khôn ngoan.
             
            “Tôi không nghĩ là hắn quan tâm đến chuyện gì sẽ xảy ra.” Jia nói.
             
            Wei Jintao không nói gì cả.
             
            “Lu Shi.” Jia nói. “Tôi không nghĩ hắn còn quan tâm điều gì nữa rồi. Hắn đang phẫn nộ và bi thương. Và hắn muốn trừng trị người nào đó để bớt đau khổ. Hắn đã tiêu diệt những kẻ đã giết con hắn, cùng với cả một ngôi làng nơi mà chúng ẩn nấp. Nhưng như thế vẫn chưa đủ.”
             
            Wei nhìn vào Jia. “Đồng chí đang nói gì vậy, hả đồng chí?”
             
            Jia Bangguo lúc này bắt đầu cảm thấy cái giá buốt của không khí trong mùa đông. Hắn lật cổ chiếc áo khoác lên. “Tôi đang nói là ngài Phó Chủ Tịch của chúng ta đang tìm kiếm một kẻ địch nào đó để tiêu diệt và hắn không cần biết kẻ đó là ai. Nhưng mà còn tệ hơn thế nữa, tôi nghĩ hắn đã không còn quan tâm đến hậu quả nữa rồi.”
             
            “Điên à?” Wei Jintao nói. “Có lẽ là tôi không đồng ý với nhiều quyết định của hắn, nhưng mà đồng chí Lu sẽ không bao giờ làm nguy hại đến tương lai của Trung quốc đâu. Hắn yêu đất nước này còn hơn là yêu mạng của chính mình nữa mà.”
             
            “Đó là điều tôi muốn nói đó!” Jia nói. “Tôi không nghĩ là hắn còn yêu mạng mình nữa rồi. Tôi không nghĩ hắn quan tâm đến sống chết gì nữa rồi.”
             
            Jia ngẩng mặt về phía chòm sao, đôi mắt chuyển từ ngôi sao này qua sao kia trong nhóm Bắc Đẩu Thất Tinh. “Nếu chúng ta không làm cái gì đó sớm, tôi cũng không rõ Trung quốc có còn một tương lai nào nữa hay không.”
             
            #51
              Quang11 09.09.2016 04:41:56 (permalink)
              0
              Chương 49
              USS Midway (CVN-82)
              Biển Andaman (phía đông của quần đảo Nicobar)
              Thứ Ba, 2 Tháng 12, 19:24 giờ địa phương
               
              Đại tá Anthony Romano, hạm trưởng của chiếc USS Midway, nhìn các khu vực màu xanh lục càng lúc càng nhiều trên màn ảnh của hệ thống khống chế hư hại. Màn ảnh cho thấy sự mô tả ba-chiều của kiến trúc bên trong của chiếc tàu: các sàn tàu, vách chắn, vỏ tàu được vẻ màu xám bán trong suốt để cho người xem có thể nhìn xuyên qua kết cấu ở bề mặt để thấy được các phòng ốc và lối đi bên dưới.
               
              Màu xanh lục tượng trưng cho nước biển. Năm ngăn kín bên phải của khung hình chiếc tàu được tô màu xanh từ sàn lên đến quá đầu người. Đó là những phần tàu bị ngập nước khi các quả phi đạn hành trình Trung quốc phá thủng vỏ tàu.
               
              Nhờ các hệ thống khống chế thiệt hại tự động, khả năng kín nước tốt và phản ứng nhanh chóng của thủy thủ đoàn, vụ ngập nước được giới hạn vào khu vực nhỏ nhất. Giờ đây, sau khi cố gắng cật lực để ngăn không cho nước tràn vào, họ lại cố tình để nước ùa vào. Trên màn ảnh hệ thống khống chế hư hại, nhiều ngăn kín bên trái đang bị tô màu xanh nhanh chóng, khi nhiều tấn nước được bơm vào những khu vực trước đây đang khô ráo.
               
              Kỹ thuật này được gọi là ngập nước ngược. Đây là một phương pháp được nhìn nhận dùng để khôi phục độ nghiêng của một chiếc chiến hạm khi nó đã bị ngập nước đủ để nó có nguy cơ lật.
               
              Romano đã biết đến phương pháp này ngay từ khóa học đầu tiên về khoa khống chế hư hỏng ở trường sĩ quan hải quân ở Annapolis. Ngồi thoải mái trong lớp học, trong bài tập, phương pháp ngập nước ngược có vẻ là một cách thức hợp lý để sửa độ nghiêng của một chiếc tàu. Nhưng mà nơi này không phải là Trường Võ Bị Hải Quân và hàng ngàn lít nước biển ùa vào chiến hạm của hắn không phải chỉ là lý thuyết nữa rồi.
               
              Cái ý kiến này xuất phát từ chính đô đốc Zimmerman. Chỉ cần cho một tý nước vào bên trái, làm cho sân bay bằng phẳng lại, thế là họ lại có thể phóng máy bay rồi.
               
              Chẳng qua là đây không phải là một tý nước. Mà là một lượng lớn nước. Mà nước không phải là ùa vào những ngăn kín trống không. Nước sẽ được bơm vào hai nơi chứa thiết bị điện tử, một phòng chứa dụng cụ phụ trợ, một phòng chứa giàn máy điều hòa không khí và một phòng chứa quạt gió. Đám chuyên viên và kỹ sư của Romano đã phải bỏ ra nhiều giờ hối hả tháo ốc, tháo dây điện và di dời càng nhiều dụng cụ thiết bị càng tốt ra khỏi các ngăn kín đã được chọn cho vụ ngập nước ngược này. Tuy nhiên thời gian không đủ để di chuyển được một phần ba số thiết bị. Và giờ đây, máy phát điện, hộp cung cấp điện, máy vi tính, máy bơm, máy thổi hơi, nhiều giàn ổ cứng đang bị cho ngập trong nước biển đầy tính chất ăn mòn.
               
              Khi nhiệm vụ này chấm dứt, số lượng nước dư thừa này sẽ được bơm ra khỏi tàu, tuy nhiên một số lớn thiết bị sẽ không còn đáng tiền sửa chữa nữa. Trận đánh kế tiếp còn chưa bắt đầu mà chiếc Midway đã phải gánh chịu thêm hàng mấy triệu đô-la thiệt hại rồi. Có thể hàng mấy chục triệu ấy chứ.
               
              Romano lắc đầu và cố nhịn câu chưởi thề. Cả biên đội nằm dưới quyền chỉ huy của đô đốc Zimmerman, nhưng chính chiếc tàu này lại là trách nhiệm của Romano. Hơn thế, hắn lại yêu con quái thú bằng kim loại này bằng sự cuồng nhiệt mà hắn chỉ dành cho vài người mà thôi. Hắn yêu quý từng mối hàn, từng cái đinh và từng phân sàn tàu từ đầu đến đuôi. Midway là bé cưng của hắn và hắn không ưa nổi bất cứ kẻ nào làm ‘nàng’ chịu thiệt.
               
              Hắn cũng hiểu được cái lý luận đưa đến việc làm này và hắn cũng đồng ý. Nhưng hắn không bắt buộc phải vui vẻ với quyết định ấy, mà hắn thật sự không vui.
               
              Phần tô màu xanh trên màn hình hệ thống khống chế hư hại đã đạt đến mức quá đầu người ở các vùng được chỉ định bị ngập nước.
               
              Đại tá Romano quay sang viên phụ tá về việc khống chế hư hại. “Anh nghĩ sao, hả Steve?”
               
              Đại úy Steve Cohen kiểm tra các thông số trên hai màn ảnh máy vi tính khác nhau. Rồi gã lại liếc nhìn lên trang bị đo độ nghiêng được gắn trên một xà ngang trên trần. Gã gật đầu. “Có vẻ như chúng ta đã bằng phẳng lại rồi đó, thưa Đại tá. Sàn bay chắc đã phải ổn và bằng phẳng rồi.”
               
              Gã bấm vài nút và kiểm tra một màn ảnh thứ ba. “Tất cả số nước ấy đã khiến chúng ta ngập sâu hơn trong nước và chúng ta sẽ mất một ít tốc độ.”
               
              “Hi vọng rằng cái đó sẽ không tạo ra vấn đề gì.” Romano nói. “Sĩ quan Phi Hành đã cam đoan là chúng ta có thể bù đắp việc bị giảm tốc độ bằng cách gia tăng tốc độ máy phóng và cường độ của hệ thống EMALS (42). Ít ra khái niệm là như thế. Chúng ta không thể biết chắc được cho đến khi làm thử.”
               
              EMALS viết tắc cho Electromagnetic Aircraft Launch System, kỹ thuật thế hệ mới của sàn bay đã thay thế hệ thống phóng bằng hơi ép, được trang bị trên các hàng không mẫu hạm thuộc lớp mới của Mỹ. Hệ thống dùng điện này nhẹ hơn, nhanh hơn và hữu hiệu hơn xa loại hệ thống cơ khí dùng hơi nước trước đó. Quan trọng hơn là EMALS cung cấp mức điều khiển chính xác chưa từng có, giúp cho hệ thống này có thể phóng bất cứ thứ gì, từ máy bay không người lái loại nhẹ cho đến những máy bay nặng quá năng lực của các hệ thống phóng cũ.
               
              Trên lý thuyết, một chiếc tàu sân bay có trang bị hệ thống EMALS có thể phóng máy bay với sức gió tương đối chưa tới 10 hải lý/giờ trên sàn bay (*). Cái này khác xa tốc độ hơn 30 hải lý/giờ mà các tàu sân bay được trang bị hệ thống cũ đòi hỏi phải đạt đến.
               
              (* người dịch: để phóng hay thu máy bay, tàu sân bay phải chạy nhanh và ngược chiều gió để giúp máy bay thêm vận tốc để cất cánh hay hạ cánh, khi mà cánh có được lực nâng. Sức gió tương đối là tốc độ gió ngược chiều cộng thêm tốc độ tàu.)
               
              Họ sẽ sớm biết được lý thuyết này có đúng với sự thật hay không.
               
              Romano nhấc một chiếc điện thoại và bấm nút phòng chỉ huy. “Thưa đô đốc, đây là Đại Tá Romano. Tôi đang trên đường lên phòng điều hành. Chúng ta có thể chuẩn bị cất cánh bất cứ lúc nào đô đốc sẵn sàng.”
               
              Hắn lắng nghe vài giây, lễ phép chào rồi gác máy, tiến ra cửa.
               
              “Phải thành công.” Hắn tự nói. “Nhất định phải thành công.”
              -=-=-=-=-=-
              Chú Thích:
              (42) EMALS viết tắc cho Electromagnetic Aircraft Launch System, là hệ thống phóng máy bay từ hàng không mẫu hạm mới nhất, được thiết kế cho hàng không mẫu hạm lớp Ford. Trước kia có dự định nâng cấp lớp hàng không mẫu hạm Nimitz để sử dụng hệ thống này, nhưng không thành công vì lớp Nimitz và các lớp khác không đủ điện năng cho EMALS. Hệ thống này sử dụng máy điện chạy thẳng (thay vì xoay tròn như máy điện cổ điển) có khả năng gia tốc từ yếu đến mạnh tốt hơn loại hệ thống phóng cũ dùng hơi nước có gia tốc cấp thời tạo áp lực nhiều hơn cho khung thân máy bay, làm giảm sự bền bỉ của máy bay. Nước Anh và Ấn Độ đều tỏ ra hứng thú với hệ thống này cho hàng không mẫu hạm tương lai của họ (lớp Queen Elizabeth của Anh và siêu mẫu hạm INS Vishal của Ấn Độ). Đô đốc Yin Zhuo của Hải quân của QNDGP từng cho hay rằng chiếc mẫu hạm tương lại của Trung quốc cũng sẽ được trang bị loại hệ thống phóng máy bay này.
               
               
              #52
                Quang11 09.09.2016 04:44:44 (permalink)
                0
                Chương 50
                USS Towers (DDG-103)
                Vịnh Bengal
                Thứ Ba, 2 Tháng 12, 23:56 giờ địa phương
                 
                Chiếc Towers lướt đi trong đêm như một chiếc bóng, lớp sơn hướng quang ngụy trang của nó dường như gói cái dáng thon dài đầy góc cạnh của chiếc tàu vào một màu sắc còn đậm hơn cả đêm khuya nữa. Cách đó hơn 400 km về phía tây, phía bên kia biên đội tàu sân bay của Trung quốc, chiếc khu trục cùng lớp Donald Gerrard cũng đang lao nhanh. Cả hai chiếc chiến hạm đều chạy trong trạng thái ‘tối thui và im lìm’, mọi cảm biến tích cực và trang bị bức xạ đều bị tắt, hướng đi và tốc độ của chúng đã được tính toán để tạo ra diện tích mặt cắt ngang nhỏ nhất cho ra-đa địch.
                 
                Ngay cả ánh trăng cũng được lưu ý đến. Theo như niên giám hải quân, lúc mặt trăng chính thức lặn vẫn còn cách lúc này 5 phút nữa, tuy nhiên phân nửa mặt trăng đã khuất xuống dưới chân trời phía tây. Vào lúc 1 phút sau nửa đêm, toàn bộ mặt trăng sẽ bị địa cầu che khuất. Dưới ánh sao còn lại, lớp sơn ngụy trang trên cả hai chiến hạm sẽ khiến chúng rất khó bị phát hiện bằng mắt, cho dù là mắt người hay cảm biến quang học.
                 
                Một hệ thống ngăn chặn tia hồng ngoại có khả năng thích ứng tự động làm cho độ nóng do cả hai chiến hạm lưu lại, chỉ xê xích nửa độ so với nhiệt độ không khí chung quanh mà thôi. Và ký hiệu âm thanh của chiến hạm cũng bị cắt giảm bởi những mô-đun giảm thanh tích cực thuộc thế hệ thứ bảy, cộng với động cơ tàu đã được cách ly âm thanh.
                 
                Mặc dù có những lời đồn thổi trong mạng internet, bấy nhiêu kỹ thuật quỷ dị ấy cũng không khiến cho hai chiến hạm Mỹ này trở thành vô hình.  Nếu quả thật có một kỹ thuật nào có thể làm 9.800 tấn thép hoàn toàn biến mất, thì các kỹ sư của nền công nghệ quốc phòng Mỹ vẫn chưa mò ra. Cho dù ở vào trạng thái hoàn toàn tàng hình, hai chiếc USS Towers và USS Donald Gerrard cũng không phải không thể bị phát hiện. Chúng chỉ khó thể bị phát hiện hơn thôi.
                 
                ***
                 
                Sự khác biết giữa hai tình trạng ấy, ‘không thể’ và ‘khó thể’ bị phát hiện, vẫn đang nặng nề trong tâm trí của Trung Tá Silva trong khi nàng đứng cạnh Đại Tá Bowie trong phòng hành quân CIC và quan sát màn ảnh chiến thuật Aegis. Dưới tình huống nào khác, sự khác biệt trên lý thuyết giữa hai tình trạng ‘không thể’ và ‘khó thể’ phát hiện có lẽ đã trở thành một tiêu đề tranh cải kỹ thuật rất hấp dẫn. Nhưng mà trong tình huống hiện tại, cái khác biệt nhỏ xíu trên lý thuyết ấy có thể là khác biệt giữa sống hay chết.
                 
                Trên màn ảnh, hai phù hiệu màu xanh lơ tượng trưng cho hai chiếc Towers và Gerrard đang lướt vào những vùng màu đỏ dùng để miêu tả vùng được bao phủ bởi ra-đa của các chiến hạm Trung quốc gần nhất. Các vùng này có ám hiệu bằng màu dựa theo xác suất bị phát hiện: màu đỏ nhạt để chỉ xác suất thấp, màu đỏ đậm hơn để chỉ xác suất cao hơn. Ở ngoài rìa của vùng ra-đa địch bao phủ, màu đỏ nhạt đến độ gần như màu hồng. Gần đến chiếc tàu sân bay Trung quốc, màu đỏ đậm dần thành màu đỏ máu.
                 
                Hai chiến hạm Mỹ ở phương hướng gần như đối diện nhau, chiếc Towers chạy về hướng tây còn chiếc Gerrard tiến về hướng đông, cả hai đều chậm rãi tiến về đội chiến hạm Trung quốc nằm ở giữa. Đến một điểm nào đó, hai chiếc khu trục hạm Mỹ sẽ vượt qua một lằn ranh mơ hồ nào đó, nơi mà các góc cạnh có thể đẩy tạt đi bức xạ vi ba và các tấm lát trên vỏ tàu có thể hấp thu bức xạ ra-đa sẽ không còn khả năng che giấu chúng khỏi các cảm biến của địch nữa. Mục đích của họ là bắt đầu cuộc tấn công trước khi họ vượt qua lằn ranh vô hình đó.
                 
                Nếu mọi thứ đều diễn ra theo kế hoạch đã định sẵn, quân Trung quốc sẽ không hề hoài nghi gì sự hiện diện của hai chiếc chiến hạm Mỹ cho đến khi họ phát hiện ra những quả phi đạn đang lao đến mình. Mà đến lúc đó, thì đã quá muộn rồi.
                 
                Mắt của Silva vẫn dán vào màn ảnh. Bên cạnh phù hiệu của chiếc Towers là một ô chữ sáng rực chứa xác suất bị phát hiện do máy vi tính tính ra; dãy số này gồm hai phần được chia bởi một gạch chéo: 62,0/7,8. Nhóm số đầu, được trình bày để người quan sát có thể so sánh dễ dàng, là thông số diện tích mặt cắt ngang của một chiếc khu trục hạm lớp Arleigh Burke tiêu chuẩn. Nhóm số sau là thông số ký hiệu ra-đa đã được giảm thiểu của một chiếc tàu thuộc Nhóm III Arleigh Burke đã được cải tiến.
                 
                Dựa theo cường độ tín hiệu hai chiến hạm nhận được ở vị trí hiện tại, máy vi tính của hệ thống ‘chỉ huy và quyết định’ Aegis dự đoán 62% khả năng một chiếc khu trục Arleigh Burke chưa được cải tiến sẽ bị ra-đa Trung quốc phát hiện, và 7,8% khả năng các cảm biến Trung quốc đó có thể phát hiện chiếc Towers.
                 
                Trong khi Silva đang quan sát, số liệu đổi thành 68,2/9,1, khi chiếc USS Towers nhích đến gần hơn vòng đai phòng thủ của chiếc tàu sân bay Trung quốc.
                 
                Trên quan điểm trí thức, Silva nhìn nhận là 9 phần trăm không phải là xác suất cao, nhất là khi so sánh với gần 70 phần trăm mà một chiếc tàu ít có tính năng tành hình hơn đã phải chịu vào lúc này. Nhưng mà cho dù có được các kỹ thuật tiên tiến nhất, thì vẫn có gần một phần mười khả năng một gã chuyên viên ra-đa Trung quốc sẽ nhìn sâu vào đám hình phản xạ hỗn loạn trên khung ảnh của gã và nhận ra một vết mờ nhạt nhỏ xíu tượng trưng cho chiếc USS Towers.
                 
                Silva kéo tầm mắt ra khỏi ô số liệu xác suất bị phát hiện và quan sát tình hình chiến thuật tổng thể. Chiếc tàu sân bay địch được bao bọc bởi bốn chiếc tàu chiến mặt nước: một cặp khu trục nhỏ đa năng Type 054A (lớp Jiangkai II) ở phía tây bắc và tây nam, và một cặp khu trục phòng không Type 51C (lớp Luzhou) ở phía đông bắc và đông nam. Như vậy là cả hai chiếc khu trục Trung quốc đều ở phía đông của biên đội, gần chiếc Towers nhất, có lẽ để phòng vệ chống lại biên đội Midway đang triệt thoái.
                 
                Phù hiệu của các chiến hạm Trung quốc được bao quanh bởi một vòng tròn được vẻ bằng đường chấm, tượng trưng cho khu vực được tính toán là ‘không thể xác định’. Các chiến hạm địch được ước tính là nằm đâu đó trong vùng ‘không thể xác định’ ấy, nhưng vị trí chính xác thì không rõ.
                 
                Vì các ăng-ten ra-đa của chính chúng đã bị tắt đi, hai chiếc Towers và Gerrard phải dựa vào dữ liệu được cung cấp bởi thiết bị chiến tranh điện tử AN/SLQ-32(V)3. Thiết bị SLQ-32 (được nhân viên sử dụng đọc là Slick-32, người dịch: ‘slick’ nghĩa là trơn tru hay lanh lẹ) có khả năng phát hiện, nhận diện và truy lùng hầu như tất cả mọi loại ra-đa truy lùng, nhắm bắn hay định vị. Nhưng cho dù có khả năng thích ứng cao và tính toán mạnh, Slick-32 vẫn chỉ là một cảm biến tiêu cực. Nó có thể xác định phương hướng của ra-đa địch, nhưng nó không có khả năng tính toán thiết bị bức xạ của địch cách bao xa. Thông số phương hướng này cũng đủ để nhắm phi đạn Harpoon (43) rồi, nhưng thiếu số liệu về tầm xa tối cần thiết cho hầu hết các hệ thống vũ khí khác.
                 
