Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân 1-31, 32
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 37 bài trong đề mục
Hàn Lệ Nhân 18.05.2006 07:21:54 (permalink)
Sách cũ tình tôi 1
Hàn Lệ Nhân


Chợ sách cũ ven hai bờ sông Seine là một trong các địa điểm nổi tiếng của Paris. Chợ gồm những quầy sách be bé. Gọi là quầy cho lịch sự. Gọi xập là không đúng. Vì rõ ràng là những thùng bằng gỗ quét sơn màu rêu lưu cửu, mỗi cái rộng độ một mét vuông, có nắp đậy, có ổ khoá hẳn hoi. Mỗi quầy có từ hai đến ba thùng như thế. Quầy nào cũng được gác và bắt chặt lên bề dày chừng 50 phân của bức tường xi-măng được xây từ bờ sông xây lên, vượt mặt đường chừng 1 thước, chạy dọc sông Seine. Bức tường này là để giữ an toàn cho bộ hành đi trên hai bên lề đường, đồng thời từ bức tường khách có thể dừng chân nhìn xuống ngắm khúc sông trên địa phận Paris, lẫy lừng trên thế giới ; tất nhiên là không tình bằng đứng (hai mình) trên một trong 38 chiếc cầu nối liền đôi bờ, nỗi tiếng nhất phải kể cầu Mirabeau, cầu Mới (Pont Neuf), cầu Saint Louis và cầu được đánh giá tuyệt mỹ là cầu Alexandre III. Khúc sông Seine trong địa phận Paris dài 13 cây số, lững lờ cắt Paris thành Tả ngạn (Rive gauche) và Hữu ngạn (Rive Droite). Ngồi trên thuyền xuôi theo sông Seine, đặc biệt về đêm (Paris by night), du khách mới thưởng thức được trọn vẹn vẽ đẹp của mọi danh lam thắng cảnh trong thủ đô ánh sáng, với duy nhất một gam màu thời gian, biến hoá kỳ ảo qua giám thức nghệ thuật của con cháu gô-loa.

Những quầy sách cũ ven sông Seine sinh hoạt bốn mùa, mưa gió bất luận, không thiếu một ngày. Cứ khoảng 9 giờ sáng, chủ nhân của mỗi quầy đến mở ... nắp thùng - nắp thùng biến thành giá sách, đặt cái ghế ra lề đường rồi ngồi chờ khách. Đàn ông phì phà điếu thuốc lá, đàn bà ngồi đan... tán gẩu cho đến 19/20 giờ, mùa hè có thể đến 22 giờ ; hoàn toàn không có màn mời mọc, lôi kéo. Bài này chủ yếu nói sơ về sách việt cũ (tại Paris) nên không nhắc tới sự hiện diện của các thứ cũ linh tinh khác.

Hè 1976, lang thang lục tìm sách cũ nơi đó, tôi thấy một tấm bảng ghi: «Sách bẩn: nửa bán nửa biếu». Thắc mắc, tôi hỏi người bán sách:

- Thưa ông, sách bẩn nghĩa là sao?

- Sách bẩn là sách không được sạch – ông chủ quầy nheo mắt trả lời rồi hóm hỉnh tiếp: Nhưng không phải sách X. Đừng có mà mơ. Đống sách chữ Việt này là của một người bạn, mẹ Việt ba Tây, cho tôi. Bà cụ qua đời, bạn tôi cất trong kho dưới hầm, chẳng may kho bị lụt nên ra nông nổi.

- Ông cho tôi lục sơ qua được không?

- Ông cứ tự nhiên.

- Tình trạng sách như thế nầy mà ông còn bày bán sao? Tôi nói, sau khi lục sơ.

- Tôi không biết gồm sách gì nhưng mẹ bạn tôi là dược sĩ cho nên nó và tôi nghĩ rằng hẳn không tệ nên chưa nỡ vất đi. Tôi vác ra đây cả tháng nay, ông là người đầu tiên để ý tới.

- Tôi là người việt. Ông nói đúng, mớ sách này không tệ. Nhưng làm thế nào để tẩy lớp bùn trên đó?

- Ông đã lưu tâm đến nó. Tôi để thật rẻ cho và sẽ hướng dẫn ông cách thức làm sạch. Mùa này rất lý tưởng để làm công việc đó, nhưng lâu công à.

Nhìn qua mớ sách nhem nhuốc, xót quá, tôi quyết định mua trọn. Sau khi điều đình và chỉ phải trả 150 Francs (25 euros bây giờ) cho 107 cuốn văn học sử con rồng cháu tiên, Bắc và Nam ! Và như đã hứa ông ấy chỉ tôi cách tẩy bùn trên sách.

Mùa hè năm đó và hè kế tiếp tôi vật lộn với lớp bùn trên mỗi cuốn sách. Tủ sách của tôi trên đất Pháp được bắt đầu như thế.

Riết rồi tôi quen biết nhiều chủ quầy, có sách việt cũ là họ kêu tôi. Đa số chủ quầy mà tôi quen biết, tiếp xúc đều có kiến văn sâu rộng, họ chọn nghề này là vì "nghiện" sách cũ. Có mấy quầy là cha truyền con nối. Trước kia chưa có Internet, kẹt tài liệu là tôi ra hỏi họ, thay vì chui vô thư viện, cách này cách khác họ đều tìm ra. Đến bây giờ, có dịp là tôi ra đấy lang thang...

Hàn Lệ Nhân


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/FAF40E975785455797131DB186900ECE.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2006 04:02:41 bởi Hàn Lệ Nhân >
Attached Image(s)
#16
    Hàn Lệ Nhân 20.05.2006 01:11:19 (permalink)
    Sách cũ tình tôi 2
    Hàn Lệ Nhân



    Bấy giờ khu Paris 13 còn lưa thưa người Á châu. Gia đình nhà văn Thụy Khuê và gia đình chúng tôi là hai trong số mấy gia đình đầu tiên đến đó. Trong thương xá Masséna, có một tiệm bán thực phẩm Việt nấu sẵn, có bảng hiệu gợi cảm: Á Hương.

    Hồi còn đi học, tôi trực điện thoại đêm cho một khách sạn cao cấp tại khu Paris-Opéra, quận 9. Tất nhiên là làm "lậu". Sáng thứ bảy hôm đó, đi làm về, ghé vào Á Hương, tôi thót người khi thấy một cái kệ khá lớn, đầy nhóc sách chữ Việt với tấm bảng: Sách cho thuê. 2 francs/ngày (0,30 euros hiện nay).

    Lướt qua kệ sách: Tiểu thuyết chiếm đa số tuyệt đối. Tôi đến làm quen với chị bán hàng. Một lúc sau, tôi đề nghị chị nhượng lại cho mươi cuốn trên kệ. Chị bảo phải hỏi ông xã trước, hẹn tôi trở lại vào khoảng 19 giờ.

    Đúng hẹn, tôi quay trở lại. Người tiếp tôi là một trung niên đeo kính trắng gọng xà-cừ, tóc muối tiêu bồng bềnh, hai con sâu róm trên môi, vóc dáng tầm thước gốc Bắc kỳ, nói năng điềm đạm, chững chạc. Bàn qua đề nghị của tôi, anh đồng ý trên nguyên tắc và mời tôi đến nhà sáng chủ nhật vì ở nhà anh – vùng Ivry, gần đó – còn nhiều sách khác, "độc" hơn các sách bày ở đây, rồi mới ngã giá "sĩ " luôn thể.

    Bên tách trà sơ ngộ, anh cho biết anh đang dạy toán cho đại học Jussieu, lủng củng chuyện gia đình sau 1975, đang chuẩn bị ra toà cùng hát bài "Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi".

    Anh đưa tôi vào một căn phòng ngỗn ngang đồ đạc và lù lù một kho sách, tây có, ta có. Anh bảo:

    - Đấy, ông cứ tự nhiên ở đây mà lựa. Tôi phải qua bên kia dọn đồ vào két, chuẩn bị di cư. Lựa xong, ta "dứt điểm".

    Ngôn ngữ anh dùng và qua tủ sách của anh cho tôi khái niệm anh thiên lực lượng thứ ba. Sau này, đúng là như thế. Tôi chọn thật kỹ vì sách nhiều quá, vả lại nhẩm tính e kham không hết. Cuối cùng tôi để riêng ra được 136 cuốn văn học sử, xuất bản trước 1975, từ Hà Nội và Sài-Gòn.

    Tôi nói con số 136 trên. Nhìn chồng sách tôi lựa, anh cười vui vẻ, thân tình:

    - Cậu có vẻ cũng sính văn thơ và mê sách cũ như tớ cách đây 15 năm. Tớ không thèm đếm lại, "nhất trí" một tiếng một: 1.500 Francs (230 Euros)!

    Nghe giá, tôi tính nhẩm nhanh hơn máy: đổ đồng 11 francs/cuốn (1,7 Euros). Tôi run lên: Phần là giá quá đẹp, phần là không đủ tiền, phần lớn nhất là sợ - nhất - bà xã mới cưới trường kỳ rầy rà có mà nát tai. Lương tháng tối thiểu lúc đó là 1.500 Francs mà lương sinh viên của tôi chỉ được 1.300 Francs, làm lậu mà. Nhưng đây là cơ hội ngàn năm có một, trời ạ!

    Tình huống của tôi lúc bấy giờ khác gì một hiệp sĩ lỡ dại có vợ sớm, duyên do chi đó, đứng trước một vệ nữ lồ lộ, thịt thừa vải thiếu, đỏng đảnh ba sẵn sàng, ba dam dang... mê tơi quá: Rút kiếm thì sợ. Trụ, cự thì...tiếc của trời, hơn nữa biết đâu chẳng bị vệ nữ chửi xả vào mặt là vừa mù, vừa ngu và vừa bao nhiêu tĩnh từ tiêu cực khác, thậm chí dám ra công báo, nghị định mời lên tran nhập băng liệt sĩ... sống, tương tự bà con việt kiều bên Thái Lan thờ sống ai đó từ cuối thập niên 1950.

    Rốt cuộc, không kỳ kèo thêm bớt giá cả - mặt mũi nào làm thế - tôi đánh liều rút kiếm... nhưng chiêu thức chia thành ba nhịp, 500 Francs tiền mặt chi tức thời, số còn lại thành hai nhịp bán bán cân phương bằng chi phiếu. Anh ấy xuề xoà: Pas de problème! (không thành vấn đề).

    Tôi mượn điện thoại nhà anh ấy gọi thằng bạn chí thân, nhờ chạy xe tới đưa sách về.

    Hai tháng sau, anh ấy gọi cho tôi, mời ra ngay tiệm Á Hương có chút việc. Trong tíc tắc, tôi nghĩ tới chuyện cái chi phiếu thứ hai có vấn đề, ngay ngáy ra chỗ hẹn. Không phải vậy, tôi chỉ lo hảo. Hai bên cạn xong hai chai bia, anh ấy đi vào phiá sau quầy tính tiền, vác ra một cái két cạc-tông, loại để 6 chai rượu vang, bảo:

    - Trong nầy có 18 cuốn về văn học, chèo queo ngủ trên kệ sách trong tiệm từ ngày ra đây, tớ lược ra... tặng cậu ! Lý do chính là không ai thuê cả. Để đấy chỉ là đống giấy lộn. Vô duyên. Tội nghiệp. Phần tớ, như đã từng nói qua với cậu dạo nọ, tớ bỏ chuyện chữ nghĩa Việt Nam ! Và ..., anh ấy thấp giọng: Tuần tới tớ "di cư" !

    Đáng lẽ tôi nên dứt phần 2 này ở đoạn trên nhưng từ đó tới nay mỗi lần giở lại các sách kia và lúc gõ bài này trong tôi lại dạt dào tưởng nhớ tới anh ấy, nghĩ lại nguyên do từ trái chanh mặt trận đưa tới sự khủng hoảng tinh thần của anh ấy, gia đình tan nát vì quan điểm bất đồng, tôi viết thêm mấy dòng này thay chút lưu bút hướng về anh: Sách và chữ ký của anh tôi vẫn trân quí trọn vẹn như ngày đầu.

    Hàn Lệ Nhân


    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/5EB74961E48D4367A46D88925A9F1C24.jpg[/image]
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2006 02:17:27 bởi Hàn Lệ Nhân >
    Attached Image(s)
    #17
      Hàn Lệ Nhân 22.05.2006 03:52:33 (permalink)
      Sách cũ tình tôi 3
      Hàn Lệ Nhân


      Trong số các bà bạn áp-phe của mạ vợ tôi, có mấy bác, mấy dì ham đọc sách, chủ yếu là tiểu thuyết Tùng Long, Quỳnh Giao, Lệ Hằng ... và kiếm hiệp Kim Dung, Ngoạ Long Sinh. Biết tôi mê sách Việt cũ nên lần hồi các bác, các dì giúp tôi có thêm rất nhiều sách, với một điều kiện: Một cuốn hay một bộ tiểu thuyết tôi tìm ra cho họ mượn, họ sẽ tìm và biếu tôi một cuốn hay một bộ sách cũ. Ngày qua tháng lại sách cho mượn theo không kịp sách biếu, ban đầu tôi phải khất lại bằng cách ghi sổ nợ, sau các bác, các dì cười xoà, xuý xoá không tính đếm nhưng lại ra một điều kiện khác: Phải tự giác đưa cho họ mượn tiểu thuyết loại hay, nghĩa là tôi phải đọc tuốt luốt.

      Bấy giờ tôi hăng viết và viết hăng lắm, nào Hướng Việt, Nhân Bản, Độc Lập, Tự Do...hầm bà lằng dưới nhiều bút hiệu khác nhau, nên còn thời giờ đâu mà đọc tiểu thuyết. Bí quá, tôi lái trách nhiệm giới thiệu tiểu thuyết qua cho bà xã, cho cả mạ vợ, đọc xong hai người tóm lược qua-loa-rơ-măng cho tôi nghe, tôi chỉ việc sắm vai quan toà, phán: Oui ou Non ! Đương nhiên 99, 99% là Oui. Vì thế nào là hay, thế nào là dở ? Đa số người đọc tiểu thuyết chỉ nhắm vào cốt truyện, lâm ly bi đát là chính, ý tại ngôn ngoại, văn phong là phụ. Sau, tôi chính thức giới thiệu bà xã cho các bác, các dì với 2 lý do ở cửa miệng, 1/ nghe quá hợp tình hợp lý: cũng là phụ nữ sở thích do đó dễ có nhiều điểm tương đồng ; 2/ nghe cũng kêu – là «cháu quá bận bịu cho "đại sự"». Lý do thứ 2, nói trắng ra là "ăn cơm nhà vác ngà voi / ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng".

      Bác C người Huế, cùng làng với mạ vợ tôi, qua Pháp từ thời 1945. Bác C là "chuyên viên cao cấp" chạy hột soàn. Mỗi lần đến nhà, sau câu chào hỏi, bác C mà lên tiếng " thằng Th. đâu rồi?" là cứ như rằng tôi có tin vui, nhỏ lớn tùy lúc.

      Một hôm vào cuối tuần, bác C gọi điện thoại lại bảo tôi lấy xe đến đón bác rồi cùng đi coi sách. Trên xe, bác kể "bà chủ nhà là vợ lớn của 1 nhà văn X nổi tiếng hiện ở Sàigòn, sách vở nhiều lắm, họ không bán đâu, nhưng con cái trong nhà không ai tha thiết chuyện tiếng Việt. Bác "tán" về cháu tợn lắm nên họ đồng ý cho đến coi cho biết, sau đó tùy duyên của cháu...". Nghe tên nhà văn chồng bà chủ nhà, tim tôi đã tưng tưng muốn vọt ra khỏi lồng ngực...

      Chủ nhà người Nam, trạc tuổi bác C nhưng, từ lối ăn mặc đến cung cách nói chuyện, xem ra giản dị hơn nhiều. Chủ nhà và bác C có ngờ đâu là qua sách báo tôi đã biết khá rõ về nhà văn X cũng như về chủ nhà cho nên khi chủ nhà, cụ Y, nói qua chuyện sách của chồng bà, tôi như cá gặp nước, như cậu học trò đi thi trúng đề tài học gạo. Tôi nêu tục danh của chủ nhà, tên người con trai duy nhất của họ, "trả bài" mạch lạc về lý lịch của bà, thậm chí cả năm sinh, tháng đẻ... Ôi thôi, người nói đã cái mồm, người nghe chắc cũng mát tai, Bá Nha - Tử Kỳ đến thế là cùng ! Có điều phải nói ngay đây là xưa trong hiện trường và nay viết lại kỷ niệm, tôi vẫn một lòng như khi tôi nhìn tôi trong gương hàng ngày là, lúc huyên thiên về nhà văn X, tôi không hề có hậu ý mua sách. Tôi nói về ông với cả tấm lòng ngưỡng mộ, không tì vết. Lòng ngưỡng mộ đó được manh nha từ lần đâu tiên tôi đọc ông, năm 1972, khi tôi tập tểnh viết bích báo trong trường trung học...Tây ! Sau này tập viết văn Việt, mặc dù đã cố gắng học cách hành văn của ông, tôi tự nghiệm chỉ mới học lóm sự sáng sủa được vài phần trăm, duy thói quen khi viết luôn luôn có tự điển tiếng Việt bên cạnh là tôi rập khuôn, nghi ngờ Hỏi Ngã là lật tra ngay.

      Bá Nha gặp Tử Kỳ, lúc sơ ngộ, thì làm gì rứt nhau dễ dàng được. Hiện trường lúc đó cũng vậy, đến nỗi chủ nhà để rơi lệ lúc nào không hay. Bác C ngồi lặng, không góp tiếng nào. Rồi từ chuyện đến coi sách cho biết, dự trù độ 1 giờ, buổi gặp mặt kéo dài không dứt, bác C bỏ luôn cuộc hẹn với mạ tôi và đồng ý ở lại dùng cơm tối theo lời mời thân thiết của chủ nhà, tôi thì khỏi nói, chỉ cáo lỗi gọi về cho phân nửa tôi, "xin phép" không ăn cơm nhà.

      Trong khi chủ nhà và bác C xuống bếp, chủ nhà cho phép tôi vào coi sách. Sách không nhiều như lời bác C, nhưng sách đã xuất bản của nhà văn X đều được trang trọng xếp riêng ra một tủ kính, tầng trên cao, ở giữa là bức hình trắng đen của tác giả, mộc mạc trong chiếc áo bà ba màu trắng. Bấy giờ nhà văn X chưa qua đời. Mỗi cuốn sách đều có ghi ngày tháng, ba mẫu tự đầu họ tên tác giả và chử ký nhưng duy nhất một cuốn có lời đề tặng bình thường, do đó tôi biết thêm người con trai độc nhất của họ có lót tên tây.

      Độ tiếng rưỡi sau, chủ nhà vào gọi tôi ra dùng cơm. Thấy tôi đang mê mẫn trước tủ sách, tay mân mê lật trang, cụ cười bảo:

      - Thích quá phải không?

      - Dạ, trong các trước tác của cụ nhà, cháu cũng đã có một số, vài cuốn bạn bè cho mượn đọc qua, phần còn lại chỉ mới biết qua thư mục.

      - Cha là nhà văn, học giả mà do hoàn cảnh con cái phải sang đây nên lơ là sự nghiệp của cha, nghĩ cũng éo le. Tôi đã nhiều lần đọc hết sách của ổng. Non mười năm nay, cả phòng sách này chỉ để làm kiểng. Cháu là người khách đầu tiên vuốt ve từng cuốn một, chắc tụi nó vui lắm...

      Trên bàn ăn, chủ nhà đề nghị tôi bỏ chữ cụ, cứ gọi bà bằng bác như gọi bác C. Mãi đến gần 10 giờ đêm hai bác cháu tôi mới xin chào ra về. Bác Y cầm chặt tay tôi, cảm động nói " Chị C là bạn lâu năm, không nói làm chi. Bác cám ơn cháu đã cho bác một ngày thật vui".

      Trên đường về bác C hỏi:

      - Sao cháu không gợi ý mua sách. Họ nỏ cần tiền nhưng họ để không mà.

      - Vì qua sách vở cháu biết phần nào hoàn cảnh của họ. Đó là kỷ vật, là gia bảo, dù thế nào cháu đâu dám phạm thượng.

      Dư âm buổi tương ngộ kể trên rồi cũng lắng xuống, tuy thỉnh thoảng tôi vẫn bần thần khi nhớ tới từng chi tiết của tủ sách kia.

      Bà xã tôi đứng thứ hai và là con gái duy nhất trong gia đình 5 anh em tức tương đương đại công chúa rượu (!), vị chi bà gia tôi có mỗi "phò mã" là tôi (các bạn đừng cười). Chẳng là hồi qua Pháp học tôi một thân một mình, nên khi mới cưới tôi chịu ở rể. Mà người xưa chẳng đã di lưu "thương con gái thì phải thương con rể" và "thương con trai thì phải thương con dâu" đó sao ! Vợ chồng tôi được ưu tiên chiếm cái phòng rộng trong căn nhà có 3 phòng ngủ với phòng khách chữ L khá rộng, ngăn ra thành bản doanh của ông cậu cả - và bao nhiêu ưu tiên lỉnh kỉnh khác. Khổ nỗi lúc chưa ra đi, phiá gia đình tôi, tôi là út "vàng" trong 9 anh em, muốn gì là phải được như thế, chưa quen bị gia đình trái ý. Đó cũng do nguyên tắc gia huấn "nước chảy xuôi": trong mọi hoàn cảnh, anh chị là phải nhường em, đúng sai cậu mẹ xét sau. Do đó, dù phòng vợ chồng tôi khá rộng, nhưng sách đã trên con số ngàn, để chồng đống, luộm thuộm đời nào "út" chịu. Vả lại Cậu Mẹ tôi vẫn dạy "ở rể như chó chui gầm trạn" – lớn hay nhỏ, trạn vẫn là trạn, nên sau đó ít lâu tôi quyết ra riêng hầu có chỗ xếp sách đúng phóc theo ý mình.

