Tam Thể - Lưu Từ Hân (HẾT)
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 36 bài trong đề mục
huytran 30.07.2017 02:35:57 (permalink)
Nguồn: https://bachngocsach.com/reader/tam-the
 
Chương 1 : Biên giới Khoa học
 
Uông Diểu cảm thấy nhóm bốn người đến tìm anh quả là một tổ hợp kỳ lạ: hai cảnh sát và hai quân nhân, nếu hai quân nhân kia là cảnh sát vũ trang thì cũng bình thường, nhưng đây lại là hai sĩ quan lục quân.
Vừa gặp mặt, Uông Diểu đã không có thiện cảm với hai viên cảnh sát. Thực ra, người trẻ tuổi mặc cảnh phục kia cũng ổn, cử chỉ rất lịch thiệp, nhưng cái tay mặc thường phục thì thật đáng ghét. Gã cao lớn thô lỗ, mặt mũi hung tợn, mặc một chiếc jacket da bẩn thỉu, người nồng nặc mùi thuốc lá, nói năng thì oang oang, đây là loại người mà Uông Diểu khó chịu nhất.
“Uông Diểu?” Cách gọi thẳng tên bỗ bã khiến Uông Diểu rất khó chịu, huống hồ khi gọi gã còn cúi đầu châm thuốc lá, chẳng buồn ngẩng lên. Không đợi Uông Diểu trả lời, gã đã ra hiệu cho người trẻ tuổi bên cạnh, anh ta liền giơ thẻ cảnh sát cho Uông Diểu xem, còn gã sau khi châm thuốc thì xăm xăm đi thẳng vào trong nhà.
“Làm ơn không hút thuốc trong nhà tôi.” Uông Diểu ngăn gã lại.
“Ồ, xin lỗi, thầy giáo Uông. Đây là đội trưởng Sử Cường của chúng tôi.” Viên cảnh sát trẻ mỉm cười nói, đồng thời đưa mắt ra hiệu với người họ Sử.
“Được, vậy thì nói chuyện ở hành lang nhé.” Sử Cường nói, đoạn rít sâu một hơi, điếu thuốc trên tay ngắn đi gần nửa, nhưng gã không nhả khói ra. “Cậu hỏi đi.” Gã lại hất đầu về phía viên cảnh sát trẻ.
“Thầy giáo Uông, chúng tôi muốn tìm hiểu một chút, gần đây anh đã tiếp xúc với thành viên của hội học thuật Biên giới Khoa học đúng không?”
“Biên giới Khoa học là một tổ chức học thuật rất có ảnh hưởng trong giới học thuật quốc tế, thành viên đều là các học giả nổi tiếng. Đây là một tổ chức học thuật hợp pháp, sao tôi lại không thể tiếp xúc chứ?”
“Cái anh này, nhìn lại mình đi!” Sử Cường lớn tiếng nói, “Chúng tôi có bảo nó không hợp pháp đâu hả? Đã ai bảo không cho anh tiếp xúc chưa?” Gã vừa nói, khói thuốc lúc nãy rít vào đều phả cả vào mặt Uông Diểu.
“Được thôi, chuyện này là việc riêng, tôi không cần thiết phải trả lời câu hỏi của các anh.”
“Cái gì cũng thành việc riêng hết cả thế này, anh là học giả nổi tiếng, phải có trách nhiệm với an ninh chung chứ.” Sử Cường ném điếu thuốc trên tay đi, lại rút trong bao thuốc bẹp gí ra một điếu nữa.
“Tôi có quyền không trả lời, mời các anh đi đi cho.” Uông Diểu nói dứt lời, toan quay người vào nhà.
“Đợi đã!” Sử Cường xẵng giọng nói, đồng thời vẫy tay bảo viên cảnh sát trẻ bên cạnh, “Đưa cho anh ta địa chỉ và số điện thoại, buổi chiều còn đến đó.”
“Anh muốn làm gì hả!” Uông Diểu phẫn nộ chất vấn, nghe tiếng cãi vã, hàng xóm xung quanh cũng thò đầu ra xem có chuyện gì.
“Đội trưởng Sử! Anh nói năng…” Viên cảnh sát trẻ tuổi tức giận kéo Sử Cường sang một bên, rõ ràng không chỉ một mình Uông Diểu khó chịu với thái độ thô lỗ của gã.
“Thầy giáo Uông, xin chớ hiểu lầm.” Một sĩ quan mang quân hàm thiếu tá vội bước lên, “Chiều nay có một hội nghị quan trọng, cần mời mấy vị học giả và chuyên gia tham gia, thủ trưởng bảo chúng tôi đến mời anh.”
“Chiều nay tôi rất bận.”
“Việc này chúng tôi biết, thủ trưởng đã đánh tiếng với lãnh đạo của Trung tâm nghiên cứu nano, hội nghị này không thể thiếu anh được, nếu quả tình không ổn, chúng tôi đành phải hoãn lại để đợi anh vậy.”
Sử Cường và đồng nghiệp của gã không nói gì nữa, quay người đi xuống nhà, hai viên sĩ quan nhìn họ đi xa dần, cơ hồ đều thở phào một tiếng.
“Người này sao lại thế nhỉ.” Viên thiếu tá nói với cộng sự.
“Gã này tai tiếng lắm, mấy năm trước trong một vụ bắt giữ con tin, gã đã mặc kệ sự sống chết của con tin, tự tiện hành động, dẫn đến một nhà ba người đều chết thảm trong tay tội phạm. Nghe nói gã còn qua lại thân thiết với bọn xã hội đen, dùng thế lực của băng đảng này để xử lý một băng đảng khác. Năm ngoái còn dùng cực hình ép cung, khiến một nghi phạm tàn phế, vì vậy đã bị đình chỉ công tác…”
“Loại người này sao lại được vào trung tâm tác chiến?”
“Thủ trưởng chỉ đích danh gã ta, chắc cũng phải có điểm gì đấy hơn người. Có điều, cấp trên rất hạn chế gã, ngoài những sự vụ của bên công an, họ gần như không cho gã biết chuyện gì cả.”
Trung tâm tác chiến? Đó là gì vậy? Uông Diểu thắc mắc nhìn hai sĩ quan đứng trước mặt mình.
Ô tô của Uông Diểu đi vào một khu nhà lớn ở ngoại thành, nhìn cánh cổng chỉ có số nhà mà không có biển tên đơn vị, Uông Diểu biết nơi này là địa bàn của quân đội chứ không phải của cảnh sát.
Hội nghị được tổ chức trong đại sảnh, vừa bước vào, Uông Diểu đã kinh ngạc trước sự hỗn loạn ở đây. Xung quanh đại sảnh là một vòng các thiết bị máy tính bày bừa bãi, bàn nào để không vừa thì kê luôn máy xuống sàn nhà, dây điện và dây mạng quấn vào nhau dưới đất; một đống bộ chuyển mạch không lắp lên giá mà đặt luôn lên trên máy chủ; mấy màn hình chiếu lớn dựng bừa ở góc đại sảnh, mỗi cái quay một hướng, trông như lều của người digan; khói thuốc tạo thành một tầng lơ lửng trên không trung như màn sương buổi sớm… Uông Diểu không biết đây có phải là trung tâm tác chiến mà hai viên sĩ quan kia nhắc đến hay không, nhưng anh có thể khẳng định một điều: bất kể mọi người ở đây đang xử lý việc gì, thì hẳn nó cũng quan trọng đến nỗi họ quên cả giữ hình tượng.
Trên chiếc bàn họp ghép tạm cũng chất đầy giấy tờ và các thứ linh tinh khác, người dự họp đa phần có vẻ mệt mỏi, quần áo nhăn nhúm, ai đeo cà vạt đều đã giật cả ra, hình như đã họp suốt cả đêm. Chủ trì cuộc họp là một vị thiếu tướng lục quân tên Thường Vĩ Tư, người dự họp có một nửa là quân nhân. Qua giới thiệu ngắn gọn, anh biết được người của cảnh sát chỉ chiếm một phần nhỏ, còn lại đều là các học giả và chuyên gia giống anh tham gia dự họp, trong đó có mấy nhà khoa học rất tiếng tăm, vả lại còn là những người nghiên cứu khoa học cơ bản.
Điều khiến Uông Diểu bất ngờ là ở đây còn có bốn người nước ngoài, thân phận của những người này làm anh giật mình kinh ngạc: hai người trong số họ cũng là quân nhân, lần lượt là thượng tá không quân Hoa Kỳ và thượng tá lục quân Anh quốc, đảm nhiệm vai trò liên lạc viên của NATO; hai người khác là quan chức của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ, đóng vai trò quan sát viên gì đó.
Từ gương mặt của tất cả mọi người ở đây, Uông Diểu đọc ra được một câu: chúng tôi đã cố hết sức rồi, mau kết thúc cha nó đi!
Uông Diểu trông thấy Sử Cường, trái hẳn với thái độ thô lỗ hôm qua, gã ta vẫy tay chào anh, nhưng nụ cười nhăn nhở của gã làm Uông Diểu chẳng thể nào vui nổi. Anh không muốn ngồi cạnh Sử Cường, nhưng cũng chỉ còn một chỗ trống duy nhất đó, đành phải ngồi xuống, mùi thuốc vốn dĩ đã rất nồng nặc trong phòng nay càng nặng hơn.
Lúc phát tài liệu, Sử Cường nhích lại gần Uông Diểu nói: “Thầy giáo Uông, hình như anh nghiên cứu… vật liệu mới gì đó hả?”
“Vật liệu nano.” Uông Diểu trả lời ngắn gọn.
“Tôi nghe nói, thứ đó rất bền, sẽ không bị dùng vào hành vi phạm tội chứ?” Từ vẻ mặt nữa giễu cợt nửa không ấy của Sử Cường, Uông Diểu không nhìn ra được gã có phải đang nói đùa hay không.
“Nghĩa là sao?”
“À, nghe nói thứ đó chỉ cần một sợi mảnh như sợi tóc là treo được cả cái xe tải lớn lên, nếu bọn tội phạm trộm đi một tí làm thành con dao, vậy thì chém một phát là cắt được xe hơi ra làm đôi còn gì.”
“Hừ, cần gì phải làm dao, dùng loại vật liệu ấy làm thành một sợi dây mảnh bằng 1% sợi tóc, căng ra ngang đường là có thể cắt xe cộ đi qua đi lại thành hai nửa dễ như cắt bơ vậy… Thứ gì mà chẳng dùng để phạm tội được? Dao đánh vảy cá cũng được nữa là!”
Sử Cường rút tập tài liệu trong túi trước mặt ra nửa chừng rồi lại nhét trở vào, rõ ràng là chẳng hứng thú gì. “Nói đúng lắm, cá cũng dùng để phạm tội được cơ mà! Tôi từng điều tra một vụ giết người, con mụ đó còn cắt phéng món đồ chơi của ông chồng đi. Biết dùng cái gì không? Cá rô phi đông lạnh trong tủ đá đấy! Cá sau khi để đông cứng lại, vây lưng sẽ sắc như dao vậy…”
“Tôi không có hứng, sao hả, yêu cầu tôi đến họp chính là vì chuyện này à?”
“Cá? Vật liệu nano? Không, không, không liên quan đến mấy thứ đó.” Sử
Cường ghé tai Uông Diểu, “Đừng nể mặt bọn người này, bọn chúng kỳ thị chúng ta đấy, chỉ muốn moi thông tin từ chỗ chúng ta nhưng lại chẳng cho chúng ta biết gì cả. Như tôi đây này, lăn lộn ở đây hơn tháng trời mà vẫn như anh, chẳng biết cái quái gì cả.”
“Các đồng chí, cuộc họp bắt đầu.” Tướng Thường Vĩ Tư nói, “Trong các vùng chiến sự trên toàn cầu, chỗ chúng ta giờ đã trở thành tiêu điểm. Trước tiên, sẽ giới thiệu qua một chút về tình hình trước mắt với các đồng chí dự họp.”
“Vùng chiến sự”, thuật ngữ đặc biệt này làm Uông Diểu ngơ ngẩn, anh để ý thấy, vị thủ trưởng này hình như không có ý định giới thiệu đầu đuôi mọi chuyện với người mới đến như mình, điều này quả có thể chứng minh lời Sử Cường vừa nói. Trong lời mở đầu cuộc họp ngắn gọn của vị tướng họ Thường, ông đã hai lần nhắc đến “các đồng chí”, Uông Diểu liếc nhìn hai quân nhân NATO và hai quan chức CIA ngồi đối diện, cảm giác như tướng quân đã quên nhắc đến “các ngài”.
“Họ cũng là đồng chí, nói chung người ở đây đều gọi như thế cả.” Sử Cường hạ giọng nói với Uông Diểu, đồng thời dùng điếu thuốc trên tay trỏ bốn người nước ngoài.
Cùng với cảm giác ngỡ ngàng, Uông Diểu cũng có đôi phần ấn tượng với khả năng quan sát của Sử Cường.
“Đại Sử, cậu tắt thuốc đi, mùi thuốc lá ở đây đã nặng lắm rồi.” Thường Vĩ Tư nói, đoạn cúi đầu lật giở tài liệu.
Sử Cường cầm điếu thuốc vừa châm nhìn ngó xung quanh, không tìm thấy gạt tàn bèn bỏ luôn vào cốc trà đánh “xèo” một tiếng. Gã tranh thủ cơ hội này giơ tay phát biểu, rồi không đợi Thường Vĩ Tư tỏ thái độ, gã đã lớn tiếng nói: “Thủ trưởng, tôi có một yêu cầu, lúc trước đã nói đến rồi… chính là bình đẳng thông tin!”
Thiếu tướng Thường Vĩ Tư ngẩng đầu lên, “Không có chiến dịch quân sự nào được bình đẳng thông tin cả, về điểm này cũng mong các vị chuyên gia và học giả tham gia hội nghị lượng thứ cho, chúng tôi không thể giới thiệu với các vị nhiều thông tin về bối cảnh hơn được.”
“Nhưng chúng tôi thì khác.” Sử Cường nói, “Cảnh sát đã tham gia ngay từ khi trung tâm tác chiến mới thành lập, nhưng đến tận bây giờ chúng tôi thậm chí vẫn chưa biết tổ chức này rốt cuộc đang làm cái gì nữa. Vả lại, các vị đang gạt bỏ cảnh sát ra ngoài, các vị từng bước làm quen công việc của chúng tôi, sau đó lần lượt gạt chúng tôi ra, hết người này đến người khác.”
Mấy sĩ quan cảnh sát dự họp khẽ giọng ngăn Sử Cường lại. Uông Diểu hơi ngạc nhiên, không ngờ Sử Cường lại dám nói năng như vậy với thủ trưởng cấp bậc cao như Thường Vĩ Tư, nhưng câu đáp trả của đối phương sau đó lại càng sắc nhọn hơn.
“Sử Cường à, tôi bảo cậu này, giờ nhìn lại mới thấy tật cũ của cậu hồi còn trong quân đội vẫn chưa sửa được. Cậu có thể đại diện cho cảnh sát sao? Cậu đã bị đình chỉ công tác mấy tháng vì có hành vi sai trái rồi, sắp sửa bị loại khỏi đội ngũ công an đến nơi. Tôi điều cậu đến đây, là vì coi trọng kinh nghiệm của cậu trên phương diện nghiệp vụ cảnh sát ở đô thị, cậu phải trân trọng lấy cơ hội này chứ.”
Sử Cường oang oang nói: “Vậy là tôi phải lập công chuộc tội chứ gì? Các anh chẳng đã nói đó đều là những kinh nghiệm bàng môn tả đạo cơ mà?”
“Nhưng hữu dụng.” Thường Vĩ Tư gật đầu với Sử Cường, “Hữu dụng là được, giờ không lo được nhiều chuyện như vậy nữa rồi, đang là thời chiến.”
“Chẳng thể lo được chuyện gì nữa đâu.” Một nhân viên tình báo CIA nói bằng tiếng phổ thông chuẩn, “Chúng ta không thể tư duy theo quy tắc thông thường nữa.”
Viên thượng tá người Anh rõ ràng cũng hiểu được tiếng Trung, gật đầu: “To be or not to be…”
“Anh ta nói cái gì vậy?” Sử Cường hỏi Uông Diểu.
“Không có gì.” Uông Diểu máy móc trả lời. Những người này hình như đang nói mớ thì phải, thời chiến? Chiến tranh ở đâu? Anh ngoảnh đầu nhìn ra ô cửa sổ kiểu Pháp của gian đại sảnh, qua cửa sổ, có thể thấy thành phố xa xa bên ngoài khu nhà: dưới ánh mặt trời mùa xuân, trên đường xe cộ qua lại như mắc cửi, trên bãi cỏ có người đang dắt chó, còn có mấy đứa trẻ đang nô đùa…
Thế giới bên trong và bên ngoài khu nhà này, đâu mới là chân thực?
Thiếu tướng Tường nói: “Gần đây, thế công của kẻ địch rõ ràng đã tăng mạnh, mục tiêu vẫn là các nhân vật cấp cao trong giới khoa học, mời các vị xem danh sách trong tập tài liệu trước.”
Uông Diểu rút tờ giấy trên cùng tập tài liệu ra, nội dung trên đó được in bằng cỡ chữ lớn, danh sách này rõ ràng được soạn rất gấp gáp, lẫn lộn cả tên tiếng Anh và tiếng Trung.
“Thầy giáo Uông, nhìn bảng danh sách này, anh có ấn tượng gì?” Thường Vĩ Tư nhìn Uông Diểu hỏi.
“Tôi biết ba người trong đó, đều là học giả nổi tiếng hàng đầu trong nghành vật lý.” Uông Diểu trả lời, nhưng tâm tư hình như lại để ở nơi nào khác, ánh mắt anh bị hút chặt vào cái tên cuối cùng, trong tiềm thức của Uông Diểu, màu sắc của hai chữ này khác hẳn mấy hàng chữ bên trên. Sao lại có tên cô ấy ở đây nhỉ? Cô ấy sao rồi?
“Quen nhau à?” Sử Cường dùng đầu ngón tay to bè ám vàng khói thuốc chỉ vào cái tên đó trên danh sách, thấy Uông Diểu không đáp, gã nói ngay: “Ồ, không quen lắm. Muốn làm quen à?”
Lúc này, Uông Diểu đã biết Thường Vĩ Tư điều chiến sĩ thuộc cấp của ông ta trước đây đến là có lý của ông ta, gã này trông bề ngoài có vẻ thô lỗ, mà mắt quan sát lại sắc như dao vậy.Có lẽ gã không phải một cảnh sát tốt, nhưng quả là một kẻ lợi hại.
Đó là chuyện một năm về trước, Uông Diểu là người phụ trách các bộ phận linh kiện nano của dự án máy gia tốc hạt “Trung Hoa 2”. Chiều hôm ấy ở công trường Lương Tương, trong giờ nghỉ ngắn, anh bất ngờ bị bố cục trước mặt thu hút. Là một người thích chụp ảnh phong cảnh, những cảnh tượng hiện thực dưới mắt anh thường trở thành những bố cục nghệ thuật. Trọng tâm của bố cục ấy chính là cuộn dây siêu dẫn mà họ đang lắp ráp, cuộn dây to bằng tòa nhà ba tầng, đã lắp đặt được một nửa, thoạt trông như một con quái vật ghép từ những khối kim loại khổng lồ và đường ống dẫn chất làm lạnh nhiệt độ siêu thấp chằng chịt, hoặc tựa như một đống rác lớn của thời đại đại công nghiệp, nó toát lên một vẻ man dại của sắt thép và vẻ lạnh lùng của thứ kỹ thuật phi nhân tính. Trước mặt con quái thú khổng lồ bằng kim loại này, xuất hiện bóng hình một phụ nữ trẻ. Phân bố ánh sáng trong bố cục này cũng rất tuyệt diệu: quái thú khổng lồ bằng kim loại bị khuất trong bóng tối dưới trần tòa nhà dựng tạm, càng tô đậm thêm cảm giác lạnh lẽo, thô ráp; cột sáng vàng của vầng dương lúc chiều tà xuyên qua cái lỗ trên trần rọi đúng vào bóng dáng kia, ánh sang dịu dàng ấm áp chiếu lên mái tóc mềm mại của cô, lên chiếc cổ trắng ngần phía trên chiếc bảo hộ lao động, trông như thể một đóa hoa nở trên đống phế tích kim loại khổng lồ sau cơn dông tố dữ dội…
“Nhìn gì mà nhìn, làm việc đi!”
Uông Diểu giật thót mình, sau đó phát hiện người bị giám đốc Trung tâm nghiên cứu nano nhắc nhở không phải là anh, mà là một kỹ sư trẻ, cũng đang ngây người ra nhìn cô gái kia. Thoát khỏi không gian nghệ thuật trở về với hiện thực, Uông Diểu chợt nhận ra người phụ nữ đó không phải nhân viên bình thường, vì kỹ sư trưởng đi cùng với cô đang giới thiệu gì đó, có vẻ rất kính trọng.
“Cô ấy là ai vậy?” Uông Diểu hỏi giám đốc.
“Cậu hẳn phải biết cô ấy chứ,” giám đốc vừa nói vừa khoát tay, “sau khi máy gia tốc đầu tư 20 tỷ này xây dựng xong, lần vận hành đầu tiên có khả năng chính là để nghiệm chứng một mô hình siêu dây(*) mà cô ấy đề ra. Nói ra thì ở trong giới nghiên cứu lý thuyết rất coi trọng thâm niên và vai vế ấy, vốn dĩ không đến lượt cô ấy đâu, nhưng mấy lão già kia không dám làm trước, sợ mất mặt, nên mới để cô ấy tranh trước.”
(*) Về lý thuyết dây, có thể đọc trong cuốn Các thế giới song song của Michio Kaku (NXB Thế Giới, 2015). Chú thích của người dịch. Từ đây về sau những chú thích không ghi rõ là tác giả thì đều là của người dịch.
“Cái gì? Dương Đông là… phụ nữ?!” “Đúng thế, chúng tôi cũng mới biết
lúc gặp cô ấy hôm kia.” Giám đốc nói.
Tay kỹ sư hỏi: “Có phải cô ấy có trở ngại tâm lý gì không, nếu không tại sao chưa bao giờ xuất hiện trên truyền thông vậy? Đừng giống như Tiền Trung Thư (*) chứ, đến lúc chết người ta cũng không thể trông thấy ông ta trên ti vi một lần.”
(*) Tiền Trung Thư (1910-1998) là một học giả và nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc. Ông là tác giả cuốn tiểu thuyết Vi thành.
“Nhưng chúng ta cũng đâu tới nỗi không biết giới tính của Tiền Trung Thu đâu? Tôi cảm thấy thuở nhỏ nhất định cô ấy đã trải qua chuyện gì đó không bình thường, đến nỗi bị bệnh tự kỷ.” Uông Diểu nói, ít nhiều cũng có chút tâm lý “nho còn xanh lắm.”
Dương Đông và kỹ sư trưởng đi ngang qua, cô mỉm cười gật đầu với họ, không nói câu nào, nhưng Uông Diểu đã nhớ kỹ đôi mắt trong veo ấy.
Tối hôm đó, Uông Diểu ngồi trong phòng làm việc thưởng thức mấy tác phẩm chụp phong cảnh mà mình đắc ý nhất treo trên tường, ánh mắt anh dừng ở một bức chụp cảnh vùng núi phía Bắc Trường Thành… Đó là một khe núi hoang lương, sâu tít bên trong nhô lên một mỏm núi tuyết trắng xóa; phía bên này khe núi, nửa cành cây khô dãi dầu sương gió chiếm gần như một phần ba khung cảnh. Uông Diểu âm thầm tưởng tượng, lồng ghép bóng hình vẫn luẩn quẩn trong tâm trí mình lên tấm ảnh, đặt cô vào sâu trong khe núi, nhìn nhỏ xíu. Lúc này, Uông Diểu mới kinh ngạc nhận ra, cả bức hình chợt sống động hẳn lên, tựa hồ thế giới trong ảnh nhận ra bóng dáng ấy, như thể tất cả nhứng thứ này vốn dĩ đều tồn tại vì cô. Anh lại lần lượt dùng trí tưởng tượng đặt chồng hình ảnh đó lên mấy tác phẩm khác, có lúc còn dùng đôi mắt cô làm nền cho bầu trời mênh mang trong ảnh, những bức ảnh đó cũng đều sống dậy, lộ ra một vẻ đẹp mà Uông Diểu chưa bao giờ tưởng tượng ra. Lúc trước, Uông Diểu luôn có cảm giác những bức ảnh của mình thiếu linh hồn; giờ thì anh đã biết, thứ bị thiếu đi ấy, chính là cô.
“Những nhà vật lý học trong dach sách này đều đã lần lượt tự sát trong thời gian chưa đầy hai tháng.” Thường Vĩ Tư nói.
Như sét đánh ngang tai, đầu óc Uông Diểu trống rỗng. Sau đó, trong sự trống rỗng dần dần hiện ra hình ảnh, đó là những tấm ảnh đen trắng chụp phong cảnh của anh, mặt đất trong ảnh không còn bóng dáng của cô nữa, bầu trời đã xóa đi đôi mắt cô, thế giới ấy đã chết rồi.
“Lúc… lúc nào vậy?” Uông Diểu đờ đẫn hỏi.
“Trong vòng hai tháng gần đây.” Thiếu tướng Thường Vĩ Tư nhắc lại.
“Anh muốn hỏi người cuối cùng à?” Sử Cường ngồi bên cạnh Uông Diểu đắc ý hỏi, sau đó hạ giọng đáp, “cô ấy là người tự sát cuối cùng, tối hôm kia, uống thuốc ngủ quá liều. Cô ấy chết rất nhẹ nhàng, không đau đớn gì.”
Trong khoảnh khắc, Uông Diểu thoáng thấy biết ơn Sử Cường.
“Tại sao?” Uông Diểu hỏi, những phong cảnh đã chết trong ảnh vẫn lần lượt hiện lên trong tâm trí anh, tựa như những ngọn đèn ma.
Thường Vĩ Tư trả lời: “Giờ chỉ có thể khẳng định một điều: nguyên nhân đẩy họ đến chỗ tự sát là giống nhau. Nhưng bản thân nguyên nhân này lại rất khó nói rõ ở đây, hay nói cách khác là không thể giải thích rõ được với những người không chuyên như chúng tôi. Trong hồ sơ có kèm theo một phần nội dung di thư của họ, sau cuộc họp, các vị có thể xem kỹ lại.”
Uông Diểu lật xem bản sao của những bức di thư ấy, toàn là những lời lẽ dài dòng đao to búa lớn.
“Tiến sĩ Đinh Nghị, anh có thể cho thầy giáo Uông xem di thư của Dương Đông không? Cô ấy viết ngắn gọn và có tính khái quát nhất.”
Người này nãy giờ vẫn cuối đầu im lặng, một hồi lâu sau mới có phản ứng, lấy ra một phong bì màu trắng vươn qua bàn đưa cho Uông Diểu, Sử Cường ở bên cạnh thì thào: “Anh ta là bạn trai của Đông Dương.” Uông Diểu giờ mới nhớ ra mình cũng từng gặp Đinh Nghị ở công trường xây dựng máy gia tốc hạt tại Lương Tương, anh ta là thành viên của nhóm lý thuyết, nhà vật lý này nổi tiếng nhờ phát hiện ra đại nguyên tử trong nghiên cứu sét hòn (*). Uông Diểu rút trong phong bì ra một thứ thoang thoảng mùi hương thanh mát, hình dạng nham nhở, chẳng phải giấy, mà lại là một mảnh vỏ cây bạch dương, bên trên có một hàng chữ rất đẹp:
(*) Tham khảo cuốn Sét hòn xuất bản năm 2004 của tác giả. (TG)
Tất cả của tất cả đều dẫn đến một kết quả như vậy: vật lý chưa từng tồn tại, trong tương lai cũng sẽ không tồn tại. Tôi biết mình làm như vậy là vô trách nhiệm, nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác.
Thậm chí còn không ký tên, cô ấy đã ra đi rồi.
“Vật lý… không tồn tại?” Uông Diểu hoang mang đưa mắt nhìn quanh.
Thiếu tướng Thường Vĩ Tư gấp cặp tài liệu lại, “Có một số thông tin cụ thể có liên quan tới kết quả thí nghiệm của ba cỗ máy gia tốc hạt mới trên thế giới, rất chuyên môn, chúng ta không thảo luận ở đây. Điều chúng ta cần điều tra trước tiên là hội học thuật Biên giới Khoa học. UNESCO đã đặt 2005 là Năm Vật lý thế giới, tổ chức này đã dần dần hình thành qua những hội thảo học thuật và hoạt động giao lưu của giới nghiên cứu vật lý quốc tế được tổ chức liên tục trong năm đó, đây là một tổ chức học thuật quốc tế khá phân tán. Tiến sĩ Đinh, anh nghiên cứu chuyên nghành vật lý lý thuyết, có thể giới thiệu kỹ hơn một chút về tình hình của nó được không?”
Đinh Nghị gật đầu: “Tôi không có liên hệ trực tiếp nào với Biên giới Khoa học, có điều tổ chức này rất có tiếng trong giới học thuật. Tôn chỉ của nó là: từ nửa sau của thế kỷ trước đến nay, tính chính xác và giản dị trong lý thuyết vật lý cổ điển đã dần dần biến mất, các mô hình lý thuyết hiện đại trở nên càng ngày càng phức tạp, mơ hồ và bất định, việc kiểm chứng bằng thực nghiệm cũng càng lúc càng khó, điều này chứng tỏ việc thăm dò mở đường của nghành vật lý dường như đang gặp phải chướng ngại và khó khăn rất lớn. Biên giới Khoa học toan tính mở ra một đường lối tư duy mới, nói một cách đơn giản là dùng phương pháp khoa học để tìm ra giới hạn của khoa học, có ý đồ xác định xem phải chăng, xét về chiều sâu và độ chính xác, nhận thức của khoa học đối với thế giới tự nhiên có tồn tại một ranh giới… bên kia ranh giới ấy là khu vực khoa học không thể tiến xa hơn. Sự phát triển của vật lý học hiện đại, dường như đã loáng thoáng chạm vào ranh giới này.”
“Rất tốt.” Thường Vĩ Tư nói, “Theo những gì chúng ta tìm hiểu được, những học giả tự sát này hầu hết đều từng có liên hệ với Biên giới Khoa học, một số người còn là thành viên của nó nữa. Nhưng vẫn chưa phát hiện các hành vi phạm tội kiểu như tà giáo khống chế tinh thần hoặc sử dụng các loại thuốc trái pháp luật. Tức là, cho dù Biên giới Khoa học có gây ảnh hưởng tới những học giả đó thì cũng là thông qua con đường trao đổi học thuật hợp pháp. Thầy giáo Uông, gần đây họ có liên hệ với anh, chúng tôi muốn tìm hiểu một số chuyện.”
Sử Cường thô lỗ cất tiếng oang oang: “Bao gồm cả họ tên người liên hệ, địa điểm và thời gian gặp mặt, nội dung cuộc nói chuyện, nếu có trao đổi tài liệu văn tự hoặc thư điện tử…”
“Đại Sử!” Thường Vĩ Tư lớn tiếng ngăn anh ta lại.
“Không lên tiếng thì không ai bảo anh bị câm đâu!” Một sĩ quan cảnh sát bên cạnh vươn người qua nói khẽ với Sử
Cường, gã ta cầm cốc trà trên bàn lên, trông thấy đầu mẩu thuốc bên trong lại đặt xuống đánh “cạch” một tiếng.
Sử Cường lại làm Uông Diểu có cảm giác khó chịu như nuốt phải một con ruồi, chút cảm kích khi nãy đã biến mất không còn tăm tích. Nhưng anh vẫn kiềm chế, trả lời: “Tôi tiếp xúc với Biên giới Khoa học bắt đầu từ lúc quen với Thân Ngọc Phi, cô ấy là một nhà vật lý người Nhật gốc Hoa, hiện nay đang làm việc cho một công ty có vốn đầu tư Nhật, cũng sống trong thành phố này. Cô ấy từng nghiên cứu vật liệu nano trong một phòng thí nghiệm thuộc công ty Mitsubishi, chúng tôi quen nhau trong một hội nghị nghiên cứu công nghệ đầu năm nay.
Thông qua cô ấy, tôi lại quen thêm mấy người bạn trong ngành vật lý, đều là thành viên của Biên giới Khoa học, có cả trong nước lẫn nước ngoài. Lúc qua lại với bọn họ, câu chuyện đều là về một số vấn đề… Nói thế nào nhỉ, rất cấp tiến, chủ yếu là vấn đề về ranh giới của khoa học mà tiến sĩ Đinh vừa nhắc đến.
“Thoạt đầu tôi không có hứng thú lắm với những vấn đề này, chỉ coi như một thú tiêu khiển. Tôi là người làm nghiên cứu ứng dụng, không am hiểu sâu về lĩnh vực này, chủ yếu là nghe họ thảo luận. Tư tưởng của những người này đều rất sâu sắc, quan điểm mới lạ, tôi cảm thấy giao lưu với họ, đầu óc mình cũng mở mang ra nhiều, dần dần bị cuốn vào.
Nhưng vấn đề thảo luận chỉ giới hạn ở đó, toàn là lý thuyết thuần túy ở mãi tận đâu đâu, không có gì đặc biệt cả. Họ từng mời tôi gia nhập Biên giới Khoa học, nhưng nếu vậy thì việc tham gia các hội nghị nghiên cứu như thế sẽ trở thành một thứ nghĩa vụ, tôi tinh lực có hạn nên đã từ chối.”
“Thầy giáo Uông, chúng tôi hi vọng anh nhận lời mời đó, gia nhập vào hội học thuật Biên giới Khoa học, đây cũng là mục đích chính mà chúng tôi mời anh đến hôm nay.” Thiếu tướng Thường nói, “Chúng tôi hi vọng có thể thông qua anh để có được một số thông tin nội bộ của tổ chức này.”
“Ý ông là muốn tôi đi nằm vùng hả?” Uông Diểu lo lắng hỏi.
“Ha ha ha, nằm vùng!” Sử Cường cười lớn.
Thường Vĩ Tư liếc nhìn gã ta vẻ trách móc, đoạn nói với Uông Diểu: “Chỉ là cung cấp một số thông tin, chúng tôi cũng không còn kênh nào khác nữa.”
Uông Diểu lắc đầu: “Xin lỗi, thủ trưởng. Tôi không thể làm chuyện này được.”
“Thầy giáo Uông, Biên giới Khoa học là một tổ chức toàn các học giả hàng đầu thế giới, điều tra nó là chuyện cực kỳ phức tạp và nhạy cảm, thực tình, chúng tôi như đang bước đi trên lớp băng mỏng. Không được giới trí thức giúp đỡ, chúng tôi muốn nhích một bước cũng khó khăn, vì thế mới đưa ra yêu cầu đường đột như vậy, hy vọng anh thông cảm cho. Có điều, chúng tôi cũng tôn trọng ý nguyện của anh, nếu anh không đồng ý, chúng tôi cũng có thể hiểu được.”
“Tôi… rất bận, cũng không có thời gian.” Uông Diểu thoái thác.
Thường Vĩ Tư gật đầu, “Được rồi, thầy giáo Uông, vậy tôi không làm mất thời gian của anh nữa, cảm ơn anh đã đến tham gia cuộc họp này.”
Uông Diểu ngẩn người ra mấy giây mới hiểu là mình cần phải rời khỏi đây.
Trong khi Thường Vĩ Tư lịch thiệp tiễn Uông Diểu ra cửa phòng họp, Sử Cường ở phía sau lớn tiếng nói: “Thế này rất hay, tôi hoàn toàn không đồng ý với phương án này. Đã có bao nhiêu con mọt sách tìm lấy cái chết rồi, để anh ta đi thì khác gì mang bánh bao thịt ném chó đâu chứ?”
Uông Diểu quay người lại, đi tới bên cạnh Sử Cường, cố nén cơn giận đang trào lên, “Anh nói năng như vậy thực sự không giống với một sĩ quan cảnh sát tiêu chuẩn đâu.”
“Tôi vốn không phải mà.”
“Nguyên nhân những học giả ấy tự sát vẫn còn chưa rõ ràng. Anh không nên nói về họ với giọng điệu khinh miệt như vậy, những cống hiến trí tuệ của họ cho nhân loại không một ai thay thế được đâu.”
“Anh nói bọn họ giỏi hơn tôi hả?” Sử Cường ngồi trên ghế ngửa đầu nhìn Uông Diểu, “Tôi đây chẳng đến nỗi nghe người ta nói vài câu là đã đi tự tử đâu.”
“Ý anh là tôi sẽ thế hay sao?”
“Thì cũng phải có trách nhiệm với sự an toàn của anh chứ.” Sử Cường nhìn Uông Diểu, lại lộ ra nụ cười nhăn nhở cố hữu.
“Trong tình huống đó, tôi còn an toàn hơn anh nhiều, anh cần phải biết, khả năng phân định đúng sai phải trái của một người tỷ lệ thuận với trí thức của người đó đấy.”
“Thế thì chưa chắc, người như anh đây…”
“Đại Sử, cậu còn nói thêm một câu nữa thì cũng ra khỏi chỗ này luôn đi!” Thường Vĩ Tư nghiêm giọng gắt lên.
“Không sao, để anh ta nói,” Uông Diểu quay sang vị thiếu tướng, “tôi đổi ý rồi, tôi quyết định sẽ theo ý ông, gia nhập vào Biên giới Khoa học.”
“Tốt lắm,” Sử Cường gật đầu lia lịa, “vào đó rồi thì lanh lợi một chút nhé, có một số việc quơ tay là làm được, ví dụ như liếc qua máy tính của bọn họ, nhớ lấy địa chỉ email hay địa chỉ trang web gì gì đó…”
“Đủ rồi, đủ rồi! Anh hiểu lầm rồi, tôi không đi làm gián điệp, mà chỉ muốn chứng minh sự ngu xuẩn và vô tri của anh thôi!”
“Nếu qua được trận này mà anh vẫn còn sống thì điều đó đương nhiên sẽ được chứng minh. Có điều, sợ rằng… hì hì.” Sử Cường ngửa đầu, nụ cười nhăn nhở biến thành điệu cười gằn ác độc.
“Tất nhiên tôi sẽ sống tiếp, nhưng thực tình tôi không muốn gặp lại loại người như anh nữa đâu!”
Thường Vĩ Tư tiễn Uông Diểu xuống tận cầu thang, rồi dặn xe đưa anh về, lúc từ biệt, ông nói: “Tính cách Sử Cường là vậy đây, kỳ thực anh ta là một cảnh sát hình sự và chuyên gia chống khủng bố rất giàu kinh nghiệm. Hơn hai mươi năm trước, anh ta từng là chiến sĩ trong đại đội của tôi.”
Đi tới trước cửa xe, Thường Vĩ Tư lại nói: “Thầy giáo Uông, nhất định là anh có rất nhiều điều muốn hỏi.”
“Những điều ông nói lúc nãy, có liên quan gì với quân đội không?”
“Chiến tranh và quân đội tất nhiên là có liên quan rồi.”
Uông Diểu ngẩn ngơ quan sát mọi thứ trong ánh nắng xuân rực rỡ xung quanh, “Nhưng chiến tranh ở đâu? Hiện giờ toàn cầu không có điểm nóng nào cả, có lẽ đây là những năm tháng hòa bình nhất trong lịch sử nhân loại rồi còn gì?”
Thường Vĩ Tư nở một nụ cười bí hiểm: “Anh sẽ biết mọi thứ rất nhanh thôi, tất cả mọi người đều sẽ biết. Thầy giáo Uông, trong đời anh đã trải qua biến cố nào lớn chưa? Biến cố thay đổi hoàn toàn cuộc sống của anh, khiến cho đối với anh, cả thế giới này bỗng trở nên hoàn toàn khác biệt chỉ sau một đêm ấy.”
“Không có.”
“Vậy thì cuộc sống của anh là một sự may mắn lạ lùng, thế giới có bao nhiêu nhân tố biến ảo khó lường như vậy mà cuộc đời anh lại không có biến cố gì.”
Uông Diểu ngẫm nghĩ hồi lâu vẫn không hiểu được. “Hầu hết mọi người đều như vậy mà.”
“Thế thì cuộc đời của hầu hết mọi người đều may mắn lạ lùng.”
“Nhưng… bao nhiêu đời nay người ta đều sống bình đạm như vậy mà.”
“Đều là may mắn cả.”
Uông Diểu lắc đầu bật cười, “Phải thừa nhận là năng lực lý giải của tôi hôm nay quá kém cỏi, thiếu tướng nói vậy chẳng phải là…”
“Đúng thế, toàn bộ lịch sử nhân loại cũng là một sự may mắn lạ lùng, từ thời đại Đồ đá đến ngày hôm nay không có biến cố gì lớn lao, thật may mắn. Nhưng nếu đã là may mắn, bây giờ tôi nói cho anh biết, nó kết thúc rồi, hãy chuẩn bị sẵn tâm lý đi.”
Uông Diểu còn muốn hỏi nữa, nhưng thiếu tướng đã bắt tay từ biệt, ngăn những câu hỏi kế tiếp của anh.
Lên xe, tài xế hỏi địa chỉ nhà Uông Diểu, anh trả lời rồi thuận miệng hỏi: “Này, người đến đón tôi không phải là anh nhỉ? Tôi thấy xe giống nhau mà.”
“Không phải tôi, tôi đi đón tiến sĩ Đinh.”
Uông Diểu thoáng động tâm, liền hỏi tay tài xế chỗ ở của Đinh Nghị. Tối hôm đó, anh đã đi tìm Đinh Nghị.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 08:21:35 bởi huytran >
#1
    huytran 30.07.2017 02:39:07 (permalink)
    Chương 2 : Xạ thủ và Chủ nông trại  
     
    Vừa đẩy cửa căn hộ ba phòng ngủ mới tinh của Đinh Nghị, Uông Diểu ngửi thấy mùi rượu xộc lên, trông thấy Đinh Nghị nằm trên xô pha, ti vi đang mở song hai mắt anh ta lại ngước lên trần nhà. Uông Diểu đưa mắt quan sát xung quanh, thấy căn hộ vẫn chưa sửa sang gì, cũng không có đồ đạc bày biện, phòng khách rộng rãi có vẻ rất trống trải, đập vào mắt là chiếc bàn bi a đặt ở góc phòng.
    Uông Diểu không mời mà đến nhưng Đinh Nghị cũng không tỏ ra khó chịu, hiển nhiên anh ta cũng muốn tìm người để nói chuyện.
    “Căn hộ này mới mua hồi ba tháng trước,” Đinh Nghị nói, “tôi mua nhà làm gì chứ? Lẽ nào cô ấy thật sự sẽ bước vào cuộc sống gia đình sao?” Anh ta ngà ngà say mỉm cười lắc lắc đầu.
    “Hai người…” Uông Diểu muốn biết mọi thứ về cuộc sống của Dương Đông, nhưng lại không biết nên hỏi như thế nào.
    “Cô ấy là một ngôi sao, lúc nào cũng xa xăm như thế, ánh sáng chiếu lên người tôi cũng luôn lạnh lẽo.” Đinh Nghị bước tới bên cửa sổ ngước nhìn bầu trời đêm, tựa như đang tìm kiếm ngôi sao đã khuất xa ấy.
    Uông Diểu cũng im lặng. Thật kỳ lạ, lúc này anh chỉ muốn nghe giọng cô, trong thời khắc vầng dương ngả về Tây một năm trước, khoảnh khắc ánh mắt giao nhau ấy, cô không nói gì, anh chưa bao giờ nghe thấy giọng của cô.
    Đinh Nghị xua tay như muốn xua thứ gì đó đi, giải thoát mình ra khỏi tâm trạng u uất. “Thầy giáo Uông, anh đúng đấy, đừng dây dưa với quân đội và cảnh sát làm gì, đó chỉ là một lũ ngu xuẩn tự cho mình là phải thôi. Việc những nhà vật lý kia tự sát chẳng liên quan gì đến Biên giới Khoa học cả, tôi đã nói với họ rồi nhưng không giải thích rõ được.”
    “Hình như họ cũng đã thực hiện một số cuộc điều tra.”
    “Đúng thế, vả lại còn là điều tra trên phạm vi toàn cầu nữa, vậy thì họ cũng phải biết rằng trong đó có hai người không hề dính dáng gì đến Biên giới Khoa học, bao gồm cả… Dương Đông.” Dường như Đinh Nghị phải rất cố gắng mới thốt ra được hai chữ ấy.
    “Đinh Nghị, anh biết đấy, bây giờ tôi cũng đã bị cuốn vào việc này rồi. Vì vậy, tôi rất muốn biết nguyên nhân khiến cho Dương Đông đưa ra lựa chọn ấy, tôi nghĩ anh nhất định biết được điều gì đó.” Uông Diểu vụng về nói, hòng che dấu tâm tư thật sự của mình.
    “Nếu biết rồi, anh sẽ chỉ lún sâu hơn mà thôi. Bây giờ, anh mới chỉ bị cuốn
    vào trên phương diện con người và công việc, biết được rồi, ngay cả tinh thần cũng bị cuốn vào theo, thế thì phiền phức to đấy.”
    “Tôi làm nghiên cứu ứng dụng, không nhạy được như phái lý thuyết bọn anh.”
    “Được rồi, anh chơi bi a bao giờ chưa?” Đinh Nghị bước tới trước bàn bi a.
    “Hồi đi học cũng chơi vui mấy lần.”
    “Tôi và cô ấy đều rất thích chơi, vì trò này làm chúng tôi nghĩ đến các hạt va đập nhau trong máy gia tốc.” Đinh Nghị vừa nói vừa cầm hai viên bi đen trắng lên, đặt bi đen bên cạnh lỗ, bi trắng cách bi đen khoảng 10cm, đoạn hỏi Uông Diểu: “Có thể đánh bi đen vào lỗ không?”
    “Gần như vậy ai mà chẳng đánh được.”
    “Thử đi.”
    Uông Diểu cầm gậy, gảy nhẹ vào viên bi trắng, đẩy viên bi đen chui tọt vào lỗ.
    “Rất tốt, nào, chúng ta đổi vị trí của cái bàn.” Đinh Nghị vẫy gọi Uông Diểu đang hoang mang ra mặt, hai người nhấc chiếc bàn bi a nặng nề lên chuyển nó ra cạnh cửa sổ trong phòng khách. Sau khi đặt vững, Đinh Nghị lấy viên bi đen trong lỗ ra, đặt nó bên cạnh miệng lỗ, rồi lại cầm viên bi trắng lên đặt xuống cách bi đen chừng 10cm, “Lần này còn có thể đánh vào lỗ không?”
    “Tất nhiên.” “Đánh đi.”
    Uông Diểu một lần nữa nhẹ nhàng đưa bi đen vào trong lỗ.
    “Khiêng nào.” Đinh Nghị vẫy tay ra hiệu, hai người lại khiêng bàn lên chuyển tới góc thứ ba trong phòng khách, Đinh Nghị lại đặt hai viên bi đen và bi trắng vào vị trí như lúc nãy, “Đánh đi.”
    “Tôi bảo này, chúng ta…” “Đánh đi.”
    Uông Diểu không biết làm sao, đành cười cười, lần thứ ba đưa bi đen vào lỗ.
    Họ lại kê bàn lại hai lần nữa, một lần khiêng đến chỗ góc cạnh cửa phòng khách, lần cuối cùng thì khiêng trở về vị trí ban đầu. Đinh Nghị lại đặt bi đen bi trắng ở trước miệng lỗ, Uông Diểu hai lần đánh bi đen vào trong. Lúc này, hai người đều đã toát mồ hôi.
    “Được rồi, thí nghiệm kết thúc, chúng ta phân tích kết quả một chút nhé.” Đinh Nghị châm một điếu thuốc, “Chúng ta tổng cộng tiến hành thí nghiệm năm lần, trong đó có bốn lần ở không gian và thời gian khác nhau, hai lần ở cùng một tọa độ không gian nhưng thời gian thì khác.
    Anh không kinh ngạc trước kết quả này à?” Đinh Nghị dang rộng hai tay vẻ khoa trương: “Năm lần, kết quả thí nghiệm va đập lại giống hệt như nhau!”
    “Rốt cuộc anh muốn nói điều gì vậy?” Uông Diểu thở hổn hển hỏi.
    “Giờ anh hãy giải thích kết quả khó mà tin nổi này đi, hãy dùng ngôn ngữ vật lý ấy.”
    “Ừm… trong năm thí nghiệm, khối lượng của hai viên bi không thay đổi; vị trí, tất nhiên là xét trên hệ quy chiếu là mặt bàn bi a, cũng không thay đổi; vector vận tốc của bi trắng va vào bi đen về cơ bản cũng không thay đổi, thế nên sự trao đổi động lượng giữa hai viên bi cũng
    không thay đổi, vì vậy trong năm lần thí nghiệm này, bi đen tất nhiên đều bị đánh lọt xuống lỗ.”
    Đinh Nghị cầm chai rượu brandy vứt trên sàn nhà lên, lần lượt rót đầy hai chiếc chén bẩn thỉu, đưa cho Uông Diểu một chén nhưng anh từ chối. “Phải chúc mừng một chút chứ, chúng ta đã phát hiện ra một quy luật vĩ đại: các định luật vật lý đều bất biến trong không gian và thời gian. Tất cả các lý thuyết vật lý trong lịch sử loài người, từ định luật Archimedes đến lý thuyết dây, cho đến tất cả những phát hiện khoa học và thành tựu tư tưởng của con người ở thời điểm này, đều là sản phẩm phụ của quy luật vĩ đại nói trên, so với chúng ta, Einstein và
    Hawking chỉ là những người làm ứng dụng tầm thường mà thôi.”
    “Tôi vẫn chưa hiểu anh muốn nói điều gì?”
    “Thử tưởng tượng ra một kết quả khác xem: lần đầu tiên, bi trắng đụng bi đen vào lỗ; lần thứ hai, bi đen chạy lệch; lần thứ ba, bi đen bay lên trần nhà; lần thứ tư, bi đen bay loạn xạ trong phòng như con chim sẻ hoảng hốt, rốt cuộc chui tọt vào túi áo anh; lần thứ năm, bi đen bay ra với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng làm mép bàn bi a thủng một lỗ, xuyên qua tường, sau đó bay khỏi Địa cầu, khỏi Thái dương hệ, giống như Asimov đã miêu tả ấy (*). Khi ấy anh sẽ nghĩ sao?”
    (*) Ở đây muốn nói đến truyện ngắn khoa học viễn tưởng “Bi a” của Issac Asimov. (TG)
    Đinh Nghị nhìn chằm chằm vào Uông Diểu, Uông Diểu im lặng một lúc lâu rồi mới hỏi: “Chuyện này đã thực sự xảy ra rồi, đúng không?”
    Đinh Nghị ngửa đầu dốc cả hai ly rượu trên tay vào miệng, mắt nhìn chằm chằm bàn bi a, như thể đó là một bóng ma, “Đúng thế, đã xảy ra. Những năm gần đây, điều kiện thực nghiệm kiểm chứng của nghiên cứu lý thuyết cơ sở đã dần dần thành thục, đã có ba chiếc ‘bàn bi a’ đắt giá được chế tạo ra, một chiếc ở Bắc Mỹ, một chiếc ở Châu Âu, còn một chiếc đương nhiên anh đã biết, ở Lương Tương, Trung Quốc, Trung tâm nghiên cứu nano của các anh cũng kiếm được từ đó không ít tiền.
    “Những máy gia tốc cực mạnh này truyền cho các hạt va chạm trong thí nghiệm một mức năng lượng lớn tới mức nhân loại chưa bao giờ làm được. Dưới tác dụng của mức năng lượng mới, cùng những hạt đó, cùng năng lượng va đập đó, tất cả mọi điều kiện thí nghiệm đều giống nhau, kết quả lại hoàn toàn khác biệt. Không những máy gia tốc khác nhau cho kết quả khác nhau, mà thí nghiệm trên cùng một máy gia tốc ở thời gian khác nhau cũng sẽ cho kết quả khác nhau, các nhà vật lý rối loạn, thực hiện đi thực hiện lại thí nghiệm va đập với năng lượng siêu cao này trong điều kiện tương đồng, nhưng kết quả lần nào cũng khác, cũng không có quy luật gì cả.”
    “Điều này có ý nghĩa gì?” Uông Diểu hỏi, thấy Đinh Nghị nhìn mình chằm chằm không lên tiếng, anh lại bổ sung thêm: “À, tôi nghiên cứu vật liệu nano, cũng tiếp xúc với cấu trúc vi mô của vật chất, nhưng so với các anh thì còn nông cạn hơn mấy bậc, xin chỉ giáo cho.”
    “Điều này có nghĩa là quy luật vật lý không bất biến trong không gian và thời gian.”
    “Thế thì có nghĩa gì?”
    “Tiếp sau chắc là anh có thể suy luận ra được rồi, vị thiếu tướng kia còn nghĩ ra được nữa là, ông ta đúng là một người thông minh.”
    Uông Diểu nhìn ra cửa sổ trầm tư, biển ánh đèn của thành thị bên ngoài rực rỡ sắc màu, hoàn toàn nhấn chìm những ngôi sao trên bầu trời đêm.
    “Điều này có nghĩa là quy luật vật lý phổ quát của vũ trụ không tồn tại, vậy thì bản thân vật lý… cũng không tồn tại nữa.” Uông Diểu dời mắt khỏi khung cửa sổ.
    “Tôi biết mình làm như vậy là vô trách nhiệm, nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác.” Đinh Nghị tiếp lời, “Đây là nửa sau di thư của cô ấy, trong lúc vô tình anh vừa nói ra nửa đầu tiên, hiện giờ anh ít nhiều đã hiểu được cô ấy rồi chứ.”
    Uông Diểu cầm viên bi trắng lúc nãy anh vừa chọc gậy năm lần trên bàn lên, mân mê một lúc rồi nhẹ nhàng đặt xuống. “Điều này đối với một người tìm kiếm lý thuyết tiên phong thì quả là một tai họa.”
    “Trong lĩnh vực vật lý lý thuyết này, nếu muốn có thành tựu thì cần phải có sự cố chấp như người theo đạo vậy, điều này rất dễ dẫn người ta xuống vực sâu.”
    Lúc từ biệt, Đinh Nghị đưa cho Uông Diểu một địa chỉ. “Nếu rảnh rỗi, nhờ anh đi thăm mẹ của Dương Đông. Dương Đông trước giờ luôn sống cùng bà ấy, con gái là toàn bộ cuộc đời của bà ấy, giờ chỉ còn có một mình, bà ấy rất đáng thương.”
    Uông Diểu nói: “Đinh Nghị, rõ ràng là anh biết nhiều hơn tôi, không thể tiết lộ thêm một chút sao? Anh thật sự tin rằng quy luật vật lý không bất biến trong không gian và thời gian ư?”
    “Tôi không biết gì cả…”
    Đinh Nghị nhìn vào mắt Uông Diểu một lúc lâu, cuối cùng nói: “Đó là vấn đề.”
    Uông Diểu biết, anh ta chẳng qua chỉ nối tiếp lời vị thượng tá quân đội Anh quốc kia: Tồn tại hay không tồn tại, đó là vấn đề.

