LDY Truyện dài-MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 20 bài trong đề mục
Lâm Du Yên 04.09.2019 15:28:17 (permalink)
MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI
  
CHƯƠNG CHÍN/9

Đám cưới của anh Ba Đực và chị Hai Bé được tổ chức trước tết chừng mười bữa. Sáu tháng trước, hôm đám nói, hai họ đã ấn định ngày cưới nên bà con trong xóm đều biết. Kể từ hôm ấy ai cũng nôn nao nhất là cái đám con nít loi choi .
Từ ngày nhà Hai Ốm chuyển đi, khoảng trống do ba nó bỏ lại được anh Ba Đực lấp bớt một phần. Dù ngón đờn và giọng ca chưa được điêu luyện, nhưng bù lại cái lòng nhiệt tình, sốt sắng và gương mặt rạng rở của người đang yêu giúp ảnh giành được cảm tình của hầu hết bà con trong xóm.
Những người có chân trong nhóm đưa dâu đã được cậu Sáu Sung cho biết khi đến mời từng nhà. Người ta chọn những người vợ chồng đề huề có con đàn, cháu đống để lấy hên. Má Mít Ướt không có chân trong nhóm nầy nhưng bù lại Mít Ướt được cho đi đưa dâu cùng với Sáu Ngón [tụi nó là hai đứa nhỏ duy nhất trong đoàn người đi đưa dâu ấy]. Mít Ướt mừng không biết để đâu cho hết, nhân dịp nầy má nó cùng mợ Chín Nêm cho hai đứa nó đi uốn tóc.
Phong trào uốn tóc đã tràn về xóm của Mít Ướt từ năm trước nhưng được đón tiếp một cách rất ư dè dặt, hầu như chỉ có mấy đứa nhỏ xíu tham gia mà thôi. Cả mấy làng mà chỉ có mỗi một tiệm uốn tóc của cô Tư Ngọt ở tại chợ Tân Phú, vậy mà ngày thường nó cũng vắng teo, chỉ ì xèo vào mùa tết.
Hôm ấy Mít Ướt và Sáu Ngón được hai bà mẹ dắt đi, mọi người ngồi xe lôi của ba con Thẹn. Má con Thẹn thấy vậy cũng cho nó đi theo để uốn tóc luôn làm tụi nó mừng hết lớn. Ba đứa nó hết sức hồi họp khi đứng nghe người lớn bàn cải về kiểu tóc và giá cả, má Sáu Ngón hỏi cô Tư :
-Cô ăn bao nhiêu một cái đầu vậy cô Tư?
-Kiểu tóc quắn là ba đồng. Tóc dợn là năm đồng.
-Kiểu nào quăn lâu hơn?
-Kiểu tóc quắn.
-Sao quăn lâu hơn mà lại rẻ hơn, kỳ vậy?
-Tại ít tốn công hơn.
-Vậy cô mần hết kiểu đó cho ba đứa nầy đi.
Má Sáu Ngón quyết định một cái rụp, rồi nói với tụi nó:
-Tụi bây ngồi cho đàng hoàng à nghen! Đừng có nhún nhít cái mình, lúc lắc cái đầu là kéo cắt đứt lỗ tai đó. Mần xong ngồi đây chờ tao đi chợ rồi ra rước.
Trong tiệm có năm đứa cũng cỡ tụi nó. Bốn đứa đầu trùm túi ni lông, tay cầm cây quạt, vừa phe phẩy vừa chăm chú coi hình trong mấy cuốn sách. Một con bé quấn một miếng vải trắng lớn quanh cổ phủ tới lưng quần, đang ngồi nhìn chăm chú gương mặt của nó trong cái mặt kiếng to đùng để chờ cắt tóc. Cô tư chạy vội đến để tiếp tục công việc bị bỏ dở, đang nhấp kéo bỗng cổ ngừng tay bắt một con chí trên đầu con bé đó, đặt và giữa hai móng tay cái rồi ép lại. Một tiếng nổ nhỏ cùng lúc với tia máu bật ra, con chí bị banh xác! Cái hình ảnh ấy bỗng làm cho Mít Ướt rùng mình, niềm háo hức được có mái tóc quắn tan như bọt xà bông thay vào đấy là một nỗi lo sợ bâng quơ. Khi cô Tư vừa chạm tay vào tóc của nó, nó liền giật nẩy lên một cái rồi gồng mình ngồi thẳng băng, cả người căng ra như sợi dây đàn vậy! 
Động tác đầu tiên của cổ khi cắt tóc là nhúng cây lược vào thau nước, chải đều khắp đầu để tóc ướt nằm sát xuống cắt cho dễ. Cổ dùng cán lượt vít từng nhúm tóc ra kẹp vào hai ngón tay trỏ và giữa rồi đưa kéo cắt xoẹt một nhát. Cắt xong cổ lấy mấy cây tre chẻ nhỏ như cọng chưn nhang, một đầu có cột dây thun để cuốn tóc nó lại. Lót một miếng giấy kiếng dưới từng nhúm tóc, chấm bông gòn vào chén nước thuốc uốn tóc phết lên, cuốn thật chặt tay rồi ràng dây thun rất căng. Từng chân tóc ê buốt mà nó đâu dám rên, thậm chí mùi thuốc uốn tóc cay sè, khai ngấy phả lên làm nước mắt chảy ròng ròng, nó cũng không dám đưa tay lên quẹt. Cuốn tóc xong cổ lấy cái bao ni lông trùm kín cái đầu nó lại, đưa cho nó một cây quạt lá dông rồi nói:
-Cưng cầm cây quạt nầy quạt cho tóc mau khô nghe.
Mấy đứa bé đến trước nó được lấy cái bao trùm tóc khỏi đầu, tháo cây tre xổ cho tóc bung ra rồi đi gội đầu. Cô Tư dùng cái ống cuốn tóc bằng nhựa có gai xung quanh để quấn tóc chúng lại, lấy cây kẹp xẹt kẹp cho tóc dính chặt vào ống, rồi biểu chúng ra ngồi trên những cái ghế đẩu để sẵn ngoài nắng. Cổ đưa thêm mỗi đứa một cây quạt nữa rồi nói:
-Tụi cưng quạt hết hai tay nghe, quạt thiệt mạnh cho tóc mau khô.
Một lát sau ba đứa nó cũng gia nhập vào cái nhóm đó, tụi nó ngồi một hàng dài trước cửa tiệm, dưới ánh nắng, mắt nheo lại và tay quạt liên hồi...
Khi ba bà má đến tiệm đón chúng nó, cả ba người đều cười rủ rượi, bởi gương mặt của tụi nó trông ngộ hết sức với mái tóc xoăn bung tròn, xù ra y như trái Gáo vậy ! Má Mít Ướt hỏi nó:
-Mai mốt con có muốn uốn nữa hông?
-Hông, con uốn một lần nầy thôi! 
Nỗi ân hận của nó còn tràn đầy hơn khi về đến xóm bị mấy đứa con nít vừa vỗ tay vừa hát ghẹo:
Đầu tóc quắn như lông chó xù
Xách bóp đầm hổng có đồng xu
Miệng thoa son như té giập môi
Đầu bao lưới như chài mắc gốc.

Người lớn ghẹo tụi nó bằng cách khuyên tối đi ngủ phải nằm sấp để tóc không hư, vậy mà có đứa cũng tin!

 
Ở quê của Mít Ướt hớt tóc không cần phải đến tiệm. Mỗi ngày có một bác trạc tuổi ba con Thẹn, nhà ở bên kia sông, đi chiếc xe đầm màu xanh có chở cái thùng bằng cây qua xóm nó để hành nghề cắt tóc.
Người ta nhận ra bác ấy bằng tiếng kèn bóp tay kêu" te te" gắn ở ghi đông xe. Mỗi lần có người gọi "hớt tóc" là bác thắng xe nghe một cái " ét", dựng xe vào gốc cây, tháo dây ràng đem cái thùng đồ nghề xuống. Khách hàng từ nhà bước ra hai tay xách theo hai cái ghế đẩu, một để ngồi và một cho bác ấy mượn để kê cái thùng đồ nghề lên cao.
Bác làm việc dưới tàng cây có bóng râm hoặc hàng ba của một nhà nào đó. Nếu có chỗ thì treo cái mặt kiếng lên, còn không thì để lại trong rương chờ hớt xong mới đem ra cho khách soi.
Khi khách đã ngồi yên trên ghế bác liền cầm tấm vải trắng lớn, giũ mấy cái rồi quàng quanh vai họ để tóc không rơi dính áo. Một tay bác cầm cái tông đơ còn tay kia thì đè nhẹ cái đầu của khách xuống. Bác điều khiển cái tông đơ một cách hết sức thành thạo, vừa làm vừa nói chuyện. Mấy người đàn ông ngồi chồm hổm gần đấy chờ đến phiên cũng tham gia rất rôm rả. Hớt tóc xong bác mở hộp phấn rơm, cầm cái bông phấn chậm đều khắp chân tóc, đưa khách một cái mặt kiếng, cầm một cái khác soi từ sau ót để khách có thể thấy ngay cả phía sau. Nếu khách không ưng, yêu cầu sửa một chỗ nào đó thì bác chỉnh lại ngay. Điều nầy ít khi xãy ra vì bà con đa số tính tình rất dể dãi, chỉ cần gọn gàng mát mẻ là được rồi. 
Hớt tóc cho con nít thì cực hơn một chút. Tụi nó đâu có chịu ngồi yên. Mấy đứa nhỏ xíu còn giẫy giụa, khóc la chói lói. Má nó phải gồng mình kềm mà cũng không xuễ. Bởi vậy có nhiều đứa mang cái đầu bị sọc dưa tùm lum. Những đứa khó nuôi hay hớt kiểu tóc hai hoặc ba vá để Phật bà Quan Âm độ cho mạnh giỏi. Mấy đứa đau ban mới mạnh, tóc rụng còn le hoe thì được cạo trọc để ra tóc mới khỏe hơn. Người lớn muốn cầu xin một điều hết sức quan trọng, để tỏ lòng thành khẩn họ hay vái xuống tóc. Những người bị oan ức hoặc gặp điều không may cũng cạo đầu để xả xui, hoặc ngược lại. Khi anh Lơ cưới được chị Ba Nết ảnh mừng quá nên đám cưới vừa xong là cạo cái đầu trọc lóc, bị cả xóm chộ quá trời.
Có một điều lan truyền trong mấy đứa con nít, nếu mình muốn "ếm xi bùa" đứa nào thì lấy ba sợi tóc của nó gói vô một tờ giấy, nhổ nước miếng vô rồi đem chôn. Bảo đảm đứa đó sẽ xui tận mạng, học bài không bao giờ thuộc và bị đòn liên miên.
Một ông bác khác cũng đi xe đạp và dùng cái kèn bóp tay y như vậy nhưng không phải hành nghề hớt tóc mà làm một công việc dữ dằn hơn," máu lửa" hơn, đó là nghề "thiến heo" !
Ông bác nầy thì Mít Ướt quen mặt lắm vì má nó hay gọi đến để thiến heo. Đồ nghề của bác ấy rất gọn nhẹ :một cây dao nhỏ xíu có mũi rất nhọn, một cây kéo nhỏ, một cây kim, ống chỉ trắng, một chai thuốc đỏ và một bịt bông gòn.
Mỗi lần nhà có thiến heo là Mít Ướt bỏ trốn vì nó rất sợ máu và tiếng heo kêu, chờ khi nào thấy ông thiến heo chạy xa nó mới dám về nhà. Lúc đó mấy con heo đã mệt phờ, chúng nằm mẹp với một vết rạch chừng ba phân bên hông, được may lại bằng chỉ trắng và xức thuốc đỏ. Có con đau quá nên chiều hôm đó chúng bỏ ăn một bữa.
Một người phụ nữ mập mạp hay mặc cái áo bà ba bằng ni lông nền đen, in chi chít mấy cái bông màu tím, màu vàng , màu đỏ...rất to nằm đè lên nhau. Tay xách cái giỏ có hình như cái quạt giấy xòe rộng, làm bằng những nan tre vàng óng, trạc tuổi má Mít Ướt mà bà con hay gọi là cô Hai, xuất hiện điều dặn trong xóm với một cái nghề hết sức đặc biệt: " xỏ lỗ tai", "lể đẹn", bán dầu phong, thuốc tiêu, thuốc tán trị các loại ban như ban đen, ban bạch, ban cua, ban khỉ... Ngoài ra cổ còn kiêm luôn nghề coi bói, coi tay và coi tướng.
Những đứa bé gái mới sanh vừa được đầy tháng là người nhà đã mong cô Hai rồi! Hễ nghe cái giọng thánh thót của cổ vang lên :" Nhà ai có em gái nhỏ xỏ lỗ tai, mua dầu phong về xài" là họ lật đật chạy ra kéo cổ vô nhà.
Nhà cổ có truyền thống làm nghề nầy. Má Mít Ướt có nói cho nó biết, má của cổ là người ngày xưa xỏ lỗ tai cho nó. Cổ được bà má tận tình chỉ dạy, lại rất mát tay, được bà con tin tưởng cho nên độc chiếm cả cái thị trường nầy luôn! Thao tác của cổ hết sức nhẹ nhàng, chuyên nghiệp: cầm cây kim có xỏ sợi chỉ trắng, nhúng vô dầu phong để sát trùng, thấm dầu phong lên hai trái tai của đứa bé rồi lụi một nhát ngọt xớt. Cây kim xuyên qua bên kia kéo theo sợi chỉ, cột chỉ lại thành một cái vòng nhỏ giống chiếc khoen tai vậy là xong! Chừng đó động tác mà cổ làm chưa đầy một phút. Đứa bé chỉ kịp thét lên một tiếng, mẹ nó lật đật nhét cái vú vô miệng, thế là nó quên đau, thôi khóc kê miệng nút chùn chụt liền.
Lể đẹn còn rùng rợn hơn nữa. Cổ cũng lấy kim châm vào mười đầu ngón tay của đứa bé rồi bóp mạnh để nặn ra cái hạt nhỏ xíu trắng trắng như hột tấm. Chấm cái nước màu xanh vào ngón tay trỏ, thọc sâu vô miệng thoa khắp lưỡi của nó nữa. Đứa bé đau dữ dội, khóc ngằn ngặt nghe mà xót ruột quá chừng! Cổ đi tới đâu là nghe tiếng khóc tới đó. Con nít trong xóm đứa nào cũng hết sức sợ cổ, vô tình cổ giống như hung thần của mấy đứa nhỏ. Đứa nào khó ăn khó dạy, khóc hoài không nín là bị nhát " cô Hai tới kìa" thế là tụi nó nín mất liền.
Có một người phụ nữ khác, ốm nhom đội cái thúng to đùng trên đó chất những bánh thuốc lá đầy vun có ngọn. Cô nầy nhà ở xa nên mỗi đợt bán hàng thường ghé nhà Mít Ướt để ngủ nhờ. Cổ rất vui tính, hay nói đùa, cả người cổ, dù vừa tắm xong vẫn toát ra mùi thuốc lá nồng nặc nên rất khó đến gần. Cổ biết vậy nên thường nói là sở dĩ không lấy được chồng vì hổng ai chịu nỗi cái mùi thuốc lá trên mình của cổ. Cổ hay nói: "Thà hun cái đít con bán dầu, còn hơn hun cái đầu của con bán thuốc" để trả lời những người trêu ghẹo, cứ hỏi hoài vì sao cổ ngộ như vậy mà không có chồng.
Thuốc lá được trồng từ những cù lao phía bên kia sông, và dù chỉ cách một con sông nhỏ nhưng lại thuộc về một tỉnh khác.
Ở những cái cù lao nhỏ ấy, cuộc sống và phong cảnh rất êm đềm. Gồm những mái nhà mà hầu hết đều bằng tre lá, nằm dọc ven sông. Những khu vườn trồng đủ các loại cây ăn trái, viền quanh một tấm thảm nhung là những ruộng lúa và các rẫy khoai, bắp, mía, dưa, thuốc lá... Nó y như một chiếc khăn trải bàn với những hoa văn màu nâu, màu đen, màu xanh lá cây xen lẫn. Một đường viền màu nâu đỏ bao quanh, ấy là con đường đất nhỏ, bề ngang chừng hai, ba mét có chiều dài bằng chu vi của cái cù lao. Con đường giống như cánh tay dài lê thê ôm gọn làng mạc vào lòng. Một ngôi trường giống y như trường của Mít Ướt chỉ thiếu cây Me ở giữa. Với cái cột cờ bằng tre đứng ngạo nghễ một mình giữa sân, nhìn xuống mảnh sân nhỏ xíu, chai cứng vì bị cả trăm bàn chân giẩm đạp hàng ngày. Nó chẳng mọc nổi cho dù là một cây cỏ dại! 
Nhà cửa rất thưa thớt, nơi họp chợ là những doi đất ở đầu cù lao gồm chừng năm, sáu cái chòi lá nhỏ bán những sản vật địa phương. Vào những năm lũ lớn, mấy cái chòi bị cuốn trôi theo giòng nước, hàng hóa được đặt trong mấy cái xuồng cui, bơi tới bơi lui tìm khách.
Khi Mít Ướt đã lớn, nó thường hay dắt xe đạp xuống đò qua sông, bởi thích đi trên con đường đất nhỏ ấy. Nó đạp đến mút cái doi đất, nơi con sông phình to ra để làm chỗ hò hẹn cho những nhánh sông từ các nơi khác đến. Nó vừa đạp xe vừa chăm chú nhìn xuyên qua những mảnh vườn bao quanh các căn nhà lá nhỏ. Thời ấy người ta hay trồng Cau ở sân trước, cây ăn trái ở xung quanh và sân sau. Các mái nhà bị đè đầu bởi những dây mướp tính tình phóng khoáng, thích kết bạn với mây trời và gió lộng nên bỏ qua cái giàn bé teo, thấp chủm phía dưới mà leo tuốt lên chót vót mái nhà!
Con đường luôn luôn mát rượi cho dù vào giữa trưa đứng bóng, ấy là nhờ những cây me, cây xoài, cây mận trồng kín hai bên lề. Chúng bạo dạn đến độ dám đưa tay ngang đường để nắm lấy nhau. Các căn nhà phần nhiều vắng lặng vì người lớn ai cũng đi làm đồng cả ngày. Trẻ con đi theo cha mẹ hoặc đến trường học. Chỉ có gió rất là thảnh thơi nên rảo quanh khắp xóm.




Nhà anh Ba Đực cũng ở cái cù lao nhỏ bên kia sông. Ngày rước dâu đàng trai mướn hai chiếc tàu, trang hoàng rực rỡ bằng những dây kim tuyến cùng rất nhiều lá cờ tam giác đủ màu, treo dài theo những sợi dây giăng ngang, giăng dọc.
Hôm ấy chị Hai Bé hết sức duyên dáng với chiếc áo dài xoa màu hồng, trên ngực có thêu hai con chim se sẻ đậu trên cành mai vàng. Quê của Mít Ướt trong đám cưới rất kỵ màu trắng, vì màu nầy được xem là màu tang. Chẳng những trong lễ cưới mà cả ngày tết. Nên từ cô dâu cho đến họ hàng khách khứa, không ai dám mặc áo trắng. Anh Ba Đực mặc áo thụng bằng the màu xanh dương, đội khứa cá kho[ khăn đống], chân mang giày tây bóng lưỡng. Mấy người bạn của ảnh thì mặc đồ tây, chỉ có rễ phụ là mặc giống y như ảnh mà thôi. 
Các ông, bà lớn tuổi đều mặc y phục truyền thống. Mấy ông trang sức thêm bằng những chiếc gậy có cái cán bịt bạc, bịt đồng được đánh bóng sáng chói. Những cái ống vố bằng ngà voi ngày thường ám khói hôm nay cũng được lau sạch bóng. 
Mấy bà ngoại, bà má bới đầu theo đủ kiểu. Cái đầu tóc mượn được thắt bính hay cuốn trôn ốc, đính chặt vào búi tóc thật bằng cả chục cây kim ghim có hai chân. Nó được trùm lại bằng cái bao lưới móc bằng chỉ đen, xức dầu dừa láng coóng. 
Bên trong những cái áo dài bằng gấm hoặc the in bông, chiếc áo cánh may bằng vải Ba tích phin đủ màu có hai cái túi to hết cỡ. Hai cái túi ấy chứa cả một kho tàng nho nhỏ, từ chiếc khăn mù xoa, hộp dầu cù là, tiền giấy, tiền xu... cho đến những thứ kém thông dụng khác. Bọn chúng được chặn lại bằng một hoặc hai cây kim tây rất to ghim ngang miệng túi. 
Mấy cái quần lãnh Mỹ A dịp nầy cũng được đem ra trình làng. Mỗi bà, mỗi cô mặc một hoa văn khác nhau : nhỏ nhứt là hột mè, bông dâu rồi to hơn như bông cúc, bông hồng, bông sen... Ai không thích bông thì xài mặt đệm, sọc dài hoặc một dài một ngắn gọi là mẹ bồng con, ai thích giản dị thì mặc trơn ... 
Họ trùm trên đầu những chiếc khăn voan mỏng, hoặc khăn lụa in bông. Người lớn tuổi quàng khăn quanh cổ hoặc đội lên đầu, cột thắt núc dưới càm, thả hai múi khăn lòng thòng trước ngực. Người trẻ hơn cũng trùm đầu nhưng quấn vòng qua cổ, cột rồi giấu mối rất kỹ [kiểu nầy được gọi là "choàng hầu"] . 
Mấy cô gái được mời bưng quả, đưa dâu ai cũng mặc áo dài màu. Họ đẹp như thoát xác dù chỉ với một chút xíu phấn hồng và son môi trên má. Trong số ấy nổi bật nhất là chị Thêu- chị em bạn dì với cô dâu ở Sài gòn- bởi mái tóc quắn với từng lọn bằng chang ngón tay cái của người lớn, ôm sát đầu y như một dĩa chả giò cuốn rất đều tay. Chỉ đi đôi hài cườm cao gót, mặc nguyên một bộ áo dài bằng tơ màu mỡ gà trông hết sức là sang trọng. Ông thầy giáo trẻ quê ở Cần Thơ, bà con với anh Ba Đực, đi trong đám rước dâu cứ nhìn đắm đuối thiếu điều muốn rước chỉ đi luôn.
Có lẽ vì mấy cô gái bên đàng trai qua rước dâu quá xinh và các cô thôn nữ trong xóm hàng ngày rất đơn sơ, hôm nay bỗng trở nên lộng lẫy, nên mấy anh con trai lúc đầu sợ bắt quân dịch không dám đưa dâu, nay ráp nhau đi ráo. 
Số bà con ở xa về dự cũng nhiều hơn dự tính. Ai cũng đòi đi đưa dâu. Hai chiếc tàu nhỏ không chở đủ, nhóm thanh niên tháo mấy chiếc xuồng cột sẵn dưới bến, rồi cứ một anh chở một chị, nhường chỗ trên tàu cho mấy cô bác lớn tuổi. Cái đám cưới ấy trở nên hết sức đặc biệt với hai chiếc tàu chầm chậm đi đầu, dắt theo hơn một chục chiếc xuồng. Trên ấy có các chàng trai còn ngượng ngập trong những cái áo sơ mi mới tinh còn cứng nếp hồ, những cái quần tây ủi li bén ngót, vung đều tay đưa chiếc xuồng lao vùn vụt. Các cô gái hai tay vừa ôm quả vừa kềm chặt hai vạt áo dài. Chúng như hai đôi cánh cứ đập loạn xị như muốn thoát ra mà chạy theo làn gió vậy! Mấy tà áo dài ấy lao xao như những cánh bướm đủ màu, đủ sắc bay rập rờn. Những cặp có chút tình ý với nhau, đây chính là buổi đại yến cho đôi mắt của họ. Nó hùng biện quá làm lòng chàng chao đảo như chiếc xuồng đang nhồi sóng và đôi má nàng rực rỡ như ánh nắng trên sông.
Tối hôm trước, khi lạy xuất giá chị Hai Bé khóc thôi là khóc, đau lòng vì bỏ ba má chỉ ở lại một mình. Mít Ướt đứng xem mà hết sức lo lắng, sợ chỉ buồn quá rồi không chịu lấy chồng nữa thì uổng cái đầu tóc quăn và bộ đồ mới của nó biết mấy. Sáng sớm vừa ngủ dậy là nó chạy liền đến nhà chỉ để thăm dò coi tình hình như thế nào, thấy chỉ cười tươi rói nó mới yên lòng thở khì nhẹ nhỏm ! Mít Ướt phát hiện nó và Sáu Ngón không hẹn mà cùng mặc hai bộ đồ giống hệt nhau, màu vàng cam có in hình mấy chiếc bánh Tây đủ loại. Hóa ra hai bà má của tụi nó đều mua vải của chú Dìm. Chú nầy là người Hoa, hàng ngày đẩy chiếc xe bán vải, kim, chỉ, núc... đi giáp vòng trong xóm. Áo tụi nó cũng may cùng một kiểu, cổ lá sen, tay phùn, túi dún, hiện là cái mốt thịnh hành của mấy bé gái. Mít Ướt móc túi lấy ra hai cây kẹp con bướm, nó cho Sáu Ngón cây màu đỏ giữ lại màu vàng. Hai đứa kẹp lên tóc cho nhau, rồi cùng tấm tắc khen lẫn nhau rằng: "Mầy kẹp con bướm nầy lên coi lịch sự quá!".
Trước đám cưới mấy hôm ba Hai Ốm có về, khỏi phải nói là bà con trong xóm mừng như thế nào. Nhờ có ổng mà đám cưới của chị Hai Bé trở nên rình rang hết sức! Cái nhóm đờn ca được qui tụ lại đầy đủ. Chẳng những hầu hết bà con trong xóm đều đến nghe ba nó hát mà cả xóm trên và xóm dưới, những người hâm mộ ổng, cũng đến ngồi chật hết mấy cái bàn tròn kê sẵn để nhóm họ. Xúc động trước lòng ưu ái của mọi người ba nó hát liên tục bốn bản. Ngoài bản ruột là "Dây Khổ Qua", ổng còn ca thêm ba bản nữa là "Ngưu lang chức nữ", "Cây Trứng Cá", "Võ Đông Sơ-Bạch Thu Hà". Bà con vỗ tay rần rần làm ổng hăng máu nên càng hát càng hay. Mít Ướt ngồi nghe say sưa rồi ngủ gục hồi nào hổng biết.
Hôm mới về ổng ốm nhom đen thui, ăn mặc tươm tất mà gương mặt buồn hiu, mãi tới hôm sau mới thấy cười. Có lẽ ổng giấu nụ cười trong ngôi nhà cũ trước khi đi, bây giờ về mới moi ra xài lại. Mít Ướt và con Thẹn cứ lẽo đẽo đi theo hỏi về Hai Ốm, bà con trong xóm cũng bu lại hỏi thăm má và mấy đứa em của nó. Ba Hai Ốm tánh lạc lòng lắm ! thấy mọi người vồn vả, ổng xúc động quá vừa nói chuyện vừa lén chùi nước mắt.
Qua đám cưới cả tuần cũng không thấy ba Hai Ốm đi về Cà Mau mà còn rục rịt làm đồng trở lại. Nghe đâu ổng tính ở lại luôn. Một hôm bà Bảy Đởm, chỗ thân tình với ba Hai Ốm không thua nhà Mít Ướt, kể cho má Mít Ướt nghe là từ hôm về Cà Mau ba Hai Ốm chỉ ở nhà vợ được chừng mười bữa. Bị họ bạc đãi và xem thường quá mạng ổng chịu hổng thấu nên ở nhờ nhà bà chị luôn tới giờ. Mấy cậu và dì của Hai Ốm không có ưa ba nó, bởi vậy kỳ nầy sẵn về dự đám cưới, ba Hai Ốm quyết định ở lại luôn. Má Hai Ốm có hứa khi nào bà ngoại Hai Ốm hết bịnh hoặc mãn phần thì sẽ về theo ba nó. Mít Ướt nghe xong lật đật nói cho con Thẹn biết. Hai đứa nó mừng khấp khởi rồi lại lo lo, không biết Hai Ốm bây giờ giàu rồi có thèm chơi với tụi nó nữa hông.
Khoảng mấy tháng sau khi hai đứa nó đang đi đồng mót mía. Mấy cây mía nầy bị sâu, bù lạch ăn hoặc bị bỏ sót. Hai đứa mót được một bó to gần chục cây. Chúng lấy lá mía bó lại rồi khệ nệ khiêng về. Đang đi bỗng tụi nó nghe một giọng hết sức thân quen, hét lồng lộng vang dội khắp cánh đồng:
- Mũi ơi! Ướt ơi ! tao về rồi nè!
Hai đứa nó cũng kêu to hết cỡ :
-Hai Ốm!
Rồi cả hai cùng liệng bó Mía xuống đất, phóng phăng phăng trên những cục đất cày lởm chởm, tay dang rộng. Chúng ôm nhau nhảy cà tưng, buông tay ra, nhìn tận mặt nhau rồi cùng hỏi:
-Ủa! mầy cũng uốn tóc rồi hả?