      Cho đến một hôm, đâu một năm sau, mạ tôi gọi điện thoại báo cho biết bác C tìm tôi vì có người nhắn chi đó, bác không nói rõ, chỉ tếu "chuyến mô chứ chuyến ni Hàn phò mã có mà ứ hự...". Tôi gọi cho bác C, bác nói «sáng mốt (thứ bảy) cứ tới nhà rồi hay.». 10 giờ sáng thứ bảy, tôi lái xe đến nhà bác C, bấm chuông nhà, bác chỉ gọn lõn: chờ đó, bác xuống, ta đi ngay !". Tôi ra xe chờ.

      Tôi hỏi bác:

      - Mình đi mô, thưa bác ?

      - Nhà chị Y, chỗ có bữa cơm tối thịt luộc mắm Thái hai bác cháu mình được ăn a tề.

      - Nhà vợ học giả X ! Có chuyện chi không bác?

      - Ai biết – bà bác bí mật. Chị ta nói muốn gặp lại Hàn "phò mã" vậy thôi. Coi mòi bác cháu ta được "lại quả" buổi cơm trưa, vì đời mô chị ta dễ dàng "buông" bác cháu mình.

      - Răng bác nói rứa ?

      - Ừ, thì bác đoán mò.

      Tôi chỉ biết cười như nắc nẻ, chịu bà bác quá trời, dễ thương chi lạ. Tôi đề nghị đi mua chút quà cầm tay, bác C bảo có trong xắc rồi.

      Khung cảnh nơi đó vẫn như năm ngoái, hàng mai tây (forsythia) và hai gốc Anh đào đang độ cực thịnh. Mấy cây mận, cây đào cổ thụ đang nhú chồi. Hoa vàng, hồng, trắng chấm phá thảm cỏ xanh mới cắt. Không gian im ắng, có lẽ như chủ nhà.

      Bác Y ra đón chúng tôi, cười nói rộn rã hơn lần trước. Sau câu chào hỏi, bác Y nói ngay "Hai bác cháu ở lại ăn cơm trưa đó nghen". Tôi nghĩ bụng "mệ Huế ni thánh thật !".

      Trong hàn huyên, bác Y không đá động gì tới chuyện sách. Giữ kẽ, tôi cũng vậy. Gần trưa, hai bác xuống bếp, tôi gọi điện về cho biết không ăn cơm nhà. Bác Y lại cho phép tôi vô phòng sách. Sau bữa cơm, trong lúc pha cà-phê, bác nói:

      - Bác muốn gặp cháu không phải để mời cơm đâu mà là vì chuyện sách đó. Một năm qua, bác suy nghĩ nhiều, lừng chừng giữa kỷ vật và tác dụng của kỷ vật. Như cháu đã biết, bác rất trân trọng các trước tác của bác trai, nhưng sách là để đọc, hữu ích chứ dùng để trang trí làm kiểng thì chẳng bổ báu chi, là đi ngược lại tâm nguyện của người soạn ra nó. Cháu nghĩ sao ?

      - Thưa bác, đó là hợp tình hợp lý. Là mục đích trước hết và sau cùng của mọi tác giả, huống hồ... Tôi ngập ngừng.

      - ... cháu muốn nói gì, cứ tự nhiên, e dè làm chi.

      - Dạ, huống hồ...một tác giả như bác trai, cọng hay trừ, mọi thời mọi thế đều tâm phục.

      - Cám ơn cháu. Do đó, hôm nay bác mời hai bác cháu tới đây là để cháu mặc lòng lựa chọn số sách trong tủ kính, bác tặng cháu những sách của bác trai mà cháu chưa có. Tặng là một cách nói, đúng ra phải nói bác nhờ cháu giữ dùm, có ích cho cháu lại an ủi cho bác và tác giả.

      Chao ôi, nghe bác Y nói mà nghẹn ngào. Tôi đáp:

      - Thưa bác, lý ra cháu không nên nói gì thêm vì những lời bác dạy đã đầy đủ. Nhưng cháu sung sướng và hãnh diện quá nên xin được tỏ bày: Vợ chồng cháu đều sinh ra và lớn lên trên xứ người. Con cái rồi đây cũng sẽ được sinh ra, trưởng thành trên mảnh đất này. Bởi vậy, cháu xin nói trước, mai này không chắc gì con cái cháu giữ được tủ sách gia đình nhưng cháu đã nguyện với lòng, bất cứ giá nào sẽ không bao giờ bán tủ sách của cháu, con cái cũng vậy. Cùng lắm là giao lại cho một thư viện nào đó làm của chung.

      - Cháu nói thế coi như bác không lầm người. Không phải khi không bác lại giao gia bảo cho cháu, nói thật bác đã dò hỏi về cháu trong văn giới như các anh HG, HTK, NVH, PTN... kể cả ông TTV thầy việt văn của cháu lúc trước.

      Uống cà-phê xong, bác Y bảo tôi trở vào phòng sách, tha hồ lựa. Tôi thuộc nằm lòng các sách của học giả Y mà tôi đã có, nên việc chọn dễ dàng. Kỳ lạ là bỗng dưng tôi hết hồi hộp. Thủng thỉnh lôi từng cuốn xuống, sắp ra đúng 31 cuốn. Ôm ra đặt trên bàn. Nhìn chồng sách, bác Y ngạc nhiên:

      - Ủa, cháu thiếu ngần nầy thôi sao?

      - Dạ, đúng vậy. Với 31 cuốn này, tổng cộng sách của bác trai, nhẩm tính cháu có 73 cuốn.

      - Kể ra cháu cũng mê ổng - Bác Y vui vẻ nói. Được rồi, số sách còn lại, đến thời điểm nào đó, bác cũng sẽ góp vào thư viện trong vùng.

      Thời gian sau đó, một đôi tháng tôi một mình đến thăm bác Y một lần với chút đặc sản miền Nam làm quà mọn. Viết được gì tôi đều hồn nhiên đem ra khoe tặng bác, hệt một đứa bé khoe mẹ chữ i, chữ tờ nguệch ngoạc đầu đời. Bác chẳng bao giờ tỏ ý kiến về chuyện viết lách của tôi.

      Hàn Lệ Nhân


      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/7BD6356D519B4F56A8CAACEDB438347A.jpg[/image]
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2006 04:51:12 bởi Hàn Lệ Nhân >
      Attached Image(s)
      #18
        ngocnhi 24.05.2006 09:13:55 (permalink)
        truyện chú viết hay mà bé đọc có chổ cứ trớt wớt câu từ chu sữ dụng điêu luyện wa'
        ghé thăm chú lâu quá hong gặp chú có khoẻ không , chúc chú luôn vui nhé !
        #19
          Hàn Lệ Nhân 26.05.2006 04:14:23 (permalink)


          Trích đoạn: ngocnhi

          truyện chú viết hay mà bé đọc có chổ cứ trớt wớt câu từ chu sữ dụng điêu luyện wa'
          ghé thăm chú lâu quá hong gặp chú có khoẻ không , chúc chú luôn vui nhé !


          Chào bé Nhi,

          Chú vẫn lai rai như viết vậy. Hi hi, đọc riết rồi quen thôi. Vẫn lén dđ(c bià Nhi đó. Thăm chút, HLN.
          #20
            Hàn Lệ Nhân 26.05.2006 04:16:28 (permalink)
            Sách cũ tình tôi 4

            Hàn Lệ Nhân


            Dì H người miền Nam lục tỉnh, kém mạ tôi bốn năm tuổi. Qua Pháp sau biến cố 1963. Dì H mê tiểu thuyết Tùng Long như điếu đổ. Dì thường nói "Tùng Long là nhức !" Tôi đùa lại " dì có gửi thư đến mục Gỡ Rối Tơ Lòng không vậy?". Dì cười khúc khích "có chứ sao không, nhưng tao lấy tên con bạn hàng xóm. Một lần nó chửi tao te tua vì bị thằng bồ nó hiểu lầm, cho rằng nó một bến hai thuyền. Thiệt ra chính tao bắt cá hai tay.". Tôi chọc tới " rồi kết quả ra sao?". Dì cười phá lên " kết quả là tao cho cái thuyền thứ ba gốc wuảng nôm cắm... ừ... ứ.... ư.... a... sào.". Cải lương là thuốc an thần của dì, sau lây sang mạ và cả vợ tôi cho đến ngày nay.

            Dì H ly dị đã lâu, ở vậy nuôi hai đứa con. Dì làm chủ một nhà hàng miệt Cambronne, Paris 15, bảng hiệu cũng hay hay: Nam Vị. Món mắm và rau của dì thì hết ý, ăn quên no. Làm nhà hàng nên dì quen biết rộng, mấy ông văn nghệ sĩ gốc Nam ở Paris dì "quen ráo trọi"(chữ của dì). Vì dì mê bà Tùng Long nên sách dì toàn tiểu thuyết, không trực tiếp đáp ứng nhu cầu của tôi, dì cho tôi vui vẻ nhận, để dành, chuyển từ từ qua cho hai "chuyên viên đọc dùm" là bà ngoại và mẹ các con tôi với nhiệm vụ đã nói qua trong phần 3.

            Một đêm, toàn thể đại gia đình chúng tôi rũ nhau đi ủng hộ nhà hàng dì H. Trong lúc cả nhà chờ món ăn, dì đi tới vỗ vai tôi:

            - Vô đây dì giới thiệu cho ông cụ nhà thơ này, kho sách đó.

            Tôi liền nói qua với gia đình, đứng dậy theo dì tới một cái bàn hai người phiá trong góc. Ngồi ở bàn là một người lớn tuổi, ăn mặc tươm tất, râu tóc muối nhiều hơn tiêu, đeo kính trắng gọng mạ vàng. Trên bàn chưa có thức ăn. Dì giới thiệu:

            - Anh T à, đây là thằng cháu tui, nghe tui nói anh là nhà thơ nên nó háo hức muốn làm quen. Nó mê thơ và sách lắm. Anh ngồi một mình, vậy cho phép nó ngồi nói chuyện với anh cho vui nghen. Tui bận tay trong bếp, hai bác cháu cứ tự nhiên, chút nữa tui ra.

            Ông khách lịch sự đứng dậy niềm nở bắt tay tôi, mời tôi ngồi xuống cái ghế đối diện, một tay lật cái ly thứ hai trên bàn, tay kia với chai rượu vang định rót mời. Tôi vội nói:

            - Thưa bác, cháu không uống được rượu. Cám ơn bác. Để cháu về bàn lấy chai bia của cháu.

            - Chà...nhưng tùy cậu. Ông khách trả lời ngắn gọn.

            Tôi trở lại với ly bia mới rót đầy trên tay. Bàn ông cụ vẫn chưa có thức ăn.

            - Tôi là TTT, bút hiệu HH. Ông cụ tự giới thiệu.

            - A, có phải bác là tác giả Vượt Biển Chết không ? Tôi kinh ngạc hỏi.

            - Ủa, cậu cũng đã đọc bài đó à ? Đọc trên tờ ĐT chứ gì ?

            - Dạ, đúng rồi. Ai dè cháu lại gặp tác giả nơi nầy.

            - Thế ra cậu là độc giả báo ông NVH.

            - Ờ... dạ.

            - Cậu thấy bài Vượt Biển Chết thế nào ?

            - Hay lắm bác ạ, nội dung rất thực. Chắc bác và gia đình đã sống qua mọi cảnh trong thơ?

            - Hà hà hà... nhà thơ cười lớn. Đâu có, tôi qua đây từ 45 lận. Tôi viết theo lời kể của một thằng bạn thuyền nhân...

            - Mà bác tả lại được như thế, kể là tài.

            - Cám ơn cậu. Cậu đọc báo ĐT lâu chưa ? Có viết lách gì không mà mê sách ?

            - Dạ, cháu ủng hộ ĐT từ số đầu, vì bác NVH là chỗ quen biết, ở gần nhà cháu trong vùng Marne la Vallée (đông Paris). Cháu đang tập viết.

            - Vậy là tốt rồi. So với mấy đứa con lai của tôi, bù trất... Ông cụ thở dài.

            - Té ra...

            - Ừ... tôi vợ đầm. Bả mất đã 8 năm. Hai đứa con tôi đều được sinh ra ở Bordeaux (nam Pháp). Một thằng hiện ở Mỹ, một thằng ở Tunisie...

            Nghe ông cụ than chuyện gia cảnh, tôi vội bẻ lái câu chuyện:

            - Bác viết đã lâu chưa ?

            - Viết từ hồi sang đây, nhưng không đăng, vì viết lúc đó là để ôn tiếng mình. Vợ đầm mà. Sau 1980 tôi mới thực sự gửi bài, đăng lai rai.

            Dì H trở lại, tay bưng khay thức ăn đặt lên bàn nhà thơ, nói với tôi:

            - Thôi, tạm sì-tốp nghen, cả nhà đang chờ "phò mã" đẳng. Dì có làm 1 phần Mắm và Rau cho mày đó. Để dì ngồi "đấu" tiếp cho.

            Tôi cáo lỗi với nhà thơ HH, trở về bàn, bắt đầu cầm đũa. Xong bữa, phải đưa gia đình về, tôi chạy lại bàn nhà thơ từ biệt:

            - Tiếc quá bác ơi, cháu phải làm tài xế đưa vợ con về. Bác cho cháu số điện thoại, mai mốt cháu gọi, xin gặp lại bác hầu học hỏi...

            - Còn sớm, về chi vội... ngồi xuống, ngồi xuống, ta nói chuyện tiếp...

            - Không được đâu, cháu là thiên lôi, bả chỉ đâu đánh đó...

            - Ờ ha – nhà thơ cười: "Khép nép bên nàng chẳng mất chi, cao lương mỹ vị chén tì tì ...". "hiếu vợ" như cậu thế mà tốt. D'accord, on se verra (đồng ý, ta sẽ gặp lại).

            Rồi do lu bu, tôi quên hẳn cuộc tương ngộ "vượt biển chết". Một hôm, dì H đến áp-phe với mạ tôi, thấy tôi dì nói:

            - Sao "phò mã" không gọi cho nhà thơ HH như đã hứa. Ổng có nhắc tới mày đó. Liên lạc đi, may ra "mèo mù vớ cá rán".

            - Ổng ở xa quá, cháu lười đi.

            - Đâu được mày. "Muốn ăn phải lăn vô bếp" chứ.

            - Mai cháu sẽ gọi thăm ổng, thăm hỏi thôi chứ ổng là nhà thơ chắc còn quí sách hơn cháu...

            - Ổng đã thất thập + 3 rồi đó...

            - Ủa, sao trông bác ấy chỉ mới hưu ?

            - Ừa, có thể nhờ trước ổng là dân tác chiến chi đó nên thể chất trụ hơn người khác. Hè hè, ổng chê mày là cờ không có gió...

            - Là sao dì ?

            - Là ổng "chích" mày trai tráng mà sợ rượu.

            - À, kỳ vô phong. Cháu có sợ đâu, tại uống vô là quay đùng ra ngủ... xấu hổ lắm. Bia thì ça va...

            - Muốn gọi bây giờ dì gọi cho, dì gọi là dính ngay...

            - Sao hay vậy dì ?

            - Ừa, ừa... tại...., dì ngập ngừng. Ừa, ừa... tại ổng nhắm tao đó.

            - Ố là la... Tôi bật cười. Hèn chi ổng rành sáu câu: hiếu với vợ nên được "chén tì tì".

            Nói là làm, dì H quay số điện thoại. Đúng như rằng: Hình như nhà thơ (cả ngày) chỉ chờ có bấy nhiêu. Không biết bên kia nói gì, chứ bên này nghe dì H thỏ thẻ, cục thép nguyên khối cũng phải rệu thành tương. Xong, dì trao điện thoại cho tôi. Thăm hỏi qua loa, nhà thơ hẹn tiếp tôi trưa thứ hai 8/5, nghỉ lễ đình chiến 1945, "sẽ có bia cho cháu".

            Tôi mang theo hai chai vang Bordeaux Saint-Emillion làm quà. Cơ ngơi của nhà thơ ở tận Rambouillet thuộc Versailles-Yvelines (78), vùng nhà giàu, cách nhà tôi chừng 80 cây số. Một biệt thự quá rộng cho một người ở. Nhìn từ ngoài, tôi ước tính ít ra cũng 5/6 phòng. Tường rào phiá dưới bằng xi-măng cẩn đá hoa cương màu nghệ, cao độ 50 phân, phía trên làm bằng gỗ cao chừng 60 phân quét vẹc-ni màu nâu đậm mới toanh, ngay sau lưng rào là hàng thông cụt đầu xanh um cao trên dưới 2 thước, tắp lự. Cổng chính có vẽ nặng trình trịch với hệ thống đóng, mở tự động, bên cạnh là một cổng nhỏ.

            Nhà thơ ra đón tôi bằng cửa nhỏ. Niềm nở tay bắt mặt mừng. Vườn bao quanh nhà, cỏ sân như thảm, cây xanh, hoa hồng đó đây rất điệu nghệ. Phải gọi là đẹp và sang.

            - Nhà bác "chic" quá !

            - Nhà của ông bà ngoại mấy đứa. Nhà tôi con một, nay chẳng còn ai. Hai đứa nhỏ đi biệt, ba bốn năm mới ghé về mươi ngày nửa tháng. Tôi thui thủi một mình – nhà thơ thở dài, "lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ ".

            - Yên tĩnh thế này, chắc bác tha hồ viết.

            - Chứ biết làm gì cho hết ngày. Trong tuần tôi ít đi đâu, cuối tuần chạy vô dì H của cậu tán...dóc.

            Bước vô phòng khách rộng rinh, tôi giật mình vì cách trang trí nội thất quả là đẹp, nhã. Tôi còn nhớ như in nhưng xin miễn tả lại. Mời tôi ngồi xuống cái trường kỷ da màu nghệ ba chỗ ngồi, trên bàn có lưng chai vang Côtes du Rhône và một cái ly thủy tinh nửa vơi nửa đầy. Đồ nhậu u ê. Nhà thơ đi vào lấy ra hai chai bia Kronenbourg 1664 toát mồ hôi và một cái ly loại nửa lít cùng nhãn hiệu, tay mở nắp trút hết vào ly, miệng cười nói:

            - Đêm đó ở nhà hàng Nam Vị, cậu từ chối uống vang, sau nhớ tới cậu tôi có đùa với bà H, cậu là kỳ vô phong, bả cười quá trời.

            - Bia cũng là phong chứ bác...

            - Đúng vậy, nhưng là ..."thu phong rụng lá vàng, lá bay hàng xóm lá bay sang..."

            - "...Vàng bay mấy lá năm già nửa, hờ hững ai xui thiếp phụ chàng". Tôi đánh bạo nối hai câu sau đoạn một trong bài Gió Thu của Tản Đà.

            - Cậu cũng thuộc bài này à ?

            - Dạ, nhớ lỏm bỏm...

            - Lỏm bỏm mà ăn khớp vậy tức đã đọc qua nhiều lần. Thôi ta cụng một cái đã, tính sau. Cậu chơi vàng, tôi chơi đỏ.

            Cuộc gặp mặt rất thú vị, liên tu trên trời dưới đất, dọc núi ngang sông...nhưng thi ca là chính, kể lại thì quá dài, phần nầy cũng chỉ nói về sách.

            Thơ thẩn tôi chỉ mới vỏ vẻ một vài, do đọc nhiều và chịu khó nhớ lận lưng làm vốn khi hữu sự (xưa còn độc thân ứng dụng trong ngoại giao tình cảm). Ai đi hơi xa là tôi lòi tẩy...gạo mốc. Ấy thế mà nhà thơ HH chịu quá. Tôi cho là vì nhà thơ "tủi thân" không có người nối dõi sự nghiệp văn chương của mình.

            Nhà thơ chơi đỏ đến nửa chai thứ hai. Tôi chơi vàng đến chai thứ 7. Hai bên vẫn tỉnh như sáo. Đồ nhậu còn chút đỉnh. Bất ngờ bác T ngắt câu chuyện:

            - Cậu theo tôi lên phòng sách coi qua cho biết. Chẳng có gì ghê gớm, một mớ tôi mang theo từ 1945, sang đây tôi vẫn nhờ bạn bè đều đặn mua gửi qua. 100% sách trước 75 à nghen.

            - Cháu cũng chỉ thích sách giấy vàng... dĩ vãng. Sách in lại bên này hay bên Mỹ, giấy trắng cháu không ham...

            - Mãi sau này mới in chứ trước toàn photocopie. Bố MTN bên này. Hai lão ĐNT và PCD bên Mỹ phất lên cũng nhờ loại sách lem nhem trắng dã này. Tụi nó dán gáy dổm thấy mẹ. Lật trang hơi mạnh tay là "long ốc", vô ý gấp ngược coi như tiêu, bià đi đường bià, trang đi đường trang. Không có cơm đành chịu khó ăn bánh mì, ăn hamburger đỡ đói... Tôi có đâu 20 chục cuốn "long ốc" vất dưới hầm. Tôi định... mà thôi... chật nhà.

            Cầu thang lên từng trên bằng gỗ khối chạm trỗ tinh xảo, bóng lộn. Tôi liếc đếm, có 4 phòng. Nhà thơ mở cửa một phòng, mời tôi vào trước. Thoáng nhìn tôi biết phòng này trước là phòng ngủ, nay thành phòng sách. Có hai cái tủ cửa kính cao lớn, kín sách, sừng sửng đứng hai bên cái bàn viết rộng. Trước bàn là cái ghế da loại VIP. Tủ bàn đều là kiểu cổ bằng gỗ khối đánh vẹc-ni cùng màu với cầu thang. Hai cái ghế Rocking Chair mây, lót nệm mút. Tranh ảnh trong phòng tôi nhớ mang máng có đâu ba bức sơn dầu về 3 miền đất nước Việt Nam, không nhớ do hoạ sĩ nào.