    #2
      huytran 30.07.2017 02:42:38 (permalink)
      Chương 3 : Xạ thủ và Chủ nông trại  
       
       
      Ngày hôm sau là cuối tuần, nhưng Uông Diểu lại dậy rất sớm, mang theo máy ảnh, đạp xe ra ngoài. Là một nhiếp ảnh gia nghiệp dư, đề tài mà anh ưa thích nhất là những vùng hoang dã vắng dấu chân người, nhưng dầu gì cũng đã bước vào tuổi trung niên, không còn tinh lực để hưởng thụ cái thú xa xỉ đó nữa, hầu hết thời gian chỉ có thể đi chụp phong cảnh trong thành phố mà thôi. Nửa vô tình nửa cố ý, anh thường chọn những góc toát lên vẻ hoang sơ trong thành phố, như đáy hồ cạn trong công viên, thửa đất mới đào ở công trường xây dựng, cỏ dại mọc trong những rảnh bê tông. Để loại trừ những sắc thái lòe loẹt của thành thị trong bối cảnh, anh chỉ dùng phim đen trắng, không ngờ lại thành một trường phái riêng, dần dần cũng có chút tiếng tăm nho nhỏ, tác phẩm hai lần được chọn tham gia triển lãm ảnh lớn, còn gia nhập cả hiệp hội nhiếp ảnh gia. Mỗi lần ra ngoài chụp, anh đều đạp xe đi tha thẩn trong thành phố, tìm bắt cảm hứng và bố cục cần thiết cho bức ảnh, có lúc đi lòng vòng cả ngày trời.
      Hôm nay, Uông Diểu cảm thấy hơi lạ. Lối chụp của anh dựa trên sự trầm ổn của phong cách cổ điển, nhưng hôm nay, anh lại thấy rất khó khăn khi tìm kiếm cảm giác ổn định cần thiết để tạo ra những bố cục kiểu như thế trong đầu, anh cảm thấy thành phố đang thức tỉnh giữa ánh ban mai này dường như được xây dựng trên nền cát chảy, sự ổn định của nó chỉ là hư ảo. Từ đêm trước, hai viên bi a nọ vẫn luôn chiếm cứ giấc mộng dài của anh, chúng bay loạn xạ không theo quy tắc nào trong không gian màu đen, trên nền đen, không nhìn thấy viên bi đen đâu, chỉ những lúc ngẫu nhiên va đập vào viên bi màu trắng nó mới thể hiện sự tồn tại của mình.
      Lẽ nào bản nguyên của vật chất là không có quy luật? Lẽ nào sự ổn định và trật tự của thế giới chỉ là điểm cân bằng động tạm thời trong cái góc vũ trụ này? Chỉ là một xoáy nước ngắn ngủi giữa dòng nước chảy hỗn loạn mà thôi?
      Bất giác, anh đã đạp xe đến chân tòa nhà CCTV mới xây xong. Anh dừng xe lại ngồi ở ven đường, ngước nhìn tòa kiến trúc hình chữ A nguy nga cao ngất, cố thử tìm lại cảm giác ổn định. Theo hướng đỉnh chóp đang lấp lóa dưới ánh Mặt trời buổi sớm, anh nhìn về phía bầu trời xanh sâu không thấy đáy kia, trong đầu chợt hiện lên hai từ: Xạ thủ, Chủ nông trại.
      Khi các học giả trong tổ chức Biên giới Khoa học tiến hành thảo luận, họ thường dùng một từ viết tắt: SF, từ này không phải chỉ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng (science fiction), mà là viết tắt của hai từ trên (shooter, farm owner).
      Chuyện này bắt nguồn từ hai giả thuyết, đều đề cập đến bản chất của hai quy luật vũ trụ.
      Giả thuyết “xạ thủ”: có một tay xạ thủ, cứ cách 10 cm lại bắn thủng một lỗ trên tấm bia. Giả sử trên bề mặt tấm bia này có một loài sinh vật có trí tuệ, tồn tại trong không gian hai chiều, các nhà khoa học của bọn họ sau khi tiến hành quan sát vũ trụ của mình đã phát hiện ra một định luật vĩ đại: “Cứ cách 10 cm, ắt hẳn phải có một cái hố.” Chúng đã coi hành vi tùy hứng của tay xạ thủ kia thành quy luật thép trong vũ trụ của mình.
      Giả thuyết “chủ nông trại” thì lại mang sắc thái kinh dị khiến người ta bất an: trong nông trại nọ có một đàn gà tây, 11 giờ trưa hằng ngày, chủ nông trại đều cho bọn chúng ăn. Một nhà khoa học gà tây quan sát hiện tượng này suốt gần một năm mà không có ngoại lệ nào, vì vậy nó cũng phát hiện ra một định luật vĩ đại trong vũ trụ của mình: “11 giờ trưa hằng ngày sẽ có thức ăn rơi xuống.” Buổi sáng sớm ngày lễ Tạ Ơn, nó tuyên bố định luật này cho lũ gà tây, nhưng 11 giờ trưa hôm đó lại không có thức ăn rơi xuống, chủ nông trại đi vào bắt bọn chúng làm thịt hết.
      Uông Diểu cảm thấy mặt đất dưới chân mình đang trôi đi như một vũng cát chảy, toàn nhà cao tầng hình chữ A tựa hồ cũng lung lay dao động, anh vội thu ánh mắt lại.
      Để thoát khỏi tâm trạng bất an, Uông Diểu ép mình chụp hết một cuộn phim rồi trở về nhà trước buổi cơm trưa. Vợ anh đã dẫn con đi chơi, buổi trưa không quay về. Thường ngày, Uông Diểu nhất định sẽ vội vàng đem cuộn phim đi tráng rửa luôn, nhưng hôm nay anh lại chẳng hứng thú gì. Ăn qua loa cho xong bữa trưa, anh nằm lăn ra ngủ, vì đêm qua cứ trằn trọc không yên giấc nên anh ngủ thẳng đến gần năm giờ chiều. Lúc này, anh mới nhớ ra cuộn phim chụp ban sang, bèn chui vào phòng tối chật hẹp được cải tạo từ chiếc tủ âm tường để tráng phim.
      Cuộn phim nhanh chóng được tráng hết, anh bắt đầu kiểm tra xem có tấm nào đáng để rửa phóng ra thành ảnh không, nào ngờ ngay bức đầu tiên anh đã phát hiện một việc kỳ lạ. Bức này chụp một bãi cỏ nhỏ bên ngoài khu chợ lớn, Uông Diểu thấy ở chính giữa tấm phim có dải gì đó màu trắng, nhìn kỹ thì là một dãy số: 1200:00:00.
      Tấm phim thứ hai cũng có số: 1199:49:33.
      Nguyên cả cuộn phim, tấm nào cũng có một hàng số nhỏ.
      Tấm thứ ba: 1199:40:18; tấm thứ tư: 1199:32:07; tấm thứ năm: 1199:28:51;
      tấm thứ sáu: 1199:15:44, tấm thứ bảy: 1199:07:38; tấm thứ tám: 1198:53:09… tấm thứ ba mươi tư: 1194:50:49; tấm thứ ba mươi sáu, cũng là tấm cuối cùng: 1194:16:37.
      Uông Diểu lập tức nghĩ cuộn phim có vấn đề. Anh dùng máy ảnh cơ Leica M2 sản xuất năm 1988, toàn bộ thao tác đều bằng tay, không có bất cứ tính năng tự động nào, càng không thể in chồng lên phim những con số kiểu như ngày tháng thế này. Chỉ tính riêng ống kính và kết cấu máy tuyệt vời, dù ở giữa thời đại kỹ thuật số, chiếc máy ảnh này cũng được xếp vào hàng quý tộc trong số máy ảnh chuyên nghiệp.
      Kiểm tra lại từng tấm phim một, Uông Diểu nhanh chóng phát hiện ra điểm kỳ dị đầu tiên của những con số đó: chúng tự động thích ứng với bối cảnh. Nếu cảnh nền là màu đen, con số sẽ là màu trắng, còn nếu bối cảnh màu trắng thì những con số sẽ là màu đen, như để tạo độ tương phản lớn nhất tiện cho người xem nhìn rõ được. Khi Uông Diểu xem lại tấm phim thứ mười tám, tim anh bỗng đập thìch thịch, cảm tưởng như trong phòng tối có một luồng khí lạnh dọc theo sống lưng mình đi lên.
      Tấm ảnh này chụp một cây khô trên nền bức tường cũ, bức tường lốm đốm từng mảng, trong ảnh cũng hiện lên những chỗ đen chỗ trắng đan xen nhau. Trên cảnh nền này, nếu vẫn ở vị trí bình thường, hàng số kia dù màu đen hay trắng đều không thể hiện thị rõ ràng, nhưng nó lại đã dựng lên, đồng thời uốn cong mình, hiện màu trắng men theo thân cây khô sẫm màu, thoạt trông tựa như một con rắn nhỏ bám trên thân cây vậy.
      Uông Diểu bắt đầu nghiên cứu quan hệ số học giữa những con số ấy, mới đầu anh cho rằng đó là một loại mã số nào đó, nhưng khoảng cách giữa mỗi nhóm số lại không giống nhau, anh nhanh chóng hiểu ra đây là những con số chỉ thời gian dùng giờ, phút, giây làm đơn vị tính. Anh lấy cuốn bút ký nhiếp ảnh của mình ra, trên đó có ghi chép tỉ mỉ thời gian chụp từng bức ảnh, chính xác đến từng phút. Anh nhận ra, chênh lệch giữa giá trị thời gian trên hai bức ảnh và khoảng thời gian cách quãng giữa hai lần chụp thực tế là đồng nhất. Rất rõ ràng, cuộn phim này đang ghi lại thời gian trôi đi với tốc độ bình thường trong hiện thực theo hướng nghịch đảo. Uông Diểu lập tức hiểu ra nó là cái gì.
      Một bộ đếm ngược thời gian.
      Bắt đầu từ 1200 tiếng đồng hồ, hiện tại vẫn còn lại 1194 tiếng.
      Hiện tại, không phải, đó là thời khắc chụp xong tấm ảnh cuối cùng trong cuộn phim. Bộ đếm ngược này vẫn còn tiếp tục chứ?
      Uông Diểu ra khỏi phòng tối, lấy một cuộn phim đen trắng mới lắp vào chiếc Leica, chụp nhanh vài bức trong nhà, cuối cùng lại ra ban công chụp mấy bức ngoại cảnh. Sau khi chụp hết cuộn phim, anh lấy nó ra khỏi máy, chui luôn vào phòng tối tráng rửa. Trên những tấm phim đã tráng, những con số ấy không ngừng hiển hiện trên nền phim như những bóng ma, tấm đầu tiên là 1187:27:39, từ lúc chụp tấm cuối cùng của cuộn phim trước đến tấm đầu tiên của cuộn phim này, vừa khéo cách chừng ấy thời gian. Những tấm sau đó, thời gian cách nhau chừng ba bốn giấy, 1187:27:35, 1187:27:31, 1187:27:27, 1187:27:24…
      là khoảng thời gian gián cách lúc anh chụp nhanh.
      Bộ đếm ngược vẫn đang tiếp tục.
      Uông Diểu lại lắp phim mới vào máy ảnh, chụp loạn xạ thật nhanh, có mấy tấm anh còn cố ý đậy nắp ống kính vào để chụp. Khi Uông Diểu chụp xong cuộn phim lấy ra, vợ con anh đã về. Trước khi đi tráng rửa, anh lắp cuộn phim thứ ba vào, đưa máy ảnh cho vợ: “Này, em chụp hết cuộn phim này đi.”
      “Chụp cái gì?” Vợ anh kinh ngạc nhìn chồng. Trước đây, anh tuyệt đối không cho phép bất cứ ai động vào máy ảnh của mình, tất nhiên vợ và con trai anh cũng chẳng hứng thú gì với món đồ chơi ấy, trong mắt bọn họ, đó chỉ là một món đồ cổ vô vị tốn mất hai vạn tệ mua về.
      “Cái gì cũng được, cứ chụp bừa đi.”
      Uông Diểu nhét máy ảnh vào tay vợ rồi chui vào phòng tối.
      “Được rồi, Đậu Đậu, mẹ chụp ảnh cho con nhé.” Vợ anh hướng ống kính về phía đứa con.
      Trong đầu Uông Diểu đột nhiên hiện lên những con số tựa bóng ma kia, như một sợi dây treo cổ vắt ngang gương mặt con trai mình, anh bất giác khẽ run lên. “Đừng, đừng chụp con, chụp cái gì khác đi.”
      Cửa trập “lạch xạch” một tiếng, vợ anh chụp tấm ảnh đầu tiên, sau đó kêu lên: “Sao không ấn được nữa thế này?” Uông Diểu dạy vợ gạt một cái cần, “Thế này, mỗi lần đều phải lên phim.” Sau đó, anh chui vào phòng tối.
      “Thật phiền phức.” Người vợ bác sĩ của anh không thể hiểu nổi, tại sao trong thời đại ngày nay, khi máy ảnh kỹ thuật số có khả năng chụp ảnh hàng chục megapixel đã đầy rẫy, lại có người dùng cái món đồ chơi đắt tiền đã hết thời này, vả lại còn chụp bằng phim đen trắng nữa.
      Cuộn phim đã được tráng ra, giơ lên ánh đèn đỏ mờ mờ, Uông Diểu thấy bộ đếm ngược thời gian như một bóng ma kia vẫn đang tiếp tục trên những tấm ảnh anh chụp bừa, bao gồm cả mấy tấm đã đóng nắp ống kính lại mà chụp đều hiển thị rõ ràng: 1187:19:06, 1187:19:03,
      1187:18:59, 1187:18:56…
      Vợ anh gõ cửa phòng tối, báo rằng đã chụp xong, Uông Diểu ra cửa giật lấy máy ảnh, lúc tháo cuộn phim ra, tay anh rõ ràng đang run lên. Anh mặc kệ ánh mắt kỳ lạ của vợ, cầm cuộn phim lại quay vào phòng tối chốt cửa thật chặt. Anh làm rất lộn xộn, thuốc hiện ảnh, thuốc giữ ảnh vương vãi đầy đất, cuộn phim nhanh chóng được tráng ra, anh nhắm cả hai mắt lại thầm cầu khấn: đừng xuất hiện, cho dù là gì chăng nữa, cũng đừng xuất hiện lúc này, đừng đến lượt…
      Anh dùng kính lúp soi dọc theo cuộn phim ướt nhẹp, thấy bộ đếm giờ ngược đã biến mất, trên tấm phim chỉ có cảnh tượng trong nhà mà vợ anh chụp, do tốc độ cửa trập thấp, những tấm ảnh thao tác thiếu chuyên nghiệp do cô chụp ra đều mờ mịt, nhưng Uông Diểu lại cảm thấy đây là những tấm ảnh đẹp nhất mà anh từng được xem.
      Uông Diểu ra khỏi phòng tối, thở phào nhẹ nhõm, bấy giờ mới phát hiện mồ hôi lạnh đã đầm đìa khắp người. Vợ anh đã vào bếp nấu cơm, con trai cũng vào phòng nó chơi, anh một mình ngồi xuống xô pha, bắt đầu tĩnh tâm suy nghĩ.
      Trước tiên, những con số có dấu hiệu của trí tuệ nhân tạo, ghi lại chính xác dòng chảy thời gian trong những khoảng thời gian khác nhau giữa các lần chụp ảnh này không thể nào được ghi sẵn trên cuộn phim, mà chỉ có thể là sức mạnh nào đó đã khiến nó lộ sáng, vậy đó là gì? Máy ảnh có vấn đề ư? Hay một thiết bị nào đó, vô tình hoặc cố ý, đã được lắp vào trong chiếc máy? Anh tháo ống kính, mở máy ảnh ra, dùng kính lúp cẩn thận quan sát bên trong chiếc máy ảnh, kiểm tra từng bộ phận bóng loáng không dính một hạt bụi, nhưng không phát hiện ra điều gì khác thường. Vậy thì, liên tưởng đến mấy bức ảnh chụp khi đóng nắp ống kính lại, nguồn cảm quang rất có khả năng là loại tia bức xạ nào đó có lực xuyên thấu rất mạnh từ bên ngoài, nhưng điều này là không thể về mặt kỹ thuật: nguồn phát xạ ở đâu? Làm sao lại nhắm được chuẩn vào máy ảnh?
      Ít nhất với trình độ kỹ thuật hiện tại, loại lực lượng này là siêu nhiên.
      Để xác nhận lại là bộ đếm giờ ma quái kia đã biến mất, Uông Diểu lắp vào chiếc Leica một cuộn phim nữa, bắt đầu chụp bừa từng tấm từng tấm một. Lần này, khi cuộn phim được tráng xong, vừa bình tĩnh được đôi chút anh lại bị đẩy đến ranh giới của điên rồ: bộ đếm giờ ma quái kia lại xuất hiện, từ thời gian hiển thị trên tấm phim, có thể thấy nó không hề dừng lại, chỉ là không hiện ra trên cuộn phim vợ anh chụp mà thôi.
      1186:34:13, 1186:34:02, 1186:33:46,
      1186:33:35…
      Uông Diểu lao ra khỏi phòng tối, chạy ra khỏi nhà, gõ cửa nhà hàng xóm, người ra mở cửa là giáo sư Trương đã nghỉ hưu.
      “Bác Trương, nhà bác có máy ảnh không? Ừm, không cần loại máy kỹ thuật số, tôi muốn dùng loại chụp phim ấy!”
      “Nhiếp ảnh gia mà lại mượn máy của tôi hả? Cái máy hơn hai vạn tệ kia hỏng rồi à? Tôi chỉ có máy ảnh số thôi… cậu không khỏe à? Sắc mặt sao mà khó coi vậy.”
      “Cho tôi mượn một chút.”
      Ông Trương nhanh chóng lấy ra một chiếc máy ảnh kỹ thuật số hiệu Kodak rất bình thường. “Đây, mấy tấm bên trong đó xóa đi là được…”
      “Cảm ơn!” Uông Diểu hấp tấp cầm lấy máy ảnh và phim, vội vàng chạy về nhà. Thực ra, trong nhà anh còn có ba chiếc máy phim và một chiếc máy số, nhưng Uông Diểu cảm thấy mượn từ nơi khác về đáng tin cậy hơn. Anh nhìn hai chiếc máy ảnh và mấy cuộn phim đen trắng để trên xô pha, ngẫm nghĩ giây lát, rồi lại lắp cuộn phim vào chiếc Leica, sau đó đưa chiếc máy ảnh kỹ thuật số cho vợ đang dọn mâm cơm.
      “Nhanh lên, chụp vài tấm đi, giống như lúc nãy ấy!”
      “Làm cái gì vậy? Nhìn sắc mặt anh kìa… anh bị sao vậy ạ?!” Vợ Uông Diểu kinh hoàng nhìn anh.
      “Em không cần lo, chụp đi!”
      Vợ anh đặt đĩa thức ăn trên tay xuống, đi tới nhìn chồng, vẻ hoảng sợ trong ánh mắt lại nhuốm thêm phần lo âu.
      Uông Diểu dúi chiếc Kodak vào tay đứa con sáu tuổi đang đi tới chuẩn bị ăn cơm, “Đậu Đậu, con chụp hộ bố. Ấn cái nút này này, đúng, đây là một tấm; ấn thêm lần nữa, đúng rồi, lại thêm một tấm nữa; cứ vậy mà chụp liên tục, chụp chỗ nào cũng được.”
      Con trai anh nhanh chóng nắm bắt được, thằng nhỏ rất thích thú, chụp nhanh vèo vèo. Uông Diểu quay người cầm chiếc Leica đang để trên ghế xô pha lên rồi cũng bắt đầu chụp, hai bố con cứ “lạch xạch, lạch xạch” chụp như điên, bỏ lại bà mẹ lung túng giữa ánh đền flash chớp nháy, nước mắt trào ra.
      “Uông Diểu, em biết gần đây áp lực công việc của anh rất lớn, anh đừng…”
      Uông Diểu chụp hết cuộn phim trong máy Leica, lại giằng chiếc máy ảnh kỹ thuật số trên tay con trai. Anh ngẫm nghĩ một lúc, rồi đi vào phòng ngủ để thoát khỏi sự quấy rầy của vợ, tự mình dùng máy kỹ thuật số chụp thêm mấy tấm. Lúc chụp, anh dùng ống ngắm quang học chứ không nhìn màn hình tinh thể lỏng, vì sợ nhìn thấy kết quả, tuy rằng sớm muộn gì cũng phải xem ảnh.
      Uông Diểu lấy cuộn phim ra khỏi máy Leica chui vào phòng tối, đóng chặt cửa lại rồi bắt đầu tráng rửa. Làm xong xuôi, anh nhìn kỹ lại mấy tấm phim, vì tay đang run rẩy, anh buộc phải dùng cả hai tay cầm kính lúp… Trên tấm phim, bộ đếm giờ ma quái vẫn đang tiếp tục.
      Uông Diểu xông ra khỏi phòng tối, bắt đầu kiểm tra ảnh trong chiếc máy kỹ thuật số, trên màn hình LCD, trong những tấm ảnh kỹ thuật số vừa chụp, phần con trai anh chụp thì không có bộ đếm giờ ngược; còn những tấm anh chụp, bộ đếm giờ lại hiện lên rõ mồn một, đồng thời thay đổi đồng bộ với những con số trên phim âm bản.
      Uông Diểu sử dụng các máy ảnh khác nhau để chụp, mục đích là muốn loại trừ khả năng vấn đề nằm ở máy ảnh hoặc phim, nhưng việc anh vô ý để con trai chụp ảnh, cộng với cuộn phim vợ anh chụp lúc trước, đã làm nảy ra một kết quả kỳ dị hơn: khi dùng máy ảnh khác nhau và các cuộn phim khác nhau để chụp, người khác chụp thì bình thường, chỉ có những bức ảnh do anh chụp mới xuất hiện bộ đếm giờ ma quái kia!
      Uông Diểu tuyệt vọng túm lấy đống phim, như tóm cả đàn rắn đang cuộn xoắn lại với nhau, hoặc như một sợi dây thòng lọng khó lòng giằng ra nổi.
      Anh biết, chỉ với sức của mình thì không thể giải quyết được vấn đề này, nhưng phải đi tìm ai đây? Các đồng sự ở trường đại hoc và viện nghiên cứu thì không được, bọn họ cũng giống anh, đều là những người tư duy theo lối kỹ thuật; mà trực giác lại cho anh biết, chuyện này đã nằm ngoài phạm vi kỹ thuật rồi. Anh nghĩ đến Đinh Nghị, nhưng hiện tại, chính anh ta cũng đang có nguy cơ suy sụp tinh thần. Cuối cùng, anh nhớ đến Biên giới Khoa học, đó là một nhóm người có suy nghĩ sâu sắc, tư duy cởi mở. Nghĩ đoạn, anh bèn bấm số điện thoại của Thân Ngọc Phi.
      “Tiến sĩ Thân, tôi có chút chuyện cần phải tới chỗ cô một chuyến.” Uông Diểu gấp gáp nói.
      “Đến đi.” Thân Ngọc Phi nói xong hai chữ ấy liền dập máy luôn.
      Uông Diểu lấy làm kinh ngạc, bình thường Thân Ngọc Phi nói năng cũng rất vắn tắt, đến nỗi một số người trong tổ chức Biên giới Khoa học còn gọi cô ta là “nữ Hemingway”. Nhưng lần này, không ngờ cô ta còn chẳng buồn hỏi là chuyện gì, khiến Uông Diểu không biết nên cảm thấy được an ủi hay càng thêm bất an nữa.
      Anh bỏ đống phim âm bản vào một túi xách, mang theo cả máy ảnh kỹ thuật số, lao khỏi nhà trong ánh mắt lo âu của vợ. Vốn dĩ anh có thể lái xe tự đi, nhưng dù trong thành phố đèn đuốc sáng rực này, anh cũng muốn có người bầu bạn trên đường, nên đã gọi một chiếc tắc xi.
      Thân Ngọc Phi sống ở một khu biệt thự cao cấp gần tuyến tàu điện ngầm Tân Thành, ở đây ánh đèn đã thưa thớt hơn nhiều, các nhóm biệt thự quây xung quanh mấy hồ nhân tạo nhỏ có thể câu cá được, đêm về cũng có chút cảm giác thôn dã. Thân Ngọc Phi hiển nhiên rất giàu có, nhưng Uông Diểu bấy lâu vẫn không hiểu tài sản của cô ta ở đâu ra, vị trí nghiên cứu trước đây và cả chức vụ hiện tại của cô ta ở công ty đều không thể kiếm được nhiều tiền đến thế. Có điều, bên trong biệt thự của cô ta lại không có vẻ gì xa hoa, đó là một địa điểm tụ họp của Biên giới Khoa học, bài trí giống như một thư viện cỡ nhỏ, có cả phòng hội thảo.
      Trong phòng khách, Uông Diểu gặp chồng Thân Ngọc Phi là Ngụy Thành. Người đàn ông bốn mươi này có vẻ bề ngoài của một trí thức đôn hậu, hiểu biết của Uông Diểu về anh ta chỉ giới hạn ở họ tên, lúc giới thiệu, Thân Ngọc Phi cũng chỉ nói có thế. Hình như anh ta không đi làm, cả ngày chỉ ở nhà, hoàn toàn không hứng thú gì với các cuộc thảo luận của Biên giới Khoa học, cũng đã quá quen với việc đông đảo các học giả ra ra vào vào nhà mình.
      Nhưng anh ta không phải kẻ vô công rỗi nghề, rõ ràng cũng nghiên cứu thứ gì đó tại gia, cả ngày đều đắm chìm trong suy tư, thấy ai đến cũng chỉ hờ hững chào hỏi rồi trở về căn phòng trên gác, hầu hết thời gian trong ngày anh ta đều ở trong đó. Một lần, Uông Diểu lên lầu vô ý liếc nhìn vào qua cánh cửa hé mở, trông thấy một thứ kỳ lạ: một dàn máy tính cỡ trung hiệu HP(*). Anh không thể nhìn lầm được, vì thiết bị này giống hệt như dàn ở Trung tâm nghiên cứu nano nơi anh làm việc, vỏ máy màu xám đen, là mẫu RX8620 mới xuất xưởng bốn năm trước. Để thiết bị giá trị hơn triệu nhân dân tệ trong nhà có vẻ rất kỳ quặc, hằng ngày,
      Ngụy Thành ôm rịt lấy nó một mình, rốt cuộc là muốn làm gì?
      (*) Minicomputer hay midrange computer: đây là loại máy tính tầm trung, nhỏ hơn máy tính lớn (mainframe) nhưng tốc độ xử lý thì mạnh hơn máy tính cá nhân rất nhiều lần.
      “Ngọc Phi đang dở tay chút việc trên kia, anh đợi một lát nhé.” Ngụy Thành nói dứt lời bèn đi lên gác. Uông Diểu vốn định đợi, nhưng thực tình là anh không thể ngồi yên được nữa nên cũng lên theo, liền trông thấy Ngụy Thành đang định bước vào căn phòng để chiếc máy tính kia. Anh ta trông thấy Uông
      Diểu đi lên theo, dường như cũng không hề bực bội, chỉ tay vào một căn phòng đối diện nói: “Ừm, chính là ở trong phòng đó đó, anh vào tìm cô ấy đi.”
      Uông Diểu gõ cửa, nhưng cửa không khóa, còn hé ra một khe, anh nhìn thấy Thân Ngọc Phi đang ngồi trước máy vi tính chơi trò chơi, điều khiến Uông Diểu kinh ngạc là cô ta lại đeo một bộ thiết bị
      V. Đây là món đồ chơi rất phổ biến trong giới mê game, thứ này bao gồm một kính hiển thị panorama và một bộ trang phục cảm ứng có thể khiến cơ thể người chơi cảm giác được những đòn đánh, những cú đâm, lửa đốt trong trò chơi, có thể sinh ra cảm giác nóng bức và lạnh lẽo, thậm chí còn có thể mô phỏng chân thực cảm giác thân thể phơi trần trong gió tuyết. Uông Diểu bước tới sau lưng Thân Ngọc Phi, vì trò chơi hiển thị theo kiểu góc nhìn toàn cảnh trong kính đeo mắt nên anh không thấy gì trên màn hình. Lúc này, Uông Diểu nghĩ đến việc Sử Cường bảo anh ghi nhớ địa chỉ trang web và email, vô ý liếc qua màn hình, tên tiếng Anh trên giao diện đăng nhập của trò chơi rất đặc biệt, anh đã nhớ kỹ.
      Thân Ngọc Phi gỡ kính hiển thị panorama xuống, rồi cởi bộ đồ cảm ứng, đeo cặp kính to tướng lên gương mặt gầy đét, nét mặt vẫn không hề bộc lộ cảm xúc gì, chỉ im lặng gật đầu với Uông Diểu, như đang đợi anh lên tiếng. Uông Diểu lấy đống phim ra, bắt đầu kể lại chuyện kỳ lạ xảy ra với mình, Thân Ngọc Phi chăm chú lắng nghe, nhưng chỉ cầm đống phim lên liếc qua vài ba lượt, không hề xem kỹ, điều này khiến Uông Diểu rất kinh ngạc, hiện tại anh đã có thể tiến thêm một bước nữa, xác định được Thân Ngọc Phi rõ ràng biết chuyện gì đó. Điều này gần như khiến anh ngừng lời, có điều, Thân Ngọc Phi lại mấy lần gật đầu ra hiệu cho anh kể tiếp, anh mới kể đến hết câu chuyện. Lúc này, Thân Ngọc Phi mới nói ra câu đầu tiên kể từ lúc họ gặp mặt:
      “Dự án nano mà anh lãnh đạo đến đâu rồi?”
      Câu hỏi chẳng liên quan này lại khiến
      Uông Diểu hết sức ngạc nhiên. “Dự án nano? Nó thì có can hệ gì?” Anh chỉ đống phim.
      Thân Ngọc Phi không nói gì, chỉ lặng lẽ nhìn anh, đợi anh trả lời câu hỏi của mình. Đây chính là phong cách nói chuyện của cô ta, xưa nay chưa bao giờ nói thừa một chữ.
      “Ngừng việc nghiên cứu lại.” Thân Ngọc Phi nói.
      “Sao hả?” Uông Diểu ngỡ mình nghe nhầm, “Cô nói gì cơ?”
      Thân Ngọc Phi im lặng, không nhắc lại lời mình vừa nói.
      “Dừng lại? Đó là dự án trọng điểm của nhà nước đấy!”
      Thân Ngọc Phi vẫn không nói gì, chỉ nhìn anh bằng ánh mắt bình thản.
      “Cô cũng phải nói ra nguyên nhân chứ!”
      “Dừng lại thử xem.”
      “Rốt cuộc cô biết chuyện gì rồi? Nói cho tôi đi!”
      “Những gì tôi có thể nói với anh chỉ có vậy thôi.”
      “Dự án không thể dừng, cũng không có khả năng dừng lại.”
      “Dừng lại thử xem.”
      Cuộc trò chuyện ngắn gọn về bộ đếm giờ ma quái đến đây là chấm dứt, sau đó, cho dù Uông Diểu cố gắng đến mấy, Thân Ngọc Phi cũng không hé răng một chữ nào liên quan đến chuyện này nữa, chỉ lặp đi lặp lại câu đó: “Dừng lại thử xem.”
      “Giờ thì tôi hiểu rồi, Biên giới Khoa học không phải là một tổ chức giao lưu học thuật về nghiên cứu cơ sở như các người tuyên bố, quan hệ của nó với hiện thực còn phức tạp hơn tưởng tượng của tôi nhiều lắm.” Uông Diểu nói.
      “Ngược lại, anh có ấn tượng này là bởi vì thứ mà Biên giới Khoa học đề cập đến còn chuyên sâu hơn những gì anh tưởng tượng nhiều lắm.”
      Uông Diểu tuyệt vọng, không chào từ biệt mà đứng dậy đi luôn, Thân Ngọc Phi lẳng lặng tiễn anh đến tận cổng ngoài, nhìn anh lên tắc xi. Đúng lúc này, một chiếc khác lao vút tới, phanh kít lại ngay trước cổng. Một người đàn ông xuống xe, nhờ ánh đèn hắt ra từ bên trong biệt thự, Uông Diểu chỉ liếc nhìn đã nhận ra ngay.
      Người này là Phan Hàn, một trong những nhân vật nổi danh nhất của tổ chức Biên giới Khoa học. Là một nhà sinh vật, anh ta đã dự đoán thành công việc sử dụng thực phẩm biến đổi gien trong một thời gian dài sẽ dẫn đến biến dị gien di truyền của thế hệ sau, còn dự đoán rằng cây trồng biến đổi gien có thể sẽ gây nên thảm họa sinh thái. Khác với những học giả chỉ biết nói suông dọa nạt người đời, dự đoán của anh ta đầy những chi tiết cụ thể, vả lại đều lần lượt được chứng thực, chuẩn xác tới mức khiến người ta phải kinh hãi, đến nỗi còn có tin đồn rằng anh ta là người đến từ tương lai.
      Một sáng kiến khác khiến anh ta nổi danh là xây dựng được xã hội thực nghiệm đầu tiên trong nước. Khác với những xã đoàn kiểu Utopia, đặt tôn chỉ trở về với tự niên ở phương Tây, “Điền viên Trung Hoa” của anh ta không nằm ở những vùng hoang vu hẻo lánh mà nằm giữa thành phố lớn nhất. Xã đoàn không có tài sản gì, mọi vật phẩm cần cho cuộc sống, bao gồm cả thực phẩm đều đến từ rác thải thành thị. Khác với dự đoán của mọi người lúc ban đầu, “Điền viên Trung Hoa” chẳng những có thể sinh tồn, mà còn nhanh chóng phát triển lớn mạnh, thành viên cố định đã lên đến hơn ba nghìn người, những người thỉnh thoảng đến thể nghiệm cuộc sống lại càng nhiều không đếm xuể.
      Dựa vào hai thành tựu này, tư tưởng xã hội của Phan Hàn cũng ngày càng có sức ảnh hưởng. Anh ta cho rằng, cách mạng khoa học kỹ thuật là một thứ bệnh của xã hội loài người, sự phát triển mang tính bùng nổ của kỹ thuật tương đương với sự khuếch tán nhanh chóng của tế bào ung thư, kết quả cuối cùng đều là tiêu hao hết chất dinh dưỡng của vật chủ, phá hoại các cơ quan, dẫn đến các chết của vật chủ. Anh ta chủ trương loại bỏ những kỹ thuật “thô bạo” như năng lượng hóa thạch và năng lượng hạt nhân, duy trì các kỹ thuật “ôn hòa” như năng lượng Mặt trời và thủy điện nhỏ, đồng thời từng bước giải tán thành thị, phân bố đều nhân khẩu vào các thôn trấn tự cấp tự túc, lấy nền tảng là “kỹ thuật ôn hòa”, xây dựng một “xã hội nông nghiệp mới.”
      “Anh ta có nhà không?” Phan Hàn chỉ lên tầng hai hỏi.
      Thân Ngọc Phi không trả lời, im lặng chắn trước mặt anh ta.
      “Tôi cần cảnh cáo anh ta, đương nhiên cũng là cảnh cáo cô, đừng ép chúng tôi!” Phan Hàn lạnh lùng nói.
      Thân Ngọc Phi vẫn không trả lời anh ta, chỉ bảo với Uông Diểu đang ngồi trong tắc xi: “Đi đi, không có chuyện gì đâu.” Sau đó, cô ta ra hiệu bảo tài xế cho xe lăn bánh. Sau khi xe chạy, Uông Diểu cũng không nghe thấy họ nói gì nữa, anh ngoảnh đầu lại nhìn từ xa, dưới ánh đèn, Thân Ngọc Phi vẫn không cho Phan Hàn đi vào biệt thự.
      Về đến nhà thì đã là nửa đêm, Uông Diểu xuống tắc xi ở cổng tiểu khu, một chiếc Volkswagen Santana màu đen phanh lại sát cạnh anh, cửa sổ xe hạ xuống, khói thuốc phun ra, là Sử Cường, thân hình to cao của anh ngồi chật cứng cả ghế lái.
      “Này, thầy giáo Uông, viện sĩ Uông!
      Mấy hôm nay khỏe không?”
      “Anh đang theo dõi tôi à? Đúng là vô vị!”
      “Đừng hiểu lầm, nếu tôi cứ thế đi thẳng qua thì đã xong rồi, ra chào hỏi một câu cho phải phép anh lại hiểu lầm thành tâm địa xấu xa.” Sử Cường trưng ra điệu cười nhăn nhở thường thấy của gã, bộ dạng rất vô lại, “Sao hả, ở bên đó có thấy thông tin gì hữu dụng không, trao đổi một chút nhé?”
      “Tôi đã nói rồi, tôi và các anh không có liên quan gì cả, sau này xin đừng theo dõi tôi nữa!”
      “Phì…” Sử Cường cho xe chạy, “Làm như tôi thèm kiếm tiền làm thêm hai đêm nay lắm ấy, bỏ lỡ cả trận bóng rồi.”
      Uông Diểu đi vào nhà, vợ con anh đã ngủ, anh nghe thấy vợ mình trằn trọc trên giường, ú ớ tiếng gì nghe không rõ lắm, hành động quái dị của chồng hôm nay không hiểu đã mang đến cho cô cơn ác mộng gì. Uông Diểu uống hai viên thuốc an thần, nằm lên giường, phải mất một lúc lâu mới khó nhọc chìm vào giấc mộng.
      Giấc mộng của anh rất lộn xộn, nhưng trong đó có một thứ luôn luôn tồn tại: bộ đếm giờ ma quái. Kỳ thực, bộ đếm giờ ấy xuất hiện trong giấc mộng là điều mà Uông Diểu đã đoán được từ trước. Trong mơ, anh điên cuồng đánh vào bộ đếm giờ lơ lửng giữa không trung, xé nó, cắn nó, nhưng tất cả mọi đòn tấn công của anh đều xuyên qua nó, nó vẫn cứ lơ lửng giữa giấc mơ, trôi đi một cách kiên định. Uông Diểu thấy bức bối khó chịu vô cùng, rốt cuộc cũng tỉnh dậy khỏi giấc mơ.
      Anh mở mắt. nhìn lên trần nhà tối mờ, ánh đèn đường bên ngoài xuyên qua tấm rèm cửa sổ, hắt lên đó một quầng sáng ảm đạm. Nhưng có một thứ đã từ trong giấc mộng theo anh đến với thế giới hiện thực: bộ đếm giờ ma quái. Bộ đếm giờ ấy vẫn hiện ra trước đôi mắt mở to của anh, con số rất nhỏ, nhưng rất sáng, phát ra một thứ ánh sáng chói lòa.
      1185:11:34, 1185:11:33, 1185:11:32,
      1185:11:31…
      Uông Diểu gục gặc đầu, nhìn thấy mọi đồ vật lờ mờ trong phòng ngủ, xác nhận lại rằng mình đã tỉnh giấc, nhưng bộ đếm giờ vẫn không biến mất. Anh nhắm mắt lại, song bộ đếm giờ vẫn hiển thị trong tầm mắt tối đen như mực của anh, như thủy ngân phát sáng trên bộ lông của thiên nga đen. Anh lại mở mắt ra lần nữa, dụi dụi hai mắt, bộ đếm giờ vẫn không biến đi, dù anh nhìn đi đâu, chuỗi số ấy vẫn nghênh ngang chiếm vị trí chính giữa trường nhìn.
      Một nỗi sợ không tên khiến Uông Diểu ngồi bật dậy, bộ đếm giờ vẫn bám riết lấy anh. Anh nhảy xuống giường loa ra trước cửa sổ, kéo rèm, mở toang cánh cửa ra. Thành phố đang say ngủ bên ngoài vẫn rực rỡ ánh đèn, bộ đếm giờ vẫn tiếp tục hiển thị trên cảnh nền rộng rãi ấy, tựa như phụ đề trong phim vậy.
      Uông Diểu chợt thấy nghẹt thở, không kìm được la lên một tiếng kêu trầm trầm kinh hãi. Trước những lời hỏi han đầy hoảng hốt của người vợ vừa giật mình tỉnh giấc, anh cố gắng trấn tĩnh lại, an ủi vợ rằng không có chuyện gì, rồi lại nằm lên giường nhắm mắt, khó nhọc vượt qua nốt phần còn lại của đêm dưới ánh sáng từ bộ đếm giờ ma quái kia.
      Buổi sớm thức dậy, Uông Diểu cố gắng ép mình tỏ ra bình thường trước mặt người nhà, nhưng vợ anh vẫn nhận ra sự lạ, hỏi mắt anh có bị làm sao không? Có phải không nhìn rõ hay không?
      Sau bữa sáng, Uông Diểu xin nghỉ ở Trung tâm nghiên cứu nano, lái xe đến bệnh viện. Dọc đường, bộ đếm giờ ma quái kia vẫn lạnh lùng vắt ngang phía trước thế giới hiện thực trong mắt anh, còn biết tự động điều tiết độ sáng để hiện rõ trên mọi cảnh nền khác nhau. Uông Diểu thậm chí còn nhìn thẳng vào Mặt trời mới mọc, những mong bộ đếm giờ kia bị ánh sáng chói lòa làm cho tạm thời biến mất một lúc, nhưng vô hiệu, hàng số ma quỷ ấy vẫn hiện ra phía trên Mặt trời, lúc này nó không tăng độ sáng lên nữa, mà biến thành màu đen, trông còn đáng sợ hơn.
      Bệnh viện Đồng Nhân rất khó lấy số, Uông Diểu trực tiếp đến tìm một người bạn cùng lớp với vợ, đó là một chuyên gia về mắt rất nổi tiếng. Anh không nói bệnh tình, mà yêu cầu bác sĩ kiểm tra mắt mình trước. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng hai mắt của Uông Diểu, bác sĩ nói anh ta không phát hiện ra triệu chứng bệnh gì, mắt Uông Diểu hoàn toàn bình thường.
      “Mắt tôi cứ luôn nhìn thấy một thứ, dù
      nhìn vào đâu thì thứ ấy vẫn lù lù hiện ra.” Uông Diểu nói. Trong lúc anh nói, những con số cũng nằm vắt ngang trước mặt bác sĩ.
      1175:11:34, 1175:11:33, 1175:11:32,
      1175:11:31…
      “Bệnh ruồi bay trước mắt(*).” Bác sĩ nói, đồng thời rút tờ đơn thuốc ra kê toa, “Bệnh mắt thường gặp ở tuổi của chúng ta, thủy tinh thể bị đục mờ. Không dễ chữa cho lắm, nhưng cũng không có gì nghiêm trọng cả, tôi kê nước muối i ốt với vitamin D nhé, có lẽ sẽ thuyên giảm, nhưng hy vọng không lớn lắm đâu. Có điều, thực sự là không có gì nghiêm trọng cả, chỉ cần anh quen rồi là sẽ không để ý đến những tạp vật trong trường nhìn của mình nữa, cũng không ảnh hưởng gì nhiều đến thị lực.”
      (*) Hay còn gọi là bệnh nổ đom đóm, đục dịch kính.
      “Bệnh ruồi nay trước mắt mà anh nói đó, những thứ… thứ ấy trông như thế nào?”
      “Không có quy tắc, tùy mỗi người mỗi khác, có lúc là những điểm đen nhỏ, có lúc thì giống như con nòng nọc.”
      “Nếu trông thấy một dãy số thì sao?”
      Bác sĩ dừng bút. “Anh trông thấy một dãy số?”
      “Đúng thế, nằm vắt ngang chính giữa trường nhìn.”
      Bác sĩ đẩy giấy và bút ra, nhìn anh với vẻ quan tâm: “Anh vừa bước vào tôi đã nhìn ra được, anh mệt mỏi quá độ rồi. Lần trước đi họp lớp, Lý Dao có kể với tôi rằng áp lực công việc của anh rất lớn. Đến tuổi của chúng ta thì cũng phải chú ý đấy, sức khỏe không coi thường được đâu.”
      “Ý anh nói, tình trạng của tôi là do nhân tố tinh thần?”
      Bác sĩ gật đầu, “Nếu là bệnh nhân bình thường, tôi đã đề nghị đến khoa Thần kinh rồi, nhưng kỳ thực cũng không cần thiết, không có gì nghiêm trọng cả, chỉ là mệt mỏi thôi. Nghỉ ngơi vài ngày đi, đi chơi mấy ngày cùng Lý Dao, với thằng nhỏ nữa, tên là gì ấy nhỉ, Đậu Đậu phải không? Yên tâm, sẽ nhanh hồi phục thôi.”
      1175:10:02, 1175:10:01, 1175:10:00,
      1175:09:59…
      “Tôi nói anh biết tôi nhìn thấy gì nhé, một bộ đếm giờ ngược! Nó đang nhảy chính xác từng giây, từng giây một! Đây có thể là do nhân tố tinh thần sao?”
      Bác sĩ cười khoan dung: “Có muốn biết nhân tố tinh thần có thể ảnh hưởng đến thị lực tới mức độ nào không? Tháng trước, chúng tôi chữa cho một cô bé, khoảng mười lăm mười sáu, cô bé đang trong lớp học đột nhiên không nhìn thấy gì nữa, hoàn toàn mất thị lực. Nhưng sau khi kiểm tra mọi thứ, đôi mắt hoàn toàn bình thường về mặt sinh lý. Về sau, chuyên gia bên khoa Thần kinh đã tiến hành trị liệu tâm lý cho cô bé một tháng, mắt côn bé lại đột nhiên khôi phục thị lực bình thường.”
      Uông Diểu biết ở đây nữa chỉ lãng phí thời gian, bèn đứng dậy định ra về, trước khi về còn hỏi thêm một câu cuối cùng: “Được rồi, thôi không nói chuyện mắt tôi nữa, tôi chỉ có một câu hỏi muốn thỉnh giáo anh: có ngoại lực gì có thể tác động từ xa khiến người ta nhìn thấy một thứ gì đó không?”
      Vị bác sĩ suy nghĩ một lúc: “Có, đợt trước tôi từng tham gia tổ bác sĩ của tàu Thần Châu 19, một phi hành gia báo cáo rằng, lúc họ làm việc bên ngoài không gian đã trông thấy nhưng chớp sáng không hề tồn tại. Trước đó, những phi hành gia trên Trạm vũ trụ quốc tế ISS cũng báo cáo tình trạng tương tự, đều là vào những lúc Mặt trời hoạt động mạnh, những hạt cao năng lượng trong vũ trụ đập vào võng mạc, khiến người ta trông thấy những tia chớp ảo. Có điều, anh nói rằng mình trông thấy những con số, còn là một bộ đếm giờ ngược nữa thì nhất định không thể do nguyên nhân này được.” Uông Diểu ngơ ngẩn ra khỏi bệnh viện, bộ đếm giờ ở phía trước mặt anh, tựa như anh đang đi theo nó, đi theo một oan hồn cứ nhằng nhẵng quấn chặt lấy anh. Anh mua một cặp kính râm đeo lên để người khác không nhìn thấy ánh mắt mơ màng như người mộng du của mình.
      Uông Diểu đi vào phòng thí nghiệm chính của Trung tâm nghiên cứu nano, trước khi qua cửa, anh không quên gỡ cặp kính râm xuống, mặc dù vậy, những đồng nghiệp tình cờ chạm mặt đều lộ vẻ lo lắng trước trạng thái tinh thần của anh.
      Chính giữa phòng thí nghiệm lớn, Uông Diểu trông thấy hộp đen phản ứng vẫn đang vận hành. Trung tâm của thiết bị khổng lồ này là một khối cầu, từ đó mọc ra rất nhiều ống dẫn. Loại vật liệu nano siêu bền biệt danh “Phi Đao” đã sản xuất được, nhưng lại phải dùng kỹ thuật xây dựng phân tử để chế tạo, tức là dùng các đầu dò để tác động, lắp ghép các phân tử vật liệu lại như xếp chồng những viên gạch lên nhau, công nghệ này tiêu tốn rất lớn, sản phẩm có thể nói là báu vật quý nhất thế giới, không thể tiến hành sản xuất số lượng lớn được.
      Điều mà phòng thí nghiệm này đang làm, chính là thử tìm ra một loại phản ứng xúc tác để thay thế phương pháp xây dựng phân tử, khiến một lượng lớn phân tử sau phản ứng sẽ tự xếp thành cấu trúc hoàn chỉnh. Thí nghiệm được tiến hành trong hộp đen phản ứng, thiết bị này có thể tiến hành phản ứng với các tổ hợp phân tử có số lượng thành phần khổng lồ, những tổ hợp này nếu như thao tác bằng tay theo kiểu truyền thống thì có khi mất hơn trăm năm cũng làm không hết, nhưng lại có thể tiến hành tự động bên trong hộp đen phản ứng. Đồng thời, đây còn là một thiết bị kết hợp phản ứng thật với mô phỏng trên máy vi tính, khi phản ứng tổng hợp thực hiện đến một mức độ nhất định, máy tính sẽ dựa trên kết quả trong từng giai đoạn phản ứng để xây dựng mô hình mô phỏng của phản ứng tổng hợp, dùng mô hình mô phỏng thay thế tiến trình còn lại của phản ứng, nâng cao hiệu suất thí nghiệm lên đáng kể.
      Người phụ trách thí nghiệm trông thấy Uông Diểu vội vàng chạy tới, bắt đầu báo cáo một loạt các sự cố vừa xuất hiện với hộp đen phản ứng. Đây là chuyện dạo này anh luôn gặp phải mỗi lần đi làm. Hiện nay, hộp đen phản ứng đã liên tục vận hành hơn một năm, độ nhạy của rất nhiều thiết bị cảm biến bị suy giảm, sai lệch tăng cao,cần gấp rút dừng máy để duy tu bảo dưỡng. Nhưng Uông Diểu là nhà khoa học đứng đầu dự án này, lại kiên trì muốn làm xong nhóm tổ hợp thứ ba rồi mới dừng máy, các kỹ sư bất đắc dĩ đành phải thêm vào hộp đen phản ứng ngày càng nhiều các thiết bị bổ sung, đến nay thì bản thân những thiết bị bổ sung ấy cũng cần thu bổ sửa chữa, khiến cho cả nhóm dự án đều mệt nhoài. Nhưng người phụ trách vẫn dè dặt không nhắc đến chuyện dừng máy và tạm thời ngưng thí nghiệm, sợ Uông Diểu lại nổi giận đùng đùng như lần trước. Anh ta chỉ đem hết mọi khó khăn nói ra, song ý tứ đã rất rõ ràng.
      Uông Diểu ngẩng đầu nhìn hộp đen phản ứng, cảm thấy nó giống như một cái tử cung, các kỹ sư đang bận rộn quay xung quanh, cố gắng duy trì nó vận hành bình thường. In trên cảnh tượng này, là bộ đếm giờ ma quái kia.
      1174:21:11, 1174:21:10, 1174:21:09,
      1174:21:08…
      Dừng lại thử xem. Trong đầu Uông Diểu đột nhiên vang lên lời Thân Ngọc Phi.
      “Muốn thay đổi toàn diện hệ thống cảm biến ngoại vi cần bao lâu?” Anh hỏi.
      “Bốn đến năm ngày.” Người phụ trách thí nghiệm đột nhiên nhìn thấy hy vọng, vội vàng bổ sung thêm một câu: “Làm nhanh hơn, ba ngày là được, giám đốc Uông, tôi đảm bảo!”
      Mình không hề khuất phục, thiết bị quả thực cần bảo dưỡng, vì vậy mà thí nghiệm phải tạm thời dừng lại, không liên quan gì đến những chuyện khác. Uông Diểu thầm nhủ, sau đó quay sang nhìn người phụ trách qua những con số của bộ đếm giờ ma quái, “Dừng thí nghiệm lại, cho tắt máy để bảo dưỡng, cứ làm theo thời gian biểu mà anh nói.”
      “Vâng, giám đốc Uông, tôi sẽ nhanh chóng nộp cho anh phương án thay mới, đến chiều là có thể tắt máy được rồi.” Người phụ trách mừng rỡ nói.
      “Dừng luôn bây giờ đi.”
      Người phụ trách nhìn Uông Diểu như đang nhìn một người không quen biết, nhưng rồi lập tức lấy lại vẻ mừng rỡ, như sợ đánh mất cơ hội này vậy. Anh ta cầm điện thoại lên ra lệnh dừng máy. Vừa nghe lệnh, những nghiên cứu viên và kỹ sư đã mệt nhoài trong nhóm dự án bỗng chốc hăng hái lên, bắt đầu gạt hơn trăm công tắc phức tạp theo trình tự quy định, các màn hình giám sát lần lượt tối đen, cuối cùng, màn hình giám sát chính hiện ra trạng thái dừng máy.
      Gần như cùng lúc, bộ đếm giờ trước mắt Uông Diểu cũng ngừng nhảy số, con số cố định ở 1174:20:35. Mấy giây sau, dãy số nhấp nháy mấy lượt, rồi biến mất.
      Khi tái hiện trước mắt mình hiện thực không có bộ đếm giờ ma quái kia che phủ, Uông Diểu thở hắt ra như vừa thoát khỏi đáy nước. Anh uể oải ngồi xuống, nhưng ngay lập tức đã ý thức được bên cạnh còn có người đang nhìn mình.
      Anh nói với người phụ trách phòng thí nghiệm: “Nâng cấp hệ thống là nhiệm vụ của tổ thiết bị, người của tổ thí nghiệm các anh nghỉ ngơi mấy ngày cho thoải mái đi, đợt này mọi người đều vất vả rồi.”
      “Giám đốc Uông, anh cũng mệt mỏi quá rồi, ở đây có kỹ sư trưởng Trương trông chừng, anh về nhà nghỉ ngơi một chút đi.”
      “Đúng vậy, mệt quá rồi.” Uông Diểu uể oải nói, đợi anh ta đi khỏi, anh cầm điện thoại lên bấm số của Thân Ngọc Phi, chuông đổ một tiếng cô ta đã nghe máy.
      “Sau lưng các người là gì vậy?” Uông Diểu hỏi, cố gắng giữ giọng bình thản nhưng không được.
      Im lặng.
      “Khi bộ đếm giờ chạy hết sẽ có chuyện gì xảy ra?”
      Im lặng.
      “Cô có đang nghe không đó?” “Có.”
      “Vật liệu nano cường độ cao thì sao? Đây không phải là máy gia tốc hạt, chỉ là dự án nghiên cứu ứng dụng, đáng để chú ý thế sao?”
      “Cái gì đáng để chú ý không phải do chúng ta đoán định.”
      “Đủ rồi!” Uông Diểu gầm lên, cảm giác hoảng sợ và tuyết vọng trong lòng đột nhiên chuyển thành cơn giận điên cuồng, “Các người tưởng trò ảo thuật vớ vẩn này có thể gạt được tôi chắc? Có thể ngăn trở sự tiến bộ của công nghệ chắc? Tôi thừa nhận nhất thời không thể giải thích được về mặt kỹ thuật, nhưng đó là vì tôi vẫn chưa vòng ra được sau lưng cái tên ảo thuật gia đáng khinh bỉ kia mà thôi!”
      “Ý anh là, muốn nhìn thấy bộ đếm giờ ngược ấy ở cấp độ lớn hơn hả?”
      Câu nói của Thân Ngọc Phi làm Uông Diểu ngẩn ra giây lát, anh chưa chuẩn bị cho câu hỏi này, vì vậy đành cố ép mình bình tĩnh lại để khỏi lọt vào bẫy của đối phương. “Dẹp cái màn kịch ấy của cô đi. Cấp độ lớn hơn thì sao hả, các người cũng chỉ đang chơi trò ảo thuật mà thôi! Có thể chiếu ảnh toàn ký lên không trung, giống như NATO đã làm trong cuộc chiến lần trước, tia laser cường độ mạnh thậm chí còn có thể chiếu hình ảnh lên toàn bộ bề mặt mặt trăng nữa! Xạ thủ và Chủ nông trại thì phải có thể chơi đùa ở cấp độ mà sức người không thể vươn tới chứ, tỷ dụ như bộ đếm giờ ấy có thể hiển thị trên bề mặt của Mặt trời không hả?” Lời vừa dứt, Uông Diểu chợt kinh ngạc há hốc miệng, không ngờ trong lúc vô tình anh đã nói ra hai danh từ lẽ ra phải kiêng kỵ này, cũng may là anh chưa nói ra cái từ cần kiêng kỵ hơn nữa kia. Muốn tranh thủ thêm quyền chủ động, anh bèn tiếp lời: “Xét đến một số khả năng năng mà tôi còn chưa nghĩ đến, cho dù ở cấp độ Mặt trời, tên ảo thuật gia vô sỉ của các người vẫn có thể là đang diễn trò ảo thuật, sức mạnh ấy nếu muốn khiến người ta thực sự tin phục thì cấp độ hiển thị phải lớn hơn nữa kia.”
      “Vấn đề là anh có chịu đựng nổi hay không? Chúng ta là bạn, tôi muốn giúp anh thôi, đừng đi theo con đường của Dương Đông.”
      Nghe thấy cái tên này, Uông Diểu bất giác run lên, nhưng cơn giận bùng phát ngay sau đó lại khiến anh bất chấp tất cả: “Có thể chấp nhận lời khiêu chiến này không?”
      “Có thể.”
      “Cô muốn thế nào?” Giọng Uông Diểu trở nên yếu ớt.
      “Bên cạnh anh có máy tính lên mạng được không? Được, nhập địa chỉ này vào: http://www.qsl.net/bg3tt/zl/mesdm.htm, mở ra chưa hả? In trang web đó ra, mang theo bên người.”
      Uông Diểu thấy trên trang web chỉ có một bảng đối chiếu mã Morse.
      “Tôi không hiểu, đây là…”
      “Trong vòng hai ngày tới, nghĩ cách tìm ra một nơi có thể quan sát được bức xạ nền của vũ trụ. Cụ thể thì hãy đọc trong email tôi sẽ gửi cho anh ngay sau đây.”
      “Cái này… để làm gì?”
      “Tôi biết dự án nghiên cứu vật liệu nano đã đình lại, anh định khởi động lại nó à?”
      “Tất nhiên, ba ngày sau.” “Vậy thì bộ đếm giờ sẽ tiếp tục.”
      “Tôi sẽ nhìn thấy nó ở cấp độ nào?”
      Trầm mặc hồi lâu, người phụ nữ đang làm kẻ phát ngôn cho một sức mạnh nằm ngoài khả năng lý giải của con người kia lạnh lùng bịt kín mọi đường ra của Uông Diểu:
      “Ba ngày sau, tức là ngày 14, từ 1 giờ sáng đến 5 giờ sáng, cả vũ trụ sẽ nhấp nháy vì anh.”