                Nếu hai chiếc Towers và Gerrard không phải hoạt động trong tình trạng hạn chế bức xạ tuyệt đối, chúng có thể trao đổi phương hướng qua mạng thông tin chiến thuật, thiết lập và duy trì vị trí ra-đa địch và xác định vị trí chiến hạm Trung quốc một cách chuẩn xác và liên tục. Thay vì vậy, họ bị buộc phải dùng số liệu do một chiếc máy bay không người lái Night Eagle III đang bay trinh sát vòng vòng bên trên biên đội địch ở cao độ 6,000 m, lâu lâu chuyển xuống cho họ.
                 
                Được cấu tạo bằng nguyên liệu hỗn hợp có khả năng để bức xạ xuyên suốt qua mà không phản chiếu lại, máy bay này nhỏ, nhẹ và có tính năng tàng hình khá cao. Cứ khoảng mỗi 15 phút, nó lại chiếu một tia laser đèn lưỡng cực cực tím lên trời, mang theo một khối số liệu bằng kỹ thuật số đến một trong số 11 chiếc vệ tinh thông tin liên lạc SATCOM trong quỹ đạo. Vệ tinh này lập tức mã hóa dữ liệu từ máy bay không người lái ấy và lại chuyển nó trở về mặt đất trong một tín hiệu UHF đã mã hóa. Lúc ấy, tín hiệu này được hai chiếc khu trục hạm Mỹ tiếp nhận và giải mã.
                 
                Qua những lần cập nhật định kỳ ấy, vùng không thể xác định quanh mỗi chiến hạm Trung quốc càng lúc càng thu nhỏ lại thành một điểm và hai chiếc Towers và Gerrard biết chính xác vị trí của mỗi chiếc địch hạm. Tuy nhiên với mỗi phút trôi qua và chiến hạm Trung quốc dịch chuyển trong đội hình của chúng, trang bị Slick-32 chỉ có thể theo dõi phương hướng của chúng thôi. Ước tính về tầm xa sẽ càng lúc càng trở nên không đáng tin cậy và vòng tròn tượng trưng vùng ‘không thể xác định’ lại mở rộng ra.
                 
                Chiếc Night Hawk III có khả năng duy trì liên lạc liên tục với các vệ tinh, liên tục cập nhật vị trí của địch hạm, nhưng lập trình của nó là cố gắng tránh bị phát hiện. Có ít nhất là ba phi tuần tiêm kích J-15 đang bay vòng vòng trong khu vực này để bảo vệ cho chiếc tàu sân bay Trung quốc. Phương thức liên lạc của chiếc Night Hawk III rất kín đáo, nhưng không phải hoàn toàn vô hình.
                 
                Một lần nữa, chung quy cũng chỉ là sự khác biệt giữa ‘không thể’ và ‘khó thể’ phát hiện mà thôi. Sự thành công hay thất bại của nhiệm vụ này, cái sống hay cái chết, đều tùy thuộc vào việc duy trì chiếc máy bay không người lái này và hai chiếc chiến hạm Mỹ bên dưới mức có thể bị phát hiện.
                 
                Bất cứ một chiếc nào trong số các máy bay tiêm kích Trung quốc ấy đều có khả năng may mắn bắt được một tia phản chiếu từ chiếc Towers hay Gerrard vào bất cứ lúc nào. Một trong số các viên phi công có khả năng tình cờ liếc mắt lên trên (hay xuống dưới) vừa đúng một góc độ nào đó và thoáng thấy một cái dáng đen thui kỳ dị giữa các làn sóng hay một cái bóng đen nhỏ có cánh in trên bầu trời đêm.
                 
                Silva biết rằng nàng không nên có những suy tư như thế, nhưng mà đây là cái khoảng thời gian mà nàng rất ghét. Cái khoảng thời gian chờ đợi. Chính là cái khoảng khắc yên lặng trước khi bão tố trong truyền thuyết ấy mà. Cái khoảng thời gian dài vô tận khi không có hành động nào, khi mà mỗi giây đều như kéo dài ra thành một lưỡi dao sắt bén như dao cạo, mà người ta không có gì để làm ngoại trừ việc suy tư về đủ thứ chuyện sai lầm có thể xảy ra.
                 
                Trên màn hình chiến thuật, phù hiệu của hai chiếc Towers và Gerrard đã ở thật sâu vào khu vực càng lúc càng đỏ đậm của vùng được bao phủ bởi ra-đa Trung quốc rồi. Khung số cho thấy xác suất bị phát hiện đã là 88,1/17,6. Đã có đến gần một phần năm khả năng bọn họ bị phát hiện rồi, mà các con số này vẫn còn tiếp tục tăng lên cao thêm.
                 
                Nếu chia đôi phần tốt nhất và tệ hại nhất của khu vực ‘không thể xác định’, các chiếc khu trục Trung quốc đang cách xa họ chỉ hơn 70 km. Chúng đã lọt vào tầm của phi đạn Harpoon từ lâu rồi, nhưng từ buổi thuyết trình trước khi tiến hành nhiệm vụ, Silva đã biết rằng Đại Tá Bowie dự tính tiến gần thêm 5 km nữa trước khi bắt đầu cuộc tập kích.
                 
                Như hầu hết các tàu chiến mặt nước của Mỹ, chiếc Towers chỉ mang theo có tám quả phi đạn đối hạm Harpoon thôi. Chiếc USS Donald Gerrard cũng chỉ có tám quả. Như vậy, họ chỉ có thể dành bốn quả cho mỗi mục tiêu, nhưng mà chiến hạm Trung quốc nghe đâu được trang bị các hệ thống chống phi đạn rất tốt.
                 
                Bowie muốn tiến đến gần đủ để tiếp tục xạ kích bằng trọng pháo, trong trường hợp số lượng Harpoon ít ỏi không đủ bảo đảm đánh gục kẻ địch.
                 
                Chỉ cần trước đây một năm thôi, một cuộc xạ kích bằng pháo từ tầm xa 60 km đã là một điều không thể thực thi. Để đánh các mục tiêu trên mặt nước, tầm xạ kích hữu hiệu của một viên đạn pháo tiêu chuẩn 127 mm của Hải quân chỉ chưa đến 20 hải lý (36 km), chưa được phân nửa tầm xa mà kế hoạch của Bowie đòi hỏi. Nhưng đó là trước khi sự xuất hiện của Vulcano.
                 
                Trong suốt nhiều thập kỷ qua, đã có nhiều cố gắng để triển khai đạn pháo có rocket hỗ trợ để đạt được tầm xa hơn, nhưng không dự án nào của Mỹ thành công cả. Hai dự án hứa hẹn nhất, Ballistic Trajectory Extended Range Munition (BTERM) và Extended Guided Munition (ERGM), đều bị hủy bỏ vì vượt quá ngân sách và những trở ngại kỹ thuật dai dẳng.
                 
                Hải quân Hoa Kỳ cuối cùng đành đi đường vòng để tránh các vấn đề này bằng cách mua đạn từ hãng OTO-Melara của Ý. Nền công nghệ quốc phòng Ý đã thành công trong khi các tập đoàn công nghệ quân sự của Mỹ đều thất bại. Các quả đạn 127 mm Vulcano của hãng OTO-Melara hoàn toàn phù hợp với pháo 127 mm trên chiến hạm Mỹ và tầm bắn tối đa của chúng là 75 km.
                 
                Các pháo thủ trên hai chiếc Towers và Gerrard đều đã được huấn luyện sử dụng đạn Vulcano và họ đã trải qua một số lần huấn luyện đáng nể, qua phương pháp mô phỏng trên máy vi tính, để chuẩn bị sử dụng loại đạn mới này. Tuy nhiên máy huấn luyện mô phỏng chính xác nhất cũng có giới hạn thực tế và những cuộc tập dượt bằng đạn thật chỉ xảy ra được 5-6 lần mà thôi.
                 
                Xét đến các sự kiện ấy và biết rằng Hải quân Hoa Kỳ chưa từng sử dụng đạn Vulcano trong thực chiến lần nào, Bowie đã quyết định nhích tới gần mục tiêu thêm một chút nữa, trước khi bắt đầu cuộc tập kích.
                 
                Silva hoàn toàn đồng ý với lối suy nghĩ của viên hạm trưởng này. Hoàn toàn hợp lý khi mà hắn không dựa dẫm vào các đánh giá trên sách vở về khả năng của món vũ khí mới này. Tốt nhất là thêm vào một mức an toàn trong trường hợp sách vở viết sai.
                 
                Nhưng mà số xác suất bị phát hiện vẫn tiếp tục tăng lên. Trong khi Silva quan sát, nó đã đổi thành 91,6/22,9 rồi. Trong vài phút nữa, khả năng bị phát hiện sẽ đạt đến 30 phần trăm. Quá cao để người ta cảm thấy thoải mái rồi.
                 
                Silva nhìn quanh và chạm vào ánh mắt của Bowie. Hắn hơi nhướng một bên lông mày lên, nói. “Có lẽ đây là cảm giác của một hạm trưởng tàu ngầm nhỉ.”
                 
                Hắn quay sang màn ảnh chiến thuật. “Cố gắng lẻn vào vòng đai cảm biến của quân địch mà không bị phát hiện. Hiểu rằng chỉ có sự im lặng và may mắn mới có thể giữ được tính mạng của mình.”
                 
                Trung tá Silva gật đầu, nhưng không nói gì cả. Mắt nàng lướt qua lại giữa số liệu ước lượng khoảng cách với mục tiêu và xác suất bị phát hiện. Hai dãy số, một con số giảm dần còn con số kia thì tăng dần. Im lặng và may mắn. Im lặng… May mắn. Im lặng…
                 
                Một loạt âm thanh tín hiệu UHF đã mã hóa vang lên từ máy truyền tin SATCOM, mang theo số liệu vị trí mới nhất từ chiếc Night Hawk III. Trên màn ảnh Aegis, khu vực ‘không thể xác định’ của các chiến hạm Trung quốc lập tức thu nhỏ lại thành những điểm tách rời.
                 
                Đại tá Bowie nhìn vào vị trí của các mục tiêu, ước tính góc độ và khoảng cách đối chiếu với kế hoạch trong đầu. Hắn gật đầu, tằng hắng và nói lớn. “Chúng ta tiến hành nào.”
                 
                Và đột nhiên, thời điểm đã đến.
                -=-=-=-=-=-=-
                Chú Thích:
                (43) Harpoon RGM-84 là phi đạn hành trình đối hạm được Hoa Kỳ triển khai từ 1977. Phi đạn này được cải tiến và nâng cấp nhiều lần và hiện được rất nhiều quốc gia sử dụng. Có nhiều phiên bản cho tiêm kích, tàu mặt nước, tàu ngầm và trên bộ. Khác với các loại phi đạn hành trình đối hạm thường gặp vào thập kỷ 1970-1980 chỉ có thể bay sát mặt nước thẳng đến mục tiêu và liên tục tìm tòi mục tiêu, Harpoon có thể được gài lập trình để bay theo tuyến đường rắc rối (bay vòng) tạo mê hoặc cho địch thủ, bay sát mặt nước mà chỉ sử dụng ra-đa để đo và điều chỉnh cao độ nên khó bị phát hiện. Sau đó, khi tiếp cận mục tiêu, Harpoon mới bật ra-đa tìm mục tiêu. Khi phát hiện mục tiêu, nó lao vọt lên không, rồi đâm xuống từ trên cao. Vì lộ trình biến đổi bất ngờ, địch khó đánh chặn hơn. Vì tuyến đường phức tạp, ta có thể bắn nhiều phi đạn tấn công vào mục tiêu từ phương hướng khác nhau tạo khó khăn và mê hoặc cho chiến hạm địch. Vì lao xuống từ trên cao, Harpoon có thể được thiết kế nhỏ hơn, mang đầu đạn nhẹ hơn, nhưng vẫn xuyên thủng được sàn tàu (mỏng hơn vỏ tàu) và gây thiệt hại nặng (nổ sâu bên trong mục tiêu). Dòng phi đạn này rất thành công và được Liên Xô mô phỏng (xem Kh-35U).
                 
                #53
                  Quang11 09.09.2016 04:47:29 (permalink)
                  0
                  Chương 51
                  USS Towers (DDG-103)
                  Vịnh Bengal
                  Thứ Tư, 3 Tháng 12, 00:13 giờ địa phương
                   
                  Viên sĩ quan Tác Chiến (TAO) bấm nút nói. “Điều Hành Vũ Khí, TAO đây. Anh được phép xạ kích. Hãy bắn vào Mục Tiêu Mặt Nước Không Một và Mục Tiêu Mặt Nước Không Hai bằng Harpoon đi.”
                   
                  Tiếng trả lời vang lên ngay lập tức. “Điều Hành Vũ Khí đây, aye.”
                   
                  Vài giây sau, sàn tàu bằng thép rung lên khi những quả phi đạn hành trình đối hạm gầm thét lao ra khỏi ống phóng của chúng.
                   
                  “TAO, Điều Hành Vũ Khí đây. Bốn con chim rời ổ rồi, không thấy trục trặc gì. Đã bắn hai quả tới mỗi mục tiêu mặt nước địch.”
                   
                  Trung tá Silva quan sát phù hiệu của bốn quả đạn bạn xuất hiện trên màn ảnh chiến thuật và lao đến những điểm trung gian đã được hoạch định từ trước, nằm phía bên kia của các mục tiêu. “Còn phải bao lâu nữa mới bắn đợt thứ nhì vậy?”
                   
                  “Khoảng ba phút nữa.” Đại tá Bowie đáp.
                   
                  Kế hoạch là tấn công trong hai giai đoạn. Đợt phi đạn đầu sẽ bay quá chiến hạm địch, bên dưới tầm nhìn của ra-đa Trung quốc. Khi các quả Harpoon này đã bay được nửa đường đến các địa điểm trung gian, đợt phi đạn thứ nhì sẽ được phóng đến các điểm trung gian của chúng, nằm ở phía bên này của các mục tiêu.
                   
                  Khoảng cách giữa hai đợt phóng đã được tính toán để cho tất cả các quả Harpoon đều bay đến điểm trung gian của chúng cùng lúc. Sau đó, mọi quả phi đạn đồng loạt chuyển hướng bay thẳng đến mục tiêu và chuyển sang giai đoạn tấn công tối hậu, khi mà các ra-đa truy lùng mục tiêu được bật lên.
                   
                  Bên phía tây của biên đội địch, chiếc USS Donald Gerrard cũng sẽ tiến hành một cuộc tập kích y như vậy vào hai chiếc tàu khu trục nhẹ bên phía bên kia của đội hình địch.
                   
                  Cách đánh này được gọi là ‘simultaneous time-on-target’, tạm dịch là ‘đồng thời đến mục tiêu’. Nếu được thực hành đúng đắn, mỗi chiếc tàu hộ vệ của Trung quốc sẽ phải đột nhiên đối đầu với bốn quả phi đạn Harpoon, bay đến từ những phương hướng khác nhau.
                   
                  Các chiếc tàu khu trục nhẹ đa năng lớp Jiankai II (Giang Khải II) và khu trục phòng không lớp Luzhou (Lữ Châu) được biết là có trang bị hệ thống chống phi đạn hành trình mạnh mẽ. Nếu phải đối diện với một (hay cho dù nhiều) quả Harpoon bay đến từ cùng đại khái một phương hướng, rất có khả năng là các chiến hạm Trung quốc này sẽ đánh chặn được hầu hết hoặc tất cả phi đạn. Nhưng mà khả năng chúng có thể xạ kích bốn phi đạn địch cùng lao đến từ những phương hướng khác nhau thì thấp hơn nhiều.
                   
                  Nếu các đánh giá chiến thuật gần đây nhất đều chính xác, thì một cuộc tập kích theo lối ‘đồng thời đến mục tiêu’ sẽ đánh trúng một hay hai phát vào mỗi chiến hạm địch.
                   
                  Đối với Silva, thời gian dường như đã gia tốc dữ dội. Khoảng thời gian 3 phút giữa hai đợt phi đạn dường như lướt qua trong vài giây ngắn ngủi, rồi sàn tàu lại run lên vì đợt Harpoon thứ nhì được phóng đi. Bốn phù hiệu vũ khí bạn lại hiện lên trên màn hình Aegis và ngay lập tức bắt đầu bay về hướng điểm trung gian của chúng.
                   
                  Các phi đạn này chỉ vừa bay chưa đến 1 phút thì báo cáo của nhóm Chiến Tranh Điện Tử (EW – Electronic Warfare) đã vang lên trên mạng. “TAO, đây là EW. Tôi bắt được hai nguồn phát xạ X-band, hướng đi hai-tám-không. Đặc điểm tín hiệu và nhịp tần số phù hợp với ra-đa điều khiển xạ kích của máy bay tiêm kích Chengdu J-15.”
                   
                  Trước khi bất cứ người nào kịp phản ứng, tiếp theo là báo cáo của viên chỉ huy Không Chiến. “TAO, Không Chiến đây. Dòng dữ liệu từ chiếc Night Eagle III vừa bị cắt ngang giữa chừng.”
                   
                  Viên TAO bấm nút nói. “Không Chiến, TAO đây. Nói rõ báo cáo vừa rồi. Có phải anh bị mất liên lạc với vệ tinh không?”
                   
                  “TAO, Không Chiến đây. Thưa thiếu tá, không phải vậy ạ. Chúng ta vẫn còn liên lạc tốt với SATCOM 7, nhưng vệ tinh đã mất liên lạc với máy bay không người lái rồi.”
                   
                  Silva trao đổi ánh mắt với Bowie. “Đại tá, nếu tôi không lầm, một phi tuần Trung quốc vừa đánh rơi chiếc máy bay không người lái của chúng ta rồi.”
                   
                  Nhận định của nàng được xác nhận bởi viên Sĩ Quan Phòng Lái chỉ hai giây sau. “TAO, Phòng Lái đây. Thủy thủ canh gác vừa báo cáo trông thấy một quả cầu lửa ở hướng hai-bảy-năm. Góc độ là 51 độ.”
                   
                  Bowie quay sang viên TAO. “Chuẩn bị kích hoạt SPY nhé. Các bằng hữu Trung quốc của chúng ta vừa nhận ra là chúng ta đang ở trong xóm của họ rồi đó. Tôi muốn chúng ta sẵn sàng chuyển sang tư thế chiến đấu Aegis hoàn toàn ngay lập tức khi được lệnh.”
                   
                  Hắn đề cao giọng để cho toàn bộ nhân viên phòng hành quân CIC đều nghe được. “Mọi người nghe đây. Sắp sôi nổi lên rồi đó. Mọi người hãy tập trung và sẵn sàng cho bất cứ điều gì nhé!”
                   
                  Trên màn ảnh Aegis, phù hiệu của các phi đạn Harpoon vừa bay đến các điểm trung gian cuối cùng và quẹo về phía các chiến hạm địch. Các phi đạn này thuộc loại bay rà sát mặt nước để tránh vùng bao phủ của ra-đa từ các mục tiêu càng lâu càng tốt. Trong vòng khoảng 90 giây nữa, chúng sẽ có thể bị phát hiện bởi các nhân viên ra-đa Trung quốc.
                   
                  Bowie không có ý đồ cho phép các chiến hạm địch kịp thời gian phản ứng chống lại các phi đạn ấy. Hắn gật đầu với viên TAO. “Bắn pháo vào chúng đi.”
                   
                  Viên TAO chuyển lệnh cho nhóm Điều Khiển Vũ Khí và chiếc chiến hạm giật lên khi khẩu pháo 127 mm nhả ra phát đạn đầu tiên. Tiếng súng vang lên bên trong phòng hành quân CIC như một tiếng sấm, chỉ hơi giảm thấp vì các vách tường thép cách ly căn phòng với tháp pháo.
                   
                  Khẩu pháo bắt đầu chu kỳ nạp đạn tự động của nó, cứ mỗi ba giây lại bắn một quả trong tiếng nổ chấn động cả xương cốt. Sau khi năm quả đạn được phóng đi, khẩu pháo lại quay sang chiếc khu trục hạm Trung quốc thứ nhì và nhả ra năm quả khác. Rồi khẩu pháo lại quay trở về chiếc khu trục hạm đầu và lại bắn năm phát.
                   
                  ***
                   
                  Viên pháo Vulcano:
                   
                  Mỗi giây bay được 800 m, viên pháo đầu tiên chỉ mất 74 giây đã bay đến mục tiêu. Khi bay đến đoạn cuối của đường bay, mô-đun kiểm soát hai cánh nhỏ ở đầu mũi tiếp nhận dữ liệu GPS và so sánh với vị trí được ước tính bởi khối đo lường quán tính, bên trong viên pháo. Mô-đun kiểm soát điều chỉnh góc độ của hai chiếc cánh nhỏ và viên đạn Vulcano chúi đầu vào giai đoạn bay cuối cùng.
                   