            - Tủ bên trái là sách tây, tủ bên phải là sách ta. Nhà thơ lên tiếng. Sách tây, cậu dân "nos ancêtres sont des gaulois" (tổ tiên chúng ta là người Gô-loa, ý nói học trò trường Pháp từ nhỏ) chắc chẳng lạ gì Corneille, Racine, Rousseau, Voltaire, Hugo, Balzac... Sách ta thì cậu cứ mở tủ ra mà coi, phân nửa là thơ và ca dao, loại tôi thích nhất.

            - Hèn chi mà bác chẳng thở ra thơ...

            - Ừa... tại nhập tâm sao đó, mà hình như các ổng nói dùm mình hết trơn rồi thì phải. Mọi tình huống đều có thể ứng dẫn mấy ổng ra là gọn nhẹ, đầy đủ.

            - Dạ, nhưng đành là ứng dẫn nhưng hàm ý khác, đúng không bác?

            - Đương nhiên, đương nhiên... Cần và phải như thế chứ, nếu không viết... chùa chi cho phiền vợ con.

            - Có nghĩa là bác gái và hai anh không đồng tình việc bác làm thơ, viết báo?

            - Thứ nhất, họ không hiểu. Thứ nhì, thấy mình viết chùa. Thứ ba, mình lơ là bổn phận ... Cậu ở bên này, cậu lạ gì, tụi tây cuối tuần là sortie (đi chơi), resto (đi ăn nhà hàng)... và trăm thứ thứ khác. Họ có lối sống đặc thù và cái lý chắc nịch của họ. Giải thích trẹo hàm, khô cuống họng...tắc tị hoàn tắc tị.

            - Có thể do không muốn hiểu nên thiếu tình cảm thông chăng?

            - Cậu ngụ ý họ hiểu bằng cái đầu mà không hiểu bằng con tim ?

            - Dạ, đại khái là thế.

            - Thì bác cũng nghĩ vậy, nhà thơ đổi cách xưng hô. Văn xuôi không nói làm chi, nó lòng thòng, còn thơ bác làm ra, lúc đầu bác đều chuyển ngữ thành tiếng Pháp đưa cho họ đọc, đọc xong họ hỏi: C'est pas mal, mais est-ce vendable? ( Khá lắm nhưng có bán được không?). Mình cứng họng. Vừa tức, vừa tủi. Mà thôi, bỏ chuyện Pháp-Việt đề huề đi. Trăm sự cũng do ông tơ bà nguyệt.

            - Balzac có câu "dans ce siècle, vivre de sa plume est un travail auquel se refuseraient les forçats" (trong thế kỷ này, sống bằng ngòi bút là thứ lao động mà những người tù khổ sai khước từ)...

            - Được vậy đã may. Balzac là thế kỷ XIX, bác cháu ta đang ở cuối thế kỷ XX. Balzac nói "vivre de (sống bằng)...", còn bác, bác lại cho rằng "đến thời buổi này, trong cũng như ngoài nước, sống nổi với ngòi bút Việt vẫn còn là một ước mơ xa-xa-xa vời..."

            - Bác nói làm cháu nhớ tới mẩu chuyện tiếu lâm... Tôi ngập ngừng, do dự.

            - Cháu cứ kể, dù thế nào cũng chẳng hề chi – nhà thơ cởi mở, bác cũng là cây tếu, bác hưu từ lâu, hưu de luxe (cao cấp, lương hưu cao).

            - «Vợ nói với ông chồng nhà văn: "... Cuối cùng anh đã có cơ hội để khẳng định gia đình ta có thể tiếp tục sống với ngòi bút của anh: Anh mau viết thư ỉ ôi xin chị hai gửi gấp về cho 200 đô để trả 3 tháng tiền nhà, 3 tháng tiền điện !"»

            Để tôi được tự nhiên ngắm sách, nhà thơ HH đề nghị tôi qua phòng bên cạnh gọi bác khi nào coi xong. Tôi thẩn thờ trước tủ sách ngon quá là ngon. Cả tủ sách Việt tôi độ chừng có trên dưới 600 cuốn, hoàn toàn sách cũ trước 1975 in tại Sàigòn. Sắp xếp gọn gàng. 3 ngăn trên là thơ và ca dao – ca dao không nhiều. 2 ngăn kế tiếp đủ loại. Ngăn cuối cùng là tiểu thuyết rặt Tự Lực Văn Đoàn. Thơ thì coi như chủ nhà sưu tầm được khá đầy đủ, tiêu biểu cho mọi thời, mọi trường phái... Nội Kiều chú giải tôi đếm được 5 cuốn do 5 biên giả và nhà xuất bản khác nhau.

            Tôi rút ra bộ Thi Ca Bình Dân Việt Nam gồm 4 cuốn dày cộm của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, lên nửa ngồi nửa nằm trên 1 trong hai cái Rocking Chair, lật trang cuối cuốn 1 ra đọc: Sống Mới xuất bản ngày 19 tháng 8 năm 1969. Lật trang cuối ra đọc là việc đầu tiên tôi máy móc làm, là tật cố hữu của tôi mỗi khi cầm 1 cuốn sách. Cuối loạt bài này tôi sẽ trình bày lý do tại sao.

            Rồi mê mãi đọc tôi thiếp đi lúc nào không hay, quên luôn chuyện qua gọi bác T. Chẳng biết tôi thiếp đi bao lâu thì chính bác T là người qua lay tôi dậy. Tôi ngượng ngùng xin lỗi bác rối rít. Bác cười:

            - Bác qua lần này là lần thứ 3. Hai lần trước thấy cháu ôm ấp Nguyễn Tấn Long và Phan Canh ngủ ngon quá nên để mặc. Sao thấy tủ sách thế nào ?

            - Dạ - tôi dụi mắt trả lời. Sách bác chủ yếu là thơ, thích thật, nhất là thơ tiền chiến. Tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn đương nhiên là hay, là quí nhưng theo cháu không là sách hiếm. Còn 2 ngăn linh tinh thì hầu như cháu đều có cả...

            - Thế bộ cháu đang coi ?

            - Cháu mới đọc mấy chục trang phần mở đầu thôi nhưng nhìn sự đồ sộ của tác phẩm thì nhất định không tệ, riêng phần trích tuyển cũng đã đáng là toà lâu đài văn hoá dân tộc như lời ghi trên bià.

            - Thấy cháu mê sách cũ, bác cũng thấy thú vị vì vô hình trung ta có cùng goût (giám thức, sở thích). Nghe bà H nói tủ sách cũ của cháu cũng "khẩm" lắm phải không ?

            - Dạ, do duyên chi đó nên được các bác các dì "cựu trào" tìm cho, nay cũng gọi là. Có dịp mời bác đến coi.

            - Bác bây giờ coi như hết mọi háo hức rồi...

            Nghe ông cụ nói vậy, trong đầu tôi trộm bật ra ngay câu "... chỉ trừ dì H !"

            - ... bao nhiêu hoài bảo rồi cũng như không, nữa là sách... Thôi ta xuống nhậu tiếp.

            Xuống phòng khách tôi ngồi thêm độ nửa tiếng thì xin phép chào về. Bác T bảo tôi chờ chút rồi đi lên lầu. Bác xuống trong tay có một cái bọc ny-lông:

            - Trong nầy bác đã chuẩn bị sẵn trước khi cháu tới mấy cuốn sách mà bác có hai bộ, bác tặng cháu làm quà cho buổi gặp mặt thú vị này. Cháu à, đọc sách chẳng khác gì ăn cơm, có tiêu hoá mới bổ ích. Còn đọc rồi mà chịu khó viết lại theo cảm quan của mình thì niềm vui càng lớn, chưa cần nói tới chuyện hữu ích cho ai. Tuy nhiên, làm gì thì làm không có sự đồng thuận của vợ, của chồng, của con cái thì...khổ tâm lắm.

            Ở phần 4 này, tôi cũng định dứt ngang để bạn đọc đoán xem trong bọc ny-lông có những sách gì nhưng suy nghĩ rồi, tôi xin nói ra luôn. Trong đó có :

            1/ Một cuốn Những Khuynh Hướng trong Thi Ca Việt Nam của Minh Huy, nxb Khai Trí – Sàigòn, 17/09/1962.

            2/ Một cuốn Việt Nam Sử Lược (trọn bộ 2 cuốn đóng chung) của Trần Trọng Kim do nhà xuất bản Tân Việt in xong ngày 25 tháng 4 năm 1958 tại Nam Phần (MN), bià cứng.

            3/ Trọn bộ 3 cuốn Thi Kinh Tập Truyện, nguyên tác Khổng Tư san định, Tạ Quang Phát diễn dịch, Bộ Giáo Dục - Trung Tâm Học Liệu (VNCH) xuất bản lần thứ nhất năm 1969.

            Và chao ôi,

            4/ Trọn bộ 4 cuốn Thi Ca Bình Dân Việt Nam do Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, Sống Mới xuất bản ngày 19 tháng 8 năm 1969, tổng cộng 2.500 trang.

            Hàn Lệ Nhân


            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/99E796BB501149E4814E53387138236A.jpg[/image]
            Attached Image(s)
            #21
              Hàn Lệ Nhân 30.05.2006 17:25:27 (permalink)
              Sách cũ tình tôi 5 (hết)

              Hàn Lệ Nhân


              Nếu tôi nhớ không lầm thì đến năm bước vào thượng thọ cụ ông mới đậu bằng tiến sĩ tại Pháp. Đối với cá nhân tôi, cụ ông đáng là một biểu tượng cho sự kiên trì trong việc lấy học làm vui. Thời còn ở trong nước cụ ông đã nổi tiếng trong báo giới, tác giả của mấy cuốn chuyên đề đặc sắc. Tôi may mắn quen biết cụ ông từ khởi đầu có sinh hoạt văn nghệ, báo chí việt ngữ trong cộng đồng tị nạn tại Pháp, thường xuyên có bài trên cùng mấy tờ nguyệt san tại Âu Châu, tất nhiên bài của cụ ông bao giờ cũng được trang trọng đặt ở ngay sau bài quan điểm. Sự đều tay của cụ ông trong sáng tác, biên khảo ngắn hay dài hơi tôi xin ngã nón chào. Bao lần tôi đã hỏi cụ ông "bác làm thế nào mà ý tứ cứ như triều dâng?". Cụ ông điềm đạm trả lời – bao giờ cũng vậy " Đọc rồi viết, viết rồi đọc. Ý đẻ ý mà Hàn công tử". Ngoài kiến thức uyên bác, văn phong cụ ông, theo tôi, nặng phần hàn lâm hơn óng ả nhưng luôn luôn xúc tích dữ kiện, tài liệu nên rất bổ ích cho những ai lưu tâm tới lịch sử, văn hoá nói chung, địa phương chí nói riêng. Nói thế là vì địa phương chí nước Việt là địa hạt tôi vốn trống trơn đến ba con số Không. " Quê Mẹ trong tôi chỉ là văn chương" mà.

              Một lần trong buổi họp mặt giữa dăm lão thành và huynh trưởng văn nghệ để bàn thảo việc tổ chức buổi ra mắt tuyển tập Làng Xưa Phố Cũ tập 2, tôi - trẻ nhất - đã "điếc không sợ súng" vanh vách về vài địa danh trên vùng Trung Việt, một huynh trưởng nhà thơ đã không gượng nhẹ:

              - Cậu chưa một lần đạp đất Mẹ, sông Cha mà dám múa rìu qua mắt thợ.

              - Thì em chỉ nói lại những gì em đọc được. Căn bản là có đúng như thế không ? Sai sót xin anh châm chước cho.

              - Đúng thì có đúng nhưng thiếu chất sống. Hay nói như thời nay là thiếu cơ sở thể nghiệm, thiếu đi thực tế.

              Cụ ông tủm tỉm góp lời:

              - Anh đã công nhận Hàn công tử nói đúng về vùng quê chúng ta nhưng vẫn khó chịu. Vậy bác hỏi anh, anh thực tâm tin là có Niết Bàn không ?

              - Là Phật tử thì cháu phải tin chứ. Huynh trưởng nhà thơ trả lời.

              - Anh tin là tin theo kinh kệ. Mà kinh kệ cũng là sách vở. Vậy niềm tin của anh có cơ sở thể nghiệm, có đi thực tế chưa ? Hơn nữa, đã có ai đi thực tế trên đó mà được trở về đâu. Và có bao giờ anh vặn vẹo các đệ tam bảo như đã vặn vẹo Hàn công tử?

              - Không thể so sánh như thế được...

              - Tại sao không ? Cảnh giới Hàn công tử nói qua hoàn toàn có thể "sờ" được, bất cứ lúc nào; cảnh giới đó đã và đang có vài trăm ngàn người sinh sống. Còn cõi trên kia... Cụ ông mĩm cười, không nói tiếp.

              Sau đó ít lâu tôi lại điếc không sợ súng hung hơn nữa, đứng ra chủ trương tuyển tập Viễn Phương, chuyên đề về Xứ Lào, sinh quán của tôi. Tôi đến nhà cụ ông đưa toàn bộ bản thảo các bài nhận được để cụ ông đọc qua hầu viết cho lời giới thiệu.

              Hai tuần sau cụ ông gọi tôi đến lấy bài. Không những cụ ông viết lời giới thiệu với thật nhiều ưu ái mà góp thêm một bài giá trị về xứ Lào. Hàn huyên một lúc, cụ ông đi vào trong và khi trở ra trên tay ôm một bộ sách, nói:

              - Đây là món quà của bạn bác, nhà thơ TQ, hiện còn ở Việt Nam gửi sang tặng Hàn công tử.

              Tôi đứng bật dậy nhận món quà mà nước mắt lưng tròng: Đó là hai cuốn tự điển Hán-Việt-Pháp chính gốc Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của, do Imprimerie Rey, Curiol & Cie xuất bản tại Sàigòn năm 1895 !

              Cái duyên hay cái nợ văn tự đã tạo cho tôi nhiều cơ hội gặp gỡ, quen biết khá nhiều bậc trưởng thượng trong làng văn làng nhạc, đặc biệt tại Pháp và Tây Âu. Tôi may mắn được cụ ông và một số huynh trưởng trong văn giới dành cho khá nhiều thiện cảm, soi gương và chân tâm mà nói, nguồn thiện cảm đó là do họ biết gốc gác và sự chịu thương chịu khó của tôi trong quá trình tự học tiếng mẹ đẻ trên xứ người.Vậy thôi.

              Tạm kết

              Xưa nay, khi cầm một cuốn sách chữ việt được phát hành tại VN, tôi có cái tật lật ngay trang cuối coi tên nhà xuất bản, ngày tháng in và đặc biệt ghi nhớ giá bán và số lượng in ấn. Để làm gì ? – Xin thưa :

              A/ Để lượng định, theo quan điểm cá nhân, tác quyền có nuôi nổi tác giả hay không. Đã bao lần làm chiết tính và tôi đành ngao ngán cho nghề văn bằng chữ việt, thác lời cụ Tản Đà tôi rên " văn chương "việt" giới rẻ như bèo ! Đơn cử hai trường hợp :

              1/ Tưởng Giới Thạch : Bạn và ThùNguyên tác : Vương Triều Trụ - Bản dịch : Lý Tôn Nhân và Phùng Ngọc Tường,
              NXB Đà Nẵng, 09/2000.
              Trọn bộ 3 cuốn, tổng cộng 3670 trang, giá 390.000VND. Phát hành 1.000 bộ.
              390.000 x 1.000 bộ = 390.000.000VND.
              Tác quyền : 390.000.000/20% ( tôi là nxb rộng rãi ) = 19.500.000VND.
              Mỗi dịch giả : 19.500.000/2 = 9.750.000VND = 487,50 Euros = 609,38USD (theo hối đoái 28/09/2005).
              609,38USD/12 tháng = 50USD. Chưa tính hai dịch giả đã bỏ ra bao nhiêu năm cho 3670 trang.

              2/ Nguyễn Minh Châu toàn tập, NXB Văn Học, Hà Nội 2001 (sau khi tác giả qua đời)
              Gồm 5 tập = 5341 trang = 750.000VND x 500 bộ = 375.000.000 VND.
              Tác quyền thừa kế, chắc có : 375.000.000VND/20% (tôi là nxb rộng rãi) = 18.750.000VND.
              18.750.000VND = 937,50 Euros = 1172,00USD ! (theo hối đoái 28/09/2005).

              B/ Tôi coi giá bán ghi trên sách để so sánh với đồng lương tối thiểu hiện hành 350.000VND, 10/2005 (*) mà theo tôi là một lý do xác đáng giải thích tại sao cung cầu về sách lại khiêm nhượng như trên. Đơn cử:

              1/ Trọn bộ 2 cuốn Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác, nxb Văn Học thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Hà Nội tái bản quí 2-2003, giá 125.000VND/cuốn (250.000 trọn bộ)

              2/ Trọn bộ 3 cuốn Tưởng Giới Thạch: Bạn và Thù nói trên, giá 390.000 VND...

              Còn đối chiếu giá sách từ thập niên 1990 với 2005 tôi không thể không kêu lên hai tiếng Kinh Hoàng !

              C/. Trung bình ở VN các nxb chỉ in 1.000 cuốn. Số lượng in ấn nói lên số người mua sách (1.000 người). Cứ cho có 1.000 người mua x 100 người đọc (99 người đọc ké) = 100.000 người đọc trên 80 triệu dân là con số quá khiêm nhường. Ai muốn nói gì thì nói, tôi không tin một người hay một dân tộc ít đọc sách mà có thể tự mở mang đầu óc, tự nâng cao kiến thức được. Đọc báo giấy hay báo mạng, nghe radio, coi truyền hình trong nước, nhất là từ VTV4 lại là vấn đề khác.

              Hàn Lệ Nhân

              (*) http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2005/09/3B9E25A7/


              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/B9D60D7153EB4ECD8D6CA85FA9FFE3CD.jpg[/image]
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2006 17:27:21 bởi Hàn Lệ Nhân >
              Attached Image(s)
              #22
                Hàn Lệ Nhân 04.06.2006 18:00:27 (permalink)
                Văn hoá Lào, văn hoá Lèo
                Hàn Lệ Nhân



                "Nghe nói một số người mình có cách chửi hơi lạ: khi chửi là réo người Lào ra mà chửi. Thí dụ:

                - Thằng Lào trộm cái xe đạp của ông?

                - Con Lào vứt dzác trước cửa nhà bà?

                Có ai hiểu tại sao không ạ? (1)

                Một nhúm người quen miệng gọi Việt Nam và Lào là hai quốc gia anh em. Nhưng một sự thật trớ trêu là ở Việt Nam:

                1/ điều gì tệ lậu cũng được gán cho cái thương hiệu Lào:

                - Đôi dép mang tồi nhất, rẻ nhất là đôi dép Lào (15.000 VND/ 2 đôi). Bệnh thì có bệnh lang ben hay hắc Lào (dartre), đậu Lào (variole). Cái thứ thuốc hút nặng mùi nhất là thuốc Lào. Cơn gió khắc nghiệt nhất gọi là gió Lào. (2)

                2/ điều gì ít phấn khởi cũng được bắt đầu bằng chữ Lào:

                - Lào phào, lào quào, lào thào, lào xào, lào rào.

                3/ duy một điều sáng sủa ta có : Lào lạo = sáng lào lạo, đẹp lào lạo.

                Còn nếu đọc trại Lào ra Lèo, ta có:

                - Lèo = dây buộc từ cánh buồm đến chỗ lái để điều khiển buồm hứng gió. Giữ lèo, kéo lèo. Diều không lên vì lệch lèo.

                - Lèo = Diềm gỗ ở tủ, sập, giường, v.v... có chạm trổ trang trí: Lèo tủ có chạm hoa, chạm lèo.

                - Lèo = Giải thưởng trong hội đua tài. Tranh lèo giật giải.

                - Lèo = Móc nối thêm vào như liền một mạch. Nói, viết, đọc một lèo; ăn một lèo, uống một lèo, đi một lèo, chạy một lèo, làm một lèo...

                - Lèo = Cọc đỡ cây con. Cắm lèo cho dưa, cho đậu.

                - Lèo khoèo = Nhỏ và gầy. Tay chân lèo khèo.

                - Lèo lá = Quá khôn khéo đến mức tráo trở, lật lọng. Lời lẽ con buôn lèo lá.

                - Lèo lái = Điều khiển. Dây lèo và tay lái. Lèo lái con thuyền. Giữ vững lèo lái.

                - Lèo nhèo = Mềm nhão, bèo nhèo. Bụng mỡ lèo nhèo.Quần áo lèo nhèo. Lèo phèo.

                - Lèo tèo = Thưa thớt; ít ỏi, nghèo nàn.

                - Lèo xèo = Nước sôi lèo xèo. Mỡ sôi lèo xèo.

                - Hứa trăng hứa cuội gọi tắt là hứa Lèo. Lựa chọn có lựa lèo (lựa thế). Tết có Tết Lèo. Kẹo có kẹo thèo lèo ( đậu phụng/lạc chiên mỡ ngào đường dùng khi uống trà, đọc trại từ tiếng Tiều: Tề Léo = trà liệu). Giường có:

                Một vợ ngủ giường lèo,
                Hai vợ nằm chèo queo,
                Ba vợ ngủ chuồng heo.

                Hay:

                Nằm giường lèo lại đòi treo trướng phụng. Giường lèo là giường cấp nào? Ai biết chỉ cho với.

                - Trước 1975, có hai chữ Tiền Lèo ngụ ý tiền không có giá, bấy giờ 1 đồng VNCH ăn 7 kips hoàng gia Lào. Từ 1976 đến 1993, 1 Kip Lào cộng ăn 15 đồng Việt cộng (do đó có chữ tiền lèo VC), nay 1 Kip chỉ còn ăn 1,5 VCD.