      #3
        huytran 30.07.2017 02:55:53 (permalink)
        Chương 4 : Tam thể: Chu Văn Vương, Đêm dài  
         
        Uông Diểu bấm số điện thoại của Đinh Nghị, sau khi đầu dây kia bắt máy, anh mới nhớ ra giờ đã là hơn một giờ sáng.
        “Tôi là Uông Diểu, thật xin lỗi, muộn thế này còn làm phiền.”
        “Không sao, tôi đang mất ngủ.” “Tôi… gặp phải một số chuyện, muốn
        nhờ anh giúp. Anh biết ở trong nước có
        nơi nào có thể quan trắc được bức xạ nền của vũ trụ không?” Uông Diểu khao khát được trút bầu tâm sự, nhưng ngay sau đó lại cảm thấy chuyện bộ đếm giờ ma quái kia lúc này vẫn không nên để nhiều người biết thì hơn.
        “Bức xạ nền vũ trụ, sao anh lại có nhã hứng với thứ này? Có vẻ như đúng là anh đã gặp phải một số chuyện rồi… Anh đi gặp mẹ Dương Đông chưa?”
        “À… thật xin lỗi, tôi quên mất.” “Không sao cả. Trong giới khoa học
        hiện nay, có rất nhiều người… cũng gặp
        phải một số chuyện như anh nói, tâm trí cứ để đâu đâu vậy, có điều tốt nhất anh vẫn nên đi thăm bà ấy, bà ấy tuổi cao rồi, lại không chịu thuê người giúp việc, nếu có việc gì phải tốn sức thì làm phiền anh giúp hộ… À, chuyện bức xạ nền vũ trụ ấy, anh có thể gặp mẹ của Dương Đông để hỏi, trước khi nghỉ hưu bà ấy là chuyên gia về vật lý thiên văn, rất thân thuộc với các cơ quan nghiên cứu ngành này ở trong nước.”
        “Được, hôm nay hết giờ làm tôi sẽ đi.”
        “Vậy tôi cảm ơn trước, tôi thật sự không thể nào đối mặt với bất cứ điều gì có liên quan đến Dương Đông nữa rồi.”
        Gọi xong cuộc điện thoại ấy, Uông Diểu ngồi trước máy tính, bắt đầu in bảng đối chiếu mã Morse đơn giản trên trang web đó ra. Lúc này, anh đã bình tĩnh lại, không tập trung vào bộ đếm giờ kia nữa mà dành thơi gian suy nghĩ về Biên giới Khoa học và Thân Ngọc Phi, nghĩ đến trò chơi trực tuyến mà cô ta đang tham gia. Về Thân Ngọc Phi, điều duy nhất mà anh có thể khẳng định là cô ta không phải loại người thích chơi game, ấn tượng duy nhất về người phụ nữ nói năng ngắn gọn như điện báo này là lạnh lùng, sự lạnh lùng của cô ta không giống với một số phụ nữ khác, không phải một tấm mặt nạ, mà là cái lạnh toát ra từ trong ra ngoài.
        Một cách vô thức, Uông Diểu luôn liên tưởng cô ta với hệ điều hành DOS đã biến mất từ lâu, một màn hình đen kịt trống rỗng, chỉ nhấp nháy một ký hiệu “C:\>” đơn giản đến không thể nào đơn giản hơn, bạn nhập cái gì vào nó sẽ trả về cái đó. Không thừa một chữ, cũng không thay đổi. Giờ đây, anh đã biết, phía sau ký hiệu “C:\>” ấy kỳ thực là một vực sâu không đáy.
        Cô ta thật sự có hứng chơi game, hơn nữa còn măc cả bộ thiết bị V vào chơi sao? Cô ta không có con cái, bộ thiết bị V ấy chỉ có thể là tự mua về để sử dụng, điều này thật sự hơi khó tin.
        Uông Diểu nhập địa chỉ trang web rất dễ nhớ của trò chơi đó vào trình duyệt: www.3body.xyz. Trên trang web nêu rõ trò chơi này chỉ chấp nhận phương thức chơi qua thiết bị V. Uông Diểu nhớ trong phòng giải trí dành cho nhân viên của Trung tâm nghiên cứu nano có một bộ thiết bị V, bèn ra khỏi phòng thí nghiệm trung tâm giờ này đã vắng tanh, lên phòng trực ban lấy chìa khóa rồi đi xuyên qua dãy bàn bi a cùng máy tập gym, tìm thấy bộ thiết bị V bên cạnh chiếc máy tính. Anh mất khá nhiều công sức mới mặc được bộ trang phục cảm ứng lên người, sau đó đội mũ chụp lên đầu và khởi động máy tính.
        Sau khi trò chơi khởi động, Uông Diểu thấy mình ở giữa một vùng đồng không mông quạnh vào lúc bình minh, cánh đồng hoang có màu nâu xám, không nhìn rõ được chi tiết, trên đường chân trời phía xa xa có một mảng sáng trắng nho nhỏ, phần bầu trời còn lại vẫn còn sao lấp lánh. Một tiếng nổ lớn, hai ngọn núi lớn phát ra ánh sáng đỏ rơi xuống mặt đất đằng xa, cả cánh đồng hoang bao trùm trong quầng sáng đỏ. Sau khi lớp bụi mù mịt cả đất trời tan đi, Uông Diểu thấy rõ hai chữ lớn cao từ trên trời: Tam Thể.
        Ngay sau đó, xuất hiện một giao diện đăng ký, Uông Diểu dùng ID “Hải Nhân” để đăng ký, rồi đăng nhập thành công vào trò chơi.
        Cánh đồng hoang vẫn y như cũ, nhưng thiết bị nén trên trang phục cảm ứng đã xì xì khởi động, Uông Diểu cảm thấy một luồng khí hơi lạnh ghê người. Phía trước mặt anh xuất hiện hai người đang đi, in hai cái bóng đen trên nền ánh rạng đông. Uông Diểu đuổi theo, anh thấy hai người này đều là nam giới, khoác áo dài rách tả tơi, bên ngoài còn choàng một tấm da thú bẩn thỉu, mỗi người đeo một thanh kiếm vừa rộng vừa ngắn từ thời kỳ đồ đồng, một trong hai người đeo trên lưng một chiếc hộp gỗ dài và hẹp cao bằng nữa người, quay đầu lại nhìn Uông Diểu. Mặt ông ta cũng bẩn và nhăn nheo như tấm da thú vậy, nhưng đôi mắt thì rất có thần, con ngươi ánh lên trong nắng ban mai. “Lạnh nhỉ.” Ông ta nói.
        “Ừ, lạnh thật.” Uông Diểu phụ họa. “Đây là thời đại Chiến Quốc, ta là
        Chu Văn Vương.” Người đó nói.
        “Chu Văn Vương đâu phải là người thời Chiến Quốc nhỉ?” Uông Diểu hỏi.
        “Ông ấy vẫn sống đến tận bây giờ đó, Trụ Vương cũng còn sống.” Người không đeo hộp gỗ kia nói, “tôi là tùy tùng của Chu Văn Vương, ID của tôi là ‘Tùy tùng của Chu Văn Vương’, ông ấy mới gọi là thiên tài.”
        “ID của tôi là ‘Hải Nhân’.” Uông Diểu nói, “Trên lưng ông có gì thế?”
        Chu Văn Vương đặt cái hộp gỗ hình chữ nhật xuống, mở một mặt đứng ra, tựa như mở cảnh cửa, để lộ năm tầng ô vuông, dưới ánh sáng buổi sớm, Uông Diểu thấy trong mỗi tầng đều có một đụn cát mịn nhỏ cao thấp không đều, mỗi ô đều có một dòng cát mảnh đang chảy từ ô trên xuống.
        “Đồng hồ cát, tám tiếng chảy hết một lượt, đảo ba lần thì là một ngày. Nhưng ta thường hay quên đảo chiều, phải chở Tùy tùng nhắc nhở.” Chu Văn Vương giới thiệu.
        “Các ông hình như đang thực hiện một chuyến đi dài, có nhất thiết phải cõng theo một thiết bị tính giờ nặng nề như vậy không?”
        “Thế tính giờ bằng cách nào?”
        “Mang một cái đồng hồ Mặt trời cỡ nhỏ thuận tiện hơn nhiều, hoặc không thì quan sát luôn Mặt trờ cũng có thể biết được thời gian đại khái mà.”
        Chu Văn Vương và Tùy tùng ngơ ngác nhìn nhau, sau đó cũng nhìn chằm chằm vào Uông Diểu, như thể anh là một tên đại ngốc, “Mặt trời? Nhìn Mặt trời làm sao biết được thời gian? Đây là kỷ nguyên Hỗn loạn đó.”
        Uông Diểu đang định hỏi hàm nghĩa của danh từ quái dị này thì Tùy tùng đã ai oán kêu lên: “Lạnh thật đó, lạnh chết tôi rồi!”
        Uông Diểu cũng cảm thấy lạnh, nhưng anh không thể tùy tiện cởi bỏ trang phục cảm ứng, thông thường, làm như vậy sẽ bị trò chơi xóa bỏ ID. Anh nói: “Mặt trời lên thì sẽ ấm hơn thôi.”
        “Anh đang giả mạo nhà tiên tri vĩ đại phải không hả? Đến Chu Văn Vương còn không tiên tri nổi đâu nhé!” Tùy tùng nhìn Uông Diểu lắc đầu vẻ khinh miệt.
        “Chuyện này mà cũng phải cần đến tiên tri sao? Ai mà không biết một hai tiếng nữa Mặt trời sẽ lên chứ.” Uông Diểu chỉ về phía chân trời.
        “Đây là kỷ nguyên Hỗn loạn!” Tùy tùng nói.
        “Kỷ nguyên Hỗn loạn là cái gì?” “Ngoại trừ kỷ nguyên Hằng định, tất
        cả đều là kỷ nguyên Hỗn loạn.” Chu Văn
        Vương nói, như thể đang trả lời câu hỏi của một đứa trẻ ranh vô tri.
        Quả nhiên, ánh nắng sớm cuối chân trời bắt đầu nhạt đi rồi nhanh chóng biến mất, màn đêm lại bao phủ lên tất thảy, trên bầu không, ánh sao lấp lánh.
        “Thì ra giờ là hoàng hôn chứ không phải sáng sớm?” Uông Diểu hỏi.
        “Đang là buổi sáng sớm, nhưng Mặt trời buổi sớm cũng chưa chắc mọc lên, đây là kỷ nguyên Hỗn loạn.”
        Cái lạnh khiến Uông Diểu rất khó chịu, “Tình hình này, Mặt trời còn rất lâu nữa mới lên.” Anh lẩm bẩm chỉ vào đường chân trời mơ hồ phía xa.
        “Sao anh lại nghĩ như thế rồi? Chuyện này không chắc đâu, đây là kỷ nguyên Hỗn loạn.” Tùy tùng nói đoạn quay sang phía Chu Văn Vương: “Cơ Xương, cho tôi ít cá khô ăn đi.”
        “Không được!” Chu Văn Vương quả quyết nói, “Ta cũng cố lắm mới tạm coi là no, phải đảm bảo rằng ta có thể đi tới Triều Ca, chứ không phải là cậu.”
        Trong lúc nói chuyện, Uông Diểu chú ý thấy đường chân trời ở một hướng khác lại xuất hiện ánh ban mai, anh không phân biệt được Đông Tây hay Nam Bắc, nhưng có thể khẳng định không phải là hướng mà nó xuất hiện lần trước. Ánh nắng sớm mạnh dần, một lúc sau đó Mặt trời của thế giới này đã lên, đó là một vầng Mặt trời nhỏ màu xanh lam, rất giống mặt trăng được tăng cường độ sáng, nhung vẫn làm cho Uông Diểu ấm lên, đồng thời nhìn rõ được các chi tiết của mặt đất. Nhưng ngày rất ngắn ngủi, Mặt trời vạch một đường cong nông choẹt phía bên trên đường chân trời rồi lặn luôn, màn đêm và cái lạnh một lần nữa bao trùm lên hết thảy.
        Ba người đứng trước một cái cây khô, Chu Văn Vương và Tùy tùng rút kiếm đồng thau ra chặt củi, Uông Diều nhặt củi vun lại thành một đống, Tùy tùng lấy mồi lừa, lẹt xẹt, lẹt xẹt một hồi, đốt lên một đống lửa. Phần ngực bộ trang phục cảm ứng của Uông Diểu trở nên ấm áp, nhưng sau lưng thì vẫn lạnh buốt.
        “Đốt vài người thoát nước đi, lửa mới mạnh được.” Tùy tùng nói.
        “Câm miệng! Việc đó chỉ tên Trụ Vương kia mới làm!”
        “Đằng nào thì những kẻ nằm rải rác trên đường kia cũng rách nát thế rồi, ngâm cũng không sống lại được đâu. Nếu lý luận của ông thật sự dùng được, đừng nói là đốt một vài tên, ăn mấy tên cũng được ấy chứ, so với lý luận đó, mấy cái mạng có đáng là gì?”
        “Nói bậy! Chúng ta là những học giả!”
        Sau khi đống lửa cháy hết, ba người tiếp tục lên đường. Vì họ nói chuyện rất ít, hệ thống đã đẩy nhanh tốc độ thời gian trôi trong trò chơi, Chu Văn Vương nhanh chóng đảo chiều chiếc đồng hồ cát trên lưng sáu lần, thoáng cái đã hai ngày trôi qua, Mặt trời vẫn chưa lên lấy một lần, thậm chí phía chân trời còn chẳng thấy bóng dáng ánh ban mai.
        “Xem ra Mặt trời không lên nữa rồi.” Uông Diểu nói, đồng thời bật ra giao diện trò chơi để xem HP (Health Point) của mình, chỉ số đang nhanh chóng giảm xuống vì lạnh giá.
        “Anh lại giả mạo tiên tri vĩ đại rồi…” Tùy tùng nói, Uông Diểu và anh ta cùng đồng thanh nói nửa câu sau: “Đây là kỷ nguyên Hỗn loạn.”
        Lời này vừa nói ra chưa được bao lâu, chân trời đã xuất hiện ánh nắng sớm, ánh sáng nhanh chóng mạnh lên, thoáng cái Mặt trời đã mọc, Uông Diểu phát hiện lần này là một vầng Mặt trời lớn, khi nó lên được nữa chừng, đường kính đã chiếm ít nhất một phần năm đường chân trời trong tầm mắt anh. Làn hơi ấm áp ập vào mặt khiến Uông Diểu thấy thoải mái dễ chịu, nhưng khi nhìn sang Chu Văn Vương và Tùy tùng, anh lại thấy bọn họ hết sức kính sợ, tựa như ma quỷ sắp giáng xuống vậy.
        “Nhanh lên, mau tìm chỗ bóng râm!” Tùy tùng hét lớn, Uông Diểu chạy như bay theo bọn họ đến sau một khối nham thạch thấp, ngồi thụp xuống. Cái bóng khối nham thạch từ từ thu ngắn lại, mặt đất xung quanh chói lòa nhức mắt như bị nung trắng lên, nền đất đông cứng dưới chân nhanh chóng tan chảy, đang cứng rắn như thép bỗng biến thành đất bùn mềm nhũn, sóng nhiệt cuồn cuộn, chẳng mấy chốc, Uông Diểu đã toát hết mồ hôi. Khi vầng Mặt trời lớn lên đến đỉnh đầu, ba người dùng da thú che kín đầu, nhưng ánh nắng gay gắt vẫn xói vào từ mọi khe hở và lỗ thủng, tựa như những mũi tên sắc bén. Ba người đi vòng qua tảng nham thạch di chuyển sang phía bên kia, nấp vào bóng râm mới xuất hiện bên đó…
        Sau khi Mặt trời khuất núi, không khí vẫn nóng bức dị thường, ba người mồ hôi đầm đìa ngồi trên tảng đá, Tùy tùng ủ rũ nói: “Du hành trong kỷ nguyên Hỗn loạn quả là đi giữa địa ngục, tôi không chịu nổi nữa rồi; vả lại, tôi cũng chẳng có gì ăn cả, ông không chia cá khô cho tôi, lại không cho tôi ăn nhứng người thoát nước, chậc…”
        “Vậy thì cậu chỉ còn cách thoát nước thôi.” Chu Văn Vương nói, một tay dùng miếng da thú quạt gió.
        “Sau khi thoát nước, ông sẽ không bỏ rơi tôi chứ?”
        “Tất nhiên là không, ta đảm bảo sẽ đưa cậu tới Triều Ca.”
        Tùy tùng cởi bỏ chiếc áo dài bị mồ hôi thấm ướt, mình trần nằm xuống bùn, dưới ánh tà dương còn sót lại, Uông Diểu thấy Tùy tùng đột nhiên vã mồ hôi đầm đìa. Nhưng chẳng mấy chốc, anh nhận ra đó không phải mồ hôi, mà là nước trong cơ thể người này đang tiết xuất ra triệt để, chảy thành những dòng nhỏ trên nền cát, cơ thể Tùy tùng tựa như một cây nến tan chảy, dần dần mềm nhũn, mỏng đi… Khoảng mười phút sau, nước đã tiết ra hết, thân thể biến thành một miếng da mềm hình người nằm bất động trên nền đất bùn, mắt mũi tai miệng trên gương mặt đều trở nên mơ hồ nhăn nhúm.
        “Anh ta chết rồi hả?” Uông Diểu hỏi. Anh nhớ ra, trên đường thỉnh thoảng cũng trông thấy những miếng da mềm hình người như thế này, có tấm đã rách nát không còn nguyên vẹn nữa, đó chính là những người thoát nước mà cách đây không lâu Tùy tùng đã muốn dùng để đốt lửa.
        “Không.” Chu Văn Cương nói, nhấc tấm da mà Tùy tùng biến thành, phủi bụi đất bám bên trên rồi đặt lên mặt tảng đá để cuộn anh ta (nó) lại, như cuộn một quả bóng da bị xì hơi, “Ngâm vào nước một lúc, cậu ta sẽ khôi phục nguyên trạng và sống lại, kiểu như ngâm nấm khô vậy.”
        “Xương cốt anh ta cũng mềm ra à?” “Đúng thế, đều thành sợi khô hết, như
        vậy mới tiện mang theo.”
        “Người nào trong thế giới này cũng có thể thoát nước à?”
        “Tất nhiên, anh cũng có thể, nếu không thì không thể sống được trong kỷ nguyên Hỗn loạn.” Chu Văn Vương đưa Tùy tùng đã cuộn lại cho Uông Diểu, “Anh mang theo cậu ta nhé, vứt ở bên đường thì không bị đốt cũng bị ăn mất.”
        Uông Diểu nhận lấy miếng da mềm, nay chỉ còn là một cuộn rất nhẹ. Anh kẹp vào cánh tay, cũng không thấy có cảm giác gì lạ.
        Uông Diểu kẹp theo Tùy tùng đã thoát nước, Chu Văn Vương đeo đồng hồ cát trên lưng, hai người lại tiếp túc hành trình gian nan. Cũng như mấy ngày trước, Mặt trời trong thế giới này vận hành hoàn toàn không theo quy luật nào cả, sau mấy đêm dài lạnh lẽo, có thể đột nhiên xuất hiện một ngày nóng tàn bạo, hoặc là ngược lại. Hai người nương tựa lẫn nhau, ngồi bên đống lửa chống lại giá lạnh, ngâm trong hồ nước cầm cự cho qua cơn nóng bức. Cũng may trong trò chơi, thời gian có thể tăng nhanh. Một tháng có thể trôi qua trong nửa giờ đồng hồ, điều này khiến hành trình trong kỷ nguyên Hỗn loạn vẫn còn ở mức độ có thể chịu đựng được.
        Hôm ấy, đêm dài đằng đẵng đã kéo dài gần một tuần (tính theo thời gian đồng hồ cát), Chu Văn Vương đột nhiên chỉ bầu trời đêm reo lên mừng rỡ:
        “Sao bay! Sao bay! Hai ngôi sao bay!!”
        Kỳ thực, trước đó Uông Diểu đã chú ý đến loại thiên thể kỳ lạ ấy, nó lớn hơn ngôi sao thường một chút, hình tròn, trông to như quả bóng bàn, tốc độ di chuyển rất nhanh, mắt thường cũng thấy được rõ ràng, hiện giờ nó đang di động trên bầu trời đầy sao, chỉ là lần này lại xuất hiện hai cái cùng lúc.
        Chu Văn Vương giải thích: “Hai ngôi sao bay xuất hiện, chứng tỏ rằng kỷ nguyên Hằng định sắp sửa bắt đầu!”
        “Lúc trước có thấy rồi.” “Lúc đó chỉ có một.”
        “Nhiều nhất chỉ có hai thôi à?” “Không, có lúc có ba, nhưng không nhiều hơn nữa.”
        “Ba ngôi sao bay xuất hiện, có phải là báo trước một kỷ nguyên tốt đẹp hơn nữa không?”
        Chu Văn Vương trừng mắt lên nhìn Uông Diểu, ánh mắt ngập tràn vẻ sợ hãi, “Anh đang nói gì vậy, ba ngôi sao bay… cầu mong nó đừng bao giờ xuất hiện.”
        Chu Văn Vương nói không sai, kỷ nguyên Hằng định mà họ mong đợi sắp sửa bắt đầu, Mặt trời mọc và lặn bắt đầu trở nên có quy luật, một ngày đêm dần dần cố định trong khoảng mười tám tiếng, ngày đêm thay phiên nhau có quy luật khiến không khí cũng ấm áp hơn phần nào.
        “Kỷ nguyên Hằng định có thể kéo dài bao lâu?” Uông Diểu hỏi.
        “Một ngày hoặc một thế kỷ, không ai nói chính xác được.” Chu Văn Vương ngồi trên đồng hồ cát, ngửa mặt nhìn vầng dương chính ngọ. “Theo ghi chép, Tây Chu từng có kỷ nguyên Hằng định kéo dài hai thế kỷ, ừm, người sinh ra ở thời đại đó thật có phúc.”
        “Vậy kỷ nguyên Hỗn loạn sẽ kéo dài bao lâu?”
        “Không phải đã nói rồi sao, ngoại trừ kỷ nguyên Hằng định thì đều là kỷ nguyên Hỗn loạn, hai kỷ nguyên xen kẽ lẫn nhau.”
        “Vậy có nghĩa đây là một thế giới hỗn loạn hoàn toàn chẳng có quy luật gì?!”
        “Đúng thế, văn minh chỉ có thể phát triển trong kỷ nguyên Hằng định có khí hậu ôn hòa trong thời gian tương đối dài. Hầu hết thời gian, nhân loại đều thoát nước tập thể để tồn trữ, khi kỷ nguyên Hằng định tương đối dài xuất hiện, sẽ lại tập thể ngâm nước phục sinh, sản xuất và xây dựng.”
        “Thế làm sao để dự đoán lúc kỷ nguyên Hằng định xuất hiện và độ dài của nó?”
        “Không thể làm được, xưa nay chưa bao giờ làm được, khi kỷ nguyên Hằng định xuất hiện, quốc gia có ngâm nước phục sinh hay không đều dựa vào trực giác của đại vương, thường thường là: ngâm nước phục sinh, trồng trọt hoa màu, bắt đầu xây dựng thành thị thôn trấn, cuộc sống vừa mới bắt đầu, kỷ nguyên Hằng định liền kết thúc. Lạnh giá và nóng bức hủy diệt tất thảy.” Chu Văn Vương nói tới đây, chỉ một tay về phía Uông Diểu, hai mắt sáng bừng lên: “Được rồi, anh đã biết được mục tiêu của trò chơi này rồi đó: chính là vận dụng trí lực và ngộ tính của chúng ta, phân tích, nghiên cứu các hiện tượng, nắm bắt quy luật vận hành của Mặt trời, sự sinh tồn của nền văn minh đều gắn với điểm này.”
        “Theo tôi thấy, Mặt trời vận hành hoàn toàn không có quy luật gì cả.”
        “Đó là vì anh chưa thể ngộ ra được bản nguyên của thế giới.”
        “Ông đã ngộ ra rồi?”
        “Đúng thế, đây chính là mục đích mà ta đến Triều Ca, ta sẽ hiến lên Trụ Vương một cuốn lịch vạn niên chuẩn xác.”
        “Nhưng cả chặng đường, tôi không thấy ông có năng lực này.”
        “Dự đoán quy luật vận hành của Mặt trời chỉ có thể thực hiện ở Triều Ca, vì nơi đó là điểm giao hội của Âm Dương, chỉ có ở nơi đó thì quẻ bói mới chuẩn xác được.” Hai người lại cất bước đi trong kỷ nguyên Hỗn loạn tàn khốc một thời gian rất dài, giữa chừng lại trải qua một kỷ nguyên Hằng định ngắn ngủi, cuối cùng cũng đến được Triều Ca.
        Uông Diểu nghe thấy tiếng ầm ầm như sấm vang lên không ngớt, âm thanh này do rất nhiều thứ kỳ quái trên mặt đất ở Triều Ca phát ra, đó là những con lắc đơn khổng lồ, mỗi con lắc đều cao đến mấy chục mét, quả lắc là những khối đá lớn, buộc vào một sợi dây chão treo trên cầu đá bắc ngang hai tháp đá cao. Mỗi con lắc đơn đều đang dao động. Làm chúng dao động là những đội binh sĩ mặc khôi giáp, đồng thanh hô vang những khẩu hiệu kỳ quái, hợp sức kéo sợi dây treo quả lắc đá khổng lồ, đảm bảo cho dao động của con lắc không đổi. Uông Diểu phát hiện, dao động của tất cả các con lắc này đều đồng bộ với nhau, nhìn từ xa, cảnh tượng quái dị đến nỗi khiến người ta mê mẩn, trông như có vô số đồng hồ quả lắc đang đồng thời chạy, lại như rất nhiều ký hiệu khổng lồ, trừu tượng từ trời cao giáng xuống.
        Trong vòng tròn các con lắc lớn ấy, có một tòa kim tự tháp khổng lồ, tựa hồ một ngọn núi đen ngòm nhô cao giữa màn đêm, đây chính là cung điện của Trụ Vương. Uông Diểu theo Chu Văn Vương đi vào một ô cửa không cao lắm ở tầng trệt kim tự tháp, mấy binh sĩ canh gác cạnh cửa lặng lẽ đi qua đi lại như những bóng ma trong đêm tối. Họ men theo một đường hầm dài, chật hẹp và tăm tối, cách một quãng rất xa mới có một cây đuốc.
        “Trong kỷ nguyên Hỗn loạn, cả nước đều ở trong trạng thái thoát nước, nhưng Trụ Vương luôn thức bầu bạn với mảnh đất không còn sự sống này. Muốn sinh tồn trong kỷ nguyên Hỗn loạn, thì phải sống bên trong kiến trúc có vách tường cực dày như thế này, gần như là sống dưới lòng đất, mới tránh được lạnh giá và nóng bức.” Chu Văn Vương vừa đi vừa giải thích cho Uông Diểu.
        Đi một quãng đường rất dài, họ mới vào đến đại điện ở trung tâm kim tự tháp của Trụ Vương, kỳ thực nơi này cũng không lớn lắm, lại giống như một hang núi. Người khoác một tấm da thú hoa ngồi trên đài cao kia hiển nhiên chính là Trụ Vương, nhưng thu hút ánh mắt của Uông Diểu trước tiên lại là một người áo đen, tấm áo đen cơ hồ hòa làm một với bóng tối dày đặc bên trong đại điện, gương mặt trắng nhợt ấy như thể lơ lửng giữa không trung.
        “Đây là Phục Hy.” Trụ Vương giới thiệu người áo đen với Chu Văn Vương và Uông Diểu mới bước vào, cứ như họ đã ở đó từ bao giờ, còn người áo đen mới là kẻ mới đến, “Y cho rằng, Mặt trời là một vị thần vĩ đại trái tính trái nết, lúc ngài tỉnh giấc thì hỉ nộ thất thường, đó là kỷ nguyên Hỗn loạn; lúc ngài ngủ thì hô hấp đều đặn, đó là kỷ nguyên Hằng định.
        Phục Hy đề nghị dựng những con lắc lớn ngoài kia, ngày đêm không ngừng dao động, nói rằng làm vậy có tác dụng thôi miên mạnh mẽ với Thần Mặt trời, có thể khiến thần chìm sâu vào giấc ngủ. Nhưng đến giờ, chúng ta thấy Thần Mặt trời vẫn tỉnh táo, cùng lắm chỉ là chốc chốc lại chợp mắt một chút thôi.”
        Trụ Vương khoát tay, có người bưng lên một chiếc vò gốm đặt trên bàn đá trước mặt Phục Hy… Uông Diểu sau đó biết được, đó là một vò canh pha lẫn đủ thứ gia vị. Phục Hy thở dài, bưng vò lên uống, âm thanh ừng ực ừng ực nghe như thể một quả tim khổng lồ đang đập ở sâu trong bóng tối. Uống được một nửa, y rưới chỗ canh còn lại lên người mình, sau đó ném vò đi, bước về phía một cái đỉnh lớn bằng đồng thau đặt trên ngọn lửa phía góc đại điện, leo lên mép đỉnh; y nhảy vào trong, làm bốc lên một luồng hơi nước.
        “Cơ Xương ngồi xuống đi, một lát nữa sẽ mở tiệc.” Trụ Vương chỉ vào cái đỉnh lớn.
        “Trò phù thủy ngu xuẩn.” Chu Văn Vương hất đầu về phía cái đỉnh, nói với giọng khinh miệt.
        “Ông đã ngộ ra điều gì về Mặt trời rồi?” Trụ Vương hỏi, ngọn lửa nhảy nhót trong đôi mắt ông ta.
        “Mặt trời không phải thần thánh gì,
        Mặt trời là Dương, đêm đen là Âm, thế giới vận hành trong sự cân bằng của Âm Dương, điều này không nằm trong sự khống chế của chúng ta, nhưng có thể dự đoán.” Chu Văn Vương nói, đoạn rút thanh kiếm đồng thau ra, vạch trên mặt đất chỗ có ánh đuốc soi tới một đôi Âm Dương Ngư to tướng, sau đó thoăn thoắt vẽ sáu mươi tư quẻ xung quanh khiến người ta nhìn mà hoa cả mắt, trông như một vòng năm lớn khi ẩn khi hiện dưới ánh lửa, “Đại vương, đây chính là mật mã của vũ trụ, dựa vào nó, tôi sẽ hiến cho vương triều của ngài một cuốn lịch vạn niên chuẩn xác.”
        “Cơ Xương à, giờ điều ta cần biết nhất, là kỷ nguyên Hằng định dài tiếp theo bao giờ mới đến.”
        “Tôi sẽ lập tức bói cho ngài.” Chu Văn Vương nói, đoạn bước tới chính giữa đồ án Âm Dương Ngư ngồi xếp bằng xuống, ngẩng đầu nhìn lên trần đại diện, ánh mắt như thể xuyên thấu bức tường dày của kim tự tháp trông thấy bầu trời sao, hai tay ông ta cùng lúc tiến hành những động tác phức tạp, tạo thành một máy tính vận hành tốc độ cao. Trong không gian tĩnh mịch, chỉ có tiếng sôi lục bục của món canh trong cái đỉnh lớn, tựa hồ thầy mo trong nồi canh ấy đang nói mớ.
        Chu Văn Vương đứng phắt dậy giữa đồ án Âm Dương, đầu vẫn ngẩng lên trần: “Tiếp sau là một kỷ nguyên Hỗn loạn dài bốn mươi mốt ngày, sau đó sẽ xuất hiện kỷ nguyên Hằng định dài năm ngày, tiếp sau nữa là một kỷ nguyên Hỗn loạn hai mươi ba ngày và kỷ nguyên Hằng định mười tám ngày, sau đó là kỷ nguyên Hỗn loạn tám ngày, khi kỷ nguyên Hỗn loạn này kết thúc, Đại vương, kỷ nguyên Hằng định này sẽ duy trì trong ba năm bốn tháng, trong khoảng thời gian đó, khí hậu ôn hòa, là một kỷ nguyên vàng.”
        “Chúng ta trước tiên cần phải chứng thực những suy đoán trước đó của ông đã.” Trụ Vương bình thản nói.
        Uông Diểu nghe thấy phía trên có tiếng động ầm ầm, rồi một phiến đá trên trần đại điện trượt ra, để lộ một cái hốc hình vuông, Uông Diểu điều chỉnh lại phương hướng, trông thấy cái hốc vuông này thông ra bên ngoài kim tự tháp, phía đầu bên kia, anh nhìn thấy vài ngôi sao đang nhấp nháy.
        Thời gian trong trò chơi lại tăng nhanh, chiếc đồng hồ cát mà Chu Văn Vương mang đến do hai binh sĩ canh giữ cứ vài giây lại đảo chiều một lần, biểu thị tám tiếng đã trôi qua, ô cửa bên trên chớp sáng không theo quy luật nào cả, chốc chốc lại có ánh Mặt trời của kỷ nguyên Hỗn loạn rọi vào đại điện, có lúc yếu ớt như ánh trăng, có lúc lại hết sức gay gắt, đốm sáng hình vuông trên nền đất trắng rực lên, khiến tất cả các bó đuốc xung quanh đều mờ nhạt. Uông Diểu đếm số lần đồng hồ cát đảo chuyển, khi lật đến khoảng lần thứ một trăm hai mươi, khoảng thời gian gián cách giữa nhưng lúc ánh Mặt trời chiếu vào qua ô vuông đã trở nên có quy luật, kỷ nguyên Hằng định đầu tiên mà Chu Văn Vương dự đoán đã đến. Đồng hồ cát lại đảo chiều mười lăm lần nữa, ánh sáng nhấp nháy nơi cửa sổ trở nên rối loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn lại bắt đầu. Sau đó, lại là kỷ nguyên Hằng định, rồi lại là kỷ nguyên Hỗn loạn, thời gian bắt đầu và kéo dài tuy có một chút sai lệch nhỏ, nhưng cũng đã tương đối trùng khớp với dự đoán của Chu Văn Vương. Khi kỷ nguyên Hỗn loạn kéo dài tám ngày cuối cùng kết thúc, kỷ nguyên Hằng định dài trong lời dự đoán của ông ta bắt đầu. Uông Diểu đếm số lần đồng hồ cát đảo chiều, hơn hai mươi ngày đã trôi qua, ánh Mặt trời chiếu vào đại điện vẫn theo một tiết tấu chuẩn xác. Lúc này, tốc độ trôi của thời gian trong trò chơi đã được điều chỉnh về bình thường.
        Trụ Vương gật đầu với Chu Văn Vương: “Cơ Xương à, ta sẽ lập cho ông một tấm bia phong thưởng cao hơn cả cung điện này.”
        Chu Văn Vương khom người đáp: “Đại vương, hãy để vương triều của ngài thức tỉnh và phồn vinh đi!”
        Trụ Vương đứng dậy trên bậc đá, dang rộng hai cánh tay như thể muốn ôm trọn cả thế giới, ông ta lớn tiếng hét lên bằng âm điệu kỳ quặc gần như hát: “Ngâm nước…”
        Nghe thấy hiệu lệnh này, mọi người trong đại điện đều chạy ra cửa. Được Chu Văn Vương ra hiệu, Uông Diểu theo ông ta men theo đường hầm dài đằng đẳng chạy ra bên ngoài kim tự tháp. Lúc ra khỏi cửa, Uông Diểu nhận ra đang là buổi trưa, Mặt trời giữa không trung chiếu rọi khắp mặt đất, gió thổi hiu hiu, anh cơ hồ còn ngửi thấy cả mùi của mùa xuân. Chu Văn Vương và Uông Diểu cũng đến bên một hồ nước cách không xa kim tự tháp, băng trên mặt hồ đã tan chảy, ánh nắng nhảy nhót trên làn sóng nước lăn tăn.
        Một nhóm binh sĩ ra trước đang hô vang: “Ngâm nước! Ngâm nước!”, tất cả đều chạy về phía một kiến trúc cao to bằng đá trông như kho thóc bên cạnh hồ. Trên đường tới đây, thỉnh thoảng Uông Diểu cũng nhìn thấy kiến trúc này ở xa xa, Chu Văn Vương nói với anh đó là “kho khô”, là loại nhà kho lớn để tồn trữ người thoát nước. Các binh sĩ mở cánh cửa kho bằng đá, khiêng ra từng cuộn từng cuộn da bám đầy bụi đất, mỗi người ôm, kẹp nách mấy cuộn da đi về phía bờ hồ, ném vào trong nước. Những cuộn da ấy vừa chạm vào nước lập tức duỗi ra, thoáng chốc mặt hồ đã nổi lềnh bềnh một đám hình nhân mỏng như thể được cắt ra. Mỗi tấm “da người” đều nhanh chóng hút nước phình to, dần dần, biến thành thân thể đầy đặn trên mặt hồ. Những thân thể ấy chẳng mấy chốc đã có dấu hiệu của sự sống, từng người từng người một vùng vẫy đứng dậy trong hồ nước ngập đến thắt lưng. Họ mở to cặp mắt như vừa ngủ say tỉnh giấc nhìn thế giới gió nhẹ nắng chan hòa này. “Ngâm nước!” Một người cao giọng hô vang, lập tức làm dấy lên một tràng tiếng hoan hô theo: “Ngâm nước! Ngâm nước!!”… Những người này từ dưới hồ chạy lên bờ, trần truồng lao về phía kho, mang thêm nhiều cuộn da nữa bỏ vào hồ nước, từng đám từng đám người được ngâm nước phục sinh chạy ra khỏi hồ, cảnh tượng này cũng xảy ra ở những hồ nước và ao đầm phía xa hơn, cả thế giới đều đang sống lại.
        “Ối, trời ơi! Ngón tay của tôi…” Uông Diểu nhìn theo hướng tiếng la,
        thấy một người vừa ngâm nước sống lại
        đứng trong hồ nước, giơ tay lên gào khóc, bàn tay ấy thiếu mất ngón giữa, máu từ chỗ đứt chảy ra nhỏ xuống hồ, nhưng những người vừa sống dậy khác lần lượt đi qua bên cạnh anh ta, hào hứng chạy lên bờ, không ai buồn chú ý.
        “Được rồi. Phải biết đủ đi chứ!” Một người vừa sống lại đi qua nói, “Có người còn mất cả cẳng chân ấy chứ, có người bị gặm thủng cả đầu, nếu còn không ngâm nước, sợ rằng chúng ta đều bị lũ chuột ở kỷ nguyên Hỗn loạn gặm nhấm hết cả rồi!”
        “Chúng ta thoát nước được bao lâu rồi?” Một người khác vừa sống lại hỏi.
        “Nhìn bụi đất tích tụ trên cung điện của đại vương dày bao nhiêu là biết, vừa nghe nói đại vương bây giờ đã không phải là vị đại vương lúc trước khi chúng ta thoát nước nữa rồi, không biết là con hay cháu ngài ấy nữa.”
        Việc ngâm nước kéo dài liên tiếp tám ngày mới hoàn toàn kết thúc, lúc này tất cả những người thoát nước đều đã sống lại, thế giới lại một lần nữa có được sức sống mới. Trong tám ngày này, mọi người được hưởng cảnh Mặt trời mọc lặn theo chu kỳ chuẩn xác, mỗi ngày hai mươi tiếng. Tắm mình trong không khí mùa xuân, tất cả đều hết lòng ca ngợi Mặt trời, ca ngợi các vị thần cai quản vũ trụ này. Đêm ngày thứ tám, những đống lửa trên mặt đất còn nhiều hơn sao trên trời, những thành thị hoang phế trong kỷ nguyên Hỗn loạn lại tràn ngập ánh lửa và tiếng ồn ào huyên náo. Cũng như vô số lần ngâm nước trước của nền văn minh này, mọi người đều hoan lạc suốt đêm, đón mừng cuộc sống mới sau khi Mặt trời lên.
        Nhưng Mặt trời không mọc lên nữa. Các thiết bị tính giờ đều thể hiện thời gian Mặt trời mọc đã trôi qua, nhưng đường chân trời ở các hướng vẫn là một vùng tối đen như mực. Lại mười tiếng nữa trôi qua, vẫn không thấy bóng dáng mặt trời đâu, thậm chí một tia nắng sớm yêu ớt nhất cũng không thấy. Một ngày trôi qua, màn đêm vẫn tiếp tục bao phủ chân trời; hai ngày trôi qua, cái lạnh như một bàn tay khổng lồ đè nặng xuống mặt đất tối tăm.
        “Xin đại vương tin tôi, đây chỉ là tạm thời, tôi thấy khí Dương đang tụ tập trong vũ trụ, Mặt trời sắp mọc lên rồi, kỷ nguyên Hằng định và mùa xuân sẽ tiếp tục!” Trong đại điện giữa kim tự tháp, Chu Văn Vương quỳ bên dưới thềm đá mà Trụ Vương đang ngồi, cầu khẩn.
        “Đốt đỉnh lên đi!” Trụ Vương thở dài.
        “Đại vương! Đại vương!” Một vị đại thần từ cửa đường hầm tập tểnh chạy vào, khóc rống lên: “Trên trời, trên trời có ba ngôi sao bay!!”
        Tất cả mọi người trong đại điện đều kinh hãi đờ người ra, không khí như đông đặc lại, chỉ có Trụ Vương vẫn không biểu lộ cảm xúc. Ông ta quay sang Uông Diểu mà từ đầu đến giờ chẳng buồn để mắt, “Ngươi vẫn chưa biết ba ngôi sao bay cùng xuất hiện có ý nghĩa gì phải không? Cơ Xương à, nói cho hắn biết đi.”
        “Có nghĩa là ngày tháng lạnh giá kéo dài, sẽ lạnh đến mức làm đá đông thành bột vụn.” Chu Văn Vương thở dài, nói.
        “Thoát nước…” Trụ vương hét lên bằng giọng như đang hát. Kỳ thực, trên mặt đất bên ngoài, mọi người sớm đã bắt đầu lục tục thoát nước, biến trở lại trạng thái khô để sống qua đêm dài đằng đẵng, những người may mắn trong số họ được mang trở lại vào kho, song vẫn có một số lớn bị bỏ lại nơi đồng không mông quạnh. Chu Văn Vương chậm rãi đứng dậy, đi về phía đỉnh đồng thau trên đống lửa, ông ra leo lên mép đỉnh, trước khi nhảy xuống còn ngập ngừng vài giây, có lẽ là nhìn thấy gương mặt bị đun nát nhừ của Phục Hy bên trong đang mỉm cười với mình.
        “Dùng lửa liu riu thôi.” Trụ Vương uể oải nói, sau đó bảo với những người còn lại, “Ai nên EXIT thì EXIT đi, trò chơi đến đây cũng chẳng còn gì nữa rồi.”
        Phía trên cửa đường hầm xuất hiện biểu tượng EXIT phát ra ánh sáng đỏ, mọi người lần lượt đi về phía đó, Uông Diểu cũng bám theo, băng qua cửa và đường hầm dài để ra bên ngoài kim tự tháp, chỉ thấy trong đêm đen tuyết lớn đang bay lả tả, gió lạnh thấu xương khiến anh run lên. Một góc bầu trời hiển thị rằng thời gian trong trò chơi đang tăng nhanh.
        Mười ngày sau, tuyết vẫn rơi, những bông tuyết to và nặng nề, như thể bóng đêm ngưng kết lại. Có người thì thầm bên tai Uông Diểu: “Đây là khi cacbonic đóng thành băng khô rồi.” Uông Diểu ngoảnh đầu lại nhìn, hóa ra là Tùy tùng của Chu Văn Vương.
        Mười ngày nữa trôi qua, tuyết vẫn rơi, nhưng hoa tuyết đã biến thành mỏng và trong suốt, mang một màu xanh nhạt siêu phàm thoát tục dưới ánh đuốc hắt ra từ cửa hầm kim tự tháp, giống như vô số con sứa đang bay múa.
        “Hoa tuyết này là ôxy và nitơ hóa rắn, bầu khí quyển đang biến mất trong độ 0 tuyết đối.”
        Kim tự tháp bị tuyết vùi lấp, tầng dưới cùng là tuyết từ nước, tầng giữa là băng khô, tầng trên là tuyết do ôxy và nitơ ở trạng thái rắn tạo thành. Bầu trời đêm trở nên trong trẻo dị thường, còn tinh tú thì tựa như một quầng lửa màu bạc. Một hàng chữ xuất hiện trên nền trời sao ấy:
        Đêm này sẽ kéo dài 48 năm, nền văn minh số 137 bị hủy diệt trong lạnh giá, nền văn minh này tiến hóa đến thời kỳ Chiến Quốc.
        Hạt giống văn minh vẫn còn, sẽ được khởi động lại, một lần nữa tiến hóa trong vận mệnh khó lường của thế giới Tam Thể.
        Hoan nghênh bạn đăng nhập lần sau.
        Trước khi đăng xuất, thứ cuối cùng mà Uông Diểu chú ý đến là ba ngôi sao bay trên bầu trời đêm, chúng cách nhau rất gần, quay xung quanh nhau, nhảy một điệu vũ kỳ dị giữa vũ trụ sâu thẳm.