Khoảng năm mươi năm sau, có một buổi chiều, nó đang đứng ngoài ban công, chợt bắt gặp trong gió một mùi thơm rất quen, rất nhẹ...Cái mùi hương bềnh bồng ấy, chở theo cả một miền đất nhớ... 


Những lần gội đầu cho má ngày xưa chợt hiện về một cách vô cùng sống động. Từng hình bóng thân thương, như một đoàn diễu hành, lần lượt đi qua và cùng đưa tay vẫy gọi:


Kìa là Ông ngoại, với chiếc xe đòn giông, buổi chiều, con đường cộ và những chùm bông Trang, bông Điệp.


Bà ngoại, với hai hàm răng cắn chặt một đầu của sợi dây chuối, cái đầu dây bên kia được quấn vào ngón tay trỏ, cố nức đòn bánh tét thật chặt tay.


Dì Bảy Xuyến trong gian bếp ngào ngạt mùi thơm của bánh mứt. Nét mặt hết sức trang trọng, cầm cây dao với ngón tay út cong lên, dùng mũi dao để cạy bánh ra khỏi khuôn một cách nhẹ nhàng, khéo léo.


Cậu Út Thảo cùng những đêm học bài dưới ngọn đèn dầu. Cây thước gỗ dầy cộm bề ngang cỡ ngón chân cái và những cái khẻ tay rất đau khi nó viết chữ xấu hay làm toán trật. 


Chị Hai trên chồng gối chất cao xem nó biểu diễn các điệu múa Ấn Độ, trao những phần thưởng nhỏ xíu nhưng luôn mang lại cho nó một niềm vui to lớn.


Chị Ba và cái nắm tay trong những buổi chiều cùng lang thang ngoài đồng. Và hơi ấm từ bàn tay nhỏ bé, mềm mại ấy như đã ngấm sâu, ở lại mãi trong lòng bàn tay của nó. Và niềm tin yêu được nhận và trao đi, tạo nên một cảm xúc quá đẹp, quá sâu lắng, đến mức khơi dậy một nỗi buồn. Và những lời tâm sự quá thầm kín nên phải kề sát tai, phải thì thầm thật nhỏ, vẫn còn để lại trên đôi má nó, dấu vết của từng hơi thở đi qua...


Rồi, những hình ảnh xưa cũng trở mình thôi thúc. Miền quê trãi rộng với nhiều sắc độ của màu xanh. Ánh trăng chơ vơ độc thoại trong mùa nước lũ. Con đường đất lấm tấm bóng nắng từ những vòm cây luôn xao động, với ba đứa con gái nhỏ vừa đi vừa choàng vai nhau, vừa cùng ngồi xuống đứng lên liên tục, vừa cùng hát: "Cặp kè ăn muối mè ngồi xuống, ăn rau muống đứng lên"...


Mắt nó mờ đi vì đẫm nước, rồi, nó nghe vang vang bên tai, cái tiếng gọi mà một thời xiết bao thân thuộc, "Mít Ướt ơi! Mít Ướt à!..."

-HẾT-
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 18:43:12 bởi Lâm Du Yên >
#1
    Lâm Du Yên 04.09.2019 18:33:36 (permalink)
    MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI  

    CHƯƠNG TÁM/9

    Quê của Mít Ướt, chùa là nơi gần gũi, thân thuộc được bà con lui tới nhiều nhất. Có thể nói đó là một ngôi nhà chung, một bà mẹ chung cho tất cả mọi người. Hầu như ngày nào cũng có người đến viếng, vào những ngày rầm thì đông hơn đến gấp trăm lần .
    Một năm có bốn ngày rầm lớn : Rầm tháng giêng, rầm tháng tư, rầm tháng bảy và rầm tháng mười. Vào những ngày nầy, không khí trong làng sống động hẳn lên, một niềm vui bàng bạc khắp nơi. Ở ngoài đường, nhất là bến đò lúc nào cũng có đông người, già, trẻ, gái trai mặt mày rạng rở, ai cũng mặc những bộ quần áo vừa may trong dịp tết.
    Chị Cà chèo đò hôm ấy cũng diện hơn ngày thường. Thay cái áo bà ba vải ú màu đen hàng ngày bằng chiếc áo tơ Bắc màu xanh lá mạ. Cái nón lá dầy cui có lót thêm một lớp lá chuối khô ở giữa đã bung vành cũng được nghỉ giải lao ít hôm. Thế chỗ nó là cái nón bài thơ có viền lớp vải xoa màu tím quanh vành với cái quai cũng bằng nhung tím. Chị chải tóc thật tươm tất, hai bên mép tai được vén cao kẹp lại bằng bốn cây kẹp xước chia đều mỗi bên hai cây. Mái tóc dài chấm eo được tóm gọn lại giữa lưng bằng cây kẹp ba lá. Đuôi tóc đen bóng với mùi dầu dừa phảng phất, ló ra ngoài cái nón lá cứ đong đưa theo từng nhịp chèo của chị. Hai hàm răng cũng được chị chùi trắng bóng bằng vỏ cau chấm than Đước cà nhuyễn. Hai trái tai có hai chiếc bông tòn ten với hai hột bẹt. Hột phía trên nhỏ gắn sát vào lỗ tai, phía dưới lớn hơn nằm trong cái lồng bằng vàng mười tám, làm gương mặt của chị sáng hẳn lên.
    Những cô gái trong xóm đều ăn mặc đẹp, chải đầu, kẹp tóc và đeo bông na ná giống chị. Mấy chàng trai cũng diện sơ mi tay ngắn, quần tây hẳn hoi chớ không ăn mặc tuềnh toàng như ngày thường, bởi đây là dịp để họ gặp gở, thăm dò nhau một cách kín đáo.
    Mấy ngày nầy chị Cà mệt lử, chèo không ngớt tay vì khách đi đò lúc nào cũng đứng chờ đầy bến. Anh Ba Đực thấy vậy bèn đem xuồng qua chở giúp. Đến trưa thì chị Cà Em, em của chị Cà ra thay cho chỉ còn anh Hai Hỉ thay cho anh Ba Đực. Đến tối thì lại có thêm hai người khác nữa ra chèo thế.
    Thường thì quá chạng vạng đò không đưa nữa, nhưng vào những ngày rầm lớn có quí thầy thuyết pháp bà con nán lại chùa để nghe. Họ lác đác ra về nên đò phải đưa lai rai đến tận nửa đêm.
    Cái nghề chèo đò có thể nói là cực nhất vì giờ giấc co giản, luôn bị kêu ca hối thúc. Có khi ngồi chờ cả buổi chẳng thấy ai, vừa chèo đến nửa sông để rước khách đang kêu inh ỏi bên bờ bên kia, thì nghe tiếng gọi giật ngược của một vị vừa mới tới. Thế là phải quay mũi đò, chèo ngược lại để rước. Có những người khách nóng tính vừa chờ một chút là kêu réo om sòm, đò rước chậm thì cự nự õm tỏi. Lắm khi vừa bưng chén cơm lên tay chưa và được miếng nào, lại phải lật đật bỏ xuống vì khách cần đi gấp để bắt kịp xe. 
    Nhà Mít Ướt ở sát bến đò. Có những đêm khuya lơ, khuya lắc cả xóm đều chìm trong giấc ngủ, kể cả mặt trăng cũng không còn thức. Bỗng nghe tiếng kêu đò lồng lộng. Tiếng kêu đò trong đêm khuya nghe rờn rợn làm sao! Nó mang mùi vị của chết chóc, của điềm dữ, của bất trắc làm người nghe cứ cồn cào trong ruột. Sáng ra mọi người tìm đến chị Cà để hỏi thăm, thường đó là những trường hợp bệnh nặng hoặc tai nạn phải đi rước thầy khẩn cấp.
    Khi ông ngoại Mít Ướt còn sống vào những ngày rầm ông thường bao đò trọn hai ngày, mười bốn và mười lăm âm lịch để chở bà con đi chùa miễn phí, vì cả hai ngôi chùa : Ngói và Lá đều nằm bên kia sông.
    Chùa Ngói lâu đời hơn chùa Lá. Gọi chùa Ngói vì mái chùa được lợp bằng ngói. Chùa rộng và lớn gấp đôi, gấp ba chùa Lá, lại nằm ở giữa một khu vườn sầm uất trồng rất nhiều cây ăn trái, nên trông đầy vẽ thâm u, cổ kính. Vị sư trụ trì đã già lắm ! Ông có rất nhiều đệ tử đang tu ở các ngôi chùa trong nước, chỉ giữ lại bên mình có hai vị sư trẻ, mà bà con hay gọi là "thầy Lớn" và "thầy Nhỏ ".
    Mỗi năm đến ngày rầm tháng bảy, các vị đệ tử cùng trở về chùa thăm thầy. Nhiều vị trên đầu có những dấu phỏng hình tròn như đầu đũa, do đốt "lều" để lại. Người ba chấm, người sáu chấm, người chín chấm. Vị cao niên nhất còn có đến mười hai chấm.
    Vào hai đêm mười bốn, mười lăm các vị nầy đăng đàn thuyết pháp cho bà con. Ai có thắc mắc về đạo cứ hỏi thoải mái các thầy sẽ trả lời rốt ráo cho đến khi bà con thông suốt. Những buổi giảng ấy thường kéo dài đến hơn nửa đêm mới dứt.
    Dịp nầy chùa được trang hoàng và làm mới lại. Những lớp rêu trên mái ngói được cạo xuống. Cổng được sơn màu đỏ chói, cờ ngũ sắc được giăng dọc lối đi. Mấy cây cột tròn rất to được phết dầu bóng lưỡng, bệ thờ cũng được đánh Vẹc Ni lại. Chánh điện thật lộng lẫy với những pho tượng được phết thêm lớp nhủ. Tất cả như vừa tắm gội và mặc áo mới nên trông hết sức uy nghi, sinh động. Khu vườn cũng được dọn sạch cỏ, lá vàng được gom lại đốt, thậm chí cả cây, hoa và lá hầu như cũng tươi hơn, đẹp hơn và xanh hơn.
    Nhà bếp ngày thường rộng rinh, hôm nay như nhỏ lại bởi chất đầy phẩm vật và tấp nập người nấu nướng. Mấy miệng lò với những cái nồi rất to đang bốc hơi thơm phức, được nấu liên tục. Chủ yếu là để đải khách thập phương vì các tăng, ni chỉ thọ thực mỗi ngày một bữa vào đúng ngọ.
    Mít Ướt, con Thẹn, Sáu Ngón và con Ý rủ nhau đi chung. Đứa nào cũng mặc đồ mới, mặt mũi tóc tai gọn gàng sạch sẽ. Bà Sáu, bà dì của Sáu Ngón hổm rày ở luôn trong chùa để lo việc bếp núc. Bà nấu ăn rất khéo nên những dịp lễ lạc rất được trọng dụng. Sáu Ngón dựa hơi nên hôm nay cũng được nhóm bạn nể mặt, tụi nó kéo nhau vào bếp tìm bà. Bà đang ngồi tét bánh vào những chiếc dĩa to. Mấy đòn bánh tét nầy được nhuộm nhiều lớp màu, màu tím từ lá Cẩm, màu xanh từ lá Dứa, màu đỏ cam của trái Gấc và màu vàng của Nghệ. Bà cho mỗi đứa một khoanh đầu đòn bánh, mấy khoanh nầy không đẹp nên không được chưng trong dĩa. Ăn xong tụi nó còn được bà cho thêm mấy miếng bánh bò nướng, bánh da lợn, bánh khoai mì ...cái nào cũng hết sức là ngon.
    Trước rầm mấy ngày, bà con đã mang thực phẩm đến cúng dường. Trong chùa có rất nhiều người lớn tuổi đến làm công quả, gương mặt người nào cũng hết sức rạng rỡ. Hầu như ai cũng ao ước khi về già được khỏe mạnh, được làm việc cho nhà chùa để tích phước lại cho con cháu. Câu " ráng để đức lại cho con cháu" là điều mà những ông già bà cả hay khuyên nhủ với nhau, thường được lập đi lập lại trong các câu nói nhiều nhất, cũng như câu "làm lành lánh dữ", "một câu nhịn chín câu lành" và " có đức không sức mà ăn" vậy!
    Cả làng hầu như đều tập trung ở chùa vào ngày rầm tháng bảy. Đây là ngày lễ "Vu Lan" còn gọi là "Báo Hiếu", là dịp để con cái cầu an , cầu siêu cho cha mẹ. Ở nông thôn chữ Hiếu được đặt lên hàng đầu, ca dao có câu:
    Mỗi đêm, mỗi thắp đèn trời
    Cầu cho cha mẹ sống đời với con
    Thế nên nhà nhà đều chong một ngọn đèn trứng vịt suốt đêm trước bàn thông thiên để cầu cho cha mẹ sống lâu trăm tuổi. Những người con có hiếu được xem như đạt tiêu chuẩn làm dâu, làm rễ, khỏi có lo ế vợ, ế chồng.
    Người lớn đến chùa để nghe giảng về giáo lý, để trình bày nguyện vọng và xin ơn trên gia hộ. Trai, gái đến chùa ngoài việc lễ Phật còn có mục đích gieo duyên với nhau. Đám loi choi thì đến chùa để được ăn chè, xôi, bánh, trái thả dàn [điều nầy phổ biến đến nỗi cái chữ "chùa" đi theo sau một động từ, thường mang ý nghĩa là một hành động miễn phí. Thí dụ như "ăn chùa" là ăn khỏi trả tiền, "làm chùa" là làm không tính công...].

    Mít Ướt ăn "chùa" ở chùa Lá nhiều hơn chùa Ngói. Má nó qui y ở chùa nầy nên vào ngày rầm và thỉnh thoảng ngày thường hay dắt nó đi theo để thắp nhang lạy Phật. 
    Chùa lá chỉ có một vị Sư Ông vừa làm từ vừa trụ trì. Ông rất già nhưng trông vẫn còn khỏe, gương mặt có nhiều nép nhăn và ánh mắt rất tinh anh, hay mặc cái áo vạt hò màu nâu và quần đáy nem cùng màu. Ông ít nói, ít giảng dạy, nhưng chính cái đức bình dị, tính hiền từ của ông làm cho mọi người kính mến muốn gần gũi, thân cận.
    Chùa cất ở giữa cánh đồng, theo kiểu một gian hai chái. Mái và vách đều bằng lá dừa nước chầm lại thành từng tấm, chỉ hơi rộng hơn các căn nhà bình thường một chút. Nếu không có tấm bảng để tên chùa và hai ông Thiện, Ác đứng trước cửa thì người ta sẽ cho đó là một căn nhà để ở bởi nó không có vẽ gì đặc biệt.
    Xung quanh chùa là một khu vườn với những cây xoài đã già cổi lắm. Trước sân trồng toàn hoa và kiểng. Hôm tết mấy chậu Mai trổ hoa đầy kín các nhánh. Vô số cánh hoa vàng ngủ nướng trên tấm thảm xanh làm bằng Cỏ Sữa, Càng Cua, Me Đất...chắc êm ái lắm nên chúng nằm hoài không chịu dậy!
    Mùa hè nầy những cây Lựu gom hết màu sắc của từng tia nắng lại, tô hết lên những cánh hoa có hình dáng như chiếc kèn nhỏ xíu bằng ngón tay cái. Màu đỏ hừng hực ấy làm chúng trở nên quá đỗi rực rở, kêu sa. Những trái lựu to, nặng trĩu kéo mấy cái cành ốm nhom la đà gần sát đất. Tụi con nít cứ nhìn chầm chập, xốn con mắt và ngứa tay quá chừng mà đâu dám bẻ. Chúng sợ bị đòn và nhất là sợ mang tội "phá chùa" vì đó là cái tội lớn nhất. Phạm phải là bị thiên lôi đánh chết tươi liền và không bao giờ được đi đầu thai, suốt đời nằm dưới mười tám tầng địa ngục!
    Dù chỉ có một vị sư nhưng chùa và vườn đều được chăm sóc kỹ bởi hàng ngày đều có người đến làm công quả. Ngày rầm, người đến viếng đông không thua gì chùa Ngói. Lúc ấy Sư Ông mới mặc cái áo choàng màu nâu dài phết gót, mang đôi giày vải và cầm trên tay một xâu chuỗi dài có đến một trăm lẻ tám hột.
    Nhà bếp nhỏ nên mấy dịp nầy các ông táo phải dời gót ra bên ngoài, tạo cơ hội cho mùi thức ăn len lỏi vào chánh điện. Mít Ướt ngồi sát bên má cứ phồng mũi đánh hơi, nào là mùi Cà Ri, mùi tương xào nước cốt dừa xả, ớt, đậu phọng, mùi chè Thưn, mùi xôi Vị...làm cho nó cứ nuốt nước miếng thay vì niệm Phật.
    Ngày thường chùa vắng lắm, có nhiều khi má và nó vô chùa chẳng gặp ai. Hai má con cứ tự tiện ra sau bếp mượn dĩa sắp bánh, trái cây, nhang đèn dâng lên bàn thờ, lấy nhang đốt cúng lạy xong rồi về. Nếu có việc cần hỏi ý kiến Sư Ông, má dắt nó ra ngoài vườn tìm. Sư Ông hay nằm trên chiếc võng giăng ở hai cây xoài tận cuối vườn để đọc sách. Nó khoanh tay lại chào:
    -Thưa Sư Ông con mới tới!
    Sư Ông vói tay kéo võng, đu mình ngồi lên, bỏ chân xuống đất rồi vừa đi vừa hỏi:
    -Tụi con lễ Phật chưa?
    -Dạ rồi! Con định nhờ thầy xem giùm ngày cất chuồng heo với ngày bắt heo, con tính nuôi một con heo nái.
    Đây là một trong những lý do mà má nó và bà con trong xóm thích đến chùa Lá, vì ngoài việc lễ Phật họ còn nhờ Sư Ông coi tuổi, coi ngày, cúng sao, giải hạn...Tóm lại, những điều không hoàn toàn thuộc phạm vi đạo Phật.
    Sư Ông lật quyển sách rất dày để sẵn trên bàn. Nó rất cũ được viết bằng chữ Tàu. Sửa lại cặp mắt kiếng đã gãy mất một gọng, phải cột sợi dây thun vòng ra phía sau đầu cho nó nằm yên trên mắt, nhìn chăm chú rồi nói :
    -Ngày mốt dựng chuồng là hay nhứt, nếu không kịp thì để qua mùng bảy tháng sau cũng được nhưng không tốt bằng, còn bắt heo thì...
    Trong khi má ngồi hầu chuyện, Mít Ướt lẻn ra vườn để tìm trái rụng. Nó đi dọc theo con mương cho đến cuối vườn. Cái võng Sư Ông nằm khi nãy bỏ trống đong đưa rất nhẹ như mời gọi. Nó hơi e ngại nhưng rồi không cưỡng lại được, leo lên nằm lót tay sau ót nhìn xuyên qua lớp lá. Tàng cây rộng y như cái rây lọc bớt ánh sáng làm nắng trở nên rất dịu. Những đám mây trắng trôi bềnh bồng giữa bầu trời xanh thẫm trên kia đang cố nghiêng đầu nhìn lén nó qua từng kẻ lá. Tiếng chim ríu rít và mùi ổi chín thoang thoảng làm tai và mũi nó mở to nhưng mắt thì cứ từ từ nhắm lại. Nó ngủ cho tới khi nghe nhột dưới lòng bàn chân cùng tiếng thôi thúc của má liên tục bên tai:
    -Dậy lẹ, dậy lẹ đi con, vô thưa Sư Ông rồi về!


    Cất chuồng xong, má lên nhà dì ÚT Hơn mua một con heo con về để nái. Dì Út Hơn giàu nhờ nuôi heo, dỉ toàn là nuôi heo nái. Heo của dì đẻ khỏe, đẻ sai. Một bầy từ mười con trở lên, có bầy lên tới mười bốn mười lăm bởi vậy bán đắc lắm. Ai muốn mua đều phải dặn trước.
    Hôm má đi bắt heo có cho Mít Ướt đi theo. Má xách theo cái bao bố để lát nữa bỏ nó vô trùm lại. Đến nơi gặp lúc con heo mẹ đang cho bầy con bú. Nó nằm nghiêng đám heo con xúm xít bên mình, mỗi con ngậm một cái vú màu hồng hồng căng tròn của con heo mẹ mà nút chùn chụt. Tội nghiệp mấy con chọn những cái vú nằm phía dưới. Tụi nó phải nằm sát xuống đất mà bú, tư thế không hề thoải mái, đã vậy cứ bị mấy con kia giẫm lên mình. Chúng vừa bú vừa húc mỏ thật mạnh, có con tinh nghịch cắn và kéo cái vú dài ra hết cỡ. Con heo mẹ bị đau, ngóc cái đầu lên nạt to một tiếng nó mới thôi không kéo nữa. Hẩm hiu nhất là cái con heo đèo. Nó xí nhầm cái vú lép bú chút xíu là sữa cạn queo, cứ chạy tới chạy lui năn nỉ mấy đứa kia cho nó bú chực một miếng mà không có con nào chịu hết. Dì Út thấy vậy lấy cái bình sữa, đổ nước cơm sôi có bỏ đường vào rồi bồng nó lên tay cho bú y như con nít vậy. Bú no nê xong tụi nó bỏ đi, một vài con nán lại không biết vì còn đói hay ghiền bú. Dì Út chỉ một con heo Lang [heo lông trắng có những đốm đen], đang chúi đầu bú mãi miết nói:
    -Dì bắt con heo nầy nè, nó tham bú nhất đàn đó, có tới mười sáu cái vú, con heo nầy để nái tốt dữ lắm!
    Má Mít Ướt bồng con heo đó lên, nó kêu "ét, ét" và cong người cố vùng ra. Thấy má đếm mấy ngón chân của nó, dì Út bèn nói:
    -Dì đừng có lo, bầy heo của tui hổng có con nào năm móng đâu!
    Mít Ướt hỏi:
    -Heo năm móng thì sao hả dì?
    -Mấy con heo đó đâu có ai dám nuôi. Lỡ mua rồi cũng đem thả thôi chớ bỏ tiền, bỏ công nuôi tới lớn cũng đâu có ai dám mua xẻ thịt. Tại cái cốt của nó là người ta đầu thai lộn chỗ đó con.
    Má kêu Mít Ướt banh miệng cái bao bố ra rồi bỏ con heo vào. Dù được má ôm thật nhẹ trên tay nó vẫn cứ kêu suốt dọc đường, chỉ khi về đến nhà bỏ vô chuồng mới im miệng lại.
    Mấy hôm sau má qua nhà dì Sáu Tý đổi lúa lấy một giạ nếp ngon đem về xay để mang qua chùa cúng tạ lễ. Má đem cái cối xay ra lau chùi cho thật sạch .
    Cối xay lúa cũng tương tợ như cối xay bột, gồm hai phần: Thân dưới cố định, thân trên có khoét một miệng cối rộng khoảng một gang để đổ thóc vào đó. Hai thân cối có đường kính bằng nhau, khoảng chừng năm tấc, bộ khung làm bằng tre với cả hai mặt cối trám bằng đất sét. Trên hai mặt cối những nan tre xếp đồng tâm nhô lên chùng nửa li, miệng cối rất rộng. Thân cối trên có hai tay quay, mỗi tay quay có khoét một lỗ nhỏ để cắm cái mỏ của càng xay hình chữ T vào.
    Má đổ thóc vào miệng cối rồi hai má con đẩy càng xay thật đều tay tạo thành một lực giúp thân cối trên quay tròn. Thóc lọt xuống rãi đều trên mặt cối, được mấy nan tre nhô lên xát vào nhau làm tróc vỏ. Nếp và trấu văng ra xung quanh hông cối, rớt vào tấm đệm lót sẵn phía dưới.
    Xay xong má đổ nếp còn lộn trấu vào máy giê để tách trấu ra. Nếp vẫn còn lẫn một ít thóc, má cho vào cối để giả. Cối làm bằng thân cây to khoét một hố tròn ở giữa. Má đổ nếp vào đó rồi dùng chày cây giả thật đều tay cho đến khi cám bay ra mới dừng chày lại. Cuối cùng má sàng để tách cám ra khỏi nếp.
    Đầu tiên má dùng cái sàng lỗ rộng gọi là "sàng bắt tấm" để lấy nếp còn nguyên hột. Tay má xoay chiếc sàng thật tròn và thật đều tay. Nếp chạy theo vòng xoáy hướng tâm đẩy thóc gom lại thành một nhóm ở giữa. Má hốt thóc ra rồi trút nếp vào bao bồng bột để hôm sau mang qua chùa tạ lễ .
    Phần nếp nát còn lẫn cám được má dùng cái sàng lỗ nhỏ hơn gọi là "sàng bắt cám" để lọc lấy tấm. Tấm nầy được ngâm nước rồi xay thành bột để làm bánh Ít Trần, bánh Ú, bánh Tai Yến...còn cám thì trộn chung với chuối cây giả nhuyễn để cho heo ăn.
     