                  Cảm biến tia hồng ngoại khóa cứng vào nguồn nhiệt lượng lớn nhất mà nó có thể thấy. Mô-đun kiểm soát cánh nhỏ làm một điều chỉnh góc độ sau cùng và viên pháo dẫn đường lao đến mục tiêu như một ngôi sao băng.
                   
                  Chiếc tàu khu trục lớp Luzhou có hai động cơ tua-bin hơi nước do Trung quốc thiết kế. Khi viên pháo đầu tiên trong loạt đạn bắt đầu từ bầu trời lao xuống, ký hiệu nhiệt lượng mạnh nhất là một cụm khí siêu nóng bốc lên từ ống khói ở phía trước.
                   
                  Viên Vulcano đầu tiên đâm vào nơi nóng nhất của luồng hơi xả ra, khoảng 2 m bên trên ống khói, hoàn toàn hụt khỏi chiếc tàu khu trục và trúng vào nước khoảng 15 m bên trái của chiếc tàu. Nó nổ tung, bắn tung một làn mưa mãnh đạn hoặc là lao vào biển, hoặc là bắn trúng vào vỏ tàu thép của chiến hạm kêu leng-keng một cách vô hại.
                   
                  Ba giây sau, viên Vulcano tiếp theo bắn hụt chiếc tàu Trung quốc còn xa hơn nữa. Nhưng rồi, viên thứ ba đã đến.
                   
                  ***
                   
                  Khu trục hạm Shijiazhuang (Thạch Gia Trang), lớp Luzhou số 116, Hải quân QGPNDTH
                   
                  Trung úy Dong Jie quay ống nhòm sang phải và cuống quít đảo khắp bầu trời bên phải của tàu. Viên sĩ quân trực và tên thủy thủ canh gác đang tụ lại nơi cửa sổ kính bên trái của phòng điều khiển, tìm cách nhìn nơi hai vụ nổ vừa xảy ra bên trái của tàu.
                   
                  Nhưng mà họ đang nhìn sai hướng rồi. Các quả tên lửa hay đạn pháo, hay cái gì đó đã bay đến từ phía đông. Trung úy Dong đã nghe thấy chúng rõ ràng, một tiếng rít cao thé mà tai gã chỉ thoáng nghe được. Âm thanh gì thế nhỉ? Cái thứ gì nổ vậy nhỉ?
                   
                  Thế rồi gã lại nghe thấy tiếng rít ấy lần nữa, cũng từ phía đông như hai lần trước. Gã quay sang viên sĩ quan trực và nói. “Nghe kìa!”
                   
                  Nhưng viên sĩ quan trực không hề lắng nghe.
                   
                  Dong bước mau đến cánh cửa kín nước bên phải của phòng chỉ huy. Gã vặn mạnh cần kéo cửa lên, kéo cửa mở ra và bước ra hành lang bên phải dưới ánh sao. Khí trời đêm lạnh lẽo ập vào người gã như một nhát búa, nhưng gã muốn biết cái âm thanh kia từ đâu đến.
                   
                  Chẳng biết nó là cái gì, nhưng chắc chắn nó quá nhỏ để có thể thấy trên ra-đa bởi vì các màn ảnh trong phòng chỉ huy không cho thấy có vật gì đang tiếp cận cả và các nhân viên điều hành ra-đa cũng không có báo cáo bất cứ điều gì bất bình thường.
                   
                  Gã nâng ống nhòm lên mắt và quét qua bầu trời tối. Gã không thấy gì ngoài những ngôi sao. Nhưng mà kẻ nào lại có thể làm ra những điều này chứ nhỉ? Bọn Ấn Độ sao? Hay bọn Mỹ? Nhưng mà bọn chúng đã đi xa rồi mà. Bị đánh bại và bị xua đuổi khỏi chiến trường…
                   
                  Xuyên qua cánh cửa phòng chỉ huy còn mở, Dong có thể nghe tiếng điện thoại reo lên. Chắc là hạm trưởng rồi, đang muốn một bản báo cáo về những tiếng nổ kỳ quái kia đây mà.
                   
                  Tiếng rít đang lớn lên. Dong nghĩ rằng gã vừa thoáng thấy một cái gì đó, một cái bóng nhỏ và đen ngòm loáng thoáng lao xuống từ bầu trời tối thui.
                   
                  Thế rồi một cụm ánh sáng quắc làm lóa mắt gã. Chân gã rời sàn tàu khi sóng xung kích và mảnh đạn xuyên vào thân thể gã, ném gã văng xuyên qua cửa vào phòng chỉ huy.
                   
                  Lúc này, báo cáo vang lên trên loa, tiếng nói kích động của viên sĩ quan của nhóm Ra-đa lắp bắp nói về sự xuất hiện bất ngờ của bốn viên phi đạn đang lao đến từ những phương hướng khác nhau. Những tiếng thét lệnh cho các hệ thống vũ khí phòng thủ.
                   
                  Nhưng đôi tai tê tái của Dong Jie đã bị tràn ngập bởi nhịp tim đập xa xôi của gã. Ban đầu rất nhanh, rồi chậm dần… chậm dần…
                   
                  Gã khép đôi mắt, rồi lại mở chúng ra. Quan cảnh vẫn không hề thay đổi. Cho dù mí mắt gã đang đóng hay mở, gã chẳng thấy gì khác hơn là cái lóe sáng trắng của phát nổ.
                   
                  Óc gã không nhận biết âm thanh như lưỡi cưa máy của những khẩu pháo nhiều nòng loại Gatling đang khạc ra những tràng đạn 30 mm vào màn đêm. Gã không hề nhìn thấy hai hỏa cầu bùng lên trong đêm tối khi hai dòng đạn cao tốc cắt nát hai quả phi đạn địch. Gã không hề nhìn thấy các khẩu Gatling di chuyển về phía những mục tiêu kế tiếp.
                   
                  Và gã không hề nhìn thấy các quả Harpoon Mỹ còn lại vượt qua hàng rào phòng thủ và len lõi vào để hạ đòn sát thủ.
                   
                  ***
                   
                  USS Towers
                   
                  “TAO, Điều Khiển Vũ Khí đây. Harpoon đến mục tiêu, ngay lúc này đây!”
                   
                  Bowie không chút do dự. “Kích hoạt SPY đi!”
                   
                  Vài giây sau, các màn ảnh Aegis khổng lồ bắt đầu tràn ngập dữ liệu về quân địch: năm phù hiệu tàu mặt nước địch và bốn cặp phù hiệu máy bay địch.
                   
                  Trong một thoáng thời gian, 16 phù hiệu phi đạn bạn nằm chồng bên trên phù hiệu của các khu trục và khu trục nhẹ của Trung quốc, mỗi chiếc có 4 phi đạn bạn. Rồi phù hiệu phi đạn màu xanh lơ biến mất khỏi màn ảnh, chừa lại phù hiệu tượng trưng cho chiến hạm địch.
                   
                  Trung tá Silva quan sát các phù hiệu Harpoon tắt ngúm đi. Bao nhiêu phi đạn đã lọt qua được và bao nhiêu viên bị bắn hạ trước khi bay đến mục tiêu? Quan trọng hơn là, còn bao nhiêu chiến hạm hộ vệ cho chiếc tàu sân bay Trung quốc còn khả năng chiến đấu?
                   
                  Lúc này, vì chiếc máy bay không người lái đã bị tiêu diệt, không có cách nào để đánh giá thành quả chiến đấu cả. Có lẽ phải mất nhiều phút nữa mới có thể làm rõ được chiếc tàu nào còn có thể di chuyển và xạ kích, và chiếc nào đã bị loại khỏi vòng chiến. Nhưng mà các chiếc tàu khu trục Mỹ đang ở thế hạ phong về quân số và không thể nào chờ đợi để biết thành quả được.
                   
                  “Cứ tiếp tục pháo kích vào chúng.” Bowie nói. “Năm viên, chuyển mục tiêu, năm viên, rồi lại quay trở lại.”
                   
                  Cứ mỗi ba giây, khẩu pháo lớn lại gầm lên và một quả Vulcano khác lại bắt đầu hành trình xa xôi đến một trong hai chiếc khu trục hạm lớp Luzhou.
                   
                  Ở phía bên kia của chiếc tàu sân bay Trung quốc, chiếc USS Donald Gerrard cũng đang hạ thủ với hai chiếc khu trục hạm hạng nhẹ ở bên rìa tây của trận hình địch.
                   
                  Cho tới nay, cuộc tập kích đã diễn ra y như trong kế hoạch. Cuộc đột kích đã xảy ra thật hoàn hảo, nhưng bất ngờ đã qua rồi. Khi mà các ra-đa SPY của họ đang phóng suất hằng mấy triệu watt năng lượng vào không gian, hai chiếc Towers và Gerrard đã mất đi mọi khả năng tàng hình rồi.
                   
                  Bây giờ các máy bay tiêm kích của địch đã biết họ ở đâu. Lúc này họ đã không còn lẫn tránh được nữa.
                   
                  Điều này được chứng minh chỉ 10 giây sau, khi tiếng nói của viên sĩ quan phụ trách Không Chiến vang lên trên mạng. “TAO, đây là Không Chiến. Bốn Bogies đang tiếp cận. Hai phi tuần mỗi cái hai chiếc. Có vẻ như bốn chiếc kia đang xông về phía chiếc Gerrard!”
                   
                  “TAO đây, aye. Chờ một chút.”
                   
                  Viên sĩ quan Tác Chiến nhìn sang Bowie. “Hạm trưởng, yêu cầu được phép khai hỏa vào máy bay địch.”
                   
                  Bowie gật đầu. “Cho phép.”
                   
                  Viên TAO quay trở về máy vi tính của mình và bấm nút nói. “Điều Khiển Vũ Khí, đây là TAO. Anh được phép khai hỏa. Xạ kích và hãy tiêu diệt mọi Bogies lọt vào tầm tác chiến của chúng ta!”
                   
                  Trên màn ảnh Aegis, hai cặp máy bay địch màu đỏ đang nhích lại gần chiếc Towers.
                   
                  Tiếng sấm lại vang lên khi khẩu pháo 127 mm lại phóng một quả Vulcano về phía một trong các tàu mặt nước của địch. Tiếng sấm này lập tức được tiếp theo bởi tiếng gào của tên lửa rời ống chứa.
                   
                  “TAO, đây là Điều Khiển Vũ Khí. Bốn tên lửa được phóng rồi, không có trục trặc gì cả. Mỗi chiếc Bogey có một quả.”
                   
                  Viên TAO đang với tay định bấm nút nói thì một báo cáo khác đã vang lên trên mạng. “TAO, Không Chiến đây. Bọn Bogies phóng phi đạn. Tôi đếm được 8 phi đạn đang bay đến.”
                   
                  Viên TAO bấm nút nói. “Mọi vị trí, TAO đây. Có Vipers đang tiếp cận! Tôi lặp lại, có phi đạn đang tiếp cận! Điều Khiển Vũ Khí, chuyển Aegis qua chế độ tự động sẵn sàng. Cho CIWS vào chế độ tự động tác xạ. Break. EW, chuẩn bị phóng chaff!”
                   
                  Chuyên viên Tác Chiến Điện Tử (EW – Electronics Warfare) trả lời ngay. “TAO, EW đây, sẵn sàng chaff rồi. Tôi đang theo dõi tám ra-đa truy tìm H-band, phù hợp với SSN-27 Sizzler. Xin được phép bắt đầu quấy nhiễu.”
                   
                  “EW, TAO đây. Cho phép. Quấy nhiễu tùy ý.”
                   
                  Một loạt tiếng gầm cho hay nhiều quả tên lửa SM-3 đã được phóng đi, tiếp theo là tiếng nói của viên sĩ quan chỉ huy nhóm Không Chiến. “TAO, Không Chiến đây. Mười sáu tên lửa đi rồi, không thấy trục trặc nào. Hai quả nhắm vào mỗi quả Viper.”
                   
                  Các máy vi tính Aegis đang theo phương pháp ‘bắn-bắn-nhìn-bắn-bắn’: bắn hai quả tên lửa đánh chặn vào mỗi phi đạn hành trình đang đến gần, dùng ra-đa đánh giá xem những phi đạn nào đã bị tiêu diệt, rồi lại bắn hai quả tên lửa khác vào mỗi quả Viper nào còn sống sót sau đợt xạ kích đầu tiên. Trừ phi được người ta cắt ngang quá trình, Aegis sẽ tiếp tục phương thức tác xạ này cho đến khi chiếc Towers đã bắn hết phân nửa số tên lửa SM-3 mang theo. Đến khi ấy, các máy vi tính sẽ tự động giảm nhịp tác xạ xuống thành ‘bắn-nhìn-bắn-bắn’.
                   
                  Lúc này, màn ảnh Aegis đã biến thành một nùi dấu hiệu đỏ và xanh rối loạn. Mắt của Silva nhảy từ dấu hiệu này qua cái khác, cố gắng tìm hiểu tình huống chiến thuật đang diễn biến nhanh chóng. Tình hình cuộc chiến đã trở nên phức tạp vượt qua trí óc con người có thể phân tích được. Trận chiến đã chuyển qua lĩnh vực cộng sinh giữa con người và máy móc, nơi mà con người chỉ còn có thể hoàn toàn lệ thuộc vào khả năng xử lý và kết nối dữ liệu của máy vi tính, mà máy vi tính cũng hoàn toàn lệ thuộc vào con người làm ra những quyết định theo bản năng và đôi khi dựa vào vài khoảnh khắc tài hoa chiến thuật sáng chói.
                   
                  Phía bên trái của màn ảnh, tương ứng với phía tây của biên đội tàu sân bay Trung quốc, tình hình cũng phức tạp y như vậy. Chiếc Gerrard cũng đang tối tăm mặt mũi trong trận chiến của chính nó với những quả tên lửa, vừa lao đến lẫn lao đi, đang bay tán loạn.
                   
                  Giữa những dấu hiệu hỗn loạn, phù hiệu đỏ của chiến hạm mặt nước Không Hai lóe lên và được thay thế bởi khung số liệu ‘vị trí cuối cùng’. Chiếc chiến hạm ấy vừa biến mất khỏi ra-đa rồi. Hoặc là nó đã chìm lỉm, hoặc là nó đã nổ tung thành những mảnh vụn quá nhỏ để có thể phản chiếu tia sóng ra-đa. Dù gì đi nữa, nó cũng biến mất rồi.
                   
                  Silva đập nhẹ vào vai Bowie và chỉ vào màn ảnh. “Đại tá, chúng ta vừa tiêu diệt một mục tiêu mặt nước rồi đó.”
                   
                  Bowie dời chú ý từ trận chiến trên không sang các phù hiệu tàu mặt nước, vừa đúng lúc viên sĩ quan Tác Chiến Mặt Nước loan báo sự kiện tàu địch bị tiêu diệt.
                   
                  Viên hạm trưởng gật đầu hướng Silva. “Mắt cô lanh thật.” Hắn bấm nút nói. “TAO, hạm trưởng đây. Cho khẩu pháo 127 mm chỉ tác xạ vào mục tiêu mặt nước Không Một thôi.”
                   
                  Trên màn ảnh, các phù hiệu phi đạn địch và bạn bắt đầu nhập vào nhau. “TAO, Không Chiến đây. Đã bắn hạ ba Viper. Chúng ta vẫn còn 5 phi đạn đang bay đến.”
                   
                  “TAO, aye. Break. EW, TAO đây. Bắn chaff đi.”
                   
                  Nhân viên Chiến Tranh Điện Tử lên tiếng nhận lệnh. “Bắn chaff, aye.”
                   
                  Tiếng nói của gã được tiếp theo bởi một loạt tiếng nổ nhỏ. “Đã bắn sáu viên.”
                   
                  Trong màn đêm, sáu quả đạn đầu tròn vọt ra khỏi giàn phóng Super-RBOC ở phía trước. Các viên ‘Super Rapid-Blooming Overboard Chaff’ (Super-RBOC, tạm dịch là đạn ‘chaff nổ cách xa tàu siêu nhanh’, xem ghi chú về chaff) bay vào không trung và nổ tung ở những điểm đã định trước, làm tung tóe ra những mảnh vụn kim loại và những đám mây bụi nhôm để lôi cuốn các ra-đa truy lùng mục tiêu trên phi đạn địch đang bay đến gần.
                   
                  Lại thêm một loạt gầm rú khi các máy vi tính Aegis phóng một đợt tên lửa đánh chặn SM-3 khác.
                   
                  “TAO, Không Chiến đây. Mười tên lửa phóng đi, không thấy trục trặc gì. Hai quả nhắm vào mỗi quả Viper còn lại.”
                   
                  Trên màn ảnh chiến thuật, bốn quả tên lửa SM-3 được phóng về phía các máy bay tiêm kích Trung quốc đã đến mục tiêu. Một trong số máy bay địch lóe lên và biến mất khỏi màn ảnh, được thay thế bởi khung số liệu ‘vị trí sau cùng’.
                   
                  “TAO, Không Chiến đây. Bắn hạ một Bogie. Số Bogie còn lại bay về phía nam.”
                   
                  Viên TAO gật đầu. “Phi đạn SSN-27 là một vũ khí nặng. Có lẽ chúng không mang theo nhiều hơn hai quả đâu.”
                   
                  “Có lẽ.” Bowie nói. “Nhưng chúng ta không nên dựa vào điều ấy.”
                   
                  Mười quả tên lửa đánh chặn nhập vào năm quả Viper. Sau khi đám phù hiệu hỗn loạn yên ổn lại, ba quả phi đạn địch vẫn tiếp tục bay đến gần.
                   
                  Bowie nhăn mặt. “Chúng ta vẫn nghe nói là SSN-27 rất khó đánh chặn, nhưng mà lạy Chúa… Phải làm thế nào mới bắn hạ được lũ khốn kiếp này chứ?”
                   
                  Một trong số phù hiệu phi đạn địch bỗng nhiên quẹo sang một bên và biến mất.
                   
                  “TAO, Không Chiến đây. Một quả bị chaff lừa rồi. Không quả nào bị quấy nhiễu cả.”
                   
                  Hai quả Viper còn lại gần như chạm vào phù hiệu của chiếc Towers trên màn ảnh.
                   
                  “TAO, Điều Khiển Vũ Khí đây. Hai quả Viper lọt lưới rồi. Chúng đã kích hoạt giai đoạn dẫn đường cuối cùng và chúng đã đến quá gần để có thể xạ kích bằng tên lửa. Khẩu CIWS đằng trước đang bắn.”
                   
                  Không khí rung lên vì tiếng gào của khẩu CIWS khi nó phun một tràng đạn tungsten về phía hai quả phi đạn hành trình. Một tiếng nổ điếc tai vang lên khi quả Viper nổ tung chỉ cách chiếc tàu khu trục vài trăm thước.
                   
                  Khẩu CIWS quay sang mục tiêu kế tiếp và bắt đầu khạc đạn. Tý xíu nữa là đã kịp thời rồi.
                   
                  ***
                   
                  SSN-27:
                   
                  Nửa giây trước khi lao vào mục tiêu, phần mũi của quả phi đạn bị trận mưa đạn tungsten đập nát, khiến bộ phận ra-đa truy lùng mục tiêu và bộ phận điều khiển phi đạn nát bấy. Nếu quả phi đạn cách xa mục tiêu 50 m thôi, thiệt hại như thế có thể đã đủ để làm nó lao đầu vào nước biển rồi. Nhưng mà quả SSN-27 đang di chuyển hơn hai lần tốc độ âm thanh và quán tính của tốc độ ấy khiến cho viên phi đạn mù lòa lao qua vài mét cuối cùng, trúng vào mục tiêu của nó.
                   
                  Quả SSN-27 đánh trúng bên trái của chiếc chiến hạm Mỹ, khoảng 4 m dưới sàn tàu chính. Mọi cảm biến tinh vi của phi đạn và bộ phận kích nổ của nó đã bị khẩu CIWS đánh tan nát, nhưng sự đơn giản của ngòi nổ cơ giới vẫn còn sống sót.
                   
                  Trong khoảnh khắc một phần triệu giây sau cuộc va chạm, lực va chạm truyền dọc theo chiều dài của quả phi đạn, khiến cho một thanh ferit kền lắp trong một vòng xoắn tính từ bị nén lại. Do hiện tượng từ giảo, sự biến dạng của thanh kền ấy tạo ra một xung động từ trường nhỏ xíu lan truyền suốt trong vòng xoắn, tạo ra một dòng điện. Dòng điện này kích hoạt hạt nổ vùi sâu trong đầu đạn của quả phi đạn.
                   