                - Freud bảo trong đầu nam nhi đại trượng phu thường trực hai chữ lờ lờ, tôi cho là Freud chỉ là người có công cô đúc hệ tư tưởng Hồ Xuân Hương "thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc, trái gió cho nên phải lộn lèo"(Kiếp tu hành), "thú vui quên cả niềm lo cũ, kià cái diều ai nó lộn lèo (Quán Khách).

                - Đến chất lỏng có gia vị như nước phở, nước bún, nước mì, nước chấm ... tuyệt cú mèo trong Nam cũng là nước Lèo, ngon dở là do nước lèo. Ở Hà Bắc có làng Lèo. Sơn La có Mường Lèo.Vùng Thanh Hoá có làn điệu Hò lèo... Riêng lá lèo là gì tôi chịu không tìm đâu ra định nghĩa, có thể là một loại gỗ nên mới có lối chạm lèo nêu trên (?):

                [«Làng La Xuyên ở cách Hà Nội 70km thuộc xã Yên Ninh, huyện Ý Yên, nổi tiếng về nghề chạm khảm gỗ có từ lâu đời. Các hoành phi, câu đối, sập gụ, tủ chè được trang trí rồng bay, phượng múa, lân chầu… rất đẹp và tinh xảo. Chỉ trên một lá lèo, người ta có thể thấy lễ cưới xin, ăn hỏi hay những trò chơi trẻ con rất ngộ nghĩnh được chạm tỉ mỉ, chau chuốt. Đây là một làng nghề chạm khảm cổ truyền. Sản phẩm của La Xuyên từ lâu đã được du khách trong và ngoài nước rất ưa chuộng.»]

                http://www.vietshare.com/quehuong/namdinh/thangcanh.asp

                - Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan người đích thân xử tử một đặc công VC trên đường phố Sàigòn hồi Mậu Thân 1968 có hỗn danh là Sáu Lèo. Người con trai thứ 18 của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu).

                Và:

                Một người Lào sang Việt Nam làm việc. Trong một chuyến đi công tác tại Huế, trên xe buýt, ông ta ngồi chung với 1 người Việt gốc bắc chính quy. Sau khi đến trạm dừng, ông bắc kỳ phát hiện đôi dép mình không cánh mà bay. Ông ta la lên: "thằng lào, thằng lào lấy dép tao".

                Công an thường phục vội túm ngay thằng Lào ăn cắp.

                - Không phải ông lày. Ông bắc kỳ phân trần.

                - Thì bác mới hô hoán "thằng Lào lấy dép bác tê".

                - Đúng thế nhưng đâu phải thằng Nào lày.

                Bên Pháp tôi có người bạn ở gần nhà, người Việt sinh trưởng ở bên Lào – như tôi, vợ con đã đùm đề. Về Việt Nam lần đầu, chú ấy dính ngay một em nuôi lớn hơn thằng trưởng nam của chú ấy vài tuổi. Chẳng biết chú ấy hứa lèo kiểu nào mà thằng bạn đã hưu non người Pháp 100% bất chấp hệ lụy, chịu chạy chọt giấy tờ, đích thân về Việt Nam đứng tên cưới cô em nuôi mang sang giao tận tay cho chú ấy một mình nuôi trên giường. Một hôm trong siêu thị, một thằng bạn chính thống Nam Kỳ gặp cô em nuôi của bạn tôi, hỏi cô đi đâu dzậy, cô trả lời:

                - Đi mua chúc đồ dzià nấu cho thằng Lèo ăng !

                Tóm lại, Tiếng Việt và tiếng Lào có khá nhiều từ với phát âm giống nhau nhưng ý nghĩa lại khác hoặc tương phản.

                Ý nghĩa khác, đơn cử:

                Tìếng Việt.............................Tiếng Lào
                Đức........................................Thâm trầm
                Khăm (chơi khăm)...................Vàng
                Không ....................................Gồng
                (người Lào phát âm chữ Không không được, họ nói là khôông)
                Luống......................................To lớn
                Ma .........................................Đến
                Má .........................................Chó
                Mó..........................................Thầy ( thầy thuốc, thầy lang...)
                Mó .........................................Thằng này, thằng kia.
                Mổ .........................................Âm hộ
                Mưa........................................Đi về
                ...

                Ý nghĩa tương phản (xấu), đơn cử:

                Tiếng Việt .............................Tiếng Lào
                Hí (ngựa hí, chấm
                câu của người Huế)..................Âm hộ
                Khỉ .........................................Phân
                Khôi........................................Dương vật
                Mến........................................Thối
                Sĩ ...........................................Làm tình
                Tốt .........................................Đánh rắm

                ...

                Người Lào vùng cố đô Luang Prabang (bắc Lào) có lối phát âm đặc thù thành thử đã có nhiều giai thoại Việt-Lào cười ra nước mắt. Đơn cử:

                1.
                Một người Lào tên Khăm kết bạn tâm giao với một người Việt tên Đức. Ngày nọ, Khăm đang ngồi mài và lau chùi con dao săn cưng quí của anh thì Đức tới chơi, ngồi xuống bên cạnh coi bạn làm việc. Vốn tính tinh nghịch, Khăm đưa dao lên chỉa thẳng vào người Đức. Đức hoảng hồn đưa hai tay lên trời, kêu lên:

                - Không ! Không ! Không !

                Khăm lại hiểu thành '' Khôông ! Khôông ! Khôông ! '', mật chú để tác động phép gồng, nên chắc mẩm ông bạn hiền muốn thử, không nói không rằng Khăm lụi nhẹ con dao quí vào ngực Đức, chẳng may con dao bén quá, lọt lút cán ! Đức chết ngay tại chỗ. Khăm rú lên khóc, lẩm bẩm:

                - Rõ ràng nó nói: Khôông, khôông, khôông kia mà !

                2.
                Một Việt kiều bị cảnh sát Lào chận hỏi giấy tờ.

                - Anh tên gì ?

                - Sị Khôi ! (làm tình)

                - Cái gì ? Anh dỡn mặt đại diện chính quyền đấy à ?

                - Không, tên tôi là Sị Khôi thật mà !

                - Đưa giấy tờ ra coi!

                Anh ấy trưng giấy tờ : Tên họ anh ấy đúng là Sĩ Khôi họ Hoàng.

                - Ở xứ Lào mà bố mẹ anh cũng khéo đặt tên !

                Hàn Lệ Nhân

                (1) Theo RuNha, dactrung.com
                (2) Xào lại theo funnyhieu, tialia.com
                #23
                  Hàn Lệ Nhân 10.06.2006 01:10:57 (permalink)
                  Tản mạn qua đêm 3
                  Hàn Lệ Nhân


                  Tôi vẫn tự biết mình là mọt sách, xem đọc sách tương đương với ăn uống. Đọc nhiều quá, ứ quá nên để tự cứu mình tôi viết này viết nọ ra chẳng qua để trong đầu bớt lộn xộn, do đó chút gì tôi thể hiện được, qua con chữ qua âm thanh, hoàn toàn nhờ lòng khao khát xoá dần sự dốt nát mà thành. Và tôi cho đó là một trò chơi, một thú tiêu khiển như trăm thứ tiêu khiển khác, tất cả đều phải trả một cái giá nào đó. Chẳng hạn cái giá mà bản thân tôi phải trả cho trò chơi chữ nghĩa tóm gọn là hai chữ cô đơn, xưa cô đơn trước đèn trước xấp giấy nay cô đơn trước máy vi tính; đương nhiên không thể quên niềm thông cảm chịu thiệt thòi của vợ con. Song song là trong vùng tôi ở, cơ man bằng hữu đồng hương, đồng cảnh và tuyệt đại đa số là đồng đạo, quanh năm suốt tháng lao tâm lao lực vào mỗi thú tiêu khiển tiêu tao sảng khoái là luân phiên tổ chức hàng tuần - dù thứ bảy đó có nhằm ngày 30/04 như năm 2005 - và ngày lễ các buổi giao lưu văn hoá trên sàn nhảy - sau này thêm phần phụ diễn không kém sôi nổi là hoạt cảnh B52 - khi to khi nhỏ dưới nhiều nhân danh, nhiều nhóm nhiều hội, dẫu quay đi quẩn lại cũng co cụm ngần ấy con người, nhẵn mặt nhau cả. Khi thì giao lưu theo nhạc chết phối hợp với nhạc sống. Nay có thêm Karaoke. Dạ Vũ và B52 giao duyên thành nghệ thuật sống, thành bản sắc. Lâu ngày chày tháng cộng đồng đó đã khắc được dấu ấn thành tên "Cộng Đồng Dạ Vũ". Cái giá họ đã, đang và coi mòi sẽ trường kỳ trả đâu rẻ gì.

                  Bạn tôi làm nghề ca sĩ, nhạc công phòng trà, dạ vũ tại Paris không ít, người nào trên áp-phích cũng thuộc hạng "tài danh hàng đầu" trong kinh thành ánh sáng cả. Riêng mấy ông trùm tổ chức dạ vũ cấp làng đều là các huynh trưởng tôi quen thân từ trên 30 năm nay cho nên đôi khi tôi tự cho phép vô tư nêu thắc mắc "toàn là tài danh hàng đầu tại Paris sao chưa thấy người nào được Thúy Nga mời cộng tác ? Phải chăng tại vì bà Marie Tô chỉ rành Paris by Night mà chưa biết khai thác Paris by Day?".

                  Một chiều đi làm về bằng Métro, tình cờ tôi gặp một ca sĩ từ Paris về thăm cha mẹ ngụ chung một vùng ngoại ô với gia đình tôi. Ca sĩ nầy và tôi có mối thâm tình vì thuở bé từng ở trong lớp việt ngữ và các sinh hoạt văn nghệ thiếu nhi trong vùng do tôi hướng dẫn trong nhiều năm. Chú cháu lâu ngày gặp lại nên rù rì đủ thứ chuyện, trong đó có chuyện đi hát phong trà và đặc biệt hát cho các dạ vũ làng nói trên.

                  - Cháu đi hát thế mà cũng đã trên 10 năm. Đôi khi nhớ lại những cuối tuần học với chú vui quá là vui, ước chi thời gian cũng đơn giản như cái nút review trên máy vidéo.

                  - Trong lứa cháu, thoắt đấy mà nay đứa nào cũng đã nên cặp nên đôi, thành cha thành mẹ con nít cả rồi. Riêng phần cháu coi như nổi trội hơn cả, lừng danh từ Paris đến các tỉnh. Thỉnh thoảng đưa thím đi chợ Tàu, chú để ý áp-phích nào trong vùng mình cũng có tên cháu.

                  - Sao chẳng thấy chú thím bao giờ ?

                  - Năm thì mười hoạ và chẳng đặng đừng chú mới tạt qua trình diện một lúc, nghe bà con bắt đầu tranh tài Karaoke vài hiệp là trốn về. Phô trương văn hoá liền tù tì kiểu nầy không hạp với tạng chú, vả lại chú hay bị đi làm xa, một hai tuần mới về, oải lắm.

                  - Người ta bảo tại chú làm cao, cho lối tổ chức của họ là thực dụng.

                  - Đời nào. Họ trách khéo chú khư khư đứng ngoài vòng thì có. Không có mợ chợ vẫn đông. Hơn ai hết, chú công nhận nhảy đầm đã được đặt ngang mọi sinh hoạt văn hoá khác, nếu không muốn nói là cao bứt mọi sinh hoạt văn hoá khác. Nhảy đầm là hấp lực thống soái, thiếu nó mọi buổi họp mặt trong cộng đồng ta sẽ lèo tèo, èo uột.

                  - Cháu cũng nhận thấy vậy. Hèn chi chùa, đền nào cũng có dăm chi hội kinh tài "trước mua vui sau làm việc nghĩa". Mà họ tổ chức lia chia như thế tụi cháu mới có đất sống.

                  - Bao năm hát cho các dạ vũ làng cháu có thích không ?

                  - Hát nhảy đầm thì lấy gì mà thích chú. Họ có nghe mình hát đâu. Miễn là có tiếng trống thùng thình giữ nhịp cho họ là OK. Âm thanh càng lồng lộn càng OK. Bọn ca sĩ tụi cháu muốn gào lời lẽ kiểu nào cũng chẳng ai để ý.

                  - Vậy chuyện tập tành với ban nhạc thì sao ?

                  - Coi như không có. Chú thừa biết, ban nhạc và ca sĩ tụi cháu chuyên bắt chước theo băng đĩa trên thị trường nhất là nhạc Anh, nhạc Pháp cho nên bên nào cũng có sẵn cùng một répertoire gần giống nhau, chỉ cần nói tông cho ông đánh solo là xong. Chơi chung nhiều năm nên hai bên ăn rơ lắm. Hơn nữa chủ yếu là nhạc tua mà chú.

                  - Cháu đã ra cái CD nào chưa ?

                  - Có thì cháu đã gửi tặng chú rồi. Còn chú, sao chú không chịu phổ biến nhạc chú như người ta ?

                  - Đâu dễ dàng vậy. Chú là tép riu, ai thèm ngó tới. Chú soạn nhạc chỉ để tiêu khiển. Mà tiền đâu ? Tóm lại nhạc chú không hạp với sàn nhảy mà sàn nhảy cũng chẳng ưa gì nhạc chú.

                  - Chứ không phải tại chú khó tánh... làm cao à ?

                  - Làm gì có chuyện tự kiêu hảo đó. Cháu hơn chú ở chỗ biết du di để vươn lên, khẳng định mình.

                  - Chú khéo đùa. Hát theo băng đĩa, bắt chước thiên hạ thì khẳng định mình cái nỗi gì. Thế, nếu cháu muốn lấy mấy bản chú đã làm thành K7 lúc trước ra hát có được không ?

                  - Ấy ấy đừng, đừng có dại mà bể nồi cơm của cháu.

                  - Chẳng lẽ chú chịu phổ biến chùa trên Internet mãi sao ?

                  - Ừ, rõ ràng chuyện sáng tác của chú chỉ được đến thế, mà được như thế cũng đã quá vui rồi vì chú có mưu sinh với nhạc như cháu đâu.

                  - Chú nói vậy chứ nghề hát rong của cháu thật thụ là trầy da tróc vảy chú ơi, nhất là ca sĩ nữ tụi cháu phải khoe nhiều thứ khác lắm. Thương vay khóc mướn là câu chí lý, nhất là thương vay khóc mướn bằng tiếng Việt ở xứ người.

                  - Cháu định hát rong đến bao giờ ?

                  - Cháu mới bâm lại còn độc thân nên vẫn thích tiêu khiển bằng nghề phụng sự sàn nhảy thêm vài năm nữa, rồi tính sau. Biết đâu mai này cháu chẳng nối nghiệp các bác trong vùng làm bà bầu dạ vũ làng trong cộng đồng ta !

                  - Nếu được vậy chú cũng mừng, yên tâm nhắm mắt vì bản sắc đặc thù của cộng đồng ta tựu trung là nhảy đầm, cần và nên có người bảo tồn và phát huy cái bản sắc đặc thù đó...

                  Hàn Lệ Nhân
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.06.2006 17:45:57 bởi Hàn Lệ Nhân >
                  #24
                    Hải Triều Tiên Sinh 10.06.2006 15:32:15 (permalink)
                    "Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
                    Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm."

                    Cuộc sống chắc chắn phải cần tiền, phải cần áo cơm, và cuộc sống ở nơi đâu cũng vậy. Chia sẻ cùng Hàn Lệ Nhân, nhưng những gì cần biết và phải biết trong VNTQ chắc chắn ko phải là những điều gì mà HLN viết và trích ở đây, tôi ko cần, mọi người một số cần (nhưng họ sẽ đi tìm chỗ khác). Chắc HLN chưa từng về VN, đúng không. Tự do nơi đâu cũng có cả mà thôi, nhưng tự do theo kiểu nào mới là điều quan trọng. Tự do để mà hướng tới Chân - Thiện - Mỹ thì mới là tự do đúng đắn. Dĩ nhiên, cõi đời còn nhiều tranh chấp, còn nhiều khổ đau, HLN chắc cũng còn khổ đau, chẳng ai vẹn toàn cả. Giầu có thì sung sướng, đúng và sai pha trộn. Nếu không chê, xin mời HLN 1 vé khứ hồi về VN để nhìn tận mắt. OK? Liên lạc sau.
                    #25
                      Hàn Lệ Nhân 13.06.2006 17:11:33 (permalink)


                      Trích đoạn: Hải Triều

                      "Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
                      Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm."

                      Cuộc sống chắc chắn phải cần tiền, phải cần áo cơm, và cuộc sống ở nơi đâu cũng vậy. Chia sẻ cùng Hàn Lệ Nhân, nhưng những gì cần biết và phải biết trong VNTQ chắc chắn ko phải là những điều gì mà HLN viết và trích ở đây, tôi ko cần, mọi người một số cần (nhưng họ sẽ đi tìm chỗ khác). Chắc HLN chưa từng về VN, đúng không. Tự do nơi đâu cũng có cả mà thôi, nhưng tự do theo kiểu nào mới là điều quan trọng. Tự do để mà hướng tới Chân - Thiện - Mỹ thì mới là tự do đúng đắn. Dĩ nhiên, cõi đời còn nhiều tranh chấp, còn nhiều khổ đau, HLN chắc cũng còn khổ đau, chẳng ai vẹn toàn cả. Giầu có thì sung sướng, đúng và sai pha trộn. Nếu không chê, xin mời HLN 1 vé khứ hồi về VN để nhìn tận mắt. OK? Liên lạc sau.


                      Chào bạn Hải Triều,

                      Hai câu chữ ký được rút từ nguyên tác:

                      Rồi chiến cuộc, sau tháng năm nhuộm máu,
                      Đã lắng nghe tiếng đại bác sau cùng.
                      Trời tha phương, ôi sung sướng rỡ mừng
                      Như thuở bé Mẹ mua quà đầy tuổi.
                      Lòng hoan hỉ không phải vì đường lối,
                      Chủ nghĩa nao mà tận đáy lòng tôi :
                      Tôi xót thương Đất Mẹ luống nổi trôi,
                      Bao thế hệ chưa một giờ yên nghỉ.
                      Cuộc tương tàn, hai mươi năm rền rỉ,
                      Hỏi ai còn, ai mất, với ai đau ?
                      Rồi hôm nay khói súng đã bay cao,
                      Hỏi ai khóc, ai cười và ai đó ?
                      Ai sẽ là người dầm trong mưa gió,
                      Cùng Mẹ Việt Nam lượm xác con yêu ?
                      Và có ai, xin hỏi thêm một điều:
                      Thương dân Việt bằng đồng bào nước Việt ?
                      Tôi hoan hỉ vì chỉ mong tiêu diệt,
                      Bộ mặt chiến tranh, xoá bỏ chủ trương :
                      Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương ?
                      Chủ nghĩ nào hơn chủ nghĩ áo cơm ?

                      (Cuối Cùng Một Cuộc Chiến, Hàn Lệ Nhân - Paris,1975 )


                      Thưa bạn,

                      HLN hoàn toàn không có dĩ vãng VN, mối liên hệ giữa quê mẹ và HLN là do huyết thống và cái tên cúng cơm lẫn bút hiệu cũng do ông thân đặt cho, trước sau vẫn giữ nguyên – không thêm không bớt - dẫu đã nhập Pháp tịch từ 1986, nói gọn là "quê mẹ trong tôi chỉ là văn chương". Đến nay HLN đã có đúng 19 ngày lang thang trên đất mẹ: 14 ngày tại Sàigòn năm 1973 trước khi du học ; 5 ngày năm 2004 quanh miền Trung. Lời bạn nói "chắc HLN chưa từng về VN" là không sai, nhưng cũng không đúng hẳn vì có thì có (19 ngày) nhưng có mà như không, vì chưa có dịp về làng quê VN mà HLN đi đến đâu chỉ muốn tìm hiểu làng quê, phần đô thị thì ở VN hay ở 21 xứ HLN đã từng đi qua xét tổng thể – xin lỗi – đều rán rập khuôn theo mô hình Âu-Mỹ, riêng đối với HLN, chẳng hứng thú gì.

                      Tự do đích thực, dù đứng ở góc độ, cương vị nào, cũng không thể vượt lên trên hai chữ Trách Nhiệm: Tự Do trong trách nhiệm, nếu không, tự do đó là tự sát, là độc tài hoặc nô lệ.

                      Tranh chấp bằng tư tưởng, bằng lời lẽ, trong sâu thẳm, là nguồn lực của thăng hoa. Khổ đau là tứ bất tận của sáng tác. Hết khổ đau là ngưng ưu tư, ngưng sáng tác, là hết.

                      Bạn có nhã ý mời mình "về VN để nhìn tận mắt", HLN xin ghi nhận thiện ý của bạn. Có điều trong năm 2006 này, HLN đã lập chương trình du lịch Đông Nam Á, lần thứ 8, nhân kỷ niệm 30 năm ngày cưới và làng quê Bắc Việt là mục đích chính. Đủ duyên để được cụng ly với bạn trong dịp này đã quá vinh dự, xin miễn cho phần "vé khứ hồi". Kính, HLN.
                      #26
                        Hàn Lệ Nhân 18.06.2006 03:19:45 (permalink)
                        Xứ Lào: Nửa Trái Tim Tôi 1

                        Hàn Lệ Nhân





                        Tôi sinh ra và lớn lên tại Savannakhet, Trung Lào, cách thủ đô Vientiane khoảng 500 cs về hướng Nam. Từ thuở biết băn khoăn suy nghĩ, ngày lại ngày, tôi hít thở vui buồn dưới bóng Trường Sơn, bên khúc sông Cửu êm đềm thơ mộng, chảy ngang Savannakhet nơi mỗi buổi tà dương là mỗi bức tranh kỳ diệu. Hăm ba năm trường, ngoài tình thương đùm bọc của gia tộc, tôi sống giữa vòng ôm hồn hậu, chất phác của người bản xứ. Niềm hồn hậu và bản tánh chất phác đó, trong nhiều thập niên, đã bị nhiều ngoại kiều - trong đó có tôi - hiểu lầm đưa đến kết luận vu vơ gọi là sự quê mùa, lạc hậu ... !