    Việc cởi bỏ cái áo cho hạt lúa qua nhiều công đoạn vất vả như vậy [ấy là còn chưa tính đến việc gieo trồng, gặt hái...], cho nên người nông dân rất quí trọng, chẳng những lúa gạo mà tất cả những sản vật được thiên nhiên ban tặng hay do con người tốn sức làm ra. Trong các tính xấu, tính hoang phí, lười biếng được coi là hành vi vô đạo đức, bị lên án nhiều nhất.
    Hồi đó mỗi lần theo ông ngoại ra đồng, Mít Ướt thấy ông cứ lượm từng hột lúa rơi bỏ vào túi áo, nó hỏi:
    -Nhà mình lúa nhiều lắm rồi, ngoại lượm thêm làm chi vậy ngoại!
    Ông ngoại liền rầy:
    -Con không được xem thường mấy hột lúa nầy. Nó là hột ngọc của ông trời cho mình, phải biết quí trọng, bỏ là ông trời giận lắm, không cho có cơm ăn đó con !
    Từ đó nó cũng bắt chước ông, hễ gặp lúa là cúi xuống lượm, ăn cơm không dám bỏ mứa, ăn xong là vét cái chén sạch bách không chừa một hột cơm nào sót lại.
    Chẳng riêng gì nó mà hầu hết con nít trong xóm đều được dạy bảo y như vậy! Đứa nào lỡ hái trái ổi còn chát cũng ráng ăn cho hết chớ liệng bỏ là bị la dữ lắm! 
    Ngoài ra chúng còn được dạy phải biết yêu thương mọi người. Ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ, hạt mầm nhân ái đã được gieo vào. Khi lớn lên, biết nói bập bẹ và đi chập chửng, mọi người giúp phát huy thêm bằng cách cứ hỏi đi hỏi lại hoài cái câu:
    -Con thương má[ ba, ông, bà...] không? Để ở đâu?
    Rồi dạy chúng trả lời:
    -Thương, để trên đầu.
    Quê của Mít Ướt không có đội cứu hỏa. Không có những tổ chức cứu tế, từ thiện bởi đó là bổn phận chung của tất cả mọi người. Tính lương thiện của hầu hết cư dân giúp cuộc sống luôn an ninh, chẳng ai lo chuyện bị mất mát và cho dù ra đồng suốt ngày cũng không nhà nào đóng cửa. Ai cần mượn món gì cứ vào lấy tự nhiên, xài xong đem trả lại liền. 
    Bà con hay đặt rau, trái, "cây nhà lá vườn" bày bán trong những cái rỗ để trên ghế đẩu chổng ngược đưa bốn cái chân lên trời đặt sát lề đường. Bỏ đó rồi đi làm công việc, ai mua thì cứ lấy rồi để tiền vô rỗ. Giá cả được mặc định là năm cắc bạc một bó rau. Các thứ trái cây như ổi, mảng cầu, vú sữa...được bọc trong lá chuối thành từng gói, giá mỗi gói cũng là năm cắc bạc. Có lẽ nhờ thế mà ông trời thương, quê Mít Ướt không có ai bị đói. Trời còn cho tôm cá đầy sông, nhà nào hầu như cũng biết cách bắt cá và giữ gìn không cho nguồn cá nầy cạn kiệt. Ai hớt tép mà lỡ dính cá đòng đòng [cá lóc con] là phải bắt ra đem trả lại sông liền.
    Có một lần Mít Ướt thấy má Hai Ốm lấy cục đất sét bọc buồng trứng cá, gói vào tấm lá chuối rồi thả vào nước. Nó hỏi:
    -Mợ bọc trứng vô đất để chi vậy mợ?
    Má Hai Ốm trả lời:
    -Để nó nở ra cá con .
    -Sao mợ hổng ăn cái chùm trứng luôn?
    -Ăn như vậy uổng lắm, lủm một miếng là hết, để nó nở ra cả trăm, cả ngàn con cá nữa mặc sức mà ăn.
    Từ lúc đó Mít Ướt không còn thích ăn trứng cá nữa. Khi nào thấy con cá có trứng bị giết là trong lòng nó không vui.
    Nông dân, kẻ làm ra lương thực để duy trì cuộc sống ấy, đều là những người chân chính. Họ sống lành mạnh, có trách nhiệm với cộng đồng, nhiều tình thương và lòng trắc ẩn, luôn chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau. Có thể nói họ là tác phẩm hoàn hảo nhất của thượng đế, nếu người muốn tạo ra ra một sinh linh sống hài hòa, thân thiện với muôn loài khác. 
    Dân tỉnh, thành thường đem cái tính đơn sơ chơn chất của họ ra trêu. Hễ thấy người nào ngơ ngác, dễ tin, ăn mặc không đúng mốt thì gọi là dân " lúa, ruộng, quê", và thường cho họ là những người thiếu văn hóa. Thực ra họ chính là những người ứng xử văn minh nhất, nhân đạo nhất, ít xâm hại thiên nhiên nhất. Họ không bòn rút đến cạn kiệt tài nguyên của trời ban rồi hoàn lại toàn những thứ độc hại. Họ là người gánh chịu nhiều rủi ro, thiệt thòi hơn những ngành nghề khác, công sức bỏ ra rất nhiều mà thu nhập chẳng đáng là bao!
    Cần, kiệm là tính chất căn bản của người nông dân, má Mít Ướt là một trong những nhân vật điển hình cho hai đức tính nầy. Hai bàn tay của má hầu như chẳng được nghỉ ngơi trừ lúc ngủ. Hai bàn tay với mười cái móng cắt sát rạt đầy những dấu chai, luôn luôn chạm vào một thứ gì đó. Hai bàn tay thoăn thoắt như đôi chân trên đường đua bất tận ấy, không phải lúc nào cũng được tưởng thưởng bởi nghề nông luôn gặp nhiều bất trắc. Bà con hay ví là " bưng cơm đưa tới miệng còn chưa ăn được". Rất nhiều lần trên mặt má đầm đìa nước mắt, vì bầy heo chết, vì đám đậu xanh bị sâu, rầy triệt hạ... Rồi cũng phải chùi nước mắt và tiếp tục làm lại bởi đâu ai đành lòng nhìn đất bỏ hoang!
    Tính tiết kiệm của má được thể hiện mọi lúc mọi nơi, bằng những cây tăm được chẻ từ những lóng tre vụn. Bằng từng chiếc lá , cọng rơm được gom lại để đốt thành tro làm phân bón. Bằng mấy cái ống khói đèn bị bể, mảnh kính, chiếc dép đứt, hủ chao, lon sữa bò... để dành bán ve chai.
    Trên sợi dây phơi giăng giữa hai cây Sầu Đâu trồng cặp sát bên vách nhà, xen giữa mấy cái quần đen, áo bà ba của má, áo kiểu cổ lá sen của Mít Ướt là những cái bọc ni lông trong suốt được má giặt đến lần thứ hai, thứ ba gì đó! Chúng được lộn trái, giũ thẳng, bị ghìm chặt trên dây bởi nhũng chiếc kẹp làm bằng cây, chúng cứ chặn đường những cơn gió lại, vẫy tay mãi miết xin quá giang nhưng nào có được, đau lòng quá nên chúng cứ cất tiếng rên "phần phật" mãi không thôi!


    Những cơn gió đa tình, chẳng những làm tan nát lòng mấy cái bọc ni lông ấy, còn mang theo rồi bỏ lại phía sau vô số thân xác và trái tim khô héo của những chiếc lá vàng. Lôi cuốn tất cả những gì bắt gặp trên đường kể cả cái ca nhôm treo tòn ten trên nhánh điệp, vốn hết sức chung tình, cũng rung động vì chúng. Nó cứ đu đưa qua lại như chực bay theo, cho nên cái khạp da bò đứng ngay bên dưới nó, sát gốc điệp, cạnh cái cầu thang đúc bằng xi măng rất to dẫn lên nhà ngoại, cứ lặng người đi vì hồi họp.
    Cái khạp ấy có tên là " khạp rửa chân", nó chứa được gần hai đôi nước. Mỗi ngày Mít Ướt có nhiệm vụ xách cái thùng thiếc nhỏ dung tích năm lít - vốn là cái thùng đựng dầu cải đã xài hết- xuống bến múc lưng thùng rồi mang lên đổ cho đầy khạp. Cầm cái ống tre có đục mấy cái lỗ nhỏ, chứa sẵn một cục phèn chua nằm gọn bên trong, khuấy đều trong nước. Động tác nầy gọi là "lóng phèn" mục đích làm cho đất kết tủa lại, chìm xuống giúp nước được trong. Mít Ướt rất thích ngắm những cái xoáy nước bị hút sâu như bột chạy trong họng cối xay ấy nên cứ khuấy mãi mê. Có lần tan hết cả cục phèn to bằng ngón chân cái làm cái lu nước chua lè, cũng may là nước rửa chân nên không bị đổ bỏ. 
    Miếng gạch Tàu được kê sát gốc cây Điệp để đứng rửa chân trước khi bước lên sàn gỗ. Mục đích tận dụng nước để tưới cho cây, nhờ vậy mà bông của cây điệp rất đỏ và trái rất lớn. 
    Cái ca nhôm được treo tòn ten trên nhánh thấp nhất của cây, những ngày đầu Mít Ướt phải nhón chân mới chạm tới rồi lần lần lấy xuống dễ dàng. Mỗi lần đi ra ngoài về đến cầu thang là bị nhắc rửa chân cho dù có mang dép hẳn hoi. Nó rửa chân rất nhiều lần trong ngày nên khi ông ngoại còn sống, sợ cây điệp bị úng nước, ông cứ luân phiên dời miếng gạch Tàu theo thứ tự qua gốc cây lý, ổi "Xá Lỵ", vú sữa rồi trở về dưới gốc cây điệp lại.
    Từ ngày ông ngoại mất đi miếng gạch ấy cứ ở hoài dưới gốc cây lý, cái cây ấy bắt đầu rụng dần lá rồi chết, không biết vì bị ngộp nước hay vì nhớ ông. Chẳng riêng gì nó cả cây mai, cây ổi "Xá Lỵ", cây lồng mứt, cây xoài "Tàu"... cho dù đã được để tang ông, chúng cũng bỏ đi theo chớ không thèm ở lại.
    Cứ mỗi lần "ông già E" [người ta gọi ông già bị câm đi xin bằng cái tên ấy] ghé vào, ổng hay lại cái khạp đó múc nước rửa mặt, tay rồi uống. 
    Mặc dù nước trong khạp nầy cũng giống hệt như cái lu nước uống đặt trước hiên, cũng được gánh từ dưới sông lên rồi lóng phèn cho trong. Nhưng vì bị gọi là "khạp rửa chân", nên khi thấy ổng uống nước trong ấy là Mít Ướt không chịu được. Nó canh ổng vừa tới là ba chân bốn cẳng chạy ra hàng ba múc một ca nước uống đem xuống cho ổng, rồi mới chạy vô bếp xúc cho ổng nửa lon sữa bò gạo.
    Có một lần ổng dùng ca nước của nó đưa để rửa mặt rồi múc nước trong cái "khạp rửa chân" uống làm nó tức muốn phát khóc. Nó bèn nghĩ ra một cách. Hễ nghe tiếng gậy khua từ ngoài cổng là rót liền một ly cối nước trà mang ra đợi sẵn, riết rồi ổng quen, chờ uống nước trà rồi mới đi.
    Bà con trong xóm hay mượn cây gậy của "ông già E" để chọc vô cái rún bị lồi của mấy đứa con nít, đây gọi là chửa mẹo. Người ta cho rằng cứ mỗi lần ổng giộng cây gậy xuống đường là cái rún được đè thụt vô một chút, rồi từ từ sẽ trở lại bình thường. Mấy người có bầu hơn chín tháng mười ngày mà chưa nằm ổ, phải đi xin gạo khắp xóm ăn để đẻ. Thay vì vậy họ xin lại của ổng một nắm gạo để khỏi mắc công vác cái bụng đến từng nhà. Mỗi lần có ai mượn gậy hay xin gạo là ổng vui lắm, chỉ ghét mấy đứa con trai hay le lưỡi giả câm để ghẹo. Thằng Mum, thằng Mại bị ba của tụi nó đánh quá chừng vì cái tội nầy nên từ đó không dám chọc ổng nữa.
    Cái lối chữa mẹo được bà con tin dùng lắm ! Mỗi lần Mít Ướt bị nổi mục lẹo trên mí mắt, má đều lấy sợi chỉ trắng cột vào ngón tay áp út. Hễ mắt trái thì cột tay mặt và ngược lại, không hề uống hay xức một miếng thuốc nào vậy mà mấy ngày sau cái mục ấy lặn mất tiêu mất biệt.
    Chị Tư Thợn bị trúng gió méo mặt được chửa bằng cách lấy máu lươn phết lên cái phía không méo [cơ bên đó bị liệt], làm vài lần là trở lại bình thường liền, rất ư hiệu nghiệm !
    Ngày mùng năm tháng năm, đúng lúc đứng bóng. Mít Ướt cùng tụi con nít trong xóm đứng chùm nhum lại với nhau. Cùng ngước mắt nhìn mặt trời, nháy mấy cái để đảm bảo năm đó không bị nhặm mắt. Rồi kéo hết xuống sông tắm để giải mấy lời thề ẩu và trút hết mọi tội lỗi. 
    Tắm xong nó cảm thấy trong lòng hết sức nhẹ nhàng, tự hứa sẽ sống thật đàng hoàng, không nói dóc, không thề tùm lum... Nhưng rồi sang năm, đến ngày ấy, nó lại xuống sông và xem ra còn lội nhiều hơn năm trước.
    Cái lối chữa "mẹo" ấy còn áp dụng cho cây cối. Chiều ba mươi tết, để hù mấy cái cây không chịu có trái người ta hay cho một đứa bé leo lên cây rồi gia chủ cầm cái rựa đứng dưới gốc ngước lên hỏi:
    -Dạ xoài [ Nhản, Cam, Bưởi...]
    Thằng bé đó trả lời :
    -Dạ!
    -Năm nay mầy chịu có trái hông?
    -Dạ chịu!
    -Nhiều hông?
    -Dạ nhiều!
    -Thiệt hông? Mầy mà nói láo là tao đốn bỏ đó! [vừa nói vừa đưa cái rựa lên cao như sắp chém xuống]
    Thằng bé ngồi trên cây nói lẹ:
    -Ông đừng đốn con, năm nay con trổ trái đầy cành cho ông. 
    Thế rồi nó leo xuống, chắc chắn năm ấy cái cây đó sẽ có trái, mọi người tin như đinh đóng cột vậy!

    Ngoài ông già "E", hàng năm dưới bến dì Sáu Tý đều xuất hiện một chiếc ghe tam bản chở hai vợ chồng của một ông bác lớn tuổi với cô con gái trạc bằng chị Hai Bé. Đó là một gia đình hành khất.
    Lần đầu gặp họ Mít Ướt rất ngạc nhiên. Họ không nói những câu gợi lòng thương của mọi người mà chỉ ngắn gọn mấy tiếng: "Mỗi năm đáo lệ một lần..." rồi chìa cái bị có hai cái túi ra. Nó chưa biết phải làm sao thì má bảo:
    -Vô múc nửa lon gạo ra cho đi con!
    Nó ngạc nhiên đực mặt ra đến mấy giây, vì trong đầu nó những người đi xin phải rách rưới, tiều tụy ...Còn ba người nầy mặt mũi tươi tắn, ăn mặc tươm tất gọn gàng.
    Chờ cho họ đi khỏi, má mới giải thích rằng đó là những người có ông bà hay cha mẹ đi xin ăn nên theo tục lệ, mỗi năm gần đến ngày giỗ của thân nhân [người ngày xưa đi hành khất], họ phải đi xin gạo, tiền về làm đám giỗ. Má nói thêm:
    -Coi bộ cái gia đình nầy giàu dữ lắm!
    -Sao má biết vậy má? Nó ngạc nhiên hỏi.
    -Thì hai mẹ con đều mặc quần Mỹ A láng mướt , bộ con hổng thấy sao?
    Lãnh Mỹ A, niềm hãnh diện của quê hương Mít Ướt, là một loại tơ lụa nổi tiếng nhất vùng. Nó bắt nguồn từ những sợi tơ bé xíu được nhả ra từ miệng con tằm, được kéo sợi, dệt thành những tấm lụa, rồi đem nhuộm bằng mủ của trái mặc nưa để có màu đen tuyền. Lúc đó mới được mang cái tên là "Lãnh Mỹ A".
    Để có những sợi tơ ấy việc đầu tiên là phải nuôi tằm hay thường gọi là "chăn tằm".
    Chăn tằm là một nghề rất cực, được so sánh với nghề nông bằng hai câu:
    Làm ruộng ăn cơm nằm
    Chăn tằm ăn cơm đứng.
    Thật vậy, để có được những mãnh lụa mềm sờ tay vào nghe như lướt trên mặt nước ấy, ta phải vất vả qua rất nhiều công đoạn:
    Trước tiên tằm được ươm từ mấy cái trứng nhỏ xíu cho đến khi nở thành những con giống hệt con sâu. Những cánh đồng dâu bạt ngàn là nguồn thức ăn của nó. Lá dâu được hái khi trời bắt đầu hửng nắng, đem về xắt nhuyễn rải vào những cái nong tre chứa tằm trong đó. Mấy con sâu nhỏ xíu ấy tiêu thụ một lượng lá dâu nhiều gấp mấy mươi lần trọng lượng cơ thể của nó. Chúng chỉ nằm một chỗ và làm một công việc duy nhất là ăn ! Chúng nhai lá dâu suốt ngày, phát ra tiếng rào rào êm tai y như tiếng mưa rơi rất đều rất nhẹ. Để chỉ một người ăn không biết mệt bà con thường ví "ăn như tằm ăn rổi".
    Khi con tằm bắt đầu chuyển sang màu đỏ, gọi là tằm "chín", nó sẽ bắt đầu nhả tơ bao phủ khắp thân. Lớp tơ nầy dầy dần lên lấp kín toàn bộ cơ thể nó, tạo thành một khối hình bầu dục to cỡ cái trứng cúc gọi là kén. Kén thường chỉ có hai màu vàng và trắng. Những cái kén nầy được lấy tơ bằng cách thả vào nồi nước đang sôi trên bếp để nó bung cái mối tơ ra. Người ta dùng đũa để vớt mối tơ đó ra khỏi nồi nước, quấn vào ống, cho vào Guồng quay rồi mới dệt thành những tấm tụa.
    Những tấm lụa màu trắng hoặc vàng óng, có chiều dài hơn hai mươi thước ấy được đem nấu cho mềm đi, rồi mới được mang đi nhuộm. 
    Để nó có màu đen tuyền người ta phải dùng đến mủ của một loại trái nhỏ, tròn như viên bi có màu xanh như cẩm thạch, thường trồng ở Campuchia và các miền gần biên giới có tên là mặc nưa.
    Trái mặc nưa được cho vào cối quết nhuyễn, nhồi trong nước để lấy cho hết chất mủ màu vàng chứa bên trong nó, rồi vắt y như vắt dừa nạo cho đến khi sạch hết mủ, nước trắng bóc họ mới thôi. Những tấm lụa được đem nhúng vào đó, vắt khô, đem phơi, xả, nện, hồ bóng ...Cho đến khi nó đen tuyền, bóng mượt và phải mất cả tháng trời mới xong. 
    Mủ mặc nưa chẳng những làm tấm lụa trở thành màu đen, mà làm đen luôn móng tay của những ai làm nghề "nhuộm hàng", kể cả mấy đứa con nít hay lượm hột Mặc Nưa ăn. Mấy cái hột nầy màu trắng, to cỡ gấp hai, gấp ba hột gạo, ăn lạt nhách, dẻo dẻo như trái Dừa Nước. Móng tay và răng của chúng cũng đen thui luôn! Phải tẩy bằng thuốc, nếu không sẽ mất một thời gian rất dài chúng mới trắng trở lại như xưa.
    Do cần nhiều công sức để hoàn thành nên lãnh Mỹ A đẹp và mắc tiền hơn tất cả loại vải vóc, tơ lụa khác. Giá trị của nó vượt qua công dụng, hầu như không còn là hàng hóa nữa mà trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Cho nên nó được xem như một món quà tặng vô cùng quí giá. Thể hiện tình thương và lòng trân trọng của người tặng một cách rất hùng hồn. Thậm chí trở thành một sính lễ bắt buột mà nhà trai phải mang qua nhà gái, cùng với đôi bông cưới, để khẳng định giá trị của cô dâu. 
    Và hầu như tất cả phụ nữ vào thời ấy, ai ai cũng đều mong có một cái quần bằng lãnh Mỹ A. Bởi khi làn da chạm vào lớp lụa mát rượi mềm mại ấy, nó sẽ cho họ một cảm xúc ngọt ngào, êm ái y như được ve vuốt. Giúp họ có cảm giác như mình được nâng niu, được đẹp hơn, trở nên hãnh diện và tự tin hơn!
     
    (Xem tiếp CHƯƠNG CHÍN/9)





     


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 18:41:30 bởi Lâm Du Yên >
    #2
      Lâm Du Yên 04.09.2019 18:56:14 (permalink)
      MỘT LẦN "CHUYỀN" LẠI
      CHƯƠNG BẢY/9

      -Thẹn ơi, mầy có ở nhà hông vậy?
      -Tao ở ngoài sau nè, mầy ra đây đi!
      Mít Ướt chạy tót ra sau nhà. Con Thẹn ngồi chồm hổm trên tấm giạt tre dùng làm sàn nước, đang mài hột thị lên cái nắp lu nước bằng sành kê sát bên.
      Mít Ướt hỏi:
      -Thấy cô Tấm chưa? 
      Con Thẹn lắc đầu:
      -Chưa, tao mỏi tay thấy mồ nè!
      Mít Ướt xăn tay áo lên rồi nói:
      -Đưa tao mài cho!
      Con Thẹn mừng húm giao cho nó liền. Mít Ướt cầm hột Thị được mài gần một phần ba, nhìn cái bàn tay trắng bợt với mấy đầu ngón tay nhăn nhúm của con Thẹn rồi hỏi:
      -Hồi tối mầy có rình coi cô Tấm chui ra hông vậy?
      Con Thẹn gật:
      -Có mà đâu có thấy, chắc tại ba tao ngáy lớn quá cổ sợ, còn mầy?
      -Tao ngủ tuốt luốt tới sáng bét luôn, tối nay tao phải ráng thức mới được.
      -Chừng nào gặp cổ mày nhớ qua kêu tao nghe!
      -Tối hù tao hổng dám đi đâu, thôi để tao xin má mầy cho mầy tối nay qua ngủ với tao, mầy chịu hông?
      -Chịu! 
      Hôm qua má con Thẹn đem về mấy trái thị, con Thẹn cho nó một trái, nó mừng lắm. Thật ra nó không thích ăn thị. Trái thị có mùi rất thơm nhưng vị chát, ít ngọt, cơm nhão nhẹt. Nó vốn ưa mấy loại trái giòn giòn như cóc, ổi nên không khoái. Có điều tụi nó tin rằng có cô Tấm nằm trong hột của trái thị, nên đứa nào cũng hăm hở bỏ vô lu gạo chờ nửa đêm xem cổ chui ra. Tụi nó còn mài cái hột để cố tìm cho ra cổ nữa.
      Ở xóm nó nhà nào cũng mua mấy tấm giấy có in truyện tranh như: "CON TẤM CON CÁM", "PHẠM CÔNG CÚC HOA","SƠN TINH THỦY TINH"... treo hai bên vách để trang trí. Tụi nó xem riết rồi thuộc lòng vanh vách. Mấy nhân vật đó trở nên quen thuộc và thân thiết như người nhà, cho nên tụi nó nôn gặp dữ lắm! 
      Nhà ông ngoại treo kín mấy tấm hình thật lớn do cậu Út đem về. Một tấm với cả mấy chục con chim đủ loại khác nhau, mấy tấm khác là bông, bướm, cá... đủ màu rất đẹp, ngày nào nó cũng nhìn mà không hề thấy chán.
      Nó rú lên:
      -Thấy rồi nè Thẹn ơi! 
      Con Thẹn giựt lấy cái hột trong tay nó vừa nhìn chăm chú vừa hỏi:
      -Đâu, đâu, sao tao hổng thấy gì hết?
      Mít Ướt chỉ vào cái hình trắng đục nằm chính giữa:
      -Cổ nè!
      -Sao hổng có mặt mũi, đâu thấy giống cổ đâu?
      -Tại mình mài từ đàng sau nên chỉ thấy cái lưng của cổ thôi, cổ ngồi gục cái đầu xuống khóc đó, mầy thấy chưa?
      Con Thẹn không tin, vặn lại:
      -Sao mầy biết cổ khóc?
      Mít Ướt đáp, rất tự tin:
      -Thì bị nhốt trong cái hột nhỏ xíu như vầy ai mà hổng buồn, hổng khóc ?
      -Bây giờ cổ có chui ra được chưa vậy?
      -Tao cũng hổng biết nữa, hay mình cứ giấu trong lu gạo coi cổ có chui ra hông?
      -Tao vái ông trời cho cổ chui ra để quét nhà, rửa chén giùm tao.
      -Không biết chỗ con Ốm có cái trái nầy hông mậy ? Cho nó đỡ cực.
      -Chắc có, mà bây giờ nó đâu có còn cực nữa, nhà nó giàu rồi. 
      Con Thẹn đáp bằng cái giọng buồn hiu.
      Mít Ướt tự trách mình, khi không hỏi lạc đề làm chi cho cả hai đứa đều buồn, để cứu vãn nó bảo con Thẹn:
      -Chút nữa đi tắm sông mầy nhớ kêu tao nghe!
      -Bộ mầy hổng sợ thằng Đá Lửa kéo giò hả?
      -Tao hết sợ nó rồi ! Hôm bữa kia nó còn vớt giùm tao chiếc dép trôi dưới sông. Nó nói không có giận tao nữa .
      -Hèn gì mà mầy đi học bằng đường lộ, vậy là trưa nay tao với mầy đi tắm sông hén! Mình rủ thêm con Ý với Sáu Ngón để chơi chị em gần xa cho vui, mầy nhớ đem theo trái gòn nhe!
      -Ừ
      Lâu lắm rồi nó không dám tắm sông nên nôn quá xá cỡ. Ngủ trưa xong nó liền xin má, má hơi ngạc nhiên hỏi:
      -Bộ hết mắc cỡ rồi sao?
      Má cứ tưởng nó không tắm sông vì mắc cỡ.
      Cả bốn đứa tụi nó kéo nhau xuống cái bến sát bên hông nhà con Thẹn. Cái bến nầy có chiếc cầu bằng cây dừa thả nằm chúi xuống nước với phần gốc gát lên bờ. 
      Đa số những chiếc cầu ở quê Mít Ướt đều làm theo kiểu nầy, bằng cây dừa già bị trốc gốc hoặc cây gòn. Cây dừa thì để nguyên chỉ chặt bỏ cái đọt còn gòn thì phải vạt bỏ hết nhánh chỉ chừa cái thân cây trụi lủi, đẽo thành từng bậc thang trên mặt để đi không trợt.
      Chỉ có bốn đứa thôi mà náo động cả một bến sông. Mít Ướt lội dở nhất trong nhóm nên liên tục bị bắt, bị thua trong mấy trò chơi, phải đòng đòng mấy đứa kia trên lưng rồi liệng xuống nước. 
      Ba đứa kia lội giỏi lắm chúng không còn ôm cây chuối mới dám lội ra xa như nó nữa. Nó đã chết hụt một lần nên không dám đi ra chỗ nước sâu quá đầu. Mấy đứa kia cứ chờ Chị Cà đẩy đò ra là bám quanh mép đò, quá giang đi một khúc xa rồi mới buông tay lội vô bờ trước đôi mắt thèm thuồng của Mít Ướt.
      Hai Bé xuống bến gánh nước, nhìn màu đục ngầu đành chép miệng:
      -Tụi bây có mấy đứa mà quậy đến nổi bà thủy cũng chóng mặt luôn, nước như vầy làm sao mà gánh đây!
      -Chị đưa thùng đây em ra chỗ nước trong múc vô cho! 
      Mít Ướt hăng hái.
      Hai Bé từ chối:
      -Thôi để chị qua bến dì Sáu Tý gánh. 
      Nói rồi quày quả bỏ đi.
      Mít Ướt hỏi vói theo:
      -Sao chị hổng kêu anh Ba gánh giùm cho chị?
      -Ảnh mắc đi đám cưới bên Bãi Chàm rồi, mai mới dìa.
      Bến sông vui nhất là vào buổi chiều, lúc ấy bà con đi làm đồng về, người lớn con nít đều kéo nhau xuống tắm giặt. Đàn ông thường tắm ở cái bến của cậu Ba Đời, cái bến đó hơi khẳm nên con nít và phụ nữ ít dám xuống. Người nào đi tắm cũng mang theo một cái chàng xà rông và một bột đồ khô, giắt lên cây cọc tre có chừa mấy cái nhánh để treo đồ, cắm sát bên cây cầu.
      Phụ nữ thường mặc cả áo quần trong người khi tắm. Tắm xong, lên bờ, tròng cái Xà Rông lên cao tới ngực rồi mới thay bộ đồ ướt ra giặt liền tại chỗ. Có người mặc đồ sạch vào luôn, có người vận xà rông lên nhà mới thay.
      Những người đàn ông hầu như ai cũng ở trần cả ngày nên chỉ mặc xà lỏn trong khi tắm, họ lội và lặn hết sức giỏi. 
      Một lần Mít Ướt lỡ tay làm rớt cây dao yếm, nó khóc làm cậu Năm Huynh thấy tội bèn mò giùm. Cây dao rớt trong bờ vậy mà cậu phải lặn hết sức lâu và ra rất xa, tới ngoài chỗ nước chảy xiết mới mò trúng và lấy lên được. Cậu cầm cái dao đưa cho nó, bàn tay run vì lạnh, cặp môi tái nhách, hai con mắt đỏ lòm làm nó nghe thương hết sức.
      Cái bến sông còn là nơi gặp gở, chuyện trò của bà con trong xóm. Mỗi lứa tuổi dù không hẹn nhưng đều xuống đó theo cùng một thời điểm. 
      Mấy bà má gặp nhau để trao đổi những câu chuyện về mùa màng, con cái. 
      Mấy cô gái vừa tắm, vừa tâm sự, vừa cười rúc rít. Có những gia đình mấy má con cùng tắm chung để kỳ lưng cho nhau. 
      Đặc biệt là những đôi gái trai có chút tình ý, họ thường mượn công việc để ra đây từ sáng sớm, lúc đó bến tắm vắng teo. Con trai cho bò uống nước, con gái thì giặt giũ hoặc làm mấy việc linh tinh. Họ ít dám nói hay nhìn nhau, có gan lắm thì cũng chỉ buông những lời bâng quơ vậy mà cứ nơm nớp sợ bị mọi người bắt gặp. 
      Có người còn nhờ đó mà nên duyên, như trường hợp cậu Út Dần và chị Hai Tho: Lần đó chỉ bị mất chiếc cà rá khi đi đãi giá, mò hoài tới xanh xám mặt mày cũng không được. Cậu Út xuống sông gánh nước, để ý thấy chỉ mò quá lâu bèn kêu lên đi để cẩu mò giùm cho. Chỉ ngại lắm nhưng cũng phải nghe theo vì sợ bị cảm lạnh. Cẩu bèn lên nhà lấy cái thúng thật to xuống đãi, rồi đứng dưới sông làm từ trưa đến chạng vạng mới tìm thấy. Bởi vậy chỉ mới cảm động và thương cẩu luôn từ lúc đó!