                  Hai trăm kg Cyclotri-methylene Trinitramine lóe lên thành một luồng lực hình nón đâm xuyên vào vỏ tàu với sức mạnh của một đầu tàu xe lửa. Vách bằng thép gập lại như giấy. Những cây cột bằng thép kêu kẽo kẹt và gãy sụp trong nhiệt độ và áp suất cao. Một dòng thác mảnh vụn lao vào trung tâm chiếc tàu qua cái lỗ thủng khổng lồ ấy.
                   
                  Thế rồi chỉ còn lại hỗn loạn và tử vong.
                   
                  #54
                    Quang11 09.09.2016 04:50:29 (permalink)
                    0
                    Chương 52
                    USS Towers (DDG-103)
                    Vịnh Bengal
                    Thứ Tư, 3 Tháng 12, 00:29 giờ địa phương
                     
                    Có một khoảng thời gian vĩnh hằng một cách kỳ quái khi mà mọi thứ dường như xảy ra như trong phim quay chậm vậy. Silva có thể nghe tiếng viên sĩ quan phòng Lái trên loa 1-MC, ra lệnh cho mọi người chuẩn bị va chạm. Có ai đó đang yêu cầu được cập nhật về tình huống của quả Viper cuối cùng. Trên màn ảnh Aegis, phù hiệu đỏ của quả phi đạn địch đang nhập vào cái vòng tròn màu xanh lơ tượng trưng cho chiếc USS Towers.
                     
                    Silva đang đứng cạnh Đại Tá Bowie, vài thước phía sau chiếc ghế của viên TAO và không có thứ gì ở gần bên cho nàng bám vào cả.
                     
                    Bowie bám vào một xà ngang bên trên đầu, còn Silva quay sang một cột thép từ sàn lên trần, nằm bên phải của nàng. Hai tay nàng bám quanh cột, đầu cúi xuống và hai gối hơi khụy xuống, cố gắng làm theo tư thế chuẩn bị chống va chạm mà mọi thủy thủ đều được học qua, nhưng ít ai nghĩ sẽ phải dùng đến.
                     
                    Thế rồi cái giây dài đằng đẳng ấy cũng qua đi, và dòng chảy thời gian từ mức chảy chậm rì lại tăng vọt thành một tốc độ điên cuồng.
                     
                    Sóng xung kích cắt ngang qua phòng hành quân CIC như một cơn bão táp và không gian đột nhiên đầy những mảnh vụn, những mẩu thi thể bay tứ tung và những tiếng kêu gào của những kẻ bị thương và hấp hối. Mọi đồ vật không được gắn chặt trong phòng, mọi cây viết, cuốn sổ và tách cà-phê lập tức vọt lên không và bay đi từ phía chỗ phi đạn nổ với cùng tốc độ với sóng xung kích.
                     
                    Các vị trí làm việc của hệ thống SLQ-32 ở khu vực Chiến Tranh Điện Tử và các màn ảnh ra-đa hấp thụ và làm giảm một phần lực lượng của vụ nổ. Nhiều bàn ra-đa bị giật ra khỏi các giá lắp ráp, màn ảnh nổ tung thành những chùm mưa thủy tinh, các mảnh thủy tinh bắn sâu vào mặt và thân thể của các nhân viên ra-đa.
                     
                    Hai tay của Silva bị kéo tuột khỏi cột thép. Nàng bị bắn vào một tấm bản ghi nhận tình hình, mạnh đến nỗi lớp kính dày bị rạng nứt. Cú va chạm làm nàng ngất ngư. Một bên đầu của nàng đập mạnh vào khung sắt của tấm bản. Nàng gục xuống sàn tàu, mê man.
                     
                    Nước từ hệ thống làm mát cho thiết bị xịt tung tóe từ những vết nứt trên ống. Nhiều giây điện bị chập mạch, làm máy cắt điện bật lên. Đèn trên trần tắt phụt và trong một khoảng thời gian ngắn, máu me và hỗn loạn diễn ra trong bóng tối hoàn toàn.
                     
                    Rồi đèn khẩn cấp chạy bằng pin được kích hoạt tự động, đem lại ánh sáng đỏ mờ cho cả căn phòng điêu tàn.
                     
                    Các màn ảnh Aegis lớn đều tối đen. Phần đông các trạm làm việc còn lại đều có ánh đèn cảnh báo vàng và đỏ nhấp nháy, cho biết các trình độ hư hỏng cả về vật chất lẫn điện tử.
                     
                    Silva nằm ngửa, ngắm nhìn các vùng sáng và tối chen lẫn kỳ dị trên trần phòng: ánh đèn khẩn cấp, lúc sáng lúc mờ vì những lọn khói từ vụ nổ, các ánh nhấp nháy của đèn cảnh báo và bóng người thấp thoáng đang lần mò trong bóng tối. Không khí mang nặng mùi hóa chất cháy, mùi dây điện bị chảy tan và mùi da thịt cháy nám.
                     
                    Dường như có lửa cháy gần đâu đây, nhưng điều ấy không có gì là quan trọng trong trí óc mù mờ của Silva. Đến một lúc nào đó, nàng chợt nhận ra là tay áo bên trái của nàng đang ngún lửa. Vải áo là loại chống lửa và có vẻ nó đang chống lửa thật. Bằng không, cả cánh tay áo của nàng đã bốc lửa ngùn ngụt rồi.
                     
                    Dần dần nàng ý thức ra là nàng cần phải ngồi dậy. Có nhiều chuyện còn cần nàng làm mà. Nhưng mà nàng không cách nào nhớ được đó là những chuyện gì.
                     
                    Tai nàng vẫn còn lùng bùng vì vụ nổ, nhưng nàng có thể nghe được những tiếng người cuống quít vang lên trong các loa treo trên trần phòng. Báo cáo. Hỏi han về thiệt hại. Yêu cầu mệnh lệnh. Không ai có vẻ như chú ý gì đến các lời nói ấy cả.
                     
                    Đầu nàng gục sang bên trái và nàng chợt nhận ra mình đang nhìn vào một người nằm nghiêng trong một vũng máu. Mặt hắn có vẻ quen thuộc. Nàng đã từng thấy hắn ở đâu rồi. Có thể nàng đã từng quen biết hắn, hay sao đó…
                     
                    Không. Không phải thế. Nàng biết hắn mà. Đây chính là Bowie. Đại Tá Bowie.
                     
                    Cái ý nghĩ mạch lạc duy nhất ấy, sự nhận diện đơn giản và cơ bản ấy chính là tia lửa làm nhen nhóm lại ý thức của Silva. Nàng lại bắt đầu tiếp nhận và xử lý các dữ liệu thông tin. Thế giới lại trở nên rõ ràng và cùng lúc ấy, sự đau đớn cũng trở về, trong đầu nàng, nơi hai bên sườn nàng và ở cổ tay trái nữa. Bầm dập tại nhiều chỗ hơn là nàng có thể đếm và nàng đã chảy máu ở thái dương bên trái nữa, nhưng dường như không có thứ gì bị gãy cả.
                     
                    Nàng cố gắng chống tay ngồi lên và lập tực phải đánh giá lại, khi một cơn đau quặn cả bao tử lan lên từ cổ tay trái của nàng. OK, có lẽ cổ tay đã gãy rồi.
                     
                    Silva lăn người qua bên phải, chống đầu gối và tay phải còn nguyên vẹn xuống. Bên trái của phòng hành quân CIC có vài đám cháy và cả khu vực ấy mờ khói. Trong khi Silva đang nhìn, ba hay bốn thủy thủ xông tới các đám lửa với những ống CO2 chữa cháy, phun những luồng khí carbonic trắng để dập lửa.
                     
                    Silva đang gồng người để chuẩn bị đứng lên thì có động tĩnh làm nàng ngưng lại. Bowie đang vẫy nàng bằng ngón trỏ bên phải một cách yếu ớt.
                     
                    Nàng nhìn hắn kỹ hơn. Vùng sàn tàu quanh hắn đầy chất lỏng đậm màu. Cánh tay trái của hắn ghì chặt vào ngực, lòng bàn tay ấn mạnh vào một chỗ gần xương ức. Lớp vải áo của hắn lấm tấm những lỗ thủng nhỏ và, nếu xét bằng số lượng máu đang chảy qua các ngón tay của hắn, bên dưới bàn tay của hắn có một lỗ thủng còn to hơn nữa.
                     
                    Mắt hắn dán chặt vào mắt của Silva. Nàng có thể thấy rõ điều ấy cho dù dưới ánh sáng đỏ mờ nhạt của đèn khẩn cấp.
                     
                    Nàng lết nhanh đến gần hắn, hai đầu gối trượt đi trên sàn tàu ướt nhảy. Khi nàng đã đến gần, nàng đưa bàn tay không bị thương đến và cố gắng giúp hắn đè chặt lên vết thương nơi ngực.
                     
                    Nàng thử kêu to, nhưng âm thanh như kẹt bên trong cổ họng nàng. Nàng nuốt nước miếng và thử lại lần nữa. “Y tá! Tôi cần y tá ở đây!”
                     
                    Nàng không ngước mắt đi khỏi vết thương của Bowie, cố gắng giúp hắn làm chậm chảy máu.
                     
                    Nàng lại hô lên, tiếng của nàng to một cách bất ngờ. “Hạm trưởng bị thương rồi! Cho y tá đến đây ngay, ngay bây giờ!”
                     
                    Nàng bắt đầu nhìn quanh, cố tìm một thứ gì có thể dùng làm băng gạc tạm thời. Bất cứ thứ gì để thấm máu cho đến khi cứu hộ đến nơi.
                     
                    Có cái gì đó chạm vào vai nàng. Nàng nhìn xuống và kịp thấy bàn tay phải của Bowie trợt khỏi cánh tay nàng và rơi xuống sàn. Môi hắn đang nhấp nháy.
                     
                    Silva nhìn hắn bằng một ánh mắt mà nàng hi vọng là đầy trấn an. “Đừng nói gì cả, Jim ạ. Cứ nghỉ ngơi một chút đi. Y tá sẽ đến ngay thôi.”
                     
                    Bowie lẩm bẩm và một dòng máu chảy ra từ khóe môi hắn. Tiếng hắn chỉ lớn hơn lời thì thào một chút. “Gần hơn…”
                     
                    Silva cúi xuống cho đến khi mặt nàng chỉ còn cách mặt hắn vài phân.
                     
                    Mí mắt của Bowie sụp xuống. Khi chúng mở ra lại, chúng chuyển động chậm chạp như thể hành động mở mắt cũng khiến hắn phải sử dụng ý chí nhiều lắm.
                     
                    “Tàu là của cô rồi…” Hắn nói. “Tàu là…”
                     
                    Thế rồi có người quỳ gối xuống bên kia của Bowie. Những bàn tay nhanh nhẹn và rành nghề tìm tòi xem thân thể của Bowie còn mang vết thương nào khác hay không.
                     
                    “Cứ ấn mạnh như thế đi, thưa cô.” Một tiếng nói vang lên. “Tôi sẽ sẵn sàng băng bó ngay thôi.”
                     
                    Silva vẫn nhìn vào mắt Bowie nên nàng không thấy mặt của gã y tá. Gã kêu to, “Tôi cần một chiếc cáng ở nơi này và hai người khiêng! Stat (ND: từ chuyên môn trong giới y khoa có nghĩa ‘ngay lập tức’)!”
                     
                    Hai tay của gã lục lọi trong một túi vải xanh, móc ra một hộp băng được bọc trong giấy khử trùng màu nâu. “Sắp xong rồi,” gã nói, “vài giây nữa thôi.”
                     
                    Bowie rên lên và chậm rãi chớp mắt. “Tàu là của cô đó, Kat.” Hắn nói nhỏ. “Cô là…”
                     
                    Hắn ho mạnh và hít một hơi đau đớn. “Cô bây giờ là hạm trưởng rồi…”
                     
                    Silva lắc đầu. “Không đâu, Jim. Anh sẽ khỏe mà. Anh sẽ…”
                     
                    “Không!” Bowie gắt. Tiếng nói của hắn nửa như tiếng rên và nửa như gầm gừ. Mắt hắn rực lên một cách hung dữ mà Silva chưa từng thấy nơi hắn.
                     
                    Các ngón tay của viên y tá lôi bàn tay của Silva đi, làm việc nhanh chóng để nhét một xấp bông dày vào cái lỗ thủng nơi ngực của viên đại tá.
                     
                    “Đây là… mệnh… lệnh… sau cùng… của tôi…” Bowie khò khè. “Cô đảm nhiệm chỉ huy! Đảm…”
                     
                    Tiếng hắn nhỏ dần vào im lặng và hắn thả ra một hơi thở thật chậm và dài. Hắn không hít vào lần nào nữa.
                     
                    Viên ý ta hô to. “Khiêng cán! Đến đây! Tôi cần giúp đỡ!”
                     
                    Và rồi có người khác cũng quỳ xuống, chen vào bên cạnh Silva trên sàn tàu trơn máu.
                     
                    Gã y tá nhìn vào ánh mắt của Silva. “Hạm trưởng ơi! Chúng tôi cần một chút chỗ, OK, thưa cô?”
                     
                    Silva gật đầu và lết đầu gối lùi lại cho đến khi nàng có đủ chỗ để lồm cồm đứng lên.
                     
                    Đầu nàng nhức nhối vì cái hành động quá nhanh ấy và nàng lảo đảo vài giây trước khi đứng vững vàng. Thị lực của nàng lờ mờ, một phần vì sự đau nhức và một phần vì dòng lệ đột nhiên dâng lên và chảy ròng xuống đôi má.
                     
                    Nàng chớp mắt đánh tan lệ và loạng choạng bước vài bước đến nơi làm việc của viên TAO. “Máy thông tin của anh vẫn hoạt động chứ?”
                     
                    Viên TAO ngớ ngẩn gật đầu.
                     
                    Silva chỉ vào máy nghe choàng đầu của gã. “Cho tôi nói qua 1-MC đi.”
                     
                    Viên sĩ quan Tác Chiến nhìn nàng, liếc qua nơi các y tá đang cuống quít cứu chữa cho vị hạm trưởng đã ngã xuống. Rồi gã lại nhìn qua Silva, bấm ba nút liên tiếp và đưa dụng cụ tai nghe choàng đầu qua cho nàng.
                     
                    Silva không để ý đến tai nghe. Nàng chỉ nâng ống vi âm lên miệng và bấm nút nói. Khi nàng cất tiếng, tiếng nói của nàng vang lên khắp nơi trên chiến hạm.
                     
                    “Toàn thể thủy thủ đoàn nghe đây, đây là Trung tá Katherine Elizabeth Silva. Tôi có trách nhiệm đau buồn cho mọi người biết là Đại Tá Bowie bị thương rồi. Ông ấy…” Nàng dừng lời một giây, tìm cách diễn đạt những từ kế tiếp.
                     
                    Nàng lại bấm nút nói. “Chiếu theo mệnh lệnh chính thức từ Chỉ Huy Trưởng Ban Nhân Sự Hải Quân và chiếu theo lệnh từ miệng của Đại Tá Bowie, kể từ lúc này tôi đảm nhiệm quyền chỉ huy chiếc chiến hạm này.”
                     
                    Nàng hít vào một hơi và nói tiếp. “Trận đánh này vẫn chưa kết thúc và chúng ta cũng chưa bị loại khỏi vòng chiến. Tôi hoàn toàn có niềm tin với chiến hạm này và với mỗi người nam và nữ trong thủy thủ đoàn. Bây giờ… Chúng ta hãy đứng thẳng dậy và tiến trở vào vòng chiến!”
                     
                    Nàng thả nút nói ra và đảo mắt quanh phòng. Mọi gương mặt trong phòng hành quân CIC đều hướng về phía nàng. Nàng nhìn thấy khuôn mặt nàng đang tìm và gật đầu với Thượng sĩ Kenfield. “Này, Đồng Ruộng Mênh Mông… Hát cho chúng ta một bài đi nào.”
                     
                    Mặt gã thủy thủ này bầm dập và đầy máu, nhưng môi gã từ từ hé ra, mỉm cười ngượng ngập. “Có phải là mệnh lệnh không, thưa cô?”
                     
                    “Chứ còn gì nữa!” Silva nói.
                     
                    Gã thủy thủ đứng thẳng người hơn, vai căng ra. “Aye-aye, Hạm trưởng!” Gã đằng hắng, hít một hơi đầy buồng phổi và rống to tiếng rống bất khuất của phiến quân (* 44, nguyên bản Rebel yell) quen thuộc của gã.
                     
                    Chiến hạm đã bị thương. Nhiều thành viên trong phòng hành quân CIC đã chết hay bị thương. Vài đám cháy nhỏ vẫn còn bộc phát ở nhiều nơi trong phòng và viên hạm trưởng Bowie anh dũng và yêu quý đã bị mang ra khỏi phòng trên một chiếc cáng. Nhưng mà mỗi người còn khả năng hoạt động đều phụ họa theo tiếng rống của gã Đồng Ruộng Mênh Mông. Tiếng gào xung trận của phiến quân dường như làm không gian chấn động, biến thành tiếng biểu lộ cho sự kiên quyết, can đảm và thách thức.
                     
                    Cái này thật sự là không chuyên nghiệp rồi. Thật là ngớ ngẩn. Nhưng thật là tuyệt vời.
                     
                    Hạm trưởng Silva quét đi vài giọt lệ nơi mắt bằng bàn tay còn nguyên vẹn, nói. “Được rồi, mọi người. Chúng ta hãy xông lên đá mạnh vào đít chúng nào!”
                    -=-=-=-=-=-=-
                    Chú Thích:
                    (44) Rebel Yell, tương truyền là tiếng gào xung trận của quân đội phản loạn miền Nam trong cuộc nội chiến Nam Bắc của Mỹ, thế kỹ 19. Tiếng gào này nghe nói bắt nguồn từ chiến sĩ da đỏ. Ngày nay, người ta chỉ dùng phiên bản của Hollywood, nghe đại loại như “Diii-Haaa!” hoặc “Diii-Hooo!”. Tuy nhiên, Thư Viện của Quốc Hội Mỹ còn lưu trữ phiên bản được thu âm từ một cựu chiến binh quân đội miền Nam vào năm 1936 lúc ông cụ đã hơn 80 tuổi. Theo phiên bản này, Rebel Yell nghe như “Uuuu.. Huuuu… Uuuu… Huuu…” kéo dài man dại. Phiên bản Hollywood vẫn được sử dụng rộng rãi để bày tỏ niềm phấn khích.
                     
                     
                    #55
                      Quang11 09.09.2016 04:52:35 (permalink)
                      0
                      Chương 53
                      Tàu ngầm USS California (SSN-781)
                      Vịnh Bengal
                      Thứ Tư, 3 Tháng 12, 00:48 giờ địa phương
                       
                      Sĩ quan điều hành Sonar lên tiếng trên mạng. “Chỉ Huy, Sonar đây. Sierra Một Bảy đang cho nước vào ống phóng! Có vẻ như nó sắp hạ sát thủ đó, hạm trưởng!”
                       
                      Hạm trưởng Patke đảo mắt qua các mô hình trên màn ảnh tác chiến. Mục tiêu Sierra Một Bảy, chính là chiếc tàu ngầm lớp Shang, đang chuẩn bị phóng ngư lôi vào một chiến hạm trên mặt nước của Mỹ. Nếu như mô hình chính xác thì mục tiêu này là khu trục hạm USS Towers rồi. Nhưng mà chiếc tàu nào bị lọt vào ống ngắm của chiếc Shang cũng không quan hệ gì cả. Điều quan trọng là một chiếc tàu ngầm tấn công hạt nhân của Trung quốc đang định đánh chìm một chiếc tàu của Hải quân Hoa Kỳ. Điều này, cho dù Patke có ấn tượng không tốt về sự kém cỏi của đám tàu trôi lềnh bềnh trên mặt nước kia thế nào đi nữa, cũng không được thích hợp cho lắm.
                       
                      Hắn bấm nút nói. “Chỉ huy đây, aye. Có dấu hiệu nào cho thấy là Sierra Một Bảy đã biết đến sự hiện diện của chúng ta không?”
                       
                      “Chỉ huy, Sonar đây. Thưa, không ạ. Sierra Một Bảy không hề có phản ứng gì với chúng ta cả.”
                       
                      Patke kiểm tra hướng đi của chiếc tàu ngầm Trung quốc và ngẩm nghĩ có nên quay đầu tàu của mình sang trái vài độ hay không, để hướng tác xạ được tốt hơn. Hắn quyết định không cần làm thế. Không có lý do gì còn đi đánh bóng viên đạn khi sắp bắn làm gì, đúng không?
                       
                      Hắn liếc mắt về phía mô-đun điều khiển tác chiến. “Nhóm Điều Khiển Vũ Khí, tầm ngắm như thế nào?”
                       