        #4
          huytran 30.07.2017 03:00:33 (permalink)
          Chương 5 : Diệp Văn Khiết  
           
          Uông Diểu tháo bộ thiết bị V ra, phát hiện áo lót của mình đã ướt sũng mồ hôi, như thể vừa tỉnh dậy khỏi một cơn ác mộng lạnh buốt. Anh ra khỏi Trung tâm nghiên cứu nano, xuống nhà lấy xe, đến nhà mẹ của Dương Đông theo địa chỉ mà Đinh Nghị đưa cho.
          Kỷ nguyên Hỗn loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn…
          Khái niệm này cứ vẩn vít trong đầu Uông Diểu. Tại sao Mặt trời của thế giới đó lại vận hành không theo quy luật nào? Một hành tinh, cho dù quỹ đạo là hình tròn hay hình elip, thì hoạt động quay xung quanh ngôi sao của nó nhất định phải mang tính chu kỳ, không thể vận hành hoàn toàn không theo quy luật gì như vậy được… Uông Diểu đột nhiên cảm thấy rất bực bội với bản thân, anh lắc mạnh đầu, muốn xua hết mọi thứ đó ra khỏi tâm trí, chẳng qua chỉ là một trò chơi thôi mà, nhưng anh đã thất bại.
          Kỷ nguyên Hỗn loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn…
          Khốn khiếp! Đừng nghĩ đến nó nữa!! Tại sao cứ nhất thiết phải nghĩ đến nó! Tại sao?!
          Rất nhanh sau đó, Uông Diểu đã tìm được đáp án. Đã nhiều năm nay anh không chơi trò chơi điện tử nào rồi, độ này, kỹ thuật phần cứng và phầm mềm của trò chơi điện tử rõ ràng đã được nâng cấp rất nhiều, những trò anh đã chơi thời học sinh không thể nào so sánh được với cảnh tượng mô phỏng hiện thực và hiệu ứng phụ gia trong đó. Nhưng Uông Diểu cũng hiểu, sự chân thực của Tam Thể không nằm ở chỗ đó. Anh còn nhớ trong một bài giảng về lý thuyết thông tin hồi đại học năm thứ ba, giáo sư đã treo lên hai bức tranh lớn, một bức là Thanh minh thượng hà đồ của Trương Trạch Đoan phức tạp tinh tế, bức còn lại là ảnh chụp bầu trời mênh mông, trên nền trời xanh thẳm trống trải chỉ có một vạt mây trắng tựa như có lại tựa như không. Giáo sư đã hỏi trong bức tranh này, bức nào bao hàm lượng thông tin lớn hơn, đáp án là bức sau lớn hơn bức trước từ một đến hai bậc độ lớn (*)!
          (*) Hai số hơn/kém nhau n bậc độ lớn nghĩa là gấp nhau 10n lần. Một đến hai bậc độ lớn nghĩa là gấp 10 đến 100 lần.
          Tam thể chính là như vậy, lượng thông tin nhiều vô số kể của nó ẩn sâu bên dưới, Uông Diểu cảm nhận được, nhưng lại không thể nói rõ ra. Anh đột nhiên tỉnh ngộ, điểm đặc biệt của Tam Thể là ở chỗ, so với những trò chơi khác, người thiết kế ra nó đã đi ngược với lẽ thường… Những nhà thiết kết game thông thường đều cố gắng tăng lượng thông tin hiển thị lên hòng tạo ra cả giác chân thực; còn người thiết kế ra trò chơi Tam Thể này lại cực lực nén lượng thông tin lại hòng ẩn giấu sự thực lớn lao nào đó, giống như bức ảnh chụp bầu trời thoạt nhìn tưởng như trống trải kia vậy.
          Uông Diểu thả lỏng sợi dây trói buộc suy nghĩ của mình, để mặc cho nó quay lại thế giới của Tam Thể.
          Sao bay! Mấu chốt nằm ở những ngôi sao bay không có gì nổi bật kia, một ngôi sao bay, hai ngôi sao bay, ba ngôi sao bay… điều này có nghĩa gì?
          Trong lúc ngẫm ngợi, chiếc xe đã tới cổng của tiểu khu mà anh muốn đến.
          Ở cầu thang tòa nhà mình cần tìm, Uông Diểu trông thấy một phụ nữ đeo kính, gầy gó, tóc bạc, chừng sáu mươi tuổi đang xách một giỏ thức ăn lớn khó nhọc leo lên. Anh đoán có lẽ đây chính là người mình muốn tìm, vừa hỏi, quả nhiên bà già đó chính là mẹ của Dương Đông, Diệp Văn Khiết. Sau khi nghe Uông Diểu nói về nguyên nhân mình tìm đến, bà lộ vẻ cảm động tự đáy lòng. Diệp Văn Khiết là dạng trí thức cao tuổi mà Uông Diểu thường gặp, gió sương của năm tháng đã bào mòn mọi sự cương ngạnh và nóng nảy trong tính cách của họ, chỉ còn lại sự nhu hòa như nước.
          Uông Diểu xách làn cùng bà đi lên lầu, vào nhà mới phát hiện, nơi này không quạnh quẽ như anh tưởng tượng: có ba đứa trẻ con đang chơi đùa, đứa lớn nhất chắc chỉ tầm năm tuổi, đứa nhỏ thì vừa mới biết đi. Bà Dương nói với Uông Diểu, lũ trẻ này đều là con nhà hàng xóm.
          “Chúng nó thích sang đây chơi. Hôm nay là Chủ nhật, bố mẹ chúng nó phải đi làm thêm, bèn gửi chúng nó cho tôi… Nào, Nam Nam, cháu vẽ tranh xong chưa hả? Ừm, đẹp quá, đặt tên cho nó nhé! Vịt con trong nắng, được, bà để vào cho cháu, viết thêm ngày 9 tháng 6, tác phẩm của Nam Nam nữa nhé… Trưa nay các cháu thích ăn gì? Dương Dương? Cà rán? Được rồi, Nam Nam? Đậu Hà Lan mà hôm qua cháu ăn? Được, còn cháu? Mi Mi? Thịt hả? Không, mẹ cháu dặn rồi, đừng ăn nhiều thịt thế, không tiêu hóa được đâu, ăn cá nhé? Xem bà mua về con cá to chưa này…”
          Chắc chắn bà ấy muốn có cháu trai hoặc cháu gái, nhưng dù Dương Đông còn sống, liệu cô ấy muốn có con không? Nhìn bà Dương chăm chú nói chuyện với lũ trẻ, Uông Diểu thầm nhủ.
          Bà Dương xách giỏ vào bếp, lúc quay ra, bà bảo với Uông Diểu: “Tiểu Uông à, tôi đi ngâm rau trước đã, giờ rau cỏ nhiều dư lượng thuốc trừ sâu lắm, cho trẻ con ăn ít nhất phải ngâm hai tiếng trở lên… cậu có thể vào phòng của Đông Đông mà xem.”
          Đề nghị có vẻ như vô ý của bà Dương khiến cho Uông Diểu rơi vào trạng thái căng thẳng và bất an. Hiển nhiên, bà đã nhận ra mục đích thực sự của chuyến viếng thăm này mà Uông Diểu giấu trong lòng. Bà nói dứt lời, liền quay vào trong bếp, không nhìn Uông Diểu lấy một lần, dĩ nhiên cũng không thấy bộ dạng lúng túng của anh, thái độ thấu hiểu gần như toàn bộ của bà khiến Uông Diểu không khỏi cảm động.
          Uông Diểu quay người đi qua lũ trẻ đang vui đùa, bước về phái căn phòng mà bà Dương vừa chỉ. Anh dừng chân trước cửa, đột nhiên bị nhấn chìm trong một thứ cảm giác kỳ dị, tựa như vừa quay lại thời thiếu niên nhiều mộng tưởng, một cảm giác mong manh trong veo như giọt sương sớm từ sâu thẳm trong hồi ức bỗng trào dâng, trong đó bao hàm cả sự thương cảm và nỗi đau ban sơ nhất, nhưng tất cả đều nhuốm một màu hồng.
          Uông Diểu nhẹ nhàng đẩy cửa, bất ngờ lại ngửi thấy mùi hương nhàn nhạt. Đó là mùi của rừng già, khiến anh có cảm tưởng như bước vào một căn nhà nhỏ của người kiểm lâm trong rừng sâu. Vách tường che phủ bằng từng mảng từng mảng vỏ cây màu nâu, ba chiếc ghế đều là những gốc cây đơn sơ, bàn viết được ghép lại từ ba gốc cây tương đối lớn, còn cả chiếc giường kia nữa, rõ ràng cũng được trải bằng cỏ u la của vùng Đông Bắc. Mọi thứ đều rất thô sơ, tự nhiên, không hề cố ý biểu hiện ra một thứ mỹ cảm nào cả. Với chức vị của Dương Đông, thu nhập của cô rất cao, có thể mua nhà ở bất cứ khu vực cao cấp nào, nhưng cô vẫn luôn sống chung với mẹ ở đây.
          Uông Diểu bước đến bên bàn làm việc bằng gốc cây, bài trí bên trên cũng rất đơn giản, chẳng có thứ gì liên quan đến học thuật cả, cũng không có đồ dùng của phái nữ; có lẽ là đã được mang đi hết rồi, cũng có thể là chúng chưa từng có ở đây. Thứ đầu tiên anh chú ý đến là một tấm ảnh đen trắng lồng trong khung gỗ, ảnh chụp chung của hai mẹ con Dương Đông, trong ảnh Dương Đông đang ở tuổi thiếu niên, người mẹ ngồi xuống vừa khéo cao đúng bằng cô. Gió rất lớn, thổi tung mái tóc của hai người đan vào nhau. Cảnh nền của bức ảnh rất kỳ lạ, bầu trời hình lưới, Uông Diểu xem xét tỉ mỉ kết cấu sắt thép chống đỡ tấm lưới ấy, suy đoán rằng đó là một ăng ten parabol hoặc thứ gì đó tương tự, vì kích cỡ quá lớn, viền của nó nằm ngoài khung hình.
          Trong tấm ảnh, đôi mắt to của cô bé Dương Đông toát lên một nỗi kinh sợ khiến Uông Diểu thầm run rẩy, tựa như thế giới bên ngoài tấm ảnh làm cô bé vô cùng sợ hãi. Món đồ thứ hai mà Uông Diểu chú ý đến là cuốn sổ lớn dày cộm đặt ở góc bàn. Thoạt tiên, anh bị mê hoặc bởi chất liệu của cuốn sổ, mãi đến lúc nhìn thấy hàng chữ nguệch ngoạc kiểu trẻ con trên bìa sổ: “Sổ vỏ bạch hoa của Dương Đông” mới biết cuốn sổ này được làm bằng vỏ bạch hoa(*), thời gian đã làm vỏ cây trắng bạc biến thành vàng sậm. Anh đưa tay chạm vào cuốn sổ, do dự giây lát rồi lại rụt tay trở về.
          (*) Một giống bạch dương.
          “Cậu xem đi, đấy là tranh của Đông Đông hồi nhỏ.” Bà Dương đứng ở cửa nói.
          Uông Diểu nâng cuốn sổ bằng vỏ cây lên, nhẹ nhàng lật xem từng trang. Trên mỗi bức tranh đều có ngày tháng, rõ ràng là bà mẹ đã chú thích vào cho con gái, giống như anh thấy lúc vừa đến nhà. Uông Diểu phát hiện ra một điều hơi khó hiểu: nhìn ngày tháng trên bức tranh, lúc này Dương Đông đã hơn ba tuổi, đứa trẻ tuổi này thông thường đều có thể vẽ ra người hoặc vật thể có hình dáng tương đối rõ ràng; nhưng tranh của Dương Đông vẫn chỉ là những đường nét rối rắm tùy tiện, Uông Diểu thấy ở trong đó một nỗi giận dữ và tuyệt vọng dữ dội khi muốn biểu đạt điều gì đó mà bất lực, những đứa trẻ bình thường ở độ tuổi này không thể nào có thứ cảm giác ấy.
          Bà Dương chầm chậm ngồi xuống mép giường, đờ đẫn nhìn cuốn sổ bằng vỏ cây trên tay Uông Diểu, chính ở nơi này, con gái bà đã tự kết thúc sự sống của mình trong giấc ngủ. Uông Diểu ngồi xuống bên cạnh bà, chưa bào giờ anh thấy khao khát mãnh liệt muốn được chia sẻ nỗi đau với người khác như lúc này.
          Bà Dương cầm lấy cuốn sổ trên tay Uông Diểu, ôm vào lòng rồi khẽ nói: “Sự giáo dục của tôi dành cho Đông Đông có hơi lệch lạc, để nó tiếp xúc với những thứ quá trừu tượng và cực đoan sớm quá. Lần đầu tiên nó tỏ ra hứng thú với những lý thuyết trừu tượng đó, tôi đã bảo nó rằng phụ nữ rất khó bước vào thế giới ấy. Nhưng nó nói, bà Curie chẳng phải đã bước vào rồi đấy sao? Tôi lại nói cho nó biết, bà Curie căn bản vẫn chưa bước vào được, thành công của bà ấy chỉ là do siêng năng và cố chấp mà thôi, không có bà ấy, những người khác cũng hoàn thành những công việc đó, ngược lại bà Ngô Kiện Hùng(*) đi được xa hơn, nhưng đó thật sự không phải là thế giới của phụ nữ. Phương Thức tư duy của phụ nữ không giống với đàn ông, điều này không phải là phân biệt ai cao ai thấp, mà là một điều tất yếu của thế giới.
          (*) Ngô Kiện Hùng (Chien-Shiung Wu) là một trong những nhà vật lý xuất sắc đương đại, có thành tựu rất lớn trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý thực nghiệm. Bà là người đầu tiên chứng minh được bằng thực nghiệm suy đoán lý thuyết về sự vi phạm bảo toàn chẵn lẻ trong tương tác yêu của Lý Chính Đạo và Dương Chấn Ninh, dẫn đến giải Nobel Vật lý 1957 cho hai nhà nghiên cứu này. (TG)
          “Đông Đông không phản bác. Sau này, tôi thật sự phát hiện ra nó có những điểm đặc biệt, ví dụ khi giảng giải cho nó về một công thức, bọn trẻ con khác sẽ nói ‘công thức này thật tài tình’, còn nó lại nói ‘công thức này thật đẹp, thật ưa nhìn’, nét mặt nó lúc ấy giống như trông thấy một bông hoa dại xinh đẹp vậy. Bố nó để lại một đống đĩa hát, nó nghe một hồi, cuối cùng chọn ra một đĩa của Bach để nghe đi nghe lại, đó là thứ âm nhạc rất khó khiến người ta, đặc biệt là một đứa con gái nhỏ nghe đến nỗi mê mẩn. Mới đầu, tôi tưởng là nó chọn bừa, nhưng lúc hỏi nó cảm nhận thế nào, con bé đáp: nó thấy một người khổng lồ đang xây nên một căn nhà rất lớn, rất phức tạp, người khổng lồ đắp từng chút từng chút một, khi khúc nhạc kết thúc, căn nhà cũng đã xây xong…”
          “Cô giáo dục con gái rất thành công.” Uông Diểu cảm khái thốt lên.
          “Không, tôi đã thất bại! Thế giới của nó quá đơn giản, chỉ toàn những lý thuyết kỳ ảo đó. Một khi những thứ đó sụp đổ, thì chẳng còn gì có thể giữ cho nó sống tiếp được nữa.”
          “Cô giáo Diệp, theo cháu cô nghĩ vậy cũng không đúng, hiện nay đã xảy ra một số việc mà chúng ta khó lòng tưởng tượng nổi, đây là một thảm họa lý thuyết xưa nay chưa từng có, những nhà khoa học lựa chọn làm thế cũng không chỉ có mình cô ấy.”
          “Nhưng chỉ có mình nó là phụ nữ, phụ nữ lẽ ra phải giống như nước, nới nào cũng có thể chảy qua được.”

          Lúc từ biệt, Uông Diểu mới nhớ ra mục đích còn lại của chuyến viếng thăm, bèn hỏi bà Dương về việc quan trắc bức xạ nền vũ trụ.
          “Ừm, trong nước có hai nơi đang thực hiện, một là cơ sở quan sát ở Ürümqi, hình như là dự án của Trung tâm quan trắc môi trường không gian của Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc. Một nơi nữa rất gần, chính là đài quan trắc thiên văn vô tuyến ngoại thành Bắc Kinh, do Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc kết hợp với Trung tâm vật lý thiên văn liên hợp của Đại học Bắc Kinh xây dựng. Cái đầu tiên là quan sát thực tế trên mặt đất, cái ở Bắc Kinh thì chỉ dựa trên số liệu nhận được từ vệ tinh, nhưng số liệu thì chuẩn xác hơn, toàn diện hơn. Bên đó tôi có một học sinh, để tôi giúp cậu liên hệ nhé.” Bà Dương nói, rồi đi tìm số điện thoại, sau đó gọi điện cho người học sinh đó, hình như rất thuận lợi.
          “Không vấn đề gì đâu, tôi cho cậu địa chỉ, cậu đến thẳng đó là được. Cậu ấy tên là Sa Thụy Sơn, ngày mai cậu ấy trực ca đêm… Hình như cậu không nghiên cứu ngành này thì phải?” Bà Dương đặt điện thoại xuống hỏi.
          “Cháu làm về vật liệu nano, chuyện này là vì… một số công việc khác.” Uông Diểu rất sợ bà Dương sẽ hỏi tiếp, nhưng bà cũng không hỏi gì thêm.
          “Tiểu Uông à, sao sắc mặt cậu xấu thế, có phải sức khỏe không được tốt không?” Bà Dương nói với vẻ quan tâm.
          “Không có gì đâu ạ, cháu cứ vậy suốt thôi.” Uông Diểu ấp úng đáp.
          “Cậu đợi chút.” Bà Dương lấy trong tủ ra một chiếc hộp gỗ nhỏ, Uông Diểu thấy bên trên có đề là nhân sâm. “Một chiến sĩ già ở căn cứ ngày xưa đến thăm tôi hai hôm trước, mang cho cái này… Không, không, cậu cầm đi, đây là loại do người trồng, không quý giá gì đâu, tôi bị huyết áp cao, không dùng được. Cậu có thể cắt lát ngâm vào trà mà uống, nhìn sắc mặt cậu kìa, cứ như bị thiếu máu ấy. Người trẻ tuổi phải biết chăm sóc bản thân chứ.” Uông Diểu chợt thấy ấm lòng, hai mắt ươn ướt, quả tim hai ngày nay đã căng ra hết mức của anh giống như được đặt lên một lớp lông thiên nga mềm mại. “Cô Diệp, cháu sẽ thường đến thăm cô.”
          Nói rồi, anh nhận lấy hộp gỗ.

          #5
            huytran 30.07.2017 03:03:56 (permalink)
            Chương 6 : Vũ trụ nhấp nháy phần 1  
             
            Uông Diểu lái xe dọc đường Kinh Mật đến huyện Mật Vân, rồi rẽ vào đầm Hắc Long, đi thêm một đoạn đường vòng quanh núi nữa là đến cơ sở quan trắc thiên văn vô tuyến của Trung tâm quan trắc thiên văn Quốc gia thuộc Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc. Anh thấy hai mươi tám chiếc ăng ten parabol đường kính mỗi chiếc khoảng 9 mét xếp thành hàng ngang dưới ánh chiều tà, trông như một thể một hàng cây kim loại lừng lững, hai ăng ten kính viễn vọng vô tuyến khổng lồ đường kính 50 mét hoàn thành năm 2006 đứng sừng sững ở hai đầu dãy ăng ten 9 mét, lúc lái xe đến gần chúng,
            Uông Diểu không khỏi liên tưởng đến cảnh nền tấm ảnh hai mẹ con Dương Đông chụp chung kia.
            Nhưng dự án mà học sinh của bà Diệp Văn Khiết đang thực hiện lại không liên can gì đến kính thiên văn vô tuyến này, phòng thí nghiệm của tiến sĩ Sa Thụy Sơn chủ yếu là thu thập dữ liệu quan trắc của ba vệ tinh: vệ tinh thăm dò bức xạ nển vi sóng vũ trụ COBE được phóng lên từ tháng 11 năm 1989 nay đã sắp sửa bị đào thải, tàu thăm dò dị hướng vi sóng Wilkinson hay WMAP phóng năm 2003 và tàu thăm dò bức xạ nền vi sóng vũ trụ độ nhạy cao Planck do Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) phóng năm 2007.
            Về tổng thể, phổ phân bố của bức xạ nền vi sóng vũ trụ đồng nhất chính xác với phổ phát xạ của một vật đen tuyệt đối có nhiệt độ 2,726 độ K và bức xạ đó có tính đẳng hướng với độ chính xác cao, nhưng xét về cục bộ, cũng tồn tại sai số trong khoảng cộng trừ 5 phần triệu. Công việc của Sa Thụy Sơn chính là dựa vào số liệu quan trắc được của vệ tinh, vẽ lại một bức bản đồ bức xạ nền vi sóng của vũ trụ một cách chi tiết hơn. Phòng thí nghiệm này không lớn lắm, trong phòng máy tính chất đầy các thiết bị thu nhập số liệu vệ tinh, có ba thiết bị đầu cuối lần lượt hiển thị số liệu từ ba vệ tinh khác nhau.
            Sa Thụy Sơn thấy Uông Diểu, lập tức tỏ thái độ nhiệt tình của kẻ làm việc đơn độc suốt thời gian dài mới có khách đến thăm, hỏi han xem anh muốn tìm hiểu số liệu quan trắc về phương diện nào.
            “Tôi muốn xem dao động tổng thể của bức xạ nền vũ trụ.”
            “Anh… nói cụ thể hơn một chút được không?” Ánh mắt Sa Thụy Sơn bỗng trở nên kỳ lạ.
            “Thì là, dao động tổng thể đẳng hướng của bức xạ nền vi sóng 3K, biên độ dao động từ 1% đến 5%.”
            Sa Thụy Sơn cười cười, từ đầu thế kỷ này, đài thiên văn vô tuyến Mật Vân đã mở cửa cho du khách tham quan để kiếm thêm thu nhập, Sa Thụy Sơn thường hay làm hướng dẫn hoặc đảm nhiệm việc thuyết giảng, đây là nụ cười của anh ta khi trả lời các câu hỏi của du khách (anh ta đã thích ứng với sự mù khoa học đến phát sợ của họ rồi). “Anh Uông, anh… không nghiên cứu chuyên ngành này đúng không?”
            “Tôi nghiên cứu về vật liệu nano.” “Ồ, vậy thì đúng rồi. Có điều, anh
            cũng có tìm hiểu qua loa về bức xạ nền
            vũ trụ 3K đúng không?”
            “Những gì tôi biết không nhiều. Giả thiết về nguồn gốc vũ trụ hiện nay cho rằng, vũ trụ sinh ra trong một vụ nổ lớn vào khoảng 14 tỷ năm trước, vào thời kỳ đầu khi mới sinh ra, nhiệt độ của vũ trụ cực cao, sau này bắt đầu nguội dần, hình thành nên một thứ ‘than hồng’ được gọi là bức xạ nền vi sóng. Loại bức xạ này còn sót lại trong khắp vũ trụ, với đỉnh nằm trong dải bước sóng vi ba. Hình như là vào năm một chín sáu mấy thì phải, có hai người Mỹ khi điều chỉnh ăng ten thu nhận tín hiệu vệ tinh độ chính xác cao đã tình cờ phát hiện ra bức xạ nền vũ trụ này…”
            “Đủ rồi.” Sa Thụy Sơn xua tay ngắt lời Uông Diểu, “Vậy chắc anh biết, khác với những biến thiên nhỏ mà ta thấy khi quan trắc những vị trí cục bộ khác nhau, dao động tổng thể của bức xạ nền vi sóng vũ trụ phụ thuộc vào sự dãn nở của vũ trụ, nó thay đổi chậm tới mức phải tính bằng tuổi vũ trụ, với độ chính xác của tàu thăm dò Plank, một triệu năm sau cũng chưa chắc có thể phát hiện ra sự thay đổi này, vậy mà tối nay anh lại muốn phát hiện nó dao động tận 5%?! Có biết thế nghĩa là gì không? Thế tức là cả cái vũ trụ này sẽ nhấp nháy như cái đèn tuýp bị hỏng ấy!”
            Chẳng những thế, lại còn là nhấp nháy vì tôi nữa. Uông Diểu thầm nhủ.
            “Cô Diệp đang đùa trò gì vậy.” Sa Thụy Sơn lắc đầu.
            “Chỉ mong đúng là trò đùa.” Uông Diểu nói, anh vốn định bảo với anh ta Diệp Văn Khiết không biết chuyện gì cả, nhưng lại sợ vì thế mà bị anh ta từ chối, có điều, những lời vừa nói ra cũng đúng là những điều trong lòng anh nghĩ.
            “Nếu cô Diệp đã có lời, vậy thì anh cứ quan sát đi, đằng nào cũng không tốn công, độ chính xác 1% thì dùng món đồ cổ COBE là được rồi.” Sa Thụy Sơn vừa nói, vừa thao tác trên thiết bị đầu cuối, thoáng cái trên màn hình đã xuất hiện một đường màu xanh lục thẳng tắp, “anh nhìn xem, đây chính là đường sóng thể hiện dao động thời gian thực của tổng thể bức xạ nền vũ trụ trong từng thời điểm này, ừm, nên gọi là đường thẳng mới chính xác, trị số là 2,726 ± 0,01 K, sai số đó là hiệu ứng Doppler(*) sinh ra khi hệ Ngân Hà vận động, đã được lọc đi rồi. Nếu xảy ra dao động mà biên độ sóng vượt quá 1% như anh nói, đường thẳng này sẽ chuyển sang màu đỏ và thể hiện dao động sóng. Tôi dám đánh cược cho đến ngày tần cùng thế giới, nó vẫn là một đường thẳng màu xanh, muốn trông thấy nó thể hiện ra thay đổi mà mắt thường nhìn thấy được, có khi còn phải đợi lâu hơn cả đợi Mặt trời bị tắt lụi ấy chứ.”
            (*) Hiệu ứng Doppler: là một hiệu ứng vật lý, đặt tên theo Christian Andreas Dopper, trong đó tần số và bước sóng của sóng âm, sóng điện tử hay các sóng nói chung bị thay đổi khi nguồn phát sóng có chuyển động tương dối với người quan sát.
            “Chuyện này có ảnh hưởng đến công việc thường ngày của anh không?”
            “Tất nhiên là không, độ chênh lệch lớn như vậy, dùng số liệu quan trắc đồng nát của COBE là đủ rồi. Được rồi, bắt đầu từ bây giờ, nếu có biến động lớn xuất hiện, số liệu sẽ tự động lưu lại vào đĩa.”
            “Có thể phải đợi đến một giờ sáng.” “Ồ, chính xác vậy à? Không sao, đằng
            nào tôi cũng trực đêm mà. Anh ăn cơm
            chưa? Vậy được, tôi dẫn anh đi tham quan một chút nhé.”
            Đêm nay không có trăng, họ chậm rãi bước dọc theo dãy ăng ten dài. Sa Thụy
            Sơn chỉ vào cột ăng ten nói: “Hoành tráng không? Đáng tiếc đều là tai của người điếc cả.”
            “Tại sao?”
            “Từ lúc chúng xây dựng xong đến nay, dải tần quan trắc đã liên tục bị gây nhiễu, trước tiên là đài phát thanh liên lạc hồi cuối những năm 80 thế kỷ trước, đến nay thì là hệ thống thông tin di động đang phát triển điên cuồng. Những hạng mục mà các kính viễn vọng vô tuyến có khẩu độ tổng hợp sóng ngắn này có thể làm được như là: tuần tra bầu trời bằng sóng ngắn, phát hiện các nguồn sóng điện biến thiên, nghiên cứu di tích sao siêu mới… hầu hết đều không thể triển khai bình thường. Chúng tôi đã nhiều lần tìm đến Ủy ban quản lý vô tuyến điện quốc gia, nhưng không có tác dụng, chúng tôi có thắng được China Mobile, China Unicom, China Netcom không? Không có tiền, sự huyền ảo của vũ trụ là cái đinh gì! Cũng may, dự án của tôi dựa vào số liệu vệ tinh gửi về, không liên quan gì đến những ‘cảnh quan du lịch’ này.”
            “Những năm gần đây, nhiều nghiên cứu cơ sở được vận hành thương mại hóa vẫn rất thành công, ví dụ như ngành Vật lý hạt. Xây cơ sở quan sát ở nơi xa thành thị một chút hẳn là đỡ hơn chứ?”
            “Vẫn là vấn đề tiền thôi. Hiện tại, chỉ có thể ngăn chặn nhiễu loạn bằng biện pháp kỹ thuật. Chậc, cô Diệp mà ở đây thì tốt quá, về phương diện này, cô ấy rất uyên thâm.”
            Sau đó, họ đến một quán bar mở thâu đêm dành cho du khách. Sa Thụy Sơn uống hết cốc bia này đến cốc bia khác, càng lúc càng nói nhiều. Chủ đề câu chuyện tập trung vào Diệp Văn Khiết. Qua lời người học sinh, Uông Diểu biết được nửa trước cuộc đời đã trải lắm gió sương của bà.

            #6
              huytran 30.07.2017 03:09:10 (permalink)
              Chương 7 : Những năm tháng điên cuồng  
               
              Trung Quốc, năm 1967.
              Cuộc tấn công của Liên hiệp Đỏ vào tòa nhà Tổng bộ Binh đoàn 428 đã kéo dài hai ngày, cờ xí của bọn họ phấp phới bay lượn xung quanh tòa nhà, tựa như những mồi lữa đang thèm khát củi khô. Viên chỉ huy của Liên hiệp Đỏ lòng như lửa đốt, y không hề sợ đám lính phòng thủ trong tòa nhà, hơn hai trăm chiến sĩ của 428 so với Liên hiệp Đỏ ra đời từ đầu năm 1966, đã trải qua Đại duyệt binh (*) và Nối vòng tay lớn(**) thì non nớt hơn nhiều lắm. Thứ mà y sợ hãi là mười mấy cái thùng sắt lớn nhét đầy thuốc nổ mạnh, được nối với nhau bằng kíp nổ điện trong tòa nhà ấy, y không nhìn thấy chúng, nhưng lại cảm nhận được sự tồn tại như những khối nam châm của chúng, công tắc bật lên là ngọc đá cùng tan, mà bọn Hồng vệ binh của Binh đoàn 428 ấy thừa sức mạnh tinh thần để làm được việc này. So với những Hồng vệ binh thế hệ đầu đã trưởng thành hơn nhiều trong mưa bão, phái Tạo phản mới nổi này giống như bầy sói trên đống than hồng, ngoài điên cuống ra thì chỉ biết có điên cuồng.
              (*) Trong năm 1966, Mao Trạch Đông đã tiến hành tám lần tổng duyệt binh và tiếp kiến Hồng vệ binh.
              (**) Chỉ một hoạt động vào giai đoạn đầu của Cách mạng văn hóa, từ nửa cuối năm 1966 đến đầu năm 1967, khi Hồng vệ binh ở các trường đại học, trung học bãi khóa, đi khắp cả nước tiến hành hoạt động giao lưu, trao đổi, tuyên truyền tạo phản, gây ra hỗn loạn nghiêm trọng về giao thông và trật tự xã hội trên phạm vi toàn quốc.
              Trên nóc toàn nhà xuất hiện vóc dáng nhỏ nhắn của một cô gái xinh đẹp đang phất lá cờ của Binh đoàn 428, sự xuất hiện của cô lập tức làm dấy lên một loại tiếng súng hỗn tạp, đủ các loại vũ khí cùng bắn ra, có súng carbin kiểu Mỹ cũ rích, có cả súng máy Tiệp Khắc ZB vz. 26(*) và súng trường Shiki 38(**), cũng có cả súng trường tiêu chuẩn và súng tiểu liên mới tinh – mấy loại mới này là trộm trong quân đội sau khi “Xã luận Tháng Tám” được đăng lên – những thứ này cùng với những vũ khí lạnh như lưỡi mác và đại đao, đã viết nên một bộ lịch sử cận đại cô đọng. Người của Binh đoàn 428 lúc trước đã chơi trò này rất nhiều lần, người đứng trên nóc nhà ngoài phất cờ ra, có lúc còn bắc loa hò hét hoặc rải truyền đơn xuống dưới, lần nào bọn chúng cũng an toàn rút lui trong làn mưa đạn, giành lấy vinh dự lớn lao về cho mình. Cô gái xuất hiện lần này rõ ràng cũng tin rằng mình vẫn may mắn như thế.
              Cô phất cao lá chiến kỳ, phất cao tuổi trẻ đang bốc cháy ngùn ngụt của mình, kẻ địch sẽ bị thiếu đốt thành tro tàn trong ngọn lửa ấy, thế giới lý tưởng sẽ sinh ra trong nhiệt huyết sôi trào của cô vào ngày mai… Cô say đắm trong ảo mộng đỏ thắm rực rỡ ấy, cho đến khi bị một viên đạn xuyên qua lồng ngực, ngực của thiếu nữ tuổi mười lăm mềm mại nhường nào, viên đạn sau khi xuyên qua hoàn toàn không hề giảm tốc, bật ra khỏi lưng cô còn rít lên một tiếng bay vụt đi. Nữ Hồng vệ binh trẻ tuổi cũng lá cờ của cô rơi xuống khỏi nóc nhà, thân hình mảnh mai nhẹ nhàng rơi thậm chí còn chậm hơn lá cờ, tựa như con chim nhỏ đang quyến luyến bầu trời. Kỳ thực, so với một số người khác, cô vẫn còn may mắn, ít nhất cô đã chết đi trong xúc cảm tráng lệ, vì lý tưởng mà hiến dâng thân mình.
              (*) ZB vz. 26 là loại súng trường do Tiệp Khắc phát triển trong những năm 1920. Loại súng này kết hợp nhiều thiết kế của các loại súng khác nhau như Berthier, Browning BAR M1918, Darne, Hotchkiss, Madsen và St.Etienne cùng các thiết kế riêng.
              (**) Súng trường Shiki 38 là loại súng trường lên đạn từng viên. Đây là loại súng trường tiêu chuẩn của bộ binh Nhật Bản trong thời gian dài.
              Những điểm nóng như thế này trải khắp thành phố, giống như vô số CPU đang vận hành cùng một lúc để kết nối Đại cách mạng văn hóa thành một chỉnh thể. Sự điên loạn giống như một cơn lũ vô hình nhấn chìm thành phố bên trong nó, thẩm thấu đến từng ngóc ngách và khe rãnh nhỏ nhoi.
              Trên sân vận động của trường đại học nổi tiếng ở ngoại ô thành phố, một buổi đại hội phê đấu có mấy nghìn người tham gia đã tiến hành được hai giờ đồng hồ. Ở cái thời đại bè phái mọc lên như rừng này, bất cứ nơi nào cũng có những bè phái đối lấp phức tạp đấu đá với nhau. Trên san trường, Hồng vệ binh, tổ công tác Cách mạng văn hóa, đội tuyên truyền công nhân và đội tuyên truyền quân đội đang xung đột dữ dội, mà bên trong các bè phái này lại không ngừng phân hóa ra thành các bè phái đối lập mới, bảo vệ và giữ gìn những nền tảng và cương lĩnh khác nhau, làm bùng lên những cuộc giao đấu tàn khốc hơn gấp bội. Nhưng những vị quyền cao chức trọng trong giới học thuật phản động bị phê đấu lần này lại là mục tiêu đấu tranh mà không phe phái nào dị nghị gì, bọn họ đành phải cùng lúc nhận lấy những đòn công kích tàn nhẫn từ nhiều hướng khác nhau.
              So với những hạng “ngưu quỷ xà thần” khác, giới học thuật phản động có đặc điểm của họ: khi đả kích mới bắt đầu, biểu hiện của họ luôn cao ngạo và ngoan cố, đây cũng là giai đoạn mà tỷ lệ thương vong của họ cao nhất; có người vì không chịu nhận tội mà bị đánh chết ngay tại chỗ, có người thì lựa chọn tự sát để bảo vệ sự tôn nghiêm của mình.
              Những người may mắn sống sót qua giai đoạn này, sẽ dần dần trở nên tê liệt, đây là một lớp vỏ tinh thần để tự bảo vệ mình, khiến họ tránh khỏi sụp đổ hoàn toàn. Trong đại hội phê đấu, họ thường rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, chỉ có một tiếng quát lớn mới làm họ giật mình sực tỉnh, máy móc lặp lại những lời nhận tội mình đã nói vô số lần. Sau đó, một bộ phận trong số họ sẽ đi vào giai đoạn thứ ba, những lời phê phán liên tục dài ngày sẽ đổ hình ảnh chính trị rõ nét vào trong ý thức của bọn họ như đổ thủy ngân, làm tòa nhà tư tưởng được xây dựng bằng tri thức và lý tính của họ sụp đổ triệt để, họ thật sự tin rằng mình có tội, thật sự thấy những tổn hại mình đã tạo ra cho sự nghiệp vĩ đại, đồng thời khóc lóc gào thét trong đau đớn, sự hối hận của họ bao giờ cũng sâu sắc hơn, chân thành hơn những phần tử không phải là tri thức rất nhiều. Đối với Hồng vệ binh, phê phán những đối tượng đã tiến vào hai giai đoạn sau là vô vị nhất, chỉ có những đối tượng “ngưu quỷ xà thần” ở giai đoạn đầu mới khiến thần kinh vốn đã bị hưng phấn quá độ của bọn chúng nảy sinh kích thích mạnh mẽ, giống như tấm vải đỏ trên tay võ sĩ đấu bò vậy. Nhưng những đối tượng như vậy càng lúc càng hiếm hoi, ở trường đại học này có lẽ chỉ còn lại một người, vì sự hiếm hoi ấy mà ông ta được giữ lại cho đến cuối buổi phê đấu mới đưa ra.
              Diệp Triết Thái đã sống từ đầu Cách mạng văn hóa đến bây giờ, vả lại còn luôn ở trong giai đoạn thứ nhất, ông không nhận tội, không tự sát, cũng không tê liệt. Khi vị giáo sư ngành vật lý này bước lên bục phê đấu, vẻ mặt ông rõ ràng đang nói: hãy chất thêm gánh nặng lên cây thập tự giá ta cõng trên lưng đi!
              Những thứ đám Hồng vệ binh bắt ông đeo trên người quả thật rất nặng nề, nhưng không phải là cây thập giá. Mũ cao cho các đối tượng phê đấu khác đều làm khung bằng thanh tre, còn chiếc mũ mà ông đội lại hàn từ những thanh sắt to cỡ đầu ngón tay, tấm bảng ông đeo trước ngực kia cũng không phải bảng gỗ như người khác, mà là một cánh cửa sắt dỡ ra từ chiếc lò nung trong phòng thí nghiệm, bên trên dùng mực đen viết tên ông rõ mồn một, còn vẽ một dấu X lớn màu đỏ dọc theo hai đường chéo.
              Số lượng Hồng vệ binh áp giải Diệp Triết Thái cũng đông gấp đôi những đối tượng phê đấu khác, có đến sáu người, hai nam bốn nữ. Hai nam thanh niên sải bước nhanh nhẹn mạnh mẽ, toát lên hình tượng của người thanh niên Bolshevik đã trưởng thành, bọn họ đều là sinh viên năm thứ tư chuyên ngành Vật lý lý thuyết của khoa Vật lý, Diệp Triết Thái từng là thầy giáo của họ. Bốn cô gái kia trẻ hơn nhiều, toàn là học sinh lớp 7 của trường trung học trực thuộc đại học. Những chiến sĩ nhỏ mặc quân trang, đeo thắt lưng vũ khí này bừng bừng sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ, tựa như bốn ngọn lửa xanh bao vây lấy Diệp Triết Thái. Sự xuất hiện của ông làm đám người bên dưới hưng phấn hẳn lên, những tiếng hô khẩu hiệu vừa nãy đã bắt đầu hụt hơi nay lại dâng cao như một đợt sóng triều mới, nhấn chìm hết thảy.
              Sau khi kiên nhẫn đợi cho tiếng hô khẩu hiệu lắng xuống, một trong hai Hồng về binh nam trên bục quay sang phía đối tượng bị phê đấu: “Diệp Triết Thái, ông thông hiểu các loại lực học, hẳn cũng đã nhìn thấy hợp lực vĩ đại mà ông đang kháng cự lớn mạnh nhường nào, cứ tiếp tục ngoan cố thì chỉ có con đường chết mà thôi! Hôm nay sẽ tiếp tục nghị trình của đại hội lần trước, không nói những lời thừa thãi nữa. Hãy mau thành thực trả lời câu hỏi dưới đây: trong bài giảng Cơ sở từ khóa 62 đến khóa 65, có phải ông đã tự tiện thêm vào một lượng lớn nội dung của Thuyết tương đối không?!”
              “Thuyết tương đối đã trở thành lý luận kinh điển của vật lý, bài giảng Cơ sở sao có thể không nói đến nó chứ?” Diệp Triết Thái trả lời.
              “Láo toét!” Một nữ Hồng vệ binh bên cạnh gằn giọng quát, “Einstein là tên học giả phản động, ai cho ăn thì bám đít, đi làn bom nguyên tử cho bọn đế quốc Mỹ! Muốn xây dựng nền khoa học cách mạng thì phải đánh đổ ngọn cờ đen lý thuyết của giai cấp tư sản mà đại diện chính là Thuyết tương đối!”
              Diệp Triết Thái im lặng, ông đang gắng gượng chịu đựng sự đau đớn mà cái mũ bằng sắt trên đầu và tấm biển sắt trước ngực gây ra, những câu hỏi nào không đáng trả lời thì ông đều im lặng. Sau lưng ông, những sinh viên của ông cũng nhíu mày. Cô bé vừa lên tiếng là người thông minh sáng láng nhất trong bốn Hồng vệ binh học sinh trung học, hơn nữa rõ ràng đã chuẩn bị từ trước, khi nãy trước khi lên bục còn trông thấy cô học thuộc lòng bài phê đấu, nhưng muốn đối phó với Diệp Triết Thái, chỉ dựa vào mấy câu khẩu hiệu đó của cô thì không được. Bọn họ quyết định rút ra vũ khí mới đã chuẩn bị riêng cho thầy giáo của mình ngày hôm nay, một người trong bọn vẫy tay xuống phía dưới.
              Vợ của Diệp Triết Thái, Thiệu Lâm, cũng là giáo sư vật lý dạy cùng khoa, đứng dậy từ hàng đầu tiên bên dưới, bước lên bục. Bà mặc một bộ đồ màu xanh lục không vừa người, rõ ràng là muốn kéo gần khoảng cách với màu sắc của Hồng vệ binh, nhưng những người quen biết Thiệu Lâm liên tưởng đến người phụ nữ thường mặc những bộ xường xám tinh tế giảng bài trước đây, cứ cảm thấy không quen mắt.
              “Diệp Triết Thái!” Thiệu Lâm chỉ vào chồng quát lên, rõ ràng bà ta không quen với cảnh này, gắng hết sức để cao giọng, nhưng lại càng lộ rõ sự run rẩy, “Ông không ngờ tôi lại đứng lên để vạch trần ông, phê phán ông phải không? Đúng thế, trước đây tôi bị ông lừa gạt, ông đã dùng thế giới quan và cái quan điểm khoa học phản động kia để che mắt tôi! Giờ tôi tỉnh ngộ rồi, được các tiểu tướng cách mạng giúp đỡ, tôi phải đứng về phía cách mạng, về phía nhân dân!” Bà ta quay mặt xuống dưới bục: “Các đồng chí, các tiểu tướng của cách mạng, các giáo chức cách mạng, chúng ta cần phải nhận rõ được bản chất phản động của
              Thuyết tương đối Einstein, bản chất này được thể hiện rõ nhất trong Thuyết tương đối rộng: nó đưa ra mô hình vũ trụ ở trạng thái tĩnh, phủ định tính vận động của vật chất, đây là ngược với phép biện chứng! Nó cho rằng vũ trụ có giới hạn, rõ ràng là chủ nghĩa duy tâm phản động từ đầu đến cuối…”
              Nghe vợ mình thao thao bất tuyệt, Diệp Triết Thái chỉ cười khổ não. Lâm, tôi che mắt bà ư? Kỳ thực, trong lòng tôi, bà luôn là một bí ẩn.
              Một lần, tôi khen ngợi thiên tư của bà với cha bà – ông ấy rất may mắn, ra đi sớm, tránh được kiếp nạn này – ông già lắc đầu, nói con gái bố không thể có thành tựu gì trong học thuật cả; kế đó, ông còn nói ra một câu rất quan trọng với nửa đời sau của tôi: Lâm Lâm quá thông minh, nhưng nghiên cứu lý thuyết cơ bản thì không ngốc không làm được đâu.
              Suốt nhiều năm về sau, tôi không ngừng lĩnh hội được thâm ý của câu nói này. Lâm, bà thật sự là quá thông minh, từ mấy năm trước bà đã đánh hơi được xu hướng chính trị của giới trí thức, làm ra một số hành động vượt quá quy định, ví dụ như trong khi dạy học, bà đã đổi tên hầu hết các định luật và tham số vật lý, Định luật Ohm thì đổi thành Định luật điện trở, Phương trình Maxwell thì đổi thành Phương trình điện tử, Hằng số Plank đổi thành Hằng số lượng tử… Bà giải thích với các sinh viên rằng: tất cả thành quả khoa học đều là kết tinh của nhân dân lao động, những tên học phiệt giai cấp tư sản kia chẳng qua chỉ ăn cắp những trí tuệ này mà thôi. Nhưng dù vậy, bà vẫn không được “chủ lưu cách mạng” chấp nhận, nhìn bà bây giờ mà xem, cánh tay áo không có băng đỏ mà “Giáo chức công nhân viên cách mạng” đều đeo; bà đi hai tay không lên đây, đến một quyển Ngữ lục(*) cũng chẳng có tư cách cầm theo… Ai bảo bà ra đời trong một gia đình hiển hách thời chế độ cũ, cha mẹ bà lại đều là những học giả nổi tiếng như thế kia chứ.
              (*) Tức Mao Trạch Đông ngữ lục, cuốn sách nhỏ trích lời Mao Trạch Đông.
              Nói đến Einstein, bà còn có nhiều điều phải khai báo hơn tôi ấy chứ. Mùa đông năm 1922, Einstein đến Thượng Hải, cha bà rất giỏi tiếng Đức nên được sắp xếp làm một trong những người đi theo đoàn tiếp đãi. Bà từng nhiều lần nói với tôi, cha bà được Einstein đích thân dạy dỗ mà bước vào con đường nghiên cứu vật lý, còn bà chọn ngành này do chịu ảnh hưởng của cha, vì vậy Einstein cũng có thể coi như người thầy gián tiếp của bà, bà cảm thấy vô cùng tự hào và hạnh phúc vì điều ấy.
              Sau này tôi mới biết, cha bà đã nói dối, một lời nói dối đầy thiện ý, ông ấy và Einstein chẳng qua chỉ có một cuộc trao đổi ngắn đến không thể nào ngắn hơn được nữa.
              Đó là ngày 13 tháng 11 năm 1922, ông ấy theo Einstein tản bộ ở đường Nam Kinh, cùng đi hình như còn có hiệu trưởng Đại học Thượng Hải Vu Tả Nhậm, giám đốc tờ Đại Công Báo Tào Cốc Băng… đi qua một chỗ đang duy tu nền đường, Einstein dừng lại bên cạnh một công nhân đập đá, lặng lẽ nhìn cậu thiếu niên mặt mũi tay chân lem luốc, mặc chiếc áo rách rưới trong gió rét ấy, rồi hỏi cha bà: một ngày cậu kiếm được bao nhiêu tiền? Sau khi hỏi chú bé phụ việc ấy, cha bà trả lời: năm hào. Đây là cuộc nói chuyện duy nhất của ông ấy với nhà khoa học vĩ đại đã thay đổi thế giới này, không hề nhắc đến vật lý, cũng không nhắc đến Thuyết tương đối, chỉ có hiện thực lạnh giá mà thôi. Cha bà kể rằng, Einstein nghe xong câu trả lời của ông lại lặng lẽ đứng ở đó một lúc lâu, nhìn chú bé ấy đờ đẫn làm việc, tẩu thuốc trên tay đã tắt lụi mà không hút hơi nào. Hồi tưởng lại chuyện này, cha bà từng cảm thán với tôi rằng: ở Trung Quốc, bất cứ tư tưởng độc đáo bay bồng nào cũng sẽ rơi bịch xuống đất thôi, lực hấp dẫn của hiện thực thật quá nặng nề.
              “Cúi đầu xuống!” Một nam Hồng vệ binh lớn tiếng ra lệnh. Đây có lẽ là chút thương hại còn sót lại của sinh viên dành cho thầy giáo, người bị phê đấu đều phải cúi đầu, nhưng nếu Diệp Triết Thái làm vậy, cái mũ cao bằng sắt nặng nề kia sẽ rơi xuống, sau này chỉ cần nôg cúi đầu thì không có lý do gì để bắt ông đội nó lên nữa. Nhưng Diệp Triết Thái vẫn ngẩng cao đầu, dùng cần cổ yếu ớt của mình đỡ lấy bó sắt thép nặng nề kia.
              “Cúi đầu! Tên ngoan cố phản động này!” Một nữ Hồng vệ binh bên cạnh cởi thắt lưng da quất về phía Diệp Triết Thái, móc khóc bằng đồng đập vào trán ông, để lại một vết hằn hình chiếc móc rõ mồn một, nhưng rồi mau chóng bị máu ứ biến thành một đốm tím đen mờ mờ. Ông lảo đảo, nhưng rồi đứng vững lại ngay.
              Một nam Hồng vệ binh chất vấn:
              “Trong khi dạy về cơ học lượng tử, ông cũng tuyên truyền rất nhiều ngôn luận phản động!” Nói xong, anh ta gật gật đầu với Thiệu Lâm, ra hiệu cho bà ta tiếp tục.
              Thiệu Lâm nôn nóng muốn nói tiếp lắm rồi, bà ta cần phải nói liên tục không ngừng để duy trì tinh thần vốn đã chao đảo của mình khỏi sụp đổ triệt để. “Diệp Triết Thái, điểm này thì ông không thể chối cãi được nữa! Ông đã nhiều lần rao giảng cho sinh viên Diễn giải Copenhagen phản động!”
              “Đây dù sao cùng là cách diễn giải được công nhận là phù hợp nhất với kết quả thí nghiệm trong thời điểm hiện tại.”
              Diệp Triết Thái nói, sau khi hứng chịu đòn tấn công dữ dội nhường ấy, giọng điệu ông vẫn cứ ung dung, điều này làm Thiệu Lân rất kinh ngạc, cũng rất hoảng sợ.
              “Cách diễn giải này cho rằng, quan sát bên ngoài đã dẫn đến sự sụp đổ của hàm sóng lượng từ, đây là một hình thức biểu hiện khác của lý luận duy tâm phản động, vả lại còn là biểu hiện điên rồ nhất!”
              “Triết học chỉ đạo thực nghiệm hay là thực nghiệm chỉ đạo triết học?” Diệp Triết Thái hỏi, phản kích bất ngờ của ông khiến những kẻ phê đấu nhất thời luống cuống.
              “Đương nhiên là triết học chủ nghĩa Marx đúng đắn soi đường cho thí nghiệm khoa học!” Một nam Hồng vệ binh nói.
              “Nói vậy cũng bằng như nói triết học đúng đắn từ trên trời rơi xuống, điều này phản đối tư tưởng thực hiện xuất phát từ nhận thức chính xác, vừa khéo đi ngược lại với nguyên tắc tri nhận thế giới tự nhiên của chủ nghĩa Marx.”
              Thiệu Lâm và hai Hồng vệ binh sinh viên đại học không biết đối đáp thế nào, khác với những Hồng vệ binh đang học trung học và ngoài xã hội, họ không thể bất chấp lý lẽ được. Nhưng bốn tiểu tướng Hồng vệ binh đến từ trường trung học trực thuộc lại có phương thức cách mạng “không gì không phá nổi” của riêng họ, cô gái vừa ra tay khi nãy lại quất cho Diệp Triết Thái một thắt lưng, ba cô gái còn lại cũng lần lượt rút thắt lưng da ra quất lia lịa. Khi đồng đội của mình làm cách mạng, bọn họ cần phải thể hiện mình còn cách mạng hơn, hoặc ít nhất cũng là cách mạng tương đương. Hai Hồng vệ binh nam không hề can thiệp, nếu bọn họ xen vào việc này thì cũng bị nghi là chống phá cách mạng ngay.
              “Ông lại còn rêu rao lý thuyết vụ nổ lớn hình thành vũ trụ trong khi dạy học nữa, đây là lý thuyết phản động nhất trong tất thảy các lý thuyết khoa học!” Một Hồng vệ binh nam thử tìm cách chuyển chủ đề.
              “Có thể trong tương lai lý thuyết này sẽ bị lật đổ, nhưng hai phát hiện lớn của ngành vũ trụ học trong thế kỷ này: Định luật Hubble(*) và bức xạ nên vũ trụ 3K, đã khiến cho lý thuyết Vụ nổ lớn trở thành lý thuyết khởi nguyên vũ trụ đáng tin cậy nhất trong thời điểm hiện tại.”
              (*) Hubble đưa ra định luật rằng các ngôi sao càng xa trung tâm vũ trụ thì di chuyển ra xa khỏi trung tâm vũ trụ với tốc độ càng nhanh theo công thức v = Hd, trong đó v là vận tốc, d là khoảng cách (tính bằng pc) và H là Hằng số Hubble bằng H = 67,15 ± 1,2 km/giây/Mpc, 1 Mpc = 3.09 x 1022 m.
              “Bậy bạ!” Thiệu Lâm thét lên, lại tiếp tục thao thao bất tuyệt giảng giải về Vụ nổ lớn, đương nhiên không quên phân tích cặn kẽ bản chất phản động của học thuyết này. Nhưng sự mới mẻ của lý thuyết này đã thu hút cô bé thông minh nhất trong bốn nữ Hồng vệ binh, cô buột miệng hỏi:
              “Cả thời gian cũng bắt đầu từ thời điểm kỳ dị đó ?! Thế trước điểm kỳ dị ấy thì có gì?”
              “Không có gì cả.” Diệp Triết Thái nói, giống như trả lời câu hỏi của bất cứ cô bé con nào, ông quay đầu lại nhìn cô với ánh mắt hiền từ, cái mũ sắt và vết thương nặng khiến động tác này của ông trở nên khó nhọc.
              “Không… không có gì cả?! Phản động! Phản động quá rồi‼” Cô bé vô cùng kinh hoảng kêu thét lên, luống cuống hướng sang phía Thiệu Lâm tìm kiếm sự trợ giúp, lập tức nhận được hồi đáp.
              “Đây là dành vị trí cho sự tồn tại của Thượng Đế.” Thiệu Lâm gật gật đầu mớm lời cho nữ Hồng vệ binh.
              Tư duy đang hoang mang của cô bé Hồng vệ binh kia lập tức tìm được điểm tựa, cô giơ bàn tay đang cầm thắt lưng da lên chỉ vào Diệp Triết Thái, “Lão, lão muốn nói là có Thượng Đế?!”
              “Tôi không biết”
              “Lão nói cái gì!”
              “Tôi nói là tôi không biết, nếu Thượng Đế chỉ là một siêu ý thức bên ngoài vũ trụ thì tôi không biết nó có tồn tại hay không; dù có hay không, khoa học cũng chưa thể đưa ra được chứng cứ nào xác thực.” Kỳ thực, trong thời khắc tựa như cơn ác mộng này, Diệp Triết Thái đã có khuynh hướng tin rằng Thượng Đế không tồn tại rồi.
              Câu nói “đại nghịch bất đạo” này làm cả hội trường xôn xao, dưới sự dẫn dắt của một Hồng vệ binh đứng trên bục, từng đợt từng đợt tiếng hô khẩu hiệu lại bùng lên.
              “Đánh đổ học phiệt phản động Diệp
              Triết Thái‼”
              “Đánh đổ tất cả bọn học phiệt phản động‼”
              “Đánh đổ mọi học thuyết phản động‼”

              “Không có Thượng Đế nào tồn tại cả, tất cả tôn giáo, đều chỉ là công cụ tinh thần làm mê muội nhân dân do giai cấp thống trị bia tạc ra mà thôi!” Sau khi tiếng hô khẩu hiệu lắng dần xuống, cô bé kia lớn tiếng nói.
              “Cách nhìn này là phiến diện.” Diệp Triết Thái bình tĩnh phản bác.
              Nữ Hồng vệ binh nhỏ tuổi thẹn quá hoá giận lập tức đưa ra phán đoán, đối với kẻ địch nguy hiểm trước mắt này, mọi lời nói đều không còn ý nghĩa gì nữa. Cô vung thắt lưng da xông tới, ba đồng chí nhỏ của cô cũng lập tức lao lên theo, Diệp Triết Thái có vóc người rất cao, bốn cô bé mười bốn tuổi này chỉ còn cách vung thắt lưng da lên mới đánh trúng được mái đầu không chịu cúi xuống của ông, sau mấy đòn tấn công đầu tiên, chiếc mũ cao bằng sắt mà ông đội trên đầu ít nhiều cũng có công dụng bảo hộ đã bị đánh rơi, liền sau đó, thắt lưng da bản rộng có móc khoá đồng quật xuống đầu và thân thể ông như mưa rào… rốt cuộc ông cũng ngã xuống, điều này càng cổ vũ cho đám Hồng vệ binh, khiến họ thêm
              hăm hở tiếp tục cuộc chiến đấu “cao quý” này, bọn họ đang đánh vì niềm tin, vì lý tưởng của mình, bọn họ bị sứ mệnh huy hoàng mà lịch sử trao cho mình làm cho mê say, bọn họ tự hào vì sự anh dũng của mình…
              “Chỉ thị tối cao: đấu văn chứ không đấu võ!” Hai sinh viên của Diệp Triết Thái rốt cuộc cũng hạ được quyết tâm, gầm lên câu đó, cùng lúc xông tới kéo bốn cô bé con đã rơi vào trạng thái gần như điên loạn ra.
              Nhưng đã quá muộn, nhà vật lý lặng lẽ nằm dưới đất, đôi mắt khép hờ nhìn vệt máu chảy từ đỉnh đầu ông xuống, cả hội trường điên loạn trong chớp mắt đã tĩnh lặng như tờ, dòng máu kia là thứ duy nhất đang chuyển động như một con rắn đỏ chậm rãi bò ngoằn ngoèo, đến chỗ mép bục thì nhỏ xuống cái hòm rỗng bên dưới, từng giọt từng giọt, “tí tách” nhịp nhàng, như thể tiếng bước chân đi xa dần xa dần.
              Một tràng cười quái dị phá vỡ bầu không khí im lặng, là Thiệu Lâm đã hoàn toàn suy sụp tinh thần phát ra, nghe đáng sợ vô cùng. Người ta đã bắt đầu bỏ đi, rồi bỏ chạy tán loạn, người nào người nấy đều muốn nhanh chóng rời khởi nơi này. Trong thoáng chốc, cả hội trường đã trống không, chỉ còn lại một cô gái đứng bên dưới bục.
              Cô là con gái của Diệp Triết Thái, tên là Diệp Văn Khiết.
              Khi bốn cô gái kia hung hăng đánh đập cha mình, tước đoạt đi sinh mạng của ông, cô đã muốn lao lên bục, nhưng hai người lao công già trong trường giữ chặt lấy cô, đồng thời thì thào bên tai cô rằng đừng để mình mất mạng theo, bây giờ cả hội trường đã phát điên lên rồi, sự xuất hiện của cô bé chỉ kéo theo nhiều tên hung bạo khác mà thôi. Cô từng khản giọng khóc gào, nhưng âm thanh ấy đã bị nhấn chìm trong tiếng hô khẩu hiệu điên loạn và tiếng hò hét trợ uy trong hội trường. Khi tất cả âm thanh đều lắng xuống, bản thân cô cũng không phát ra được âm thanh gì nữa, chỉ biết trân trân nhìn cái xác đã không còn sự sống của cha mình trên bục, những thứ không khóc ra, không gào thét ra được ấy tích tụ lại trong máu cô, hoà tan vào đó, rồi đi theo cô suốt cả cuộc đời.
              Khi đám người đã tản đi hết, cô vẫn đứng ở đó, giữ nguyên tư thế lúc bị hai người lao công già níu chặt lấy, không nhúc nhích, như thể đã hoá đá. Một lúc sau, cô mới hạ cánh tay đang giơ cao xuống, chầm chậm lẽ người bước lên bục, ngồi bên cạnh di thể của người cha, nắm lấy một bàn tay đã lạnh giá của ông, thất thần nhìn về phía xa. Lúc xác ông sắp bị khiêng đi, Diệp Văn Khiết lấy trong túi áo ra một vật đặt vào bàn tay cha, đó là chiéc tẩu của ông.
              Văn Khiết lẳng lặng rời khỏi sân vận động ngổn ngang không một bóng người ấy, đi về nhà. Khi cô đi tới tầng dưới nhà tập thể dành cho giáo chức, liền nghe thấy từ cửa sổ căn hộ nhà mình trên tầng hai vẳng ra những tràng cười điên dại, do người đàn bà cô từng gọi là mẹ phát ra. Văn Khiết lặng lẽ quay người đi, để mặc cho đôi chân dẫn cô đến nơi nào khác.