                        Trước 1975, ở Lào nói chung, học sinh lớp nhất (nay là lớp 7), trường tư hay trường công, muốn học tiếp trung học đệ nhất cấp (lớp 6 đến lớp 9) và đệ nhị cấp (lớp 10 đến lớp 12) chương trình Pháp đều phải thi vào. Ngoại kiều chưa nhập Lào tịch đều phải chịu một hạn chế bất thành văn là cứ 100 người đậu thì ngoại kiều chỉ được 2%. Do đó hầu hết học sinh việt nói riêng đều chọn cách đi vòng, nghĩa là nhập tịch Lào. Thời đó tôi không hiểu do đâu song thân tôi nhất định không chịu cho tôi " đi vòng " dù hai cụ biết hai năm rõ mười tôi chỉ thuộc típ " cậu ấm " chơi phá giỏi dang, học hành làng xàng !

                        Bây giờ tôi đã hiểu, hai thân tôi tiềm tàng cái gọi là Tự Tôn Văn Hoá ! Mà tự tôn văn hoá, ai cũng biết, cách tự tôn dân tộc chỉ độ nửa sợi tóc ! Sở dĩ bấy giờ hai cụ tôi có lối " nhìn xuống " đối với người Lào cũng như lối nhìn của thực dân, đế quốc đối với người Việt, một là bởi sự hiểu lầm vai trò đích thực của mấy chữ Văn Minh và Văn Hoá ; hai là bởi người tự tôn đều cho rằng chỉ Lẽ Sống của mình là đúng, là cao. Đúng và cao ở đây ngụ ý hợp với ý thích của người tự tôn, mặc dù kẻ bị xem là "thiếu văn minh, kém văn hoá" vốn đã sẵn ý thích từ rất lâu đời của họ. Kết quả, người tự tôn manh mún áp đặt ý thích của mình lên người bản xứ, mặc dù nơi đây cuộc sống ít xáo trộn, ít chênh lệch ; không gây cho con người những khủng hoảng trầm kha, những căn bệnh quái gỡ như thực trạng trong xã hội " văn minh đúng, văn hoá cao". Tuy nhiên, như thế không phải người "văn minh sai, văn hoá thấp" chê " cái đúng, cái cao " trên kia đâu, cũng không có nghĩa họ luôn cố định, bất biến. Bằng cớ là ngày nay các bộ tộc tận hang cùng, rừng thẳm đều có ít nhiều sự hiện diện của " văn minh đúng, văn hoá cao " tức là có sự thay đổi. Nhưng, sự thay đổi - nếu có - phải nằm trong đặc tánh của địa phương đó tức là " mọi ảnh hưởng bên ngoài chỉ du nhập trong chiều hướng thuận tiện của tánh chất cá biệt của nó. Vì thế mà tánh chất cá biệt dù bị ảnh hưởng đến đâu cũng không bị đồng hoá ". Hoà đồng: Có. Hoà tan: Không. Lấy trường hợp người " văn minh đúng, văn hoá cao " - với hậu ý trục lợi hơn là nhân bản - định cư, dựng nhà, lập làng cho thổ dân theo kiểu hiện đại, cấp phát cho họ những nhu yếu mới mẻ. Sau một thời gian chung đụng với " văn minh ", thổ dân đã làm nhíu mày những nhà hảo tâm kia. Nhà dựng cho họ, họ ra rừng ở. Giường tặng cho họ, họ đạp gãy làm củi đốt để được ngủ dưới đất... Rốt cuộc thổ dân chỉ còn giữ lại cái dao, cái búa, cái kim khâu ... và âm thầm khước từ mọi thứ khác.

                        Từ sự kiện trên tôi tạm hiểu rằng văn minh chỉ là khoa học mà văn hoá là đạo học. Khoa học lo cho cuộc sống. Mục đích của nó không ngoài việc nâng cao mức sống vật chất của con người. Đạo học tôi hiểu ở đây không đồng nghĩa với ý thức tín ngưỡng, tôn giáo mà chỉ là tâm hồn, bản chất của con người, là Lẽ Sống của con người. Khoa học hay kỹ thuật học và đạo học tuy được phân chia ra nhiều nhánh nhiều ngành song quay đi quẩn lại cũng chỉ nằm trong hai mục đích mưu cầu sự sống và lẽ sống cho con người.

                        Thực trạng các nơi " văn minh đúng, văn hoá cao " mà tôi đã có dịp viếng thăm dạy tôi điều nầy: Khi phát triển khoa học tiến nhanh hơn đạo học thì con người dễ đẩy nhau vào vòng xâu xé, xa rời lẽ sống uyên nguyên. Ngược lại, khi nền đạo học tiến mau hơn khoa học, con người dễ đưa nhau vào vòng lệ thuộc thần linh, lệ thuộc tín ngưỡng (giáo điều), làm cho xã hội con người cô đọng, thiếu ý thức cải tạo, tự biến thành thiêu thân cho các chuyên viên bán ghế trên thiên đàng, bán chỗ cõi tịnh như.

                        Nếu thu hẹp ý trên vào từng cá nhân thì lời cụ Trần Trọng Kim, cách nay hơn nửa thế kỷ trong cuốn Đường Thi, quả không có gì lầm lẫn: "Trong người ta bao giờ cũng có hai phần: Một phần Người và một phần Vật cùng đi đôi với nhau, điều hoà với nhau. Hể để phần Người át phần Vật quá độ thì người không đủ sức làm việc ; hể để phần Vật át phần Người quá độ thì hành vi của ta thành ra đê hạ, mất cả phẩm giá".

                        Tôi chưa đủ kiến thức để lạm bàn, bóc tách thế nào là Văn Minh, thế nào là Văn Hoá. Với tôi, hai thứ nầy tôi ví như quả trứng gà và con gà. Song tôi đã tự đặt câu hỏi: Văn hoá là gì ? Sách vở đã trả lời cho tôi: " theo nghĩa rộng rãi, văn hoá là tinh hoa tích lũy của nếp sống thể hiện qua cách thức, cảm nghĩ và thực hành của mỗi dân tộc trong những lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, giao tế, phong tục ...". Nếu hiểu theo nghĩa trên thì một người Mẹ quê mù chữ vẫn là người có văn hoá vì bà Mẹ ru con mang trong mình những kiến thức, những lối sống, những suy tư, cách thức ru con, tuy mộc mạc nhưng sâu xa, văn vẻ và có tính cách dân tộc (ca dao, tục ngữ, lời thánh hiền, chuyện cổ tích). Và như thế, ta dựa vào cái gì để luận chuyện văn minh nhiều, văn minh ít ; có hay không có văn hoá cũng như văn hoá cao, văn hoá thấp ? Mỗi chủng tộc có mỗi nền văn minh, văn hoá là do không cùng hoàn cảnh địa dư, kiến trúc xã hội, quan niệm nhân sinh, cảm xúc lãnh hội, phong tục tập quán...

                        Do đó, sau 30 năm tạm dung trên đất Pháp và đã có duyên may đặt chân lên nhiều nước có tiếng là văn minh, tiên tiến trên thế giới, tôi nghiệm xét lại sự ngộ nhận ấu trĩ của cá nhân tôi trong loạt bài này.

                        Niềm hồn hậu và bản tánh dung dị của các bộ tộc Lào không phải khi không mà có, không phải vô tình mà có, mà phần lớn chính là kết quả của cả một quá trình tôi luyện lâu dài, qua nhiều thế kỷ, dưới ánh sáng của đạo Phật đấy, các bạn ơi. Niềm hồn hậu và bản tánh chất phác của họ, trên phương diện xã hội, phản ánh quan niệm bất tranh mà thắng, bất luận mà đắc nhân tâm. Cứ lấy ví dụ khi ta bàn về một dân tộc khác quanh ta: Dân tộc Khmer làm ta nghĩ ngay đến tệ nạn Cáp Duồn, đến thảm trạng Khmer Đỏ dưới thời Polpot ; dân tộc Xiêm La cũng thế, cọng thêm tánh " hồi đao " (1) ; dân tộc Tàu làm ta nghi ngại, ngay ngáy lo sợ tuyệt chiêu " tằm ăn dâu, vết dầu loang " ... Tóm lại, khi nghĩ đến các dân tộc hàm hồ trích dẫn, trên phương diện cá nhân, hoặc ta có ngay ác cảm hoặc không mong được kết thân, còn trên phương diện quốc gia, nếu có kết thân gần gũi thì cũng chỉ là dạng đãi bôi chính trị, lợi nhuận bán buôn. Riêng dân tộc Lào nói chung, khi ta nghĩ đến họ trên cả hai phương diện, bỏ qua sự ngộ nhận, có ấn tượng xấu lưu-tập nào tự động nẩy ra không ? Thân kính mời các bạn tự trả lời.

                        Nếu chưa có dịp sống ít lâu trên xứ Lào, tôi thành thật mời bạn đi thăm một chuyến. Có điều phải nói ngay đây, nếu mục đích của bạn khi viếng đất nước nầy là để tìm tiện nghi theo tiêu chuẩn bốn năm sao phương Tây, như bải tắm như mơ, kỳ quan thế giới, kỳ nữ rẽ đẹp ... Tôi khuyên bạn đừng đi vì chỉ uổng công, hao bạc lại bực mình rồi đâm ra ngộ nhận. Ngược lại, bạn sẽ thấy: Từ thủ đô đến khoéng (tỉnh), nơi nào người bản xứ ( kể cả tướng tá uy quyền) cũng rút về sống gần thiên nhiên, thoải mái ngoài đồng ngoài ruộng trong những căn nhà sàn cổ truyền hay cách tân. Hầu như họ " bỏ mặc " phố xá kiến trúc tây phương cho ngoại kiều.

                        Tôi may mắn có dịp chu du từ Nam chí Bắc xứ Lào, nay xin sơ lược theo cảm quan riêng, vài địa danh tôi đã đặt chân tới và yêu thích, giới thiệu với các bạn cùng lúc coi như tự đưa mình về lại nơi chốn cũ thêm một lần.

                        Có ba phương tiện di chuyển để đến bất cứ nơi nào trên xứ Lào. Thông thường bạn dùng máy bay thì đương nhiên bạn phải đáp xuống thủ đô Vientiane. Từ Việt Nam bạn có thể qua Lào bằng xe đò hay xe nhà. Từ Thái Lan, ngoài hai phương tiện kể trên còn có thuyền, đò đưa bạn vào đất Lào.

                        1. Vientiane

                        Thủ đô Vientiane có hai sân bay kề sát bên nhau trong địa phận Wattay, cách trung tâm thành phố độ 4 cây số. Một quốc tế. Một nội địa. Thủ tục nhập cảnh rất đơn giản, nhanh chóng và sẽ không có cảnh mè nheo, cố ý làm khó vòi vấn đề đầu tiên trong thủ tục thị thực visa, kiểm tra hành lý.

                        Vientiane có đến hai tên: Vientiane-thủ đô và Vientiane-thị trấn. Mộ-bi thời Sai Fong đã chứng mình địa phận Vientiane, xưa, vốn thuộc đế quốc Khmer và sử biên niên của Lào có ghi vua Fa Ngum đã đánh chiếm hai vùng đất nầy vốn kề nhau, cai quản bởi hai ông hoàng. Vientiane trở thành thủ đô Vương Quốc Lào từ 1563 dưới triều vua Setthathirat. Cả hai Vientiane gộp lại rộng 19.837 cs vuông với dân số 1.066.600 người (2004). Chia ra bốn khu chính: Chanthaboury và Saysettha là trung tâm ; Sikhottabong phía Tây và Sisattanak phía Nam. Chính vua Setthathirat đã cho xây dựng cảnh quan That Luang với ngôi chùa và đại tháp cùng tên (1566) và Chùa Phra keo (1565), nổi danh cho đến ngày nay. Xứ Lào là xứ Chùa. Tổng cộng Lào có 1.400 ngôi chùa. Do đó, đến Vientaine bạn nên viếng thăm mấy cảnh chùa (Vat) nổi tiếng như cảnh quan That Luang và Chùa Phra Keo nói trên, Chùa Ông Tự, Chùa Sí Mương, Chùa Sisaket, Suốn Xiêng Khuôn (tục gọi là Suốn Phụt tức Vườn Chư Phật), quần thể hàng trăm bức tượng đúc theo Phật thoại, trong vùng Thà-Đừa, cách Vientiane khoảng 25 cs, gần cầu Hữu Nghị Lào-Thái. Ở Vientiane có một ngôi chùa Việt tên Bàng Long, khá nguy nga. Từ chợ sáng trên đại lộ Lan Xang, bạn đã thấy sừng sửng đài Anou Savary (đài chiến sĩ vô danh), sau 1975 được đổi tên thành Patousay (Khải Hoàn Môn), toạ lạc giữa bùng binh giới ranh phố Vientiane và khu vực That Luang. Đài Anou Savary được tạo dựng từ 1958, phần dưới và ngoài mô phỏng theo đài Arc de Triumphe tại Paris, phần trên và trong gồm những nét kiến trúc, phù điêu đặc thù Lào. Đứng trên tầng cao nhất của Anou Savary ta có thể thấy toàn diện cảnh quan Vientiane.

                        Con đường huyết mạch ở Vientiane là đường Sí Mương-Samsenthay, sầm uất trù phú, dấu ấn kiến trúc còn lại của thực dân Pháp chạy xuyên suốt từ khu That Khao lên trung tâm Ô-Điên - SengLao, ra đến vùng Si Khay - Wattay, rồi bổng dưng ngừng lại, nhường cho kiến trúc cổ truyền Lào: Nhà sàn. Đúng là thực dân Pháp chỉ " khai hoá " thành công các phố thị Lào và đã thất bại hoàn toàn đối với hương thôn xứ nầy.

                        Vientiane nằm thoai thoải ven sông Mêkông. Bên kia bờ là tỉnh NongKhai (Thái Lan). Khúc sông nầy, năm 1994 chính phủ Úc đã tài trợ xây chiếc cầu Hữu Nghị Lào-Thái (Lao-Thai Friendship Bridge) dài 1240m. Bờ sông Vientiane chưa được khai thác đúng mức, chủ yếu mới ở mặt hàng ăn, quán cóc. Quán cóc ven bờ sông Vientiane rất đa dạng về thực phẩm, bạn có thể gọi bất cứ món ăn Lào nào, lạ miệng, ngon mà giá lại quá phải chăng so với Dollar hay Euro. Mỗi ngày đưa nhau đi viếng cảnh thủ đô, chân cẳng rả rời, chạng vạng ra bờ sông gọi vài chai bia Lào (Beer Lao) hay vài trái dừa nướng ướp lạnh, gắp thịt gà nướng, đĩa Tằm Mạc Hùng (nộm đu đủ), đĩa lạp bò chín hay tái (gỏi thịt), tô canh chua gà hay cá, típ xôi trắng dẽo hay nếp lam nướng trong ống tre... Gió sông hây hẩy, trời chiều bảng lảng ... Bạn bè cũ, kỷ niệm xưa, chuyện trên trời dưới đất. Đâu mất cả rồi những phiền toái ngay ngáy mang theo từ các xã hội " văn minh đúng, văn hoá cao" ?

                        Có bạn sẽ thắc mắc: Còn khi phố đã lên đèn, ở Vientiane có mục gì ? Ở Lào cũng giống hệt ở Việt Nam, hồi mới " chiến thắng ", chuyện ba biếc tuyệt đối bị cấm, chuyện chị em ta là tội lỗi đối với cách mạng ; song khi men chiến thắng tiêu hết nồng độ, đâu lại hoàn đấy, địa điểm du hí mọc lên như nấm, đa dạng, rẻ và hiện đại hơn thời "đồi trụy" gấp nhiều lần.

                        Cộng đồng người Việt có mặt tại Vientiane từ những năm 1930, sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hiện có khoảng 10.000 người (1%, nguồn: Sứ quán Lào tại Pháp, 2004) sống rãi trong 13 phường như Thạt Kháo, Sí Mương, Khoua Đinh, Sa La Đeng, Ban Phai, Đôông Pa Lan, Sái Lôm ... Nghề chính: Buôn bán và xây cất. Nhìn chung người mình thành công trên phương diện thương mại, kinh tế. Có Hội Người Việt tại Vientiane, trực thuộc đại sứ quán XHCNVN, hiện nay do bà chị Trần Thị Huệ (Mayvanh Phouleuanghong) điều hành với sự khích lệ, phụ giúp cật lực của chồng là ông anh Đồng (Somphou Phouleuanghong). Trước 1975, Vientiane đã có nhiều ngôi trường việt như Nguyễn Du, Hy Vọng, Việt Anh ... Hiện nay Hội Người Việt tại Vientiane đang khởi công một dự án dài hơi, đồ sộ: Xây nguyên một khuôn viên trường học cho người việt trên một chu vi đất 10 ha do chính phủ Lào biếu, cách Vientiane 25cs.

                        Nói đến thủ đô Vientiane không thể không nhắc tới Lễ Hội hay Hội Chợ That Luang ( Boun That Luang).

                        Cảnh quan That Luang (Đại Tháp, tên chữ nguyên văn là Phra Chedi Lokatiounlamani = Phrả chê đi lô ka chun la ma ni, tạm dịch là Hoàn Vũ Đại Đỉnh Phật Tích) toạ lạc cách Vientiane 3 cs, về hướng Đông, được tôn tạo từ 1566 dưới triều vua Setthathirat. Theo truyền thuyết, trong tháp nầy có lưu giữ xá lợi của Đức Phật là một sợi tóc và rất nhiều châu báu. That Luang gồm tháp chính cao 45 thước, bao quanh là các tháp phụ, sơn thếp vàng rực rỡ, uy nghiêm dưới trời xanh trong.

                        Người Lào gọi lễ hội là Bun. Bun có nghĩa là phước, làm Bun = làm phước để được phước. Lễ Hội That Luang được tổ chức hàng năm vào ngày 13 đến 15 tháng 12 lịch Lào ( tháng 11 dl), gồm phần Lễ và phần Hội.

                        Phần Lễ trong Boun That Luang

                        Lễ là nghi thức tế tự do chính con người tưởng tượng ra để giao cảm với thần linh. Ngoài tính cách tín ngưỡng dân gian như nghi thức rước Phí Mương ( thần bảo hộ tỉnh) từ Chùa Sí Mương đến That Luang, lễ trong Boun That Luang còn mang ý nghĩa chính trị của Một Ngày Hội Thề. Từ thời vua Fa Ngum (thế kỷ XIV) cho đến 1975, lễ nầy do quốc vương Lào làm chủ tế. Trong lễ Hội Thề người ta thấy có mặt đầy đủ chức sắc, đại biểu, tỉnh mường, làng bản trưởng được mời về bàn việc nước...và mỗi vị có một cái kiệu bằng sáp ong (hó phợng), xếp thành hàng ngang trước nơi hành lễ. Nhà sư chủ trì cầm một cuộn dây bằng sợi vải trắng đi vòng nối các tỉnh mường, làng bản lại với nhau. Biểu tượng nầy phản ánh sự cam kết trung thành, thống nhất, đoàn kết quốc gia, cấm chia rẽ.

                        Phần Hội trong Boun That Luang

                        Câu cửa miệng của nguời Lào là " khôn Lao mặc muồn " ( người Lào thích vui) được thể hiện rõ nét trong phần hội. Hội chủ yếu là vui chơi, giải trí dưới nhiều hình thức từ ẩm thực đến văn nghệ, văn hoá, thể thao, mua bán, triển lãm. Đặc biệt Boun That Luang cũng là thời điểm của Hội Chợ triển lãm tầm vóc quốc tế, kéo dài ba ngày, ba đêm. Việt Nam, trước và sau 1975 đều có gian hàng triển lãm hàng hoá đặc sản trong dịp nầy kèm theo các bộ môn văn nghệ rất được bà con việt kiều yêu thích. Những tên tuổi như Thanh Thúy, Trang Thanh Lan ... Duy Khánh, Elvis Phương ... đều từng có mặt nhiều lần trong Boun That Luang trong phái đoàn Tâm Lý Chiến thời VNCH.

                        Xứ Lào có một nguồn vốn văn nghệ dân gian, cổ truyền phong phú, rực rỡ. Trong dịp nầy, mọi thể loại tiêu biểu từ Lăm Lưởng (hát truyện thơ), I Kề ( giống cải lương) ; đến vô số hình thức hò, ngâm như khắp, xởng, cạp, còn ...; đối đáp giao duyên như lăm (hò) vạy, lăm loòng, lăm tơi ; các loại lăm có tính địa phương như lăm Sa La Văn, lăm Si Phăn Đon (Nam Lào), lăm Tằng Vạy ( Trung lào), vũ điệu quốc gia như LamVôông, Natasine ... đều được phô diễn, hài hoà vui nhộn trong tiếng khèn, tiếng la-nạt (bộ đàn gõ), tiếng khui (sáo), tiếng Koong (trống) ... (2)

                        " Ti Khi " là một trò chơi không có không được trong Boun That Luang, nó vừa có tính cách thể thao vừa phản ánh nội dung tín ngưỡng. Ti Khi là lối chơi đánh cù trên sân cỏ, nguồn gốc của môn Polo rất thịnh hành tại Ấn Độ và Anh, với chút khác biệt là người chơi Polo ngồi trên lưng ngựa, còn người chơi Ti Khi thì dùng cặp giò. Trước 1975, vị khán giả đặc biệt là quốc vương Lào, nay là chủ tịch nước.