                      Chuyên viên tác xạ trực ngoái đầu lại và đưa một ngón tay cái lên. “Ngon lành lắm, thưa hạm trưởng. Tôi đã có thông số chắc ăn với mục tiêu Sierra Một Bảy rồi ạ.”
                       
                      Patke gật đầu. “Tốt lắm. Cho nước vào ống Một và Ba. Cài thông số vào và kích khởi ngư lôi (*).”
                       
                      (* ND: tóm lược quá trình bắn ngư lôi như sau: nạp thông số mục tiêu và các loại chương trình hành động (vận tốc khởi đầu, độ sâu, kiểu cách nổ đầu đạn, v.v.) vào ngư lôi; thông số mục tiêu do sonar dò ra và chương trình hành động máy vi tính điều khiển tính toán từ trước và đề nghị cho nhân viên kiểm soát ngư lôi; cho nước ngập ống phóng; cho động cơ ngư lôi chạy sẵn; mở cửa ống phóng; ngư lôi ‘bơi’ ra, nhả theo dây điều khiển, rồi tiến đến mục tiêu dựa theo thông số và chương trình đã đạp; tàu ngầm điều chỉnh phương hướng qua dây ngư lôi thả ra. Tốc độ của ngư lôi được tính toán trước tùy theo phương án tấn công, thí dụ như chậm rồi nhanh, hay nhanh ngay từ đầu, từ độ sâu đánh lên trên, hay từ trên lao xuống dưới, v.v. Ngư lôi bơi trong im lặng bao lâu trước khi bật sonar được lắp bên trong lên, cũng được tính toán từ trước; càng gần trước khi bật sonar, càng ít thời gian cho địch quấy nhiễu và tránh né. Chiến đấu giữa tàu ngầm là một môn học vấn phức tạp không thể phân tích ở đây được. Ở giai đoạn cuối cùng, ngư lôi tự bật sonar hay cảm biến khác của mình lên để tìm kiếm mục tiêu, rồi truy đuổi mục tiêu.)
                       
                      Chuyên viên tác xạ quay trở về màn ảnh của mình và bắt đầu nhấn nút ‘mềm’ trên màn ảnh. “Aye-aye, thưa hạm trưởng. Cho nước vào ống một và ba. Chuẩn bị cả hai vũ khí để phóng.”
                       
                      Patke tháo cặp kính gọng sắt xuống và dùng vạt áo lau kính. Bề ngoài của hắn trầm tĩnh và tiếng nói của hắn đều đều, nhưng hắn có thể cảm thấy chất adrenalin dâng lên ở cổ họng.
                       
                      Lần này không phải là tập dượt. Chỉ trong vài giây nữa, hắn sẽ hạ lệnh đoạt mạng nhiều con người. Không phải là những chiếc tàu cũ không người, được sử dụng làm mục tiêu tập bắn. Không phải là những phù hiệu trên màn ảnh. Không phải là một cuộc diễn tập bằng máy vi tính. Lần này là những con người sống sờ sờ, những con người sẽ không còn sống để hít thở sau khi mệnh lệnh của hắn được chấp hành.
                       
                      Không có mắt kính, thị giác của Patke chỉ là những hình dáng mờ ảo nếu cách quá tầm tay với của hắn. Nhưng hắn không cần dùng đến mắt để biết những gì đang diễn ra. Những thủy thủ nam và nữ trong phòng chỉ huy của hắn đang hoạt động nhanh nhẹn và hữu hiệu, thi hành nhiệm vụ được giao phó bằng một cách yên lặng, nhưng đầy năng lực.
                       
                      Họ đã được huấn luyện rất tốt. Họ rất giỏi dắn. Họ đã sẵn sàng. Hay đúng hơn là sẵn sàng ở mức độ cao nhất có thể cho loại công việc như thế này.
                       
                      Hắn lau qua cặp kính một lần sau cùng, rồi lại đặt lên sống mũi. “Mở cửa ống một và ba ra. Tiến hành thủ tục xạ kích.”
                       
                      Trong khi những tiếng đáp lệnh vang lên và các mệnh lệnh bắt đầu được chấp hành, có một người bên trái của hắn lầm bầm điều gì không nghe rõ.
                       
                      Patke quay sang viên sĩ quan trực phòng chỉ huy (officer of the deck, OOD). “Anh nói lại đi. Tôi không nghe được.”
                       
                      Viên OOD có vẻ giật mình. “Ồ. Xin lỗi, hạm trưởng. Tôi không định nói to lên như thế.”
                       
                      Patke nhướng một bên lông mày. “Nếu có gì muốn nói, thằng nhóc… Bây giờ là đúng lúc rồi đó!”
                       
                      Viên OOD nửa nhăn mặt, nửa cười ngượng. “Tôi chỉ nói ‘ui da, ui da’ thôi, thưa hạm trưởng.”
                       
                      Patke nhíu mày. “Ui da, ui da?”
                       
                      “Vâng ạ.” Viên OOD nói. “Lần trước tôi có kể cho ông nghe rồi đó. Giống y như bị ăn đòn trong khi người khác thì ăn trộm bánh vậy. Nhưng mà lần này thì chúng ta là kẻ trộm bánh rồi, phải không, thưa hạm trưởng?”
                       
                      “Anh nói đúng đó.” Patke nói nhẹ. “Chúng ta chắc chắn sẽ trộm bánh lần này, chứ không phải là kẻ ăn đòn.”
                       
                      Viên sĩ quan quản lý Sonar lại lên tiếng trên mạng. “Chỉ huy, đây là Sonar. Có ngư lôi trong nước! Sierra Một Bảy vừa phóng một ngư lôi! Nó nhắm đến chiếc tàu khu trục, hạm trưởng!”
                       
                      Patke nói lớn. “Điều Khiển Vũ Khí, đây là hạm trưởng. Nhắm chuẩn hướng và bắn!”
                       
                      ***
                       
                      USS Towers:
                       
                      Các màn ảnh khổng lồ nhấp nháy, lấp lóe với những sọc màu suốt nhiều giây, rồi cuối cùng đột nhiên rõ nét lên.
                       
                      Viên sĩ quan Tác Chiến (TAO) quay sang Silva. “Aegis đã hoạt động lại rồi, thưa hạm trưởng.”
                       
                      Các màn ảnh bắt đầu tràn ngập những ký hiệu. Trước hết, hai chiếc Towers và Gerrard xuất hiện, ngay sau đó là hai chiếc tàu mặt nước địch còn sống sót: chiếc tàu sân bay và một trong những chiếc tau khu trục Trung quốc. Kế tiếp là các phù hiệu máy bay địch bắt đầu hiện ra. Và suốt vài giây, Silva tự hỏi phải chăng các máy vi tính Aegis đã hỏng rồi. Khi mà càng lúc càng nhiều phù hiệu máy bay địch xuất hiện trên màn ảnh, nàng bắt đầu hi vọng là Aegis thật đã hỏng rồi.
                       
                      Nàng khẽ huýt sáo. “Chúa ơi… Bọn chúng định phóng bao nhiêu máy bay chứ?”
                       
                      Viên TAO nhìn nàng, cười gượng. “Nhìn như là tất cả đó, thưa cô.”
                       
                      Sự vô lý của tình huống chợt hiện lên trong trí nàng. Nàng vừa nắm quyền chỉ huy được 10 phút. Phân nửa vị trí làm việc trong phòng hành quân CIC đã hỏng. Nàng còn không rõ bao nhiêu người trong thủy thủ đoàn đã chết hay bị thương. Bên hông chiếc tàu có một lỗ thủng to đủ để có thể lái cả một chiếc xe vào. Vậy mà chiếc tàu sân bay Trung quốc mới toanh kia còn phóng toàn bộ phi đoàn của nó vào nàng nữa!
                       
                      Cái này giống y như khi nàng còn 12 tuổi vậy. Đứng trên cái sàn cập kênh của chiếc bè tự chế, bị trôi dạt theo dòng sông mà không cách nào khống chế nó được.
                       
                      Nàng cảm thấy quai hàm căng cứng lại. Khi ấy, dòng sông mạnh hơn nàng nhiều. Chiếc bè của nàng, chiếc Spray, nhỏ bé và yếu ớt làm sao. Nhưng nàng đã thành công đưa chiếc bè tự chế cập vào bờ. Nàng đã đưa con tàu của mình an toàn về nhà. Và giờ đây, nàng sẽ làm như thế một lần nữa.
                       
                      Mắt nàng chạm vào ánh mắt của viên TAO. “Chúng ta phải tấn công chiếc tàu khu trục ấy.”
                       
                      “Khẩu pháo vẫn còn chưa hoạt động trở lại, thưa cô.” Viên TAO nói. “Và chúng ta đã bắn hết số Harpoon rồi.”
                       
                      “Hiểu rồi.” Silva nói. “Hệ thống VLS (*) đã hoạt động lại chưa?”
                       
                      (* ND: VLS, Vertical Launch System, hệ thống ống phóng thẳng đứng. Phi đạn đủ loại được chứa trong những ống thép được dựng thẳng đứng, mặt trên các ống nằm sát sàn tàu.)
                       
                      “Thưa đã, hạm trưởng.”
                       
                      “Vậy thì bắn mục tiêu ấy bằng SM-3 đi.”
                       
                      Viên TAO há miệng định nói. Silva phất tay cho gã im lặng. “Tôi đã biết anh định nói những gì rồi. Anh không cần tốn hơi đâu. Tôi biết là SM-3 không phải là một vũ khí chống hạm và tôi cũng biết nó cũng chỉ có hiệu quả nhỏ nhoi mà thôi. Tôi cũng biết là nhiệm vụ của chúng ta là đánh chìm chiếc tàu ấy. Trừ phi anh có một phương án nào tốt hơn, chúng ta sẽ đánh chiếc khu trục hạm ấy bằng món vũ khí duy nhất còn lại. Tôi nói như thế đã rõ ràng chưa, Đại Úy?”
                       
                      Viên TAO gật đầu. “Thưa rõ, hạm trưởng.”
                       
                      Gã nuốt nước miếng và bấm nút nói. “Kiểm Soát Vũ Khí, đây là TAO. Tiêu diệt mục tiêu mặt nước Không Một bằng tên lửa SM-3.”
                       
                      Thoáng ngập ngừng trước khi tiếng trả lời vang lên. “TAO, Kiểm Soát Vũ Khí. Xin lặp lại.”
                       
                      Viên TAO lại bấm nút nói. “Kiểm Soát Vũ Khí, TAO đây. Anh được lệnh tiêu diệt mục tiêu mặt nước Không Một bằng tên lửa SM-3. Lập tức!”
                       
                      “À… Kiểm Soát Vũ Khí đây, aye.”
                       
                      Sàn tàu chấn động vì tiếng gào của những quả tên lửa đối không đang lao vào không trung để thi hành một nhiệm vụ mà chúng không hề được thiết kế để làm. Tiếng ồn của tên lửa lớn hơn bình thường nhiều, vang vọng trong phòng qua lỗ thủng bên hông tàu.
                       
                      “TAO, Kiểm Soát Vũ Khí đây. Sáu quả được phóng rồi, không nhìn thấy trục trặc nào. Tất cả đều nhắm vào mục tiêu mặt nước Không Một.”
                       
                      “TAO đây, aye. Cứ tiếp tục đánh vào mục tiêu mặt nước ấy. Đừng dừng lại cho đến khi chỉ còn một cái lỗ thủng trong nước mới thôi.”
                       
                      Silva hài lòng gật đầu. Nàng đang định lên tiếng thêm chi tiết thì tiếng nói sĩ quan điều hành Sonar vang lên trong hệ thống loa 29-MC.
                       
                      “Mọi vị trí nghe đây, Sonar phát hiện vật lạ bên trái! Hướng đi không-chín-tám. Phân loại sơ khởi: ngư lôi đang tiếp cận!”
                       
                      Mắt của Silva liếc nhanh qua màn ảnh chiến thuật. Có một phù hiệu ngư lôi đang nhấp nháy trên đó. Nàng nói. “Coi kìa. Đùa với mình hay sao chứ.”
                       
                      Nàng nhìn quanh thật nhanh. Gã chuyên viên Tác Chiến Dưới Nước đã nhường vị trí làm việc của mình cho một chuyên viên ra-đa rồi, còn thiết bị Theo Dõi Điện Toán thì chưa phục hồi công năng sau vụ nổ.
                       
                      Trong cơn sốt của cuộc chiến trên không và trên mặt nước, mọi khí tài chống tàu ngầm đã bị xếp xó rồi. Một số hệ thống sonar rõ ràng là vẫn còn hoạt động và nhóm chuyên viên sonar vẫn chấp hành nhiệm vụ của họ, nhưng mà phòng hành quân CIC hoàn toàn không sẵn sàng ứng phó với một mối đe dọa từ tàu ngầm ngay lúc này.
                       
                      Mà chiếc tàu ngầm này từ đâu xuất hiện như thế chứ? Nhưng mà cũng không có thời giờ để nghiền ngẫm về điều này nữa rồi.
                       
                      Silva nhìn thấy gã chuyên viên Tác Chiến Dưới Nước chộp một tai nghe choàng đầu từ một vị trí làm việc đã hỏng và nhét đầu dây vào một chỗ cắm trên trần.
                       
                      Gã nhấn nút nói. “Quất roi! Phòng Điều Khiển, USWE (*) đây. Chúng ta đang bị một quả ngư lôi ngắm vào. Tôi lặp lại, quất roi!”
                       
                      (* USWE, Undersea Warfare Evaluator tạm dịch là chuyên viên tác chiến dưới nước)
                       
                      Tiếng đáp vang lên lập tức. “Quất roi! Phòng Điều Khiển đây, aye!”
                       
                      Tiếng nói của viên sĩ quan trực phòng Điều Khiển vang lên trên hệ thống 1-MC. “Mọi nhân viên chuẩn bị chao đảo mạnh khi chúng ta thi hành thao tác tránh né với tốc độ cao.”
                       
                      Ở phía sau xa, tiếng rú của các động cơ tua-bin dâng lên cao khi chúng bắt đầu quay nhanh dần. Chiếc chiến hạm sẽ cần chạy với tốc độ tối đa để thi hành thao tác ‘quất roi’ để tránh ngư lôi.
                       
                      Sàn tàu nghiên gắt sang trái khi chiếc Towers lần đầu tiên quẹo gắt theo cách tránh né bằng cách quẹo gắt với tốc độ nhanh này. Nếu được thi hành đúng đắn, thao tác này sẽ tạo ra nhiều lằn tàu chạy ở khoảng cách ngắn. Quả ngư lôi đuổi theo sẽ phải phân biệt giữa một số lằn tàu đan xen vào nhau, chưa kể đến một vùng âm thanh hỗn loạn được tạo ra bởi các chân vịt của chiến hạm quay cực nhanh.
                       
                      Theo như các quyển sách giáo khoa chiến thuật, thao tác ‘quất roi’ có mức hữu hiệu gần 70%, nếu được sử dụng cùng với hệ thống mồi nhử thính học Nixie. Đáng tiếc là cả hai hệ thống Nixie của chiến hạm đều không được thả xuống, mà cũng không có thời gian để thả chúng xuống.
                       
                      (Ghi chú của người dịch: ngư lôi hiện đại truy đuổi theo tàu mặt nước bằng cách theo lằn tàu chạy. Khi tàu chạy, nước bị rẽ ra thành hình chữ V. Cảm biến trên ngư lôi phát hiện hai bên của chữ V và lần mò theo đến chỗ mũi nhọn của chữ V, tức là chiếc tàu mục tiêu. Ngoài ra, cảm biến còn lắng nghe âm thanh của chân vịt để xác định mục tiêu. Thao tác ‘quất roi’ tạo ra nhiều chữ V giao thoa, nhằm làm ngư lôi bị rối loạn. Nếu nhìn từ trên trời xuống, tàu sẽ chạy như thân rắn đang trườn bò, hay hình chữ Z có góc độ rất gắt, cũng giống như hình dáng một cây nhuyễn tiên bị quất vậy. Tàu phải chạy rất nhanh mới tạo được hiệu quả tốt, bằng không lằn tàu trước sẽ bị loãng đi quá nhiều không che giấu được lằn tàu mới nhất (tức là lằn tàu ở ngay sau đuôi tàu). Mồi nhữ được thả xuống để phát ra âm thanh làm nhiễu loạn cảm biến của ngư lôi, làm nó không phân biệt được tiếng chân vịt.)
                       
                      Sàn tàu càng nghiêng thêm khi tàu quẹo gắt. Silva bám vào lưng ghế của viên TAO để giữ thăng bằng chống lại lực quán tính và độ nghiêng của sàn tàu.
                       
                      Nàng không nhớ nổi thao tác này hữu hiệu được bao nhiêu khi mà không có mồi nhử Nixie, nhưng thấp hơn 70%. Thấp hơn nhiều.
                       
                      Nhưng mà bây giờ không phải là lúc đắn đo về những vấn đề ngoài tầm kiểm soát của nàng. Dưới tình hình hiện tại, viên sĩ quan USWE đã sử dụng đến cách phòng thủ duy nhất chống ngư lôi trong tay hắn rồi. Hoặc là thành công, hoặc là thất bại. Nàng không có thể làm gì hơn để chống lại mối nguy hiểm từ tàu ngầm này, đã vậy thì đã đến lúc nàng cần tập trung vào những vấn đề mà nàng có thể kiểm soát.
                       
                      Nàng chuyển sự chú ý qua các phù hiệu tên lửa đang lướt về phía chiếc khu trục hạm Trung quốc còn sống sót. Sáu cái phù hiệu tên lửa mùa xanh lơ dính sát vào nhau làm chúng chồng chất lên nhau trên màn ảnh.
                       
                      Tên lửa SM-3 được thiết kế là để dùng chống lại các phi đạn khác, hay máy bay và, đôi khi, vệ tinh. Đầu đạn của chúng không được thiết kế để tấn công các chiến hạm có giáp, nhưng chúng bay rất nhanh. Tốc độ nhanh nhất của chúng cao hơn 10 lần tốc độ của phi đạn chống hạm Harpoon mà chúng hiện thay thế.
                       
                      Di chuyển với tốc độ 5.200 hải lý một giờ, chúng vượt qua khoảng cách đến mục tiêu chưa đầy nửa phút. Sáu phù hiệu tên lửa nhập vào phù hiệu của chiếc khu trục hạm Trung quốc, rồi biến mất. Phù hiệu của mục tiêu Mặt Nước Không Một vẫn còn trên màn ảnh.
                       
                      Không có cách nào để đánh giá chiếc tàu địch bị thiệt hại nghiêm trọng ra sao sau khi trúng liên tiếp nhiều quả tên lửa như thế. Hệ thống máy vi tính Aegis không thể áp dụng lý luận cao siêu, nên đành thay thế bằng lý luận kỹ thuật số đơn giản. Mục tiêu vẫn còn có thể thấy bằng ra-đa sao? Như vậy mục tiêu vẫn còn hiện hữu, như vậy phải tấn công nó lần nữa.
                       
                      Một loạt gầm rú lại vang lên trong cả chiếc tàu, tiếp theo là lời loan báo trên mạng chiến thuật. “TAO, đây là Kiểm Soát Vũ Khí. Sáu quả khác bắn đi rồi, không thấy trục trặc nào. Đều nhắm vào mục tiêu Mặt Nước Không Một.”
                       
                      Viên TAO vừa với tay đến nút nói thì một báo cáo khác đã vang lên. “TAO, Không Chiến. Bốn Bogies đang bay đến. Hai phi tuần, mỗi cái hai chiếc.”
                       
                      Đợt không kích thứ nhì đã bắt đầu rồi.
                       
                      Sàn tàu ngang bằng lại và bắt đầu nghiêng về phía ngược lại khi chiếc tàu bẻ ngoặc sang bên phải tiếp tục thao tác ‘quất roi’.
                       
                      Silva quan sát bốn phù hiệu máy bay địch đang tiếp cận trên màn ảnh. Và nàng chợt nhận ra miệng mình đang mỉm cười.
                       
                      Chính là nó rồi. Đây chính là bài Kobayashi Maru (*) của nàng rồi. Đây là bài tập dượt không có cách giải của nàng đây. Một quả ngư lôi đang theo đuôi, quá nhiều máy bay địch để có thể đếm được, một trận đánh còn dang dở với một khu trục hạm Trung quốc và lại thêm một chiếc tàu ngầm địch nữa. Mọi thứ cùng một lúc.
                       
                      (* Kobayashi Maru: bài huấn luyện trong loạt phim truyền hình khoa học giả tưởng Star Strek. Bài huấn luyện này dồn thí sinh vào tình trạng sinh tử không có lối thoát, được dùng để thử tâm tính của học viên trong trường đào tạo sĩ quan Không Gian)
                       
                      Lần nữa, không có bất cứ điều gì nàng có thể làm cả. Không một thứ gì, ngoài việc tiếp tục chiến đấu và cố gắng vượt qua bão táp.
                       