              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 03:10:22 bởi huytran >
              #7
                huytran 30.07.2017 03:12:37 (permalink)
                Chương 8 : Mùa xuân tĩnh lặng  
                 
                Hai năm sau, dãy núi Đại Hưng An. “Cây đổ rồi đây…”
                Cùng với tiếng hô lanh lảnh ấy, một thân cây thông rụng lá(*) to như cây cột của điện thờ Pantheon ầm ầm đổ xuống, Diệp Văn Khiết cảm thấy mặt đất rung lên. Cô cầm rìu và cưa ngắn, bắt đầu loại bỏ những cành nhánh trên thân cây khổng lồ. Mỗi lần làm việc này, cô luôn có cảm giác mình đang sửa sang lại di thể cho một người khổng lồ. Cô thậm chí còn tưởng tượng: người khổng lồ này chính là cha mình. Những lúc thế này, cảm giác lúc cô ở nhà quàn chỉnh trang lại dung mạo cho di thể của cha mình vào cái đêm thê lương hai năm về trước lại tái hiện. Những mảng vỏ cây bong tróc trên thân cây thông, tựa hồ chính là những vết thương chi chít khắp người cha cô…
                (*) Thông rụng lá là những cây có quả hình nóng trong chi Larix, thuộc họ Thông. Cao từ 20-45 m, chúng là cây bản địa tại nhiều nơi thuộc vùng ôn đới của bán cầu Bắc, tại các vùng đất thấp ở phương Bắc và trên các vùng núi cao ở phương Nam.. Thông rụn lá là một trong những loài cây mọc nhiều trong những cánh rừng taiga mênh mông ở Nga và Canada.
                Hơn một trăm nghìn người thuộc sáu sư đoàn bốn mươi mốt tiểu đoàn của Binh đoàn sản xuất xây dựng Nội Mông Cổ rải rác khắp vùng rừng rậm và thảo nguyên mênh mông này. Lúc mới từ thành tự đến với chốn lạ lẫm này, rất nhiều thanh niên trí thức trong binh đoàn đều ôm một kỳ vọng lãng mạn: khi đoàn xe tăng của Đế quốc Liên Xô(*) tập kết vượt qua biên giới Trung-Mông, họ sẽ nhanh chóng vũ trang, dùng máu thịt của mình đê xây dựng nên rào chắn đầu tiên của nước Cộng Hoà. Thực ra, đây cũng là một trong những suy nghĩ chiến lược lúc thành lập ra binh đoàn. Nhưng cuộc chiến tranh mà họ khát vọng ấy lại giống như những rặng núi xa tít tắp chân trời trên thảo nguyên, nhìn thấy rõ mồn một nhưng không thể nào tới gần, vì vậy họ chỉ còn biết khẩn hoang, chăn nuôi và chặt phá. Những người trẻ tuổi từng đốt cháy tuổi thanh xuân trong phong trào “Nối vòng tay lớn” ấy nhanh chóng nhận ra, so với trời đất mênh mông ở nơi này, thành phố lớn nhất trong nội địa chẳng qua chỉ là một khu chăn thả cừu mà thôi; ở nơi rừng rậm và thảo nguyên mênh mang lạnh giá này, thiêu đốt chẳng có ý nghĩa gì cả, một bầu máu nóng phun trào ra còn bị đông lạnh nhanh hơn một đống phân bò, mà còn chẳng có giá trị sử dụng bằng phân bò nữa. Thế nhưng, đốt cháy là số mệnh của họ, bọn họ là thế hệ đốt cháy. Vì vậy, dưới lưỡi cưa máy và cưa điện của họ, từng mảng rừng lớn đã hoá thành đất hoang núi trọc; nhờ máy kéo và máy gặt đập liên hợp của họ, từng mảng thảo nguyên đã được cày thành ruộng lương thực, rồi biến thành sa mạc.
                (*) Vào thời điểm đó, quan hệ Trung Quốc và Liên Xô rất căng thẳng. Phía Trung Quốc gọi Liên Xô là Đế quốc Xã hội chủ nghĩa.
                Diệp Văn Khiết chỉ có thể miêu ta sự chặt phá mà cô trông thấy bằng tính từ “điên cuồng”, những cây thông rụng lá cao lớn của vùng núi Hưng An, những cây thông long não bốn mùa xanh tươi tốt, những gốc bạch hoa thẳng tắp sừng sững, những thân cây sơn dương cao chọc trời, rồi linh sam Siberia, hắc hoa, cây sồi, cây du, cây liễu thủy khúc, liễu xuyên thiên, sồi Mông Cổ… thấy gì là họ chặt cái đó, mấy trăm chiếc cưa máy như một đàn châu chấu bằng sắt thép, đại đội của họ đi tới đâu, nơi đó chỉ còn lại những gốc cây trơ trọi.
                Cây thông rụng lá xử lý xong xuôi sẽ được máy kéo bánh xích kéo đi, ở đầu kia của thân cây, Diệp Văn Khiết nhè nhẹ vuốt ve mặt cắt mới tinh ấy, cô thường làm vật một cách vô thức, vì luôn có cảm giác đó là một vết thương lớn, tựa hồ còn cảm nhận được nỗi đau đớn của cái cây. Bỗng nhiên, cô trông thấy trên vết cắt ở gốc cây cách đó không xa cũng có một bàn tay đang vuốt ve nhè nhẹ, sự run rẩy trong tâm linh từ bàn tay ấy làn truyền ra, cộng hưởng với cô. Bàn tay đó tuy rất trắng trẻo, nhưng có thể nhận ra nó thuộc về một người đàn ông. Diệp Văn Khiết ngẩng đầu, nhận ra người đang vuốt ve gốc cây ấy là Bạch Mộc Lâm, một thanh niên gầy gò đeo kính, phóng viên báo Đại Sản Xuất trực thuộc binh đoàn, mới đến thăm đại đội cô từ hôm kia. Diệp Văn Khiết từng đọc bài viết của anh, câu chữ rất hay, toát lên sự tinh tế và nhạy cảm chẳng liên gì với môi trường phóng khoáng nơi đây, làm cô khó lòng mà quên được.
                “Mã Cương, anh lại đây.” Bạch Mộc Lâm cao giọng gọi một chàng trai ở cách đó không xa, người này tráng kiên như thân cây thông rụng lá mà anh ta vừa đốn hạ. Anh ta đi tới, phóng viên Bạch liền hỏi: “Anh biết cái cây này được bao nhiêu tuổi rồi không?”
                “Đếm thử xem.” Mã Cương chỉ vào vòng tuổi trên gốc cây nói.
                “Tôi đếm rồi, hơn ba trăm ba mươi tuổi đấy. Anh mất bao nhiêu thời gian để cưa nó xuống?”
                “Không đến mười phút đâu, nói cho anh biết nhé, tôi là tay cưa máy nhanh nhất đại đội này đó, tôi đến tiểu đội nào, cờ đỏ liền theo tôi đến tiểu đội đó.” Mã Cương trông có vẻ rất hào hứng, những ai được phóng viên Bạch chú ý đến đều như vậy, có thể xuất hiện trên bản tin của báo Đại Sản Xuất cũng là điều hết sức vinh dự.
                “Hơn ba trăm năm, mấy đời người đó, lúc nó nảy mầm vẫn còn là triểu nhà Minh kia, trong những năm tháng đằng đẵng ấy, nó đã trải qua bao nhiêu mưa gió, trông thấy bao nhiêu là việc. Vậy mà anh cưa đổ nó trong có mấy phút đồng hồ, anh thật sự không cảm thấy gì à?”
                “Anh muốn tôi cảm thấy gì bây giờ?” Mã Cương ngẩn người ra giây lát, “Chỉ là một cái cây thôi mà, ở đây thừa thãi nhất chính là cây đấy, thông già nhiều tuổi hơn cây này còn đầy ra đó.”
                “Anh bận gì thì làm đi.” Bạch Mộc Lâm lắc đầu, ngồi trên gốc cây khe khẽ thờ dài một tiếng. Mã Cương cũng lắc đầu, phóng viên không có hứng thú đăng bài về anh ta khiến anh ta rất thất vọng. “Đám phần tử trí thức đúng là lắm bệnh nhiều tật.” Lúc nói câu này, anh ta còn liến mắt nhìn Diệp Văn Khiết ở cách đó không xa, lời ấy hiển nhiên cũng bao gồm cả cô nữa.
                Cái cây đã được kéo đi, những tảng đá và những gốc cây lăn lóc trên mặt đất khiến thân cây to lớn toác vỏ rách cả thịt. Ở vị trí ban đầu của nó, tầng lá mục dày bị giày xéo tạo thành một cái rãnh dài, có nước rỉ ra, lá rụng nhiều năm tích tụ khiến nước có màu đỏ sậm, giống như máu.
                “Tiểu Diệp, qua đây nghỉ ngơi đi.” Bạch Mộc Lâm chỉ vào bên còn trống của gốc cây to, nói với Diệp Văn Khiết, Diệp Văn Khiết quả thực đã thấm mệt, cô bỏ dụng cụ xuống, đi tới ngồi xoay lưng vào lưng anh chàng phóng viên họ Bạch.
                Im lặng một lúc lâu, Bạch Mộc Lâm đột nhiên nói: “Tôi nhìn ra được cảm giác của cô, ở đây cũng chỉ có hai chúng ta là có cảm giác ấy thôi.”
                Diệp Văn Khiết vẫn im lặng, Bạch Mộc Lâm đoán cô sẽ không trả lời. Diệp Văn Khiết bình thường đã ít nói, hiếm khi nào giao lưu với người khác, một số người mới đến thậm chỉ còn tưởng cô bị câm.
                Bạch Mộc Lâm lại tự nói một mình: “Một năm trước khi đi tiền trạm tôi đã đến khu rừng này, còn nhớ lúc đó là giữa trưa, người tiếp đãi chúng tôi nói hôm nay ăn cá, tôi đưa mắt nhìn quanh gian nhà nhỏ lợp vỏ cây ở giữa rừng ấy, chỉ thấy có một nồi nước, làm gì có cá mú nào; sau khi nước sôi, anh nuôi xách cái chày cán bột ra, đi xuống con sông nhỏ trước nhà đập ‘bộp bộp’ mấy phát, liền bắt được mấy con cá to… đủ thấy vùng đất này thật trù phú biết mấy, nhưng giờ nhìn con sông đó mà xem, chỉ còn lại một rãnh nước đục ngầu chẳng có gì cả. Tôi thật sự không biết, giờ đây phương hướng mở rộng của cả cái binh đoàn này là sản xuất hay là phá hoại nữa?”
                “Suy nghĩ này của anh từ đâu mà có vậy?” Diệp Văn Khiết khẽ hỏi, nhưng không lộ vẻ tán đồng hay phản đối. Có điều, chỉ riêng chuyện cô chịu mở miệng nói chuyện đã khiến Bạch Mộc Lâm cảm kích lắm rồi.
                “Tôi vừa đọc một quyển sách, rất cảm động… cô có đọc được tiếng Anh không?” Thấy Diệp Văn Khiết gật đầu, Bạch Mộc Lâm lấy trong túi ra một cuốn sách bìa xanh da trời, lúc đưa cho cô, anh còn nửa vô tình nửa cố ý liến mắt nhìn xung quanh, “Cuốn sách này được xuất bản năm 1962, có ảnh hưởng rất lớn ở phương Tây.”
                Diệp Văn Khiết xoay người lại nhận lấy cuốn sách, thấy tựa để là Mùa xuân tĩnh lặng, tác giả là Rachel Carson. “Ở đâu ra vậy?” Cô khẽ hỏi.
                “Cuốn sách này được cấp trên coi trọng, muốn làm tài liệu tham khảo nội bộ, tôi phụ trách dịch phần liên quan đến rừng rậm.”
                Diệp Văn Khiết giở sách ra, rồi nhanh chóng bị thu hút, ngay trong phần giới thiệu ngắn, tác giá đã miêu tả một ngôi làng vắng lặng đang chết dần bởi chất độc của thuốc trừ sâu, đằng sau những ngôn từ bình dị chất phác là một trái tim đầy âu lo.
                “Tôi muốn viết thư cho trung ương, phản ánh hành vi vô trách nhiệm này của
                Binh đoàn xây dựng.” Bạch Mộc Lâm nói.
                Diệp Văn Khiết ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách, một lúc lâu sau mới hiêu được ý của anh, cô không nói không rằng, lại cúi đầu xuống đọc sách tiếp.
                “Cô muốn đọc thì cứ tạm giữ lấy, nhưng tốt nhất đừng để người khác trông thấy, thứ này, cô biết rồi mà…” Bạch Mộc Lâm nói đoạn lại đưa mắt nhìn quanh quất, rồi đứng dậy rời đi.
                Ba mươi tám năm sau, trong thời khắc cuối cùng, Diệp Văn Khiết hồi tưởng lại ảnh hưởng của Mùa xuân tĩnh lặng với cuộc đời mình. Trước khi tiếp xúc với cuốn sách, mặt ác của loài người đã rạch lên tâm hồn thơ trẻ của cô gái Diệp Văn Khiết một vết thương lớn không thể nào khép miệng, nhưng cuốn sách này đã khiến cô lần đầu tiên suy nghĩ một cách lý tính về mặt ác của con người. Đây vốn dĩ là một cuốn sách rất bình thường, chủ đề không rộng, chỉ nêu lên tác hại của việc lạm dụng thuốc trừ sâu đối với môi trường, nhưng góc nhìn của tác giả đã khiến Diệp Văn Khiết rung động mạnh mẽ: Việc sử dụng thuốc trừ sâu của con người mà Rachel Carson nói đến, đối với Diệp Văn Khiết là một hành vi chính đáng và bình thường, chí ít thì cũng là hành vi trung tính; nhưng cuốn sách này lại khiến cô nhận thấy, đứng ở góc độ của thiên nhiên, hành vi này và Đại cách mạng văn hóa chẳng có gì khác biệt, tác hại của nó đối với thế giới của chúng ta đều nghiêm trọng như nhau. Vậy thì, còn bao nhiêu hành vi khác của con người mà mình thấy bình thường, thậm chí còn thấy chính nghĩa, lại là xấu xa nữa đây?
                Tiếp tục suy nghĩ, một suy luận nảy ra khiến cô không lạnh mà run, chìm sâu vào vực sâu sợ hãi: có lẽ, quan hệ giữa con người và sự xấu xa, cũng chính là quan hệ của đại dương và những tảng núi băng trôi nổi trên đó vậy, cả hai đều là những khối nước khổng lồ do cùng một loại vật chất tạo nên, núi băng sở dĩ có thể nhận ra một cách dễ dàng chẳng qua vì hình thái của chúng khác biệt mà thôi, thực chất chúng chỉ là một phần cực nhỏ của cả khối nước khổng lồ ấy… Muốn con người tự giác sống thực sự đạo đức là điều không thể, cũng giống như họ chẳng thể nào tự nắm tóc để nhấc mình lên khỏi mặt đất vậy. Muốn làm được điều này, chỉ còn cách nhờ vào những sức mạnh phi nhân loại.
                Suy nghĩ này, cuối cùng đã quyết định cuộc đời của Diệp Văn Khiết.
                Bốn ngày sau, Diệp Văn Khiết đi trả sách. Bạch Mộc Lâm ở trong phòng tiếp khách duy nhất của đại đội, Văn Khiết đẩy cửa, thấy anh đang mệt mỏi nằm trên giường, người toàn bùn đất và mạt gỗ, trông thấy Diệp Văn Khiết, anh vội vàng nhỏm dậy.
                “Hôm nay đi làm à?” Diệp Văn Khiết hỏi.
                “Xuống đại đội lâu như vậy rồi cũng không thể cứ thõng tay đi ngó quanh mãi thế được, phải tham gia lao động, ba cùng mà. Ồ, chúng tôi đi làm ở núi Radar, rừng chỗ đó rậm rạp thật đấy, lá mục dưới đất dày ngang đầu gối, tôi sợ nhất là dính phải chướng khí đấy.” Bạch Mộc Lâm nói.
                “Núi Radar?!” Diệp Văn Khiết rất kinh ngạc khi nghe thấy cái tên này.
                “Đúng vậy, nhiệm vụ khẩn cấp của tiểu đoàn, phải chặt cây tạo thành một vành đai cảnh giới xung quanh nó.”
                Núi Radar là một nơi thần bí, ngọn núi dốc đứng ấy vốn không có tên, vì trên đỉnh núi có một ăng ten parabol rất lớn nên mới có tên này. Kỳ thực, những người có chút thường thức đều biết đó không phải là ăng ten radar, tuy rằng mỗi ngày phương hướng của nó đều thay dổi, nhưng chưa bao giờ nó chuyển động liên tục. Trong gió, chiếc ăng ten ấy phát ra những tiếng “u u u” trầm thấp, ở xa tít tắp cũng nghe thấy được. Người trong đại đội chỉ biết nó là một căn cứ quân sự, nghe người bản địa kể, lúc cây dựng căn cứ hồi ba năm trước, từng huy động một lượng lớn nhân lưc nối một đường dây điện cao thế lên tận đỉnh núi, rồi còn mở ra một con đường xe chạy thông lên đỉnh núi, rất nhiều vật tư được vận chuyển lên bằng con đường này. Nhưng sau khi căn cứ xây dựng xong, người ta đã hủy con đường ấy đi, chỉ còn để lại một con đường nhỏ khó đi ở giữa rừng, thường xuyên có trực thăng cất và hạ cánh ở trên đỉnh núi.
                Chiếc ăng ten đó không phải lúc nào cũng xuất hiện, khi gió quá lớn nó sẽ được hạ xuống, lúc nó được dựng lên lại, sẽ có rất nhiều việc kỳ quái xảy ra: động vật trong rừng trở nên nhốn nháo bất an, lũ chim bị kinh động xao xác bay lên từng đàn lớn, con người cũng có rất nhiều triệu chứng không hiểu vì sao như váng đầu, buồn nôn. Những người sống gần núi Rader còn rất dễ rụng tóc, nghe người bản địa nói, chuyện này mới xảy ra sau khi xuất hiện cột ăng ten kia.
                Núi Radar có rất nhiêu truyền thuyết thần bí: một lần có tuyết lớn, cột ăng ten kia dựng lên, tuyết ở trong bán kính ấy dặm đều lập tức biến thành mưa! Trong giá lạnh, mưa rơi xuống cây đông cứng lại thành băng, mỗi thân cây đều đeo những chuối băng lớn, cả khu rừng biến thàng cung điện thủy tinh, bên trong không ngừng vang lên những tiếng “rắc rắc” của cành cây bị băng đè gãy và tiếng “bịch bịch” của các khối băng rới xuống đất. Có lúc, khi ăng ten dựng lên, giữa trời quang sẽ xuất hiện sấm sét, trên bầu trời đêm có thể trông thấy những quầng sáng kỳ dị… Núi Radar được canh gác rất nghiêm ngặt, sau khi đại đội của Binh đoàn xây dựng đến đây đóng quân, việc đầu tiên đại đội trưởng làm chính là yêu cầu tất cả mọi người chú ý đừng tự tiện đến gần núi Radar, bằng không các trạm canh trong căn cứ có thể nổ súng mà không cần cảnh cáo. Mới tuần trước, hai chiến sĩ đi săn trong đại đội đuổi theo một con hươu, bất giác đuổi tới chân núi, lập tức bị trạm canh ở lưng chừng núi bắn dồn dập, may nhờ rừng rậm, hai người mới chạy được trở về mà không bị thương, một người còn sợ đến vãi cả đái ra quần. Ngày hôm sau, đại đội mở cuộc họp, cả hai đều bị xử phạt cảnh cáo. Có thể vì chuyện này, bên phái căn cứ mới quyết định chặt cây tạo thành một vành đai cảnh giới ở khu rừng rậm xung quanh ngọn núi, đồng thời, từ việc nhân lực trong binh đoàn có thể cho họ tùy ý điều động cũng thấy được cấp bậc hành chính của họ rất cao.
                Bạch Mộc Lâm nhận lấy cuốn sách, cẩn thận nhét dưới gối, đồng thời lấy ra mấy trang giấy viết chi chít chữ, đưa cho Diệp Văn Khiết, “Đây là bản nháp của lá thư đó, cô xem coi có được không?”
                “Thư?”
                “Tôi có nói với cô, phải viết thư cho trung ương.”
                Nét bút trên mấy tờ giấy rất tháu, Diệp Văn Khiết mất khá nhiều công sức mới đọc hết. Lá thư này là lập luận nghiêm túc, cẩn trọng, nội dung phong phú: từ chuyện thảm thực vật núi Thái Hành trù phú trong lịch sử bị phá hoại đã biến thành núi trọc khô cằn ngày hôm nay, đến chuyện thời nay hàm lượng cát bùn sông Hoàng Hà đang gia tăng nhanh chóng, để đưa ra kết luận hành vi khẩn hoang của Binh đoàn xây dựng Nội Mông Cổ sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Diệp Văn Khiết thấy văn phong của anh rất giống với Mùa xuân tĩnh lặng, giản dị, chính xác, lại bao hàm ý thơ, khiến người xuất thân từ khoa học tự nhiên như cô đọc cảm thấy rất dễ chịu.
                “Viết hay lắm.” Cô thật lòng khen ngợi.
                Bạch Mộc Lâm gật đầu, “Vậy tôi sẽ gửi đi.” Nói đoạn, anh lấy ra một tập giấy mới toan chép lại, nhưng tay run quá, không viết nổi chữ nào. Người lần đầu tiên dùng cưa máy đều như vậy, tay run đến nỗi bát cơm cũng không bưng nổi, nói gì đến viết chữ.
                “Để tôi chép lại hộ anh nhé.” Diệp Văn Khiết nói, đoạn cầm lấy cây bút Bạch Mộc Lâm đưa cho bắt đầu chép.
                “Cô viết đẹp thật đấy.” Bạch Mộc Lâm nhìn hàng chứ đầu tiên chép ra trên tờ giấy, nói. Anh rót cho Diệp Văn Khiết một cốc nước, tay vẫn run dữ dội, nước vãi ra khá nhiều, cô vội dịch tập giấy viết thư sang một bên.
                “Cô học ngành vật lý à?” Bạch Mộc Lâm hỏi.
                “Vật lý thiên văn, giờ thì chẳng dùng làm gì được nữa rồi.” Diệp Văn Khiết trả lời, không ngẩng đầu lên.
                “Thế tức là nghiên cứu hằng tinh nhỉ, sao lại không dùng làm gì được chứ? Giờ đại học đều đã mở lại rồi, nhưng nghiên cứu sinh thì không tuyển nữa, nhân tài như cô mà lại chui rúc ở xó xỉnh này, chậc…”
                Diệp Văn Khiết không trả lời, chỉ cắm đầu chép lại lá thư, cô không muốn nói với Bạch Mộc Lâm mình có thể gia nhập vào Binh đoàn xây dựng này đã là may mắn lắm rồi. Đối với hiện thực, cô không muốn nói gì cả, cũng chẳng có gì để mà nói cả.
                Căn phòng trở nên tĩnh lặng, chỉ có tiếng sột soạt của ngòi bút máy di chuyển trên giấy. Diệp Văn Khiết có thể ngửi được mùi mạt gỗ thông trên người anh chàng phóng viên bên cạnh mình, từ sau khi cha cô chết thảm, đây là lần đâu tiên cô có cảm giác ấm áp, lần đầu tiên thấy thân tâm được thả lỏng, tạm thời hạ hàng rào cảnh giác với thế giới xung quanh xuống.
                Hơn một tiếng sau, bức thư đã chép xong, lại theo lời Bạch Mộc Lâm viết địa chỉ và tên người nhận lên phong bì, Diệp Văn Khiết đứng dậy từ biệt, lúc ra tới cửa, cô ngoảnh đầu lại nói: “Đưa áo khoác của anh đây, tôi giặt hộ cho.” Nói xong câu ấy, bản thân cô cũng thấy hết sức ngạc nhiên trước hành động này của mình.
                “Không, thế đâu được!” Bạch Mộc Lâm xua tay lia lịa, “Các chiến sĩ nữ của Binh đoàn xây dựng các cô, ban ngày đều làm việc của đàn ông, mau về đi nghỉ đi, sáu giờ sáng mai là phải lên núi rồi đó. Ừm, Văn Khiết à, ngày kia tôi phải về bộ chỉ huy sư đoàn rồi, tôi sẽ phản ánh lại tình hình của cô với cấp trên, có lẽ sẽ giúp được chút gì đó.”
                “Cảm ơn, nhưng tôi cảm thấy ở đây rất tốt, rất yên tĩnh.” Diệp Văn Khiết nhìn rừng cây mông lung của dãy núi Đại Hưng An dưới ánh trăng, nói.
                “Có phải cô đang chạy trốn gì đó không?”
                “Tôi đi đây.” Diệp Văn Khiết khẽ nói, đoạn xoay người bỏ đi. Bạch Mộc Lâm nhìn theo bóng dáng mảnh khảnh ấy của cô biến mất dưới ánh trăng, sau đó, anh ngẩng đầu lên dõi nhìn khu rừng Diệp Văn Khiết vừa nhìn, trông thấy trên đỉnh núi Radar phía xa, cột ăng ten khổng lồ lại chầm chậm dựng lên, lấp lóe ánh kim lạnh lẽo.
                Một buổi trưa ba tuần sau đó, Diệp Văn Khiết bị triệu tập khẩn cấp từ khu vực chặt cây về ban chỉ huy đại đội. Vừa vào phòng làm việc, cô liền nhận ra bầu không khí có gì đó không ổn, đại đội trưởng và chính trị viên đều có mặt, ngoài ra còn có một người lạ mặt mày lạnh tanh, trên bàn trước mặt anh ta đặt chiếc cặp táp màu đen, hai thứ bên cạnh rõ ràng là lấy từ bên trong ra, đó là một bức thư và một cuốn sách, bức thư đã mở, còn sách thì chính là cuốn Mùa xuân tĩnh lặng mà cô từng đọc.
                Người sống ở thời đại này có một sự mẫn cảm đặc biệt đối với hoàn cảnh chính trị của mình, mà sự mẫn cảm này ở
                Diệp Văn Khiết còn mạnh hơn bình thường, cô lập tức cảm thấy thế giới xung quanh mình đang thắt chặt lại giống như một cái túi, mọi thứ đều dồn ép về phía cô.
                “Diệp Văn Khiết, đây là chủ nhiệm Trương ở phòng chính trị sư đoàn xuống đây điều tra,” chính trị viên chỉ vào người lạ mặt nói, “hy vọng cô hợp tác, phải nói sự thật.”
                “Bức thư này là do cô viết phải không?” Chủ nhiệm Trương hỏi, đồng thời rút lá thư trong phong bì ra. Diệp Văn Khiết đưa tay đón lấy, nhưng chủ nhiệm Trương không đưa cho cô, vẫn cầm lá thư trên tay, lật từng trang từng trang cho cô xem, cuối cùng lật đến trang cuối cùng mà cô muốn xem, cuối thư không có tên họ mà chỉ viết bốn chữ “Quần chúng cách mạng”.
                “Không, không phải tôi viết.” Diệp Văn Khiết hoảng sợ lắc đầu.
                “Nhưng đây là nét chữ của cô.” “Vâng, nhưng tôi chép hộ người khác
                thôi.”
                “Hộ ai?”
                Bình thường ở đại đội có gặp phải chuyện gì, Diệp Văn Khiết cũng rất hiếm khi tự biện hộ cho mình mà chỉ lẳng lặng nhận lấy phần thiệt thòi, lẳng lặng chấp nhận mọi sự ấm ức, càng không bao giờ để liên lụy đến ai. Nhưng lần này thì khác, cô hiểu rất rõ thế này có nghĩa là gì.
                “Chép hộ một phóng viên của báo Đại Sản Xuất mấy tuần trước đến đại đội phỏng vấn, anh ta tên là…”
                “Diệp Văn Khiết!” Cặp mắt chủ nhiệm Trương tựa như hai họng súng đen ngòm chĩa vào cô, “Tôi cảnh cáo cô, vu cáo người khác sẽ làm cho vấn đề của cô càng thêm nghiêm trọng. Chúng tôi đã điều tra rõ phía đồng chí Bạch Mộc Lâm rồi, anh ấy chỉ nhận lời nhờ vả của cô mang thư đến Hohhot(*) gửi đi thôi, không hề biết nội dung bức thư là gì.”
                (*) Đây là thủ phủ đồng thời là trung tâm hành chính, kinh tế và văn hóa của khu tự trị Nội Mông Cổ.
                “Anh ta… nói như vậy sao?!” Diệp Văn Khiết thấy trước mắt tối sầm lại.
                Chủ nhiệm Trương không trả lời cô, mà cầm cuốn sách kia lên, “Cô viết bức thư này, nhất định là do nó khơi gợi.” Anh ta giơ cuốn sách lên cho đại đội trưởng và chính trị viên, “Cuốn sách này tên là Mùa xuân tĩnh lặng, được xuất bản ở Mỹ năm 1962, có ảnh hưởng rất lớn trong thế giới tư bản chủ nghĩa.” Kế đó, anh ta lấy trong cặp táp ra một cuốn sách khác, bìa da trắng chữ đen, “Đây là bản dịch tiếng Trung của cuốn sách này, do cơ quan hữu quan phát hành tham khảo nội bộ, dùng để phê phán. Hiện nay, cấp trên đã đưa ra nhận định đối với cuốn sách này: đây là một lùm cỏ độc phản động, cuốn sách này xuất phát từ quan điểm duy tâm lịch sử, tuyên truyền luận thuyết tận thế, mượn danh vấn đề môi trường để tìm cớ thoái thác cho kết cục mục nát tàn lụi của thế giới tư bản chủ nghĩa, bản chất của nó hết sức phản động.”
                “Nhưng cuốn sách này… cũng không phải của tôi.” Diệp Văn Khiết yếu ớt nói.
                “Đồng chí Bạch Mộc Lâm là một trong những người được cấp trên chỉ định dịch cuốn sách này, anh ấy mang theo cuốn sách là hoàn toàn hợp pháp, tất nhiên, anh ấy cũng có trách nhiệm bảo quản, không nên để cô nhân lúc mình đi lao động không đề phòng mà lấy trộm đi đọc… bây giờ, cô đã tìm được trong cuốn sách này vũ khí tư tưởng để tấn công vào chủ nghĩa xã hội rồi.”
                Diệp Văn Khiết im lặng, cô biết mình đã rơi vào hố bẫy, giãy giụa thế nào cũng chỉ uổng công.
                Trái với một số ghi chép lịch sử mà người thời sau được biết, ban đầu Bạch Mộc Lâm không hề có ý hãm hại Diệp Văn Khiết, lá thư anh ta viết gửi lên trung ương ấy có khả năng là xuất phát từ trách nhiệm thật tâm. Thời đó, người viết thư trực tiếp cho trung ương với các mục đích khác nhau rất nhiều, đại đa số đều như đá chìm đáy biển, cũng có một số ít vì chuyện này mà trong một đêm chắp cánh bay cao hoặc vướng họa ngập đầu. Hệ thần kinh chính trị khi ấy cực kỳ phức tạp và lằng nhằng, là một phóng viên, Bạch Mộc Lâm tự cho rằng mình đã hiểu được hướng đi và những chỗ nhạy cảm của hệ thống thần kinh này, nhưng anh ta đã tự tin quá đà, lá thư này của anh ta đã chạm phải bãi mìn mà trước đây anh ta chưa từng biết. Sau khi nhận được tin tức, nỗi sợ đã áp đảo hết thảy, anh ra quyết định hy sinh Diệp Văn Khiết để bảo vệ chính mình.
                Nửa thế kỷ sau, các nhà sử học nhất trí đồng thuận rằng, sự kiện xảy ra năm 1969 này là một bước ngoặt của lịch sử nhân loại về sau.
                Bạch Mộc Lâm trong lúc vô ý đã trở thành một nhân vật lịch sử quan trọng mang tính chất cột mốc, nhưng bản thân anh ta lại không có cơ hội biết điều này, các nhà sử học đã rất thất vọng khi ghi lại nửa phần đời vô vị còn lại của anh ta. Bạch Mộc Lâm làm việc ở báo Đại Sản Xuất đến năm 1975, lúc đó Binh đoàn xây dựng Nội Mông Cổ bị giải tán, anh ta được điều đến công tác ở hiệp hội khoa học của một thành phố vùng Đông Bắc đến đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, sau đó sang Canada định cư, làm thầy giáo trong một trường tiếng Hoa ở thành phố Ottawa tới năm 1991, rồi chết vì bệnh ung thư. Suốt nửa đời còn lại, anh ta không nhắc chuyện Diệp Văn Khiết với bất cứ ai, có cảm thấy tự trách và hối hận hay không cũng không ai biết được.
                ***
                “Tiểu Diệp à, đại đội đã hết sức nhân nghĩa với cô rồi.” Đại đội trưởng phun ra một hơi thuốc Mạc Hợp cay nồng, nhìn xuống đất nói: “Xuất thân và hoàn cảnh gia đình của cô đều không tốt, nhưng chúng tôi không coi cô như người ngoài. Đối với khuynh hướng thoát ly quần chúng, không tích cực mong muốn tiến bộ của cô, tôi và chính trị viên đều đã nhiều lần nói chuyện với cô, muốn giúp đỡ cô. Thật không ngờ, cô lại phạm phải sai lầm nghiêm trọng thế này!”
                “Tôi đã nhận ra từ lâu, cô ta chống đối Đại cách mạng văn hóa rất dữ dội.” Chính trị viên đại đội tiếp lời.
                “Buổi chiều, phái hai người đưa cô ta và những tội chứng này đến bộ chỉ huy sư đoàn.” Chủ nhiệm Trương mặt lạnh tanh nói.
                Ba nữ phạm nhân cùng phòng lần lượt bị đưa đi, trong phòng giam chỉ còn lại một mình Diệp Văn Khiết. Đống than nhỏ ở góc tường đã dùng hết mà không ai đến thêm vào, lò sưởi sắp tắt đến nơi rồi, căn phòng trở nên lạnh lẽo, khiến Diệp Văn Khiết phải quấn chặt tấm chăn quanh người mình.
                Trước lúc trời tối, có hai người đến, trong đó có một nữ cán bộ đã đứng tuổi, người đi cùng giới thiệu chị ta là đại diện quân đội của Ủy ban quân sự thuộc tòa án trung cấp.
                “Tôi là Trình Lệ Hoa.” Nữ cán bộ ấy tự giới thiệu, chị ta khoảng hơn bốn mươi tuổi, mặc áo khoác quân nhân, đeo kính gọng to, đường nét trên gương mặt khá dịu dàng, có thể thấy thời trẻ nhất định là người rất xinh đẹp, lúc nói chuyện, chị ta luôn mỉm cười, khiến người khác có cảm giác bình dị dễ gần.
                Diệp Văn Khiết hiêu rỗ, người có cấp bậc như vậy mà đến tận phòng giam gặp một phạm nhân đang chờ xét xử là rất bất thường. Cô thận trọng gật đầu với Trình Lệ Hoa, dịch sang bên để nhường cho chị ta chỗ ngồi trên chiếc giường chật hẹp.
                “Lạnh thế, lò sưởi đâu?” Trình Lệ Hoa tỏ vẻ không hài lòng nhìn trại trưởng trại tạm giam đứng ở cửa, rồi lại quay sang nhìn Diệp Văn Khiết, “Ừm, trẻ thật, cô còn trẻ hơn tôi nghĩ nữa.” Nói xong, chị ta ngồi xuống giường, sát cạnh Diệp Văn Khiết, cúi đầu mở chiếc cặp táp ra, miệng vẫn lẩm bẩm như một bà già, Tiểu Diệp ơi là Tiểu Diệp, cô hồ đồ quá, người trẻ tuổi nào cũng thế, càng đọc nhiều sách lại càng lú lẫn, cô đấy…” Chị ta tìm thấy thứ muốn tìm, ôm tập hồ sơ trước ngực, ngẩng đầu lên nhìn Diệp Văn Khiết, ánh mắt đầy sự yêu thương, “Có điều, người trẻ tuổi mà, có ai không phạm sai lầm? Tôi cũng thế, hồi ấy tôi ở đoàn văn công Quân đoàn dã chiến số 4, hát ca khúc Liên Xô rất hay, một lần trong buổi học tập chính trị, tôi nói chũng ta nên sáp nhập với Liên Xô, trở thành một nước cộng hòa mới của Liên bang Xô viết xã hội chủ nghĩa, như vậy thì sức mạnh của cộng sản quốc tế càng lớn lao hơn… Thật ấu trĩ, nhưng ai mà chưa từng ấu trĩ cơ chứ? Vẫn là câu nói đó thôi, đừng ôm gánh nặng tư tưởng, có sai thì nhận sai sửa sai, sau đó lại tiếp tục làm cách mạng thôi.”
                Những lời này của Trình Lệ Hoa đã kéo gần khoảng cách giữa chị ta và Diệp Văn Khiết, nhưng trong hoạn nạn, Diệp Văn Khiết đã học được cách cẩn trọng, cô không dám tùy tiện nhận thiện ý xa xỉ này.
                Trình Lệ Hoa đặt tập hồ sơ ấy lên giường trước mắt Diệp Văn Khiết, đưa cho cô một cây bút, “Nào, ký tên trước đi, rồi chúng ta từ từ nói chuyện tháo gỡ gúc mắc tư tưởng cho cô.” Giọng điệu của chị ta như đang dỗ đứa trẻ con uống sữa vậy.
                Diệp Văn Khiết lặng lẽ nhìn tập hồ sơ, không nhúc nhích, cũng không nhận lấy bút.
                Trình Lệ Hoa cười khoan dung, “Cô có thể tin tưởng tôi, tôi đem danh dự ra đảm bảo, nội dung của tài liệu này không liên quan đến vụ việc của cô, ký tên đi.”
                Người đi cùng đứng cạnh nói: “Diệp Văn Khiết, đại diện Trình muốn giúp đỡ cô thôi, mấy hôm nay chị ấy đã tốn khá nhiều tâm sức vì việc của cô đấy.”
                Trình Lệ Hoa xua tay ngăn anh ta nói tiếp. “Tôi hiểu mà, cô bé này, ừm, bị dọa cho phát hãi rồi. Trình độ quán triệt chính sách của một số người bây giờ quả thức là quá kém, từ ở Binh đoàn xây dựng, rồi cả Tòa án chúng ta nữa, phương pháp thô vụng, tác phong thô bạo, thật chẳng ra gì cả! Được rồi, Tiểu Diệp, nào, đọc đi, đọc cho kỹ đi.”
                Diệp Văn Khiết cầm tập tài liệu lên, lật xem trong ánh đèn vàng vọt của phòng giam. Đại diện Trình không gạt cô, tài liệu này quả thực không liên quan gì đến vụ việc của cô, mà là về người cha đã chết. Trong đó có ghi lại tình hình qua lại và nội dung nói chuyện của cha cô với một số người, người cung cấp tài liệu là em gái của Diệp Văn Khiết, Diệp Văn Tuyết. Là một Hồng vệ binh cấp tiến, Diệp Văn Tuyết đã tích cực chủ động tố cáo cha mình, viết rất nhiều tài liệu tố giác, trong đó có một số tài liệu trực tiếp dẫn đến cái chết thảm khốc của cha cô. Nhưng Diệp Văn Khiết vừa nhìn đã nhận ra tập tài liệu này không phải do em gái mình viết, tài liệu tố cáo cha của Diệp Văn Tuyết hành văn mạnh mẽ dữ dội, đọc từng hàng cứ như thể đang nghe từng băng từng băng pháo nổ vang vang, nhưng tài liệu này được viết một cách rất bình tĩnh, rất chu đáo, nội dung tỉ mỉ chính xác, người nào gặp người nào ở đâu vào năm nào tháng nào ngày nào, nói những chuyện gì đều có ghi lại, người ngoài xem thì thấy giống một cuốn sổ thu chi bình thường, nhưng bên trong lại ngầm ẩn chứa nguy cơ chết người, trò trẻ con của Diệp Văn Tuyết không thể so sánh được.
                Nội dung tài liệu thì cô đọc không hiểu lắm, nhưng lờ mờ cảm giác được nó liên quan đến một công trình quốc phòng quan trọng. Là con gái của một nhà vật lý, Diệp Văn Khiết đoán được đó là công trình chế tạo hai loại bom nguyên tử và bom hydro làm cả thế giới chấn động vào năm 1964 của Trung Quốc. Vào thơi ấy, muốn đánh đổ ai đó có vị trí rất cao, thì phải có được tài liệu đen ở các lĩnh vực mà y phụ trách quản lý, nhưng công trình chế tạo hai loại bom này là một lĩnh vực rất gai góc đối với các nhà âm mưu, công trình này thuộc diện bảo hộ trọng điểm của trung ương, có thể tránh được gió mưa từ cuộc Cách mạn văn hoa, bọn họ rất khó mà thọc tay vào được.
                Do vấn đề xuất thân mà không qua được kiểm tra chính trị, nên cha cô không trực tiếp tham gia vào nghiên cứu chế tạo hai loại bom mà chỉ làm một số công tác lý thuyết ngoại vi, nhưng muốn lợi dụng ông thì dễ dàng hơn lợi dụng những nhân vật trung tâm của công trình này. Diệp Văn Khiết không biết những nội dung của tài liệu này là thật hay giả, nhưng có thể khẳng định, từng dấu chấm dấu phẩy trên đó đều có khả năng gây ra vết thương chính trị trí mạng. Ngoài mục tiêu tấn công, còn có vận mệnh của vô số người sẽ vì tài liệu này mà rơi vào vực sâu bi thảm. Phần cuối tài liệu là chữ ký to tướng của em gái cô, còn Diệp Văn Khiết phải ký tên với tư cách nhân chứng phụ, cô chú ý thấy, ở vị trí đó đã có ba người ký tên vào rồi.
                “Tôi không biết cha tôi và những người này nói những lời này.” Diệp Văn Khiết trả tài liệu về vị trí cũ, thấp giọng nói.
                “Sao lại không biết? Rất nhiều cuộc nói chuyện đều diễn ra ở nhà cô, em gái cô còn biết mà cô lại không biết?”
                “Tôi thật sự không biết.”
                “Nhưng nội dung của những cuộc nói chuyện này là chân thực, cô phải tin vào tổ chức.”
                “Tôi không nói là không xác thực, nhưng tôi thật sự không biết, vì vậy không thể ký tên được.”
                “Diệp Văn Khiết,” người đi cùng
                Trình Lệ Hoa bước lên một bước, nhưng lại bị chị ta ngăn lại. Chị ta ngồi xích lại gần Diệp Văn Khiết hơn một chút, nắm lấy một bàn tay lạnh giá của cô:
                “Tiểu Diệp à, tôi trao đổi với cô nhé. Vụ án này của cô có tính linh động rất cao, nói giảm nói tránh đi thì là thanh niên trí thức bị sách báo phản động che mắt, chẳng phải chuyện gì to tát, cũng không cần theo trình tự tư pháp, tham gia một lớp học tập, ngoan ngoãn viết mấy bản kiểm điểm là cô có thể trở về binh đoàn; còn nếu muốn to chuyện ra thì Tiểu Diệp à, trong lòng cô cũng rõ rồi mà, hoàn toàn có thể phán tội phản cách mạng đấy. Đối với những vụ án chính trị như của cô, hệ thống công an, kiểm sát, tòa án bây giờ thà thiên tả chứ không thiên hữu, thiên tả thì là vấn đề phương pháp, còn thiên hữu lại là vấn đề đường lối, phương hướng cuối cùng vẫn là để bên Ủy ban quân sự quyết định. Tất nhiên, những lời này chỉ có thể nói riêng giữa chúng ta với nhau thôi.”
                Người đi cùng chị ta nói: “Đại diện Trình thật lòng muốn tốt cho cô, bản thân cô cũng thấy rồi đó, đã có ba nhân chứng ký tên rồi, cô có ký hay không cũng không có ý nghĩa gì nhiều. Diệp Văn Khiết, cô đừng nhất thời hồ đồ nữa.”
                “Đúng đấy, Tiểu Diệp, nhìn cô gái có tri thức như cô bị hủy hoại như vậy, tôi đau lòng lắm! Tôi thật sự muốn cứu cô, cô nhất thiết phải phối hợp với tôi đấy. Nhìn tôi đây này, lẽ nào tôi lại hại cô chứ?”
                Diệp Văn Khiết không nhìn Trình Lệ Hoa, cô chỉ thấy máu của cha mình. “Đại diện Trình, tôi không biết những chuyện viết trên đó, tôi sẽ không ký tên đâu.”
                Trình Lệ Hoa im lặng, nhìn chằm chằm vào Diệp văn Khiết một lúc lâu, bầu không khí giá lạnh tựa như đông cứng lại. Sau đó, chị ta chậm rãi cất tài liệu vào cặp táp, đứng dậy, nét hiển từ trên gương mặt vẫn không biến mất, mà chỉ đông cứng lại, như thể đang đeo một tấm mặt nạ bằng thạch cao. Chị ta cứ đeo một bộ mặt hiền từ ấy đi tới góc tường, ở đó có một thùng nước để rửa mặt rửa tay, chị ta nhấc thùng nước lên đổ một nửa số nước bên trong lên người Diệp Văn Khiết, một nửa lên đống chăn nệm, động tác gọn gàng vững vàng, sau đó ném thùng quay người đi ra cửa, buông lại một câu chửi: “Đồ con hoang ngoan cố!”
                Trại trưởng trại tạm giam là người đi sau cùng, anh ta lạnh lùng nhìn Diệp Văn Khiết toàn thân ướt sũng, đóng cửa đánh “rầm” một tiếng rồi khóa lại.
                Giữa mùa đông giá lạnh của vùng Nội Mông, cái lạnh thấm qua lớp áo quần ướt sũng tựa như một bàn tay khổng lồ bóp chặt Diệp Văn Khiết ở bên trong, cô nghe thấy răng mình va vào nhau lạch cạch, sau đó âm thanh này cũng biến mất. Cái lạnh thấm vào tận cốt tủy khiến thế giới hiện thực trong mắt cô biến thành một màu trắng sữa, cô có cảm giác cả vũ trụ này là một khối băng lớn, còn mình là thể sống duy nhất trong khối băng ấy. Cô là cô bé sắp bị chết cóng, trong tay thậm chí còn không có lấy một que diêm, chỉ còn lại ảo giác…
                Khối băng mà cô ở bên trong dần trở nên trong suốt, trước mắt cô xuất hiện một tòa nhà lớn, trên nóc nhà có một cô gái đang phất cao lá cờ, thân hình mảnh khảnh của cô và lá cờ to tướng hình thành một sự đối lập rõ rệt, đó là Diệp Văn Tuyết, em gái Diệp Văn Khiết. Từ sau khi con bé cắt đứt với gia đình học phiệt phản động của mình, Diệp Văn Khiết không nghe được tin tức gì về em gái nữa, mãi đến cách đây không lâu, cô mới biết em gái mình đã chết thảm trong một cuộc đấu tranh vũ trang từ hai năm trước. Lại một thoáng ngẩn ngơ, người phất cờ đã biến thành Bạch Mộc Lâm, cặp mắt kính của anh ra phản chiếu ánh lửa bên dưới tòa nhà; sau đấy, người đó lại biến thành đại diện Trình, biến thành bà Thiệu Lâm mẹ cô, thậm chí biến thành cha cô. Người cầm cờ không ngừng thay đổi, song lá cờ vẫn phất cao không hề gián đoạn, tựa như một con lắc vĩnh cửu, đếm ngược tính mệnh chẳng còn bao nhiêu của cô.
                Dần dần, lá cờ trờ nên mơ hồ, tất cả đều trở nên mơ hồ, khối băng tràn khắp vũ trụ ấy lại nhốt cô vào trung tâm của nó, lần này, khối băng đã thành màu đen.