                        Ti Khi được chia ra hai phe. Phe áo đỏ tượng trưng cho quan chức (nay là cán bộ cao cấp). Phe áo trắng hay phe cởi trần là nông dân. Ti Khi không có luật lệ, không có trọng tài. Một trận đấu được chia làm 3 hồi, mỗi hồi 20-30 phút. Mục đích của đôi bên là làm thế nào dùng cù đánh văng trái banh gỗ (loukkhi) cho quá làn ranh nửa phần sân bên kia. Sau ba hồi, phe nào có điểm cao là phe thắng. Theo tín ngưỡng dân gian, nếu năm nào phe áo đỏ ( phe quan chức) thắng phe nông dân thì đất nước sẽ khó được yên, nhân dân sẽ bị khổ. Do đó, hầu như năm nào phe áo trắng hay phe cởi trần cũng thắng cả. Ngoài ra, Ti Khi còn có thêm ý nghĩa cầu nắng vì vào tháng nầy việc nông tang, đồng áng đã xong.


                        Hàn Lệ Nhân

                        Kỳ tới: LuangPrabang

                        Chú thích:

                        (1) Dĩ nhiên là ta không quên khía cạnh nhân bản tích cực của chính phủ Thái Lan trong thảm kịch tỵ nạn Việt-Miên-Lào từ 30/04/1975.

                        (2) Nhạc điệu dân ca Lào rất phong phú, mỗi miền mỗi điệu, mỗi sắc thái: Khạp-thun ( LuangPrabang), Kham-ngum (Vientiane), Lăm Phon-Sà-Vắn (Savannakhet), Lăm Ma-Há-Xay (Khammouane)... Sẽ có một bài riêng cho đề tài nầy.
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.06.2006 03:59:45 bởi Hàn Lệ Nhân >
                        #27
                          Hàn Lệ Nhân 21.06.2006 16:34:04 (permalink)
                          Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 2
                          Hàn Lệ Nhân




                          2. LuangPrabang

                          Việt Nam có Huế, xứ Lào có LuangPrabang. Cả hai đều là cố đô đồng thời được Unesco công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cố đô Huế năm 1993. Cố đô LuangPrabang năm 1995. LuangPrabang là không gian đón nhiều lượt khách du lịch nhất trong xứ Lào.

                          LuangPrabang thuộc vùng núi miệt trung bắc xứ Lào, độ cao khoảng 700m, nằm giữa ngã ba sông MêKông và sông Khan, nối liền thủ đô Vientiane bằng quốc lộ 13, cách nhau 320cs. Quần thể LuangPrabang duỗi mình trên một doi đất có sông, có suối, có núi. Diện tích LuangPrabang và vùng phụ cận được 16.875cs vuông. Dân số 408.800 người (8,24% tổng số quốc dân, 2004), bao gồm 12 bộ tộc : Lao thơng (người Lào miệt trung du): 46% ; Lao Lùm (người Lào miệt đồng bằng): 40% và Lao Súng (người Lào miền núi): 14%. Nội thành LuangPrabang có 20.000 người. Sau 1975, phần lớn ngoại kiều như người việt còn trụ lại Lào đều tản về thủ đô Vientiane.

                          Xưa, LuangPrabang có tên là Mương Xua, kế là Xiêng Đôồng-Xiêng Thoong và LuangPrabang từ thời vua Fa Ngum (thế kỷ XIV) cho đến ngày nay. LuangPrabang có vị thế thủ đô xứ Lào cho tới khi vua Setthathirat, vì vấn đề địa lý chính trị, quyết định dời đô xuống Vientiane vào năm 1560. LuangPrabang trở lại vị thế đế đô từ 1947-1975.

                          Từ khi lập quốc LuangPrabang đã bị ngoại xâm tàn phá, cướp bóc nhiều lần. 1479: bởi bộ tộc Thái Đằm (Thái đen) ; 1525: bởi Việt Nam, triều Lê Chiêu Tông ; 1764: bởi Miến Điện ; 1887: bởi giặc Cờ Đen (Tàu).

                          Truyền rằng tượng Phật Prabang do lão tăng Phra Chounla Nark Théra và 500 vị sư khác sùng tạo bằng vàng (có trộn đồng đỏ và bạc để tăng thêm độ bền và sự bóng loáng) quyên góp được từ tín hữu tại đảo Sri-Lanka từ năm 107 trước CN. Prabang là một tượng Phật đứng, hai tay đưa ra phía trước, hơi gấp lại ở khoảng bán thân. Nặng 48 kg, cao 83 cm.

                          Vào thế kỷ thứ IX, vua Sri-Lanka tặng tượng Prabang cho vua Khmer - Indravarman, người cho xây Angkor Wat. Đến năm 1355, vua Khmer Paramantha Khempraja lại tặng Prabang cho con rể người lào là Chao Fa Ngum (1316-1373), sau khi ông nầy mang quân về xoá triều Mương Xua, thành công năm 1353. Vua Fa Ngum đổi tên kinh đô Xiêng Đôồng-Xiêng Thoong thành đế đô Luang Prabang, lấy tượng Prabang làm biểu tượng quốc gia, xây chùa Pasaman, thờ Prabang như bảo vật trấn quốc. Hiện nay bức tượng trấn quốc Prabang được an vị trong hoàng cung, nay là Bảo Tàng Quốc Gia, tại Luang Prabang. Đương nhiên đây chỉ là bức tượng nhái (copy), bức thật được cất giữ một nơi bí mật khác.

                          LuangPrabang gồm 3 chữ ghép lại. Luang (đọc là luống, do vua Fa Ngum thêm vào) = Lớn ; Pra = Phật ; Bang = tụ phúc, cọng đức. Luang Prabang có thể hiểu là tượng Phật lớn được sùng tạo từ công đức của nhiều người, tạm dịch là Tụ Đức Đại Phật Tượng .

                          Lần đầu tôi đến LuangPrabang vào năm 1972, theo lời mời của một cô bạn tâm thư qua mục Nhịp Cầu Tri Âm trên tờ Phụ Nữ Diễn Đàn. Lần sau vào mùa Tết Tân Tỵ, 2001.

                          Nghe bảo ngày mốt tôi sẽ đi Mương Luang (LuangPrabang) bằng xe đò, vợ chồng mấy người bạn đều giật nẫy lên, cản và khuyên tôi nên lấy máy bay cho tiện vì bấy giờ khúc đường Vientiane-LuangPrabang vừa xấu vừa kém an ninh, thường xuyên bị đột kích bởi nhóm ly khai Hmông. Tôi nói " đi bằng máy bay thì vù độ 1 tiếng là tới nơi, bao nhiêu cảnh đẹp, người các bộ tộc ven đường, ven núi ai ngắm, ai quay dùm tớ ?". Nói vậy nhưng rồi tôi cũng phải nghe lời các bạn, đi bằng máy bay. Ông bạn Pa-Thương (Quyền) bốc điện thoại cái vèo là đâu vào đấy, chẳng là nó có ông em cột chèo người Lào làm chủ một nhà khách (Guest House) ở LuangPrabang, nay qua lời nó tán, cậu em nầy tự nguyện làm hướng đạo cho tôi luôn. Từ máy bay nhìn xuống, LuangPrabang xanh ngát, chập chùng tuyệt đẹp.Sân bay nhỏ, thường. Nhân viên nhập cảnh hầu hết là người Kh'mú và người Hmông. Đón tôi về nhà xong, cậu em KhamĐy hỏi lịch trình của tôi như thế nào trong mấy ngày viếng cố đô. Kỷ niệm về cố đô trong tôi sau bao nhiêu nước chảy qua cầu đều phai nhạt, duy hình ảnh cô bạn nhịp cầu tri âm ngày nào thì vẫn còn nguyên. Do đó, việc đầu tiên tôi nhờ cậu ta là đưa tôi tới ngay địa chỉ nhà cô ấy gần khu chùa Vixun. Cảnh cũ còn đây, bạn xưa đâu tá ?

                          Phố xá LuangPrabang vẫn trầm mặc, gọn gàng, vương giả. Đâu đâu cũng thấy du khách da trắng, nhìn chung dạng ba lô chiếm đa số. Không biết ông bạn Pa-Thương dặn dò thế nào mà tối đầu tiên đó KhamĐy không hỏi ý kiến tôi, đưa ngay tới một nhà hàng Lào, gần hoàng cung cũ, có giàn nhạc cổ truyền Natasine. 80% khách là dân da trắng. Một bữa ăn tối tuyệt vời. Trở về nhà, KhamĐy bảo tôi sáng mai lúc 6 giờ sẽ có buổi Tắc-Bạt (khất thực) dọc đường, dưới chân Phou-Si và thòng thêm câu: anh dậy nổi không ? Tôi cười.

                          Tôi mò dậy lúc 5 giờ. Len lén vác camera đi bộ ra ngay chân cầu thang lên đồi Phou-Si. Trời còn tranh tối tranh sáng. Nửa muốn leo cầu thang lên đỉnh nhưng lại e trễ giờ quay phim buổi khất thực. Bấm bụng đi lòng vòng. Hương Champa (hoa sứ / hoa đại) thoang thoảng trong không gian tinh khiết. Nam nữ tín hữu đã bắt đầu xuất hiện, quỳ trên lề đường Sisavang Vong, trên tay mỗi người đều có một hai típ xôi, một cái khánh (ô) bạc đầy thức ăn. Đoàn tăng lữ Theravada áo cam chân trần có đến 50/60 người nối đuôi nhau, yên lặng đi ngang qua hàng tín hữu đang cung kính nâng khánh bạc lên ngang trán. Mỗi vị sư khi ngừng trước mặt một tín hữu, mở nắp bình bát ra, tín hữu bốc một vắt xôi kèm chút thức ăn, vái một cái rồi bỏ tất cả vào trong bình bát. Hoạt cảnh khất thực kéo dài trong thanh lặng đến khoảng 6 giờ 30 thì dứt. Phố xá bắt đầu lao xao. Vừa lúc Khamdy ra tìm.

                          Điểm tâm nhẹ trong một quán café bên cạnh Phou Si, xong tôi đưa cho KhamĐy tên các địa danh tôi muốn đến, tùy cậu ta sắp xếp thời gian. KhamĐy định về lấy xe hơi đưa tôi đi, tôi không chịu, tôi bảo chỉ có hai người, tôi khoái đi bằng xe gắn máy, gọn tiện hơn nhiều. Gửi xe với quán café. Chúng tôi leo lên Phou Si.

                          A. Cảnh quan từ đỉnh Phou Si

                          Phou Si (Núi Màu) là một ngọn đồi hay núi nhỏ rộng 250m, dài 1.000m và cao 80m. Trên đỉnh Phou Si có That Chom Si (tháp trên đỉnh núi màu, cao 20m). Muốn lên viếng cảnh Phou Si ta phải leo 329 bực thang bằng gạch đỏ, tráng xi măng, sơn trắng. Có mấy trạm nghỉ chân. Hai bên cầu thang phần dưới đất là hai tượng rồng Lào đúc, chầu hai bên rất linh động, dài trên dưới 10m với hàng trăm gốc Champa cổ thụ trên trăm năm tuổi ; thân, cành sần sùi kỳ quái, có gốc to đến 2 người ôm. Thời gian tôi có mặt nhằm tháng hai, hoa tuy ít nhưng hương vẫn ngát. Tháp được dựng từ 1804 dưới triều vua Anourout, Unesco trùng tu lần sau cùng năm 1994, là biểu tượng và trung tâm văn hoá, tín ngưỡng của cố đô LuangPrabang. Hiện nay khuôn viên núi Phou-Si còn lại 5 ngôi chùa. Toàn cảnh trên Phou Si thật cổ kính, thanh thoát ẩn hiện giữa rừng hoa đại. Từ đây dõi mắt, tôi thấy từ xa dòng Nam Khan uốn khúc lặng lờ dưới ánh sương mai, hai bên bờ là màu xanh của các ô vườn hoa trái, rau cỏ, chấm phá dăm bóng người lom khom cắt hái hay qua lại tưới nước. Đảo mắt qua, là cả khuôn viên hoàng cung rộng lớn, vườn thượng uyển vẫn đẹp, trăm hoa vẫn khoe sắc. Bức tượng đồng vua Sisavang Vong vẫn uy nghi đứng giữa trời, lặng nhìn bể dâu dâu bể... Kéo ống kính Camera lại gần, tôi thấy tấm bảng trên cổng vào, có chút thay đổi: Hoàng Cung Vương Quốc Lào nay là Bảo Tàng Viện Quốc Gia CHDCND Lào.

                          Ngoài ra, ta còn thấy gần xa rất nhiều mái chùa như bọc quanh lấy LuangPrabang: Wat Aham, nơi có Hó Phí Khôn (miếu thần hộ trì LuangPrabang và là nơi cất giữ các mặt nạ Pu Nhơ-Nha Nhơ, biễu tượng tổ tiên người Lào) Wat Mày (Chùa Mới, nơi ở của Phra Sangkharath, tăng thống Phật giáo Lào), Wat Vixun ... LuangPrabang có 36 ngôi chùa.

                          Dừng chân ở góc hướng tây, phóng mắt qua bên kia bờ Mêkông, tôi thấy một ngọn núi có hình thể một người đàn bà nằm quay lưng lại, hỏi KhamĐy, cậu giải thích đó là Phou Nang ( Núi Nàng), cách đó không xa là Phou Thao (Núi Chàng), dưới là bản Xiêng Men. Mốt em sẽ đưa anh qua đó. KhamĐy nói tiếp " bây giờ em đưa anh đi tham quan cảnh Wat Xiêng Thoong, coi kỹ chùa này thôi, mấy chùa khác em nghĩ không cần, sau đó ta đi Bản Phanôm. Ta phải quay lại, lên Phou Si cho kịp giờ thưởng thức cảnh ráng chiều rơi trên Mương Luang để anh còn tức cảnh làm thơ hoài niệm cái cô nhịp cầu tri âm nào đó ... Mai ta dành trọn ngày đi Thác Kuang Sí và Thặm Tìng.

                          B. Wat Xiêng Thoong

                          Khuôn viên Chùa Xiêng Thoong nằm ở bán đảo hình thành bởi ngã ba sông Mêkông và dòng Nam Khan. Được sùng tạo dưới triều vua Setthathirat năm 1559-1560. Là ngôi chùa đẹp và quan trọng nhất của LuangPrabang với lối kiến trúc đặc thù Lào, mái cong cong buông xuống gần mặt đất. Wat Xiêng Thoong là ngôi chùa chính bao quanh là những miếu đường nhỏ có cùng một lối kiến trúc, hợp thành một cảnh quan tuyệt mỹ. Từ ngoài vào trong, trên các tường ta thấy cơ man phù điêu, điêu khắc, chạm trỗ công phu, sắc sảo nội dung dựa theo phật tích. Nội thất của Wat Xiêng Thoong phải kể là tuyệt tác. Mỗi miếu đường cũng vậy.

                          Mỗi năm, vào dịp Pimay Lao ( Tết Lào) mọi chức sắc trong giáo hội Phật giáo Lào cũng như quan chức trong chính quyền tại LuangPrabang đều hội tụ về Chùa Xiêng Thoong hành lễ chào mừng năm mới, rước tượng Prabang từ Bảo Tàng Viện về an vị trong sân Wat Xiêng Thoong, hoà cùng dân chúng, nối đuôi tắm tượng Phật Prabang bằng nước hoa Champa suốt một ngày, biểu hiện lòng sùng tín đối với Phật giáo.

                          C. Bản Phanôm

                          Hai chúng tôi đến làng lúc 14 giờ. Từ cổng làng tôi đã thấy thấp thoáng dưới mỗi nhà sàn đều có một vài phụ nữ người Lự đang ngồi dưới khung cửi. KhamĐy dẫn tôi tới một căn nhà sàn khá lớn, có lẽ là chỗ quen biết. Dưới sàn có sáu cô đều còn trẻ. Hai tay đang thoăn thoắt phóng ống thoi qua lại thật điệu nghệ. KhamĐy sổ một tràng tiếng Lự, mấy cô nhìn nhau cười khúc khích. Tôi chấp tay chào mấy cô bằng tiếng Lào, mấy cô đồng thanh chào lại. Hai cô trẻ nhất, độ 22-23, ngưng dệt, đi lên nhà, một lúc sau trở xuống, một cô bưng một khay đu đủ chín và cô kia một khay có hai ba chai nước ngọt. Thế là màn giới thiệu bắt đầu và tôi được dịp thăm hỏi đủ thứ chuyện lẫn quay cảnh các cô đưa thoi.

                          Làng Phanôm chỉ cách LuangPrabang 3 cs về hướng đông, là một làng người Lự, một bộ tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Thái-kađai, di cư qua Lào từ thế kỷ XVII, gốc vùng Síp Soóng Phăn Na (12 ngàn thửa ruộng), Vân Nam (Trung Quốc), dân số 134.100 người, tản mác khắp miệt bắc Lào. Làng nầy nổi tiếng về nghề dệt và thủ công, đặc biệt kỹ thuật làm giấy bằng bông vải.

                          Trai gái Lự được tự do tìm hiểu nhau rồi xin ý kiến cha mẹ để kết hôn. Con trai phải ở rể vài ba năm rồi ra ở riêng. Người Lự sống tình nghĩa, thủy chung, vợ chồng rất ít ly dị, nếu trai bỏ vợ, gái bỏ chồng đều bị phạt nặng theo tập tục. Người Lự ở nhà sàn, hai mái, mái phía sau ngắn, còn mái phía trước kéo dài xuống che cho cả hàng hiên và cầu thang. Trong nhà có hai bếp, một bếp để nấu ăn và một bếp để đun nước tiếp khách.

                          KhamĐy sổ thêm một tràng tiếng Lự nữa, các cô cười ồ lên. Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì, chỉ đoán là họ đang trao đổi về tôi. Ăn đu đủ chín, uống nước ngọt xong, tôi bảo KhamĐy đi sâu vô làng. KhamĐy đáp anh đi dạo với cô này, vừa nói vừa chỉ vào một cô xinh nhất, tên Vén Phệt (nhẩn ngọc). Được người đẹp làm hướng dẫn viên tôi mừng quá, cám ơn rối rít. Đi sâu vào làng, đó đây tre xanh cao vút ven đường, rù rì như chào khách. Những xấp " máy " (tơ lụa), những fứn sịn ( váy lào), áo cánh, phạ biềng ( khăn choàng)... đủ sắc, đủ kiểu được móc trên vách trong mỗi cửa hàng nho nhỏ, trông như tranh Van Gogh, thật thích mắt. Chúng tôi vào một ngôi chợ khá khang trang, hoàn toàn là đồ dệt và các thủ công mỹ nghệ sản xuất tại Bản Phanôm. Vén Phệt cho tôi biết, sản phẩm từ Làng Phanôm chỉ được bán tại chỗ và trong chợ đêm LuangPrabang của người Hmông thôi. Tôi nhờ Vén Phệt chọn cho hai xấp, mua về tặng bà xã may sịn (váy lào), một xấp tặng vợ KhamĐy. Tôi có ý muốn tặng Vén Phệt một xấp, cô nàng cười ré lên " ai lại chở củi về rừng, anh ơi ! ". Ừ ha, rõ thật ngớ ngẩn. Trong làng có chỗ làm rượu cần. Vén Phệt nói gì đó với ông chủ làm rượu, ông đưa ngay ra một hủ độ 5 lít, đặt xuống nền nhà bằng đất, cắm vào ba ống hút cong cong bằng tre dài khoảng 50cm, vui vẻ mời tôi và Vén Phệt. Tôi vốn chỉ uống được bia nhẹ, từng nghe nói tới loại rượu cực mạnh nầy nên do dự, sợ bị vật lăn quay ra đây thì chẳng ra thể thống gì. Ông chủ nhà rượu cũng tinh ý, bảo tôi " hủ nầy mới cất, nồng độ chưa cao, anh thử chút cho biết, không say đâu ; mà dẫu có say thì đã có cô đây đưa về nhà ... cô ta. Đến từ xa mà không thử đặc sản nầy thì uổng quả. Tây làm gì có thứ nầy ". Nễ tình, tôi hút hai lần, mỗi lần hai hơi. Cay sè. Nuốt xuống cổ mới có chút vị ngọt. Hai người kia họ hút liên tục. Ngồi một lúc, tôi móc tiền ra trả, chào để đi tiếp, ông chủ khoát tay cười " tôi mời hai người mà, anh đưa hủ nầy về Pháp tập uống, mai mốt trở lại, về đây uống suốt đêm với tụi nầy ".

                          Ra khỏi quán rượu cần, Vén Phệt đưa tôi tới một nơi làm giấy. Thợ làm giấy cũng toàn mấy cô. Tôi thấy mấy chục khung giấy điểm hoa văn được dựng phơi trước chòi. Nhìn dụng cụ của họ tôi không hiểu với bí quyết nào mà họ có thể lèn những hoa văn màu lên mảng giấy bằng bông gòn trắng mỏng tanh đó được. Đồ nghề họ sử dụng chỉ là một khung lưới rộng chừng 80cm x 80cm, lỗ nhỏ li ti. Một chậu nước cũng hình vuông to gấp đôi khung lưới. Vật liệu tôi thấy là bông gòn trắng phau. Có thể còn nhiều công đoạn mà họ giấu. Loại giấy nầy có phải người mình gọi là giấy dó chăng ? Nhưng loại giấy nầy sẽ làm tôi ngạc nhiên hơn nữa khi viếng cảnh Thác Kuang Sí.

                          Hồi sáng, từ đỉnh Phou Si tôi đã thấy trời-đất-nước LuangPrabang dưới ánh bình minh, tranh thủy mạc Trung Quốc phải nói là chưa thể so sánh được. Vì đó là một bức tranh thiên tạo ngẫu hứng, ngắn, duy nhất, không bao giờ có bức thứ hai y như thế. Ống kính camera DV đã ghi lại đầy đủ: cũng chỉ là bản sao vì thiếu khoảnh khắc sống.

                          Từ thuở còn học trung học tôi đã có nhiều kỷ niệm liên quan với hoàng hôn về trên sông. Nói cách khác, hoàng hôn là chứng nhân của nhiều kỷ niệm học trò trong đời tôi, từ đó hoàng hôn đã trở thành nỗi ám ảnh hay một đam mê trong tôi. Bất cứ đặt chân đến nơi nào có sông, có suối, nói chung là có bến nước, thế nào tôi cũng tìm hỏi bạn bè hay cư dân không và thời gian đẹp nhất khi hoàng hôn về trên sông của địa phương đó.