                      Viên TAO ra hiệu cho nàng chú ý. “Hạm trưởng, xin được phép xạ kích nhóm máy bay địch đang tiếp cận.”
                       
                      Silva gật đầu. “Cho phép. Bắn chúng đi! Nhưng mà đừng bỏ lơ mục tiêu mặt nước kia.”
                       
                      Viên TAO chuyển lệnh cho nhóm Kiểm Soát Vũ Khí và lại thêm tám quả tên lửa SM-3 lao vào vòng chiến.
                       
                      Thế rồi số lượng phù hiệu máy bay trên màn ảnh Aegis chợt tăng lên nhanh chóng.
                       
                      Nụ cười của Silva càng nở rộng thêm. Bây giờ có ít nhất là có thêm 20 phù hiệu máy bay trên màn ảnh, nhiều máy bay hơn là nàng từng thấy, cho dù trong những buổi huấn luyện mô phỏng thái quá nhất. Tuy nhiên các phù hiệu mới này không phải là màu đỏ đầy đe dọa của lực lượng địch. Chúng lại có màu xanh lơ của bạn.
                       
                      #56
                        Quang11 09.09.2016 04:55:16 (permalink)
                        0
                        Chương 54
                        Phi Đội Cường Kích
                        VFA-228, Marauders
                        Vịnh Bengal
                        Thứ Tư, 3 tháng 12, 00:54 giờ địa phương
                         
                        Tiếng nói của viên sĩ quan Kiểm Soát Không Lưu thật thấp, nhưng rõ ràng trong máy đeo tai trong mũ bay của Rob Monkman. “Hammer, Bandits (*) ba-một-không, ở 80, Angels hai-không.”
                         
                        (* bandit: kẻ cướp, tiếng lóng Không quân Mỹ dùng để chỉ máy bay địch)
                         
                        Chỉ ngắn gọn như vậy nhưng thông tin trong câu nói ấy thật là đầy đủ. Viên Kiểm Soát Không Lưu vừa báo cho phi công chỉ huy phi đội Hammer rằng máy bay địch đã bị phát hiện cách vị trí của phi đội Hammer 80 hải lý, hướng bay ba-một-không (310 độ), bay ở cao độ 20.000 bộ (bộ = foot = 0,3 m; tức là 6.000 m)
                         
                        Hai từ ‘nóng’ và ‘lạnh’ bị bỏ sót cho thấy là máy bay địch không có tiếp cận hay bay xa khỏi phi đội Hammer. Không có hai từ phụ ấy có nghĩa là bản tin này chỉ là cập nhật đơn giản, cho người nhận hiểu thêm tình hình tổng quát thôi. Không phải làm hành động gì, nhưng chú ý đến đối phương.
                         
                        Lời đáp của phi công chỉ huy phi đội còn ngắn ngủi hơn nữa. “Hammer.” Nghĩa là: ‘Đây là chỉ huy phi đội Hammer. Đã nghe và hiểu.’
                         
                        Monk kiểm tra màn ảnh ra-đa AN/APG-79 để xem có thấy máy bay địch hay không. Màn ảnh một màu xanh lục dường như sáng lên trong cặp kính nhìn trong đêm của gã, nhưng không có dấu hiệu kẻ địch nào cả. Ra-đa trên máy bay của gã chưa phát hiện được mục tiêu. Cái đó cũng không phải là điều gì đáng ngạc nhiên cả, xét vì khoảng cách xa như thế.
                         
                        Gã ngẩng đầu lên và tiếp tục nhìn quanh bầu trời màu xanh lục qua cặp kính nhìn đêm của gã. Ra-đa APG-79 rất xuất sắc trong không chiến, nhưng không có được tầm xa như giàn ra-đa APS-145 khổng lồ mà chiếc E-2D Hawkeye mang trên lưng.
                         
                        Theo phương thức hành quân thông thường, chiếc E-2D đang bay ở phía sau, cách xa khu vực chiến đấu, để cung cấp Cảnh Báo Sớm cho các máy bay tiêm kích. Với các cảm biến ra-đa mạnh mẽ và số nhân viên kiểm soát không lưu, chiếc Hawkeye có thể hướng dẫn phi công tiêm kích Mỹ bay đến mục tiêu và cung cấp chiến thuật cần thiết trong thời gian thực, khiến cho sự phối hợp tác chiến được nâng lên với một tốc độ và mức chính xác mà phần đông các quốc gia khác không thể nào bắt chước nổi.
                         
                        Phi đội Hammer là một trong ba phi đội được giao cho nhiệm vụ càn quét máy bay địch trong chiến dịch này. Mỗi phi đội gồm có bốn chiếc F/A-18E Super Hornet có khả năng chiến đấu như một đơn vị, hay tách ra thành hai nhóm độc lập để giao chiến với các lực lượng địch khác nhau.
                         
                        Monk là đội viên của Đại Úy Dan Coffee (tên gọi vô tuyến là Grinder), đội trưởng phi đội Hammer Flight. Nhiệm vụ của gã là không rời khỏi Grinder, tuân theo lệnh của viên phi công trưởng đội và im lặng trừ phi người ta hỏi đến mình.
                         
                        Monk cũng không phiền hà gì. Bọn họ sẽ nhận được lệnh giao chiến bất cứ lúc nào và khi ấy là tới lúc cho bọn phi công Trung quốc nếm thử thứ mà chúng đã ban tặng cho Poker.
                         
                        Ở đâu đó phía sau, cách họ khoảng 160 km, là một nhóm cường kích: một số máy bay vừa Hornet lẫn Super Hornet được trang bị cho hành động chống tàu trên mặt nước. Nhiệm vụ của nhóm này là hạ gục chiến tàu sân bay Trung quốc bằng phi đạn Harpoon và tên lửa Maverick (45).
                         
                        Monk không nghĩ ngợi gì đến nhóm cường kích. Thật ra, gã cũng không nghĩ ngợi gì về nhiệm vụ này cả. Gã chỉ cứ mãi nhìn thấy cảnh quả tên lửa không-đối-không Trung quốc nổ nát buồng lái của Poker thôi. Không cảnh báo. Không khiêu chiến. Chỉ bắn một phát vào mặt. Và chiếc tiêm kích của Poker rơi rụng trong cụm khói lửa xuống đại dương.
                         
                        Tiếng của nhân viên Kiểm Soát Không Lưu lại vang lên trong máy đeo tai của Monk. “Hammer, Bandits ba-không-năm, ở 60, Angels hai-không.”
                         
                        Một giây sau, Grinder ứng thanh đáp lời. “Hammer.”
                         
                        Monk lại liếc nhìn ra-đa. Vẫn chưa thấy bóng dáng quân địch, nhưng màn ảnh bây giờ lại có thêm 8 phù hiệu máy bay địch, được chuyển qua hệ thống tác chiến của gã từ hệ thống thông tin của chiếc Hawkeye.
                         
                        Các lóng tay của Monk trắng bệch trên cần lái. Sẽ không còn bao lâu nữa.
                         
                        Gã cảm thấy môi mình chuyển động và nghe được tiếng thì thầm của mình, nhưng phải mất vài giây gã mới ý thức ra mình đang nói gì. Lời của gã nghe như một bài kinh kệ. “Giờ đền tội đến. Giờ đền tội đến. Giờ đền tội…”
                         
                        Gã cắt ngang và lại bắt đầu đảo mắt nhìn quanh bầu trời đêm. Chỉ vài giây sau, bài kinh kệ lại tiếp tục vang lên, như có một sức sống riêng vậy. “Giờ đền tội đến. Giờ đền tội đến…”
                         
                        “Hammer, Bandits ba-không-không, ở 40, Angels hai-hai, nóng. Tiến hành!”
                         
                        Monk nhe răng cười. Chính là cái chữ huyền bí ấy, ‘tiến hành’. Chìa khóa vào thiên đường. ‘Tiến đến kẻ địch và tiêu diệt chúng.’
                         
                        Grinder đáp trả vẫn lạnh lùng như mọi khi. “Hammer.”
                         
                        Nửa giây sau, Grinder đảo qua trái, rời khỏi đội hình và bắt đầu lao về phía đám Bandits. Phía sau, 3 viên phi công còn lại của phi đội Hammer đuổi theo: Chuck ‘Barnstormer’ Barnes, Sheila ‘Redeye’ Lewis và Monk.
                         
                        Tiếng nói của Hammer vang lên qua băng tầng dành riêng cho phi đội Hammer. “Các Hammers, chia ra như chỉ định.”
                         
                        Các khung chỉ định mục tiêu hiện lên trên màn ảnh trước mặt (head-up *) của Monk, bao quanh hai phù hiệu máy bay địch để chỉ định mục tiêu mà gã được phân công tiêu diệt.
                         
                        (* head-up display là loại màn ảnh trong suốt chứa những ký hiệu, được chiếu lên từ bên dưới. Loại màn ảnh này cho phép phi công có thể đọc được những chỉ thị hay thông tin, mà vẫn có thể nhìn xuyên qua màn ảnh thấy cảnh vật bên ngoài.)
                         
                        Monk bấm nút nói. “Hai, đã chia xong.”
                         
                        Lời hắn được ngay lập tức nối tiếp bởi Barnstormer và Redeye.
                        “Ba, đã chia xong.”
                         
                        “Bốn, đã chia xong.”
                         
                        Nếu chỉ dùng máy truyền tin bằng miệng như khi xưa, cả quá trình chỉ định mục tiêu có thể tốn đến hai hay ba phút. Nhờ thông tin được chuyển thẳng từ Hawkeye, việc này chỉ mất ba giây thôi. Mọi người đều rõ ràng mục tiêu của mình là gì. Bây giờ, chỉ còn việc đến gần để lọt vào tầm tên lửa thôi.
                         
                        Grinder bay lên độ cao 10,500 m và tăng tốc độ, để chiếm lấy ưu thế cao độ và tốc độ cho cuộc chiến sắp đến.
                         
                        Monk cũng điều chỉnh tốc độ và cao độ của mình để giữ vững vị trí của mình bên phải của Grinder. “Giờ đền tội đến. Giờ đền tội đến…”
                         
                        Khi còn cách 34 hải lý (65 km), một tiếng leng-keng điện tử báo cho Monk biết rằng ra-đa APG-79 của gã đã nhìn thấy mục tiêu. Gã liếc xuống màn ảnh để xác định rằng cả hai mục tiêu của gã đều ở trên màn ảnh. Chúng quả thật đang ở đó.
                         
                        Gã chọn hai quả tên lửa AIM-120 AMRAAM (46), chỉ định mỗi quả cho một chiếc Bandit đã được giao cho gã và để cho máy vi tính kiểm soát tác chiến cho chúng ngắm nghía mục tiêu của chúng.
                         
                        Màn ảnh Normalized In-Range Display (màn ảnh cho thấy mục tiêu đã bình thường hóa), hay thường được gọi là vòng tròn NIRD, xuất hiện trên màn ảnh head-up của gã. Một tên Bandit đã lọt vào khung xạ kích rồi, nhưng chiếc máy bay địch thứ nhì vẫn còn hơi ngoài tầm. Gã chờ cho đến khi đường vạch tượng trưng cho tầm xa của tên Bandit thứ nhì vượt qua vị trí 6 giờ trên vòng tròn NIRD.
                         
                        Cả hai mục tiêu bắt đầu quay ngoặc đi. ****! Thiết bị cảnh báo của chúng đã phát hiện ra-đa của gã rồi! Đường vạch tầm xa của cả hai Bandits đều chạy dần sang trái, tiếp cận khung chỉ tầm bắn xa nhất. Gã chỉ có chừng 1,5 giấy trước khi chúng lọt ra khỏi khung xạ kích.
                         
                        Bắn ngay bây giờ? Hay chờ một cơ hội tốt hơn?
                         
                        Quyết định của gã cũng không phải là một quyết định có ý thức rõ rệt. Gã bật nút chọn vũ khí, nhắm chặt mắt lại và bấm cò hai lần.
                         
                        “Fox Three (*)! Fox Three!”
                         
                        Đó chính là ám hiệu cho biết đã phóng một quả tên lửa do ra-đa dẫn đường.
                         
                        (người dịch: Fox Three, tạm dịch Chồn (cáo) Ba. Như đã chú thích, Foxtrot là ám ngữ cho chữ cái F. F ở đây viết tắt cho Fire (hỏa – lửa), ý nói ‘khai hỏa’. Một là súng, Hai là tên lửa tầm nhiệt, Ba là tên lửa ra-đa dẫn đường. Thí dụ: Fox Two = ‘tôi vừa phóng một tên lửa dẫn đường hồng ngoại, tầm nhiệt.’)
                         
                        Xuyên qua mí mắt, Monk có thể thấy hai ánh chớp xanh lục khi hai quả tên lửa lao vào màn đêm. Hệ thống xử lý hình ảnh trong kính nhìn đêm của gã được thiết kế khiến phần mềm làm sáng không làm hại mắt của gã, nhưng gã không muốn bị mất khả năng nhìn trong đêm.
                         
                        Hai quả AMRAAM vọt lên Mach 2 chỉ trong vòng vài giây và bắt đầu rút ngắn khoảng cách với hai chiếc Bandits. Ưu thế độ cao 4.000 m hơn máy bay địch khiến cho hai quả tên lửa ở vào tư thế lao xuống, trọng lực và lực quán tính càng làm tốc độ của chúng tăng lên trong lúc chúng vọt đến các máy bay Trung quốc đang quay lưng bỏ chạy.
                         
                        Bên trái của Monk, Grinder cũng phóng 2 quả AMRAAM và bẻ ngoặc sang trái thật gắt để đưa phi đội của hắn đuổi theo các chiếc máy bay J-15 của địch.
                         
                        Monk nhấn nút tăng tốc và đảo máy bay của mình qua trái để giữ vững vị trị của mình với đội trưởng.
                         
                        Nhóm Bandits thả chaff, nhào và lộn dữ dội để cố gắng phá khỏi vòng kiềm tỏa của tên lửa, nhưng các quả AIM-120 được phóng đi quá gần và tốc độ của chúng quá mau. Hai cụm lửa nơi xa cho Monk biết rằng cả hai quả tên lửa của gã đã tìm được mục tiêu của chúng.
                         
                        Chỉ hai giây sau, các quả AMRAAM của Grinder cũng bắt kịp Bandits của chúng và lại thêm hai phát nổ khác làm sáng rực bầu trời đêm.
                         
                        Thế rồi thiết bị cảnh báo ra-đa của Monk cũng rú lên. Có kẻ nào đó đã tỏa định vào gã rồi.
                         
                        Một mũi tên nhấp nháy trên màn ảnh head-up cho gã biết rằng mối đe dọa nằm ở hướng 4 giờ bên dưới. Gã bấm nút nói. “Hai, bị đóng đinh, 4 giờ, dưới! Quẹo phải.”
                         
                        Không chờ câu trả lời, gã bẻ ngoặc qua phải thật gắt, chuyển đổi độ cao và tốc độ thành một sự thay đổi vị trí đột ngột. Bộ đồ bay G-suit (*) của gã bám chặt vào người gã như một con trăn khi các phần ở chân và bụng bóp chặt để máu của gã khỏi dồn xuống thân dưới. Gã hự lên liên tiếp trong suốt cái quẹo ấy, cố dùng sức co cơ bắp để ép máu vào thân trên và não bộ. Tầm nhìn của gã co rút lại, nhưng gã đã biết cực hạn của mình là gì, nên cũng không bị mù mờ đi.
                         
                        (* Khi quẹo gắt ở tốc độ cao, lực quán tính sẽ làm cho máu dồn xuống chân và thân dưới của phi công hay người trên máy bay. Điều này làm cho óc bị thiếu máu. Hậu quả là mắt tối sầm lại và đôi khi bị ngất. Qua huấn luyện cực khổ, cơ thể có thể thích ứng dần. Ngoài ra, còn có các phương thức để giảm hậu quả, như gồng cơ bụng và chân để giúp duy trì huyết áp ở thân trên. Nhưng bắt buộc phải có là G-suit, bộ quần áo có những túi hơi ở chân và bụng; những túi hơi này tự động bơm phồng lên khi cần và xẹp xuống khi hết cần. Chữ G-suit (quần áo G) có nghĩa là quần áo để chống lại lực quán tính được đo bằng G, số trọng lực.)
                         
                        Khi gã chuyển trở về bay thẳng, tiếng cảnh báo đã tắt. Gã đã thoát khỏi vòng tỏa định của ra-đa địch rồi, ít nhất là trong lúc này.
                         
                        Chất adrenalin đang chảy cuồn cuộn trong huyết quản hối thúc gã phản kích, truy lùng và hạ sát tên phi công địch đã khóa cứng máy bay của gã, nhưng mà đó không phải là nhiệm vụ của gã.
                         
                        Gã quay đầu máy bay trở về bên trái và bắt đầu tìm kiếm Grinder. Gã bấm nút nói. “Hai, trần truồng và mù lòa.” Nghĩa là, ‘Đây là Hammer Hai, tôi đã thoát khỏi ra-đa địch tỏa định, nhưng không thấy đội trưởng.’
                         
                        Grinder trả lời nhanh chóng. “Một, mù. Rối nùi.” Nghĩa là, ‘Đây là Hammer Một, tôi cũng không thấy anh đâu. Trận đánh này đã biến thành mỗi người tự lo cho mình rồi.’
                         
                        Monk đáp. “Hai.”
                         
                        Grinder nói đúng, quả là rối nùi. Cả bầu trời đã trở thành một đám máy bay nhào lộn và bắn loạn xạ.
                         
                        Monk kiểm tra ra-đa và đảo mắt nhìn quanh bầu trời. Gã nhìn thấy mục tiêu kế tiếp của mình và bắt đầu di chuyển để hạ sát thủ.
                         
                        ***
                         
                        USS Towers:
                         
                        “Mọi vị trí, Sonar đây. Ngư lôi địch đã lạc tỏa định rồi.”
                         
                        Trên màn ảnh Aegis, hạm trưởng Silva quan sát phù hiệu ngư lôi địch chạy lệch đi xa khỏi chiếc Towers. Cuối cùng, cũng có một chuyện tốt.
                         
                        Nàng vừa định phát ra một mệnh lệnh mới thì tiếng nói của viên sĩ quan trưởng nhóm Sonar lại vang lên trên mạng. “Mọi vị trí nghe đây, Sonar vừa nghe được nhiều âm thanh phía trước bên trái! Hướng đi một-không-ba và một-không-bảy. Nhận định sơ khởi: ngư lôi bạn!”
                         
                        Bạn sao? Cái này làm mọi người chú ý.
                         
                        Chuyên viên tác chiến dưới nước (USWE) chen vào mạng. “Sonar, đây là USWE. Lặp lại nhận định về các ngư lôi mới này.”
                         
                        “USWE, Sonar đây. Chúng là bên bạn, thưa đại úy. Mark-48 của Mỹ và chúng đã tỏa định vào một mục tiêu lớn, hướng đi không-chín-không.”
                         
                        “Sonar, USWE đây. Nhận định về mục tiêu là gì?”
                         
                        “USWE, Sonar đây. Không rõ, thưa đại úy. Tôi nghe được tiếng chân vịt và tiếng băng rộng nhiều lắm, nhưng tiếng băng hẹp quá hỗn loạn để có thể nhận rõ. Không biết là ai, nhưng mà nó vừa chạy hết tốc độ để tránh mấy quả 48 ấy.”
                         
                        Silva bấm nút nói. “Sonar, đây là hạm trưởng. Có dấu vết gì của chiếc tàu ngầm vừa phóng những quả Mark-48 kia không?”
                         
                        “Aaa… Thưa không ạ. Không rõ bằng hữu của chúng ta là ai, nhưng hắn chạy êm thắm lắm. Chúng tôi không nghe được một chút gì từ nơi hắn cả.”
                         
                        “Hắn muốn im lặng bao nhiêu cũng được.” Viên TAO nói. “Miễn là hắn đuổi kẻ xấu khỏi đuôi chúng ta là được.”
                         
                        Silva gật đầu. “Anh nói đúng đó.”
                         
                        Trên màn ảnh chiến thuật, hai phù hiệu ngư lôi màu xanh lơ đang lao đến một phù hiệu tàu ngầm địch.
                         
                        Silva nhướng một bên lông mày. “Tôi mà biết được tên nào đang chỉ huy chiếc tàu ngầm bạn ấy, tôi sẽ hôn thật mạnh vào môi hắn.”
                         
                        Một gã hạ sĩ quan trẻ buộc miệng lên tiếng trước khi kịp ngừng. “Cho dù là một cô gái sao, hạm trưởng?”
                         
                        Silva vờ trừng mắt nhìn gã thủy thủ. “Thủy thủ, có phải anh định hỏi thăm về sở thích của tôi không?”
                         