                <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 03:24:29 bởi huytran >
                #8
                  huytran 30.07.2017 03:30:38 (permalink)
                  Chương 9 : Hồng Ngạn phần 1  
                   
                  Không biết bao lâu đã trôi qua, Diệp Văn Khiết nghe thấy tiếng ầm ầm nặng nề. Âm thanh này vang lên từ mọi phương hướng, trong ý thức mơ hồ của cô, dường như có một cỗ máy khổng lồ nào đó đang khoan thủng hoặc cưa đôi khối băng lớn mà cô ở bên trong. Thế giới vẫn tăm tối, nhưng âm thanh ầm ầm lại càng lúc càng chân thực, cuối cùng cô cũng xác định được nguồn của âm thanh này không phải từ thiên đường mà cũng chẳng phải từ địa ngục. Cô ý thức được mắt mình vẫn đang nhắm nghiền, bèn gắng gượng hé mở đôi mí mắt nặng trịch… Thứ đầu tiên cô nhìn thấy là một ngọn đèn gắn vào trần nhà, được bọc trong một lớp lưới sắt như để phòng hờ va đập, phát ra ánh sáng vàng vọt. Trần nhà dường như làm bằng kim loại.
                  Cô nghe thấy một giọng nam đang khẽ gọi tên mình.
                  “Cô đang sốt cao.” Người đó nói. “Đây là đâu?” Diệp Văn Khiết yếu ớt
                  hỏi, cảm giác giọng đó như thể không
                  phải do mình phát ra. “Trên máy bay.”
                  Diệp Văn Khiết cảm thấy cả người bải hoải, không còn chút sức lực nào, lại ngủ thiếp đi. Trong lúc mê man, tiếng ầm ầm vẫn luôn ở bên cạnh cô. Không lâu sau, cô lại tỉnh dậy, lần này đã hết tê liệt, thay vào đó là cảm giác đau đớn: đầu và các khớp tay chân đều rất đau, hơi thở phả ra trong miệng như thể đang bốc cháy, cổ họng cũng đau, nuốt nước bọt mà như nuốt một cục than hồng vậy.
                  Diệp Văn Khiết ngoảnh đầu, trông thấy bên cạnh có hai người mặc áo khoác dài quân đội giống đại diện Trình, chỉ khác là bọn họ đều đội mũ vải bông có sao đỏ năm cánh, vạt áo khoác mở hé, lộ ra phù hiệu màu đỏ trên bộ quân phục bên trong, một trong hai quân nhân này đeo kính. Diệp Văn Khiết phát hiện mình cũng đang đắp một chiếc áo khoác quân đội, quần áo trên người đều khô ráo, rất ấm áp.
                  Cô khó nhọc nhỏm người ngồi dậy, không ngờ lại thành công. Cô trông thấy cửa sổ phía bên kia, bên ngoài là biển mây cuồn cuộn đang chầm chậm trôi qua, ánh Mặt trời chiếu vào lóa cả mắt; cô vội quay mặt đi, trông thấy trong khoang máy bay chật hẹp chất đầy những thùng sắt màu xanh bộ đội, qua một cửa sổ khác có thể trông thấy bóng của cánh quạt bên trên. Cô đoán, có lẽ mình đang ở trên một chiếc máy bay trực thăng.
                  “Cô nằm xuống thì hơn.” Quân nhân đeo kính nói, đỡ cô nằm trở lại, đắp áo lên người.
                  “Diệp Văn Khiết, bài báo khoa học này có phải do cô viết không?” Quân nhân còn lại giơ một tờ tạp chí tiếng Anh đã mở sẵn tới trước mặt cô, cô đọc được đầu đề bài viết là “Mặt gương năng lượng có khả năng tồn tại bên trong tầng bức xạ Mặt trời và đặc tính phản xạ của nó”, anh ta lại cho cô xem trang bìa tạp chí, đó là một số tạp chí Vật lý thiên văn năm 1966.
                  “Chắc chắn là đúng rồi, chuyện này mà còn phải chứng thực nữa à?” Người đeo kính cất tờ tạp chí đi, sau đó giới thiệu: “Đây là chính ủy Lôi Chí Thành của căn cứ Hồng Ngạn. Tôi là Dương Vệ Ninh, kỹ sư trưởng của căn cứ. Còn một tiếng nữa mới hạ cánh, cô nghỉ ngơi đi.”
                  Anh là Dương Vệ Ninh? Diệp Văn
                  Khiết không nói ra lời, chỉ kinh ngạc nhìn đối phương, phát hiện vẻ mặt anh ta rất bình tĩnh, rõ ràng là không muốn người bên cạnh biết bọn họ quen nhau. Dương Vệ Ninh từng là một nghiên cứu sinh học trò của Diệp Triết Thái, khi anh ta tốt nghiệp thì Diệp Văn Khiết mới lên đại học năm thứ nhất. Đến giờ, Diệp Văn Khiết vẫn còn nhớ rõ cảnh tượng lúc Dương Vệ Ninh đến nhà mình lần đầu tiên, bấy giờ anh ta mới thi đỗ nghiên cứu sinh, đến thảo luận về phương hướng đề tài với thầy giáo hướng dẫn. Dương Vệ Ninh nói anh ta muốn làm đề tài có khuynh hướng thực nghiệm và ứng dụng, cố gắng tránh xa khỏi lý thuyết cơ sở một chút. Diệp Văn Khiết còn nhớ lúc đó cha mình đã nói: “Tôi không phản đối, nhưng dẫu sao chúng ta cũng là chuyên ngành Vật lý lý thuyết, lý do cậu yêu cầu như vậy là gì?” Dương Vệ Ninh trả lời: “Em muốn dấn thân vào thời đại, làm ra một số cống hiến mang tính thực tế.” Cha cô trả lời: “Lý thuyết là cơ sở của ứng dụng, phát hiện ra quy luật tự nhiên, lẽ nào không phải là cống hiến lớn nhất đối với thời đại hay sao?” Dương Vệ Ninh do dự một lát, rốt cuộc cũng nói ra lời thật lòng: “Nghiên cứu lý thuyết dễ phạm phải sai lầm về mặt tư tưởng.” Lời này của anh ta khiến cha cô im lặng.
                  Dương Vệ Ninh là người rất tài năng, nền tảng toán học vững chắc, tư duy nhanh nhẹn, nhưng trong khoảng thời gian làm nghiên cứu sinh không dài lắm ấy, quan hệ của anh ta và thầy giáo hướng dẫn khá là lạnh nhạt, giữa họ luôn giữ một khoảng cách “kính nhi viễn chi”. Lúc đó, Diệp Văn Khiết và Dương Vệ Ninh thường xuyên gặp mặt, có lẽ do ảnh hưởng từ người cha, Diệp Văn Khiết cũng không để ý tới anh ta lắm, còn việc anh ta có chú ý đến mình hay không thì cô không biết. Sau này, Dương Vệ Ninh tốt nghiệp suôn sẻ, không lâu sau thì không còn liên lạc với thầy giáo hướng dẫn của mình nữa.
                  Diệp Văn Khiết lại mệt mỏi nhắm mắt. Hai quân nhân rời khỏi chỗ cô đến phía sau một dãy thùng sắt thì thầm nói chuyện. Khoang máy bay rất hẹp, trong tiếng ầm ầm của động cơ, Diệp Văn Khiết vẫn nghe được tiếng họ…
                  “Tôi vẫn cảm thấy chuyện này không được ổn cho lắm.” Đây là giọng của Lôi Chí Thành.
                  Dương Vệ Ninh hỏi vặn lại: “Vậy anh có thể tìm người tôi cần qua các kênh thông thường không?”
                  “Ừm, tôi cũng tốn nhiều công sức lắm rồi. Trong quân đội không tìm được ai có chuyên môn này, tìm ở địa phương thì vấn đề càng nhiều hơn, anh biết cấp bậc bảo mật của dự án này rồi còn gì, đầu tiên phải gia nhập quân đội, vấn đề lớn hơn nữa vẫn là điều lệ bảo mật yêu cầu làm việc cách ly tại căn cứ. Thời gian dài như vậy, người nhà đi theo phải tính sao? Cũng phải ở trong căn cứ, chuyện này thì chẳng ai muốn cả. Hai ứng cử viên thích hợp mà chúng ta tìm được thì thà ở trường cán bộ 7-5(*) chứ không chịu đến. Tất nhiên có thể điều động ép buộc, nhưng tính chất công việc này, nếu không yên tâm thì chẳng thể làm gì được cả đâu.”
                  (*) Đây là mô hình nông trường được tổ chức nhằm quán triệt chỉ thị 7-
                  5 của Mao Trạch Đông trong Cách mạng văn hóa, tập trung các cán bộ của cơ quan nhà nước, các phần tử trí thức thuộc cơ quan nghiên cứu, giáo dục để tiến hành cải tạo lao động, giáo dục tư tưởng.
                  “Vì vậy chỉ còn cách này thôi.”
                  “Nhưng thế này cũng trái quy tắc quá rồi.”
                  “Dự án này vốn dĩ đã trái với quy tắc rồi, xảy ra chuyện gì tôi chịu trách nhiệm là được chứ gì.”
                  “Kỹ sư trưởng Dương của tôi ơi, trách nhiệm này anh có gánh vác nổi không? Anh chỉ vùi đầu vào kỹ thuật, nhưng mà ‘Hồng Ngạn’ khác với những dự án quốc phòng trọng điểm khác, sự phức tạp của nó là phức tạp ở ngoài phương diện kỹ thuật cơ.”
                  “Anh nói vậy cũng đúng.”
                  Lúc hạ cánh thì đã là chiều muộn, Diệp Văn Khiết từ chối khéo không để Dương Vệ Ninh và Lôi Chí Thành dìu đỡ, tự mình khó nhọc đi xuống máy bay, một trận gió mạnh làm cô suýt nữa bị ngã, gió thổi vào cánh quạt máy bay vẫn đang quay, phát ra những tiếng rít sắc lạnh. Diệp Văn Khiết rất quen với mùi của rừng sâu trong gió, cô nhận ra cơn gió này, cơn gió cũng nhận ra cô, đây là gió của vùng núi Đại Hưng An.
                  Cô nhanh chóng nghe thấy một âm thanh khác, tiếng ù ù đơn điệu và trầm đục, mạnh mẽ hồn hậu, như làm nền cho cả thế gian này, đây là âm thanh của cột ăng ten parabol cách đó không xa trong gió, chỉ khi đến gần, mới có thể thật sự cảm nhận được tấm lưới trời này lớn đến chừng nào. Chỉ trong một tháng nay, số phận Diệp Văn Khiết đã đi một vòng lớn rồi lại quay lại đây… Cô đang ở trên núi Radar.
                  Diệp Văn Khiết không kìm được quay đầu nhìn về hướng đại đội trực thuộc Binh đoàn xây dựng của cô đóng quân, chỉ thấy một mảng rừng mông lung trong ánh chiều tà.
                  Rõ ràng, chiếc trực thăng này không phải dành riêng cho cô, mấy người lính đi tới, dỡ những thùng hàng màu xanh lục kia khỏi khoang máy bay, lướt qua bên cạnh cô, không ai liếc nhìn lấy một lần.
                  Cô và Lôi Chí Thành, Dương Vệ Ninh tiếp tục đi về phía trước, Diệp Văn Khiết phát hiện đỉnh núi Radar hóa ra khá rộng rãi, bên dưới cột ăng ten là một quần thể kiến trúc màu trắng, so với cột ăng ten, những kiến trúc này chỉ như mấy khối đồ chơi xếp gỗ tinh xảo. Họ đang đi về phía cổng lớn của căn cứ có hai người lính đứng gác, trước khi đi vào, ba người dừng lại.
                  Lôi Chí Thành quay sang nhìn Diệp Văn Khiết, trịnh trọng nói: “Diệp Văn Khiết, chứng cứ tội phản cách mạng của cô đã xác thực, phiên xét xử mà cô sắp sửa phải đối mặt cũng là đúng người đúng tội. Bây giờ, trước mặt cô có một cơ hội để lập công chuộc tội, cô có thể chấp nhận, cũng có thể từ chối.” Anh ta chỉ tay lên cột ăng ten, “Đây là căn cứ nghiên cứu khoa học của Bộ Quốc phòng, dự án nghiên cứu đang thực hiện ở trong này cần đến tri thức chuyên ngành của cô, cụ thể hơn, sẽ phiền kỹ sư trưởng Dương giới thiệu cho cô biết, cô phải suy nghĩ cho cẩn trọng.” Dứt lời, anh ta gật đầu với Dương Vệ Ninh, rồi theo sau mấy binh lính vận chuyển vật tư đi vào căn cứ.
                  Dương Vệ Ninh đợi người khác đi xa rồi, mới ra hiệu cho Diệp Văn Khiết, dẫn cô đi xa thêm chút nữa, rõ ràng là sợ lính gác nghe thấy cuộc nói chuyện tiếp theo của họ. Lúc này, anh ta không che giấu việc mình quen biết cô nữa: “Diệp Văn
                  Khiết, tôi phải nói rõ với cô, đây không phải là cơ hội gì đâu. Tôi đã tìm hiểu bên Ủy ban quân sự của tòa án, tuy Trình Lệ Hoa chủ trương phán tội nặng, nhưng cụ thể với tình tiết của cô, thời hạn thụ hình nhiều lắm chỉ mười năm, xét đến khả năng giảm án, thì cũng chỉ chừng sáu bảy năm gì đó. Còn ở đây…” Anh ta nghiêng đầu về phía căn cứ, “là dự án nghiên cứu có cấp độ bí mật cao nhất, với thân phận của cô, đi vào cánh cửa này, có thể…” Anh ta ngừng lại giây lát, tựa như muốn để tiếng ù ù của cột ăng ten trong gió làm ngữ điệu mình nặng nề thêm, “cả đời cũng không ra được.”
                  “Tôi đi vào.” Diệp Văn Khiết khẽ nói.
                  Dương Vệ Ninh rất ngạc nhiên khi thấy cô trả lời nhanh như vậy. “Cô không cần phải quyết định vội vàng thế đâu, có thể quay trở lại máy bay trước, ba tiếng nữa nó mới cất cánh, nếu cô từ chối, tôi sẽ đưa cô về.”
                  “Tôi không về, chúng ta vào trong đi.” Giọng Diệp Văn Khiết vẫn rất khẽ khàng, nhưng bên trong lại ẩn chứa một sự kiên quyết như chém đinh chặt sắt. Lúc này đây, ngoại trừ cái thế giới khác sau khi chết mà không biết có tồn tại hay không kia, nơi cô muốn đi nhất chính là một đỉnh núi cách biệt hoàn toàn với thế giới như thế này, ở đây, cô có một cảm giác an toàn mà đã lâu lắm rồi chưa cảm nhận được.
                  “Vẫn nên cẩn trọng thì hơn, cô nghĩ kỹ xem điều này có nghĩa là gì.”
                  “Tôi có thể ở đây cả đời.”
                  Dương Vệ Ninh cúi đầu im lặng, anh ta nhìn về phía xa xa, tựa hồ muốn cho Diệp Văn Khiết một chút thời gian để cân nhắc suy nghĩ. Diệp Văn Khiết cũng làm thinh, quấn chặt chiếc áo khoác quân đội vào người giữa cơn gió, dõi mắt nhìn về phía xa, nơi đó, dãy núi Đại Hưng An đã biến mất trong màn đêm dày đặc. Trong thời tiết buốt giá không có quá nhiều thời gian, Dương Vệ Ninh hạ quyết tâm cất bước đi về phía cổng, anh ta đi rất nhanh, như thể muốn bỏ Diệp Văn
                  Khiết lại, nhưng Diệp Văn Khiết vẫn bám sát theo, bước vào cổng lớn của căn cứ địa Hồng Ngạn. Sau khi họ đi qua, hai người lính gác liền đóng hai cánh cửa sắt nặng nề đó lại.
                  Đi được một lúc, Dương Vệ Ninh đứng lại, chỉ vào cột ăng ten nói với Diệp Văn Khiết: “Đây là dự án nghiên cứu vũ khí hạng nặng, nếu thành công, ý nghĩa của nó không chừng còn lớn hơn cả bom nguyên tử và bom hydro ấy.”
                  Khi đi qua tòa kiến trúc lớn nhất trong khu căn cứ, Dương Vệ Ninh đi thẳng tới đẩy cửa mở ra, Diệp Văn Khiết trông thấy hàng chữ “Phòng điều khiển phát xạ chính” trên cánh cửa. Bước vào trong, một luồng khí nóng mang mùi dầu máy phả vào mặt, cô thấy trong gian đại sảnh rộng rãi kê kín các loại máy móc thiết bị, đèn tín hiệu và đường đồ thị trên máy dao động ký nhấp nháy liên tục, mười mấy người điều khiển đều mặc quân phục ngồi trước những dãy máy móc dường như có thể chôn vùi họ bên dưới, trông như đang canh gác dưới hào sâu. Khẩu lệnh điều khiển vang lên hết bên này rồi lại bên kia, toát lên sự căng thẳng và hỗn loạn. “Chỗ này khá ấm áp, cô đợi một lúc đã, tôi đi sắp xếp chỗ ở cho cô rồi quay lại.” Dương Vệ Ninh nói với Diệp Văn Khiết, rồi chỉ vào chiếc ghế bên cạnh cái bàn gần cửa bảo cô ngồi xuống. Diệp Văn Khiết trông thấy, trước bàn đã có một lính gác đeo súng ngắn đang ngồi.
                  “Tôi đợi bên ngoài thì hơn.” Diệp Văn Khiết dừng bước nói.
                  Dương Vệ Ninh cười hiền hòa, “Sau này cô là nhân viên của căn cứ rồi, ngoại trừ một số ít nơi, cô có thể đến bất cứ chỗ nào.” Dứt lời, gương mặt anh ta lộ vẻ bất an, rõ ràng đã ý thức được một tầng ý nghĩa khác của câu nói này: cô không thể rời khỏi nơi này được nữa.
                  “Tôi vẫn nên đợi bên ngoài thì hơn.” Diệp Văn Khiết kiên trì.
                  “Vậy… được rồi.” Dương Vệ Ninh liếc nhìn người lính gác không hề để ý đến bọn họ, tựa hồ đã hiểu được tâm trạng của Diệp Văn Khiết, anh ta dẫn cô rời khỏi phòng điều khiển chính, “Cô tới chỗ này tránh gió, tôi đi mấy phút rồi quay lại ngay, chủ yếu là kiếm người đốt lửa trong phòng cho cô, điều kiện của căn cứ hiện nay vẫn chưa được tốt lắm, không có lò sưởi khí nóng.” Dứt lời, anh ta liền rảo bước đi luôn.
                  Diệp Văn Khiết đứng bên cạnh cửa phòng điều khiển chính, cột ăng ten khổng lồ dựng đứng phía sau lưng cô, chiếm trọn nửa bầu trời đêm. Ở đây, cô có thể nghe rõ mồn một âm thanh bên trong vẳng ra. Đột nhiên, những khẩu lệnh điều khiển hỗn loạn biến mất, phòng điều khiển chính tĩnh lặng như tờ, chỉ loáng thoáng nghe thấy tiếng “vù vù” thi thoảng phát ra từ các máy móc thiết bị, kế đó xuất hiện một giọng nam át hết mọi âm thanh khác:
                  “Binh đoàn pháo binh số 2, Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, lần phát xạ thứ 147 của dự án Hồng Ngạn, xác nhận hoàn tất, đếm ngược 30 giây!”
                  “Loại mục tiêu: A3, ký hiệu tọa độ: BN20197F; hiệu chỉnh vị trí hoàn tất, đếm ngược 25 giây!”
                  “Số hồ sơ phát xạ: 22; đính kèm: 0; chuyển tiếp: 0; hoàn tất hiệu chỉnh hồ sơ lần cuối, đếm ngược 20 giây!”
                  “Bộ phận nguồn năng lượng báo cáo, bình thường!”
                  “Bộ phận mã hóa báo cáo, bình thường!”
                  “Bộ phận khuếch đại năng lượng báo cáo, bình thường!”
                  “Giám sát nhiễu báo cáo, trong phạm vi cho phép!”
                  “Trình tự không thể đảo ngược, đếm ngược 15 giây!”
                  Tất cả lại trở nên tĩnh lặng, mười mấy giây sau, cùng với một tiếng còi cảnh báo, một ngọn đèn đỏ trên cột ăng ten nhấp nháy cực nhanh.
                  “Khởi động phát xạ! Các bộ phận chú ý giám sát!”
                  Diệp Văn Khiết thấy mặt mình hơi ngưa ngứa, cô biết một điện trường khổng lồ đã xuất hiện. Cô ngẩng đầu lên nhìn về hướng chỉ của cột ăng ten, trông thấy một đám mây mỏng trên bầu trời đêm phát ra ánh sáng xanh nhạt, ánh sáng đó rất yếu, mới đầu cô còn tưởng đấy là ảo giác, nhưng khi đám mây rời khỏi khoảng trời đó, quầng sáng nhạt của nó cũng biến mất, một đám mây khác trôi vào lại phát sáng lên. Trong phòng điều khiển chính, khẩu lệnh lại vang lên liên tục, cô chỉ loáng thoáng nghe được vài câu trong số đó:
                  “Bộ phận khuếch đại năng lượng gặp sự cố, ống magnetron số 3 bị cháy!”
                  “Bộ phận dự trữ đưa vào hoạt động bình thường!”
                  “Điểm dừng 1, chuyển tiếp bình thường!”

                  Diệp Văn Khiết nghe thấy một loạt tiếng “xì xì xì” khác, rồi lờ mờ thấy từng đám từng đám bóng đen xuất hiện trong khu rừng rậm dưới chân núi, xoay tròn và bay lên giữa bầu trời đêm, thực không ngờ trong rừng rậm mùa đông giá rét thế này mà vẫn có nhiều chim bị kinh động bay lên như thế. Kế đó, cô chứng kiến một cảnh tượng khủng khiếp: một đàn chim bay vào khu vực cột ăng ten đang chỉ tới, trên nền đám mây phát ra ánh sáng mờ mờ, ngay lập tức, chúng rơi lả tả từ giữa không trung xuống.
                  Quá trình này kéo dài chừng mười lăm phút, đèn đỏ trên cột ăng ten đã tắt, cảm giác ngưa ngứa trên da Diệp Văn Khiết cũng không còn nữa, trong phòng điều khiển chính, những khẩu lệnh hỗn loạn vẫn vang lên, kể cả sau khi giọng nam mạnh mẽ kia cất lên, tiếng ồn cũng không lắng xuống.
                  “Công trình Hồng Ngạn, hoàn tất lần phát xạ thứ 147, tắt hệ thống phát xạ, Hồng Ngạn bước vào trạng thái giám thính, đề nghị bộ phận giám thính tiếp quản quyền điều khiển hệ thống, đồng thời tải lên số liệu tại điểm dừng.”
                  “Đề nghị các bộ phận nghiêm túc viết lại nhật ký phát xạ, các tổ trưởng đến phòng họp tham gia cuộc họp báo cáo phát xạ thường kỳ. Kết thúc!”
                  Tất cả đều tĩnh lặng, chỉ có tiếng ồn của cột ăng ten trong gió là vẫn y nguyên. Diệp Văn Khiết thấy lũ chim trên trời lần lượt trở về rừng rậm. Cô lại ngẩng đầu lên nhìn ăng ten, cảm thấy nó như thể một bàn tay khổng lồ đang hướng lên bầu không, sở hữu một sức mạnh siêu phàm. Cô ngước nhìn bầu trời nơi “bàn tay” ấy đang chụp vào, không thấy mục tiêu số hiệu BN20197F đã bị nó tấn công đâu, phía sau màn mây mỏng lưa thưa ấy, chỉ có bầu trời sao lạnh giá của năm 1969 mà thôi.

                  #9
                    huytran 30.07.2017 03:33:15 (permalink)
                    Chương 10 : Vũ trụ nhấp nháy phần 2  
                     
                    Sa Thụy Sơn kể với Uông Diểu, đầu những năm 90 của thế kỷ trước Diệp Văn Khiết mới quay lại thành phố này, giảng dạy môn Vật lý thiên văn tại ngôi trường đại học trước đây cha bà từng làm việc, cho tới khi bà nghỉ hưu.
                    “Gần đây tôi mới biết, hơn hai mươi năm đó, bà ấy đã sống trong căn cứ Hồng Ngạn.”
                    Uông Diểu chấn động trước lời kể của Sa Thụy Sơn, hồi lâu sau mới phản ứng được với câu nói cuối cùng của anh ta: “Lẽ nào những truyền thuyết ấy…”
                    “Hầu hết là thật. Năm ngoái, một nhà nghiên cứu chế tạo hệ thống tự giải mã cho Hồng Ngạn di cư đến châu Âu đã viết một cuốn sách, truyền thuyết mà anh nói đa phần đều từ cuốn sách ấy mà ra, theo những gì tôi biết thì là sự thật đấy. Những người tham gia vào công trình Hồng Ngạn hầu hết vẫn còn đang sống khỏe mạnh.”
                    “Nhưng đó thật là… truyền kỳ mà!” “Nhất là chuyện xảy ra vào thời đại
                    ấy, lại càng là truyền kỳ trong truyền kỳ.”

                    Đèn pha chiếu vào dàn ăng ten vô tuyến đã tắt, dưới bầu trời đêm, các cột ăng ten trở thành những đồ hình 2D màu đen đơn giản, tựa như một chuỗi ký hiệu trừu tượng, đồng loạt hướng lên vũ trụ theo cùng một góc nghiêng, như thể đang chờ đợi gì đó. Cảnh tượng này khiến Uông Diểu không rét mà run, anh nhớ đến những quả lắc khổng lồ trong trò chơi Tam Thể kia.
                    Họ trở lại phòng thí nghiệm vào đúng một giờ sáng, khi ánh mắt họ hướng về phía màn hình thiết bị đầu cuối, sóng dao động vừa mới xuất hiện, đường thẳng biến thành đường cong, xuất hiện những đỉnh sóng nhọn dán cách không đều nhau, màu sắc cũng chuyển sang đỏ, giống như một con rắn vừa ngủ đông tỉnh dậy bắt đầu ngọ nguậy để máu lan đều đi khắp cơ thể.
                    “Chắc chắn là vệ tinh COBE xảy ra sự cố!” Sa Thụy Sơn kinh hãi nhìn chằm chằm vào đồ thị ấy nói.
                    “Không phải sự cố.” Uông Diểu bình tĩnh đáp, trước những sự việc kiểu này, anh đã bắt đầu học được cách kiềm chế bản thân mình.
                    “Chúng ta sẽ biết ngay thôi!” Sa Thụy Sơn nói, nhanh chóng thao tác trên hai thiết bị đầu cuối khác. Thoáng sau, anh ta đã lấy ra số liệu thời gian thực của bức xạ nền vũ trụ do hai vệ tinh WMAP và Planck cung cấp, đồng thời hiển thị sự thay đổi của chúng dưới dạng đồ thị gấp khúc…
                    Ba đường đồ thị dao động cùng một nhịp, giống hệt nhau.
                    Sa Thụy Sơn lại lấy ra một chiếc máy tính xách tay, luống cuống khởi động hệ thống, cắm dây mạng vào, sau đó gọi điện - Uông Diểu nghe được anh ta đang liên lạc với Trung tâm quan trắc vô tuyến ở Ürümqi - rồi chờ đợi. Anh ta không giải thích gì với Uông Diểu, hai mắt nhìn chằm chằm vào cửa sổ trình duyệt trên màn hình, Uông Diểu có thể nghe thấy cả tiếng thở gấp gáp của Sa Thụy Sơn. Mấy phút sau, trên trình duyệt xuất hiện một cửa sổ tọa độ, một đường đồ thị màu đỏ xuất hiện trên đó, nhô lên hạ xuống đồng bộ với ba đường đồ thị còn lại.
                    Vậy là, ba vệ tinh và một thiết bị quan trắc mặt đất đã đồng thời chứng thực một điều: vũ trụ đang nhấp nháy!
                    “Có thể in đoạn đồ thị phía trước ra không?” Uông Diểu hỏi.
                    Sa Thụy Sơn quệt mồ hôi trên trán, gật gật đầu, di chuyển con trỏ chuột khởi động lệnh in. Uông Diểu hấp tấp giật lấy trang giấy đầu tiên được chiếc máy in laser nhả ra. Anh dùng một chiếc bút chì vạch qua đường gấp khúc, đối chiếu khoảng cách giữa những đỉnh sóng với tờ mã Morse mà anh vừa lấy ra lúc nãy.
                    Ngắn dài dài dài dài, ngắn dài dài dài dài, dài dài dài dài dài, dài dài dài ngắn ngắn, dài dài ngắn ngắn dài dài, ngắn ngắn dài dài dài, ngắn dài dài dài dài, dài dài ngắn ngắn dài dài, ngắn ngắn ngắn dài dài, dài dài ngắn ngắn ngắn, đây là 1108:21:37.
                    Ngắn dài dài dài dài, ngắn dài dài dài dài, dài dài dài dài dài, dài dài dài ngắn ngắn, dài dài ngắn ngắn dài dài, ngắn ngắn dài dài dài, ngắn dài dài dài dài, dài dài ngắn ngắn dài dài, ngắn ngắn ngắn dài dài, dài ngắn ngắn ngắn ngắn, đây là 1108:21:36.
                    Ngắn dài dài dài dài, ngắn dài dài dài dài, dài dài dài dài dài, dài dài dài ngắn ngắn, dài dài ngắn ngắn dài dài, ngắn ngắn dài dài dài, ngắn dài dài dài dài, dài dài ngắn ngắn dài dài, ngắn ngắn ngắn dài dài, ngắn ngắn ngắn ngắn ngắn, đây là 1108:21:35.

                    Bộ đếm giờ đang tiếp tục ở tầm vóc vũ trụ, vẫn còn lại 1108 giờ đồng hồ nữa?
                    Sa Thụy Sơn sốt ruột đi qua đi lại, chốc chốc lại dừng sau lưng Uông Diểu xem dãy số mà anh đang viết ra kia, “Anh không thể nói cho tôi biết hả?!” Anh ta không nhẫn nại được nữa, lớn tiếng hỏi.
                    “Tiến sĩ Sa, tin tôi đi, hiện thời không thể nói cho rõ được.” Uông Diểu đẩy chồng giấy in đường đồ thị dao động kia ra xa, nhìn chằm chằm vào những con số của bộ đếm giờ, “Có lẽ, ba vệ tinh và điểm quan trắc dưới mặt đất đều đã xảy ra sự cố.”
                    “Anh biết chuyện này là không thể mà!”
                    “Nếu có người cố ý phá hoại thì sao?”
                    “Cũng không thể nào! Cùng lúc thay đổi số liệu của ba vệ tinh và một trạm quan trắc dưới mặt đất? Vậy thì sự phá hoại này cũng hơi siêu nhiên rồi đấy.”
                    Uông Diểu gật đầu, so với việc cả vũ trụ đang nhấp nháy, anh thà rằng chấp nhận cái sự phi tự nhiên này còn hơn.
                    Nhưng Sa Thụy Sơn ngay lập tức đã giật đi cọng rơm cứu mạng duy nhất ấy của anh.
                    “Muốn chứng thực tất cả chuyện này thật ra rất đơn giản. Bức xạ nền vũ trụ mà dao động ở mức độ này thì đã lớn đến mức chúng ta có thể dùng mắt thường để quan sát rồi.”
                    “Anh nói nhảm gì vậy? Thế là sai thường thức rồi đấy: độ dài bước sóng của bức xạ nền là 7 cm, lớn hơn bảy tám cấp số so với ánh sáng có thể nhìn thấy bằng mắt thường, làm sao mà thấy được?”
                    “Dùng mắt kính 3K.”
                    “Mắt kính 3K?”
                    “Là một thứ thuộc dạng phổ cập khoa học mà chúng tôi làm cho Cung Thiên văn Thủ đô. Với kỹ thuật công nghệ hiện nay đã có thể thu nhỏ ăng ten loa độ mở 6 m mà Arno Penzias và Robert Wilson dùng để phát hiện bức xạ nền 3K từ hơn bốn mươi năm trước lại thành kích cỡ của một chiếc mắt kính, đồng thời lắp đặt hệ thống chuyển đổi trong mắt kính này, nén bước sóng của bức xạ nền mà nó thu nhận được lại bảy cấp số, biến bước sóng 7 cm thành ánh sáng đỏ. Như vậy, khách tham quan đeo loại kính này vào buổi tối có thể tận mắt trông thấy bức xạ nền 3K của vũ trụ. Lúc này, cũng có thể trông thấy vũ trụ đang nhấp nháy.”
                    “Thứ này đang ở đâu vậy?”
                    “Ở Cung Thiên văn, có hai mươi cái cơ.”
                    “Tôi cần phải có trước năm giờ sáng.”
                    Sa Thụy Sơn cầm điện thoại lên quay số, đầu dây bên kia một lúc lâu sau mới nhấc máy, anh ta phải tốn khá nhiều nước bọt mới thuyết phục được người bị đánh thức giữa đêm hôm kia một tiếng sau đợi Uông Diểu ở Cung Thiên văn.
                    Trước lúc từ biệt, Sa Thụy Sơn nói: “Tôi không đi với anh đâu, vừa nãy nhìn thế đã đủ rồi, tôi không cần chứng minh kiểu này. Có điều, tôi vẫn hy vọng anh có thể tiết lộ sự thực cho tôi vào thời điểm thích hợp, nếu hiện tượng này dẫn đến thành quả nghiên cứu nào đó, tôi sẽ không quên anh đâu.”
                    “Hiện tượng nhấp nháy này sẽ ngừng lại vào năm giờ sáng, sau này đừng tìm hiểu sâu thêm nữa, tin tôi đi, sẽ chẳng có thành quả gì đâu.” Uông Diểu vịn tay vào cửa xe nói.
                    Sa Thụy Sơn nhìn chằm chằm vào Uông Diểu một lúc lâu, gật gật đầu: “Hiểu rồi, hiện nay trong giới khoa học có xảy ra một số chuyện…”
                    “Đúng thế.” Uông Diểu nói, chui vào xe, anh không muốn tiếp tục chủ đề này nữa.
                    “Đến lượt chúng ta rồi hả?”
                    “Ít nhất là đến lượt tôi rồi.” Uông Diểu nói dứt lời, liền khởi động xe.
                    Một tiếng sau, Uông Diểu vào nội thành, anh xuống xe trước cổng Cung Thiên văn mới. Ánh đèn nửa đêm của thành phố chiếu qua bức tường trong suốt của tòa kiến trúc bằng kính khổng lồ, làm kết cấu bên trong hiện lên mờ mờ ảo ảo. Giờ Uông Diểu đã hiểu được, nếu kiến trúc sư xây dựng Cung Thiên văn mới này muốn biểu đạt cảm giác của mình về vũ trụ, người đó đã thành công… Thứ gì càng trong suốt thì càng thần bí, bản thân vũ trụ là trong suốt, chỉ cần tầm mắt có thể nhìn tới được, anh muốn nhìn bao xa thì cứ nhìn bấy xa, nhưng càng nhìn sẽ lại càng thấy thần bí.
                    Người nhân viên Cung Thiên văn vẫn còn đang ngái ngủ kia đã đợi Uông Diểu ở cổng, anh ta đưa cho Uông Diểu một cái hộp xách, “Trong này có năm bộ mắt kính 3K, đều đã sạc đầy pin, núm vặn bên trái là công tắc bật, bên phải là điều tiết độ sáng. Bên trên còn mười mấy bộ nữa, anh muốn xem kiểu gì thì xem, tôi lên ngủ trước đây, ở ngay cái phòng cạnh cửa kia kìa. Cái ông tiến sĩ Sa này đúng là đồ thần kinh.” Nói xong, anh ta liền xoay người đi thẳng vào tòa nhà tối om.
                    Uông Diểu đặt chiếc hộp lên ghế xe, mở nó ra, cầm lên một cặp kính 3K, thứ này rất giống với kính hiển thị panorama trong bộ thiết bị V mà anh vừa sử dụng. Anh lấy một cặp bước ra ngoài xe đeo lên, qua mắt kính, anh thấy cảnh đêm thành thị không có gì thay đổi, chỉ hơi tối đi một chút, lúc này anh mới nhớ ra phải bật công tắc, lập tức, thành phố hóa thành từng mảng mông lung, hầu hết đều có độ sáng cố định, một số nhấp nháy hoặc di động. Anh biết, đây đều là vi sóng có bước sóng tầm xăngtimét được chuyển hóa thành ánh sáng nhìn thấy được, ở giữa mỗi đốm sáng đều là một nguồn phát xạ, do độ dài bước sóng nên không thể nào nhìn rõ hình dạng của chúng.
                    Anh ngẩng đầu lên, trông thấy một bầu trời đang phát ra ánh sáng màu đỏ sậm, cứ thế, anh đã thấy được bức xạ nền vũ trụ, ánh sáng đỏ này đến từ hơn chục tỷ năm về trước, là sự kéo dài của vụ nổ lớn, là hơi nóng còn sót lại của sự sáng thế. Anh không thấy ngôi sao nào; vốn dĩ, vì dải sóng ánh sáng có thể nhìn thấy được đã bị đẩy về mức không thể nhìn thấy, các ngôi sao lẽ ra là những chấm đen, nhưng sự nhiễu xạ của bước sóng tầm xăngtimét đã che phủ hết mọi hình dạng và chi tiết.
                    Khi mắt Uông Diểu thích ứng với những thứ này, anh thấy nền ánh sáng đỏ trên bầu không đang khe khẽ nhấp nháy, cả vũ trụ biến thành một chỉnh thể, đang nhấp nháy đồng bộ với nhau, cảm tưởng như cả vũ trụ này chỉ là một ngọn đèn lẻ loi trong cơn gió vậy.
                    Đứng dưới bầu trời nhấp nháy ấy, Uông Diểu đột nhiên cảm thấy vũ trụ sao mà nhỏ bé, nhỏ đến mức chỉ giam cầm mỗi một mình anh bên trong nó. Vũ trụ giống như một quả tim hay một tử cung chật hẹp, ánh sáng đỏ bao phủ này chính là những dòng máu trong mờ tràn đầy bên trong, anh đang trôi nổi trong dòng máu ấy, chu kỳ nhấp nháy của ánh sáng đỏ này không theo quy tắc nào, giống như quả tim hoặc tử cung này đang co bóp một cách bất quy tắc vậy, từ trong nhịp độ ấy, anh có thể cảm nhận được sự tồn tại của thứ gì đó to lớn, quái dị và biến thái mà trí tuệ của nhân loại vĩnh viễn không thể nào lý giải nổi.
                    Uông Diểu gỡ cặp mắt kính 3K xuống, mệt mỏi dựa vào bánh xe ngồi thụp xuống nền đất. Trong mắt anh, thành phố lúc nửa đêm đã trở lại hình ảnh hiện thực mà dải bước sóng trong khoảng mắt thường nhìn thấy thể hiện, nhưng khi ánh mắt anh di chuyển, anh lại bắt được một số thứ khác nữa: dãy đèn nê ông bên cạnh cổng vườn thú phía đối diện có một chiếc đèn hỏng, đang nhấp nháy không theo quy tắc nào cả; lá cây trên cây nhỏ gần đấy đang đung đưa trong làn gió đêm, phản xạ ánh đèn đường, nhấp nháy lên một cách bất quy tắc; đằng xa, ngôi sao năm cánh trên đỉnh chóp nhọn nóc nhà kiểu Nga của nhà triển lãm Bắc Kinh cũng đang phản xạ ánh đèn xe trên những con phố khác nhau bên dưới, nhấp nháy không theo quy tắc gì…
                    Uông Diểu cố gắng dựa theo mã Morse diễn dịch những nhấp nháy ấy. Anh thậm chí còn có cảm giác, những nếp nhăn của mấy lá cờ nhiều màu đang tung bay trong gió bên cạnh, những gợn sóng lăn tăn trên bề mặt vũng nước ven đường… đều đang gửi mã Morse cho anh… Anh cố gắng giải mã chúng, cảm nhận bộ đếm giờ ma quái kia đang trôi ngược.
                    Chẳng rõ bao lâu trôi qua, tay nhân viên của Cung Thiên văn lại đi ra, hỏi Uông Diểu đã xem xong chưa. Lúc nhìn thấy bộ dạng Uông Diểu, cơn buồn ngủ trong mắt người kia vụt tan biến. Nhận lại chiếc hộp đựng mắt kính 3K xong, anh ta lại nhìn chằm chằm vào Uông Diểu mấy giây, rồi mới xách hộp rảo bước quay trở vào.
                    Uông Diểu lấy điện thoại di động, bấm số của Thân Ngọc Phi, cô ta bắt máy rất nhanh, có lẽ cũng đã trải qua một đêm không ngủ.
                    “Kết thúc bộ đếm giờ là gì?” Uông Diểu yếu ớt hỏi.
                    “Không biết.” Cô ta vừa nói dứt hai chữ ngắn ngủn ấy, điện thoại đã tắt.
                    Là gì? Có lẽ là cái chết của chính anh, giống như Dương Đông vậy; có lẽ là một trận đại thảm họa giống như cơn sóng thần ở Ấn Độ Dương mấy năm trước, sẽ chẳng có ai liên tưởng chuyện này với dự án nghiên cứu vật liệu nano của anh cả (từ đây liên tưởng, mỗi trận đại thảm họa trong quá khứ, tính cả hai lần Đại chiến thế giới, phải chăng đều là những lần bộ đếm giờ ma quái này kết thúc? Lần nào cũng đều có một người phải chịu trách nhiệm cuối cùng mà không ai có thể ngờ đến được, giống như anh vậy?). Có lẽ thế giới sẽ bị diệt vong hoàn toàn, trong cái vũ trụ biến thái này, đó cũng là một sự giải thoát với mọi người… Song có một điều chắc chắn là cho dù tận cùng của bộ đếm giờ ma quái này là cái gì, thì trong hơn một nghìn tiếng đồng hồ còn lại, suy đoán về điều sẽ xảy ra khi nó kết thúc sẽ như ác quỷ giày vò anh một cách tàn khốc, cuối cùng sẽ triệt để hủy hoại tinh thần anh.
                    Uông Diểu chui vào trong ô tô, rời khỏi Cung Thiên văn, lái xe vô định trong thành phố. Trước bình minh, đường rất vắng, nhưng anh không dám chạy nhanh, tưởng chừng như nếu xe chạy nhanh, bộ đếm giờ cũng sẽ chạy nhanh theo. Khi một tia nắng mai ló rạng đằng Đông, anh dừng xe lại ven đường, bước xuống đi bộ, cũng vẫn lang thang vô định. Ý thức anh hoàn toàn trống rỗng, chỉ có bộ đếm giờ kia hiển hiện lên trên bức xạ nền vũ trụ màu đỏ sậm, nhảy từng giây, còn bản thân anh dường như đã biến thành một bộ đếm giờ ngược, một chiếc chuông tang không biết đang ngân lên vì ai. Trời đã sáng, Uông Diểu cũng thấm mệt, bèn ngồi xuống một chiếc ghế băng, khi ngẩng đầu lên nhìn điểm đến mà mình đi tới trong vô thức, anh bất giác rùng mình.
                    Anh đang ngồi trước nhà thờ Thiên Chúa ở đường Vương Phủ Tỉnh. Dưới bầu trời nhợt nhạt của buổi sớm mai, mái nhọn kiểu La Mã của nhà thờ trông như ba ngón tay khổng lồ màu đen đang chỉ cho anh thứ gì đó ở chốn vũ trụ mênh mang kia.
                    Uông Diểu đứng dậy toan bỏ đi, song tiếng nhạc thánh trong nhà thờ vẳng ra đã níu chân anh lại. Hôm nay không phải ngày lễ, đây có lẽ là dàn thánh ca đang tập luyện cho lễ Phục sinh, họ hát bài Nguyện Thánh Linh Chiếu Ánh Chân Quang trong lễ Misa vào ngày này. Trong sự sâu sắc trang nghiêm của tiếng nhạc thánh, Uông Diểu lại một lần nữa cảm thấy vũ trụ trở nên nhỏ bé, biến thành một giáo đường trống trải, vòm trần bị che khuất trong ánh sáng đỏ nhấp nháy của bức xạ nền, còn anh chỉ là một con kiến nhỏ xíu trong khe gạch trên sàn của nhà thờ tráng lệ ấy. Anh có cảm giác linh hồn đang run rẩy của mình được một bàn tay vô hình khổng lồ ve vuốt, trong khoảnh khắc lại quay trở về thuở ấu thơ yếu đuối mong manh, thứ đang chống chọi ở nơi sâu thẳm ý thức bỗng mềm ra như sáp nến, rồi sụp đổ. Anh đưa hai tay bưng mặt, khóc òa lên.
                    “Ha ha ha, thêm một người nữa gục rồi!”
                    Tiếng khóc của Uông Diểu bị tràng cười phía sau cắt ngang, anh ngoảnh đầu lại nhìn, thấy Sử Cường đang đứng đó, miệng phả ra khói trắng.

                    #10
                      huytran 30.07.2017 04:13:47 (permalink)
                      Chương 11 : Sử Cường  
                       
                      Sử Cường ngồi xuống bên cạnh Uông Diểu, đưa chùm chìa khóa xe cho anh, “Tùy tiện đậu xe ở ngã tư Đông Đơn, tôi mà đến chậm một bước là cảnh sát giao thông kéo đi rồi đấy.”
                      Sử Cường à, nếu biết anh luôn bám theo tôi, ít nhất tôi cũng thấy an ủi phần nào. Uông Diểu thầm nhủ, nhưng lòng tự tôn khiến anh không nói những lời đó ra miệng. Anh nhận lấy điếu thuốc Sử Cường đưa cho, châm lên, hút hơi thuốc lá đầu tiên sau mấy năm cai thuốc.
                      “Sao vậy chú em, không chịu nổi nữa à? Tôi đã bảo chú không được rồi mà, lại cứ thích cứng đầu cứng cổ.”
                      “Anh không hiểu được đâu.” Uông Diểu rít mạnh mấy hơi thuốc.
                      “Tôi quá hiểu là khác… Được rồi, đi ăn đi.”
                      “Tôi không muốn ăn.”
                      “Thế thì đi uống rượu, tôi mời.”
                      Uông Diểu bèn lên xe của Sử Cường, đi tới một nhà hàng nhỏ gần đó, trời vẫn sớm, trong nhà hàng không có ai cả.
                      “Hai cân(*) lòng bò, hai chai Nhị oa đầu!” Sử Cường lớn giọng gọi, chẳng buồn ngẩng đầu lên, rõ ràng là khách quen ở đây.
                      (*) Cân Trung Quốc bằng 0,5 kg.
                      Nhìn thứ đen đúa trên hai cái đĩa to tướng được bưng ra, dạ dày trống rỗng của Uông Diểu quặn lên, suýt chút nữa là nôn ọe. Sử Cường lại gọi cho anh bánh quẩy và sữa đậu nành, Uông Diểu cố ép mình ăn một chút, sau đó cùng Sử Cường uống hết chén này đến chén khác. Anh có cảm giác người mình nhẹ bẫng, bắt đầu nhiều lời hơn, kể hết toàn bộ những việc xảy ra trong ba ngày nay cho Sử Cường nghe, tuy rằng anh cũng biết có thể Sử Cường đã biết hết rồi, thậm chí còn biết nhiều hơn cả anh nữa.
                      “Ý anh là, vũ trụ nháy mắt với anh ấy hả?” Sử Cường xúc lòng bò ăn như kiểu ăn mì, ngẩng đầu lên hỏi.
                      “Cách ví von này rất xác đáng đấy.” “Vớ vẩn.”
                      “Nguồn gốc sự không biết sợ của anh là bởi anh vô tri.”
                      “Lại nhảm nhí, nào, cạn ly!”
                      Uông Diểu uống cạn chén đó xong, cảm thấy cả thế giới đang quay cuồng cả lên, chỉ có Sử Cường đang ngồi đối diện với mình ăn lòng bò là đứng yên, anh nói: “Đại Sử à, anh… anh đã bao giờ nghĩ đến một số vấn đề triết học cao nhất chưa? Ừm, ví dụ như là, con người từ đâu đến, rồi sẽ đi đâu; vũ trụ từ đâu đến, rồi sẽ đi đâu…” “Không hề.” “Chưa bao giờ?” “Chưa bao giờ.”
                      “Anh cũng nhìn bầu trời sao rồi chứ, chẳng lẽ không hề nảy sinh chút cảm giác kính sợ và tò mò nào?”
                      “Buổi đêm tôi chẳng bao giờ nhìn trời cả.”
                      “Sao lại thế được? Các anh thường phải trực ca đêm cơ mà?”
                      “Chú em à, nếu tôi đang cắm điểm ca đêm mà ngẩng đầu nhìn trời, lỡ đối tượng phải giám sát trốn đi mất thì tính sao?”
                      “Chúng ta đúng là chẳng có chuyện gì để nói cả, cạn ly!”
                      “Thực ra ấy, tôi có nhìn sao trên trời cũng chẳng đi nghĩ mấy vấn đề triết học tận cùng gì đó của chú đâu, tôi có nhiều chuyện cần lo lắng lắm, thuê nhà này, con cái phải đi học đại học này, đấy là chưa kể mấy vụ án không đầu không đuôi kia nữa… Tôi là loại thẳng ruột ngựa nhìn một cái là thấu từ trong ra ngoài luôn, đương nhiên không được lòng lãnh đạo, sau khi xuất ngũ lăn lộn bao nhiêu năm vẫn chỉ là loại lính quèn, nếu không phải làm được việc thì đã bị người ta đá đi từ lâu rồi… Bấy nhiêu đấy vẫn chưa đủ cho tôi nghĩ hay sao, còn tâm trạng nào mà ngắm sao nghĩ về triết học nữa chứ?”
                      “Nói vậy cũng phải, nào, cạn ly!” “Nhưng mà, tôi cũng đã phát minh ra
                      một định lý đấy.”
                      “Nói thử xem nào.”
                      “Cái gì bất bình thường ắt có ma quỷ.”
                      “Đây là… định lý chó chết gì vậy!” “Tôi nói ‘có ma’, không phải là có ma
                      thật, mà là có người đang giở trò quỷ.”
                      “Nếu có chút thường thức khoa học tối thiểu, anh sẽ không thể tưởng tượng nổi sức mạnh nào mới có thể làm được hai điều này đâu, đặc biệt là điều thứ hai, trên cấp độ cả vũ trụ đấy, chẳng những không thể giải thích bằng khoa học hiện có của nhân loại, mà thậm chí là cả bên ngoài khoa học đi nữa, tôi cũng không thể tưởng tượng nổi. Chuyện này không phải là hiện tượng siêu nhiên, tôi không biết nó là siêu cái gì nữa…”
                      “Vẫn là câu nói ấy: nhảm nhí! Chuyện bất thường tôi đây gặp nhiều lắm rồi.”
                      “Vậy anh cho tôi một gợi ý đi, bước tiếp theo tôi nên làm thế nào?”
                      “Uống tiếp, uống xong về đi ngủ.” “Được lắm.”
                      Uông Diểu không biết mình đã trở về xe thế nào, anh nằm trên ghế sau chìm vào một giấc ngủ say không mộng mị, cảm giác thời gian không lâu, nhưng lúc mở mắt ra, Mặt trời đã sắp lặn về phía Tây thành phố rồi. Anh ra khỏi xe, tuy rằng cuộc rượu lúc sáng khiến cả người anh mềm nhũn, nhưng cảm giác đỡ hơn nhiều. Anh nhận ra mình đang ở một góc Tử Cấm thành, ánh hoàng hôn chiếu lên hoàng cung cổ kính, dát vàng lên hào nước bao bọc xung quanh thành, trong mắt anh, thế giới đã khôi phục lại nét cổ điển và ổn định vốn có. Uông Diểu cứ thế hưởng thụ sự bình lặng đã lâu rồi không được cảm nhận ấy cho tới khi trời tối hẳn, chiếc Santana màu đen quen thuộc kia lách ra khỏi làn xe trên phố, đi thẳng tới chỗ anh rồi phanh kít lại, Sử Cường bước xuống.
                      “Ngủ ngon chứ hả?” Sử Cường hỏi oang oang.
                      “Ừ, bước tiếp theo phải tính sao bây giờ?”
                      “Ai, anh hả? Đi ăn tối, rồi uống thêm chút nữa, uống xong rồi ngủ.”
                      “Sau đó thì sao?”
                      “Sau đó? Ngày mai anh cũng phải đi làm chứ.”
                      “Bộ đếm giờ đã nhảy xuống… 1091 tiếng rồi.”
                      “Mặc cha cái bộ đếm giờ ấy, việc trước tiên anh cần làm bây giờ là đảm bảo mình đứng vững, sau đó mới có thể nói chuyện khác được.”
                      “Đại Sử, anh không thể nói cho tôi một chút sự thật sao? Coi như tôi xin anh vậy.”
                      Sử Cường trừng mắt lên nhìn Uông Diểu một lúc, sau đó ngửa mặt cười ha hả, “Câu này tôi cũng nói với Thường Vĩ Tư mấy lần rồi, chúng ta đúng là huynh đệ cùng chung hoạn nạn mà. Nói thực nhé, tôi chẳng biết cái mẹ gì đâu, cấp bậc thấp, bọn họ không nói cho tôi biết, có lúc cứ như là đang ở trong một cơn ác mộng vậy.”
                      “Nhưng dẫu sao anh cũng biết nhiều hơn tôi.”
                      “Được rồi, giờ tôi sẽ nói cho anh hết những thứ nhiều hơn ấy.” Sử Cường chỉ tay vào bờ hào nước quanh thành, hai người tìm một chỗ thích hợp ở đó ngồi xuống. Trời đã tối, sau lưng họ là dòng chảy đèn pha của xe cộ, hai người nhìn thấy bóng mình trên mặt nước đang biến ảo lúc dài lúc ngắn.
                      “Làm cái nghề này của chúng tôi, thực ra chính là chắp nối những sự việc tưởng chừng như chẳng liên can gì đến nhau lại, chắp đúng rồi, chân tướng sẽ lộ ra. Dạo trước, đã xảy ra rất nhiều chuyện, tội phạm nhắm vào các cơ quan nghiên cứu khoa học và giới học thuật tăng cao đột ngột, đây là chuyện xưa nay chưa từng có. Tất nhiên, anh đã biết vụ nổ ở công trình máy gia tốc hạt bên Lương Tương kia rồi, còn cả vụ án vị học giả được giải Nobel bị giết đó nữa… Động cơ phạm tội đều rất kỳ quái, không phải vì tiền, không phải vì trả thù, cũng không có bối cảnh chính trị gì hết, đơn thuần chỉ là phá hoại. Còn một số việc khác không phải hành vi phạm tội nữa, như là Biên giới Khoa học và các học giả tự sát, vân vân. Hoạt động của các nhóm bảo vệ môi trường gần đây cũng sôi nổi một cách quá đáng, lúc thì tụ tập ở công trường ngăn không cho thi công đập thủy điện hoặc trạm điện hạt nhân, lúc thì lại tổ chức xã hội thể nghiệm trở về với tự nhiên của nợ gì đó… Còn cả một số việc trông thì có vẻ vặt vãnh… Gần đây anh có xem phim không?”
                      “Về cơ bản là không.”
                      “Mấy bộ phim lớn gần đây đều nhà quê vãi cả ra, toàn là cảnh non xanh nước biếc, trai đẹp gái xinh chẳng hiểu đời nào ở đó sống rất hạnh phúc, nam làm ruộng, nữ dệt vải, nói theo lời đạo diễn thì là thể hiện cuộc sống tốt đẹp trước khi bị khoa học kỹ thuật hiếp dâm. Thí dụ như cái phim ‘Đào hoa nguyên’ ấy, rõ ràng là sản xuất ra chẳng có ma nào xem, nhưng lại có người nhất quyết bỏ mấy trăm triệu vào đấy. Còn cả một cuộc thi tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nữa, giải cao nhất là năm triệu, người nào viết về tương lai kinh tởm nhất thì sẽ đoạt giải thưởng, sau đó lại quẳng ra thêm mấy trăm triệu để cải biên tiểu thuyết ấy thành phim điện ảnh… Đủ các loại tà giáo kỳ quái cũng mọc lên như nấm, giáo chủ nào cũng tiền bạc thênh thang…”
                      “Những chuyện này thì có liên can gì đến những gì anh nói trước đó?”
                      “Phải kết nối chúng lại với nhau, tất nhiên hồi trước tôi chẳng hơi đâu mà lo nghĩ mấy chuyện này, nhưng từ khi được điều từ tổ trọng án đến trung tâm tác chiến, đây lại là việc thuộc chức phận của tôi rồi. Tôi có thể kết nối chúng với nhau, đây là thiên bẩm, ngay cả Thường Vĩ Tư cũng không thể không phục.”
                      “Kết luận rút ra là gì?”
                      “Tất cả mọi chuyện, đều có và chỉ có một kẻ đứng sau giật dây, hắn muốn đánh sập hoàn toàn mọi nghiên cứu khoa học.”
                      “Ai?”
                      “Không biết, thật sự tôi không biết, nhưng có thể cảm giác được kế hoạch của hắn rất to lớn, rất toàn diện: phá hoại thiết bị nghiên cứu khoa học, sát hại nhà khoa học; hoặc khiến họ tự sát, khiến họ phát điên… Nhưng chủ yếu vẫn là khiến các anh suy nghĩ lệch lạc, như vậy thì các anh sẽ biến thành ngu xuẩn hơn cả người bình thường.”
                      “Câu cuối cùng của anh rất chính xác.”
                      “Đồng thời, còn bêu xấu khoa học trong xã hội, tất nhiên hồi trước cũng có người luôn làm như vậy, nhưng lần này thì tuyệt đối là có tổ chức.”
                      “Tôi tin anh.”
                      “Hừ, đấy là bây giờ thế thôi. Chuyện mà đám tinh hoa trong giới khoa học như các anh còn không nhìn ra, không ngờ lại bị một kẻ thô lỗ chỉ tốt nghiệp trường trung cấp như tôi nhìn ra được? Sau khi tôi nói ra chuyện này, đã bị lãnh đạo và đám học giả cười cho thối mũi một phen đấy.”
                      “Kể cả lúc đó anh nói những chuyện này với tôi, tôi chắc chắn cũng không cười nhạo anh. Anh biết một số vụ việc ngụy khoa học không, có biết những kẻ làm trò ngụy khoa học ấy sợ nhất là gì không?”
                      “Nhà khoa học chứ còn gì.”
                      “Sai rồi, trên thế giới có rất nhiều học giả hàng đầu đã bị bọn lừa đảo dùng ngụy khoa học gạt cho chóng mày chóng mặt, cuối cùng lại còn đi giong trống phất cờ cho chúng nữa. Nhưng bọn ngụy khoa học lại sợ nhất một loại người khác, bọn họ rất khó gạt: chính là nhà ảo thuật. Sự thực là, hầu hết các vụ lừa đảo bằng ngụy khoa học đều bị các nhà ảo thuật bóc trần. So với đám mọt sách trong giới khoa học, người có kinh nghiệm xã hội và nhiều năm làm cảnh sát như anh rõ ràng có năng lực phát giác ra hành vi phạm tội quy mô lớn hơn họ nhiều chứ.”
                      “Thực ra, cũng vẫn có người thông minh hơn tôi đấy, chuyện này đã được cấp trên phát giác ra từ lâu rồi. Lúc đầu tôi bị cười nhạo là vì không tìm đúng nơi đúng chỗ, cuối cùng liền được Đại đội trưởng cũ triệu tập về đây, có điều cũng chỉ là làm chân chạy việc thôi… Được rồi, đó chính là một chút những gì tôi biết nhiều hơn anh đấy.”
                      “Có một câu hỏi: chuyện này thì có quan hệ gì với bên quân đội?”
                      “Tôi cũng thắc mắc, hỏi bọn họ, họ liền nói chiến tranh đã nổ ra rồi, chiến tranh thì tất nhiên là việc của quân đội rồi còn gì. Tôi cũng giống anh thôi, thoạt tiên tưởng là họ đang nói mê. Nhưng họ không đùa chút nào đâu, bây giờ bộ đội đúng là đã ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Toàn cầu có hơn hai mươi cái trung tâm tác chiến như ở chỗ chúng ta, bên trên còn một cấp nữa, nhưng không ai biết đó là cái gì.”
                      “Kẻ địch là ai?”
                      “Không biết. Sĩ quan NATO đã vào phòng tác chiến của Bộ Tổng tham mưu bên ta rồi, trong Lầu Năm Góc cũng có cả một mớ tướng tá Trung Quốc, bố ai mà biết được kẻ địch là ai chứ?”
                      “Thế này thì cũng ly kỳ quá rồi, những gì anh nói đều là sự thật chứ?”
                      “Mấy tay chiến hữu cũ của tôi thời trong bộ đội giờ đều lên tướng cả rồi, thế nên cũng biết một ít.”
                      “Chuyện lớn như vậy mà báo đài truyền thông lại không có tí phản ứng nào à?”
                      “Đây lại là một hiện tượng kỳ lạ nữa: tất cả các quốc gia đều đồng thời bảo mật, vả lại còn làm cực kỳ khắt khe. Giờ tôi có thể khẳng định một điều: kẻ địch rất ghê gớm, cấp trên họ hoảng rồi! Tôi quá quen với Thường Vĩ Tư, từ chỗ ông ta có thể nhìn ra được, ông ta là loại người trời sập xuống cũng không sợ, nhưng giờ có lẽ không chỉ có trời sập xuống thôi đâu. Bọn họ bị dọa cho run lên rồi, căn bản là không có lòng tin để chiến thắng kẻ địch ấy.”
                      “Nếu mà như vậy thì đáng sợ quá rồi.”
                      “Có điều, ai mà chẳng có thứ họ sợ, kẻ địch ghê gớm kia cũng thế; càng lợi hại thì thứ mà nó sợ lại càng trí mạng đối với nó.”
                      “Thế nó sợ cái gì?”
                      “Sợ các anh, sợ các nhà khoa học. Vả lại, lạ một điều là, những thứ các anh nghiên cứu càng không có tác dụng thực tế, càng vơ vẩn không đâu vào đâu kiểu như Dương Đông ấy, thì nó lại càng sợ, còn sợ hơn cả anh sợ vũ trụ nháy mắt ấy, thế nên nó mới hành động dữ dội như thế. Nếu giết các anh mà có tác dụng, nó đã giết sạch các anh từ lâu rồi, nhưng biện pháp hữu hiệu nhất vẫn là quấy nhiễu tư tưởng của các anh, người chết rồi thì còn có người khác, nhưng tư tưởng mà nhiễu loạn thì khoa học coi như tiêu đời.”
                      “Ý anh là nó sợ khoa học cơ bản?” “Ừ, khoa học cơ bản.”
                      “Nghiên cứu của tôi và Dương Đông khác biệt rất lớn, vật liệu nano không phải là khoa học cơ bản, mà chỉ là một vật liệu có cường độ cao, có thể uy hiếp được cái sức mạnh thần bí kia sao?”
                      “Anh thì đúng là ngoại lệ, hiện tại, nó vẫn chưa quấy nhiễu đến loại nghiên cứu ứng dụng như anh, có lẽ trong thứ vật liệu ấy của anh có thứ gì đó khiến nó sợ hãi.”
                      “Vậy tôi nên làm gì bây giờ?”
                      “Đi làm, tiếp tục nghiên cứu, đây chính là đòn đả kích lớn nhất với nó, mặc cha cái bộ đếm giờ gì đấy kia. Nếu hết giờ làm mà muốn thư giãn, cũng có thể chơi thử cái trò chơi đó, phá đảo được nó là tốt nhất.”
                      “Trò chơi? Tam Thể? Chẳng lẽ nó liên quan gì đến chuyện này?”
                      “Có liên quan đấy, tôi thấy trong trung tâm tác chiến có mấy chuyên gia cũng chơi trò này, không phải trò chơi bình thường đâu, người không biết gì như tôi không chơi nổi, phải là hạng có tri thức như anh mới được.”
                      “Ừm, không còn gì khác nữa à?”
                      “Hết rồi, khi nào có gì tôi sẽ báo cho anh biết, điện thoại di động phải luôn luôn bật. Anh bạn à, phải đứng cho vững nhé! Lúc nào sợ hãi thì hãy nghĩ đến định lý kia của tôi.”
                      Uông Diểu còn chưa kịp nói tiếng cảm ơn, Sử Cường đã lên xe đi mất.