      Tụi nó thi lặn coi đứa nào ngồi lâu dưới nước. Cái trò nầy hay bị ăn gian. Có đứa ngoi lên mà thấy chưa có ai là lật đật hụp xuống liền, bởi vậy phải cử một đứa làm trọng tài. Mít Ướt thường đóng vai nầy, nó không muốn thi bởi chắc chắn sẽ thua vì hơi ngắn ngủn. Đang chuyên tâm vào nhiệm vụ bỗng nó thấy mợ Chín Nêm, má Sáu Ngón cầm cây roi đi xâm xâm xuống bến, mở hỏi nó:
      -Có con Nếm ở đây hông con?
      Nó bối rối quá chưa biết trả lời làm sao thì Sáu Ngón đã trồi lên, vừa thấy mợ Chín là nó hụp xuống liền, mợ Chín quát:
      -Mầy mà hổng lên liền là tao xuống đè đầu cho mầy uống nước cành hông đó!
      Con Ý vừa ngoi đầu lên bị mợ nạt :
      -Má mầy kiu om sòm trên nhà kìa, coi chừng bị đòn đó!
      Con Ý lội lên bờ liền, con Thẹn vừa ngóc cái đầu- nó là đứa nín thở lâu nhất nên lần nào thi cũng thắng- thấy mợ Chín cầm roi chờ sẵn nó hết hồn. Mợ Chín chờ hoài hổng thấy Sáu Ngón, thì ra nó đã lặn qua bến dì Sáu Tý rồi lồm cồm bò lên. Mợ xách roi chạy cái vù qua đó. Con Sáu Ngón liền bị má nó nắm cái lỗ tai lôi xềnh xệch, đét vô mông mấy roi nên vừa đi vừa khóc hu hu.
      Còn lại hai đứa, con Thẹn hết hứng. Nó đòi thôi tắm, Mít Ướt năn nỉ:
      -Tao với mầy chơi thả tàu đi Thẹn.
      "Thả tàu" là nằm ngửa để người trôi theo dòng nước, đây là cái kiểu nó thích nhất. Nó với con Thẹn nằm im nhìn bầu trời rất xanh ở trên cao. Mấy đám mây trắng bóc trôi thật chậm làm nó tưởng tượng bầu trời cũng là một con sông và những đám mây kia cũng đang tắm và "thả tàu" y như nó vậy. 
      Tụi nó nằm im ru để mặc dòng nước cuốn đi. Một cảm giác bình yên tràn ngập khắp người làm hai đứa cũng thôi không nói chuyện. Nó đắm mình tận hưởng cho đến khi đầu va vô cây cầu của cái bến kế bên, cùng lúc đó tiếng má con Thẹn bỗng vang lên lồng lộng:
      -Thẹn ơi! Bớ Thẹn.
      Con Thẹn lật đật chạy về nhà, không kịp nói với nó một tiếng. Nó còn đắm đuối với cảm giác bồng bềnh nên chưa muốn lên bờ vội. Nó thấy mình như tan loảng, như hòa nhập làm một với dòng sông, thân xác trở nên nhỏ bé còn tâm hồn như dàn trãi mênh mông và bao trùm tất cả. Lúc nầy chỉ có nó, bầu trời, con sông hiện hữu mà thôi. Có một cái gì như nỗi nghẹn ngào dâng lên từ từ làm mắt nó đầy ắp nước như đang khóc...
      Cho đến khi nghe tiếng má kêu nó mới chịu lên nhà rồi khóc thật vì bị má đánh ba roi, bởi cái tội tắm lâu tới mình mẩy "đóng rong, đóng rêu".
      Ôi ! con sông quê đã cho nó biết bao nhiêu niềm vui cùng những trận đòn chịu thuế. Thuở ấy nó bị đòn, bị bịnh nhiều nhất vì tắm sông. Những trận đòn năm xưa từng làm nó tủi thân, mắc cỡ vì bị bạn bè trêu chọc, vậy mà bây giờ nó vẫn cảm thấy như còn thiếu thốn nên thèm quá một lần trở lại!
      Gía mà nó có thể đổi những thứ mình đang có để có được những giây phút êm đềm với con sông, với ngôi nhà lá nhỏ, với những đứa bạn hay làm cho nó bị đòn và cũng thường bị đòn vì nó.
      Và nhất là với má, người ban cho nó hầu hết cái gia tài kỹ niệm mà nó đang có. Bằng những bữa cơm mà mùi vị như vẫn còn trong miệng, ngon đến nổi nhớ lại vẫn còn ứa nước miếng. Bằng những lời rầy dạy hay chen vào mấy câu ca dao có vần, có điệu. Bằng những chén thuốc bắc do chính tay má quạt than, canh lửa, gạn sao cho đúng "ba chén còn lại tám phân". Bằng những món cháo ăn lúc bịnh cứ luân phiên thay đổi để nó không ngán, khi thì cháo cá, cháo thịt bầm, cháo trắng cá kho tiêu... và lời má vỗ về :"Ráng ăn đi con, chừng hết bịnh rồi, thèm gì má cho ăn nấy".
      Kỷ niệm xưa như những trái dừa Xiêm đong đưa trên cao, ngọt ngào, tươi mát, quá xa tầm tay với. Nó bỗng ngước mắt nhìn lên, trời đang mùa hạ và lòng thì khao khát quá!

       
      Ngoài những chiếc cầu hai bờ sông còn được trang điểm bằng các dụng cụ bắt cá như: chất Chà, đặt Bò, Vó, Đăng, Dớn ...nhiều nhất là chất chà.
      Tháng giêng, tháng hai vỡ Chà cá nhiều hơn mấy tháng khác. Mỗi lần vỡ Chà mấy người đàn ông trong xóm, đã được thông báo trước, đều tập trung đông đủ dưới bến. Họ mang theo một chiếc xuồng chở một cái lưới rất to, dưới chân lưới có cột những cục gạch để giữ nó bám chặt đáy sông.
      Đầu tiên, họ đứng trên xuồng thả tấm lưới xuống để quây kín ba mặt của đống Chà, chừa một phía cặp sát bờ làm cửa. Kế đó mấy nhánh chà bị vứt hết lên bờ. Một nhóm người lặn xuống nước kéo chân lưới sát về phía bờ, cho đến khi tấm lưới trùm sát đáy sông thì cầm mép lưới để thu nhỏ miệng lưới lại và gom cá về chính giữa. Một cảnh tượng ngoạn mục hiện ra, mấy con cá từ từ phơi mình trên mặt nước. Chúng quẩy đuôi, cong người nhảy vọt lên để tìm cách thoát thân. Một vài con may mắn phóng ra khỏi miệng lưới, thế là mấy người xung quanh vừa tiếc rẻ vừa trầm trồ nói:
      -Cái con cá đó, chắc nó phải mời gánh hát bội về diễn để ăn mừng.
      Cậu Sáu của Mít Ướt cũng có chất một đống Chà ở dưới bến. Quanh đống chà thường có một vài người rải cám cho cá bu lại, cầm cần câu để "giựt" cá Lòng Tong. Họ làm lưỡi câu bằng dây thắng xe, chỉ mài cái mũi cho nhọn và không có ngạnh [để cá bung ra dễ dàng khỏi mắc công gở]. Họ gắn một hột cườm vào đó, mấy con cá vừa đớp vào là bị giựt lên thật nhanh và mạnh. Chúng hết hồn há miệng định kêu là bị văng ra rồi nằm giãy đành đạch trên bờ. Cánh tay của người câu cá cứ vung lên quất xuống đều đặn như vậy làm cái đứa đi theo, lượm cá bỏ vô rỗ không kịp!
      Đẹp nhất là cảnh chài lưới lúc bình minh: Sáng sớm trời còn mờ sương đã thấy mấy chiếc xuồng bơi xung quanh đống chà vãi chài bắt cá. Những chiếc xuồng chài ấy với một người đàn ông đứng ngay trước mũi. Cổ tay trái cột sợi dây để giữ cái chài, tay bên kia nắm gọn mép chài đã được gấp lại thành từng nếp. Sao cho khi xoay người vung tay, cái chài sẽ bung tròn, rộng tối đa y như một chiếc dù được thả từ trên trời cao xuống vậy! Họ để cho cái chài chìm dần xuống nước khoảng vài phút sau mới từ từ kéo lên, mấy con cá dần xuất hiện. Chúng nhô đầu ra mắt lưới, mắt chớp lia lịa y như những đứa trẻ nghịch ngợm thò đầu ra ngoài cửa xe vẫy tay chào khách qua đường. Mỗi lần có một con vùng ra được là Mít Ướt thấy lòng vui mừng hết sức!
      Mặt nước luôn xao động làm ông mặt trời rơi xuống sông bị bể nát. Vô số mãnh vỡ của chiếc dĩa vàng ấy bắn tung tóe khắp mặt sông. Người thợ chài vội vả vung chài thật nhanh cố gom lại và vớt chúng lên, vô ích thôi ! Hành động của họ làm chúng càng vỡ nát và khi họ kéo chài lên, những mảnh vụn ấy lọt qua mắt lưới rồi từ từ rơi trở lại dòng sông...
      Quê Mít Ướt cá nhiều lắm, đến nổi khi tắm bị cá rỉa chân là sự thường. Mỗi lần đem cá đã làm xuống sông rửa, bầy Lòng Tong hay bu lại để ăn móng. Má hay mang thêm một cái rỗ để hớt chúng, lắm khi cũng đủ một món nữa.
      Mùa nước trong tắm sông rất dễ bị cá Nóc cắn. Hồi ông ngoại còn nhỏ, một lần tắm sông đã bị nó cắn đứt nửa ngón chân út. Ông hay chỉ vào cái ngón chân đó để dặn dò con cháu phải cẩn thận. Ông còn làm một cái nhà tắm sau nhà, khuyến khích mấy đứa cháu vô đó tắm mà đâu có đứa nào chịu. Cực chẳng đả khi nào bịnh không lết xuống sông nỗi mới xài đến.
      Những lần nó bị cảm dai dẳng má thường nấu một nồi xông gồm lá xả, bưởi, ngũ trảo...bưng vô nhà tắm rồi cõng nó vô đó. Má đặt nó ngồi lên cái ghế thấp, trùm cái mền với cái nồi nước xông trước mặt. Nắp nồi được mở hé từ từ, hơi nóng thoát chậm để nó quen dần. Má đứng bên ngoài vén mền thò tay đưa cho nó chiếc đũa bếp biểu:
      -Con mở vung ra rồi khuấy chiếc đũa cho thuốc bốc hơi, ngấm vô lỗ chân lông đặng đẩy chất độc ra ngoài.
      Nó làm theo lời má, một mùi thơm ngào ngạt xông vào mũi rồi dâng lên trán. Mồ hôi tràn khắp mặt, chảy xuống mắt cay sè. Nó không chịu nổi tung cái mền ra, hơi mát bên ngoài cùng cảm giác nhẹ nhỏm như được phóng thích làm nó thấy sức lực hầu như đã phục hồi đầy đủ. Mấy con vi trùng bị càn quét vẫn cố bám vào da. Phải chờ đến khi má tiếp tay, pha nước lạnh vô nồi xông cho bớt nóng rồi xối lên người, kỳ cọ cho đến khi da nó đỏ bừng lên, chúng mới bị cuốn theo lớp hờm. 
      Khi bịnh đã bỏ đi nó cũng không được xuống sông tắm liền vì sợ bị trúng nước trở lại. Phải tắm trên nhà bằng nước nóng và cách một ngày mới tắm một lần. Ngày không tắm nó được má lau mình bằng cách nhúng cái khăn sạch vô thau nước nóng, vắt khô, lau khắp người rồi lấy cái khăn sạch khác, nhúng vô nước nóng lau thêm một lần nữa. Má làm hết sức tỉ mỉ, không bỏ sót trên người nó một mi li mét nào chưa được lau qua. 
      Những ngày bịnh tuy không được đi ra ngoài, má lại cho nó mặc toàn đồ đẹp, được uống sữa, ăn bánh tây lạt, cà na, xí muội những món mà ngày thường ít được rớ tới. Tụi con Thẹn con Tíu thập thò ngoài vách đút cái ngón tay út qua kẻ vách cho nó cầm rồi nói thầm thì:
      -Mầy hết bịnh lẹ lẹ đặng đi chơi với tụi tao nghe.
      Con Thẹn thông báo:
      -Cái trứng Thằn Lằn tụi mình lượm đó, nó nở ra con Thằn Lằn nhỏ xíu đỏ lòm rồi!
      Nó háo hức :
      -Mầy đem cho tao dòm một cái đi, coi nó ra làm sao!
      -Má mầy hổng cho đâu, má mầy biểu tao đừng có rủ mầy đi chơi nữa, mầy dễ bị bịnh lắm!
      -Mầy đưa qua kẹt vách nầy nè, đừng để má tao thấy!
      Con Thẹn chạy vù về nhà mang cái hộp quẹt diêm đến nhét qua kẻ vách. Nó mở ra thấy một con thằn lằn mới nở với làn da trong suốt ửng đỏ bởi những đường gân máu, cái đầu nhọn bằng cái hột dưa hấu và hai con mắt đen rất to chiếm gần hết mặt. 
      Hồi nhỏ nó hay té xĩu làm cả nhà hết hồn, đi coi thầy, họ nói nó con của người cỏi trên sớm muộn gì cũng bị bắt về. Má nó nghe vậy sợ quá, đem nó qua ký bán cho Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc, nhờ vậy mà nó mới còn sống [đó là lời của má]. Trong xóm hầu như đứa nào cũng được ký bán cho Bà như nó. Hễ có đứa nhỏ nào chết yểu thì bà con hay nói "bị bà Cố bắt". Cái danh từ "Bà Cố, Bà Hồng" là để chỉ không phải một người mà cả một thế lực siêu hình hết sức mạnh, hết sức bí ẩn rình chụp mấy đứa con nít hổn hào, ăn vụng, nói láo, ăn cơm bỏ mứa, hay kêu trời...tóm lại những đứa đầy thói hư tật xấu. Cho nên tụi nó sợ lắm, cố đẩy những thứ ấy ra càng xa càng tốt.

       
      Đến mùa mưa tắm sông bị tụt xuống hàng thứ nhì, tắm mưa thứ nhất. Tụi nó hễ cứ có mưa là rủ nhau ra tắm, bất kể giờ giấc, chỉ trừ những cơn mưa đêm. Mưa càng lớn tắm càng thích.
      Mùa nầy xoài đang có trái, chúng xúm nhau đứng dưới mấy góc xoài. Cả bọn ngước mắt nhìn hoài những trái còn non, xanh lè đu đưa trong gió. Cứ mỗi lần nghe một tiếng " bịt" là tranh nhau chạy tới giựt, có khi té dồn một cục rất vui ! Có một lần Mít Ướt đang đứng chờ xoài rụng, bỗng bị một trái to bằng cườm tay rớt trúng đầu. Thế là mấy đứa đứng gần đó nhào tới, hất nó té chổng gọng rồi ngã đè lên làm ê ẩm cả người. Đã vậy nó còn không kịp chụp trái xoài. Thằng Đức "cạp" bắt trúng rồi ăn liền tại chỗ, nhai rau ráu làm nó tức ơi là tức ! 
      Đám mưa đầu mùa năm nay lớn quá! Con Thẹn từ trong nhà gọi to:
      -Ướt ơi! Tắm mưa hông?
      Nó lật đật đáp:
      -Tắm! 
      Nó vừa trả lời con Thẹn vừa quay sang nhìn má bằng tia mắt van nài, vừa nói:
      -Má cho con đi tắm nghe má!
      Thấy bộ tịch nôn nao của nó má đành gật đầu không quên kèm thêm một câu:
      -Tắm lẹ à nghe! 
      Cái tiếng "dạ" liền bị bỏ rớt lại phía sau, cả người của nó đã lao vút ra đuổi theo con Thẹn.
      Nước từ các nơi cao đổ dồn vào chỗ trũng làm con mương đầy ấp, tạo thành một giòng chảy mạnh như suối. 
      Dọc theo mương một đám con nít bò toài trong đó, vài đứa nằm ngữa để nước đẩy đi, gần một chục đứa con trai chơi đánh trận. Chúng vừa moi bùn ném vào nhau, quay lưng khum hai bàn tay lại khoát nước ra phía sau túi bụi. Có đứa vừa cầm mủng vùa để tạt thẳng nước vào mặt nhau, vừa rượt đuổi chạy té lên té xuống. Mặt mày đứa nào cũng tèm lem còn tay chưn thì đầy vết xây xát. Mấy đứa con gái vừa tắm vừa canh lượm xoài, lượm mận. Chúng giành nhau, cãi chí chóe. Con Ý còn chơi rắn mắt, ném cục đất làm cả bọn tưởng xoài rụng đua nhau tìm hoài không thấy, chừng nghe nó cười ngặt ngẻo mới biết bị lừa. 
      Nhưng vui nhất là lúc sắp hàng đứng chờ dưới máng xối. Phải lựa máng xối của những căn nhà lợp tôn, lợp ngói hoặc vừa thay lá thì nước mới sạch. Xóm Mít Ướt chỉ có hai căn nhà ngói, một của ông ngoại nó và một của dì Sáu Tý. Mấy chục đứa chen nhau chờ đến phiên đưa đầu vô gội. Mít Ướt tức lắm vì cho dù là máng xối nhà nó cũng không được ưu tiên. 
      Con Thẹn với nó vừa đợi, vừa kỳ lưng vằn công cho nhau. Lưng đứa nào cũng đóng cả lớp đất bởi chúng vùi mình trong mương lúc nãy.
      Tắm xong nó chạy lẹ về nhà. Má đã chờ sẵn, cầm cái khăn lông chà xát cái đầu nó cho thật khô, lượm những mảnh lá mục còn bám trên tóc rồi mới lau tới cái mình. 
      Nó nghe bụng đói cồn cào nên mặc đồ nhanh như chớp. Chụp cái lược lia nhanh ba, bốn nhát rồi tót ra sau bếp. Nhón chân lấy nồi cơm và trách cá kho đang treo trên gióng xuống. Chỉ còn một miếng cơm cháy dưới đáy nồi và một khứa cá lóc kho tương với chút nước còn sót lại. Vét miếng cơm cho qua cái ơ cá rồi bưng nguyên cái ơ ra ngạch cửa phía sau ngồi ăn. Nó bỗng nhớ lại năm ngoái, cũng tắm mưa xong và ngồi ăn cơm đúng cái chỗ nầy. Hai Ốm bên kia hỏi vọng qua:
      -Mầy ăn cơm với gì vậy Ướt?
      Hai Ốm cũng đang bưng cái tô ngồi ở ngạch cửa trước, nó vừa nhai vừa đáp:
      -Cá kho, còn mầy?
      -Đường thẻ.
      - Ngon hông?
      -Ngon lắm, còn mầy?
      -Ngon quá trời, quá đất luôn!
      Nó nhìn cái ngạch cửa trống hoác trước mặt, tự hỏi không biết Hai Ốm có tắm đám mưa nầy không? Có đang ăn cơm như nó không? Phải chi có Hai Ốm ở đây cùng tắm thì vui biết mấy, miếng cơm nó đang ăn trong miệng chắc cũng ngon hơn gấp mấy lần...
      Hôm sau con Thẹn lại rủ nó đi bắt cua, bắt ốc. Mỗi đứa xách theo một cái rộng nhỏ bằng tre, đi chân đất, xăn ống quần lên tới bắp vế, mặc áo cũ và đội cái nón lá te tua. Chúng rủ thêm con Ý và Sáu Ngón, tụi nó không bao giờ khoái đi một mình ra đồng. Thường thì hai, ba đứa đi chung cho vui.
      Mùa nắng bọn cua, ốc, thường chui sâu xuống đất, qua vài trận mưa đất mềm chúng mới ngoi lên. Nếu mưa lớn ruộng, rẫy bị ngập, ốc bám vào thân cây mía, thân lúa hoặc nổi lềnh bềnh trên mặt nước bắt rất dễ. Mưa nhỏ đất bùn sền sệt phải chịu khó nhìn kỹ tìm hang, thọc tay vô moi nên cực hơn. Có một lần Mít Ướt cũng bắt chước thọc tay vô hang. Nó đâu phân biệt được hang cua, hang ốc cho nên bị cua kẹp đến chảy máu. 
      Đó là còn may, nghe nói có đứa còn moi đúng hang rắn, bị rắn cắn sùi bọt mép chết liền. Từ khi bị cua kẹp và nghe chuyện rắn cắn chết nó không dám thọc tay vô hang nữa.
      Đi bắt cua, ốc cực lắm. Đất gặp nước trở thành sình lầy trơn chùi, mười ngón chân bấm chặt mấy cục đất cày mà cứ trợt lên trợt xuống. Có chỗ bùn sâu tới đầu gối rút lên rất khó, về tới nhà cả người nó đều nghe ê ẩm. Vậy mà hễ được rủ là đi liền. Bởi nó mê không gian bao la của cánh đồng, mê bạn, mê nghe chuyện. À mà không hiểu tại làm sao, ra đồng là chúng cứ kể chuyện ma, làm đứa nào cũng hồi họp, đi gần sát bên nhau vẫn còn sợ.
      Con Thẹn là cái đứa rất mát tay trong cái việc câu cá, mò cua, bắt ốc. Lúc nào cái rộng của nó cũng nặng nhất. Mít Ướt thì khỏi phải nói, nó dở nhất nhóm lại đi chậm nữa nên cứ bị bỏ lại sau lưng, lượm mót mấy con ốc bị tụi kia bỏ sót. Có lúc cái rộng của nó trống rổng tụi kia phải sớt mỗi đứa vài con cho nó.
      Nó thích bắt ốc hơn cua. Dù rất khoái ăn càng cua luộc, nhưng vừa thò tay ra là con cua đưa hai cái càng lên nghinh chiến liền nên lâu lâu mới dám chộp một con. Hết sức cẩn thận mà cứ bị cua kẹp miết. Nhưng bù lại, cảm giác khi đạp trúng cái gì trơn trơn và moi lên là một con ốc bu thật lớn mới sung sướng làm sao! 
      Mấy con ốc ấy đem về rửa sạch, cho vô nồi phủ lá me, lá ổi lên trên rồi đổ nước săm sắp để luộc. Ốc rất mau chín chỉ cần sôi vài dạo là cái mày rớt ra, nhắc xuống liền vì để chín lâu thịt sẽ dai. Ra vườn bẻ gai cam, gai bưởi vào để lể. Ốc mùa mưa mập lắm ruột trắng phau, chấm ngập vô chén nước mắm me, nhai dòn sừng sực, ngon nhức nhối. Nhất là những con ốc do chính tay mình bắt thì ăn càng ngon hơn nhiều. Bởi vậy mặc dù má không cho đi, nó cứ đeo theo năn nỉ ỉ ôi cho bằng được, má nó hay nói:
      -Con bắt nhiều lắm cũng được chừng hai vợ chồng con ốc chớ mấy. Có thèm để má mua về luộc cho mà ăn, đi làm chi cho cực còn tốn xà bông giặt đồ, có khi còn đổ bịnh nữa!
      Lần nào nó cũng trả lời:
      -Con thích ăn ốc của con bắt hà!
      Ở nông thôn công việc cũng là thú vui, chơi đùa cũng là một cách tập tành làm việc. Má nó nghĩ vậy nên cho nó chơi đùa thỏa thích.