                          KhamĐy thả tôi dưới chân Phou Si, hẹn trở lại một tiếng sau " em về tắm rửa trước, tối nay vợ chồng em có mục dành cho anh". Tôi leo lên lại, đến đỉnh lúc 18 giờ 15. Khách chờ thưởng lãm hoàng hôn đã lố nhố tự bao giờ, hầu hết là khách da trắng, có một cặp người Nhật hay Đại Hàn khá lớn tuổi. Tất cả yên lặng, như nín thở. Chờ. Tôi châm điếu thuốc và trong một sát na, cuốn phim 30 năm về trước chập chờn theo khói thuốc...

                          Màn trời trắng bạc, vân xanh nhạt chuyển dần theo màu cam lửa từ cái đĩa tròn vo đang từ từ hạ xuống bên kia hai ngọn Phou Thao (núi chàng), Phou Nang (núi nàng), phản chiếu xuống dòng Nam Khan thành hai cái cùng một màu, nhưng với hai diễn biến khác nhau. Cái ở trên, nghiêm nghị uy nghi. Cái ở dưới, óng ánh, lung linh, nhấp nhô theo triều nước. Cái ở trên có mây ngủ sắc vờn quanh, có cánh chim lượn tiển. Cái ở dưới có thêm dăm bóng thuyền chài soi bóng.

                          Bức tranh nầy hoạ sĩ nào ghi lại nổi, nói chi tưởng tượng. Huống hồ " văn sĩ " như tôi. Cao xanh đã ưu ái dành cho LuangPrabang một khoảng không gian với hai mốc thời gian miên viễn tuyệt vời...

                          Tôi xuống đến chân cầu thang thì đã thấy KhamĐy ở đấy. Cậu em hỏi tôi " sao anh, tuyệt ha. Thế từ trên đó xuống đây, anh đã có ý tứ gì chưa ?". Tôi trả lời " đâu chỉ có ý tứ thôi, mà đã làm và chiếu xong một cuốn phim Tâm Thư Hoài Niệm và đã cất lại trên đó luôn rồi ".


                          Còn Tiếp
                          Kỳ tới: Động Ẩn Sĩ & Thác Kuang Sí

                          Hàn Lệ Nhân
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.06.2006 16:35:48 bởi Hàn Lệ Nhân >
                          #28
                            Hàn Lệ Nhân 27.06.2006 21:59:12 (permalink)
                            Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 3
                            Hàn Lệ Nhân




                            Hơn nửa ngày viếng cảnh, đừ người, chỉ muốn về tắm vội rồi leo lên giường ... ghi sổ tay. Cuộc đời đâu đơn giản vậy. Vừa bước vào phòng khách tôi thấy 8, 9 người ngồi chuyện trò quanh salon, vợ KhamĐy đang bưng khay nước mời họ. Thấy tôi, vợ KhamĐy nói " à, họ đây rồi ". Theo phản ứng tự nhiên tôi chấp tay chào mọi người. KhamĐy lên tiếng " xin giới thiệu cùng các bạn, đây là anh Th., bạn anh Pa-Thương, từ Pháp về. Khới hạng (rể hụt) Mương Luang của chúng mình đó ! " Tôi cười, lại chấp tay lên tiếng chào thêm lần nữa. " Còn đây là vài nguời bạn của vợ chồng em. Hai cặp nầy là người Kh'mú U. Cặp nầy người Hmông. Chú nầy người Việt. Hai chị em nầy người Phou Noi ". Nghe lời giới thiệu của KhamĐy, tôi sướng mê người, bao nhiêu nhọc nhằn biến đâu cả, trừ cái nóng dẫu là tháng hai. Tôi xin phép được đi tắm một cái, rồi tính sau.

                            Pa-Thương quả được chuyện, không có nó "ngoại giao" làm gì mình tụ được bức phác hoạ tộc người nầy. Tôi thầm cám ơn vợ chồng KhamĐy cùng thằng bạn tốt bụng và tế nhị. Hèn gì mỗi lần gặp lại, chúng nó cứ bảo " mầy đã làm được ít việc mà tụi tao không nghĩ tới, cá nhân tao chỉ có thể giúp mầy ba chuyện lăng nhăng thôi ". " Như vầy mà là ba cái chuyện lăng nhăng, mầy thật khéo nói, xiều (bạn quí) ạ". Vừa tắm tôi thú vị nghĩ đến thằng bạn từ thuở mài đũng quần xà-lỏn trên ghế trường tiểu học việt ngữ Lạc Hồng.

                            Bước ra phòng khách tôi thấy trên bàn đã được phủ một lớp đĩa đầy thức ăn Lào. Ông người Việt lên tiếng bằng lào ngữ ngay:

                            - Tôi nghe nói falăng (tây) tắm lâu lắm mà, sao bạn làm lẹ vậy ?

                            Tôi phịch cười:

                            - Có thể falăng tắm lâu thật, còn tôi có phải falăng đâu, 26 năm ở Pháp, thời gian dài hơn thời gian tôi ở xứ Lào, tôi biến thành " chệc " (Tàu) thì có.

                            - Nghĩa là thế nào ?

                            - Lúc trước ở xứ nầy người lào gọi tôi là " bặc keo" (thằng việt), về Việt Nam họ cho tôi là "thằng lèo", qua Pháp, tây-rệp-lọ kêu tôi là " thằng chệc " (le chinois / the chinese).

                            Mọi người cười ồ lên.

                            - Thế anh thấy anh là người gì ? Cô người Kh'mú hỏi.

                            - Tôi tự ví tôi như sỉn sám sẳn (thịt ba chỉ) và ví con cái tôi như quả chuối chín.

                            - Thịt ba chỉ thì tụi nầy hiểu vì anh mới nói ở trên, nhưng quả chuối chín thì xin anh nói rõ.

                            - Có gì đâu, chuối chín vỏ vàng, ruột trắng. Tôi có vợ việt, con cái đều sanh ra tại Pháp, tức là da vàng. Các cháu nói được tiếng việt, nhưng cách suy nghĩ, lối sống là cậu tây, cô đầm cả, nghĩa là tâm hồn âu tây. Điều tôi hằng áy náy là đã không dạy các cháu nói được tiếng Lào.

                            - Hẳn anh đã có quốc tịch Pháp, thì anh là người Pháp rồi ?

                            - Đúng vậy, tôi nhập Pháp tịch từ 1986. Đối với nước Pháp tôi là một công dân gồm mọi bổn phận và quyền lợi nhưng trong đời sống hàng ngày, người Pháp chính thống hay người da trắng nói chung coi tôi là người á châu. Mà bản thân tôi, trong tiềm thức, kiếp nầy tôi mãi mãi là người việt-lào.

                            - Xin lỗi, hỏi anh câu nầy hơi tò mò, anh có tên Tây không ?

                            - Không. Trước ở Lào tôi vẫn giữ quốc tịch Việt, dù chưa bao giờ được quyền bỏ phiếu các cuộc bầu bán tại Việt Nam. Con cái tôi cũng không có tên Pháp. Nhập Pháp tịch, chính phủ Pháp không có điều khoản nào bắt buộc bất cứ ai muốn có quốc tịch Pháp phải lấy tên Pháp cả, tùy quyết định và chọn lựa của cá nhân người đó. Khác hẳn ở đây, vào quốc tịch Lào là phải chọn tên họ Lào.

                            Các món ăn trên bàn tôi đã quen ăn từ nhỏ, bên Pháp có đủ cả trừ món đặc sản nổi danh của LuangPrabang là món Chèo boong Mương Luang trộn da trâu thái mỏng. Tôi vốn dốt đặc trong chuyện bếp núc, song thiết tưởng nhân đây cũng đáng chép giới thiệu cùng các bạn món ăn đặc thù LuangPrabang nầy. Cheo boong Mương Luang là một loại tạm gọi là " ruốc " hay thức chấm vừa ngọt vừa cay, có thể dùng ăn kèm với xôi, thịt khô, cá nướng …, ngon lạ lùng. Vật liệu chính là tỏi, ớt, tôm khô, nước mắm, mật, đường, gừng và da trâu. Cách thức chế biến mời các bạn vào đây:

                            http://laos.luangprabang.free.fr/gastronomie/recettes/Tio_Bong.htm.

                            Buổi họp mặt rất thú vị vì ai cũng dùng ngôn ngữ quốc gia là tiếng Lào. Và trong buổi họp mặt bất ngờ nầy, cũng chính ông gốc việt, khi có cơ hội, cố ý lái tôi vào khía cạnh chính trị, tôi ý thức được hoàn cảnh tế nhị nên du di " Thiên Long Bát Bộ " lách ra an toàn. Tựu trung cả chín người bạn mới đều " đứng núi nầy, trông núi nọ ". Cũng là chuyện thường tình.

                            Bộ Tộc Kh'mú U

                            Ở Lào có ba nhóm người Kh'mú: Kh'mú U (506.250 người), Kh'mú Rok (56.250 người) và Kh'mú Me (39.375 người). Tổng cộng bộ tộc Kh'mú U là bộ tộc đông dân thứ nhì sau bộ tộc Lào (1.800.000 người). Người Kh'mú U, gốc từ Trung Quốc, có mặt tại Lào từ thế kỷ XI, sinh sống chủ yếu trong bốn tỉnh bắc Lào: Houaphăn, Phôôngsaly, Vientiane và LuangPrabang. Tiếng Kh'mú U thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer/Nam Á (Austro-asiatique). Người Kh'mu theo tín ngưỡng dân gian tức thờ " Phí " (ma), sinh sống bằng nghề nương rẫy.

                            Bộ Tộc Phou Noi

                            Bộ tộc Phou Noi có khoảng 50.000 người, sinh sống quanh vùng Phongsaly và LuangPrabang, bắc Lào. Gốc gác từ Nam Trung Quốc.Tiếng Phou Noi thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến. Người Phou Noi thường lập thành các nhóm nhỏ, từ 10 đến 20 căn nhà làm bằng gỗ hay tre. Phương tiện sinh sống chính là săn bắn, làm rẫy.

                            Bộ Tộc Hmông

                            Trước kia người Lào dùng từ Mẻo, người Việt dùng từ Mèo để chỉ định bộ tộc Hmông, đọc trại từ chữ "Miêu" theo cách gọi của Trung Quốc, nơi xuất phát của bộ tộc nầy. Nhưng chính họ, bộ tộc nầy, lại khẳng định họ là bộ tộc Hmông, nghĩa là người. Người Hmông di cư qua vùng bắc Lào vào khoảng hậu bán thế kỷ XVII. Tiếng Hmông thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao, Hán-Tạng. Trong nhiều thập niên người Hmông sống bên lề xã hội Lào, không có quan hệ với hành chính Lào. Họ thích sống trên rẻo cao, có trình độ sản xuất nông nghiệp thâm canh, chăn nuôi giỏi và có một nền văn hoá dân tộc độc đáo. Người Hmông được biết tới từ năm 1918, dưới thời Pháp thuộc, nhân một cuộc bạo loạn mà nguyên nhân chính do thực dân Pháp áp đặt khổ dịch và thuế khoá quá cay nghiệt đối với họ. Từ 1920 đền 1945 là khoảng thời gian vàng son của người Hmông trong việc trồng hoa Anh Túc (cây thuốc phiện). Năm 1945 là một khúc rẽ quyết định tương lai của bộ tộc nầy trước sự lựa chọn giữa nền Quân Chủ Lào ( hậu thuẩn bởi mặt trận Pháp Tự Do) và phong trào độc lập Lao Issara (hậu thuẩn bởi Việt Minh và Phát Xít Nhật). Bấy giờ, dưới sự lãnh đạo của ông Touby LyFoung, người Hmông đã chọn đứng về phe Quân Chủ Lào và Pháp Tự Do, và trở thành tử thù của cộng sản Lào-Việt.

                            Sau biến cố chính trị tại Lào cuối 1975, ông Vang Pao, ông Touxoua LyFoung (con trai ông Touby) và 200.000 đến 250.000 người Hmông chạy qua Thái Lan xin tỵ nạn cộng sản rồi được rãi ra khắp thế giới: Hoa Kỳ có 140.000 người, Pháp và Guyane thuộc Pháp: 15.000 người …, số còn lại qua Australia, Canada. Một số cố trụ lại Thái Lan vì vẫn hy vọng được trở về với núi rừng trên đất Lào.

                            Theo thống kê năm 2004, ở bắc Lào còn 355.000 người Hmông, gồm Hmông Đẩu (Trắng), Hmông Đu (Đen), Hmông Lềnh (Hoa), Hmông Lia (Đỏ) và Hmông Xua (Xanh).

                            Thế giới đã và đang chuyển từ đối đầu qua đối thoại, do đó theo tôi nghĩ bộ tộc chủ thể độc quyền ở Lào và bộ tộc Hmông nói riêng, nếu đôi bên thật tâm trân quí xứ sở đất rộng, người thưa nầy, không thể kéo dài lâu hơn nữa sự đối nghịch vô ích. Tôi mong sớm có cuộc đối thoại. Đối thoại chứ không độc thoại. Đồng thuận hàng ngang chứ không ai ép ai đoàn kết sau lưng ai cả.

                            Cho đến nay người Việt sinh sống ở Lào, chưa nhập tịch, vẫn được coi như ngoại kiều, chưa là một bộ tộc. Sẽ có một bài riêng cho đề tài nầy.


                            Thặm Tìng ( Động Ẩn Sĩ )


                            Chín người bạn mới kể trên đều là công chức trong các cơ quan hành chánh. Một trong hai chị em người Phou Noi làm việc tại sân bay LuangPrabang. Tất cả đều có nhà trong phố, chiều thứ sáu, tan sở họ về làng, sáng thứ hai đi làm luôn, trừ ông gốc việt. Gia đình hai cô Phou Noi ở làng Xiêng Men, bên kia sông, là nơi tôi dự định qua viếng trong ngày mốt, thứ bảy.

                            Tôi cố tìm sử liệu về động Thặm Phum và Thặm Tìng ở Pak U (Pak = miệng , U = sông U. Pak U = Cửa sông U) mà đành chịu, đâu đâu cũng chỉ nói đại khái " đã được phát hiện từ lâu lắm rồi ".

                            Bản Pak U có hai cái động nổi tiếng là linh địa của tín hữu Phật giáo Lào tại LuangPrabang: Thặm Prakalay = tên một đồ đệ của Đức Phật hay Thặm Phum (động trên) và Thặm Lư Sí = Động Ẩn Sĩ hay Thăm Tìng (động dưới). Pak U cách LuangPrabang 35 cs phía thượng lưu sông Mêkông. Có thuyền đưa khách tới nơi nhưng vì ngược dòng nên phải mất khoảng 2 giờ và chuyến đầu tiên thường tách bến lúc 10 giờ sáng, khi đã đủ số khách. KhamĐy đề nghị đi bằng xe hơi, tôi vẫn giữ ý dùng xe gắn máy và lên đường lúc 8 giờ sáng. Trên đường đi chúng tôi qua nhiều làng Kh'mú, làng Hmông và làng Thái đằm (thái đen). Đường khá tốt. Đến làng khoảng 9 giờ mà khung cảnh đã nhộn nhịp, 2 chiếc xe ca cỡ nhỏ, 4, 5 chiếc Túc-túc (loại xe lam) đầy khách da trắng và nhật bản có mặt tự bao giờ.

                            Động Pak U nằm trong dãy núi đá vôi, bên kia bờ sông U. Có thuyền đưa qua, mất khoảng 15 phút và 1 đô la / người. Đây là nơi hành hương hàng năm của người Lào trong dịp Pimay (Tết Lào), từ khi Lào mở cửa Pak U liền biến thành địa danh thu hút khách du lịch thế giới. Hai chúng tôi qua tới chân cầu thang để vào động lúc 10 giờ. KhamĐy bảo mình chỉ vô Thặm Tìng thôi, cảnh trong đó sáng rõ nhờ ánh mặt trời chiếu vào. Thặm Phum tối mù, phải cầm đuốc, nên ít người vào. Từ cầu thang nhìn vào Thặm Tìng đã thấy bao nhiêu tượng Phật. Xuôi theo cầu thang, khi lên khi xuống, lúc đầu tôi còn bày đặt nhẩm đếm, nhưng chỉ một lúc sau là ngậm tăm chiêm ngưỡng. Chao ôi, Phật đâu mà lắm thế nầy, đủ cỡ đủ loại (đa số là Phật đứng, đặc điểm Phật ở LuangPrabang), gỗ, đồng, xi-măng. Đúng là một động Phật. Phải vài thế kỷ mới tụ được ngần nầy tượng Phật. Cảnh thạch nhũ trong lòng động cũng ly kỳ nhưng bị số tượng che mờ đi. Từ trong động nhìn ra cảnh trời nước buổi sáng thật đẹp, bên kia bờ thấp thoáng những mái nhà sàn ẩn hiện trong màu xanh của lá chuối và tre.

                            Năm 1996, nhóm khảo cổ Australia đã làm thống kê động Pak U, được 8.126 bức tượng lớn nhỏ. Một bảo tàng khổng lồ như thế mà không hiểu sao không có một cơ quan nào bảo quản hay canh giữ ban đêm, chả trách thỉnh thoảng các " tín hữu " Thái Lan dùng thuyền cao tốc (speed-boat), đột nhập, " thỉnh " nhẹ vài vị đem "phổ biến" ra thị trường đồ cổ Âu-Mỹ:

                            http://asie.online.fr/laos.html

                            KhamĐy đi với tôi đủ một vòng là xuội lơ, có thể tại cậu em đến đây nhiều lần rồi nên hết hào hứng. Tôi làm vòng thứ hai một mình, đi thật chậm. Vừa xem vừa trộm nghỉ " thế nầy đúng là họ đã biến ông Bụt thành ông thần nhiệm mầu vạn năng, có phép thưởng lành, phạt ác … Rồi bổng dưng tôi liên tưởng tới Lourdes bên Pháp, nơi tôi có đến hai lần. Lần đầu đi coi vợ chồng bà chị cả đến tạ lời nguyền, chẳng là họ mới bán được giá cái nhà hàng ở phố biển. Lần sau nhân đi công tác mấy ngày ở Tarbes, tây nam Pháp. Tượng Đức Mẹ Maria tràn ngập thánh địa hành hương nầy, chu vi mênh mông quanh hang Massabielle là một siêu siêu thị tượng nước thánh, đủ mọi giá cho mọi túi tiền, mọi niềm tin. Niềm tin vợ tôi nghèo nên lần đầu thỉnh được mỗi một bức bằng nhựa đầy nước thánh cỡ 13cm x 3cm, có biên lai đàng hoàng: 4,50 Euros.

                            Trở lại làng Pak U, KhamĐy đưa tôi đi một vòng. Địa danh nầy đã thành khu du lịch nên các chòi hàng rất đa dạng, nhìn trang phục của mấy cô bán hàng KhamĐy giải thích cho tôi họ thuộc bộ tộc nào, ngoài mấy bộ tộc đã nói qua còn có người Ka Sắc, người Phuôn. Tôi để ý hàng mỹ nghệ Made in China hầu như lấn hẳn hàng thủ công đặc thù thổ nhưỡng. Gần làng Pak U có làng Xang Hay nổi tiếng với "lậu lao" (rượu đế Lào, không phải rượu cần), cất từ nếp trắng. KhamĐy khoe có nhiều bạn bên đó, tôi càng ngại lập lại trường hợp phải uống rượu như ở làng PhaNôm nên không muốn qua, hắn biết ý cười hề hề " anh yên chí, không ai ép anh đâu, anh cứ tự nhiên lai rai với Khới Lao (rể lào) của anh". Trên chai bia lào có đề chữ bia bằng chữ Lào nhưng đọc qua chữ Thái Lan lại thành chữ Khới (rể).

                            Thác Kuang Sí

                            Thác Kuang Sí cách LuangPrabang 30 cs hướng hạ lưu sông Mêkông nên chúng tôi quyết định quay lại LuangPrabang ăn vội mỗi đứa một tô bún cá, nấu kiểu lào. Trời nắng chang chang nên khi KhamĐy đề nghị về lấy xe hơi, tôi đồng ý liền. Chiếc Citroën LNA màu trắng, mới sơn lại, máy còn êm. Xe mới chạy độ mươi phút tôi đã ngủ khì nên chẳng thấy gì dọc đường. KhamĐy lay tôi dậy khi xe bắt đầu vào địa phận Kuang Sí.

                            Có bãi đậu xe cách thác độ 500 m. Tiếng thác vọng ra. Hai bên con đường đất đỏ dẫn vào có mấy cái quán, KhamĐy bảo, ở đây thuộc quyền khai thác của người Kh'mú, trên nguồn thác có làng Hmông. Muốn vào coi thác mỗi người đóng chút lệ phí (tôi không nhớ bao nhiêu). Đang mắt nhắm mắt mở, tôi khựng người trước quang cảnh hiện ra …

                            Cả một không gian rộng lớn với ba màu chính, trắng xoá là trời và nước trên núi đổ xuống, xám-nâu là màu của núi, xanh cẩm thạch là cỏ cây bao quanh và cái hồ ngay chân núi ! Chao ôi, cảnh đâu có cảnh kỳ diệu thế nầy, bút mực nào tả cho được muôn một. Dưới tàng cây, Ban Quản Trị tế nhị đặt đó đây một hai cái ghế dài bằng gỗ cho khách nghỉ chân và ngồi chiêm ngưỡng tuyệt phẩm của hoá công. Có một cái cầu gỗ bắc ngang hồ cẩm thạch tiến vào gần chân núi. Trong một tíc tắc tôi lại trộm nghĩ những triết nhân sống về nghề nói tới cõi trên sao không chịu khó tới đây, dựa vào khung cảnh Kuang Sí để làm cơ sở cho lời thuyết dụ. Cõi trên là đây, tìm đâu cho xa ! Tôi buột mồm đọc ngay:

                            Triết nhân là kẻ có thừa
                            Dù cho cái có là chưa có gì.
                            Thường nhân là kẻ ngu si,
                            Quẳng đi cái có khổ vì cái không !
                            (Nguyễn Chí Thiện)

                            Ông cụ Marcel Proust thật là chí lý khi bảo " Cuộc du lịch khám phá đích thực không cốt để tìm cảnh mới mà để có những cặp mắt mới " (le véritable voyage de découverte ne consiste pas à chercher de nouveaux paysages mais à avoir de nouveaux yeux).