                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 04:25:42 bởi huytran >
                      #11
                        huytran 30.07.2017 04:27:03 (permalink)
                        Chương 12 : Tam Thể: Mặc Tử, Lửa nóng  
                         
                        Uông Diểu trở về nhà, trước đó không quên qua cửa hàng đạo cụ chơi game mua một bộ thiết bị V. Vợ anh nói, người ở cơ quan đã tìm anh suốt cả ngày. Uông Diểu bật chiếc điện thoại đã tắt máy cả ngày lên, trả lời mấy cuộc gọi từ Trung tâm nghiên cứu nano, hứa hẹn ngày mai sẽ đi làm. Lúc ăn cơm, anh nghe theo lời khuyên của Sử Cường, uống khá nhiều rượu, nhưng không thấy buồn ngủ chút nào. Khi vợ đã ngủ say, anh ngồi trước máy tính đeo bộ thiết bị V vừa mới mua lên người, một lần nữa đăng nhập vào trò chơi Tam Thể.
                        Đồng hoang buổi bình minh, Uông Diểu đứng trước tòa kim tự tháp của Trụ Vương, lớp tuyết che phủ nó giờ đã biến mất, bề mặt những khối đá lớn xây kim tự tháp đã bị phong hóa rỗ chằng rỗ chịt, mặt đất đã đổi thành một màu sắc khác. Xa xa, có mấy tòa kiến trúc lớn, Uông Diểu đoán đó đều là kho chứa, nhưng hình dạng của chúng đã khác hoàn toàn so với lần trước, mọi thứ đều chứng tỏ rất nhiều năm tháng đã trôi qua.
                        Nhờ ánh ban mai nơi chân trời, Uông Diểu tìm đến lối vào kim tự tháp. Ở đó, anh thấy lối vào đã bị những khối đá lớn bít kín, nhưng đồng thời cũng thấy ở bên cạnh mới xây một cầu thang đá áp sát vào một mặt tường, vươn dài thông thẳng lên đỉnh kim tự tháp. Anh ngước nhìn đỉnh tháp cao vút, nhận ra đỉnh tháp nhọn chọc thẳng lên bầu trời trước đây đã bị đẽo bằng, trở thành một bình đài, kim tự tháp này đã từ kiểu Ai Cập chuyển thành kiểu Aztec.
                        Men theo bậc cầu thang đá, Uông Diểu lên đến đỉnh kim tự tháp, ở đây anh thấy một nơi tương tự như đài quan sát tinh tượng cổ đại. Ở một góc bình đài, có một kính viễn vọng thiên văn cao tới mấy mét, bên cạnh còn mấy cái nhỏ hơn. Một mé khác là những máy móc hình dạng kỳ quái, rất giống với cái hỗn thiên nghi(*) của Trung Quốc thời xưa. Đáng chú ý nhất là một khối cầu bằng đồng lớn ở chính giữa bình đài, có đường kính khoảng chừng hai mét, đặt trên một cỗ máy phức tạp, được nâng lên bằng rất nhiều bánh răng lớn nhỏ khác nhau, quả cầu đang chầm chậm chuyển động. Uông Diểu chú ý thấy, phương hướng và tốc độ chuyển động của nó không ngừng thay đổi. Phần dưới cỗ máy có một hốc vuông, nhờ ánh lửa mập mờ trong đó, Uông Diểu trông thấy có mấy người trông như nô lệ đang xoay chuyển một bánh xe, cung cấp động lực cho cỗ máy bên trên.
                        (*) Hỗn thiên nghi: dụng cụ gồm các vòng đồng tự xoay tròn bằng sức nước, thể hiện vị trí tương đối của các thiên thể, tựa như một mô hình vũ trụ của người Trung Quốc cổ.
                        Một người đi về phía Uông Diểu, giống lần đầu gặp gỡ Chu Văn Vương, người này cũng xoay lưng về phía ánh nắng sớm nơi đường chân trời, chỉ thấy được một đôi mắt sáng hiện lên trong bóng tối. Ông ta có vóc người cao gầy, mặc áo dài đen thùng thình, mái tóc dài búi qua loa trên đỉnh đầu, phần còn lại thì thả xõa trong gió.
                        “Xin chào, tôi là Mặc Tử.” Ông ta tự giới thiệu.
                        “Tôi là Hải Nhân, xin chào.”
                        “À, tôi biết anh!” Mặc Tử hưng phấn nói, “Trong nền văn minh số 137, anh đã đi theo Chu Văn Vương.”
                        “Tôi đi cùng ông ta đến đây, nhưng chưa bao giờ tin vào lý thuyết của ông ta cả.”
                        “Anh đúng đấy.” Mặc Tử trịnh trọng gật đầu với Uông Diểu, sau đó xích lại gần anh nói, “Anh biết không, trong ba trăm sáu mươi hai nghìn năm anh rời khỏi đây, văn minh đã khởi động lại bốn lần, trưởng thành đầy gian nan trong sự hoán đổi bất quy tắc của kỷ nguyên Hằng định và kỷ nguyên Hỗn loạn. Lần ngắn nhất chỉ đi hết một nửa thời kỳ Đồ đá, nhưng nền văn minh số 139 đã lập nên kỷ lục, không ngờ đã đi được đến thời kỳ Máy hơi nước!”
                        “Nói như vậy, trong nền văn minh ấy đã có người tìm được quy luật vận hành của Mặt trời?”
                        Mặc Tử cười lớn lắc đầu: “Không, không, may mắn thôi.”
                        “Nhưng mọi người vẫn luôn cố gắng chứ?”
                        “Tất nhiên, lại đây, để tôi cho anh xem nỗ lực của nền văn minh lần trước.” Mặc Tử dẫn Uông Diểu đi tới một góc đài quan sát sao, mặt đất trải dài bên dưới chân họ tựa như tấm da thuộc đã trải nhiều năm tháng, Mặc Tử điều chỉnh chiếc kính viễn vọng cỡ nhỏ hướng về một mục tiêu trên mặt đất, sau đó để Uông Diểu nhìn vào. Uông Diểu ghé mắt vào ống kính, thấy một thứ hết sức kỳ dị, đó là một bộ xương ánh lên màu trắng như tuyết dưới ánh nắng sớm mai, nhìn bề ngoài có kết cấu rất tinh xảo. Điều khiến người ta kinh ngạc nhất là bộ xương này đang đứng, tư thế vô cùng cao quý ưu nhã, một tay giơ phía dưới cằm, tựa như đang vuốt bộ râu đã không còn tồn tại, chiếc đầu lâu còn hơi ngẩng lên như thể đang hỏi trời cao.
                        “Đó là Khổng Tử.” Mặc Tử chỉ về hướng đó nói, “Ông ta cho rằng, tất cả đều phải hợp lễ, vạn vật trong vũ trụ cũng không phải là ngoại lệ. Thế nên, ông ấy đã tạo ra một hệ thống lễ pháp cho vũ trụ, hòng dựa vào đó để dự đoán sự vận hành của Mặt trời.”
                        “Kết quả có thể đoán được.”
                        “Đúng vậy, ông ta tính toán ra lễ nghĩa mà Mặt trời phải tuân theo, liền dự đoán một kỷ nguyên Hằng định kéo dài năm năm. Lần đó chính xác là đã kéo dài được một tháng.”
                        “Sau đó, đến một ngày Mặt trời không xuất hiện nữa?”
                        “Không, hôm ấy Mặt trời đã xuất hiện, lên đến giữa trời, nhưng đột nhiên tắt lụi.”
                        “Gì hả? Tắt lụi?”
                        “Đúng thế, mới đầu là từ từ tối đi, nhỏ dần, sau đó đột nhiên tắt ngúm! Màn đêm buông xuống, lạnh giá lắm, Khổng Tử cứ đứng như vậy rồi biến thành cột băng, mãi đến tận bây giờ.”
                        “Không còn gì nữa hả? Ý tôi là Mặt trời sau khi tàn lụi ấy?”
                        “Ở vị trí đó, xuất hiện một ngôi sao bay, giống như là linh hồn của Mặt trời sau khi chết.”
                        “Ồ, ông khẳng định là Mặt trời đột nhiên tắt ngúm, rồi sao bay đột nhiên xuất hiện ư?”
                        “Đúng thế. Đột nhiên tắt ngúm, sao bay liền xuất hiện luôn. Anh có thể tra lại kho số liệu nhật ký, ghi chép đó không sai được.”
                        “Ồ…” Uông Diểu trầm ngâm hồi lâu, vốn dĩ, trong lòng anh đã có một lý luận mơ hồ về bí ẩn của thế giới Tam Thể này, nhưng sự kiện mà Mặc Tử nói lại đã lật đổ toàn bộ những gì anh nghĩ, “Sao lại… đột ngột thế nhỉ?” Anh ảo não nói.
                        “Giờ là triều Hán, Tây Hán hay Đông Hán thì tôi cũng không rõ.”
                        “Ông cũng sống từ đó tới giờ à?” “Tôi có sứ mệnh, cần phải quan sát sự
                        vận hành của Mặt trời một cách chuẩn
                        xác. Những tên thầy mo hay nhà huyền học, đạo học kia đều là hạng vô dụng, bọn họ tay chân quen thói biếng lười, ngũ cốc không biết phân biệt, khả năng bắt tay vào việc cực kém, chỉ biết đắm chìm trong những ảo tưởng của chính mình mà thôi. Nhưng tôi thì khác, tôi có thể làm ra những thứ thực tế!” Ông ta vừa nói vừa chỉ vào những máy móc trên bình đài.
                        “Nhờ những thứ này thì có thể đạt được mục đích của ông ư?” Uông Diểu chỉ vào đống máy móc, đặc biệt là khối cầu bằng đồng thần bí kia.
                        “Tôi cũng có lý thuyết của riêng mình, nhưng không phải là huyền học, mà là lý thuyết tổng kết ra từ rất nhiều quan sát. Trước tiên, anh có biết vũ trụ là gì không? Là một cỗ máy.”
                        “Nói vậy cũng như không nói.”
                        “Cụ thể hơn, vũ trụ là một khối cầu rỗng khổng lồ trôi nổi trong biển lửa, trên khối cầu ấy có rất nhiều lỗ nhỏ và một lỗ lớn, ánh sáng từ biển lửa chiếu vào qua những cái lỗ này, lỗ nhỏ là sao, lỗ lớn là Mặt trời.”
                        “Một mô hình rất thú vị,” Uông Diểu nhìn khối cầu lớn bằng đồng nói, giờ anh đã đoán được đại khái nó là gì rồi, “nhưng trong đó có một sơ hở lớn: lúc Mặt trời mọc và lặn, chúng ta thấy nó chuyển động một cách tương đối với các ngôi sao, mà vị trí tương đối của tất cả các lỗ trên bề mặt khối cầu này lại là cố định.”
                        “Rất đúng. Vì vậy tôi đã đưa ra mô hình được chỉnh sửa, khối cầu vũ trụ do hai lớp vỏ cầu tạo thành, bầu trời chúng ta nhìn thấy là lớp vỏ bên trong, lớp vỏ bên ngoài có một lỗ lớn, lớp bên trong có nhiều lỗ nhỏ, ánh sáng chiếu qua lỗ thủng lớn ở lớp vỏ ngoài phản xạ và tán xạ trong khoảng không hẹp giữa hai lớp vỏ, khiến tầng giữa này tràn ngập ánh sáng, ánh sáng này chiếu qua các lỗ nhỏ, chính là tinh tú mà chúng ta trông thấy.”
                        “Thế còn Mặt trời?”
                        “Mặt trời là đốm sáng khổng lồ chiếu lên lớp vỏ bên trong qua lỗ thủng ở lớp vỏ ngoài, độ sáng của nó cao như thế đấy, giống như khi ta chiếu đèn xuyên qua vỏ trứng vậy, đấy chính là Mặt trời mà chúng ta nhìn thấy. Ánh sáng tán xạ xung quanh đốm sáng ấy tương đối mạnh, cũng chiếu vào lớp vỏ trong, đây chính là bầu trời quang đãng mà chúng ta thấy vào buổi ban ngày.”
                        “Sức mạnh nào thúc đẩy hai lớp vỏ khối cầu này vận hành bất quy tắc như vậy?”
                        “Là sức mạnh của biển lửa bên ngoài vũ trụ.”
                        “Nhưng kích cỡ và độ sáng của Mặt trời ở những thời kỳ khác nhau là khác nhau. Trong mô hình hai lớp vỏ này của ông, kích cỡ và độ sáng của Mặt trời phải là cố định, giả sử biển lửa bên ngoài không đồng đều thì chí ít kích cỡ cũng phải là không đổi chứ.”
                        “Anh nghĩ mô hình này đơn giản quá rồi, cùng với sự biến đổi của biển lửa bên ngoài, kích cỡ của lớp vỏ ngoài cũng sẽ phình ra hoặc thu nhỏ lại, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi về kích cỡ và độ sáng của Mặt trời.”
                        “Thế còn sao bay thì sao?”
                        “Sao bay? Cớ gì anh cứ nhắc đến sao bay mãi thế? Đó là những thứ không quan trọng, chỉ là bụi bay ở bên trong khối cầu vũ trụ thôi.”
                        “Không. Tôi cho rằng sao bay rất quan trọng. Ngoài ra, mô hình của ông giải thích việc Mặt trời đột nhiên tắt ngúm giữa không trung ở thời đại của Khổng Tử như thế nào?”
                        “Đó là ngoại lệ hiếm hoi, có khả năng là do một đốm đen hoặc một đám mây đen ở biển lửa bên ngoài vũ trụ vừa khéo bay qua cái lỗ lớn ở lớp vỏ ngoài.”
                        Uông Diểu chỉ vào khối cầu lớn bằng đồng: “Đây nhất định chính là mô hình vũ trụ của ông đúng không?”
                        “Đúng thế, tôi chế tạo ra cỗ máy vũ trụ này. Tổ hợp bánh răng phức tạp khiến khối cầu chuyển động kia mô phỏng theo lực tác dụng của biển lửa bên ngoài vào khối cầu vũ trụ. Quy luật của lực tác dụng này, cũng chính là sự phân bố lửa và quy luật dòng chảy của biển lửa bên ngoài, đây là do tôi trải qua quan sát suốt mấy trăm năm mới tổng kết ra được.”
                        “Khối cầu này có thể phình to thu nhỏ không?”
                        “Tất nhiên là có, giờ nó đang chầm chậm thu nhỏ lại đấy.”
                        Uông Diểu lấy lan can của bình đài làm vật tham chiếu cố định, tỉ mỉ quan sát, liền nhận ra điều Mặc Tử nói là sự thật.
                        “Khối cầu này có lớp vỏ bên trong không?”
                        “Tất nhiên là có, lớp vỏ bên trong và lớp vỏ bên ngoài chuyển động bằng một cơ cấu phức tạp.”
                        “Đúng là một cỗ máy tinh xảo!” Uông
                        Diểu thật lòng tán thưởng, “Nhưng nhìn từ bên ngoài đâu có thấy lỗ hổng to để ánh sáng chiếu vào lớp bên trong?”
                        “Không có lỗ nào, tôi đã lắp một nguồn sáng ở mặt trong lớp vỏ ngoài để mô phỏng lỗ lớn. Nguồn sáng ấy chế từ tinh chất huỳnh quang tinh luyện từ mấy trăm nghìn con đom đóm, phát ra ánh sáng lạnh, vì lớp vỏ khối cầu bên trong bằng thạch cao trong mờ có tính dẫn nhiệt không tốt, làm như vậy có thể tránh được trường hợp nguồn sáng nóng tích tụ nhiệt độ bên trong khối cầu, để người ghi chép có thể đứng bên trong một thời gian dài.”
                        “Bên trong khối cầu có người?”
                        “Tất nhiên, người ghi chép đứng trên một cái giá bên dưới có bánh xe trượt, vị trí luôn duy trì ở trung tâm khối cầu. Sau khi cài đặt vũ trụ mô phỏng vào một trạng thái nào đó của vũ trụ hiện thực, những chuyển động sau đấy của nó sẽ mô phỏng chính xác trạng thái của vũ trụ trong tương lai, tất nhiên cũng có thể mô phỏng được trạng thái vận hành của Mặt trời, những gì người ghi chép đó ghi lại sẽ hình thành nên một cuốn lịch vạn niên chính xác, đây chính là thứ mà hơn một trăm nền văn minh trước đây đều mong mỏi. Anh đến đúng lúc lắm, vũ trụ mô phỏng vừa mới hiển thị một kỷ nguyên Hằng định kéo dài bốn năm sắp bắt đầu, Hán Vũ Đế đã dựa theo suy đoán của tôi công bố chiếu thư ngâm nước, chúng ta hãy chờ Mặt trời lên đi nào.”
                        Mặc Tử bật lên giao diện trò chơi, điều chỉnh tốc độ thời gian trôi nhanh hơn một chút. Một vầng Mặt trời đỏ ối dâng cao khỏi đường chân trời, vô số hồ nước chi chít trên mặt đất bắt đầu tan băng, trên mặt băng bít kín những hồ nước này vốn phủ một lớp bụi cát, khiến chúng hòa làm một với mặt đất, giờ đã dần dần biến thành vô số mặt gương sáng lấp lánh, tựa như muôn ngàn con mắt đất đồng loạt mở bừng ra. Ở trên cao này, Uông Diểu không nhìn rõ chi tiết cuộc ngâm nước hồi sinh, chỉ thấy người bên bờ hồ mỗi lúc một nhiều hơn, như thể lũ kiến đang tràn ra khỏi hang vào mùa xuân. Thế giới một lần nữa lại hồi sinh.
                        “Anh không xuống hòa vào cuộc sống tươi đẹp này sao? Phụ nữ vừa hồi sinh là khát khao tình ái nhất đấy.” Mặc Tử chỉ vào mặt đất đang bừng bừng sức sống một lần nữa, nói với Uông Diểu, “Anh ở đây đợi nữa cũng không còn ý nghĩa gì rồi, trò chơi đã kết thúc, tôi là người chiến thắng cuối cùng.”
                        “Nếu là một cỗ máy, vũ trụ mô phỏng của ông quả thực vô cùng tinh diệu, nhưng còn dự đoán mà nó đưa ra… Ừm, tôi có thể sử dụng kính viễn vọng kia của ông để quan sát thiên tượng không?”
                        “Tất nhiên được, xin mời.” Mặc Tử khoát tay về phía chiếc kính viễn vọng lớn.
                        Uông Diểu bước đến trước kính viễn vọng, lập tức nhận ra vấn đề: “Làm sao để quan sát Mặt trời?”
                        Mặc Tử lấy trong hộp gỗ ra một miếng kính tròn màu đen, “Lắp thêm kính lọc đã hun muội than này vào nữa.” Nói đoạn, ông ta nhét nó vào phía trước ống kính viễn vọng.
                        Uông Diểu hướng kính viễn vọng về phía vầng Mặt trời đang dâng lên lơ lửng giữa không trung, không khỏi khen ngợi trí tưởng tượng của Mặc Tử: Mặt trời trông thực sự giống một lỗ hổng lớn thông ra biển lửa ở phía chân trời, là một phần nhỏ của một thực thể lớn hơn.
                        Nhưng khi quan sát kỹ hơn nữa, anh phát hiện, Mặt trời này có một số điểm khác biệt với Mặt trời trong kinh nghiệm thực tế của mình, nó có một cái lõi rất nhỏ, nếu coi Mặt trời như một con mắt, thì cái lõi này chính là đồng tử. Lõi Mặt trời tuy nhỏ, nhưng sáng và đặc, tầng bao bên ngoài nó lại có vẻ thiếu chân thực, phiêu hốt bất định, rất giống như thể khí. Mà việc có thể nhìn xuyên qua lớp ngoài khá dày kia để thấy lõi bên trong, cũng chứng tỏ rằng lớp bên ngoài này ở trạng thái trong suốt hoặc trong mờ, ánh sáng mà nó phát ra, nhiều khả năng là do sự tán xạ của những tia sáng phát ra từ lõi.
                        Độ chân thực và tinh vi của hình ảnh Mặt trời khiến Uông Diểu kinh hãi, anh
                        một lần nữa khẳng định người sáng tạo ra trò chơi này đã cố ý ẩn giấu vô vàn chi tiết nhỏ nhặt đằng sau những hình ảnh bề ngoài tưởng như đơn giản, chờ đợi người chơi khám phá.
                        Uông Diểu đứng thẳng người, tỉ mỉ suy nghĩ về ý nghĩa ẩn chứa đằng sau cấu trúc của vầng Mặt trời này, lập tức hào hứng hẳn lên. Do thời gian trong trò chơi được tăng nhanh, Mặt trời đã dịch về phía Tây, Uông Diểu điều chỉnh kính viễn vọng hướng về phía nó thêm lần nữa, theo dấu cho đến khi nó lặn xuống dưới đường chân trời. Màn đêm buông xuống. Những đốm lửa trên mặt đất và những ngôi sao chi chít trên nền trời đêm cùng làm nổi bật nhau lên. Uông Diểu gỡ miếng kính lọc màu đen ra khỏi kính viễn vọng, tiếp tục quan sát bầu trời sao, thứ anh hứng thú nhất là sao bay, thoáng cái anh đã tìm được hai ngôi. Anh chỉ kịp quan sát qua loa một trong hai ngôi sao ấy thì trời đã sáng. Anh lại lắp kính lọc vào tiếp tục quan sát Mặt trời… Uông Diểu cứ như vậy quan sát thiên văn hơn mười ngày liền, hưởng thụ niềm vui khám phá. Kỳ thực, tốc độ thời gian trôi nhanh hơn có lợi đối với việc quan trắc thiên văn, vì như vậy sự vận hành và biến đổi của thiên thể sẽ càng thêm rõ rệt.
                        Ngày thứ mười bảy từ khi kỷ nguyên Hằng định bắt đầu, đã quá giờ Mặt trời mọc năm tiếng, mặt đất vẫn chìm trong
                        màn đêm. Bên dưới kim tự tháp, người đông như biển. Vô số ngọn đuốc bập bùng trong gió lạnh.
                        “Mặt trời có khả năng sẽ không xuất hiện nữa, cũng giống như kết cục của nền văn minh số 137.” Uông Diểu nói với Mặc Tử, người đang biên soạn cuốn lịch vạn niên đầu tiên của thế kỷ này.
                        Mặc Tử vuốt râu, nở nụ cười tự tin với Uông Diểu: “Yên tâm, Mặt trời sẽ mọc lên, kỷ nguyên Hằng định sẽ tiếp tục, tôi đã nắm bắt được nguyên lý chuyển động của cỗ máy vũ trụ này rồi, dự đoán của tôi không sai sót đâu.”
                        Tựa như chứng minh cho lời Mặc Tử, ánh nắng sớm quả thực đã xuất hiện cuối chân trời, tiếng hoan hô tức thì vỡ òa trong đám người ở cạnh kim tự tháp.
                        Mảng sáng trắng bạc lan rộng và sáng lên với tốc độ bất thường, tựa như vầng dương sắp nhô lên muốn bù đắp lại quãng thời gian đã mất. Chỉ lát sau, ánh nắng đã tràn khắp cả nửa bầu trời, đến nỗi Mặt trời vẫn chưa mọc mà mặt đất đã sáng như ban ngày. Uông Diểu nhìn về phía xa, nơi ánh nắng sớm xuất hiện, nhận ra đường chân trời đang phát ra một luồng sáng mạnh chói mắt, hơn nữa còn cong lên, tạo thành một đường cong hoàn mỹ vắt ngang cả tầm nhìn. Anh nhanh chóng nhận ra đó không phải đường chân trời, mà là đường viền của vầng dương, một Mặt trời khổng lồ đang dâng lên, sau khi đôi mắt thích ứng được với ánh sáng chói lọi đó, đường chân trời vẫn hiển hiện ra ở vị trí ban đầu. Uông Diểu trông thấy những vệt đen đang lờ lững bốc lên phía chân trời, hết sức nổi bật trên nền sáng của vầng dương. Đó là khói mù bốc lên do phía xa bị cháy. Bên dưới kim tự tháp, một con ngựa phi như bay tới từ phía Mặt trời mọc, bụi mù bốc lên vạch trên mặt đất một vệt xám rõ mồn một, đám người tách ra nhường một đường cho thớt ngựa ấy, Uông Diểu nghe thấy người cưỡi trên lưng ngựa đang khản tiếng hét lớn: “Thoát nước! Thoát nước!!”
                        Cùng với thớt ngựa ấy, là một đám trâu bò và các loài động vật khác. Trên người chúng đều bén lửa, dệt nên một tấm thảm lửa di động trên mặt đất.
                        Vầng Mặt trời khổng lồ dâng lên một nửa trên đường chân trời, chiếm cả nửa bầu không, mặt đất như thể một bức tường rực rỡ sáng lòa đang từ từ chìm xuống. Uông Diểu có thể thấy rõ mồn một những chi tiết trên bề mặt vầng dương, bên trên biển lửa là sóng cuộn và vòng xoáy, những vết đen trôi nổi theo những tuyến đường không có quy tắc tựa những con thuyền ma dập dềnh, vầng nhật hoa trông như một vạt tay áo dài thượt thong thả vươn dài ra.
                        Trên mặt đất, những người đã thoát nước và chưa thoát nước đều bốc cháy như vô số khúc củi được quăng vào lò, ngọn lửa bùng lên còn sáng hơn than hồng trong lò lửa, nhưng thoáng cái đã tắt ngúm.
                        Mặt trời nhanh chóng nhô lên, chẳng mấy chốc đã lên giữa trời, che lấp phần lớn bầu không. Uông Diểu ngẩng đầu ngước nhìn, cảm thấy trong chớp mắt đã xảy ra một biến hóa kỳ diệu: trước đó, anh đang ngước nhìn lên trên, nhưng giờ lại dường như cúi nhìn xuống dưới. Bề mặt của vầng Mặt trời khổng lồ trở thành một mặt đất rực lửa. Anh có cảm giác, mình đang rơi xuống địa ngục rực rỡ ấy!
                        Hồ nước trên mặt đất bắt đầu bốc hơi, từng đám từng đám hơi nước trắng xóa như tuyết tạo thành những đám mây hình nấm bốc lên cao, rồi tan ra, che phủ tro xương của con người bên bờ hồ.
                        “Kỷ nguyên Hằng định sẽ tiếp tục, vũ trụ là một cỗ máy, tôi tạo ra cỗ máy này; kỷ nguyên Hằng định sẽ tiếp tục, vũ trụ là…”
                        Uông Diểu ngoảnh đầu lại nhìn, giọng nói đó do Mặc Tử đang cháy bừng bừng phát ra, thân thể ông ta bọc trong một cột lửa màu cam cao vút, da thịt nhăn nhúm lại rồi cháy thành than, nhưng hai mắt vẫn bừng lên những tia sáng khác hẳn với ánh sáng của ngọn lửa đang nuốt chửng ông ta. Hai cánh tay đã thành than của ông ta nâng lên một đống tro tàn bay tứ tán, đó là cuốn lịch vạn niên đầu tiên. Bản thân Uông Diểu cũng đang bốc cháy, anh giơ hai tay lên, trông thấy hai ngọn đuốc lớn.
                        Vầng dương khổng lồ nhanh chóng dịch chuyển về hướng Tây, nhường chỗ cho vòm trời bị nó che khuất rồi chìm xuống dưới đường chân trời, quá trình Mặt trời lặn rất nhanh, mặt đất cơ hồ cũng được nâng lên theo bức tường ánh sáng đó. Ráng chiều chói mắt trong khoảnh khắc đã tan biến, màn đêm như thể một tấm vải đen lớn bị đôi tay khổng lồ nào đó kéo xuống che phủ lên thế giới đã hóa thành tro tàn. Mặt đất vừa bị thiêu đốt phát ra ánh sáng đỏ sậm dưới bầu trời đêm, trông như một cục than vừa gắp ra khỏi lò lửa không lâu. Uông Diểu đứng trong màn đêm nhìn sao trời xuất hiện một lúc, lát sau, hơi nước và sương mù đã che lấp cả bầu không, cũng che phủ mọi thứ đang ở trạng thái nóng đỏ trên mặt đất, thế giới lại chìm vào đêm đen và hỗn loạn. Một hàng chữ đỏ xuất hiện:
                        Nền văn minh thứ 141 bị hủy diệt trong ngọn lửa, nền văn minh này tiến
                        hóa đến thời kỳ Đông Hán.
                        Hạt giống văn minh vẫn còn, sẽ được khởi động lại, một lần nữa tiến hóa trong vận mệnh khó lường của thế
                        giới Tam Thể.
                        Hoan nghênh bạn đăng nhập lần sau.
                        Uông Diểu gỡ bộ thiết bị V xuống, sau khi đã tĩnh tâm, cảm giác lần trước lại một lần nữa nảy sinh: trò chơi Tam Thể này cố ý ngụy trang thành giả tượng, nhưng lại có một sự chân thực ẩn sâu bên trong; còn thế giới chân thực trước mắt anh, lại giống như một bức Thanh minh thượng hà đồ, thoạt nhìn có vẻ phức tạp, song thực chất lại hết sức nông cạn, chỉ được cái bề ngoài mà thôi.
                        Hôm sau, Uông Diểu đến Trung tâm nghiên cứu nano làm việc, ngoại trừ một vài hỗn loạn nhỏ do ngày hôm trước anh nghỉ làm, còn lại mọi thứ đều bình thường. Anh phát hiện ra, công việc là một loại thuốc tê rất có hiệu quả, buông mình vào trong đó có thể tạm thời tránh được sự quấy nhiễu tựa như cơn ác mộng dai dẳng kia. Cả ngày, anh cố ý giữ mình trong trạng thái bận rộn, trời tối hẳn mới rời khỏi phòng thí nghiệm.
                        Vừa ra khỏi tòa nhà của Trung tâm nghiên cứu nano, Uông Diểu lại bị cảm giác như ác mộng kia tóm lấy, anh cảm thấy bầu trời đêm lấp lánh đầy sao giống như một chiếc kính lúp khổng lồ bao trùm lên tất thảy, còn bản thân mình chỉ là một con côn trùng nhỏ trần trụi bên dưới chiếc kính lúp ấy, không có nơi nào để lẩn trốn. Anh cần phải tìm việc gì đó để làm, sực nghĩ cũng đến lúc đi thăm lại mẹ của Dương Đông, bèn lái xe tới nhà Diệp Văn Khiết.
                        Diệp Văn Khiết ở nhà một mình, lúc Uông Diểu bước vào, bà đang ngồi đọc sách trên ghế xô pha, bấy giờ anh mới phát hiện mắt bà vừa bị cận thị vừa bị lão hóa, lúc đọc sách hay nhìn xa đều phải đổi mắt kính. Diệp Văn Khiết thấy Uông Diểu đến thì rất vui vẻ, khen sắc mặt anh trông đã đỡ hơn lần trước nhiều rồi.
                        “Đều do nhân sâm của cô Diệp.” Uông Diểu mỉm cười.
                        Diệp Văn Khiết lắc đầu, “Thứ đó không phải loại tốt, hồi ấy, ở xung quanh căn cứ đào được nhân sâm tự nhiên tốt lắm. Tôi đào được một cây dài như thế này này… Không biết giờ ở đó thế nào rồi, nghe nói đã không còn ai nữa. Chậc, già rồi, dạo này cứ nghĩ đến những chuyện trước kia suốt thôi.”
                        “Nghe nói trong Cách mạng văn hóa, cô Diệp từng chịu nhiều khổ sở.”
                        “Nghe Sa Thụy Sơn kể đúng không?” Bà Dương khe khẽ xua tay, tựa như gạt đi một sợi tơ nhện vương trước mặt, “Quá khứ, đều đã qua cả rồi… Hôm qua cậu ta gọi điện thoại tới, cuống hết cả lên, nói gì tôi cũng không hiểu lắm, chỉ nghe ra là hình như cậu đã gặp phải chuyện gì đó. Tiểu Uông à, kỳ thực, khi cậu đến tuổi của tôi, cậu sẽ nhận ra những chuyện lớn mà năm đó mình tưởng như trời sắp sập xuống đến nơi, thực ra cũng chẳng có gì cả đâu.”
                        “Cháu cảm ơn.” Uông Diểu nói, anh lại cảm nhận được sự ấm áp hiếm hoi đó. Giờ đây, bà già trải qua vô số tang thương đã trở nên bình thản trước mọi sự này, cùng với Sử Cường điếc không sợ súng kia, đã trở thành hai cây cột chống đỡ cho thế giới tinh thần lung lay sắp sụp đổ của anh.
                        Bà Dương lại nói tiếp: “Nhắc đến Cách mạng văn hóa, tôi vẫn là người rất may mắn, vào lúc không sống nổi, lại bất ngờ đến được một nơi mà mình có thể sống được.”
                        “Cô nói đến căn cứ địa Hồng Ngạn phải không ạ?”
                        Bà Dương gật đầu.
                        “Đúng là chuyện không thể tưởng tượng nổi, thoạt đầu cháu còn tưởng đó chỉ là một truyền thuyết.”
                        “Không phải là truyền thuyết đâu, nếu muốn biết thì để tôi kể cho cậu nghe những chuyện mình đã trải qua ấy.”
                        Diệp Văn Khiết nói vậy làm Uông Diểu thấy hơi căng thẳng. “Cô Diệp, cháu chỉ tò mò thôi, nếu không tiện thì thôi cũng được.”
                        “Ồ, cũng không có gì đâu, coi như tôi kiếm người để nói chuyện thôi mà, dạo gần đây, thực tình tôi cũng muốn tìm ai đó để trò chuyện.”
                        “Cô có thể đến Hội người cao tuổi gì đó tham gia cũng được, đi lại nhiều một chút dẫu sao cũng bớt tịch mịch phần nào.”
                        “Cái đám già về hưu đó đa phần đều là đồng nghiệp của tôi ở trường đại học, nhưng tôi chẳng bao giờ hòa nhập được với bọn họ cả. Mọi người đều thích lảm nhảm hồi tưởng lại những chuyện đã qua, nhưng chỉ thích người khác nghe chuyện của mình mà chán ngấy chuyện của người khác. Những chuyện ở căn cứ Hồng Ngạn, chắc chỉ có cậu thấy hứng thú thôi.”
                        “Giờ nói ra vẫn không được tiện lắm phải không ạ?”
                        “Cũng đúng, dẫu sao thì vẫn thuộc vào hàng thông tin cơ mật. Có điều, từ sau khi cuốn sách kia xuất bản, rất nhiều người trải qua sự việc ấy cũng đã nói ra, trở thành bí mật công khai rồi. Người viết cuốn sách ấy rất vô trách nhiệm, tạm gác mục đích của anh ta sang một bên, riêng trong sách đã có rất nhiều nội dung không đúng với sự thật rồi, cải chính lại một chút cũng là điều nên làm.”
                        Vậy là, bà Dương kể cho Uông Diểu đoạn lịch sử còn chưa phủ bụi ấy.

                        #12
                          huytran 30.07.2017 04:31:46 (permalink)
                          Chương 13 : Hồng Ngạn phần 2  
                           