      Nó bắt ốc, cua dở nhưng cũng còn đở hơn "bắt hôi". "Bắt hôi" là mót cá từ những miệng đìa đã bắt cá lên rồi .
      Qua tết, những khẩu đìa được lần lượt tát hết nước ra để bắt cá. "Đìa" là mấy cái ao hình chữ nhật được đào trong ruộng để khi nước lên cá chui vào đó ở. Mấy con cá bị mắc kẹt khi nước rút, sinh sôi nẩy nở đầy trong ấy. Vào thời trước, khi chưa có cái máy bơm hiệu KOHLER, người ta phải dùng gàu để tát nước trong đìa ra. Công việc nầy rất tốn công có khi phải thức thâu đêm làm mới kịp.
      Bà con trong xóm không tát đìa trùng ngày với nhau, vì cá nhiều lắm! Phải tập trung hết nhân lực làm cho xong trong một ngày để cá không bị ương. Trước khi tát đìa gia chủ thường báo cho chòm xóm biết để họ hoãn việc lại mà làm giúp.
      Ngày tát đìa là ngày hội đối với bọn con nít. Chúng nôn nao chờ đợi nên trời vừa hừng sáng đã đứng đầy sân, đứa nào cũng cầm sẵn một nhánh tre bằng ngón tay cái đã được chặt từ hôm trước. Một vài đứa được nhờ quét sân, những đứa khác đi chặt lá chuối đem về lót để đổ cá lên đó.
      Khi chiếc xe bò chở cá vừa về đến là cái bọn xây lố cố bu kín. Cá được trút ra bằng cách chổng ngược xe. Mấy người phụ nữ tay dao, tay thớt vội vã túa lại ngồi vòng quanh đống cá. Đám con nít cũng bu lại với nhánh tre được vạt nhọn. Người lớn bắt cho tụi nó mỗi đứa một con cá lóc cỡ cườm tay của chúng. Banh cái miệng cá ra, xiên cái đầu vạt nhọn của nhánh tre từ miệng cho tới thấu qua đuôi cá rồi ló ra ngoài một khúc, lấy rơm quấn xung quanh cá. Ghim cây tre sao cho cái đầu cá cách đất chừng một gang. Dúi bó lá dừa đang cháy xuống dưới, ngọn lửa bén vào rơm. Con cá bốc cháy phừng phừng, một mùi thơm bốc ra, rất đặc biệt bởi hổn hợp từ rơm, từ lớp vảy cá bị cháy đen quyện với mùi cá nướng. Lửa tắt, cá cũng vừa kịp chín. Lấy chiếc đũa cạo cho cái lớp vảy cháy đen thui bám bên ngoài rơi hết, lớp da vàng giòn lộ ra. Cầm đưa lên ngang mũi hít. Một mùi thơm tõa ra làm mồm ngập nước. Chúng cầm cái que, cắn xung quanh mình cá như cạp bắp, móc từ túi áo ra một hột muối bỏ vô miệng nhai chung cho nó thêm đậm đà mùi vị. Chúng vừa ăn vừa cười giỡn, vừa ghẹo mấy con chó đang đứng ngóc mỏ, le lưỡi, chờ đớp những phần còn lại được dành cho chúng.
      Mấy người phụ nữ hết sức bận rộn, tay và miệng thoăn thoắt, vừa làm vừa cười nói. Họ lựa cá "Trắng " ra làm trước [cá trắng là những con cá có vảy, hoặc da trắng như cá linh, cá lăn, cá leo, cá mè dinh...]. Những con cá nầy ươn nhanh hơn cá trê, lóc, rô, trạch...là những con được gọi là "cá đen". Gia chủ lựa mấy con cá Lóc còn mạnh đem rộng để dành ăn từ từ và biếu bà con lối xóm.
      Đàn ông hốt cá đã làm xong cho vô cằn xé rồi khiêng xuống sông để rửa. Họ lấy cây chổi làm bằng những nhánh tre nhỏ xíu bó lại mà sọt, đâm liên tục vào cái giỏ cá được đặt ngập trong nước để làm cho nó tróc vảy. Những con cá nầy, thường là cá Sặc, cá Linh được rửa thật là sạch. Đải thật lâu để không còn sót đến một cái vãy mới thôi. Chúng được lắc cho ráo nước, ướp muối rồi cho vào lu để làm mắm. Một thời gian sau khi cá đã ngắm muối, lúc nầy người ta mới tiến hành việc "chao mắm". Chao mắm là trộn vô những con cá đã ngấm muối ấy một lớp đường đã được thắng "có chỉ". Nghĩa là nấu cho đường chảy ra, kẹo lại cho đến khi ta cho hai chiếc đũa nhập lại nhún vào rồi tách rời ra, giữa hai chiếc đũa ấy có những sợi đường nhỏ như sợi chỉ. Cho gạo rang vàng xay nhuyễn gọi là "thính" vào, trộn thật đều rồi cho những con cá đã được "chao" đó vào từng cái gáo dừa, nhận xuống cho thật dẽ dặt, trên miệng ém lá chuối khô, gài lại bằng những thanh tre để chúng không bung ra. Ở cá Lóc người ta còn ướp thêm cơm rượu vào để lên men cho nó, loại mắm nầy được gọi là "mắm chao".
      Những người đến phụ ai muốn bắt bao nhiêu cá đem về cũng được, thường bà con chỉ bắt đủ ăn trong ngày mà thôi !
      Mấy con cá nóc không xài đến bị vất ra ngoài. Đám con trai dùng ngón chân cái chọt vô cái bụng chọc cho nó giận, phình cái bụng no tròn căng cứng như quả bóng để hù lại. Chừng đó chúng mới giẩm thật mạnh làm cái bụng vở ra kêu "bốp" một cái thật to rồi xúm nhau cười khoái trá!
      Khi cá đã được xúc ra khỏi đìa rồi, chủ đìa ra dấu bằng cách khoát tay một cái. Mấy người đang chực sẵn với cái rộng đeo bên hông vội phóng ngay xuống.
      Mít Ướt lần đầu đi bắt hôi, được má trang bị một cái quần ngắn có lòn dây thun dưới lai để cái ống túm chặt vô đùi. Nó đứng khom lưng lấy tay mò trong lớp bùn để tìm bắt cá. Mấy lần chạm vào một con nhưng khi nắm lại là cứ bị vuột. Mấy đứa bên cạnh thỉnh thoảng lại bỏ một con cá vô rộng, cái rộng của chúng nặng dần lên trong khi của nó vẫn nhẹ hều vì chẳng có một con nào. Mồ hôi ròng ròng trên mặt chảy vào mắt rủ nước mắt rơi theo. Nghĩ tới nỗi thất vọng của má khi nó mang cái rộng không về làm nó bật khóc. Tiếng khóc của nó làm một thằng bé đi bên cạnh chú ý, liếc nhìn qua thấy cái rộng của nó trống rổng bèn bỏ con cá Lóc khá to đang cầm trên tay vô rồi nói:
      -Thôi đừng có khóc nữa để tao bắt giùm cho!




      Nhờ có thằng bé đó hôm ấy má Mít Ướt mới có cá để làm cái món "cá lóc hấp lá bầu". Một trong những món nó ưa thích nhất.
      Cái món nầy được kết hợp giữa cá và lá bầu: Một con cá lóc cỡ cườm tay được làm và rửa cho thật sạch. Lá bầu không già và cũng đừng non quá. Ngắt cái lá thứ ba, thứ tư tính từ đọt xuống là vừa. Ướp vào bụng cá một chút củ hành băm nhuyễn, muối, đường, bột ngọt, tiêu rồi lấy lá Bầu gói tròn lại. Không cần phải gói chặt tay. Cho vào cái tô hấp để nước không tràn vô. Khi cá chín sẽ bốc mùi thơm, rưới đều lên mình cá một muỗng giấm nuôi rồi nhắc xuống. Lá bầu ngấm nước cá rỉ ra nên gồm đủ mùi vị, ngọt, chua, thơm, bùi...ăn kèm với bộ ruột cá có cái bao tử giòn giòn, béo béo chấm nước mắm chanh, tỏi, ớt cay cay phải nói là ngon thiếu điều "bể mỏ".
      Cái món ngon và sự may mắn ấy đã bắt nó trả bằng một cái giá rất đắc. Chẳng là mấy đứa trong xóm đi bắt hôi chung với nó hôm ấy, đã thấy thằng bé kia bắt giùm cá nên xúm nhau ghẹo. Chúng chỉ cái cầu vồng trên trời rồi kêu nó:
      -Móng Chuồng kìa Mít Ướt !
      Nó nhìn lên. Cả bọn liền xúm nhau cười rồi chộ:
      -Muốn chồng, con Mít Ướt muốn chồng!
      Con gái ở quê bị mang tiếng "muốn chồng" là nhục lắm nên nó giận đỏ mặt cự liền:
      -Tao muốn chồng hồi nào, tụi bây đừng có nói láo, nói xược!
      -Hổng muốn chồng sao hôm bữa bắt hôi mầy đeo xà nẹo thằng Tỏ "đèo" ở dưới mương lấp? Nó còn bắt cá giùm mầy nữa nè, đừng có chối, tụi tao thấy hết trơn, hết trọi rồi! Con Ý vừa nói vừa lấy ngón tay trỏ quyẹt vào gò má để lêu lêu nó.
      Mít Ướt tức quá nổi gân cổ lên cãi:
      -Tại nó thấy tao khóc nó mới bắt cá giùm, chớ tao đâu có biểu, đâu có đeo xà nẹo nó hồi nào. Tao mà có muốn nó cho bà bẻ lọi cổ còn tụi bây nói oan cho tao là bị bà bắn đó! 
      Thấy Mít Ướt phản ứng quá quyết liệt tụi bạn không chọc nữa. Từ đó nó bị "cấp đôi" với thằng bé kia, làm nó đâm ra ghét thằng nhỏ đó quá mạng. Thằng bé ấy đâu có biết ất giáp gì. Một hôm tụi nó đi mót khoai lại gặp nhau. Thằng bé đó thấy nó moi được có mấy củ đèo ngắt, bèn cầm cho nó một củ khoai lang Dương Ngọc rất to vừa đào được. Nó ném trả lại liền còn nguýt một cái rồi nói bằng cái giọng xẳng lè:
      -Hổng cần!
      Làm y ta ngớ người nhìn nó chưng hửng.
      Kể từ hôm đó nó rất ngại đi xuống xóm dưới. Trước đây mỗi lần đi bổ thuốc ở tiệm cậu Ba Lê tụi nó hay rủ nhau đi một bầy ba bốn đứa. Đứa nào cũng được cậu Ba cho một miếng Quế, chúng bỏ vô miệng ngậm liền. Mùi thơm và vị ngọt ngọt cay cay làm tụi nó rất thích. Bây giờ nó đành phải hy sinh cái món quà miễn phí ấy. Có được rủ cũng không dám đi vì một lần tụi nó gặp má thằng Tỏ đi bổ thuốc. Con Ý đứng bên cạnh lấy cùi chỏ thúc vô hông nó một cái thiệt mạnh, chỉ bả rồi nói:
      -Má chồng của mầy kìa!
      Bả nhìn nó đăm đăm làm nó mắc cở muốn chui xuống đất luôn!
      Hổng biết tại làm sao mà con nít ở dưới quê hầu như đứa nào cũng bị cấp đôi hết trọi! Mấy đứa bạn của nó, con Thẹn thì bị ghép với thằng Reo, con Ý với thằng Muôn, Sáu Ngón với thằng Bảy Ghẻ... không chỉ con nít ghẹo nhau mà đôi khi người lớn cũng tham gia. Họ rủ nhau làm sui thế là cứ kêu tụi nhỏ bằng "dâu", "rễ" , làm cho chúng ghét và tránh mặt nhau gần chết, vì sợ bị bạn bè ghẹo tơi bời.
      Có một lần hai bên con trai và con gái đều chơi năm mười. Mặc dù trai, gái chơi riêng nhưng khi con Ý chui vô bụi chuối trốn thì gặp thằng Muôn cũng trốn chỗ đó nữa. Xui làm sao hai đứa nó bị bắt gặp đứng gần nhau thế là bị chọc tơi bời, làm con Ý thì khóc hu hu còn thằng kia đổ quạo chửi rồi đánh lộn tùm lum.
      Sáu Ngón còn phản ứng dữ dội hơn Để chứng tỏ sự "trong sạch" của mình hể nó gặp thằng Bảy Ghẻ là chửi xối xả có khi còn chọi đá nữa. Nó càng phản ứng càng bị chọc dữ và ngược lại. Ban đầu thằng Bảy Ghẻ còn nhịn, nhưng rồi chịu hết thấu nên nó sùng quá chửi lại. Thế là hai đứa nó nhào vô đánh xáp lá cà. Hậu quả là đứa nào cũng bị ăn đòn hết ráo!

       
      (Xem tiếp CHƯƠNG TÁM/9)
       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 18:37:18 bởi Lâm Du Yên >
      #3
        Lâm Du Yên 04.09.2019 19:19:05 (permalink)
        MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI
        CHƯƠNG SÁU/9 

        Mít Ướt rất sợ ba thứ: cạo gió, uống thuốc bắc và chích. Muốn tránh ba món nầy chỉ có một cách là đừng có bịnh, mà nếu không muốn bịnh thì đừng có lội mưa, tắm sông, đi chơi dang nắng ...Mấy thứ nầy đâu dễ gì bỏ được, cho nên nó thường hay mắc bịnh.
        Khi nó bị bịnh thì cái món buộc phải dùng trước tiên là cạo gió. Nó có ông cậu ruột chuyên trị môn nầy được cả xóm đặt cho cái tên là " ông thầy gân" vì ổng kiêm luôn ba thứ : cạo gió, giác hơi và bắt gân. 
        Ông cậu của Mít Ướt yêu nghề dữ dội, cho dù cái nghề ấy chưa hề mang đến cho ổng một cắc bạc nào. Ổng sắm sẵn một bộ đồ nghề gồm mấy cái đồng xu nhẳn bóng, bộ ống giác với mười hai cái hủ thủy tinh. Còn bắt gân chỉ dùng tay và thường nằm ở công đoạn sau chót, nên ổng chỉ cần tháo cái khăn đang bịt trên đầu xuống mà lau cho sạch hai bàn tay là xong.
        Má Mít Ướt vốn tính căn cơ, lại thần tượng hóa ông em cho nên nó vừa bịnh là cậu Sáu được mời tới liền. Từ cảm, ho, nhức đầu, sổ mũi, đau bụng, trúng thực, ói, tiêu chảy, vân vân và vân vân. Nó nhất định đều phải qua tay qua tay cậu Sáu trước rồi mới " hạ hồi phân giải".
        Không riêng gì má nó, bà con trong xóm cũng vậy. Hễ ai bị bịnh, chưa cần biết là bịnh gì, đều ba chân bốn cẳng chạy sầm sập tới nhà của cậu Sáu trước nhất, thường thì họ không kịp vô nhà mà cứ đứng ngoài hàng rào kêu xối xả. Ông cậu nó cho dù đang ăn cơm cũng lật đật bỏ cái chén xuống liền. Chụp cái hộp đồ nghề để sẵn trên đầu tủ thờ, rồi cứ ở trần, xà lỏn mà chạy như bay.
        Cậu Sáu bắt đầu công việc bằng cách nhúng cái đồng xu vào chén dầu hôi, tì mép vào cái lưng trần của Mít Ướt -nó đã được ép nằm sắp xuống chiếu, chưn tay bị kềm cứng ngắt- cạo xuôi theo một chiều từ trên xuống dưới, tạo trên lưng nó một bức hoạ hình xương cá. Khi bức tranh đã hoàn tất ổng liền bắt tay vào việc giác hơi, bằng cách nhúng cái que có quấn cục bông gòn to bằng đầu ngón tay vào chén dầu hôi, rồi mồi vô cái ngọn lửa của cái đèn trứng vịt để bên cạnh. Đưa cái que đang cháy phừng phừng nầy vào trong cái ống giác bằng thuỷ tinh, quơ nhanh một vòng để lại một chút lửa trong đó rồi ịn liền vào lưng. Lớp da bên trong cái ống giác nhô lên, chuyễn sang màu đỏ bầm. Khi đã úp hết bộ ống giác ổng liền trùm mền lên lưng cuả nó. Má nó đưa ngay một ly trà để ổng nhâm nhi trong lúc ngồi chờ cho gió độc được hút hết ra. Khoảng mười phút sau những cái ống giác đã hoàn thành nhiêm vụ. Mỗi cái được lấy ra là buông liền một tiếng rít cùng nhịp với tiếng rên của Mít Ướt, rồi để lại trên lưng nó những cái dấu tròn như mấy cái bánh khọt lật úp. Mít Ướt ê ẩm cả người, nó năn nỉ:
        -Con hết sạch trơn bịnh rồi, cậu đừng có bắt gân con nghe cậu!
        Nó nói bằng cái giọng hết sức chân thật, tha thiết nghe rất não lòng vậy mà vẫn bị bỏ ngoài tai. lương tâm nghề nghiệp không cho phép, hơn nữa đang say máu anh hùng nên sức mấy mà ổng chịu bỏ nửa chừng cái công việc tối thiêng liêng nầy. Bèn lập tức đè cái đầu đang ngóc lên của nó sát xuống chiếu. Cái bắp vế to và nặng như cây cột nhà của ổng vắt ngang người nó. Hai bàn tay ổng đặt ở hai bên eo rồi chỉ dùng hai ngón tay, cái và trỏ bấm sâu, nắm kéo ra rồi giật một cái thật mạnh. Cả người của Mít Ướt như có một luồng điện cao thế chạy qua, nó vừa giật bắn người lên vừa hét lên một tiếng thiệt to. Cái đau, cái sợ đâu có chịu dừng lại đó. Ổng tiếp tục cho bốn cái ngón tay móc vô hai bên nách rồi lập lại cái động tác cũ. Chỗ nầy nó đau gấp đôi chỗ trước, đau đến thở không ra hơi, còn khuya mới la nổi.
        Khi mọi việc đã xong cậu Sáu vừa lau tay vô cái khăn sọc rằn vừa bảo má Mít Ướt bằng một giọng hết sức hả hê :
        -Chị nấu cho nó một tô cháo cảm nghe. Bỏ gừng nhiều nhiều một chút nghe, ngày mai là nó chạy vù vù nghe!
        Má Mít Ướt gật đầu lia lịa, miệng nói rối rít :
        -Cũng may mà có cậu trong nhà, chớ hông thôi...
        Ổng không chờ má nó nói dứt câu, bước ra về với gương mặt rạng rở như vừa gặt thêm một chiến công, bỏ lại Mít Ướt nằm bèo nhèo như cái nùi giẻ rách.
        Thường thì con ma bịnh bị hù tới đó là chạy mất mạng rồi, chỉ cần nằm nhà ăn cháo vài ngày là có thể đi học, đi chơi được liền. Tuy nhiên cũng có khi gặp cái thứ cứng đầu, nó chẳng những không bỏ đi mà còn "tùng tam, tụ ngũ" hoành hành thêm nữa. Thế là sáng hôm sau má nó phải đón đường ông Thầy Tư Công để nhờ bắt mạch hốt thuốc cho nó.
        Sáng nào ông thầy Tư cũng đạp chiếc xe đòn giông chạy một vòng giáp xóm. Ông luôn luôn mặc bộ đồ bà ba đen, cột cái khăn trắng sọc xanh trên đầu. Ổng hết sức ít nói, chỉ lắng tai nghe một cách chăm chú. Không hiểu sao mỗi lần nhìn ông Mít Ướt cứ nghe một cái gì dào dạt trong lòng, pha lẫn tình thương và niềm kính trọng. Ông rất hiền và nếp sống thanh cao làm ông có cái vẻ gần như thoát tục.
        Thầy Tư Công cũng là bạn của ông ngoại nó. Hồi trước ông ngoại hay chở nó xuống nhà ổng để mượn truyện Tàu về xem. Nhà ông Tư có cái hàng rào bông bụp cao, hoa dầy đặc và đẹp nhất xóm. Lần nào tới Mít Ướt cũng chạy ra hàng rào hái mấy cái bông hình loa kèn với những cánh hoa mép có răng cưa uốn cong về phía sau giống các vũ nữ đang múa dẽo. Nó có màu đỏ tươi điểm thêm những vệt trắng, nhuỵ của nó dài lòng thòng chìa hẳn ra bên ngoài như cái vòi. Những hạt phấn hoa màu vàng nhỏ như hạt cát bám đầy trên ấy. Có lần Mít Ướt liếm thử vào vì thấy mấy con bướm, con ong hay chúi đầu vô đó, nên nghĩ chắc ngon lắm! Cái vị đăng đắng làm nó nhổ ra ngay lập tức.
        Mít Ướt mê nhất cái giàn hoa thiên lý được trồng phía sau nhà. Nó phủ xanh hết cái giàn rồi bò qua lợp kín cái mái chuồng heo bên cạnh. Từng chùm bông màu vàng đong đưa trong gió, cứ cúi xuống rồi vươn xa huốt tầm tay vói. Hễ nhón chân vừa chạm tới là gió lại thổi bật đi, những cái bông ấy như cố tình trêu đùa nó vậy !
        Ông Tư bắt mạch xong hay bắt nó le lưỡi để xem rồi đi ra nhà trước, ngồi xuống cái bàn khách. Má nó đã châm một bình trà, rót ra chén , bưng hai tay để mời ông dùng. Ông móc trong túi ra một cây viết chì, xé một tờ lịch, lật phía sau viết mấy hàng chữ Tàu đưa cho má nó biểu mang xuống tiệm thuốc bắc của cậu Ba Lê để bổ thuốc. Má Mít Ướt vừa cầm vừa cám ơn ông, vậy thôi, ông chưa hề đòi và cũng chưa ai trao cho ông một món thù lao nào, có lẻ vì công việc của ông nó cao cả quá không thể định giá bằng tiền được.
        Nghe mùi thuốc là Mít Ướt đã dội ngược rồi. Má nó biết vậy nên lần nào đi bổ thuốc cũng mua thêm mấy trái cà na phơi khô, đen xì gói trong tấm giấy màu trắng có in mấy cái nhản màu xanh, đỏ đem về để dụ cho nó chịu uống thuốc.
        Nếu tới đó bịnh không hết thì má nó sẽ nhờ đến cậu Tư Khá. Cậu Tư nầy là anh em bạn dì với má nó, má cẩu thứ sáu còn bà ngoại nó là thứ út. Cậu Tư chưa hề học qua ngành y, cũng không có giấy phép hành nghề, vậy mà ổng vẫn có nhiều thân chủ nhờ mát tay và có khiếu ăn nói. 
        Chiều chiều ổng cởi chiếc Hon Đa đam. Cái túi đựng thuốc máng chéo qua vai, ghé nhà từng bệnh nhân của ổng. Khác với ông Thầy Tư Công, cậu tính tiền một cách sòng phẳng, bà con có thì trả liền không thì chờ bán lúa. Cậu không thúc bách ai và cũng chưa ai quỵt của cậu một đồng. Có khi ngoài tiền công ra bà con còn biếu thêm cậu bất cứ thứ gì mà họ có được như bắp mới bẻ, đậu xanh, dưa leo, cà gió...
        Mỗi lần cậu ghé nhà là tim Mít Ướt đập đùi đụi, không hiểu sao mà nó sợ chích thuốc quá trời quá đất. Cho nên có một lần vừa nghe tiếng xe của cậu thắng một cái "ét " là bỏ giò chạy tuốt sau hè. Má nó và cậu cứ đinh ninh nó còn nằm trong buồng, chừng xách ống tiêm vào thì mới biết nó đã đi trốn. Má nó kêu réo om sòm, càng nghe tiếng nó càng vọt cho xa. Kết cuộc má nó đành phải chịu chích thay cho nó, cũng may đó chỉ là cái ống thuốc bổ!