                        Hai tai gã thủy thủ đỏ bừng. “Không, thưa ông! À, quên, thưa cô!”
                         
                        Silva quay trở về màn ảnh Aegis. “Nếu thiên thần phù hộ cho chúng ta là phụ nữ, tôi sẽ bắt tay cô ta và đãi cô ấy một chai bia.”
                         
                        “Ý kiến hay đó, hạm trưởng.” Gã thủy thủ nói.
                         
                        Silva quan sát màn ảnh chiến thuật. “TAO, tại sao chúng ta không bắn vào mục tiêu trên mặt nước kia nữa?”
                         
                        Viên TAO tằng hắng. “Nó không còn ở đó nữa rồi, hạm trưởng. SPY không dò được cái gì đủ lớn để phản chiếu sóng ra-đa cả.”
                         
                        “OK.” Silva nói. “Như vậy thì nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành rồi. Chúng ta sẽ chờ đến khi đám nhóc phi công tiêm kích kia càn quét xong lớp phòng vệ trên không của địch rồi chúng ta sẽ đến gần và vớt những người còn sống sót.”
                         
                        Lời tuyên bố này được tiếp nhận trong im lặng.
                         
                        Silva quan sát các gương mặt nam và nữ chung quanh nàng. “Tôi biết một số các vị đang nghĩ điều gì.” Nàng nói. “Nhưng mà, nếu chúng ta đã mang danh là người tốt, thì chúng ta phải hành sự như người tốt. Khi trận chiến chấm dứt, chúng ta sẽ không bỏ lại bất cứ một thủy thủ nào trong nước cả. Tôi không cần biết họ mặc đồng phục màu sắc gì.”
                         
                        Viên TAO chậm rãi gật đầu. “Aye-aye, thưa hạm trưởng.”
                         
                        Silva hít một hơi thật sâu và thở ra thật dài. “Có thể đây không phải là một mệnh lệnh mà hạm trưởng Bowie sẽ ban ra. Nhưng mà đó là mệnh lệnh của tôi. Và nó không có chỗ để bàn cãi.”
                         
                        Hai khóe môi của viên TAO hơi nhếch lên như muốn cười. “Cô hiểu lầm chúng tôi rồi, thưa cô. Đây chính là thứ mệnh lệnh mà hạm trưởng Bowie sẽ ban ra đó.”
                         
                        Khắp trong phòng chỉ thấy những cái đầu gật gù đồng ý.
                         
                        Từ một nơi nào đó trong vùng tranh tối tranh sáng, một tiếng nói vang lên. “Thôi được rồi, quý vị. Mọi người đã nghe hạm trưởng nói rồi đó. Cứ thế mà làm đi.”
                         
                        ***
                         
                        Hammer Hai:
                         
                        Monk nhìn chiến công thứ ba trong đêm nay của gã vỡ vụn trên không, các mãnh vở cháy xém rơi lả tả xuống đại dương u ám. Kể cả hai chiếc J-15 mà gã đã hạ gục trong lần giao phong trước với quân Trung quốc, đến nay gã đã có được 5 chiến công rồi. Monk vừa chính thức trở thành một ‘ace’ (một phi công có ít nhất 5 chiến công trên không), nhưng sự việc này thật xa vời trong tâm trí gã.
                         
                        Gã không màn gì đến danh dự, phần thưởng hay quyền có thể khoác lác. Gã chỉ đang tìm một tên Bandit khác để tiêu diệt thôi.
                         
                        Nhiệm vụ đã tiến hành y theo kế hoạch. Công cuộc càn quét bằng máy bay tiêm kích đã dọn sạch lớp phòng thủ trên không đủ cho nhóm cường kích len vào và thi hành công tác của họ. Sau khi trúng 10 hay 12 quả Harpoon được phóng từ máy bay, chiếc tàu sân bay Trung quốc, chiếc Liêu Ninh, bây giờ đang bập bềnh trên sóng biển, không còn động lực gì nữa.
                         
                        Xuyên qua cặp kính nhìn trong đêm, Monk có thể thấy chiếc tàu bị thương nằm thật thấp trên mặt nước, nghiêng qua bên phải một cách nặng nề, từng cụm lửa bốc lên từ nhiều nơi trên sân bay của nó.
                         
                        Monk kéo ánh mắt ra khỏi chiếc tàu đang bốc cháy và tiếp tục đảo mắt tìm tòi một chiếc máy bay địch khác trên bầu trời. Ba hay bốn giây sau, gã đã tìm được một tên địch. Hay đúng hơn là tên ấy đã tìm thấy gã.
                         
                        Quả tên lửa đang lao đến chắc phải là một quả tầm nhiệt bởi vì trang bị cảnh báo của Monk không hề phát hiện ra dấu hiệu ra-đa địch nào cả. Gã đang bay thấp và nhanh thì bị quả tên lửa đánh trúng. Sự chấn động thật mạnh mẽ và bất ngờ y như bị một chiếc xe hơi tông thẳng vào vậy.
                         
                        Mũ bảo hộ của gã đập vào bên trong lồng kính và bật ra với một sức mạnh làm đầu óc gã tê dại và đèn cảnh báo bắt đầu nhấp nháy khắp nơi trong phòng lái. Chiếc Super Hornet, mới trước đó không lâu còn nhanh nhẹn và linh hoạt, đã biến thành một con thú loạng choạng và hấp hối.
                         
                        Phòng lái tràn ngập khói và động cơ bên trái của gã đang bốc cháy. Gã đang mất động lực và cao độ một cách nhanh chóng, và mặt biển đen ngòm đang lao đến để chạm mặt với gã.
                         
                        Gã bấm nút nói. “Đây là Hammer Hai. Tôi bị trúng đạn và đang rơi. Đây là Hammer Hai. Tôi bị trúng đạn và đang rơi.”
                         
                        Gã buông tay khỏi nút nói và bắt đầu với lấy tay nắm của thiết bị bắn ghế ngồi ra khỏi máy bay. Nhưng rồi gã nhìn lại chiếc tàu sân bay Trung quốc, với những đám lửa màu xanh lục trong cặp kính nhìn đêm.
                         
                        Có lẽ vẫn còn thời gian để gã làm cho chiếc F-18 đang dãy chết bay một phi vụ cuối cùng. Không có gì đặc biệt: chỉ một cái quẹo đơn giản và thay đổi cao độ mà thôi.
                         
                        Cần lái gần như không còn điều khiển máy bay được nữa rồi, mà gã cũng gần hết thời gian rồi. Gã vật lộn với cần lái để đưa mũi máy bay qua trái, rồi chúi mũi xuống để đâm xuống theo một góc độ thấp về phía chiếc chiến hạm địch đã bị thương nặng, đang nằm trong khung của màn ảnh head-up của gã.
                         
                        Lại một vụ tiếp cận tàu sân bay trong đêm tối, nhưng lần này sẽ không có đáp xuống. Sẽ không có cảm giác bị kéo giật lại khi dây cáp giữ chiếc máy bay của gã ngừng nhanh lại. Sẽ không có cà-phê nóng và tiếng cười đùa trong phòng họp để báo cáo về chuyến bay vừa qua. Lần này thì không phải là đáp xuống như thế.
                         
                        Hình dáng đang bốc cháy của chiếc tàu sân bay càng lúc càng lớn hơn. Khoảnh khắc va chạm đang lao đến gần hơn.
                         
                        Gã có thể làm được việc này. Gã có thể đưa chiếc Hornet đến tận cùng, cắm thanh kiếm của gã vào ngay giữa tim của địch nhân. Đưa mọi thứ đến điểm kết thúc, trong một trận tai biến nóng cháy dữ dội.
                         
                        Sau này, gã không làm sao nhớ được lúc mình với lấy tay nắm để thoát hiểm. Nhưng đột nhiên chiếc vòng màu vàng và đen ấy lại nằm trong tay gã. Gã khép chặt các ngón tay quanh chiếc vòng và kéo mạnh.
                         
                        Lồng kính bị bắn đi và lực gia tốc đánh mạnh vào phần dưới cột xương sống của gã khi chiếc ghế có lắp động cơ phản lực bắn ra khỏi máy bay, thẳng vào bầu trời đêm. Thế giới của gã biến thành một mớ hỗn loạn giữa đêm tối và gió gào.
                         
                        Thế rồi chiếc dù nhỏ mở ra, kéo theo chiếc dù lớn và gã bay lơ lửng xuống đại dương bên dưới cái vòm của chiếc dù bằng vải ni-lông.
                         
                        Monk muốn được nhìn thấy phát va chạm này. Gã cần phải thấy nó. Gã cầu nguyền rằng mình được quay mặt đúng phương hướng khi nó xảy ra.
                         
                        Có lẽ là may mắn. Có lẽ là vận mệnh. Hay cũng có thể chỉ là chiều gió. Nhưng chiếc dù của gã chậm rãi quay tròn trong khi gã rơi xuống và chiếc chiến hạm địch lọt vào mắt gã ngay đúng lúc vụ va chạm xảy ra.
                         
                        Chiếc Hornet đang hấp hối của gã tông vào thượng tầng kiến trúc của chiếc tàu sân bay Trung quốc với tốc độ mấy trăm hải lý một giờ. Động năng, số lượng dầu trên chiếc máy bay và số đạn dược còn lại nhập lại vào nhau thành một quả cầu lửa và hủy diệt.
                         
                        Có thể đó không phải là đòn sát thủ. Có thể là các quả phi đạn đánh trúng cũng đã đủ rồi. Nhưng mà đối với Monk, đây chính là đòn sát thủ. Quan cảnh ấy nhìn giống như viên đá đã đánh gục gã khổng lồ Goliath trong truyền thuyết, hay một cây cọc cắm sâu vào tim một con quái thú trong thần thoại.
                         
                        Lần đầu tiên từ khi Poker bỏ mạng, Monk cảm thấy mình đang bắt đầu cười.
                         
                        “OK, bọn khốn à,” gã nói nhỏ, “giờ thì chúng ta huề rồi nhé.”
                        -=-=-=-=-=-=-
                        Chú Thích:
                             
                        (45) AGM-65 Maverick là tên lửa không-đối-đất (hay hạm) do Mỹ thiết kế và sản xuất, và được sử dụng bởi rất nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là loại tên lửa tầm trung (tùy độ cao được phóng, nhưng hơn 22 km), được triển khai từ năm 1972 và liên tục nâng cấp cho đến ngày nay. Tên lửa này được sử dụng rộng rãi trên nhiều chiến trường kể cả Việt Nam vào năm 1972. Có rất nhiều phiên bản, khác nhau ở tầm hữu hiệu (động cơ), bộ phận cảm biến dẫn đường (laser, TV – phiên bản đầu tiên dùng đánh cầu ở Việt Nam, hồng ngoại tuyến, tự động nhận diện mục tiêu dựa theo hình ảnh kỹ thuật số được nạp vào tên lửa dùng để đánh những mục tiêu cố định như cầu, đường ray, kiến trúc, v.v.), đầu đạn (hai loại chính là chống tăng hạng nặng nguyên tắc nổ lõm 57 kg, chống mục tiêu cứng như cầu đường, nhà cửa, tàu, v.v. nặng 136 kg). Ảnh kèm theo cho thấy tên lửa đang được lắp vào F/A-18 và một chiếc F/A-18C đeo Maverick bên cánh phải và bom laser bên trái.
                               
                         
                        (46) AIM-120 Advanced Medium-Range Air-to-Air Missile, hay AMRAAM (phát âm ‘am ram’) là tên lửa không-đối-không tầm xa tiên tiến của Mỹ, được triển khai từ năm 1991 và được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng. Từ năm 1991 cho đến ngày nay, tên lửa này đã qua nhiều đợt nâng cấp, từ tầm hữu hiệu 55 km lên đến quá 160 km. Vận tốc là Mach 4. Khi mới được phóng đi, AMRAAM sẽ được ra-đa trên máy bay hướng dẫn đến mục tiêu; khi đạt đến một khoảng cách gần mục tiêu hơn, tên lửa sẽ bật ra-đa được trang bị và tự động tìm đến mục tiêu; do đó, nó thuộc loại bắn-và-quên, mà không cần phải được liên tục hướng dẫn đến mục tiêu bởi xạ thủ. Ngoài ra, tên lửa còn có khả năng đuổi theo điểm quấy nhiễu (thường là trang bị quấy nhiễu lắp trên máy bay địch) khi phát hiện ra ra-đa của mình bị mục tiêu quấy nhiễu và có khả năng mất kiểm soát. Ngoài phiên bản không-đối-không ban đầu, tên lửa này còn có phiên bản đất-đối-không. Đây là một tên lửa cực kỳ hữu hiệu, đạt được nhiều chiến công trong nhiều trận không chiến từ năm 1992. Chiến tích gồm có sáu MiG-29, một MiG-25, một MiG-23 và một SoKo J-21 Jastreb (Nam Tư). Ngoài ra còn có 2 trực thăng Black Hawk của Lục quân Mỹ bị bắn lầm.
                         
                        #57
                          Quang11 09.09.2016 04:58:02 (permalink)
                          0
                          Chương 55
                          Nhà Trắng
                          Thủ Đô Washington
                          Thứ Ba, ngày 2 tháng 12, 17:08 giờ địa phương
                           
                          Điện thoại trên bàn giấy của tổng thống Wainright reng vang. Ông nhấc ống nghe lên.
                           
                          “Thưa ngài tổng thống, có Chủ Tịch Xiao ở đầu dây bên kia. Thông dịch viên của ngài đã kết nối vào rồi và đã sẵn sàng.”
                           
                          “Cám ơn cô, Margie.” Tổng thống nói. “Nối cho tôi vào đường dây đi.”
                           
                          Một thoáng im lặng, rồi ngọn đèn trên điện thoại đổi từ màu vàng sang màu xanh lục.
                           
                          Tổng thống cố nén không đằng hắng. Ông ta đã diễn tập trong óc cuộc điện đàm này từ cả giờ rồi, mà ông vẫn chưa tìm được cách nào để nói điều ông muốn nói.
                           
                          Mọi thứ đều tùy thuộc vào cuộc điện đàm này. Nếu nó diễn ra tốt đẹp, họa chăng ông có thể làm cho Trung quốc và Ấn Độ thối lui trước khi mọi chuyện vượt khỏi vòng kiểm soát. Nếu nó diễn ra không tốt đẹp thì…
                           
                          Ông nghe thanh âm già nua của lão Xiao, nói bằng tiếng Bắc Kinh. Vài giây sau, thông dịch viên của bộ Ngoại Giao lập lại lời của vị lãnh tụ Trung quốc bằng tiếng Anh. “Chào ngài buổi sáng, tổng thống Wainright. Tôi đoán là ngài gọi để xin lỗi về vụ tấn công chiếc tàu sân bay của chúng tôi.”
                           
                          Ông tổng thống chợt cảm thấy sự buồn bực bốc lên. Mới vào cuộc điện đàm được ba giây thôi, mà những lời buộc tội đã bắt đầu tuôn ra rồi. Ít nhất là năm, sáu câu trả lời chợt hiện lên trong óc của ông, không một câu nào có thể làm lắng dịu tình hình cả. Ông cần một câu nói cứng rắn, mà không buộc tội.
                           
                          “Việc chiếc Liêu Ninh bị mất thật là một điều bất hạnh.” Ông nói. “Mà cuộc tấn công vào chiếc USS Midway cũng thế. Chắc ngài cũng nhớ là chuyện này xảy ra hai ngày trước khi xảy ra biến cố của chiếc Liêu Ninh.”
                           
                          Lại dừng lại một lúc trước khi thông dịch viên của bộ Ngoại Giao chuyển lời của lão Xiao. “Chúng tôi không có hành động gì chống lại chiếc USS Midway của quý vị cho đến khi quý vị phá hủy một chiếc vệ tinh thuộc quyền sở hữu của nước CHNDTH.”
                           
                          Sự bực bội của ông tổng thống lại tăng lên một nấc nữa. Thế là hoài bảo về một cuộc đối thoại ngoại giao điềm đạm của ông đi tong rồi. Tốt lắm. Nếu lão Xiao muốn chơi trò đấu khẩu, lão sẽ sớm khám phá ra rằng những năm tháng trong Thượng Nghị Viện đã tôi luyện cho Dalton Wainright vài kỹ năng trong trò chơi đấu võ mồm này. Rồi, sau khi đã đập cho nhau đến ngây ngốc bằng những câu chữ rỗng tuếch, họ sẽ bắt đầu đàm luận một cách hữu ích.
                           
                          “Thưa ngài chủ tịch Xiao,” ông nói, “các nhân viên của ngài rõ ràng là không cho ngài thông tin chính xác rồi đó. Tôi chỉ hạ lệnh bắn rơi chiếc vệ tinh của quý vị hai ngày sau khi máy bay chiến đấu của quý vị tiến hành công kích hai chiếc máy bay Mỹ đang bay một phi tuần phòng vệ, mà không có sự khiêu khích nào hết. Máy bay của các ngài bắn trước, làm thiệt mạng một phi công của chúng tôi và hủy diệt một chiếc tiêm kích F/A-18. Các lực lượng hải quân Mỹ trong khu vực không hề làm gì để gây ra một hành vi gây hấn như vậy cả.”
                           
                          “Quý vị đứng về phe địch quân của chúng tôi…”
                           
                          “Chúng tôi không hề đứng về phe địch quân của quý vị.” Tổng thống gắt lên. “Tôi hạ lệnh cho chiếc USS Midway tiến vào vịnh Bengal như một lực lượng ổn định. Khi ấy, tôi hi vọng rằng các chiến hạm và máy bay của chúng tôi có thể tạo thành một lớp giảm xóc giữa lực lượng Trung quốc và Ấn Độ trong vùng. Để cho hai nước của quý vị có cơ hội hạ hỏa và tìm đến các giải pháp hòa bình hơn.”
                           
                          Vài giây sau, lời của lão thủ tướng được phiên dịch. “Thưa ngài tổng thống, tôi lấy làm lạ là ngài nói về hòa bình. Quý vị vừa tiêu diệt mọi chiếc chiến hạm và máy bay trong biên đội của chiếc Liêu Ninh. Quý vị không phải chỉ đánh hỏng chiến hạm và máy bay của chúng tôi. Quý vị đã hủy diệt chúng rồi. Quý vị đã đánh trực tiếp vào những khí tài chiến lược tối quan trọng của nước tôi. Quý vị đã làm thương tổn lực lượng phòng vệ quốc tế của Trung quốc. Thế mà bây giờ ngài lại còn đóng vai làm kẻ hòa giải sao?”
                           
                          Wainright cảm thấy các ngón tay mình đang nắm ống nghe thật chặt. Ông cố gắng giữ giọng nói bình hòa. “Như thế nào việc này xảy ra đã không còn quan trọng nữa rồi.” Ông nói. “Điều quan trọng là chúng ta sẽ làm gì kế tiếp. Chúng ta có nên tiếp tục đi trên con đường này không? Hay chúng ta hợp tác để tìm một giải pháp cho cơn khủng hoảng này?”
                           
                          “Ngài không thể nào bắt cá hai tay được.” Lão Xiao nói qua thông dịch viên. “Vị John Adams (*) của nước ngài đã từng nói ‘một tay cầm kiếm, một tay cầm cành ô-liu’. Nhưng cả hai chúng ta đều biết, thưa Tổng thống Wainright, rằng ngài không phải là John Adams. Và nếu phải nói thẳng, ngài cũng còn chưa được như người con yếu hơn của ông ấy, John Quincy Adams, nữa.”
                           
                          (* John Adams là một trong những người cha lập quốc của Mỹ, là vị tổng thống thứ nhì sau George Washington. Ông là phụ thân của tổng thống thứ sáu, John Quincy Adams)
                           
                          Những lời này không chỉ gây tổn thương. Chúng còn bỏng rát như chất a-xít. Bởi vì chúng là lời nói thật.
                           
                          Nếu do người nào khác nói ra, chúng đã không tạo tổn thương đến thế. Nếu do một tên công chức hạng trung nói ra, Wainright có thể phớt lờ đi như lời nói khoác mang theo ý xấu. Nhưng mà lão Xiao Qishan không phải là một tên công chức hạng xoàng. Lão đã già rồi và đã đến lúc cuối trong cuộc đời chính trị của lão, nhưng mà sự nghiệp chính trị ấy vẻ vang ra sao chứ.
                           
                          Lão Xiao đã bỏ công sức ra để lôi kéo Trung quốc vào thế kỷ 21 nhiều hơn bất cứ người nào khác, còn sống hay đã chết. Lão xứng đáng có chỗ đứng trong lịch sử. Người ta sẽ nhớ đến lão như một vị lãnh tụ vĩ đại. Một người có tầm nhìn xa, dám làm và đem lại kết quả.
                           