                          Khi mới gia nhập căn cứ Hồng Ngạn, Diệp Văn Khiết không được phân cho công việc cố định nào, chỉ làm một số việc lặt vặt về kỹ thuật dưới sự giám sát của một nhân viên an ninh.
                          Từ thời học đại học năm thứ hai, Diệp Văn Khiết đã rất thân thiết với thầy hướng dẫn nghiên cứu sinh sau này của cô. Ông từng nói với Diệp Văn Khiết, nghiên cứu vật lý thiên văn mà không hiểu kỹ thuật thực nghiệm, không có năng lực quan sát thì lý thuyết giỏi mấy cũng vô dụng, ít nhất ở Trung Quốc là như thế. Điều này khác hẳn với quan điểm của
                          cha cô. Nhưng Diệp Văn Khiết có khuynh hướng đồng tình với cách nhìn nhận của giáo sư, cô luôn có cảm giác cha mình quá lý thuyết. Thầy giáo cô là một trong những người sáng lập nên ngành thiên văn vô tuyến của Trung Quốc, dưới sự ảnh hưởng của ông, Diệp Văn Khiết cũng bắt đầu nảy sinh hứng thú với thiên văn vô tuyến, vì vậy cô đã tự học thêm chuyên ngành kỹ sư điện tử và máy tính(*), đây là cơ sở kỹ thuật để thực nghiệm và quan trắc của ngành học này. Trong hai năm nghiên cứu sinh, cô và thầy giáo đã cùng vận hành thử kính thiên văn vô tuyến cỡ nhỏ đầu tiên trong nước, tích lũy khá nhiều kinh nghiệm trên phương diện này. Thật không ngờ, những
                          kiến thức ấy của cô lại có ích ở căn cứ địa Hồng Ngạn.
                          (*) Vào thời đó, ở hầu hết các trường đại học, hai chuyên ngành này là một. (TG)
                          Ban đầu, Diệp Văn Khiết phụ trách kiểm tra và sửa chữa thiết bị ở bộ phận phát xạ, rồi nhanh chóng trở thành cốt cán kỹ thuật không thể thiếu của bộ phận này, cô lấy làm khó hiểu về điều đó. Cô là người duy nhất không mặc quân phục trong căn cứ này, thêm nữa, do thân phận đặc biệt của cô, mọi người đều giữ khoảng cách nhất định, khiến cô chỉ có thể dốc hết tâm trí vào công việc để vợi bớt nỗi cô đơn. Nhưng điều này cũng
                          không đủ để giải thích vấn đề, đây dẫu sao cũng là dự án quốc phòng trọng điểm, lẽ nào trình độ của nhân viên kỹ thuật ở đây lại tầm thường đến thế, một người không xuất thân ngành kỹ thuật, cũng chẳng có kinh nghiệm công tác như cô mà cũng dễ dàng thay thế được hay sao?
                          Sau rồi, cô nhanh chóng phát hiện ra một vài nguyên nhân. Trái ngược với những gì cô trông thấy, những sĩ quan kỹ thuật ưu tú nhất của Quân đoàn Pháo binh số 2 đều được phân về đây, cô có học cả đời cũng không thể theo kịp những kỹ sư điện tử và máy tính siêu việt này. Nhưng căn cứ Hồng Ngạn ở nơi hoang vắng, điều kiện rất kém, vả lại việc nghiên cứu chế tạo hệ thống Hồng Ngạn về cơ bản đã kết thúc, chỉ còn lại việc vận hành và bảo dưỡng, về mặt kỹ thuật cũng chẳng có cơ hội làm nên thành quả gì nữa, đa số mọi người làm việc chẳng mấy chuyên chú. Bọn họ hiểu rõ, ở những dự án bảo mật tối cao này, một khi đã đặt chân vào cương vị chủ chốt về mặt kỹ thuật thì rất khó được điều đi. Bởi vậy, mọi người đều cố ý hạ thấp năng lực của mình xuống, nhưng cũng không thể biểu hiện quá tệ, vì vậy khi lãnh đạo chỉ hướng Đông, họ liền gắng sức cật lực hướng Tây, cố tình giả ngốc, chỉ mong lãnh đạo nghĩ: người này cũng cố hết sức rồi, nhưng với năng lực và trình độ đó có giữ lại cũng chẳng ích gì, chỉ vướng chân
                          vướng tay.
                          Rất nhiều người đã được điều đi thành công. Trong tình cảnh đó, Diệp Văn Khiết bất giác đã trở thành lực lượng kỹ thuật trung kiên của căn cứ. Thế nhưng, vẫn còn một nguyên nhân khác khiến cô bước lên vị trí này, cô nghĩ mãi mà vẫn không thể nào hiểu nổi: ít nhất, dựa trên những phần mà cô tiếp xúc được, căn cứ Hồng Ngạn này chẳng có kỹ thuật nào thực sự tiên tiến cả.
                          Sau khi vào căn cứ, Diệp Văn Khiết chủ yếu làm việc tại bộ phận phát xạ, thời gian trôi đi, những hạn chế đối với cô đã dần dần buông lỏng, nhân viên giám thị luôn kè kè đi theo cô cũng đã
                          được rút đi, cô có thể tiếp xúc với hầu hết mọi thứ của hệ thống Hồng Ngạn, cũng có thể đọc các tài liệu kỹ thuật tương ứng. Tất nhiên, vẫn có những thứ cô bị cấm đụng đến, ví dụ như tuyệt đối không được bước lại gần bộ phận điều khiển máy tính. Nhưng về sau Diệp Văn Khiết phát hiện, ảnh hưởng của bộ phận ấy đối với hệ thống Hồng Ngạn không hề lớn như cô nghĩ. Lấy ví dụ, máy tính của bộ phận phát xạ là ba bộ thiết bị còn lạc hậu hơn cả máy đời DJS-130, sử dụng bộ nhớ băng từ và nhập liệu bằng băng giấy, thời gian hoạt động không xảy ra sự cố dài nhất không quá mười lăm tiếng. Cô còn thấy cả bộ phận ngắm của hệ thống Hồng Ngạn, độ chính xác rất thấp,
                          có lẽ còn không bằng thiết bị ngắm gắn trên khẩu pháo.
                          Hôm ấy, chính ủy Lôi lại gọi Diệp Văn Khiết đến nói chuyện. Giờ đây, trong mắt cô, vị trí của Dương Vệ Ninh và Lôi Chí Thành đã đổi cho nhau. Thời ấy, địa vị chính trị của lãnh đạo cao nhất về kỹ thuật như Dương Vệ Ninh không hề cao, rời xa kỹ thuật là anh ta không còn quyền uy gì nữa, đối xử với cấp dưới phải cẩn thận từng li từng tí một, nói chuyện với lính gác cũng phải khách khí, bằng không thì sẽ thành ra phần tử trí thức có vấn đề thái độ đối với chủ trương ba kết hợp(*) và cải tạo tư tưởng. Vì vậy, những lúc công việc không thuận
                          theo ý mình, Diệp Văn Khiết lại thành nơi trút giận duy nhất của anh ta. Nhưng khi Diệp Văn Khiết càng lúc càng trở nên quan trọng đối với công tác kỹ thuật, chính ủy Lôi đã dần dần thay đổi thái độ khắt khe và lạnh lùng với cô lúc ban đầu, trở nên nhã nhặn hơn.
                          (*) Kết hợp kế hoạch hóa gia đình với phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với quần chúng cần lao lẫn giàu có lẫn trung lưu, với xây dựng gia đình văn minh hạnh phúc, gọi là “ba kết hợp”.
                          “Tiểu Diệp này, đến bây giờ, cô đã quen thuộc với hệ thống phát xạ rồi, đây cũng là bộ phận tấn công của hệ thống
                          Hồng Ngạn, là bộ phận chính của nó, nói thử tôi nghe cái nhìn tổng quan của cô về hệ thống này xem nào?” Lôi Chí Thành nói, họ đang ngồi trước một vách đá trên núi Radar, đây là nơi hẻo lánh nhất của cả khu căn cứ. Vách đá dựng thẳng đứng ấy cơ hồ sâu không thấy đáy, thoạt đầu nó còn khiến Diệp Văn Khiết sợ khiếp hồn, nhưng giờ cô lại rất thích đến đây một mình.
                          Trước câu hỏi của chính ủy Lôi, Diệp Văn Khiết hơi luống cuống. Cô chỉ phụ trách bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị, hoàn toàn không biết gì về tình trạng tổng thể của hệ thống Hồng Ngạn, bao gồm cả phương thức hoạt động, mục tiêu công kích… mà họ cũng không cho phép cô
                          được biết, mỗi lần phát xạ thường quy cô đều không được có mặt. Cô ngẫm nghĩ một lúc, lộ vẻ ngập ngừng.
                          “Mạnh dạn nói đi. Không sao đâu.” Lôi Chí Thành giựt một cọng cỏ bên cạnh, cầm trên tay phất qua phất lại.
                          “Nó… chẳng qua chỉ là một máy phát vô tuyến mà thôi.”
                          “Đúng thế, nó chính là một máy phát vô tuyến.” Chính ủy Lôi hài lòng gật đầu, “Cô có biết lò vi sóng không?”
                          Diệp Văn Khiết lắc đầu.
                          “Một thứ đồ chơi xa xỉ của giai cấp tư sản phương Tây, dùng hiệu ứng nhiệt sinh ra sau khi hấp thụ vi sóng để làm
                          nóng thực phẩm. Viện nghiên cứu mà hồi trước tôi làm việc đã nhập khẩu một chiếc từ nước ngoài về để kiểm tra chính xác mức độ lão hóa trong nhiệt độ cao của một loại phụ tùng. Hết giờ làm, chúng tôi cũng dùng nó để làm nóng bánh bao, nướng khoai, hay phết, bên trong nóng trước, bên ngoài vẫn mát lạnh.” Vừa nói, Lôi Chí Thành vừa đứng dậy đi qua đi lại, anh ta bước đến sát mép vách đá, làm Diệp Văn Khiết hết sức căng thẳng, “Hệ thống Hồng Ngạn chính là một cái lò vi sóng, mục tiêu làm nóng là thiết bị hàng không vũ trụ của kẻ địch. Chỉ cần năng lượng bức xạ vi sóng đạt đến 0,1-1 watt/m2 là có thể khiến các thiết bị điện tử vi sóng trong vệ tinh liên
                          lạc, radar, hệ thống dẫn đường… mất hiệu lực hoặc bị thiêu hủy rồi.”
                          Diệp Văn Khiết chợt hiểu ra. Hệ thống Hồng Ngạn tuy chỉ là một máy phát xạ sóng vô tuyến, nhưng không có nghĩa nó là thứ tầm thường, điều khiến cô kinh ngạc nhất là công suất phát xạ của nó, không ngờ lại lên đến 25 triệu watt! Con số này không chỉ lớn hơn công suất phát xạ của tất cả các thiết bị thông tấn, mà còn cao hơn công suất phát xạ của tất cả các hệ thống radar. Hệ thống Hồng Ngạn có một nhóm tụ điện khổng lồ để cung cấp năng lượng phát xạ, vì công suất quá lớn, mạch phát xạ của nó cũng khác rất nhiều so với bình thường. Đến giờ, Diệp Văn Khiết đã hiểu được ý đồ của công
                          suất phát xạ siêu lớn này, nhưng cô cũng lập tức nghĩ đến một vấn đề:
                          “Sóng vô tuyến mà hệ thống phát ra, hình như đã được điều chế(*).”
                          (*) Điều chế trong viễn thông là việc biến đổi một trong các thông số (biên độ, tần số, pha, xung) của một sóng cao tần, gọi là sóng mang, theo sự thay đổi của một tín hiệu khác mang thông tin, nhằm truyền tín hiệu đó đi xa.
                          “Đúng thế, nhưng sự điều chế này hoàn toàn khác với việc truyền tin bằng vô tuyến điện thông thường, không phải để đưa thông tin vào, mà là sử dụng tần số và biên độ sóng biến đổi liên tục để phá vỡ lá chắn phòng hộ kẻ địch có thể
                          thiết lập, tất nhiên, mọi thứ vẫn còn ở trong giai đoạn thử nghiệm.”
                          Diệp Văn Khiết gật đầu, rất nhiều nghi vấn khác trong lòng cô trước đây, giờ cũng đã có lời giải đáp.
                          “Đợt này, ở Tửu Tuyền có phóng lên hai vệ tinh làm bia ngắm bắn, hệ thống Hồng Ngạn đã tiến hành thử nghiệm công kích, thành công hoàn toàn, phá hủy được mục tiêu, khiến nhiệt độ bên trong vệ tinh đạt đến gần 1000 độ, máy móc và thiết bị camera bên trong toàn bộ đều bị phá hoại. Trong chiến đấu thực tế ở tương lai, hệ thống Hồng Ngạn có thể tấn công các vệ tinh liên lạc và trinh sát của kẻ địch một cách hiệu quả, vệ tinh trinh sát
                          chủ lực hiện nay của đế quốc Mỹ là KH8 và KH9 sắp được phóng lên, còn những vệ tinh trinh sát có quỹ đạo thấp hơn của Liên Xô thì càng không cần phải nói đến. Lúc cần thiết, còn có khả năng phá hủy trạm không gian Salyut của Liên Xô và trạm Skylab mà đế quốc Mỹ có kế hoạch phóng lên sang năm.”
                          “Chính ủy, anh đang nói gì với cô ấy vậy?” Có người đứng sau lưng Diệp Văn Khiết lên tiếng. Cô quay người lại, là Dương Vệ Ninh, anh ta đang nhìn chằm chằm vào Lôi Chí Thành, ánh mắt nghiêm khắc.
                          “Tôi làm vậy là vì công việc thôi.” Lôi Chí Thành buông một câu rồi xoay
                          người bỏ đi. Dương Vệ Ninh không nói không rằng liếc nhìn Diệp Văn Khiết một cái, cũng đi theo luôn, để lại một mình cô đứng đó.
                          “Anh ta đưa mình vào căn cứ địa này. Nhưng đến giờ, anh ta vẫn chưa tin tưởng mình.” Diệp Văn Khiết buồn bã thầm nhủ, đồng thời lại lo lắng cho chính ủy Lôi Chí Thành. Ở căn cứ, quyền lực của Lôi Chí Thành lớn hơn Dương Vệ Ninh, các sự vụ quan trọng, chính ủy đều có quyền quyết định cuối cùng. Nhưng nhìn bộ dạng vội vàng bỏ đi của anh ta lúc nãy, rõ ràng Lôi Chí Thành cảm thấy mình đã làm sai chuyện gì đó trước mặt vị kỹ sư trưởng, điều này khiến Diệp Văn Khiết tin chắc rằng việc anh ta nói cho
                          cô biết công dụng thực sự của hệ thống Hồng Ngạn có thể chỉ là quyết định cá nhân. Chuyện này sẽ có hậu quả thế nào với anh ta? Nhìn theo tấm lưng rộng của chính ủy, trong lòng Diệp Văn Khiết chợt dâng trào cảm giác biết ơn, đối với cô, sự tín nhiệm đã trở thành một thứ hàng xa xỉ mà cô không dám tơ tưởng đến. Trong lòng cô, Lôi Chí Thành là một quân nhân chân chính, có sự chân thành và thẳng thắn của người lính, còn Dương Vệ Ninh chỉ là một phần tử trí thức điển hình của thời đại này mà cô đã gặp rất nhiều, nhát gan và thận trọng, chỉ mong giữ cho mình được bình an. Tuy rằng Diệp Văn Khiết hiểu anh ta, song khoảng cách vốn dĩ đã rất xa giữa hai người, nay lại càng kéo
                          xa thêm nữa.
                          Ngày hôm sau, Diệp Văn Khiết được điều động khỏi bộ phận phát xạ, đưa đến làm việc ở bộ phận giám thính. Cô vốn tưởng rằng việc này là do chuyện ngày hôm trước, họ muốn điều cô rời khỏi bộ phận nòng cốt của Hồng Ngạn, nhưng đến bộ phận giám thính cô mới phát hiện chỗ này mới là trung tâm của công trình Hồng Ngạn thì đúng hơn. Tuy rằng hai bộ phận có một số điểm chung về thiết bị hệ thống, ví dụ như cùng dùng chung cái ăng ten, nhưng trình độ kỹ thuật của bộ phận giám thính còn cao hơn bộ phận phát xạ một bậc.
                          Bộ phận giám thính có một hệ thống
                          thu vô tuyến cực nhạy và rất tiên tiến, tín hiệu thu được từ ăng ten khổng lồ sẽ được khuếch đại lên nhờ thiết bị khuếch đại vi sóng bằng phát xạ kích thích môi trường hồng ngọc. Để hạn chế tối đa sự nhiễu đến từ bên trong hệ thống, họ còn đặt bộ phận trung tâm của hệ thống bắt sóng này trong heli lỏng ở nhiệt độ âm 269 độ C, heli lỏng được máy bay trực thăng định kỳ vận chuyển đến để bổ sung phần tiêu hao. Làm như vậy khiến cho hệ thống có độ nhạy cực cao, có thể nhận được những tín hiệu vô cùng yếu. Diệp Văn Khiết bất giác thầm nhủ, nếu dùng thiết bị này vào công tác nghiên cứu thiên văn vô tuyến thì tuyệt vời biết mấy.
                          Hệ thống máy tính của bộ phận giám
                          thính cũng lớn và phức tạp vượt xa bộ phận phát xạ, lần đầu tiên Diệp Văn Khiết bước vào phòng máy chủ, trông thấy một màn hình CRT, cô kinh ngạc nhận ra, trên màn hình không ngờ lại có những chuỗi mã lập trình đang nhấp nháy, có thể thoải mái sửa và chạy thử bằng bàn phím. Hồi ở trường đại học, những lúc sử dụng máy tính, cô đều phải viết mã lập trình lên những trang giấy kẻ ô, rồi dùng máy đánh chữ lách ca lách cách gõ lên băng giấy. Cô từng nghe nói đến chuyện nhập liệu qua bàn phím và màn hình, giờ không ngờ lại được trông thấy thật. Nhưng điều khiến Diệp Văn Khiết kinh ngạc hơn, chính là công nghệ phần mềm ở đây. Cô biết có một thứ gọi là
                          FORTRAN(*), có thể dùng các mã lệnh gần với ngôn ngữ tự nhiên để viết chương trình, thậm chí có thể trực tiếp viết công thức toán học vào trong mã lệnh, hiệu suất lập trình của nó cao hơn việc tổng hợp mã máy không biết bao nhiêu lần. Ngoài ra, còn một thứ gọi là cơ sở dữ liệu, có thể thoải mái điều khiển một lượng thông tin vô cùng lớn.
                          (*) Ngôn ngữ lập trình máy tính cao cấp thế hệ đầu tiên, được IBM phát triển từ thập niên 1950, đến nay được coi là “tiếng mẹ đẻ của tính toán khoa học”.
                          Hai ngày sau, chính ủy Lôi Chí Thành lại tìm cô nói chuyện, lần này ở trong
                          phòng máy chủ của bộ phận giám thính, trước màn hình máy tính phát ánh sáng xanh nhấp nháy. Dương Vệ Ninh ngồi cách họ không xa lắm, vừa không muốn tham gia vào cuộc đàm thoại của họ, lại vừa không yên tâm bỏ đi, làm cho Diệp Văn Khiết cảm thấy rất không tự nhiên.
                          Chính ủy Lôi Chí Thành nói: “Tiểu Diệp, giờ tôi sẽ giải thích cho cô nội dung công việc của bộ phận giám thính, nói một cách ngắn gọn, chính là tiến hành giám sát hoạt động của kẻ địch trong không gian, bao gồm nghe lén các thông tin liên lạc giữa thiết bị hàng không vũ trụ của kẻ địch với mặt đất và thiết bị hàng không khác, phối hợp với cơ quan giám sát và điều khiển hàng không vũ trụ
                          của quân ta, theo dõi sát sao quỹ đạo của chúng, cung cấp dữ liệu làm cơ sở để Hồng Ngạn tấn công, có thể nói, đây là tai mắt của Hồng Ngạn.”
                          Dương Vệ Ninh chen vào: “Chính ủy Lôi, tôi cảm thấy anh làm vậy không ổn, thật sự không cần thiết phải nói những chuyện này với cô ấy làm gì.”
                          Diệp Văn Khiết liếc nhìn Dương Vệ Ninh ngồi cách đó không xa, bất an nói: “Chính ủy, nếu không thích hợp để tôi tìm hiểu, thì…”
                          “Không, không, Tiểu Diệp,” chính ủy Lôi Chí Thành giơ một tay lên ngăn Diệp Văn Khiết nói tiếp, quay lại bảo Dương Vệ Ninh: “Kỹ sư trưởng Dương, vẫn là
                          câu nói đó thôi, vì công việc, phải phát huy khả năng của Tiểu Diệp thêm một bước nữa, cô ấy phải biết những điều cần phải biết.”
                          Dương Vệ Ninh đứng dậy, “Tôi phải báo cáo với cấp trên!”
                          “Dĩ nhiên đây là quyền của anh. Có điều, anh cứ yên tâm, tôi sẽ chịu hết trách nhiệm về chuyện này.” Lôi Chí Thành bình tĩnh nói.
                          Dương Vệ Ninh liền hậm hực bỏ đi. “Cô đừng để ý, kỹ sư trưởng Dương
                          là thế đấy, cẩn trọng quá mức, có lúc làm
                          việc không thể thoải mái phóng tay được.” Lôi Chí Thành mỉm cười lắc đầu,
                          sau đó nhìn thẳng vào Diệp Văn Khiết, trịnh trọng nói: “Tiểu Diệp, mới đầu, mục đích chúng tôi đưa cô vào căn cứ rất đơn giản: hệ thống giám thính của Hồng Ngạn thường bị nhiễu bởi bức xạ điện từ sinh ra do hoạt động của các vết đen và tia lửa Mặt trời. Chúng tôi tình cờ đọc được luận văn ấy của cô, phát hiện cô có nghiên cứu tương đối sâu về hoạt động của Mặt trời, ở trong nước, mô hình dự đoán mà cô đưa ra là chuẩn xác nhất, vì vậy mới muốn cô đến để hỗ trợ giải quyết vấn đề này. Nhưng sau khi tới đây, cô đã thể hiện năng lực làm việc rất mạnh ở phương diện kỹ thuật. Vì vậy, chúng tôi quyết định để cô đảm nhận thêm nhiều công việc quan trọng hơn.
                          Tôi dự định thế này, để cô làm việc ở bộ phận phát xạ, rồi sang bộ phận giám thính nhằm làm quen và có hiểu biết toàn diện về hệ thống Hồng Ngạn này, sau đó sắp xếp cô làm công tác gì thì chúng ta sẽ nghiên cứu thêm. Tất nhiên, cô cũng thấy rồi đó, chuyện này có trở ngại, nhưng tôi tin tưởng ở cô. Tiểu Diệp, cần phải nói rõ, cho đến thời điểm này, sự tín nhiệm này chỉ là của cá nhân tôi mà thôi, hy vọng cô có thể cố gắng làm việc, cuối cùng sẽ giành được sự tín nhiệm của cả tổ chức.” Chính ủy Lôi Chí Thành đặt một tay lên vai Diệp Văn Khiết, cô cảm nhận được sức mạnh và sự ấm áp mà bàn tay mạnh mẽ ấy truyền sang mình, “Tiểu Diệp này, nói cho cô biết một điều mà
                          tôi thật sự hy vọng: hy vọng sẽ đến một ngày, tôi có thể gọi cô là đồng chí Diệp Văn Khiết.”
                          Lôi Chí Thành nói xong bèn đứng dậy, sải những bước vững chãi đặc trưng của người lính, rời khỏi phòng máy chủ. Hai mắt Diệp Văn Khiết ứa lệ, qua làn nước mắt, những mã lệnh trên màn hình biến thành vô số ngọn lửa đang nhảy nhót. Từ sau khi cha qua đời, đây là lần đầu tiên cô khóc.
                          Diệp Văn Khiết bắt đầu làm quen với công việc của bộ phận giám thính. Cô nhanh chóng nhận ra, ở đây không hề thuận lợi như bên bộ phận phát xạ, tri thức vốn có của cô về máy tính đã lạc
                          hậu từ lâu, phải học lại từ đầu hầu hết các công nghệ phần mềm. Tuy được sự tin tưởng của chính ủy, nhưng cô vẫn bị quản lý rất nghiêm ngặt, có thể xem mã nguồn của chương trình, nhưng không được tiếp xúc với cơ sở dữ liệu.
                          Trong công việc thường ngày, Diệp Văn Khiết chủ yếu nhận lệnh từ Dương Vệ Ninh, anh ta càng lúc càng khắt khe với cô hơn, động chút là nổi cáu. Lôi Chí Thành đã nhiều lần khuyên ngăn mà cũng không có tác dụng, dường như hễ trông thấy Diệp Văn Khiết, trong lòng anh ta lại dâng tràn một nỗi lo âu không thể gọi tên vậy.
                          Dần dần, trong công việc, Diệp Văn
                          Khiết phát hiện ra rất nhiều chuyện không thể lý giải được, điều này khiến cô cảm thấy công trình Hồng Ngạn này còn phức tạp hơn những gì cô tưởng tượng rất nhiều.
                          Hệ thống giám thính bắt được một nhóm thông tin đáng chú ý, sử dụng máy tính biên dịch và giải mã, phát hiện đó là mấy tấm ảnh chụp vệ tinh, rất mờ nhạt, đưa tới cục giám định hình ảnh của Bộ Tổng tham mưu, hóa ra đều là các mục tiêu quan trọng trong lãnh thổ Trung Quốc, có ảnh chụp của quân cảng ở Thanh Đảo và mấy nhà máy quân sự trọng điểm ở khu vực Tiền tuyến số 3(*). Qua phân tích, đã xác nhận những tấm ảnh này được gửi đi từ vệ tinh trinh sát
                          KH9 của Mỹ; vệ tinh KH9 đầu tiên vừa mới hoàn thành thử nghiệm phóng lên, chủ yếu là truyền thông tin tình báo bằng các cuộn phim gửi về, nhưng họ cũng đang tiến hành thử nghiệm một phương thức tiên tiến hơn là truyền dữ liệu số thông qua vô tuyến điện, do kỹ thuật chưa chín muồi nên tần số truyền tin không cao lắm, vì vậy lượng thông tin bị lộ ra tương đối lớn, bị hệ thống Hồng Ngạn bắt được. Cũng do đang truyền phát thử nghiệm, cấp độ bảo mật khá thấp, nên có thể phá giải được, đây rõ ràng là đối tượng giám sát quan trọng nhất, là cơ hội có một không hai để tìm hiểu hệ thống trinh sát không gian của Mỹ. Thế nhưng, ngày thứ ba, Dương Vệ Ninh lại ra lệnh
                          chuyển dịch tần số và phương hướng giám sát, bỏ ngang mục tiêu này, khiến Diệp Văn Khiết không thể nào hiểu nổi.
                          (*) Đây là một khái niệm địa lý quân sự được sử dụng trong cuộc vận động xây dựng cơ bản trên quy mô lớn bắt đầu từ năm 1964 đối với các ngành quốc phòng, khoa học kỹ thuật, công nghiệp, điện lực và giao thông nhằm chuẩn bị cho chiến tranh ở Trung Quốc. Khu vực Tiền tuyến số 3 này bao gồm 13 tỉnh và khu tự trị ở vùng Trung Tây Trung Quốc, trong đó trung tâm là khu vực Tây Bắc.
                          Thêm một chuyện nữa khiến cô kinh ngạc: tuy đã ở bộ phận giám thính, nhưng
                          cô vẫn được phân công làm một số việc ở bộ phận phát xạ. Có một lần, cô vô tình đọc được tần số thiết đặt trong kế hoạch phát xạ mấy lần tiếp theo, phát hiện trong các lần phát xạ thứ 304, 318 và 325, tần số phát xạ được xác lập thấp hơn cả phạm vi của vi sóng, không thể sinh ra bất cứ hiệu ứng nhiệt nào đối với mục tiêu phát xạ.
                          Ngày hôm đó, đột nhiên có người thông báo Diệp Văn Khiết đến văn phòng tổng bộ căn cứ, qua ngữ điệu và sắc mặt của sĩ quan đó, Diệp Văn Khiết có dự cảm chẳng lành.
                          Cô bước vào văn phòng, một cảnh tượng tựa như đã gặp đâu đây xuất hiện:
                          các lãnh đạo chủ chốt của căn cứ đều có mặt, còn có hai sĩ quan quân đội cô không quen biết, vừa nhìn đã biết là ở cơ quan cấp trên xuống, ánh mắt lạnh như băng của bọn họ đều đổ dồn vào cô. Nhưng sự mẫn cảm hình thành sau bao năm dông bão lại mách bảo cô, hôm nay người đen đủi không thể nào là cô được, cùng lắm cô cũng chỉ là một món đồ bồi táng mà thôi. Cô thấy chính ủy Lôi Chí Thành đang ngồi ở một góc, thần sắc ủ rũ. Rốt cuộc, anh ấy đã phải trả giá cho sự tin tưởng đối với mình, đây là ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu Diệp Văn Khiết. Trong khoảnh khắc ấy, cô đã thầm hạ quyết tâm, nhất định phải vơ hết sự việc vào mình để tránh không liên lụy
                          đến chính ủy Lôi Chí Thành, thậm chí cô sẵn sàng nói dối. Nhưng cô không thể ngờ, người đầu tiên mở miệng chính là Lôi Chí Thành, những gì anh ta nói lại hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của cô.
                          “Diệp Văn Khiết, trước tiên phải nói cho rõ, tôi không đồng ý làm như vậy, quyết định dưới đây là do kỹ sư trưởng Dương xin chỉ thị cấp trên rồi thực hiện, anh ấy sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm với hậu quả xảy ra.” Nói xong, anh ta liếc mắt nhìn Dương Vệ Ninh, Dương Vệ Ninh trịnh trọng gật đầu. “Để phát huy tốt hơn vai trò của cô đối với căn cứ Hồng Ngạn, những ngày này, kỹ sư trưởng Dương Vệ Ninh đã nhiều lần xin chỉ thị cấp trên, các đồng chí được phòng chính
                          trị của binh chủng phái đến cũng đã tìm hiểu tình hình công tác của cô,” anh ta đưa tay chỉ vào hai sĩ quan lạ mặt, “được cấp trên đồng ý, chúng tôi quyết định cho cô biết sự thực về công trình Hồng Ngạn này.”
                          Một lúc lâu sau, Diệp Văn Khiết mới hiểu được hàm ý đằng sau những lời này của Lôi Chí Thành: bấy lâu nay anh ta vẫn luôn gạt cô!
                          “Hy vọng cô trân trọng cơ hội này, cố gắng làm việc để lập công chuộc tội. Từ nay, cô chỉ được phép thành thật ngoan ngoãn ở lại căn cứ, không được nói năng, hành động bừa bãi, bất cứ hành vi phản động nào cũng sẽ phải gánh chịu hình
                          phạt nghiêm khắc nhất.” Lôi Chí Thành nhìn chằm chằm vào Diệp Văn Khiết gằn giọng nói, dường như anh ta đã biến thành người khác. “Đã hiểu chưa hả? Được rồi, giờ xin mời kỹ sư trưởng Dương giới thiệu cho cô Diệp Văn Khiết về tình hình của công trình Hồng Ngạn.”
                          Những người khác lần lượt rời đi, trong văn phòng chỉ còn lại hai người là Dương Vệ Ninh và Diệp Văn Khiết.
                          “Nếu cô không đồng ý, giờ vẫn còn kịp đấy.” Dương Vệ Ninh nói.
                          Diệp Văn Khiết biết được sức nặng của câu nói này, cũng lý giải được sự lo lắng của Dương Vệ Ninh khi trông thấy cô dạo gần đây. Để phát huy tài hoa của
                          cô ở căn cứ, thì buộc phải cho cô biết tình hình chân thực của công trình Hồng Ngạn, nhưng làm như vậy cũng đồng nghĩa với việc tia hy vọng cuối cùng để Diệp Văn Khiết có thể rời khỏi núi Radar cũng không còn, căn cứ Hồng Ngạn sẽ là chốn về cuối cùng của cuộc đời cô.
                          “Tôi đồng ý.” Diệp Văn Khiết khẽ khàng, nhưng kiên định.
                          Vậy là, vào buổi hoàng hôn đầu hạ ấy, giữa tiếng rít gào của cột ăng ten khổng lồ trong gió giật và tiếng thông reo ở dãy Đại Hưng An xa tít, Dương Vệ Ninh đã kể cho Diệp Văn Khiết nghe tính chất thực sự của công trình Hồng Ngạn, đây là một chuyện thần thoại thời hiện đại còn khó tin hơn cả lời nói dối của Lôi Chí Thành.

                          #13
                            huytran 30.07.2017 04:35:04 (permalink)
                            Chương 14 : Hồng Ngạn phần 3  
                             
                            Một phần hồ sơ về công trình Hồng Ngạn, thời gian giải mật của những tài liệu này là ba năm sau khi Diệp Văn Khiết kể cho Uông Diểu nghe về nội tình ở căn cứ Hồng Ngạn.
                            I. Một vấn đề quan trọng bị bỏ qua trong xu thế nghiên cứu khoa học cơ bản của thế giới (bài vốn được đăng trong “Tham khảo nội bộ” ngày ... tháng ... năm 196...)
                            Tóm tắt: Từ lịch sử cận đại và hiện đại có thể thấy, có hai hình thức để chuyển hóa thành quả nghiên cứu lý
                            thuyết khoa học cơ bản thành kỹ thuật ứng dụng: hình thức tiệm tiến và hình thức đột biến.
                            Hình thức tiệm tiến: thành quả lý thuyết cơ sở được chuyển hóa thành kỹ thuật ứng dụng theo từng bước, kỹ thuật dần dần tích lũy, cuối cùng sẽ nảy sinh đột phá. Ví dụ gần đây nhất là sự phát triển và đột phá của kỹ thuật hàng không vũ trụ.
                            Hình thức đột biến: thành quả lý thuyết cơ sở được nhanh chóng chuyển hóa thành kỹ thuật ứng dụng, sinh ra đột biến về mặt kỹ thuật. Ví dụ gần đây nhất là sự xuất hiện của vũ khí hạt nhân: cho đến thập niên 40, vẫn có một
                            bộ phận các nhà vật lý xuất sắc nhất cho rằng giải phóng năng lượng nguyên tử là điều bất khả. Nhưng không lâu sau vũ khí hạt nhân đã đột ngột xuất hiện, chuyển hóa từ khoa học cơ sở sang kỹ thuật ứng dụng có khoảng cách cực lớn trong thời gian cực ngắn, chúng ta định nghĩa đó là đột biến về mặt công nghệ.
                            Hiện nay, nghiên cứu cơ bản của NATO và khối Warszawa đã có sự nhảy vọt chưa từng thấy, đầu tư cực lớn. Vì vậy, một hoặc nhiều hạng mục có đột biến về mặt kỹ thuật là điều có thể xảy ra bất cứ lúc nào, điều này là mối uy hiếp rất lớn đối với quy hoạch chiến lược của chúng ta.
                            Bài viết cho rằng, trước mắt tầm nhìn của chúng ta chủ yếu tập trung vào việc phát triển kỹ thuật theo hình thức tiệm tiến, mà chưa coi trọng đầy đủ những đột biến về mặt kỹ thuật có khả năng xảy ra. Cần phải nhìn từ góc độ chiến lược, chế định ra một sách lược và nguyên tắc hoàn chỉnh để khi đột biến về mặt kỹ thuật xảy ra có thể ứng phó một cách đúng đắn.
                            Bài viết đã liệt kê những lĩnh vực có khả năng xảy ra đột biến kỹ thuật nhất:
                            1. Vật lý: [Lược]
                            2. Sinh vật: [Lược]
                            3. Khoa học máy tính: [Lược]
                            4. Tìm kiếm văn minh ngoài Trái đất: đây là lĩnh vực có biến số lớn nhất trong tất cả các khả năng xảy ra đột biến về mặt kỹ thuật, rất có khả năng sẽ nảy sinh thay đổi lớn đột ngột, lĩnh vực này một khi có đột biến về mặt kỹ thuật thì sức ảnh hưởng của nó sẽ lớn hơn cả tổng ảnh hưởng đột biến của ba lĩnh vực trên cộng lại.
                            Toàn văn: [Lược]
                            Chỉ thị: In văn bản này ra phát xuống. Tổ chức thảo luận trong phạm vi thích hợp. Quan điểm của bài viết có thể không hợp với khẩu vị của một số người, nhưng không thể chụp mũ, điều mấu chốt là phải nhìn vào suy xét lâu dài của tác
                            giả. Một số đồng chí hiện vẫn còn cái nhìn cục bộ, có người là do hoàn cảnh, nhưng cũng có rất nhiều người thuộc hạng luôn tự cho mình là phải. Như vậy không ổn, điểm mù trong tầm nhìn chiến lược là rất nguy hiểm. Tôi thấy trong bốn lĩnh vực có khả năng nảy sinh đột biến về mặt kỹ thuật có đề cập trong bài viết, cái cuối cùng là ít được chúng ta nghĩ tới nhất, đáng để chú ý, cần phải nghiên cứu sâu hơn một cách có hệ thống.
                            Ký tên: x x x ngày ... tháng ... năm 196...
                            II. Báo cáo nghiên cứu khả năng đột biến về mặt kỹ thuật trong thăm dò văn minh ngoài Trái đất
                            1. Xu hướng nghiên cứu quốc tế hiện nay (tóm lược)
                            (1) Mỹ và các quốc gia NATO khác: Tính khoa học và tính tất yếu của việc thăm dò các nền văn minh ngoài Trái đất đã nhận được sự đồng thuận rộng rãi, không khí học thuật hăng say; Dự án Ozma: năm 1960, đài thiên văn vô tuyến quốc gia Green Bank ở Tây Virginia đã sử dụng kính thiên văn vô tuyến đường kính 26 mét thăm dò văn minh ngoài Trái đất, thu tín hiệu đơn kênh, tần số 1.420 gigahertz, mục tiêu thăm dò là sao τ (Tau Ceti) của chòm Cetus (Kình Ngư) và sao Ɛ (Epsilon Eridani) của chòm Eridanus (Ba Giang), thời gian thăm dò khoảng 200
                            giờ; kế hoạch sẽ tiếp tục dự án Ozma II vào năm 1972, mở rộng mục tiêu thăm dò và tần số, phạm vi thăm dò; cùng năm, họ có kế hoạch phóng lên thiết bị thăm dò Pioneer 10 và Pioneer 1 . Mỗi tàu thăm dò mang theo một tấm thẻ kim loại có thông tin về nền văn minh địa cầu; kế hoạch đến năm 1977 sẽ phóng lên thiết bị thăm dò Voyager 1 và Voyager 2, mang theo đĩa nhạc bằng kim loại; năm 1963, xây dựng xong đài thiên văn Arecibo ở Pueto Rico, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thăm dò văn minh ngoài Trái đất, tổng diện tích thu năng lượng của nó là 80.000m2, lớn hơn tổng diện thích thu thập năng lượng của tất cả các kính
                            thiên văn vô tuyến khác trên thế giới cộng lại, khi phối hợp với hệ thống máy tính, nó có thể rà soát cùng lúc 65.000 tần số, đồng thời còn có công suất phát xạ siêu lớn.
                            (2) Liên Xô: thông tin tình báo tương đối ít, nhưng có dấu hiệu cho thấy họ đã đầu tư rất lớn vào lĩnh vực này, so với các quốc gia trong khối NATO, công tác nghiên cứu còn có hệ thống và kế hoạch lâu dài hơn. Qua một số nguồn tin vụn vặt tìm hiểu được, hiện nay họ đang xây dựng hệ thống kính thiên văn vô tuyến khẩu độ tổng hợp có quy mô toàn cầu dựa trên kỹ thuật giao thoa kế vô tuyến chân đế dài(*), khi hoàn thành, hệ thống này sẽ
                            có năng lực thăm dò không gian mạnh nhất thế giới trong thời điểm hiện tại.
                            (*) Thiết bị quan trắc khẩu độ tổng hợp sử dụng hai thiết bị con trở lên để cho ra kết quả là tổng hợp hình ảnh thu được từ các thiết bị đó. Tương tự, hệ thống giao thoa kế chân đế dài gồm một loạt đài quan sát con có thể đặt rải rác ở các điểm trên hoặc ngoài Trái đất, tín hiệu từ các giao thoa kế riêng lẻ được đưa về xử lý ở một trạm trung tâm.
                            2. Vận dụng quan niệm sử học duy vật phân tích sơ bộ hình thái xã hội của văn minh ngoài Trái đất [Lược]
                            3. Phân tích sơ bộ về thái độ chính
                            trị của văn minh ngoài Trái đất đối với xã hội loài người [Lược]
                            4. Phân tích sơ bộ về ảnh hưởng của việc tiếp xúc với văn minh ngoài Trái đất đến cục diện thế giới hiện tại (nếu có)
                            (1) Tiếp xúc một chiều (chỉ thu nhận được thông tin do nền văn minh ngoài Trái đất phát ra) [Lược]
                            (2) Tiếp xúc hai chiều (xảy ra giao lưu và tiếp xúc trực tiếp với nền văn minh ngoài Trái đất) [Lược]
                            5. Sự nguy hiểm và hậu quả của việc các siêu cường quốc tiếp xúc với văn minh ngoài Trái đất trước tiên và độc
                            quyền tiếp xúc.
                            (1) Phân tích hậu quả việc Đế quốc Mỹ và khối NATO tiếp xúc với văn minh ngoài Trái đất trước tiên và độc quyền tiếp xúc [Chưa giải mật]
                            (2) Phân tích hậu quả việc Liên Xô và khối Warszawa tiếp xúc với văn minh ngoài Trái đất trước tiên và độc quyền tiếp xúc [Chưa giải mật]
                            Chỉ thị: Đã đọc báo cáo vắn tắt. Người ta đã gào thét ra bên ngoài Trái đất rồi, nếu xã hội ngoài hành tinh chỉ nghe thấy tiếng nói một phía thì rất nguy hiểm, chúng ta cũng cần phải phát ra tiếng gọi của chính mình, như vậy bọn họ mới nghe thấy tiếng nói hoàn chỉnh của
                            cả nhân loại, nghe một phía thì tối, nghe cả đôi bên mới rõ ràng. Việc này phải làm, phải làm nhanh.
                            Ký tên: x x x ngày ... tháng ... năm 196...
                            III. Báo cáo nghiên cứu giai đoạn đầu của công trình Hồng Ngạn (ngày
                            ... tháng ... năm 196...)
                            Tuyệt mật, số bản gốc: 02; văn kiện tóm tắt nội dung: Văn kiện Trung ương số..., chuyển phát Ủy ban Khoa học Công nghệ Quốc phòng, các phòng ban liên quan của Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc, chuyển phát Ty quốc phòng thuộc Ủy ban Kế hoạch Trung ương, đồng thời truyền đạt trong hội
                            nghị...... và hội nghị...... Truyền đạt một phần nội dung trong hội nghị...... Số hiệu đề tài: 3760; Mã hiệu quốc phòng: Hồng Ngạn
                            1. Tổng cương (Tóm lược)
                            Thăm dò nền văn minh ngoài Trái đất có khả năng tồn tại đồng thời thử nghiệm liên hệ và giao lưu.
                            2. Nghiên cứu lý thuyết của công trình Hồng Ngạn (Tóm lược)
                            (1) Thăm dò giám thính
                            Phạm vi tần số giám thính: 1.000 megaherzt đến 40.000 megaherzt, số kênh giám thính: 15.000; trọng điểm: tần số bức xạ nguyên tử hydro 1.420
                            megaherzt, tần số bức xạ của gốc OH 1.667 megaherzt, tần số bức xạ phân tử nước 22.000 megaherzt.
                            Phạm vi mục tiêu giám thính: bán kính 1.000 năm ánh sáng, số lượng ngôi sao ước khoảng 20 triệu. Bản liệt kê mục tiêu xin xem phục lục 1;
                            (2) Phát sóng thông tin
                            Tần số phát sóng: 2.800 megaherzt,
                            12.000 megaherzt; 22.000 megaherzt.
                            Công suất phát sóng: 10-25 triệu watt.
                            Mục tiêu phát sóng: bán kính 200 năm ánh sáng, số lượng ngôi sao ước khoảng 10.000. Bản liệt kê mục tiêu xin
                            xem phụ lục 2;
                            (3) Nghiên cứu chế tạo hệ thống tự giải mã Hồng Ngạn
                            Hướng dẫn: dựa trên các nguyên lý vật lý và toán học cơ bản chung trong vũ trụ, xây dựng một hệ mã nguồn ngôn ngữ, có thể hiểu được bởi bất cứ nền văn minh nào nắm được toán học cơ bản, hình học Euclid cơ bản, và các định luật vật lý ở vận tốc thấp.
                            Dùng hệ mã nguồn trên làm cơ sở, bổ sung thêm các hình ảnh có độ phân giải thấp, từng bước xây dựng hệ thống ngôn ngữ.
                            Loại ngôn ngữ: tiếng Trung, Quốc tế
                            ngữ.
                            Lượng thông tin chỉnh thể của hệ thống là 680 KB, thời gian phát xạ lần lượt là 1.183 phút, 224 phút và 132 phút trên các kênh 2.800 megaherzt,
                            12.000 megaherzt, 22.000 megaherzt
                            3. Phương án thực hiện công trình Hồng Ngạn
                            (1) Phương án thiết kế sơ bộ hệ thống giám thính thăm dò Hồng Ngạn [Chưa giải mật]
                            (2) Phương án thiết kế sơ bộ hệ thống phát truyền tin tức Hồng Ngạn [Chưa giải mật]
                            (3) Phương án sợ bộ về việc chọn
                            lựa địa điểm xây dựng cơ sở giám thính thăm dò và truyền phát thông tin [Lược]
                            (4) Ý tưởng sơ bộ về việc xây dựng đơn vị bộ đội Hồng Ngạn thuộc Quân đoàn Pháo binh số 2 [Chưa giải mật]
                            4. (Tóm lược) nội dung truyền phát thông tin của hệ thống Hồng Ngạn
                            Tổng quan về hành tinh Trái đất (3,1 KB), tổng quan về hệ sinh thái trên Trái đất (4,4 KB), tổng quan về xã hội loài người (4,6 KB), thông tin cơ bản về lịch sử thế giới (5,4 KB), tổng lượng thông tin là 17,5 KB. Toàn bộ thông tin đi theo hệ thống tự giải mã được truyền phát ở các kênh 2.800 megaherzt,
                            12.000 megaherzt, 22.00 megaherzt lần lượt trong 31 phút, 7,5 phút và 3,5 phút.
                            Thông tin truyền phát đi phải thông qua kiểm tra chặt chẽ của nhiều ban ngành, đảm bảo không bao gồm bất cứ thông tin tọa độ nào của Hệ Mặt trời trong dải Ngân Hà. Trong ba tần số phát sóng này, cố gắng giảm bớt việc phát sóng ở các tần số cao 12.000 megaherzt và 22.000 megaherz để hạn chế nguy cơ bị định vị.
                            IV. Thông điệp gửi đến văn minh ngoài Trái đất
                            Bản thảo lần đầu tiên (toàn văn)
                            Thế giới nhận được thông tin trên đây xin hãy chú ý, thông tin mà các vị nhận được phát đi từ một đất nước đại biểu cho cách mạng và chính nghĩa trên Trái đất! Trước đó, có thể các vị đã nhận được thông tin từ cùng một phương hướng này, đó là do một siêu cường quốc theo chủ nghĩa đế quốc phát ra, đất nước này cùng với một siêu cường quốc khác trên Trái đất đang tranh đoạt bá quyền thế giới, ý đồ muốn kéo lùi lịch sử loài người. Hy vọng rằng các vị chớ nên nghe lời nói dối của bọn chúng, hãy đứng bên phe chính nghĩa, đứng bên phe cách mạng!
                            Chỉ thị: Đã đọc, như rắm chó, diễn đạt không thông! Báo tuyên truyền thì dán
                            dưới mặt đất được rồi, đừng phát lên trời, tổ lãnh đạo Cách mạng văn hóa từ nay không được gia nhập vào Hồng Ngạn. Thông điệp quan trọng như vậy cần phải được khởi thảo một cách trịnh trọng, tốt nhất là nên thành lập một tổ chuyên môn, đồng thời thảo luận thông qua trong hội nghị của Bộ Chính Trị.
                            Ký tên: x x x ngày ... tháng ... năm 196...
                            Bản thảo lần 2 [Lược] Bản thảo lần 3 [Lược] Bản thảo lần 4 (toàn văn)
                            Gửi lời chúc tốt đẹp đến với thế giới
                            nhận được thông tin này.
                            Thông qua thông tin dưới đây, các vị sẽ có được hiểu biết cơ bản về nền văn minh Trái đất. Nhân loại đã trải qua một quá trình dài lao động và sáng tạo, xây dựng nên nền văn minh rực rỡ, thể hiện nền văn hóa phong phú nhiều bản sắc, đồng thời cũng bước đầu tìm hiểu được thế giới tự nhiên và quy luật vận hành, phát triển của xuất hiện loài người, chúng tôi rất coi trọng những điều này.
                            Nhưng thế giới của chúng tôi vẫn còn thiếu sót rất lớn, ở đó có thù hận, thiên kiến và chiến tranh, do sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
                            hệ sản xuất, sự phân bố của cải không đồng đều một cách nghiêm trọng, không ít nhân loại đang sống trong nghèo khó và khốn khổ.
                            Xã hội loài người đang cố gắng giải quyết các khó khăn và vấn đề mà mình phải đối mặt, cố gắng tạo nên tương lai tươi đẹp cho nền văn minh Trái đất. Sự nghiệp mà đất nước phát đi những thông tin này đang đi theo là một phần của cố gắng ấy. Chúng tôi gắng sức xây dựng một xã hội lý tưởng, khiến cho lao động và giá trị của mỗi một thành viên trong xã hội loài người đều được tôn trọng một cách đầy đủ, khiến nhu cầu vật chất và tinh thần của tất cả mọi người đều được thỏa mãn, khiến nền
                            văn minh Trái đất trở thành một nền văn minh hoàn mỹ hơn. Với nguyện vọng tốt đẹp, chúng tôi mong có thể xây dựng quan hệ với những xã hội văn minh khác trong vũ trụ. Mong rằng các vị sẽ cùng với chúng tôi, tạo dựng nên một cuộc sống tốt đẹp hơn trong toàn vũ trụ bao la.
                            V. Chính sách và chiến lược liên quan
                            1. Nghiên cứu chiến lược và chính sách sau khi nhận được thông tin từ nền văn minh ngoài Trái đất [Lược]
                            2. Nghiên cứu chiến lược và chính sách sau khi xây dựng quan hệ với nền văn minh ngoài Trái đất [Lược]
                            Chỉ thị: Trong lúc bận rộn, thong thả đánh một nước cờ cũng là rất cần thiết, công trình này khiến chúng ta nghĩ đến rất nhiều điều trước đây chưa rảnh rang nghĩ đến, chỉ khi đứng ở trên một tầm cao mới, chúng ta mới có thể nghĩ thông được những điều này, xét riêng điểm này thì Hồng Ngạn đã có ý nghĩ rất lớn lao rồi. Nếu trong vũ trụ thật sự tồn tại sự sống và những xã hội khác thì cũng rất tốt, người ngoài cuộc thì sáng, ngàn năm công tội, thật sự có người bình phẩm rồi.
                            Ký tên: x x x ngày ... tháng ... năm 196...

                            #14
                              huytran 30.07.2017 04:38:32 (permalink)
                              Chương 15 : Hồng Ngạn phần 4  
                               
                              “Cô Diệp, cháu có một thắc mắc: lúc đó, tìm kiếm văn minh ngoài Trái Đất chỉ được coi là một nghiên cứu cơ bản ngoải rìa, tại sao công trình Hồng Ngạn lại có cấp độ bảo mật cao như vậy?” Nghe Diệp Văn Khiết kể xong, Uông Diểu hỏi.
                              “Thực ra, ngay từ giai đoạn đầu tiên của công trình Hồng Ngạn đã có người đưa ra câu hỏi này, đồng thời kéo dài đến lúc Hồng Ngạn kết thúc. Bây giờ, chắc cậu đã có đáp án rồi, chúng ta chỉ biết khâm phục tư duy vượt xa thời đại từ người quyết định tối cao của công trình Hồng Ngạn này mà thôi.”
                              “Đúng vậy, quả là vượt xa thời đại.” Uông Diểu gật đầu
                              Một khi tiếp xúc với nền văn minh ngoải Trái đất, xã hội loài người sẽ gặp ảnh hưởng ra sao và mức độ ảnh hưởng như thế nào, điều này mới chỉ được coi như một chủ đề nghiêm túc và nghiên cứu sâu một cách có hệ thống trong một hai năm gần đây. Nhưng hạng mục nghiên cứu này đã nhanh chóng nóng lên, kết luận đưa ra khiến người ta phải giật mình hốt hoảng. Những ước mong mang tính lý tưởng chủ nghĩa ngây thơ trước đây đều đã bị sụp đổ, các học giả phát hiện, trái ngược với mong muốn tốt đẹp của đại đa số mọi người, nhân loại không thể đoàn
                              kết thành một khối để tiếp xúc với văn minh ngoài Trái đất. Hiệu ứng mà sự tiếp xúc này gây ra cho văn hóa loài người không phải là kết hợp, mà là chia tách, xung đột giữa các nền văn minh khác nhau của loài người không những không tiêu biến mà còn tăng thêm. Nói tóm lại, một khi có tiếp xúc, sự khác biệt trong nội bộ nền văn minh Trái đất sẽ nhanh chóng kéo dãn khoảng cách, dẫn tới hậu quả khôn lường. Kết luận kinh người nhất là: hiệu ứng này hoàn toàn không có quan hệ gì đến mức độ và phương thức tiếp xúc (một chiều hoặc hai chiều), hay mức độ tiến hóa và hình thành của nền văn minh ngoải Trái đất mà chúng ta có khả năng tiếp xúc!
                              Đây là lý thuyết “Ký hiệu tiếp xúc” được nhà xã hội học Bill Mathers làm việc cho tập đoàn RAND đề ra trong cuốn sách Bức màn sắt 10.000 năm ánh sáng: Xã hội học của công cuộc tìm kiếm văn minh ngoài Trái đất. Ông ta cho rằng, việc tiếp xúc với nền văn minh ngoài Trái đất chỉ là một ký hiệu hoặc một công tắc, dù nội dung thế nào chăng nữa, cũng sẽ gây ra hiệu ứng giống nhau. Giả dụ, xảy ra một tiếp xúc mà chỉ chứng minh được sự tồn tại của nền văn minh ngoài Trái đất mà không có bất cứ nội dung thực chất nào – Mathers gọi đó là tiếp xúc sơ cấp – hiệu ứng đó cũng có thể bị khuếch đại qua thấu kính văn hóa và tâm lý của quần thể nhân loại, gây nên
                              ảnh hưởng mang tính thực chất cực kỳ lớn lao đối với tiến trình của văn minh. Sự tiếp xúc này, một khi bị quốc gia hoặc thế lực chính trị nào đó lũng đoạn, sẽ có ý nghĩa tương đương với thực lực kinh tế và quân sự.
                              “Vậy kết cục của công trình Hồng Ngạn thì như thế nào?” Uông Diểu hỏi.
                              “Chắc hẳn cậu có thể nghĩ ra được.”
                              Uông Diểu lại gật đầu, tất nhiên là anh biết, nếu Hồng Ngạn thành công, thế giới đã không còn là thế giới của hôm nay nữa rồi, nhưng anh vẫn nói một lời an ủi: “Thực ra, đến giờ cũng vẫn chưa biết là có thành công hay không, sóng điện mà Hồng Ngạn phát ra, hiện nay vẫn chưa đi
                              được bao xa trong vũ trụ mà.”
                              Diệp Văn Khiết lắc đầu: “Tín hiệu sóng điện từ truyền đi càng xa thì càng yếu, trong vũ trụ có quá nhiều tác nhân gây nhiễu, khả năng nền văn minh ngoài Trái đất nào đó thu được tín hiệu là rất nhỏ. Nghiên cứu phát hiện ra rằng: để một nền văn minh ngoài Trái đất trong vũ trụ bắt được tín hiệu sóng điện từ của chúng ta, công suất phát xạ của chúng ta phải tương đương với công suất bức xạ của một ngôi sao(*) cỡ trung. Nhà vật lý thiên văn người Liên Xô Kardashev từng đề nghị, có thể căn cứ theo năng lượng mà các nền văn minh khác nhau trong vũ trụ sử dụng để truyền tin mà phân cấp chúng. Ông ta chia các nền văn minh
                              trong tưởng tượng của mình ra làm ba cấp I, II và III. Văn minh cấp I có thể điều động năng lượng tương đương với công suất phát năng lượng của cả Trái đất để truyền tin liên lạc. Theo tính toán của ông ta khi đó, công suất của Trái đất ước khoảng 1015-1016 watt. Công suất nền văn minh cấp II dùng để truyền tin khoảng 1026 watt, ước tính tương đương với công suất phát năng lượng của một ngôi sao điển hình. Công suất nền văn minh cấp III dùng để truyền tin lên đến 1036 watt, bằng công suất phát năng lượng của cả một thiên hà. Hiện nay, văn minh Trái đất đại khái chỉ có thể vào cấp 0.7, thậm chí còn chưa đạt đến cấp I, mà công suất của Hồng Ngạn lại chỉ có thể
                              điều động một phần mười triệu công suất phát năng lượng của Trái đất, tiếng gọi này chỉ giống như tiếng vo ve của con muỗi cách xa ngoài vạn dặm mà thôi, chẳng có ai nghe thấy đâu!”
                              (*) Sao: hiểu theo nghĩa thiên văn học, tức một khối vật plasma có các phản ứng nhiệt hạch và do đó tự phát sáng chứ không thu nhận ánh sáng từ các thiên thể khác. Xưa còn gọi là định tinh hay hằng tinh.
                              “Nhưng nếu nền văn minh cấp II và III trong giả thiết của người Liên Xô kia thực sự tồn tại, hẳn chúng ta có thể nghe thấy tiếng gọi của họ.”
                              “Hồng Ngạn vận hành hơn hai mươi
                              năm, chúng tôi không nghe thấy gì cả.”
                              “Đúng vậy, nghĩ lại về Hồng Ngạn và tìm kiếm văn minh ngoài Trái đất, phải chăng tất cả những nỗ lực này cuối cùng chỉ chứng minh một việc: trong vũ trụ, thực sự chỉ Trái đất là tồn tại sự sống có trí tuệ?”
                              Diệp Văn Khiết khẽ thở dài: “Xét về lý thuyết, đây có thể là điều không bao giờ có được kết luận, nhưng về mặt cảm giác, tôi, và từng người đã trải qua những năm tháng ở Hồng Ngạn, đều đồng thuận điểm này.”
                              “Dự án Hồng Ngạn bị hủy bỏ đúng là rất đáng tiếc, đã lập nên rồi thì cũng nên tiếp tục vận hành, đây thật sự là một sự
                              nghiệp vĩ đại mà!”
                              “Hồng Ngạn đã suy tàn dần dần. Đầu thập niên 80 của thế kỉ trước, họ còn tiến hành một đợt cải tạo quy mô lớn, chủ yếu là nâng cấp hệ thống máy tính của bộ phận phát xạ và giám thính, hệ thống phát xạ được tự động hóa, hệ thống giám thính thì nhập hai máy tính cỡ trung của IBM, năng lực xử lý của cơ sở dữ liệu được nâng cao rất nhiều, có thể cùng lúc giám thính 40.000 kênh. Nhưng sau này, tầm nhìn mở rộng dần, mọi người cũng hiểu rõ được độ khó của việc tìm kiếm nền văn minh ngoài Trái đất, cấp trên dần dần không còn hứng thú với Hồng Ngạn nữa. Thay đổi trước tiên là cấp độ bảo mật của căn cứ bị giáng cấp, bấy giờ,
                              mọi người đều cho rằng để Hồng Ngạn ở cấp độ bảo mật cao như vậy là đem dao mổ trâu ra giết gà, binh lực canh gác căn cứ từ một đại đội giảm xuống còn một trung đội, về sau này thì chỉ còn lại một tổ bảo vệ năm người mà thôi. Cũng từ sau lần cải tạo đó, biên chế của Hồng Ngạn tuy vẫn thuộc Quân đoàn Pháo binh số 2, nhưng việc quản lý nghiên cứu khoa học lại chuyển giao về Viện thiên văn thuộc Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc, vì vậy đã nhận thêm một số hạng mục nghiên cứu không liên quan gì với việc tìm kiếm nền văn minh ngoài Trái đất.”
                              “Cô đã đạt được rất nhiều thành quả trong thời gian đó.”
                              “Thoạt đầu, hệ thống Hồng Ngạn đảm nhận một số hạng mục quan trắc thiên văn vô tuyến, lúc đó nó là kính thiên văn vô tuyến lớn nhất trong nước. Về sau, khi những cơ sở quan trắc thiên văn vô tuyến khác được xây dựng, công tác nghiên cứu ở Hồng Ngạn chủ yếu tập trung vào việc quan trắc và phân tích hoạt động của điện từ trường Mặt trời, mô hình toán học cho hoạt động của điện từ trường Mặt trời mà chúng tôi xây dựng lúc ấy là tiên tiến nhất trong lĩnh vực đó, cũng có rất nhiều ứng dụng thực tế. Có được những nghiên cứu và thành quả về sau này, khoản đầu tư khổng lồ đổ vào Hồng Ngạn coi như cũng được thu hồi lại một chút. Kỳ thực, những thành tựu này có
                              một phần đóng góp không nhỏ của chính ủy Lôi Chí Thành, tất nhiên, ông ta cũng có mục đích cá nhân. Lúc đó, ông ta phát hiện ra, làm công tác chính trị trong cơ quan kỹ thuật quân đội không có tiền đồ lắm, mà trước khi nhập ngũ ông ta cũng học ngành vật lý thiên văn, vì vậy liền muốn quay lại làm nghiên cứu khoa học. Căn cứ Hồng Ngạn về sau này nhận được một số hạng mục nghiên cứu ngoài việc tìm kiếm nền văn minh ngoài Trái đất, đều là kết quả cố gắng của ông ta.”
                              “Quay lại làm nghiệp vụ đâu có dễ thế? Lúc đó cô vẫn chưa được sửa sai, cháu thấy phần nhiều là ông ta muốn vơ lấy thành quả của cô về tên mình, phải không?”
                              Diệp Văn Khiết nở nụ cười khoan dung: “Không có lão Lôi, căn cứ Hồng Ngạn đã toi đời từ lâu rồi. Dự án Hồng Ngạn từ sau khi chuyển từ quân sự sang dân sự, phía quân đội đã hoàn toàn bỏ rơi nó, mà bên Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc thì không duy trì nổi chi phí vận hành của căn cứ, tất cả cuối cùng cũng kết thúc.”
                              Diệp Văn Khiết không nói nhiều về cuộc sống của bà ở căn cứ Hồng Ngạn, Uông Diểu cũng không hỏi. Năm thứ tư sau khi đặt chân vào căn cứ, bà và Dương Vệ Ninh lập gia đình, tất cả đều xảy ra rất tự nhiên, rất bình đạm. Sau đó, trong một sự cố ở căn cứ, Dương Vệ
                              Ninh và Lôi Chí Thành đều gặp nạn, Dương Đông sinh ra đã là trẻ mồ côi. Mãi đến giữa thập niên 90 của thế kỉ trước, khi căn cứ Hồng Ngạn cuối cùng cũng giải tán, hai mẹ con họ mới rời khỏi núi Radar, sau đó Diệp Văn Khiết làm giáo sư ngành Vật lý thiên văn tại trường cũ cho tới khi nghỉ hưu. Những điều này, Uông Diểu đều đã nghe Sa Thụy Sơn ở đài quan trắc thiên văn vô tuyến Mật Vân kể lại.
                              “Tìm kiếm văn minh ngoài Trái đất là một ngành khoa học rất đặc thù, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhân sinh quan của người nghiên cứu.” Âm điêu của Diệp Văn Khiết kéo dài ra, như thể đang kể chuyện cho trẻ con, “Giữa đêm khuya
                              vắng, trong tai nghe vang lên những âm thanh lạo xạo không có sự sống vẳng đến từ vũ trụ, những tạp âm này chỉ nghe được loáng thoáng, tựa hồ còn vĩnh hằng hơn cả những vì tinh tú kia; có lúc, lại có cảm giác những âm thanh đó giống như gió lạnh thổi mãi không bao giờ dứt trong mùa đông ở dãy Đại Hưng An, khiến tôi cảm thấy lạnh vô cùng, sự cô độc ấy, thật sự rất khó hình dung.
                              “Có khi, hết ca trực đêm, ngẩng mặt lên nhìn bầu trời, cảm thấy những ngôi sao tựa như một sa mạc đang phát sáng, còn mình thì là một đứa trẻ đáng thương bị bỏ rơi trên sa mạc đó... Tôi có cảm giác sự sống trên Trái đất này đúng là một sự ngẫu nhiên trong ngẫu nhiên, vũ
                              trụ là một cung điện khổng lồ mênh mông trống rỗng, nhân loại chúng ta là con kiến nhỏ nhoi duy nhất trong tòa cung điện ấy. Suy nghĩ này khiến nửa đời về sau của tôi có một tâm thái rất mâu thuẫn: có lúc cảm thấy cuộc sống thật đáng quý, tất cả đều nặng như núi Thái; có lúc lại cảm thấy con người sao mà nhỏ bé, chẳng đáng để nhắc đến làm gì. Nói tóm lại, cuộc sống cứ trôi qua từng ngày trong cảm giác kỳ quặc ấy, bất giác đã già lúc nào chẳng hay...”
                              Uông Diểu muốn nói mấy lời an ủi với người phụ nữ đáng kính đã cống hiến cả đời cho sự nghiệp cô độc mà vĩ đại này, nhưng những lời cuối cùng của Diệp Văn Khiết lại khiến anh chìm vào trong
                              tâm trạng thê lương giống bà, anh không còn lời nào để nói nữa, chỉ đành bảo: “Cô Diệp, hôm nào cháu đi với cô trở lại thăm căn cứ Hồng Ngạn nhé.”
                              Diệp Văn Khiết chầm chậm lắc đầu: “Tiểu Uông à, tôi không được như cậu nữa, tuổi tác lớn rồi, sức khỏe cũng không tốt, mọi chuyện cũng khó liệu trước lắm, sau này cứ sống ngày nào thì biết ngày đấy thôi.”
                              Nhìn mái tóc bạc trắng của Diệp Văn Khiết, Uông Diểu biết, bà lại nhớ đến con gái mình.

                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 36 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9