                            Tôi lanh quanh non hai giờ trong cõi tiên, khi nhìn lại KhamĐy đã ra ngoài, khách viếng cảnh chỉ còn mình tôi. Trời đã bắt đầu chiều, Kuang Sí càng kỳ ảo.

                            KhamĐy ngồi uống nước dừa trong một cái quán có bày bán nhiều kỷ vật tạo bằng các ống tre nhỏ. Tôi cũng gọi một trái dừa. Ngồi chuyện vãn với ông chủ quán một lúc, bổng KhamĐy hỏi tôi " anh có biết cái nhà bên cạnh nầy là nhà gì không? Đây là nhà của một hoạ sĩ người Phuôn, ổng ra đây để vẻ. Căn nhà sàn nầy chính ổng bỏ tiền ra cất lên trên đất của ông chủ quán, hợp đồng là năm năm sau nhà sẽ thành của ông chủ quán." Tôi nhìn sang, thấy căn nhà sàn khá rộng, mới vướng chút màu thời gian, cửa đóng kín. Tôi tò mò hỏi ông chủ quán, tôi muốn gặp ông hoạ sĩ được không? Ông chủ quán sai cậu con trai nhỏ vô làng gọi ông hoạ sĩ. Một lúc sau ông hoạ sĩ theo cậu bé ra quán. Đó là một người khoảng 35/36, mặt mày sáng sủa, tóc tai bồng bềnh, rất tỉnh thành, rất nghệ sĩ. Sau màn giới thiệu, tôi biết ông hoạ sĩ tên Phone Anou ra Kuang Sí đã hơn một năm, ổng mời KhamĐy và tôi lên nhà. Trong nhà không ngăn phòng, chia bếp gì cả, đồ đạc chẳng có gì ngoài một cái nệm đủ cho hai người, còn là tranh và tranh, nhiều bức đã đóng khung, một số còn dang dở. Những bức đã đóng khung nhìn vào tôi chẳng hiểu gì cả, đại loại nhân vật nữ thì 3 hay 1 mắt, cổ cò, ngực bên to bên nhỏ …, nhân vật nam thì mặt mày hom hem như dân cai nghiện, môi miệng như mái hiên, tỉnh vật thì méo mó … màu sắc hoặc quá loè loẹt hoặc quá âm u. Chẳng thấy bức nào về Kuang Sí. Tôi thấy trong ông hoạ sĩ có cái lộn tùng phèo chút Picasso, chút Van Gogh, chút Modigliani … tóm lại là ông hoạ sĩ bị bệnh bắt chước âu tây !

                            Xem xong một vòng tôi hỏi:

                            - Anh vẻ chủ yếu để bán cho ai ?

                            - Cho khách du lịch falăng (da trắng).

                            - Anh đã bán được mấy bức từ khi ra đây ?

                            - Chưa được bức nào.

                            - Làm sao anh sống ?

                            - Thú thật với anh, tôi đang kẹt lắm, vốn liếng gom góp mấy năm một phần bỏ vô căn nhà, một phần nằm ụ trên những tác phẩm nầy. May mà có thằng em ở LuangPrabang tiếp tế …Hai anh thấy thế nào ?

                            KhamĐy trả lời :

                            - Tôi không biết gì về hội hoạ. Anh vẻ tôi không hiểu gì cả, nhìn vào tôi sờ sợ …

                            - Tôi cũng không hiểu, nhưng hình như anh muốn diễn tả sự khắc khoải nội tâm cùng cực đến biểu hiện ra ngoại hình gì gì đó. Tôi lên tiếng.

                            - Đại khái là vậy. Phone Anou trả lời.

                            - Nói thật anh đừng buồn.Cá nhân tôi, đến từ nước ngoài, nhưng không bao giờ tôi mua những bức tranh nầy …

                            - Xin anh thẳng thắn cho biết lý do.

                            - Theo tôi, anh đã phí công, phí của vô ích. Khách du lịch da trắng đời nào họ chịu bỏ tiền ra để chở củi về rừng. Bản thân anh, anh phải biết rõ hơn ai hết là mình đang bắt chước hội hoạ âu tây. Nói xong, tôi kể lại chuyện tôi bị cô Vén Phệt làng PhaNôm cười diễu ra sao khi tôi muốn tặng cô ấy xấp vải của Bản PhaNôm.

                            - Tôi ra nghề gần bốn năm nay, cứ nghĩ tụi da trắng có trình độ thẩm thấu, thích tranh lập thể, siêu thực nên hơn một năm nay tôi bỏ lối vẻ lào để theo trào lưu và thị hiếu tôi đọc được trong sách báo…

                            - Họ lặn lội qua đây là để tìm cái Lào, cái lạ chứ tìm chi ba cái xanh đỏ, méo mó mà họ đã chán ngấy kia. À, anh có thể cho tôi coi mấy bức tranh lối cũ của anh không ?

                            Phone Anou đứng dậy, lôi ra từ trong góc nhà một cuộn tranh to tướng, trải ra giữa sàn nhà. Tôi nhờ KhamĐy ra quán mua mấy chai bia lào với vài món thịt rừng nấu chín. Trong nầy tôi thủng thỉnh coi từng bức tranh một. Có nhiều bức về thác Kuang Sí, rất đẹp nhưng tôi đã bị cảnh thật hớp hồn, vả lại đã quay được nguyên một cuốn phim kỹ thuật số 60 phút nên trả bản vẻ lại chỗ cũ. Có mấy bức chân dung người các phầu (bộ tộc), vẻ bằng bút chì, thật linh động. Tôi lựa được hai bức, cẩn thận để riêng ra một bên, không nói gì. KhamĐy mua bia và đồ nhậu về, có cả xôi. Ba đứa vừa ăn uống vừa nói chuyện linh tinh. Phone Anou mời tôi và KhamĐy ở lại, tối anh đưa đi nghe các cô người La Mệt lăm (hò), sáng mai nghe thác Kuang Sí hát dưới bình minh. KhamĐy nhắc tôi cái hẹn với hai chị em Phou Noi bên làng Xiêng Men. Tôi đành từ chối. Một lát sau, tôi nói với Phone Anou:

                            - Tôi chọn hai bức bằng màu nước đen trắng nầy. Loại giấy anh dùng có phải đến từ Ban PhaNôm không?

                            - Đúng vậy, tôi có cô bồ người Lự. Mà sao anh lại chọn hai bức nầy ?

                            Hai bức phóng hoạ tôi thích nhất được dùng bột màu đen, hoà nước vẻ lên tấm giấy dó 80cm x 80 cm màu ngà. Một bức vẻ cô người Lự gánh nước, áo cánh trắng, sịn (váy) đen. Bức kia là thiếu niên một tay vác cày, tay kia cầm cái cào cỏ, có một chú chó con đi trước. Nét vẻ khoáng đạt, đậm nhạt phóng túng.

                            - Tôi vẻ hai bức nầy có nửa tiếng à.

                            - Anh cho biết tổng cộng bao nhiêu ?

                            - Tôi xin tặng anh làm kỷ niệm buổi tương ngộ nầy.

                            - Không, xin anh cho biết giá.

                            Nói qua nói lại một hồi, Phone Anou đành ra giá : 10.000 Kips hai bức (1USD)

                            Tôi im lặng, nghe xót xa chạy thẳng vào tim, đứng dậy xin đi vệ sinh. Khi trở ra tôi thấy hai bức tranh đã được cuốn tròn bỏ vô một ống tre.Tôi đưa cho Phone Anou một xấp tiền Lào. Cậu ta hoảng lên:

                            - Sao nhiều vậy anh ?

                            - Tôi thích hai bức tranh quá nên tự ra giá, xin gửi anh 300.000 Kips.

                            Phone Anou cầm xấp tiền, nhìn tôi đăm đăm. KhamĐy cũng vậy. Bất chợt Phone Anou quỳ xuống, hướng ra cửa, chấp tay vái lia lịa:

                            - Mẹ ơi, con có tiền về quê thăm Mẹ rồi !


                            Còn tiếp
                            kỳ tới: Cuộc hẹn bên Làng Xiêng Men


                            Hàn Lệ Nhân
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2006 22:05:19 bởi Hàn Lệ Nhân >
                            #29
                              Hàn Lệ Nhân 03.07.2006 18:40:59 (permalink)
                              Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 4

                              Hàn Lệ Nhân



                              Làng Xiêng Men

                              Quần thể Chùa Xiêng Thoong nằm bên tả ngạn sông Mêkông, có cầu thang xuống tận bến đò để qua bên kia bờ là Bản Xiêng Men. Địa danh nầy nổi tiếng với huyền thoại trữ tình về hai ngọn Phou Thao (Núi Chàng) và Phou Nang (Núi Nàng) ; di tích chùa Long Khoun và các xưởng đồ gốm ở Bản Chăn gần đó.

                              Từ bến Chùa Xiêng Thoong qua làng Xiêng Men bằng thuyền mất độ 20 phút và 3.000 Kips/người. Hai chị em người Phou Noi và hai người bạn trai của họ đã đứng đón KhamĐy và tôi ngay bến đổ, đưa chúng tôi về nhà cha mẹ hai cô. Họ đã chu đáo sắp đặt chương trình đâu vào đấy. Hai cụ khen tôi dù xa Lào đã lâu vẫn còn sử dụng tiếng Lào trôi chảy, lập đi lập lại nhiều lần từ " sí la pin " (nghệ sĩ) làm tôi thầm ngượng cả người. Người lào nói chung rất quí "sí la pin". Tôi nghĩ đây cũng do thằng bạn Pa-thương phóng đại với vợ chồng KhamĐy rồi vợ chồng nầy nói lại nhân tổ chức buổi họp mặt vừa qua. Chứ tôi mà "sí la pin" cái nỗi gì, tôi nhận định về mình như con chim lạc, mất phương hướng, thỉnh thoảng khắc khoải hót vu vơ… Việc tôi chuyên chú vào đề tài xứ Lào chẳng qua đây vẫn còn là một khu đất còn quá nhiều chỗ trống, tôi tha hồ "múa" ; nếu có "múa" tầm phào cũng không ai nỡ xét nét, trách cứ vì tôi chỉ "múa" bằng con tim, thể hiện qua sự giới hạn của con chữ.

                              "Xưa, có một con tinh tên Nang Kinna, sống trong một cơ ngơi khanh trang rộng lớn nằm thoai thoải trên một ngọn đồi. Con tinh cái chưa chồng, chưa con, luôn luôn sống cô độc trong khu rừng trên đồi. Mỗi buổi sáng Kinna thường dạo chơi giữa rừng cây, hoa cỏ ; giữa tiếng suối róc rách reo vui và chỉ quay về nhà khi đến giờ dùng bữa. Sự hiện diện thường xuyên của nàng trong rừng đã gây được nhiều thiện cảm nơi loài dã thú. Đôi khi người ta thấy nàng đùa giởn với các loài chim đến líu lo cho nàng nghe, ngồi trên cổ voi rừng hay vuốt ve những con hươu cái hiền lành, những con sóc xinh xinh…

                              Một sáng kia, Kinna bắt gặp một chàng trai xâm nhập vào rừng, chàng trai khôi ngô tuấn tú ví thể Intha (thần sắc đẹp). Kẻ lạ có trong tay một khẩu súng, một túi vải khoác chéo trên vai. Đã từ lâu Kinna hằng mơ ước có một tấm chồng nên nghe lòng rạo rực vui mừng khôn xiết. Song Kinna sợ sắc diện của nàng sẽ làm chàng trai thất vọng bèn niệm một tràng chú, tự biến nàng thành tuyệt đẹp. Kinna tiến tới gặp chàng trai, hỏi:

                              - Chàng đến đây làm gì ?

                              - Tôi đến săn thú, chàng trai trả lời và ngạc nhiên hỏi lại:

                              - Nàng ở đây một mình à ?

                              - Vâng, tôi sống một mình với cỏ cây, muông thú.

                              Sắc đẹp và sự duyên dáng của người con gái mau chóng chiếm lĩnh trái tim chàng trai tuấn tú. Chàng trai tự giới thiệu tên chàng là Phoutasén, kể cho Kinna nghe gia cảnh của mình. Kinna năn nỉ Phoutasén ở lại mãi mãi bên nàng, Phoutasén vui mừng chấp thuận.

                              Cuộc sống giàu sang, hạnh phúc bên mỹ nhân đã làm Phoutasén quên lãng người mẹ đang sống trong nghèo khó.

                              Một hôm, Kinna thố lộ với người tình:

                              - Phoutasén chàng ơi, em quên chưa nói với chàng là em có một tủ sắt đầy những quả chanh xanh do ông bà em để lại. Những trái chanh nầy có phép nhiệm mầu. Chàng đã đến vườn chanh đó chưa ?

                              - Chưa bao giờ, thế cái vườn đó nằm ở đâu ?

                              - Cách đây độ 3 cây số thôi. Nhưng em yêu cầu anh đừng bao giờ tới đó, nguy hiểm lắm.

                              Phoutasén không nói gì. Trầm ngâm suy nghĩ.

                              Một hôm Kinna có việc phải đi xa. Phoutasén bèn lợi dụng sự vắng mặt của người tình, lén tới khu vườn cấm. Chàng phát hiện một cái hố thật to, rất sâu, đầy xương người. Quá kinh hải, Phoutasén chạy về nhà, lục lấy tất cả chanh trong tủ sắt rồi bỏ đi.

                              Kinna trở về nhà, không thấy chồng, không thấy chanh. Biết là Phoutasén đã phản bội, Kinna vội vàng đuổi theo, chẳng mấy chốc nàng đã bắt kịp Phoutasén. Kinna kêu gào Phoutasén. Phoutasén càng tăng tốc độ và ném ngược lại một quả chanh, bất ngờ một ngọn lửa to lớn bùng lên cháy nguyên một chu vi đất rộng. Kinna càng gào. Để cản bước Kinna, quả chanh thứ hai được tung ra, khoét thành một cái hồ mênh mông. Kinna nhảy xuống nước bơi đuổi theo. Qua tới gần bờ bên kia thì nàng kiệt sức, nước cuốn nàng đi… Rút tàn hơi, nàng phát một lời nguyền xin trời trừng phạt người chồng phản bội, rồi mới buông xuôi vĩnh viễn.

                              Bị ăn năn hối hận dày vò Phoutasén quay trở lại và bắt gặp xác Kinna vẫn còn tươi nằm ven một con suối. Phoutasén vội vàng làm mọi cách để hồi tỉnh Kinna, nhưng quá trễ. Phần quá đau đớn, quá tuyệt vọng, phần kiệt sức Phoutasén gục lên xác Kinna, chết theo.

                              Mấy thế kỷ sau nơi có xác Kinna và xác Phoutasén mọc lên hai ngọn núi huyền thoại, có tên Phou Thao (Núi Chàng) và Phou Nang (Núi Nàng) ở LuangPrabang".

                              Kể xong sự tích, cô chị (PS) nói thêm:

                              - Chắc anh đã thấy Phou Thao, Phou Nang nhìn từ phía Chùa Xiêng Thoong. Ngọn núi có dáng người đàn bà nằm quay lưng lại là Phou Nang. Phou Nang nằm gác đầu lên gót chân Phou Thao.

                              Tôi cám ơn PS, hỏi:

                              - Tôi để ý và thắc mắc: Phou Nang cao lớn hơn Phou Thao, chẳng lẽ thời xưa đàn bà bự con hơn đàn ông ?

                              Cả nhà rộ lên cười, anh K., bạn trai của PS, lên tiếng:

                              - Bộ anh không thấy tôi là Phou Thao và PS là Phou Nang à ?

                              Bấy giờ tôi mới thấy K. thấp hơn PS đến nửa cái đầu ! Lại được thêm một trận cười. Cô em ( PK) cười xong, nói:

                              - Có nhiều ấn bản về sự tích Phou Thao, Phou Nang. Em kể anh nghe ấn bản thứ hai:

                              "Phoutasén là một hoàng tử người phàm. Nang Kang Hy là con gái của một tinh vương. Hai người sống ở hai nơi cách biệt, chưa từng quen biết nhau. Hoàng hậu yêu tinh làm phép đưa Phoutasén đến với công chúa Kang Hy, viện cớ công chúa cần dược thảo nhưng hậu ý lại muốn con gái mình ăn sống vị hoàng tử nầy. Hoàng hậu yêu tinh nhờ hoàng tử Phoutasén đưa đến cho Kang Hy một bức thư có câu "Con gái yêu, con phải ăn chàng trai trẻ nầy ngay".

                              Trước khi đến nơi ở của Kang Hy, Phoutasén dừng nghỉ chân trước một cửa động. Một ẩn sĩ biết chuyện, thương tình Phoutasén, bèn tráo bức thư có nội dung ác độc bằng một lá bùa yêu. Mới gặp mặt hai người đã yêu nhau ngay rồi vội vàng làm đám cưới. Mấy tháng trăng mật trôi qua, một hôm Kang Hy đang ngủ trưa hoàng tử Phoutasén phát hiện vợ mình là loài yêu quái nên bỏ trốn đi. Kang Hy tỉnh dậy không thấy chồng và biết Phouthasén đã lấy hết bửu bối của nàng. Kang Hy nhảy lên lưng ngựa đuổi theo, nhưng làm sao nàng có thể qua sông khi không còn bửu bối.

                              Mòn mỏi bên nầy sông, công chúa Kang Hy tắt nghỉ với lời nguyền "Phouthasén phải trở về và gục chết trên đầu gối nàng". Lời ước của Kang Hy được toại nguyện, nhưng từ trên trời, thượng đế nhìn xuống thấy, xét rằng thế nằm vợ chồng như thế không thích hợp, thượng đế bèn sửa lại, đặt đầu Kang Hy gác lên gót Phouthasén. Phou Thao, Phou Nang hình thành từ đó."

                              Bữa cơm trưa khá thịnh soạn được bày trên chiếu, mọi người ngồi xếp bằng chung quanh. Tôi chú ý đến món Ô Lám, một đặc sản tuyệt vời khác của cố đô LuangPrabang. Trước kia Ô Lám là một thực đơn vương giả. Cách thức chế biến cầu kỳ, vật liệu nhiêu khê. Cư dân LuangPrabang có câu "đến Mương Luang mà không nếm qua Ô Lám là coi như chưa đến". Cụ thể là mời các bạn vào đây:

                              http://laos.luangprabang.free.fr/gastronomie/recettes/o_lam.htm

                              Đường xá trong làng Xiêng Men cần được nâng cấp cho đồng bộ với phong cảnh u nhã của làng. Đó là nhận xét đầu tiên tôi nói với các bạn, trên đường đi viếng cảnh chùa Long Khoun. Tôi rất thích những gốc dừa xanh cao vút trời. Chùa Long Khoun được sùng tạo từ thế kỷ XVIII, không bệ vệ như chùa Xiêng Thoong nhưng đã một thời là nơi quan trọng của hoàng gia Lào. Trước 1975, bất cứ tân vương lào nào cũng phải qua đây tịnh tâm suốt ba ngày rồi mới về LuangPrabang làm lễ đăng quang. Quốc vương Lào cuối cùng qua đây tịnh tâm là vua Sisavang Vatthana (1907-1978). Một vương triều ngoài 600 năm lịch sử đã được hay bị lật qua như một thoáng mơ giữa ban ngày. Lớp sóng phế hưng càng rõ nét khi chúng tôi đến Vặt Thặm Xiêng Men (chùa động Xiêng Men hay Động Sakarine, quốc vương Lào: 1840-1903): Theo tôi, nếu không kíp thời trùng tu bảo quản, những di tích Phật giáo nơi đây chóng chầy sẽ thành phế tích.

                              Ra khỏi chùa động Xiêng Men chúng tôi đi coi vài nơi làm đồ gốm trong làng Chăn, sau đó về lại nhà hai bác người Phou Noi, chờ đến giờ lên Vặt Chom Phệt (Chùa Ngọc Đỉnh) xem tà dương giỡn sóng Mêkông, rồi trở qua LuangPrabang luôn. Trước thịnh tình của gia đình hai bác, tôi không biết đáp lễ ra sao cho hợp tình (đời nào tôi dám đưa tiền), cuối cùng tôi vờ hỏi trong hai cặp, cặp nào sẽ làm đám cưới trước. Cô chị PS dí dỏm lấy tay chỉ vào ngực rồi chỉ vào K. Tôi năn nỉ mãi họ mới chịu nhận như chút quà cưới cái máy hình Olympus loại bỏ túi mà tôi ít dùng tới. Tôi hướng dẫn cho K. bằng cách chụp hết phim trong đó, chỉ cách thay phim với một cuộn mới. Phần cô em PK tôi đã có ý vì biết thế nào tôi cũng gặp lại khi lấy máy bay đi Xiêng Khoáng.

                              Về tới Guest House tôi đã thấy ông bạn gốc việt đang ngồi tán gẫu với một ông khách người da trắng, chờ tôi. Vừa mệt, vừa ngại ổng lại lái tôi vào chuyện chính chị, chính em nên đành " cẩn tắc vô áy náy", từ chối đi ăn tối với ổng.

                              Còn tiếp
                              Kỳ tới: Xiêng Khoáng & Cánh Đồng Chum


                              Hàn Lệ Nhân
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.07.2006 18:42:03 bởi Hàn Lệ Nhân >
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 37 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9