         
        Khi lành bịnh, ăn cơm được là Mít Ướt ăn nhiều lắm, nhất là bữa nào có món khoái khẩu như hôm nay: mắm kho.
        Vừa đi học về chưa vào tới bếp là nó đã nghe một mùi mắm kho bay ra ngào ngạt, không kịp cất tập nó chạy ào xuống bếp. Má nó đang ngồi nạo dừa để rắc vô cái thau rau ghém gồm bông điên điển, cây chuối tơ xắt thật mỏng, lá gừng non, rau thơm, ngò gai, bông súng cắt ngắn cở hột bắp, giá... đặt bên cạnh. Chỉ cần nhìn cái thau rau với những sắc màu tươi thắm là nó đói bụng rồi nên hỏi liền:
        - Mắm kho hả má?
        Má không trả lời nó chợt nhớ ra vội khoanh tay:
        -Thưa má con đi học mới về.
        Tới chừng đó má nó mới biểu:
        -Rửa mặt mũi tay chưn cho thiệt sạch, rồi ra dọn chén cho má.
        Nó vừa "dạ" một tiếng lớn vừa đi cất tập rồi chạy vù ra cái lu đặt cạnh sàn nước, nhúng cái gáo vào lu, rửa thật nhanh các thứ. Vừa tính kéo cái vạt áo lên lau là nghe má rầy:
        -Lấy cái khăn lau cho đàng hoàng, hổng có chùi vô áo à nghen!
        Nó lại chạy vụt ra cái sào phơi đồ kéo cái khăn xuống lau ào ào rồi vắt đại cái khăn lên, lại nghe tiếng má vọng ra:
        - Trải thẳng ra mà phơi, hổng có nùi một cục như vậy!
        Nó liếc nhìn, má ngồi quay lưng về phía nó mà hổng hiểu sao biết hết trơn, giống như thể gắn thêm một con mắt ở sau ót vậy, làm cho nó phục sát đất luôn! 
        Nó lấy cái mâm nhôm treo cạnh sóng chén, cầm cái khăn bằng vải bao bồng bột vắt kế ống đũa để lau cái mâm, rồi bắt đầu lau bốn cái chén, hai cái để đựng cơm và hai cái đựng rau ăn mắm, hai đôi đũa... Không cần má nhắc thêm, nó lấy cây chổi làm bằng vải vụn kết theo kiểu chổi lông gà mà quét bộ ngựa Gõ cho thật sạch. Lau thêm một lần nữa bằng cái khăn khô, lau cho thật kỹ vì cái mâm cơm sẽ đặt trên bộ ngựa nầy. Má với nó cũng ngồi luôn lên đó mà ăn cơm, nó thì ngồi xếp bằng, còn má ngồi xếp bằng một chân còn một chân thì gập gối lại và đặt thẳng góc với cái chân kia. Trong bữa ăn có một số điều kiêng kỵ như không được gõ đũa vào miệng chén, vì làm như vậy âm binh nghe tiếng sẽ kéo tới. Không được ăn cơm trong bóng tối sẽ tối dạ học bài hoài không thuộc, không được bỏ mứa,ông trời sẽ giận bắt đói khổ cho biết thân. Nếu làm đổ cơm phải lượm lên ăn lại. Cha, mẹ không được la rầy hay đánh con vì có câu " trời đánh tránh bữa ăn".
        Từ hôm nhà Hai Ốm dời đi, Ba Đực không còn tưới đường nữa thì má Mít Ướt cũng không còn dọn cơm chiều ngoài cái chỏng cạnh đường và sát bờ sông vì sợ bụi mà dọn trong bếp. Điều nầy làm giảm đi một phần thú vị vì không còn được hứng những ngọn gió mát từ sông đưa tới. Má nó cũng không còn thỉnh thoảng dừng đũa lại để chào hỏi bà con đi ngang qua và mời:" Gặp bữa ăn với má con tui ba hột cơm lấy thảo..."
        Má nó nhắc:
        -Ra hái mấy trái ớt.
        Nó chạy ra giàn rau kế sàn nước, có một cây ớt rất sai trái ở trên đó. Nó hái hai trái ớt đỏ cho má và hai trái ớt còn non màu xanh như cẩm thạch cho mình vì ít cay hơn, đặt vô mâm.
        Má đem cái thau rau ghém đã được rắc dừa vào trộn đều lại trước, rồi mới bưng cái trách mắm. Mít Ướt bới cơm ra hai cái chén, gát hai đôi đũa lên rồi lâm râm khấn:
        -Vái cữu huyền thất tổ, ông ngoại và ba về ăn cơm với mắm.
        Thường thì chờ khoảng mười phút sau mới được ăn, nhưng má thấy nó nóng máy quá nên cho ăn sớm hơn một chút. Nó chụp vội chén cơm, chan một vá mắm gồm đủ thứ, cà tím, đậu bắp, thịt heo xắt mỏng vào, bưng lên miệng và một cái trước rồi bỏ chén cơm xuống vừa nhai vừa gắp rau vô cái chén không. Cũng múc một vá mắm như khi nãy chan cho ngập rau luôn, vừa tống miếng cơm trong miệng xuống cổ vừa kê cái chén rau vô miệng mà vừa lùa vừa húp nghe một cái rột, cắn thêm một chút ớt xanh nữa, cái kiểu ăn nầy bà con hay gọi là ăn không kịp thở!
        Má nó gắp cái miếng thịt trên lưng con cá lóc bỏ vô chén nó không quên căn dặn:
        -Coi chừng xương đó!
        Thiệt là uổng cái công má nhắc, nó vừa nuốt qua khỏi cổ là la lên liền:
        - Con mắc xương rồi má ơi!
        Má nó chắt lưỡi:
        - Chèng đét ơi ! đã nhắc rồi mà còn... nuốt trọng cục cơm vô đi.
        Ở quê nó không ai dám kêu" trời đất ơi" vì làm như vậy là tội dữ lắm, má Mít Ướt thì kêu là " chèng đét ơi". Má con Thẹn thì kêu "mèng đéc ơi". Bà ngoại của nó và bà ngoại của mấy đứa khác thì hay kêu "nồi đồng nồi đất ơi".
        Má liền vo một cục cơm bằng ngón chưn cái cho nó nuốt. Nó ráng căng cổ ra mà nuốt, cục cơm thì trôi mà cái xương vẫn còn ở lại. 
        Má lén bỏ cái xương cá lên đầu cho nó đừng thấy rồi nói:
        -Ủa! Cái xương trồi lên đây rồi nè .
        Nó mừng quá lật đật nuốt thử rồi mếu máo:
        -Còn một cái nữa má ơi!
        Má nó tiu nghỉu nói;
        -Con lại nhà cậu Hai Cón nhờ thằng con mới đẻ của cẩu quào giùm đi .
        Mợ Hai thấy mặt nó là biết liền, mợ cầm tay đứa nhỏ quào cái cổ nó từ trên xuống dưới mấy lần, rồi hỏi:
        - Hết chưa?
        Nó lắc đầu, mợ chép miệng:
        -Cái xương lớn quá hổng thể trôi xuống, điệu nầy là phải nhờ thầy năm Bốn rồi .
        Thầy Năm Bốn nhà ở xóm dưới gần cái mương lấp. Ổng chuyên trị mắc xương, khoán bùa cho người bị vời leo, lấy ếm, bắt ma, trừ tà...Tất cả những loại bịnh mà bà con cho là do âm binh quấy nhiễu như mắc đàng dưới, bị thư, bị bùa...
        Lần nầy má Mít Ướt phải đích thân dắt nó đi, trong lòng nó dấy lên một mối lo sợ, có mấy lần nó đi coi thầy Năm trị bệnh tà rồi. Lúc đó gương mặt ổng trông kỳ quái lắm và miệng cứ liên tục nhai trầu, nước cốt trầu rỉ ra hai bên mép trông thật là rùng rợn. Ổng cứ lấy hai bàn tay vả chát chát vào người, vào mặt của mình rồi cầm cây dao dâu mà quơ lia lịa. Người bịnh ngồi hoặc nằm trước mặt ổng, một tay ổng quơ dao, một tay vẽ bùa khơi khơi trước mặt bịnh nhân. Bất ngờ ổng phun nước trầu trong miệng ra khắp mặt người bịnh, rồi hét lên một tiếng rất to làm nó sợ đến dựng tóc gáy luôn.
        Nếu là lấy ếm ổng sẽ ngậm một miếng giấy màu vàng có những nét đỏ vẽ ngoằn ngoèo, mắt nhắm khít rịt. Một tay cầm cái khăn đỏ, một tay cầm cây roi bằng cây dâu. Ổng đi một cách khó khăn như thể hai cái chân bị đeo hai tảng đá to vậy, cứ đi hai ba bước lại loạng choạng lùi về phía sau một bước y như có ai xô ngược. Từ cái chỗ ổng đứng đến cái chỗ chôn lá bùa ếm chừng vài chục bước mà đi cả tiếng đồng hồ mới tới. Rồi ổng quì xuống đọc lầm bầm một thứ tiếng lạ hoắc, kế đó bỏ cây roi xuống mà lấy tay bới đất. Bất thình lình, ổng quát lên một tiếng to hết cỡ rồi chụp cái khăn đỏ lên mặt đất. Túm thật nhanh một mớ đất trong khăn rồi đứng lên và đi trở lại chỗ cũ, cũng đi cái kiểu y như lúc nãy, coi bộ còn khó khăn hơn nữa. Khi đến nơi ổng mở khăn ra. Mọi người "ồ" lên một tiếng đầy khiếp sợ, khi thấy trong khăn là tấm giấy trắng, có một hình người được vẽ phác bằng mực đen.
        Đi gần tới nhà thầy Năm Bốn, chưn của Mít Ướt quíu lại, kéo mạnh bàn tay má, nó nói:
        -Con hổng đi nữa đâu!
        Má biết cái điều làm nó sợ nên nói:
        -Đừng có lo, trị mắc xương nhẹ hều hà, hổng có như trừ bịnh tà hay lấy ếm đâu!
        Vừa nói má vừa lôi xềnh xệch nó vô nhà thầy Năm. Thầy vừa ăn cơm xong cái mâm cơm còn chưa kịp dọn, ổng hỏi:
        -Có chuyện gì đó cô Năm?
        Nó không chờ má biểu khoanh tay, cúi đầu, miệng chào:
        -Thưa ông Năm con mới tới.
        Má nó cũng chào ông Năm, bà nói rất lễ phép
        -Dạ, con nhỏ nầy bị mắc xương. Con dắt tới nhờ thầy trị giùm.
        Thầy Năm lấy cái tô con gà bự tổ bố còn sót lại một chút nước cơm đang ở trong mâm, đưa cho Mít Ướt rồi nói :
        -Đem cái tô nầy xuống sông, phải để miệng tô xuôi theo dòng chảy mà múc nước, rồi đem lên đây cho ông làm phép.
        Mít Ướt làm đúng như lời thầy căn dặn, nó múc nước đầy tràn miệng tô rồi khệ nệ bưng lên. Nước sánh ra ngoài làm ướt một mảnh vạt áo, thầy Năm đón lấy rồi rầy:
        -Múc chi cho nhiều vậy! 
        Thầy đốt ba cây nhang, vừa vẽ trên mặt nước mấy đường vòng vèo vừa đọc lầm bầm. Mít Ướt ráng banh cái lỗ tai mà chỉ nghe lỏm bỏm mấy tiếng " hà rì, hà rì... " cùng một tràng âm thanh rối rắm hấp tấp xô đẩy nhau, không thể nhận rỏ mặt mày từng chữ được. Đưa cho cái tô cho nó, thầy nói:
        - Uống cho hết à nghe, không có được chừa lại!
        Mít Ướt hoảng hồn, cái bụng nó nhỏ xíu lại chứa cơm gần đầy, còn chỗ nào mà chứa cái tô nước nầy hả trời? 
        Má nó khuyến khích:
        -Ráng uống đi con, để hông thôi không có ăn được cái gì hết ráo, rồi chết đói đó!
        Nó lẩm bẩm:
        -Ông ngoại ơi! Ba ơi! Phù hộ cho con uống hết cái tô nước nầy giùm, hông thôi là con chết queo cho coi!
        Tô nước to đùng ấy đã đẩy cái xương cá trôi vèo tới tận ruột già của nó!

         
        Quê của Mít Ướt ai cũng đổ bánh xèo để cúng ông bà vào ngày tết đoan ngọ.
        Mít Ướt kịp giải quyết miếng xương cá trước ngày mùng năm tháng năm, chớ không thôi mùa bánh xèo nầy nó sẽ bị thất thu trầm trọng.
        Năm nay nhà nó không làm bánh xèo như đa số bà con. Má nó làm bánh tầm để cúng ông ngoại vì khi còn sống ông rất thích món bánh nầy.
        Gạo được má ngâm trước một đêm, sáng hôm sau má xay thiệt sớm để nhường cối lại cho bà con xay nhờ. Bột được cho vô cái bao vải rất dày để lọc bỏ bớt nước. Cái bao nầy chuyên dùng vào việc đó nên mang tên "bao bồng bột ".
        Má cho bột hơi sền sệt vào cái chảo lớn, bắt lên bếp để lửa riu riu khuấy đều cho đến khi bột đặc lại nhưng chưa chín hẳn gọi là "lấy trùng". Khi bột đã kết thành khối má mới trút ra mâm rồi thoa nước muối vào tay mà nhồi thật kỹ. Má loại bỏ những cục bột bị vón lại và bên trong còn sống, những cục bột nầy gọi là "óc trâu", khi khối bột đã thật mịn má mới dừng tay. Má gom mấy miếng vỏ sáp bọc những quờn thuốc "Tô Hiệp" lại cho vào chén đem hơ trên lửa cho chúng chảy ra. Cái chén sáp nầy dùng thoa tay để bột không dính khi vò bánh.
        Ông ngoại của nó ngày xưa se bánh rất khéo. Ông không đặt bột lên thớt như mọi người mà cho cục bột vào hai lòng bàn tay, chấp lại ngang ngực rồi se. Cọng bánh tầm nhỏ như chót đũa ăn cơm, chảy liên tục từ hai bàn tay cho đến hết cục bột mới dừng lại chớ không hề đứt từng đoạn ngắn. Nó nhìn ông làm bằng tia mắt thán phục, ráng bắt chước nhưng làm đi làm lại cả mấy chục lần đều không thành công, cho đến khi cục bột trắng đổi thành màu cháo lòng nó mới bỏ cuộc. Hồi đó ngoài những lời cầu xin được mạnh khỏe, học giỏi và chơi thắng trong tất cả các môn, nó còn xin Trời Phật phù hộ cho nó se bánh tầm khéo như ông ngoại nữa. 
        Cả nhà ngồi xúm xít chung quanh mâm bột với cái chén sáp còn âm ấm, trước mặt mỗi người là một tấm thớt vuông, được đóng như cái ghế ngồi, má, bà ngoại, dì Bảy và nó. 
        Năm ngoái còn có thêm ông ngoại, ông ngồi xếp bằng, cái lưng thẳng băng, một mình ông làm bằng bốn người cộng lại. Cọng bánh tầm của ông dài và suông đuột trông hết sức là mát mắt. Mâm bánh ông làm được hấp riêng để đem đặt lên bàn thờ cúng và cho lối xóm. Mít Ướt bưng bánh đi cho từng nhà, ai cũng hỏi :
        -Ai se bánh mà khéo dữ vậy?
        Nó phổng mũi lên đáp:
        -Ông ngoại của con làm đó!
        Năm ngoái ông chấp Mít Ướt vò thi. Ông ngắt cho nó cục bột nhỏ xíu bằng một phần tư của ông. Nó sợ thua nên cắm đầu làm hì hục làm ai cũng mắc cười. Cọng bánh của nó chỗ mập, chỗ ốm đã vậy còn cong lại y như cái chùm me nước đèo trông xấu quá xá cỡ làm má nó phải sửa lại. Thấy nó buồn ông an ủi:
        -Để thủng thẳng con lớn rồi ông dạy cho se giống như ông.
        Ông không khi nào nói sai lời với nó vậy mà... 
        Nước mắt nó cứ rơi tầm tả, má nó rầy:
        -Đi rửa cái mặt đi, không thôi nước mắt rớt vô, cục bột nhảo nhẹt làm sao mà vò.
        Không ai hỏi tại sao nó khóc bởi ai cũng biết lý do. Bà ngoại, má và dì Bảy đều móc khăn ra chậm mắt. Nỗi buồn tràn ngập cả lòng người và lòng trời!
        Đang ngồi vò cặm cụi, nó bỗng thấy con Thẹn lấp ló chỗ cửa sổ đưa tay ngoắc.
        Nó vò lẹ cho xong cọng bánh rồi chạy ra hỏi:
        -Cái gì vậy Mũi?
        Con Thẹn kê miệng sát lỗ tai nó rồi nói nhỏ xíu:
        -Tao có ăn cắp của má tao một vá bột, chút nữa tụi mình chơi đổ bánh khọt nghe?
        Nó hỏi lại:
        -Chừng nào? Chỗ nào?
        -Mầy đừng ngủ trưa, tụi mình ra chỗ bụi tầm vông như cũ, chịu hông?
        -Ừ, chịu! Chừng nào mầy đi ngang nhớ tróc lưỡi kêu tao nghe!
        -Ừ! 
        Nó lật đật chạy vô, vừa ngồi xuống là má nó hỏi liền:
        -Hai đứa bây thậm thà, thậm thục chuyện gì đó?
        Biết không thể giấu được nó nói bằng cái giọng nài nỉ:
        - Chút xíu nữa má cho con đổ bánh khọt với con Thẹn nghe má?
        Từ hôm Hai Ốm đi tới giờ nó buồn lắm, ít đi chơi hơn lúc trước nên má nó không nở từ chối đành miễn cưỡng gật đầu nhưng cũng rầy dằn mặt:
        -Bánh trái ê hề còn bày đặt, ngủ một chút rồi mới đi biết chưa?
        Nó mừng húm, "dạ" một tiếng lớn liền.
        Trưa hôm đó hai đứa nó bưng đồ nghề lỉnh kỉnh ra chỗ bụi tầm vông để đổ bánh khọt.
        Mít Ướt ôm mấy cây củi me nước kèm thêm một bó lá dừa đưa cho con Then nhúm lửa, việc nầy hồi trước là phần của Hai Ốm, bây giờ giao qua cho con Thẹn chớ nó dở tệ đâu có kham nổi. Con Thẹn làm ba trật ba vuột rồi cũng xong, nó chỏng khu thổi lửa nên mặt mày đỏ ké và nước mắt nước mũi ràn rụa. 
        Lửa cháy đượm rồi nó thở dài nhẹ nhỏm, nói bằng cái giọng nuối tiếc :
        -Phải còn con Ốm ở đây hén!
        Mít Ướt gật đầu:
        -Nó mà có ở đây thì ba cái chuyện nầy nó làm một cái một. Hổng biết chỗ nó có ăn mùng năm tháng năm hông ta ?
        -Chỗ nào hổng ăn!
        -Hổng biết nó có nhớ tụi mình hông ta?
        -Nhớ chớ sao hông!
        -Hổng biết nó có trở về hông ta?
        -Ba tao nói thế nào ba nó cũng về mà!
        -Còn má nó?
        -Tao hổng biết, hổng nghe ba tao nói .
        -Má nó hổng về thì chưa chắc nó đi theo ba nó đâu!
        -Theo chớ sao hông, nó hứa rồi, với lại ở với ổng sướng hơn nhiều. Má nó la rầy hoài hà, còn ba nó thì làm đồ chơi cho nó nè, rồi còn hát vọng cổ cho nghe sướng quá trời quá đất luôn còn đòi gì nữa! Nó mà không về theo chú Tư là tao giận nó tới già luôn!
        Con Thẹn bỗng ngừng nói, quay mặt nhìn chòng chọc vô mặt Mít Ướt rồi gằn giọng:
        -Mầy thề chơi với tao cho tới chết rồi đó nghe ! Hổng có " bứt cỏ bỏ lời thề ", bỏ tao mà đi như nó là mang tội lút đầu, lút cổ, không có đi đầu thai được đâu.
        Mít Ướt gật đầu hai ba lần:
        -Tao hổng có bỏ mầy đâu! Sợ mầy bỏ tao đi lấy chồng mất biệt á!
        Con Thẹn cũng lắc đầu hai ba lần:
        -Đừng có sợ tao hông đi lấy chồng đâu.
        -Rủi ba mầy bắt thì sao?
        Con Thẹn lại kề sát tai Mít Ướt:
        -Tới chừng đó tao đòi uống thuốc rầy là ba tao sợ hà!
        -Sao mầy biết?
        -Biết chớ sao hông! Hôm ba tao trúng số đó ! Ổng đòi mua xe Hông Đa, má tao hổng chịu, ổng cự nự dữ quá. Má tao đòi uống thuốc sâu, vậy là ba tao hông có đòi mua xe nữa.
        Ngừng một lát nó nói tiếp bằng cái giọng van lơn:
        -Mầy đừng "kiu" tao bằng " Cứt Mũi " nữa nghe, tao ghét ai "kiu" tao như vậy lắm! 
        Con Thẹn và mấy đứa trong xóm hay nói chữ "kêu" thành "kiu", "cười" là "cừ", " khoai" là "phai" v...v...Mít Ướt lúc mới về bị tụi nó chê là điệu vì nói không có giống.
        -Ừ ! Mầy cũng vậy hén! Đừng kêu tao là Mít Ướt, nhớ kêu tên Diệu thôi nghe hông?
        -Rồi, ngoéo tay đi cho chắc ăn!
        Mít Ướt lại đưa cái ngón trỏ cong vòng ra cho con Thẹn móc vào, trong bụng nghĩ thầm :
        -Cái con nhỏ nầy, sao mà thích ngoéo tay dữ vậy!
        Tụi nó vừa nói chuyện vừa làm, cái vá bột có chút xíu đổ chưa đủ cái khuôn đất chứa được tới mười hai cái bánh. Con Thẹn chan nước cốt dừa trên mặt bánh cũng nhiều bằng bột nên cái bánh bị nhão, không khựi ra được, tụi nó phải để nguyên trong khuôn rồi lấy muỗng xúc ăn.
        Cả hai thi nhau vét sạch, cứ chắt lưỡi hít hà tiếc rẻ vì bánh quá ít và đồng ý với nhau là từ trước tới giờ chưa từng ăn cái bánh khọt nào ngon y như vậy!




        Ngày tết Đoan Ngọ vừa qua là bà con liền bắt tay vào việc chuẩn bị cho ngày lễ "Mười tám tháng năm" sắp tới.
        Đây là ngày lễ thuộc về tôn giáo. Quê của Mít Ướt là nơi khai sinh ra một giáo phái gọi là " PHẬT GIÁO HÒA HẢO", do Đức Thầy HUỲNH PHÚ SỖ, được tôn là " ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ" sáng lập. 
        Tôn giáo nầy được xây dựng trên nền tảng của Phật giáo nhưng giản lược đi rất nhiều. Giáo lý gồm "TÁM ĐIỀU RĂN CẤM" và "SẤM GIẢNG", ghi những lời dạy của ĐỨC THẦY. Kinh, kệ dùng những từ ngữ giản dị, được viết bằng những bài thơ rất dài, đa số là thể thơ lục bát.
        Giáo phái nầy được phổ biến nhiều nhất ở miền tây nam bộ, nơi cư dân hầu hết sống bằng nghề nông, cổ súy tính nhân đạo và khuyên mọi người hướng thiện. Những bài giảng rất dễ hiểu, rất mộc mạc, gần gũi với hết thảy mọi người, phản ảnh tấm lòng chơn chất và những mong cầu hết sức bình thường của bà con nông dân.
        Gần đến ngày lễ, ghe chở cát đậu rải rác khắp làng, họ cung cấp miễn phí, bà con tha hồ gánh rải kín mặt đường để tránh bụi vì ngày lễ xe chạy tấp nập gấp cả chục lần lúc thường. Mấy chậu kiễng trong sân được mang ra đặt ở hai lề đường, chúng được sơn trắng giống mấy cây cột có treo lá cờ đạo màu nâu bên cạnh. Những lá cờ nhỏ hình tam giác đủ màu được giăng đầy trên những sợi dây nối liền các cây cột cờ ấy. 
        "NHÀ GIẢNG" giống như chùa bên đạo Phật, được xây rải rác dọc hai bên đường. Kiến trúc đồng bộ, gồm một tầng trệt và một tầng lầu, cả hai tầng đều có hình lục giác. Tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, được treo đèn kết tụi rực rở. Mấy cái loa đặt trên mái luôn phát những bài giảng được ngâm một cách trầm bổng, nhịp nhàng. Bàn thờ đặt ở tầng trên, ngay trung tâm chánh điện với bức ảnh của Đức Thầy treo trên giá cao giữa bình hoa tươi và dĩa ngũ quả. Những ngày nầy nhang được thắp suốt ngày nên luôn có mùi trầm phảng phất.
        Trước ngày lễ mấy hôm, một đoàn diễu hành gồm mấy chục chiếc Hon Đa chạy thật chậm dẫn đầu, một hàng dài những chiếc xe lôi chở đầy ấp thực phẩm do bà con dâng cúng đi sau. Chiếc xe lôi đi đầu chở chị Hai Nga con cậu Tư Khá làm nghề chích thuốc. Chỉ cầm cái mi rô đọc giảng suốt con đường từ đầu làng xuống tới thánh địa. Chẳng là chỉ đọc giảng hay nhất xóm, có khi còn nhất tỉnh, nhất vùng nên những dịp như thế nầy được mời đi khắp. Hai bên đường bà con đợi sẵn để gửi đồ cúng, ai có gì cúng nấy từ khoai, bắp, dừa, bí, tương, chao... cho đến các vật dụng như tô, chén, thớt...
        Dân trong xóm đều là những người mộ đạo. Những nhà có người bịnh, hay đang gặp chuyện không may thường đặt bàn hương án ở giữa sân, mỗi tối bà con đến cúng để cầu nguyện cho bịnh nhân mau bình phục hoặc gia chủ tai qua nạn khỏi. Có khi ngoài cúng lạy còn có đọc giảng. Gia chủ mượn mi rô của nhà giảng rồi đốt cây đèn Măng Sông treo lên. Tụi con nít ngồi kín ngoài sân, chúng không nô đùa mà ngồi yên nghe và chờ tới phiên mình vô đọc. Trước khi đọc phải múc một gáo nước súc miệng trước, cầm mi rô trên tay rồi chấp tay cúi đầu niệm "Nam mô a di đà Phật" xong mới bắt đầu ngâm giảng. Đọc xong xếp cuốn kinh lại, rồi chấp tay niệm Phật thêm một lần nữa. Có những đứa đọc rất thường xuyên nên ngâm ro ro không cần cầm sách. Ông già, bà cả có người đâu biết mặt chữ vậy mà cũng thuộc nằm lòng đọc không sai một tiếng.
        Mít Ướt rất thích đọc giảng và chỉ đọc một bài duy nhất. Mỗi lần ngồi chờ là nó hết sức hồi họp, để đỡ mất thì giờ đứa nào sắp lên đọc được cho biết trước để chuẩn bị cho gọn gàng sạch sẽ hoặc ôn trước. 
        Khi cậu Tư Sơn xướng lên:
        - Bây giờ tới phiên cháu Diệu, con cô năm Hân đọc bài " Ngồi trên đỉnh núi liên đài".
        Nó liền giật thót mình một cái, hít vô một hơi thở thật sâu rồi mới đọc:

        Ngồi trên đảnh núi liên đài
        Tu hành tầm đạo, một mai cứu đời
        Lan thiên một cõi xa khơi
        Non cao đảnh thượng thảnh thơi vô cùng...