                          Dalton Wainright không có chút ảo tưởng nào về chỗ đứng của mình trong lịch sử. Ông ta không phải là một lãnh tụ vĩ đại. Trong tương lai, nếu người ta có nhớ đến ông, ông cũng chỉ là một lời chú thích trong sự nghiệp của những nhân vật vĩ đại hơn mà thôi. Ông biết rõ điều này và sự hiểu biết ấy không dễ chịu chút nào.
                           
                          Tuy nhiên ông vẫn cố gắng che đậy sự giận dữ và đau đớn trong thanh âm. Ông nói vào điện thoại. “Tôi không phải là John Adams. Mà như ngài đã nhã nhặn chỉ ra, tôi cũng không phải là John Quincy Adams. Tôi chỉ là một người thấp kém, ngồi trên một chiếc ghế to quá cỡ của mình thôi. Nhưng xin ngài đừng lầm, thưa ngài chủ tịch Xiao, tôi đang ngồi trên chiếc ghế này. Tôi không nghĩ là mình sẽ lãnh đạo nước tôi một cách khôn ngoan và vĩ đại, nhưng mà tôi quả thật đang lãnh đạo nó mà.”
                           
                          Các ngón tay ông bám chặt vào ống nghe đến đau nhức. “Cho dù tôi có bao nhiêu khuyết điểm, tôi vẫn sẽ chu toàn nhiệm vụ của mình. Tôi sẽ không chấp nhận các sự đe dọa nào vào nền an ninh quốc gia tôi. Và tôi sẽ không chấp nhận những cuộc tấn công không có khiêu khích vào các đồng minh của Liên Bang Hoa Kỳ.”
                           
                          Bản phiên dịch của câu trả lời của thủ tướng Xiao vang lên vài giây sau. “Có phải ngài muốn nói là Trung quốc không phải là đồng minh của Hoa Kỳ không?”
                           
                          “Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào các vị.” Tổng thống nói. “Nhưng nếu quý vị muốn được đối xử như đồng minh của chúng tôi, thì đã đến lúc quý vị nên hành động như một đồng minh của chúng tôi rồi đó.”
                           
                          Có một khoảng cách dài trước khi lời của lão Xiao vang lên xuyên qua thông dịch viên. “Đó có phải là tiếng lưỡi đao khua lên trong vỏ không vậy, thưa ngài tổng thống? Ngài muốn nói gì chứ? Có phải ngài định dọa nạt tôi bằng những lời bóng gió không?”
                           
                          Nắm đấm của Wainright đập mạnh xuống mặt gỗ bóng loáng của bàn giấy Resolute. “Trời ạ! Tôi không có bóng gió gì hết. Tôi không muốn nói gì hết. Tôi đang nói thẳng ra đây này. Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đang ở gần trạng thái chiến tranh với Liên Bang Hoa Kỳ một cách vô cùng nguy hiểm. Cái này có đủ rõ ràng cho ngài chưa, thưa ngài chủ tịch? Chiến tranh đó!”
                           
                          Ông có thể nghe thanh âm của mình vang lên cao, mang theo một lực lượng và một sự tự tin mà ông chưa từng cảm nhận được từ khi tuyên thệ nhậm chức. Ông chờ cho thông dịch viên lặp lại lời của ông bằng tiếng Quan thoại và ông nói tiếp trước khi vị lãnh tụ Trung quốc kịp trả lời.
                           
                          “Từ nay sẽ không còn những vụ chạm trán nhỏ nữa.” Tổng thống nói. “Từ nay sẽ không còn những vụ hăm dọa chính trị nữa. Chỉ cần lực lượng quân sự Trung quốc ném một quả cầu tuyết về phía bất cứ người nào hay khí tài nào của Mỹ, cho dù là quân sự hay không quân sự, chúng tôi sẽ đáp trả bằng chiến tranh. Nếu quý vị còn tiếp tục tấn công nước Cộng Hòa Ấn Độ, chúng tôi sẽ kề vai với đồng minh của mình và chúng tôi sẽ đưa chiến cuộc vào trước cửa nhà của quý vị. Do đó, ngài cần phải quyết định ngay bây giờ… Quý vị đã sẵn sàng cho chiến tranh với Hoa Kỳ chưa?”
                           
                          Im lặng kéo dài và Wainright có thể nghe tiếng tim mình đập như tiếng búa nện bên tai. Thế rồi, âm thanh già nua của lão Xiao phun ra một tràng Quan Thoại. “Không ai có thể nói chuyện với tôi như thế này! Ngài sẽ không…”
                           
                          Tổng thống Wainright đập mạnh ống nghe xuống bệ máy, cắt đứt cuộc điện đàm mà không cần nghe phần còn lại của bản thông dịch.
                           
                          Ông hít thở nhiều lần thật sâu và chậm. Khi nghĩ rằng nhịp tim đập đã tương đối trở lại bình thường, ông nhấc ống nghe lên và bấm nút gọi viên sĩ quan trực phòng Tình Huống.
                           
                          “Đây là tổng thống.” Ông nói. “Hãy kêu bà bộ trưởng Quốc Phòng và điện thoại cho Trung Tâm Chỉ Huy Quân Sự Quốc Gia đi. Tôi muốn toàn bộ nhân viên chiến tranh ở phòng Tình Huống trong vòng nửa giờ nữa.”
                           
                          Ông gác máy xuống và liếc nhìn chiếc đồng hồ John & Thomas Seymour từ thế kỹ 19 gần cửa đông của căn phòng. Chỉ còn hơn nửa giờ nữa trước khi Ấn Độ tập kích đập Tam Hiệp và sau đó, vụ này sẽ chuyển thành kinh hoàng lên ngay.
                           
                          #58
                            Quang11 10.09.2016 01:47:42 (permalink)
                            0
                            Chương 56
                            Đại lễ đường Nhân dân
                            Thiên An Môn
                            Bắc Kinh, Trung quốc
                            Thứ Tư, 3 tháng 12, 06:31 giờ địa phương
                             
                            Đệ nhất phó Chủ Tịch Lu Shi đẩy ghế ra khỏi bàn họp và đứng lên. “Chúng ta không thể nào bỏ qua vụ mất chiếc Liêu Ninh được. Chúng ta sẽ đè bẹp chúng!”
                             
                            Jia Bangguo giơ một tay lên. “Chúng ta sẽ đè bẹp ai chứ, đồng chí Lu? Bọn Mỹ sao? Có phải đồng chí muốn nói là chúng ta sẽ đè bẹp Hoa Kỳ không?”
                             
                            “Bọn Mỹ đã đi quá xa rồi.” Lu Shi nói. “Bọn chúng đã phế đi một lực lượng chiến lược quan trọng và hủy hoại uy tín của hải quân ta. Chúng ta phải cho thế giới thấy rằng Trung quốc không bao giờ khấu đầu trước bất cứ lực lượng ngoại bang nào. Chúng ta sẽ không thoái nhượng bọn Ấn Độ. Chúng ta sẽ không thoái nhượng bọn Mỹ. Chúng ta sẽ không thoái nhượng bất cứ kẻ nào. Mà bất cứ nước nào dám khiêu chiến Trung quốc sẽ lãnh mọi hậu quả.”
                             
                            Ma Yong, Bí Thứ của nhóm lãnh đạo Tài Vụ và Kinh Tế, gật đầu với Lu Shi. “Đồng Chí Phó Chủ Tịch, tôi biết rất ít về các vấn đề quân sự, mà tôi còn hiểu biết ít hơn thế nữa đối với những rắc rối trong vấn đề chiến lược quốc gia. Nhưng mà tôi cũng biết là Hoa Kỳ và Ấn Độ cộng chung lại tiêu thụ hơn 35 phần trăm sản phẩm của chúng ta. Mỹ dẫn đầu xa trong số khách hàng tốt nhất của chúng ta, mà Ấn Độ cũng là một trong các đối tác lớn nhất của chúng ta. Đồng chí đã suy tính đến điều gì sẽ xảy ra cho nền kinh tế quốc gia của chúng ta một khi mà một phần ba thị trường xuất khẩu của chúng ta đột nhiên biến mất chưa?”
                             
                            Lu nhìn gã trừng trừng. “Đồng chí Ma, đồng chí cũng biết là tôi luôn xem đồng chí là một vị cố vấn khôn ngoan. Nhưng đồng chí đã ước lượng quá cao quyết tâm của đối thủ của chúng ta rồi. Nước Mỹ là một nền văn minh tiêu thụ không có kỷ luật, mà Ấn Độ cũng không hơn gì. Bọn chúng không thể nào sinh tồn mà thiếu những món đồ chơi của chúng được. Nếu một người Mỹ trung bình bị buộc phải lựa chọn giữa niềm tin chính trị của mình và chiếc iPhone, hắn sẽ chọn chiếc iPhone ngay lập tức.”
                             
                            Ma Yong định lên tiếng, nhưng Lu Shi đã cắt ngang. “Nếu đồng chí suy xét đến bản chất thật của các vị khách hàng này của mình, đồng chí sẽ thấy rằng sẽ không có bao nhiêu nguy cơ trả thù kinh tế nào hết. Chắc chắn sẽ có vài cuộc trừng phạt kinh tế, tẩy chay sản phẩm Trung quốc hay vài thuế quan ngắn hạn chả hạn, để chứng tỏ sự độc lập kinh tế của Mỹ và tâm tính cứng cỏi của Mỹ. Nhưng mà các phương sách ấy cũng ngắn hạn và cũng không có ảnh hưởng đáng kể nào đến lưu lượng sản phẩm của chúng ta hết. Bởi vì, không cần biết đến niềm kiêu hãnh sai lầm của chúng như thế nào, sự cương định của người Mỹ rất yếu và nền kinh tế của chúng đã dính nhằng vào kinh tế của chúng ta rồi. Nếu chúng muốn cắt đứt quan hệ tài chính với Trung quốc, chúng cũng sẽ tự cắt đứt yết hầu của mình vậy.”
                             
                            “Có lẽ đồng chí nói đúng.” Bí Thư Đãng Wei Jintao nói. “Nhưng mà chúng ta đang vật lộn với hai mãnh hổ cùng lúc đó!”
                             
                            “Phải.” Lu Shi nói. “Nhưng cả hai mãnh hổ không có bao nhiêu răng. Chúng không phải là hổ thật đâu. Chúng chỉ là hổ giả trang thôi. Chúng sẽ gầm gừ và quẫy đuôi, nhưng Ấn Độ thua xa chúng ta và chúng ta sẽ nhổ răng con cọp Mỹ trước khi nó kịp cắn.”
                             
                            Ma Yong nhướng một bên lông mày. “Đồng chí đề nghị tiến hành như thế nào để làm được điều ấy? Chúng ta làm sao để nhổ răng Hoa Kỳ?”
                             
                            “Chiến tranh mạng không giới hạn.” Lu Shi đáp. “Chúng ta đã thăm dò các bộ phận chiến lược trong hạ tầng cơ sở trọng yếu của chúng từ nhiều năm rồi, mà hệ thống phòng thủ mạng của chúng không thể chịu nổi một trận tấn công quyết liệt được. Chúng ta sẽ đánh gục mạng lưới cung cấp điện quốc gia của chúng. Chúng ta sẽ khiến mạng vi tính của chúng nhiễm khuẩn cấp bậc quân sự, gián đoạn hệ thống vô tuyến viễn thông của chúng, gián đoạn hệ thống kiểm soát không lưu của chúng và làm tê liệt hệ thống ngân hàng thương mại của chúng. Trong vòng 48 giờ, một người Mỹ thông thường sẽ không thể mua một ổ bánh mì hay một lít nước nào. Các tài khoản trong ngân hàng sẽ bị đông cứng. Máy bay sẽ không thể cất cánh. Điện thoại không thể gọi. Và lực lượng quân sự trứ danh của Mỹ sẽ bận bù đầu cố dẹp yên các vụ biểu tình và giữ an ninh ngay bên trong lãnh thổ của chúng.”
                             
                            “Quả là một phương án đầy tham vọng.” Jia Bangguo nói. “Nhưng mà nếu lỡ như kế hoạch đánh gục nước Mỹ của đồng chí không thành công được như mong muốn thì sao? Nếu lỡ như đồng chí đã đánh giá quá cao sự hữu hiệu của các trận công kích mạng thì sao? Hay lỡ như đồng chí đánh giá quá thấp sức chịu đựng của người Mỹ thì sao?”
                             
                            “Tôi không sai đâu.” Lu Shi nói.
                             
                            “Có thể lắm.” Jia nói. “Nhưng mà trước khi chúng ta dấn thân vào những phương án cực đoan như thế, chúng ta phải suy xét đến mọi khả năng mới được. Do đó cho phép tôi hỏi lại lần nữa, nếu lỡ đồng chí sai thì sao?”
                             
                            Âm thanh của Lu Shi cao lên thành một tiếng thét. “Tôi KHÔNG sai!”
                             
                            Lão đưa ánh mắt lạnh căm qua từng khuôn mặt quanh bàn. “Các đồng chí tự nhìn mình đi.” Hắn cười khảy. “Các đồng chí là các vị lãnh đạo mà. Các đồng chí là những nam tử hán đại trượng phu mà. Nhưng mà các đồng chí lại ngồi đây than vãn như những con mụ già. Con tim của các đồng chí để đâu rồi? Tâm hồn của các đồng chí đâu rồi?”
                             
                            Ánh mắt của lão là một sự khiêu khích đối với mỗi người quanh bàn. “Chuyện này sẽ xảy ra.” Lão nói. “Nó sẽ xảy ra. Và khi nó đến, tôi sẽ nhớ rõ những ai chống đối tôi. Trong việc này, tôi có được sự ủng hộ tuyệt đối của Chủ Tịch Xiao…”
                             
                            “Không!” Một tiếng nói vang lên từ đầu bên kia căn phòng.
                             
                            Mọi cái đầu đều quay sang phía người mới vào. Thân thể già nua của lão Xiao Qishan đang đứng nơi cửa phòng, bên cạnh là hai gã sĩ quan QNDGP trẻ và dũng mãnh.
                             
                            “Đồng chí không có được sự ủng hộ của tôi.” Lão Xiao nói. Lão bắt đầu bước chập choạng đến ghế của mình.
                             
                            “Tôi không hiểu.” Lu nói. “Đồng chí không phải sẽ nói chuyện với gã tổng thống Mỹ sao. Đồng chí không phải…”
                             
                            “Tôi đã nói chuyện với ông tổng thống rồi.” Xiao nói. Vị lãnh tụ già thở khò khè nhẹ, như thể chỉ cái việc bước đến chiếc ghế ngồi của lão cũng đã tiêu hao một phần lớn sức lực còn lại của lão vậy. “Tôi không còn ủng hộ kế hoạch của đồng chí nữa.”
                             
                            Vẻ mặt của Lu Shi hoàn toàn chấn động. “Nhưng mà, thưa đồng chí Chủ Tịch, đồng chí cũng biết là tổng thống Wainright yếu đuối mà. Chúng ta làm được mà. Đã đến lúc chúng ta phải làm mà.”
                             
                            Lão Xiao thả mình vào chiếc ghế một cách thận trọng và lắc đầu. “Wainright mạnh mẽ hơn đồng chỉ tưởng. Thật ra, tôi nghĩ là hắn còn mạnh hơn là cả chính hắn nghĩ nữa.”
                             
                            Người lão Xiao run lên trong một cơn ho đau đớn và khi lão nói tiếp, âm thanh của lão còn yếu ớt hơn thường khi. “Chúng ta sẽ không hành động gì chống lại người Mỹ hết. Tôi đã gọi cho tổng thống Ấn Độ rồi. Chúng ta sẽ chấm dứt mọi hành động quân sự chống lại Ấn Độ và bắt đầu triển khai nỗ lực bình thường hóa ngoại giao ngay lập tức.”
                             
                            Lão nhìn lão phó Chủ Tịch thật lâu và đầy kiên nhẫn. “Đồng chí Lu à, thời khắc của sự phẫn nộ đã qua rồi. Giờ đây là lúc để dưỡng thương và tiến về phía trước.”
                             
                            Mặt Lu Shi trở nên tái nhợt. “Ngài quá yếu đuối cho trách nhiệm này, lão nhân à. Ngài không còn lòng can đảm để đưa ra những quyết định gay go. Đã đến lúc ngài về hưu rồi và bò đến một xó xỉnh nào đó để yên lặng chờ chết đi. Việc của ngài ở đây đã xong rồi.”
                             
                            Lão Thủ Tưởng mỉm cười. “Tôi không nghĩ vậy.” Lão nói. “Anh về hưu hôm nay, lão bằng hữu ạ. Chứ không phải là tôi đâu.”
                             
                            Lão ra hiệu cho hai gã sĩ quan QNDGP và họ nhanh chóng tiến đến Lu Shi. Trước khi Lu kịp phản ứng, mỗi gã nắm chặt một cánh tay của lão. Họ cứng rắn lôi lão ra khỏi phòng.
                             
                            “Bọn Mỹ yếu ớt lắm!” Lu ngoái đầu qua vai, gào to. “Bọn Ấn Độ yếu đuối lắm! Chúng ta có thể đè bẹp chúng…”
                             
                            “Có thể là vậy lắm chứ.” Lão Thủ Tướng Xiao nói nhẹ. “Nhưng mà, thay vì thế, để xem chúng ta có thể sống chung với chúng hay không.” 
                             
                            #59
                              Quang11 10.09.2016 01:49:45 (permalink)
                              0
                              Chương 57
                              Đập Tam Hiệp
                              Thành phố Tam Đẩu Bình, Trung quốc
                              Thứ Tư, 3 tháng 12, 07:29 giờ địa phương
                               
                              Hồ chứa nước kéo dài gần 700 km từ vách chắn. Gần 39 tỷ mét khối nước được một kiến trúc bằng xi-măng cao bằng phân nửa tòa cao ốc Empire State Building trứ danh của Mỹ chặn lại.
                               
                              Kết cấu tăng cường bên trong vách tường bao gồm 463.000 tấn thép, đủ để xây 63 bản sao của tháp Eiffel. Toàn bộ kiến trúc được thiết kế để thừa nhận những tai nạn, những cơn ngập lụt khủng khiếp hàng năm và những cơn động đất lên đến 7,0 độ Richter. Nhưng các kiến trúc sư và kỹ sư không hề biết đến Next Generation Penetrator (Đầu Đạn Xuyên Phá Thế Hệ Mới) mà người Ấn Độ gọi là Rudrasya Khadgah, Lưỡi Kiếm của thần Shiva, và họ chắc chắn không hề ngờ rằng những vụ lộn xộn trong vùng lại có thể khiến láng giềng của họ nghĩ đến chuyện sử dụng loại vũ khí này.
                               
                              Số 370 nhân viên làm việc ở đập nước không hề hay biết gì về kế hoạch hủy diệt đập nước của người Ấn Độ. Họ vẫn làm việc theo quy trình hàng ngày, sửa chữa và vận hành 32 tua-bin thủy điện to như những ngôi nhà và xưởng phân phối điện nằm dưới đất bên cạnh đập.
                               
                              Dân cư ở lưu vực sông Dương Tử đã bắt đầu cựa mình tỉnh giấc trong những tia nắng đầu tiên trong ngày. Các thành phố Vũ Hán, Nam Kinh và Thượng Hải đang chuẩn bị cho một ngày mới bận bịu trong việc mua, bán, sản xuất và tiêu thụ.
                               
                              Không một ai trong tuyến đường của sự hủy diệt sắp đến biết rằng khoảng thời gian 48 giờ được Ấn Độ hạn định chỉ còn một phút nữa là hết. Không một người có khả năng trở thành nạn nhân ấy biết rằng có bảy quả phi đạn dẫn đường đang nhắm vào đập nước và các địa điểm sẽ bị đánh trúng đã được lựa chọn thật tỉ mỉ.
                               
                              Số 60 giây cuối cùng dần trôi qua, từng giây từng giây. 40 giây. 20 giây. 10.
                               
                              Thế rồi, hạn định đã hết và thời khắc đã đến.
                               
                              Không một quả phi đạn nào từ trên trời lao xuống. Không một đầu đạn nào xuyên thấu lớp bê-tông của vách chắn nước. Ở hạ lưu của đập nước, dòng nước màu nâu của sông Dương Tử vẫn chậm rãi chảy ra biển.
                               
                              Cơn tai biến đã được ngăn chặn bởi một cú điện thoại, một hành động đến từ lý trí và một bàn tay đưa ra trong cử chỉ hòa bình từ ngàn xưa.
                               
                              Giờ khắc tận thế đã đến và đã qua đi. Và 400 triệu người Trung quốc đi làm công việc thường nhật của họ, không hề hay biết rằng tử thần đã lướt qua cạnh họ trong ánh nắng trong trẻo của ban mai.
                               
                              #60
                                Thay đổi trang: << < 45 > | Trang 4 của 5 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 62 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9