        Nó vừa đọc vừa tưởng tượng trong đầu hình ảnh của một người ngồi chót vót trên đỉnh núi. Có cái gì đó thật đẹp, thật buồn làm cho nó vô cùng xúc động. Con Thẹn thích cái bài " Ông Táo " lắm nên cũng chỉ đọc mình ên cái bài đó mà thôi !
        Những ngày nầy bà con đều hoãn việc đồng án ít hôm để dự lễ. Trước lễ chánh một ngày dượng Tư Ngỗng chở một ghe đầy khẵm người lớn, con nít, đi xuống thánh địa để xem lễ. Mít Ướt cũng được đi cùng với má, trên sông đầy những chiếc tàu, ghe được treo cờ lớn nhỏ đủ loại, chở tín đồ từ những tỉnh xa về tham dự. Không khí hết sức là đặc biệt, một niềm hân hoan và cảm xúc thiêng liêng thấm đẫm khắp mọi người. Những dịp lễ hội như thế nầy giống như một cuộc tắm gội cho tâm linh, ai cũng cảm thấy như mình tốt đẹp hơn, con người và cuộc đời cũng đáng yêu hơn!
        Dọc theo bờ sông ghe thuyền chen nhau đậu chật kín. Dượng Tư cặp ghe phía sau một chiếc ghe bầu rồi thả cây đòn mỏng bắt qua đuôi chiếc ghe ấy để đi nhờ chớ không còn chỗ trống trên bờ nữa. Mọi người kéo nhau đi lên đường để xem lễ, hầu như tất cả các thuyền đều bỏ trống. Trên đường đông nghẹt người là người, mấy chiếc xe Hon Đa len lỏi thật chậm qua dòng người, tuyệt nhiên không hề xảy ra chuyện xô lấn hay gây gổ. 
        Ngày hôm ấy một bầu không khí thân ái bao trùm khắp mọi nơi. Bà con ăn mặc lịch sự, hớn hở như muốn ban phát niềm vui cho người khác.
        Đến thánh địa mọi người bỏ dép bước vào lễ đường để dâng hương. Ai cảm thấy đói thì bước ra nhà bếp, ở đó có ba dãy bàn thật dài chạy dọc theo gian bếp rất rộng và dài. Bà con ngồi vào những chiếc ghế còn trống, trên bàn có rất nhiều món ăn. Toàn là các món chay với những cái tên cũng vô cùng hấp dẫn như" đùi gà rô ti", " tôm kho tàu", "cá cơm kho tiêu", "cà ri", "bì cuốn", "kiểm"...Có mùi vị không thua gì đồ mặn. Ngay cả món mắm kho, Mít Ướt ăn thử cũng thấy giống y chang như mắm kho của má.
        Ngày lễ chánh thức được báo hiệu bằng tiếng trống múa lân "tùng, tùng" từ sáng sớm. Mấy đứa con nít phóng xuống giường, chạy thục mạng tới nhà anh Năm Liểm nơi có đám múa lân. Tụi con trai cứ năn nỉ được tròng cái đầu lân vô người hoặc đóng vai "giũ đuôi " cũng được. 
        Anh Năm cho từng đứa làm thử rồi chọn ra mấy đứa xuất sắc nhất. Cái đám múa lân ấy đi từng nhà với mấy chục đứa con nít đi theo. Một đứa con trai cầm trên tay hai cái nắp vung đập loạn xị xà ngầu.
        Khoảng chín giờ tiếng xe máy cày cùng tiếng đọc giảng vang lên, đám con nít hét to " dưng Cộ tới rồi ", thế là mọi người túa ra đường để xem. " Dưng Cộ" giống như cái sân khấu lưu động được kéo bởi cái đầu máy cày, trên đó người ta dựng một cảnh lấy từ sự tích về cuộc đời của Đức Phật. Mỗi làng làm một cái. Hôm ấy Mít Ướt được xem ba, bốn cái dưng Cộ của những làng lân cận. Họ đi diễu hành khắp làng rồi tập trung tại thánh địa để "đấu xảo".
        Năm nay làng Phú Lâm làm cảnh" Phật nhập niết bàn". Cảnh nầy gồm bốn nhân vật, tất cả đều trạc tuổi Mít Ướt trở xuống. Một đứa bé trai- con thầy giáo Nhĩ- đóng vai Phật ngồi xếp bằng, mắt nhìn xuống không có cười. Sau lưng nó là một tấm hình rất lớn vẽ cái cây bồ đề. Ba đứa con gái mặc y phục theo kiểu Ấn Độ, ba đứa nầy thì vừa múa vừa cười. Đứa nào cũng được giồi phấn trắng bóc và thoa son đỏ chóe. Tụi nó đứng trên những cái trụ cao trước mặt người con trai, đóng vai ma vương cám dỗ Phật.
        Nhưng cái mà mọi người mong đợi nhất chính là những chiếc "Dương Hồ". Đó là những chiếc ghe lớn chở những cảnh tái hiện các sự kiện có trong điển tích của đạo Phật, bằng người thật hay hình nộm, hoặc mấy con vật như rồng, rắn, cá...Vì năm nay là năm Thìn nên có đến ba tỉnh làm hình con rồng, một con ngậm trái châu, một con phun nước và một con phun lữa. Cũng có một mô hình diễn cảnh thầy trò Tam Tạng đi thỉnh kinh, gồm có bốn nhân vật: Đường tăng, Tôn ngộ Không, Sa tăng, Trư bát Giới. Bốn cái hình nầy cử động liên tục, nhất là hình con khỉ nhảy nhót lung tung là được mọi người thích nhất. Ghe và các hình nộm đều được gắn thật nhiều bóng đèn màu nên trông hết sức là lộng lẫy và đều có viết tên địa phương rất lớn bên hông như : Long Xuyên, Sa Đéc, Cần thơ... có đến hơn một chục chiếc. Những chiếc ghe nầy, sau khi tập trung ở thánh địa được chấm điểm, xếp hạng xong mới chạy khắp nơi cho mọi người xem cho nên đến gần nửa đêm mới đến làng của Mít Ướt. 
        Con sông như một nàng công chúa đang ngủ mê vừa được đánh thức. Nó trang điểm thật lộng lẫy với một hàng ghe mang muôn ngọn đèn màu rực rở nối đuôi nhau chạy dọc trên sông, chiếu xuống mặt nước những hình ảnh lung linh, biến ảo y như trong thần thoại. Tụi con nít trố mắt, nín thở, há hốc mồm mà xem. Hai bên bờ sông lô nhô bóng người và những tiếng trầm trồ bình phẩm. Mít Ướt có cảm giác như không chỉ con người mà cả trăng sao và muôn loài thủy tộc cũng đang say sưa chiêm ngưỡng. 
        Nó và con Thẹn đứng cạnh bên nhau, nhìn cho đến khi dòng sông hoàn toàn yên lặng chỉ còn sót lại một mình con trăng, chắc đang giận dỗi nên kéo mây che kín mặt.

         
        Ngoài ngày lễ "Mười tám tháng năm", quê của Mít Ướt còn có một ngày lễ nữa, lễ nầy so ra nhỏ hơn nhưng cũng rất long trọng. Nó chỉ kém nhiều về bề rộng còn chiều sâu thì cũng tương đương, đó là lễ "Thỉnh Sắc Thần". 
        Năm trước khi ông ngoại còn sống, ngày lễ nầy ông rất bận rộn vì có chân trong ban tổ chức. Bà ngoại góp vô một mâm xôi vò thật lớn để ông mang xuống đình dâng cúng.
        Ông bảo với bà:
        -Mâm xôi của bà nó làm, ăn vừa miệng lắm ai cũng khen!
        Thường thì vào hôm ấy cả nhà ăn xôi với gà rô ti, làm Mít Ướt cứ ao ước phải chi ngày nào cũng thỉnh sắc thần.
        Vì là ngày lễ nên con đường lộ được tưới nước, quét và nhổ cỏ hai bên lề. Nhà nhà đặt bàn hương án ra giữa sân, những nhà ở gần đường thì kê sát lộ. Mít Ướt đã nôn nao từ sáng sớm, nó cùng đám con của cậu Sáu đứng sẵn bên đường, lắng tai chờ nghe tiếng xe thỉnh sắc thần đến.
        Gần mười giờ tiếng động cơ nổ giòn giả. Cái đầu máy cày kéo theo phía sau một sàn gỗ, có khoảng mười vị bô lão đứng trên đó. Ai cũng mặc áo dài gấm bông xanh hoặc the đen, quần trắng, đầu bịt khăn đống. Một cái bàn khảm xà cừ rất đẹp có một bài vị đặt giữa. Năm cái lộng to với những tua rua bằng chỉ ngũ sắc viền quanh. Năm vị gương mặt hết sức nghiêm trang tay cầm lộng, một trong năm người ấy là ông ngoại của Mít Ướt. 
        Nó thúc cùi chỏ vào hông con Ghết:
        -Ông ngoại kìa, cầm cái lộng đó mầy thấy hông?
        Con ghết nói như nạt:
        -Tao thấy rồi, mầy đừng có chỉ, tội chết!
        Con Ghết vừa nói vừa khoanh tay lại.
        Khi sắc thần được rước đi ngang, má và bà ngoại nó liền đốt ba cây nhang cắm vào chiếc lư hương đặt ở bàn hương án. Mít Ướt và mấy đứa kia khoanh tay cúi sát đầu, cầm đụng ngực, chờ đến khi chiếc xe đi khỏi mới ngước mặt lên nhìn theo.
        Trưa hôm ấy ông ngoại không về nhà ăn cơm, ông ở lại đám cúng đình đến chiều mới đạp xe về. Vừa về đến nhà là ông hối bà ngoại ăn cơm liền để chuẩn bị đi xem hát bội. Dịp nầy mấy gia đình khá giả hùn tiền lại mời gánh hát diễn, trước để chầu thần, sau cho bà con có dịp giải trí. Mít Ướt năn nỉ xin theo, ông thấy nó tha thiết quá nên đành chìu. 
        Nó nôn quá nên lùa vội, vừa hết chén cơm là lật đật đi thay đồ mới liền. Bà ngoại cũng mặc bộ bà ba mới tinh mà bà thường cất để dành đi đám giỗ. 
        Ông ngoại lau chiếc xe đòn giông thật sạch, lấy cái ống bơm mắc sẵn bên sườn xe ra bơm cho hai cái bánh xe căng cứng. Bà ngoại lót cái khăn lên trên cái sàn chở bằng sắt phía sau để ngồi cho êm, còn Mít Ướt được ông cho ngồi trên cái đòn ngang trước mặt của ông. 
        Con Ghết từ trong nhà chạy ra đòi:
        -Ông nội chở con với 
        Ông ngoại nói:
        -Con kêu ba con chở đi, xe ông hết chỗ rồi!
        Nó lắc đầu, cái mặt chù ụ: 
        -Con muốn đi với ông hà!
        Nó vừa nói vừa khóc. Mợ Sáu chạy ra lôi nó vô nhà. Nó còn vùng vằng nên bị cú vô đầu một cái. Nó gửi theo cho ông một cái nhìn trách móc.
        Bà ngoại rầy Mít Ướt:
        -Tại con đi theo nó mới cà nanh, làm trận làm thượng như vậy đó !
        Mít Ướt biết mình có lỗi nên ngồi im ru không dám nói tiếng nào. 
        Từ nhà đến đình chừng sáu cây số, đường đá nhấp nhô lại có rất nhiều ổ gà, ổ voi. Ông ngoại biết nó ngồi trên thanh sắt bị cấn đau nên chạy rất chậm và len lách để tránh chỗ dằn.
        Đến nơi nó và bà ngoại đều than một lượt:
        -Tê chưn quá!
        Trong đình, mấy hàng ghế đẩu xếp san sát đã có người ngồi gần kín. Trên hàng ghế đầu nơi những người bạn của ông ngoại đang ngồi còn mấy chỗ trống. Ông ngoại bèn lại ngồi kế ông Chín Năng, Mít Ướt ngồi cạnh ông rồi tới bà ngoại, ngay trước mặt nó có bốn người nhạc công đang thử lại dây đàn. 
        Mấy đứa con nít đang bu quanh phía sau tấm màn nơi các nghệ sĩ hóa trang. Mít Ướt nhìn một cách thèm thuồng nó muốn xin bà ngoại cho đến xem mà hổng dám. Có một đứa vừa đi vừa cầm trái ổi cắn, ông ngoại ngoắc lại bảo:
        -Cháu ra ngoài cửa ăn cho hết trái ổi rồi hả vô!
        Thằng bé nghe lời riu ríu đi ra.
        Mít Ướt ngạc nhiên hỏi:
        -Sao ăn ổi trong nầy hổng được vậy ông?
        Ông Chín Năng đáp thay:
        -Ông tổ nghề hát khoái ổi chín lắm! Ổng mà nghe mùi là bỏ đi theo luôn không có ở lại mà độ gánh hát nữa. Đào, kép hát cũng hết hay, bởi vậy cái nghề nầy họ kỵ ai ăn ổi tới gần lắm! 
        Bà ngoại vừa lôi cái quạt lông gà trong giỏ ra quạt vừa hỏi:
        -Chừng nào mới hát vậy ông?
        Ông ngoại trả lời:
        -Họ còn sắm tuồng nữa mà, đâu có để cái mặt không mà hát được.
        Bà ngoại thở dài:
        -Biết dềnh dàng như vầy thà ở nhà phức cho rồi !
        Bà ngoại cằn nhằn, ông ngoại an ủi :
        -Một năm mới có một lần, coi cho biết với người ta.
        -Tại ông thúc quá, cực chẳng đã tui mới đi chớ đâu có ưa mấy cái thứ nầy!
        Ông Chín Năng ngồi bên kia nói vói:
        -Tại chị hổng biết chớ cái gánh nầy họ hát hay lắm, mình mời được cũng là may lắm đó!
        Bà ngoại không trả lời nhưng từ lúc đó cũng thôi không cằn nhằn ông ngoại nữa.
        Rồi cái thời điểm mong đợi cũng tới. Một người đàn ông đội cái nón có gắn hai cái lông chim dài thòng, mặc bộ đồ trông hết sức rực rở với nhiều lông trắng viền quanh và mấy miếng giấy bạc tròn cỡ cái đồng một cắc dán đầy trên đó. 
        Ông ta xua hết đám con nít ra ngoài rồi đứng giữa sân khấu mà thông báo :
        -Thưa bà con hôm nay đoàn hát chúng tôi hân hạnh về đây hát chầu thần và ra mắt bà con. Chúng tôi sẽ diễn vở "Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu ". Mời bà con ổn định chỗ ngồi và các em nhỏ lui xa sân khấu để rộng chỗ cho đào kép diễn.
        Mấy đứa con nít bu quanh nghe nói vậy liền giãn ra một chút, các nhạc công cũng bắt đầu trổi nhạc. Mít Ướt nín thở nhìn chăm chăm lên sân khấu. Tấm màn được vén lên, từ bên cánh gà một cô đào hát, có lẽ là đào chánh. Mặc đồ từa tựa cái ông hồi nãy, đầu cũng giắt hai cái lông chim rất dài cong xuống chấm eo. Chạy ra sân khấu tay cầm một cái cây dài chừng sáu, bảy tấc có gắn tua rua đều khắp, chân đi rất nhanh tay vung cây rất nhịp nhàng. Có tiếng gõ lộc cộc vang lên, ông ngoại giải thích:
        - Người ta giả bộ cởi ngựa đó!
        Chạy một vòng xong, cô đào ấy dừng lại giữa sân khấu nói gằn từ tiếng một:
        - Như... ta... đây... họ... Lưu... tên... Kim Đính...á, a, a.
        Mít Ướt thấy cổ hát mà thương, bởi cổ cứ gằn từng tiếng nghe thật là nặng nhọc. Nó liếc ngang thấy ông ngoại đang nhìn hết sức chăm chú, bà ngoại cũng vậy, nó cảm thấy không hay bằng cải lương, chỉ có quần áo là đẹp hơn thôi. Ông ngoại biết nó không hiểu nên nói :
        -Cái môn nầy người ta còn gọi là hát BỘ, nghĩa là vừa hát vừa ra bộ. Như hồi nãy thì gọi là cởi ngựa, còn bây giờ họ đứng một chân còn một chân gác ngang qua đầu gối của chân kia là đang ngồi trên ghế. Cái ông mặt đỏ vừa nói chuyện vừa trừng mắt là người tốt, còn cái ông mặt trắng mà con mắt láo liên là người xấu. Cái người đang đưa tay cao lên làm như đang châm trà là rót rượu, còn người giả bộ cầm rồi đưa lên miệng mà ngước đầu ra phía sau là uống rượu đó.
        Họ ca ngắt quãng từng từ một, cứ đệm vô những tiếng " ư... ư... thục", nghe không hiểu gì ráo ! Còn đánh gươm cũng dở tệ, không chịu đánh xáp lá cà ào ào cho rồi, mà đỡ một cái, hất cây giáo ra rồi ca. Cứ chạm gươm, chạm giáo một lần là dang ra ca rồi xông vô đánh tiếp, nó chỉ nhìn thôi mà sốt ruột quá chừng!
        Buổi diễn kéo dài gần nửa đêm mới xong. Ông ngoại về chung cùng những người bạn của mình, mọi người đều luôn miệng khen đào kép ca hay và bỏ đúng bộ. Họ được mời diễn thêm một đêm, vậy là ngày mai ông ngoại lại đi xem hát nữa, ông hỏi bà ngoại:
        -Ngày mai bà nó có đi nữa hông, họ diễn tuồng " Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê ". Họ bỏ bộ nhiều hơn, hay hơn cái vở nầy nhiều lắm !
        Bà ngoại lắc đầu:
        -Thôi đi ông ơi ! coi hát một lần là tui tởn tới già rồi, có hay ho gì đâu!
        Mít Ướt xin:
        -Cho con đi với ngoại!
        Bà ngoại nạt:
        -Ngày mai tới phiên con Ghết, con phải ở nhà!

         
        Hôm sau người thay chỗ Mít Ướt là con Ghết, còn người ngồi sau lưng ông ngoại là dì Bảy Xuyến. Bà ngoại không thích cho dì Bảy đi một chút nào ! Theo ý bà, con gái càng ít đi ra ngoài càng tốt, kỵ nhất là đến mấy chỗ đàn hát, sợ bị quyến rủ bởi "giọng kèn, tiếng quyển". 
        Ca dao có câu:
        Trồng trầu trộn lộn dây tiêu
        Con theo hát bội mẹ liều con hư.
        Những nơi đó chính là cạm bẩy để nhử mấy cô gái nhẹ dạ. Những người được ví như một món đồ mong manh dể vỡ, hay một "quả bom nổ chậm " nói một cách văn vẻ. Giới bình dân thì hay ví họ như " hủ mắm treo đầu giàn", đứt dây rớt xuống là tiêu tùng.
        Lần nầy tới phiên Mít Ướt buồn, ông ngoại an ủi:
        -Để tới trung thu ông sẽ làm cho con cái lồng đèn thiệt đẹp.
        Thật vậy, năm đó ngoại vót tre làm một cái đèn hình ngôi sao rất lớn. Nó cầm đi khoe khắp xóm, mấy đứa trong xóm bu theo, nó đi đầu rồi tới con Ghết cầm cái đèn hình con bướm của ba nó mua cho. Mấy đứa kia đa số cầm những cây đèn làm từ mấy cái lon cá mòi được xẽ dọc chỉ dính lại nơi cái vành đầu và đáy hộp. Những cái lon được xẻ dọc ấy được làm cho bung ra khi người ta nhấn mạnh xuống cho chiều dài thu hẹp lại, tạo thành cái dáng như những trái bí rợ nhỏ xíu trông rất dễ thương. Độc đáo nhất là cái đèn bằng tre của một thằng bé chắc do ba nó làm. Đó là một cái ống tre dài chừng hai tấc có khoét hình cái mặt người với hai con mắt tròn như hai đồng xu cạo gió. Một cái lỗ mũi hình tam giác, và một cái miệng hình trăng lưỡi liềm. Ở chỗ hai con mắt có dán hai miếng giấy mỏng cắt tua, giả làm lông nheo dán ở mí trên, gió thổi nó cứ phập phồng như đang nháy lia, nháy lịa. 
        Một cái đèn khác làm bằng mủn vùa, giữa hai con mắt dừa có một lỗ trống nơi cái mộng nhô ra, trái dừa nầy hơi nhọn nên trông rất giống cái mặt của con khỉ. Có cái đèn thì làm bằng giấy màu xếp dún lại trông giống như bình bông, có cái thì làm bằng hai cái rổ nhỏ xíu úp lại. Đơn giản nhất là những cái làm bằng lon sữa bò đục lỗ tùm lum rồi dán giấy màu lên trông cũng ngộ lắm!
        Chỉ mới chạng vạng thôi là cái đám lao xao ấy đã kéo nhau diễu qua khắp xóm. Mặt mày đứa nào cũng tươi rói bởi bộ đồ mới đang mặc, bởi cái đèn lồng cầm một bên tay và tay bên kia là một miếng bánh bía hoặc bánh in thơm phức.
        Tụi nó cùng hát:

        Ánh trăng sáng ngà
        Có cây đa to
        Có thằng cuội già
        Ôm một mối mơ
        Lại đây ta nói cho cuội nghe
        Ở trên cao mãi làm chi
        Các em thích cười
        Muốn lên cung trăng 
        Cứ hỏi ông trời
        Cho mượn cái thang
        .....

        Trung thu là dịp để dì Bảy trổ tài. Dì làm bánh dẻo, bánh in nhưn đậu xanh và bánh nhúng. Thứ nào cũng ngon. Mít Ướt thích nhứt là bánh nhúng vì nó giòn, thơm, còn được áo một lớp đường mỏng bên ngoài nên ăn rất ngon. 
        Hể dì làm bánh là Mít Ướt luôn xà quần bên cạnh chờ được dì cho vét khuôn. Dù cứ lầm bầm van vái cho bánh hư thật nhiều để được ăn thỏa thích, nhưng chẳng bao giờ toại nguyện. Dì Bảy khéo lắm! Cái bánh nào cũng đẹp, chẳng có hư hao chút nào hết trọi, nên đành an ủi bằng những vụn bánh dính khuôn thôi ! Bánh làm xong được dì bọc giấy "bu luya" lại rồi cất vô cái thùng có in hình mấy cái bánh tây rất đẹp để chưng trên đầu tủ thờ. Mấy cái bánh ấy bị nhốt cho đến đúng rầm mới đem cúng. Dì Bảy chờ cây nhang tàn mới bưng xuống mời ông bà ngoại trước rồi cho nó một miếng.
        Có một lần dì Bảy làm bánh thuẩn để đi đám cưới. Thường thì bánh của dì rất đẹp, nổi tiếng nhất vùng vì ba tay bánh nở như cánh sen bẻ ngữa. Không hiểu tại sao lần đó bị chay, cái bánh nặng ì tròn như đầu ông Địa, thế là nó bị đổ thừa.
        Dì Bảy trừng mắt hỏi nó:
        -Hồi nãy con có lấy tay vò đầu gối hay không?
        Bị hỏi bất ngờ nó ngớ ra, rồi trả lời đại:
        -Dạ có!
        Dì cú đầu nó một cái cốc, nói:
        -Hèn gì bánh chai cứng y hệt cái đầu gối vậy!
        Chỉ có lần đó là nó được ăn thỏa thích cái món bánh thuẩn ấy. Nhưng mà cái loại bánh nầy dính cổ quá, không hiểu sao nhiều người ưa thích. Mít Ướt ăn có một cái mà no căng bụng vì cứ cắn một miếng là phải uống gần nửa ly cối nước để tống nó xuống. Kễ từ lần đó mỗi lần làm bánh thuẩn là dì Bảy lại cấm nó vô bếp. Cho dù dì không cấm nó cũng chẳng dám ló mặt vô vì ngán cái loại bánh đó quá trời quá đất!

         
        Cái món mà dì Bảy làm khéo nhất và Mít Ướt mê nhất là món mứt me, chỉ xuất hiện vào dịp tết, đây là loại mứt đòi hỏi sự khéo tay và tỉ mỉ. Trước tiên dì tự tay chọn từng trái me có dáng đẹp, sắp dốt để lột vỏ cho dễ. Những trái me nầy được cho vào thau nước muối ngâm một đêm để thịt săn lại và nhả bớt vị chua. 
        Sáng hôm sau cả nhà ngồi xúm xít quanh cái bàn tròn nơi ông ngoại ngồi uống trà để lột me, kể cả Mít Ướt cũng được trưng dụng. Dì phát cho nó một cây dao nhỏ xíu, mỏng, có cái mũi nhọn hoắc. Dì cầm một trái me lên tách vỏ cho nó xem trước rồi nói với một giọng hết sức trịnh trọng:
        -Con phải làm đúng như vậy nghe không? Phải thiệt là nhẹ tay, đừng có cắt phạm vào cái phần thịt, đừng có làm cho nó đứt cái cuốn, chỉ tách vỏ ra thôi, rồi đưa cho dì lấy hột.
        Cái thao tác của dì trông gọn, đẹp làm sao! Vỏ me được lấy ra nhẹ nhàng như lột chuối, lớp thịt nhẳn thín không bị móp tí ti nào. Nó thấy dì làm dễ dàng quá nên tưởng bỡ, nào ngờ đâu khi bắt tay vào mới thấy khó vàng trời.
        Thấy nó ỉu xìu dì an ủi:
        -Ráng làm đi, sau nầy có đi làm dâu mới không bị má chồng mắng mỏ.
        Hổng biết tại làm sao mà hể bắt nó làm cái gì người lớn cũng hay chêm vô câu đó. Mỗi lần nghe, nó thấy nhột và ghét lắm, tự nhiên đâm ra ác cảm với cái bà má chồng chưa hề biết mặt đó !
        Ngồi một chút ông ngoại than mỏi lưng. Ông đứng lên vặn người qua lại, nắm tay đấm vào lưng mấy cái, cầm cái quạt làm bằng bẹ Cau, quạt phành phạch rồi nói:
        - Năm nay coi bộ nóng dữ à nghen, tui e mai nở trước mùng một quá!
        Bà ngoại càu nhàu:
        -Chắc tui phải gói bánh hai đợt, gói ít đòn cúng rước ông bà rồi ra ngoài ngày gói thêm một lần nữa
        -Nắng như vầy mấy mâm mứt của con chắc lên màu đẹp lắm đây!
        Dì Bảy vừa nói với vẽ phấn khởi vừa liếc nhìn cái lưỡi sáng bóng của những tia nắng đang tham lam liếm mấy cái mâm mứt bí, mứt đậu que, khổ qua, cà gió, mãng cầu Xiêm...đang phơi ngoài sân.
        Mít Ướt hỏi một cách rụt rè:
        -Dì may đồ cho con chưa dì?
        -Chưa, để làm mứt xong rồi dì may cho.
        -Dì còn làm mấy thứ mứt nữa hả dì?
        -Còn làm mứt chùm ruột, mứt khóm, mứt dừa nữa là đủ.
        Mít Ướt đưa từng ngón tay lên đếm rồi hỏi:
        -Vậy là dì làm tới chín thứ mứt lận hả dì?
        -Ừ!
        Dì đáp gọn một tiếng với tràn đầy âm điệu hãnh diện, rồi hỏi nó:
        -Sao, năm nay con còn muốn mặc quần đáy nem hông?
        Ông ngoại, bà ngoại và dì đều cười ồ lên một lượt sau câu hỏi đó. Mít Ướt mắc cỡ đỏ mặt luôn, chẳng là năm ngoái khi may đồ mới, nó nằng nặc đòi may quần đáy nem. Thật ra nó đâu có biết "đáy nem" ra thế nào, chỉ vì cái chữ "nem" làm nó liên tưởng đến mấy cục nem gói trong lá chuối mà nó rất thích ăn, nên cho rằng cái quần đó chắc trông cũng ngon mắt lắm. 
        Bà ngoại lên tiếng bênh vực:
        -Nhờ vậy mà tui đỡ tốn chỉ nhíp cái đáy quần lại cho nó. Quần đáy nem mặc bền, lâu rách hơn ba cái quần tân thời cắt cái kiểu "đáy giữa".
        -Nó là con nít, mặc kiểu đó dòm y như mấy bà già xưa, giống ba cái trái non chín háp coi kỳ thấy mồ, mà may cũng cực hơn. Dì Bảy phản đối
        Cái quần đáy nem nầy chỉ có những ông già bà cả mới mặc mà thôi! Đáy của nó không phải là cái ngã tư, nơi ráp hai cái ống lại với nhau. Nó được thay bằng một miếng vãi hình thoi, với giao điểm của hai đường chéo nằm ngay chỗ tương đương với vị trí trung tâm của cái ngã tư đó ở cái quần đáy giữa. Hai góc nhọn được cắt bỏ bớt một chút nên trở thành hình lục giác. 
        Dì Bảy vẫn may cho ông và bà ngoại những cái quần kiểu nầy. Cái quần của bà được ghép thêm một miếng vải khác màu, hoặc vải bông bề ngang cỡ chiều dài của một ngón tay, cặp vào phần lưng. Một cọng dây thật nhỏ và dài gấp đôi bề dài cái eo, may bằng vải lòn vô để rút và cột thắt lại giữ nó thích chặt vào eo, cái công việc "rút" và "cột" nầy nó mắc công lắm. Ống quần rộng rinh nên khi đi vệ sinh người ta đều vén từ ống quần lên cho gọn. 
        Ông ngoại chuyển đề tài:
        -Năm nay bà tính tráng bao nhiêu cái bánh?
        -Thì cũng y như năm ngoái, nửa thiên bánh trắng, nửa thiên bánh ngọt. 
        Bà hỏi lại:
        -Ông tính bữa nào tát đìa?
        -Trễ lắm là ngày hai mươi bảy. Tui tính lựa mấy con cá lóc trọng trọng đem biếu anh Tư Công, đền cái ơn cả năm ảnh coi mạch hốt thuốc cho cả nhà, với nhờ ảnh viết giùm một đôi liễn.
        -Cậu Út có được về ăn tết với mình hông ngoại?
        Câu hỏi của Mít Ướt vô tình làm cả ông và bà đều buồn.
        Ông thở dài đáp:
        -Chắc là hổng được đâu con, tết là nhà binh họ thiết quân lực hết .
        -Vậy cậu có được ăn tết như mình hông ngoại?
        -Cũng có!
        -Chắc cậu buồn, nhớ nhà lắm hén ngoại?
        -Làm đi, nói bá láp hoài hà! Dì Bảy vội vã ngắt ngang khi thấy mắt bà rơm rớm.
        Đúng như ông tiên đoán tết đó cậu Út không về. Bà ngoại dọn mâm cơm cúng giao thừa vẫn có tô canh khổ qua dồn thịt mà cậu rất ưa. Thịt kho Tàu với cái hột vịt trắng tinh. Một dĩa giá chua ngoại mới ngâm hôm trước. Đặc biệt có thêm một dĩa bát bửu với chả thủ, lạp xưởng, hột vịt bắc thảo, tôm khô , củ kiệu, nem... Mấy món nầy chỉ được dùng trong dịp tết. 
        Ngày mùng một ông đem trái dưa hấu to và tròn nhất ra xẻ để bói đầu năm. Trái dưa đỏ au, thịt chắc lọi xắt ra không chảy một miếng nước nào.
        Mít Ướt xát một chút muối ớt lên miếng dưa có hình phân nửa cái mặt trăng, cắn một nhát to đầy ngập miệng. Miếng dưa Hấu làm hương vị ngày tết thêm đậm đà, ngọt ngào gấp bội. 
        Ông ngoại gật gù, nói một cách hài lòng :
        -Trái dưa chín đỏ au, thịt dẻ khắc, ngọt lừ. Năm nay chắc trúng mùa đây!

         
        (Xem tiếp CHƯƠNG BẢY/9)

         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 18:37:52 bởi Lâm Du Yên >
        #4
          Lâm Du Yên 04.09.2019 19:32:02 (permalink)
          MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI

          CHƯƠNG NĂM/9  

          Mùa bải trường, mùa mưa, mùa nước lũ, rủ nhau về cùng một lượt.
          Khi con sông bắt đầu bỏ đi làn da trắng xanh, thay bằng một màu nâu đỏ, thì bà con trong xóm cũng bắt đầu lo âu, thấp thỏm.
          Dì Tám Dư đón đường cậu Hai Đủ để hỏi:
          - Đâu anh Hai nói thử coi con nước năm nay ra làm sao ?
          Cậu Hai nói một cách quả quyết:
          -Năm nay hổng chừng là ngập lút đường lút xá đó cô.
          Chỉ tay lên cái đọt tre đâm thẳng lên trời, cậu nói tiếp:
          -Cô thấy hông, cái đọt tre non nó vọt qua cái ngọn luôn, đó là cái điềm lụt lớn. Mà còn nữa, hôm trước tui để ý thấy con trăng lưỡi liềm có cái nhánh phía trên cao hơn cái nhánh phía dưới nhiều lắm ! Tui dám nói chắc một câu, nước năm nay lớn hơn năm ngoái!
          Chờ cậu Hai đi khỏi rồi dì Tám mới dám thở một hơi dài áo nảo.
          Một lát sau cậu Hai Cón vác cái cuốc đi ngang, dì cũng chặn lại hỏi y chang cái câu lúc nãy. Cậu Hai Cón cũng khẳng định:
          -Chị Tám đừng có lo, năm nay nước kém, cái đám lúa của chị chín kịp hổng có sao đâu. Chị đừng có gặt sớm lúa còn lem lép hột bán hổng có giá.
          Dì Tám gặng lại:
          -Chắc hông cậu?
          Ổng đáp chắc nịt :
          -Chắc chớ sao không? Hổm rày tui cứ ngó chừng dưới sông. Mấy cái nhánh củi trôi êm ru hà, hổng có ngóc đầu lên. Con nước năm nay đầm lắm, hổng có lớn đâu.
          Dì Tám lại thở ra một hơi dài như mới đặt cái gánh lúa nặng trĩu trên vai xuống vậy.
          Dì Sáu Tý thì lo hướng khác, dì than với má Mít Ướt:
          -Tui rầu quá dì Năm ơi ! Hổng biết tại làm sao mà bịnh của má tui trở nặng. Tui sợ năm nay nước ngập đầy trời, không có chỗ khô ráo cho bà nằm thì khổ lắm. Bởi vậy hôm qua tui đi thỉnh một lá bùa cầu an về đốt cho bà uống. Vái Trời Phật phù hộ cho má tui sống qua mùa nước là tui xuống tóc liền.
          Má Mít Ướt an ủi:
          -Hổng sao đâu chị Sáu, tui mới qua thăm thấy bác Năm còn tỉnh lắm mà, chắc hổng đến nỗi nào đâu!
          Thế rồi một buổi sáng Mít Ướt ngủ dậy định chạy qua nhà con Thẹn thì thấy nước đã bao vây bốn phía. May cho Dì Tám là hai hôm trước bà con xúm nhau gặt lúa giùm dì, chớ hông thôi lúa bị ngập lại không có sân phơi, nó lên mọng thì chỉ có nước đem nấu mạch nha đãi cả làng ăn cũng hổng hết. 
          Dì Tám nói với cậu Hai Đủ:
          -Phải chi tui nghe lời anh gặt sớm cho rồi thì bà con đâu có cực.
          -Để thêm ngày nào hay ngày nấy mà cô, xóm giềng giúp qua giúp lại có gì đâu mà cô ngại. Cậu Hai vừa vấn điếu thuốc vừa trả lời.
          Chỉ tội cho bà ngoại của Mít Ướt, cái đám gừng của bà nhổ đâu có kịp, phải mướn mấy đứa con nít trong xóm mò được chút nào hay chút nấy. Còn mấy hàng đu đủ thì coi như mất trắng, nó ngả liệt địa hết. Bà ngoại cho mấy đứa mò gừng muốn hái bao nhiêu tuỳ thích. Hôm ấy khắp xóm gần như nhà nào cũng ăn gỏi đu đủ, canh đu đủ, đu đủ kho tép hoặc đu đủ xào.
          Mùa nước đàn ông không đi đồng làm lúa thì giăng câu, kiếm cá cho cả nhà, chỗ nào có nước là có cá. Ba con Thẹn với mấy chị em nó không thèm đi đâu hết cứ ngồi tại nhà thảy cần câu xuống vậy mà dính cá ăn không hết, có khi còn đem cho má Mít Ướt. 
          Mùa nầy nhà Mít Ướt bán phèn xanh đắc lắm ! Già trẻ lớn bé gì cũng bị nước ăn lở hết mấy kẻ chân, phải thoa phèn xanh vào nên chân ai cũng xanh lè trông ngộ hết sức.
          Tội nghiệp cái cối xay bột nhà ngoại, mùa nầy nó làm không kịp thở. Mấy bà má, bà chị rảnh rang quá nên thi nhau làm bánh, nhất là bánh xèo , rồi tới bánh sùng( bánh tầm), bánh xếp, bánh it trần, bánh đúc ...v...v....
          Má Mít Ướt thì lo rửa sạch, phơi khô mấy cái khạp đựng đường để sẵn. Chờ khi cá rộ bán rẽ rề thì mua một giạ cá Linh đem ủ nước mắm ăn quanh năm. Khúc sông trong xóm có mấy ghe đóng đáy đậu rải rác để bắt cá linh. Họ hoạt động rất sớm, từ đầu mùa khi con cá còn bằng ngón tay út cho tới khi nó to bằng ngón cẳng cái là cuối mùa mới thôi.
          Mỗi lần má sai đi mua cá là Mít Ướt mừng lắm, vì được xem cái cảnh trút đáy. Cá bán tính bằng rỗ chớ không thể nào cân vì nó nhảy lung tung. Má dặn nó khi đi mua cá phải đem theo hai cái rỗ. Một cái đựng cá còn một cái thì úp lên, nếu không bưng về tới nhà chắc chỉ còn có cái rỗ vì cá phóng ra ngoài hết ráo. Cá linh còn non được móc hầu moi ruột, ngâm nước muối cho cá không bị đắng, đem kho xả hay lăn bột chiên đều ngon. Nhưng ngon nhất là món cá linh kho rục. Cái món nầy má Mít Ướt làm ăn không hề thua cá mòi cao cấp Sumaco chút xíu nào. Hổng chừng còn ngon hơn vì rất thơm mùi mía và nước dừa tươi.




          Đám con nít không còn rủ nhau chơi mấy món quen thuộc nữa. Tụi nó bơi xuồng đi hớt cá, hái rau dừa , bông điên điển và bắt mấy con ốc bu bám vô gốc cây, gốc rạ.
          Lúc nầy, niềm vui lớn nhất của Mít Ướt là mỗi buổi chiều được dì Bảy Xuyến cho đi theo vô đồng chở nước về xài, vì nước dưới sông rác nhiều mà lại đục. Dì bắt nó hứa phải ngồi yên một chỗ không được nghiêng qua nghiêng lại vì chở nước nhiều, cái xuồng sẽ khẳm, rủi lật một cái là hai dì cháu chết chìm cả đám. Nó hứa một cách long trọng và giữ đúng lời nên được dì cho đi theo trong suốt cả mùa nước lũ. Nó cũng góp vô một chút công, bằng cách cầm cái mủn vùa tát nước trong xuồng ra.
          Trước khi đi, dì gom hết mấy cái thùng thiếc đặt vào giữa lòng xuồng. Dì Bảy tháo dây, chống dầm vào cây cột để đẩy chiếc xuồng dang xa rồi mới bắt đầu bơi. Dì bơi thật đều tay, cây dầm được cắm vào nước với cái bảng nằm ngang để tạo một lực cản tối đa giúp chiếc xuồng bị đẩy tới trước. 
          Mít Ướt ngồi trước mặt dì, lặng yên đúng như lời cam kết. Nó chỉ dám thò tay ra ngoài xuồng, xòe rộng bàn tay để cản nước. Mấy ngón tay lướt ngược dòng chảy, làm thành những vòi nước nhỏ phún lên cao rồi rơi xuống. Mấy cái bong bóng nhỏ li ti cứ bị vỡ ra liên tục trông rất thích mắt. Nó cứ để tay như vậy mãi cho tới khi bị dì Bảy đánh vào vai một cái, rầy:
          -Vọc nước hoài hà, coi chừng rụng hết mấy cái móng tay đó !
          Dì lựa chỗ nước sâu, nơi trước đây là cái đìa cá để lấy nước, dì bảo:
          -Nước chỗ nầy là sạch nhất, ít có rong rêu.
          Trên cánh đồng nước mênh mông, bềnh bồng những cái bè rau muống, rau dừa, rau nhút, rau ngổ... Đặc biệt là mấy chòm bông súng với những cái cọng màu tím than. Bông của nó gồm nhiều cánh nhỏ xếp xung quanh cái nhụy màu vàng. Lớp cánh ở ngoài cùng có màu nâu pha tím với những cái sọc nhỏ màu đậm hơn chạy dọc. Những lớp kế màu nhạt dần cho đến trắng muốt. Chúng chỉ ngoi khỏi mặt nước chừng một đến hai tấc. 
          Dì Bảy vừa múc nước vào thùng xong. Mít Ướt liền xin dì cho nó hái một mớ bông súng, mang về để má nấu canh chua, ăn ghém với mắm kho hoặc bóp xổi chấm cá kho, cá chiên. Chẳng bao giờ dì cho nó chạm tay vào những cọng bông súng thân màu xanh bông trắng muốt mà dì gọi là bông súng ma. Loại bông Súng đó không được ai ưa chuộng, chỉ khi nào kẹt lắm mới hái xài đỡ. Óc tưởng tượng của bà con thật là phong phú. Cái bông súng ma nầy, bông của nó trắng còn hơn màu trắng. Mấy cánh hoa có hình như cái móng tay nhọn ấy, có vẻ như đang mang trong nhụy vàng của mình, linh hồn của các cô gái trong những câu truyện liêu trai.
          Nhưng cái đẹp nhất trong cánh đồng mênh mông nầy chính là những lá bông súng. Nó gợi trong lòng ta một mong muốn được sống thật giản đơn, thật tĩnh lặng với trái tim thuần khiết như khi mới chào đời. Chưa bị ô nhiễm bởi vô vàn ham muốn.
          Ôi! những cái lá mỏng, tròn vành vạnh, màu xanh tím, rất phẳng và nhỏ hơn lá Sen ấy, sao mà khiêm nhường, nhút nhát, đơn sơ, chân tình đến vậy ! Lưng tựa vào nước, chúng trãi lòng mình ra với bầu trời, như thể muốn cúng dường cho thiên nhiên tất cả những cái gì có được kể cả thân xác tinh khôi của chúng. Không hề có đến một chút phô trương nên chẳng bao giờ dám vượt qua mặt nước. Cái rìa mép cong cong cho ta thấy cái tính cách "yểu điệu thục nữ", làm duyên làm dáng một cách rất kín đáo, rất dễ thương của loài cây, loài hoa độc đáo nầy !
          Mặt nước như ganh đua với bầu trời về kích thước và màu sắc nên cố vươn tới mọi nơi, mọi chỗ. Màu xanh trong vắt của nó phản chiếu những cụm mây trắng trên cao làm bầy cá lòng tong ngỡ có ai rải cám nên cứ há mỏ đớp khơi khơi. Mấy con cá mang rổ tính tình rất gian manh, chúng giả bộ đứng lặng như chết. Mít Ướt đặt cái vợt thật nhẹ từ phía sau lòn dưới bụng nó rồi cất lên, tưởng chừng phen nầy sẽ tóm gọn y ta. Ngờ đâu nó chờ cho đến phút cuối cùng mới quẩy mạnh đuôi mà lao ra như tên bắn. Như để chọc quê, nó chỉ bơi một quảng ngắn rồi dừng lại đứng im ru y như lúc trước.
          Một hôm Mít Ướt năn nỉ miết nên cậu Út thương tình cho đi theo thăm câu. Cậu có mấy tay lưới và mấy dây câu giăng tuốt trong đồng. Đêm ấy trời có trăng.
          Ôi! buồn và đẹp làm sao những đêm trăng trong mùa nước lũ, hơi lạnh từ mặt nước bốc lên làm cảnh vật càng thêm tịch mịch. Không gian mờ ảo như lùi xa vào thời cổ tích, những bụi cây nhô lên mặt nước, đám lá rung rinh lấp lánh dưới ánh trăng. Tiếng cá quẩy nước, giọng khàn khàn đục đục của con chim bìm bịp và tiếng khua nước của những cây dầm lẻ loi trong đêm, làm ta có cảm tưởng cái thế giới vô hình đã được làn nước giải thoát, kéo nó trồi ra khỏi mặt đất vậy !
          Cậu Út từ từ kéo dây câu lên, rất nhẹ. Vậy mà con cá mắc câu cũng giật mình rồi quẩy đuôi dữ dội, làm những hạt nước từ nó bắn ra lóng lánh y như những hạt ngọc. Lớp vảy bao quanh ánh lên như bạc. Nó bỗng trở nên uy nghi, tràn đầy sinh khí, khác hẳn cung cách tầm thường, mờ nhạt lúc ban ngày.
          Một con rắn dính vào lưỡi câu cố cong tròn cái mình rồi bung mạnh, dốc hết sức để thoát thân. Nó cứ lập đi lập lại động tác ấy một cách tuyệt vọng. Trông nó quá dũng mãnh, lại bị khống chế bằng cái lưỡi câu gian xão nên Mít Ướt thấy tội làm sao, bèn năn nỉ :
          -Cậu thả nó ra đi cậu!
          Cậu Út ngạc nhiên hỏi:
          -Sao vậy!
          -Con thấy tội nghiệp nó quá hà!
          -Con rắn nầy nấu cháo đậu xanh ăn bổ và mát lắm đó con!
          Cậu nói vậy nhưng cũng chìu ý nó, thả con rắn với một chút tiếc rẻ hiện rõ trên nét mặt.

           
          Mùa nước là mùa nhàn rỗi nhất, thế nhưng ít ai tổ chức đám tiệc trong mùa nầy, trừ đám ma, đám giổ là những trường hợp bất khả kháng. 
          Vì là xứ thuần nông nên thường hỉ sự được tổ chức khi mùa lúa đã qua, nhất là những năm được mùa và lúa bán có giá. Lúc đó ai cũng rạo rực vì những tiếng đàn, tiếng ca cất lên từ mấy cái đám nói, đám cưới luân phiên khắp xóm. Bởi vậy nên có câu :
          Em ơi ! đừng sợ muộn màng
          Chờ xong mùa lúa sắm vàng cưới em.
          Cho nên khi dì Sáu Tý qua mời má Mít Ướt tuần sau ăn đám cưới cậu Út Dần em của dỉ, má nó ngạc nhiên quá cỡ. Đoán được sự thắc mắc ấy nên dì giải thích:
          -Đàng gái người ta đòi cưới liền. Họ sợ má tui mất, phải hoãn lại ba năm, rũi thằng Út nó vặn nài bẻ ống nữa thì con gái họ bị lở thời khổ lắm!
          Ở thôn quê bà con dựng vợ, gả chồng cho con rất sớm. Con gái từ hai lăm trở lên bị coi là lở thì, mất giá ít có cơ hội làm vợ, làm mẹ. Con trai thì thong thả hơn, thường những người nầy do quá nghèo hoặc tính tình không tốt, hoặc :
          "Cau già trổ trái cọc còi
          Công tử lở thời tại mẹ kén dâu" 
          Những người con trai cho dù đã qua cái ngưỡng ba, thậm chí bốn mươi vẫn có khả năng cưới một cô vợ ngon lành. Tuổi xuân của họ vẫn kéo dài, họ vẫn tiếp tục theo đuổi những thú vui mà họ ưa thích.
          Mấy cô gái thì hoàn toàn ngược lại, bị gò bó đủ thứ. Phải thích nghi hoàn toàn với môi trường mới, phải "nhập gia tùy tục " và "...thẳng một đàng mà đi". Để có được hạnh phúc họ phải trả bằng một giá rất đắc vậy mà có người vẫn bị trắng tay. Cho nên những câu ca dao nói về các cô dâu, các bà mẹ trẻ, luôn ẩn chứa một nỗi buồn thăm thẵm như:

          Bướm vàng đậu đọt mù u
          Lấy chồng càng sớm lời ru càng buồn
          Và :
          Chiều chiều ra đứng ngõ sau
          Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều.

          Chính sự hy sinh hai thứ quá lớn lao ấy: Thú vui và tự do, đã cho họ một phẩm cách, một giá trị gần như tuyệt đối. Cho nên khi muốn đề cao một vật, một sự vật, người ta thường ghép vào từ "mẹ". Cái từ "MẸ" ấy vừa làm danh từ vừa làm cả tĩnh từ, khoát vào cái vật đi theo nó một tính cách thiêng liêng !
          Có những cô gái mười lăm mười sáu tuổi bị ép lấy chồng khi chưa học xong tiểu học, chưa kịp làm thẻ căn cước cho nên mấy cái thứ như " giấy hôn thú ", " khai sanh" hầu như nằm ngoài những cuộc hôn nhân nầy. Thời má của Mít Ướt còn nhiều hơn nữa, vì thế nên bạn cùng lớp của Mít Ướt hầu hết đều xài giấy " Khai sanh giả" ( người ta mua cái giấy khai sanh in sẵn, đem về điền tên, ngày tháng năm sinh cùng với tên cha mẹ rồi ra Hội Đồng Xã đóng dấu là xong)
          Dì Sáu chép miệng than tiếp: 
          -Thiệt là "tránh vỏ dưa đạp vỏ dừa", mùa nầy mà đi mời đám cưới chắc là bị quở dữ lắm ! Đám ma thì mình còn đổ thừa cho ông trời được, còn cái nầy...thiệt...hổng hiểu họ nghĩ sao mà làm khó chi vậy? Cho là xui tận mạng đi thì cũng chờ ba năm chớ mấy !
          Má Mít Ướt an ủi:
          -Họ lo cũng phải thôi mà, bộ chị tưởng ba năm là ít lắm sao ? Rủi cậu Út nó đổi ý thì ai còn dám rớ tới con gái của họ nữa. Con Út Tím đó, tới bây giờ có lấy chồng được đâu!
          Chẳng là cái cậu Út Dần ấy, ổng có cả một thiên tình sử.
          Mấy năm trước cậu thương chị Hai Tho con cậu Bảy Thơm. Chỉ hiền, đẹp lại hết sức là giỏi giang, từ việc trong nhà cho tới ngoài đồng, cái gì cũng do một tay chỉ quán xuyến. Bà Năm má cậu nhất định không chịu vì một lý do duy nhất, má của chỉ mê đánh bài tứ sắc. Ở quê của Mít Ướt cái câu "mua heo chọn nái, cưới gái lựa giòng" được mấy bà má có con trai đặt lên hàng đầu. Cho nên dù cậu có dọa sẽ bỏ nhà đi lính bà Năm vẫn không xiêu lòng, bà nói:
          -"Cá không ăn muối cá ươn"! Mầy mà lấy cái con đó thì sớm muộn gì cũng bán luôn cái quần xà lỏn mà trả nợ cờ bạc cho nó.
          Thế rồi không cần hỏi qua ý kiến, bả đi nói cô Út Tím cho cậu liền một cái rụp. Tới gần ngày đám cưới của cậu chị Tho bỏ nhà đi mất biệt. Cậu cũng không chịu cưới vợ, cạo cái đầu trọc lóc rồi vô chùa làm công quả. Bà Năm bị bên đàng gái mắng nhiếc, bị mất trắng số nữ trang và "tiền đồng" đã ứng trước chiếu theo cái luật bất thành văn được truyền lại từ lâu :"Trai bỏ vợ tiền vàng mất hết, gái lộn chồng của một đền hai". Từ đó bà Năm giận lẫy luôn không thèm đụng tới cái chuyện cưới vợ cho cậu nữa.


          Cái câu "mưu sự tại nhơn, thành sư tại thiên" có lẽ được giới nhà nông xữ dụng nhiều nhất. Nghề nông hoàn toàn lệ thuộc vào khí hậu, thời tiết. Mấy cái món mà bà con cho là do ông trời đích thân chịu trách nhiệm. 
          Không biết nhà dì Sáu Tý có xích mích với các vị cỏi trên hay không mà dì vừa đi mời đám cưới giáp xóm, thì tối hôm đó bà Năm má dì liền tắt thở. Một lần nữa cái thuyền của cậu Út lại lênh đênh và cái điều mà dì Sáu lo sợ nhất đã xãy ra.
          Đám ma mùa nước nên không dám quàng lâu. Nước ngập mênh mông cũng không thể nào hạ huyệt. Người nhà phải dựng cái chòi sau hè, chỗ gần đường cộ ngang để đặt cái quan tài trong ấy. Thi thể của bà Năm được phủ lá trà khô ngập kín, còn cái hòm được trét chay[nhựa trét xuồng] kín mít không chừa một kẻ hở. Hơn một tháng sau khi nước vừa rút, mấy người con vội an táng bà ngay cạnh con lộ lớn. 
          Kể từ lúc đó cứ chạng vạng trở đi, má Mít Ướt sai nó đi công chuyện, phải ngang qua nhà dì Sáu Tý là nó lột dép cầm tay rồi cắm đầu mà chạy thục mạng. Hoặc năn nỉ muốn thụt lưỡi để con Thẹn đi chung.
          Đám cưới bị hoản lại ba năm mà chẳng thấy cậu Út Dần lo âu gì ráo! Riêng chị Ba Nết vợ chưa cưới của cẩu thì bồn chồn ra mặt. Ở quê bà con thường cho rằng mấy người tuổi Dần, cầm tinh con cọp khó lấy vợ lấy chồng. Nhứt là gia đình nào có con gái tuổi Dần là rầu ghê lắm, ít có ai chịu cưới vì sợ họ ăn cái mạng của ông chồng. Con trai thì hổng đến nổi nhưng cũng bị ảnh hưởng chút chút, đã vậy cậu Út lại có một mối tình kinh thiên động địa nên nhà gái lo cũng phải.
          Rồi một hôm cái tin chị Hai Tho về thăm nhà vì má chỉ, mợ Bảy bị bệnh thổ huyết rất nặng, lan ra khắp xóm làm bà con xôn xao. Ai cũng nôn gặp mặt vì người ta đồn thổi rất nhiều. Nào là chỉ tự tử mà gia đình giấu nhẹm, nào là chỉ đi tu, có người còn nói chắc như đinh đóng cột là chỉ đi lấy Mỹ nữa. Họ căn cứ vào tình trạng tài chánh gia đình của cậu Bảy, nó có vẻ khắm khá hơn nhiều so với lúc chỉ còn ở nhà. Ba má chỉ và mấy đứa em nhất định không hở môi một tiếng nào. Ai mà quá tò mò, hỏi thẳng đều được trả lời bằng cái lắc đầu kèm thêm câu " hổng biết" rồi họ lật đật lái sang chuyện khác. 
          Có một lần con Thắm, em của chỉ, ôm cái cặp mới tinh, Mít Ướt hỏi, nó khoe:
          -Của chị tao mua cho.
          Mít Ướt gặng lại:
          -Chị nào?
          Nó biết đã lỡ lời nên đổi lại liền:
          -Chị gì mà chị, má tao mua chớ ai!
          Hôm chỉ về không biết tại làm sao mà thông tin bị rò rỉ. Lối xóm đến chật nhà viện cớ là đi thăm mợ Bảy nhưng thật ra muốn nhìn tận mặt chỉ. Có người bỏ cả một ngày công, không thèm ra đồng để ở nhà ngóng chỉ. Điều nầy rất hiếm thấy bởi bà con đa số đều siêng năng, cần mẫn. Ngay cả việc thù tạc không thể nào tránh được như đám tiệc, giỗ quảy cũng được tham dự với ít nhiều miễn cưỡng. Bởi "ăn bữa giỗ, lỗ bữa cày". Ai cũng vẽ trong đầu một hình ảnh "cô Hai Tho" hết sức là hào nhoáng hoặc ngược lại để không uổng công sức đã bỏ ra. Cho nên khi chỉ bước xuống từ chiếc xe đò tài cuối vắng teo, lúc hơn năm giờ chiều thì bà con có cảm giác như bị phản bội. Bởi chỉ vẫn y xì như ngày xưa. Như cái con Hai Tho mới cùng đi đánh lá mía hôm qua, có điều nhờ trắng trẻo nên xinh hơn một chút mà thôi! Cho tới lúc đó bà con mới biết là lâu nay chỉ đi nấu cơm cho người bà con có quán ăn ở tận Sài Gòn.
          Cái xóm êm đềm ấy bỗng trở nên vô cùng sôi động. Cậu Út bị bắt gặp tới lui nhà chỉ. Nghe nói khi cậu thấy chỉ còn đeo chiếc nhẫn của cẩu tặng thì không cầm được nước mắt. Trong xóm tách làm hai phe, một ủng hộ chỉ, một binh chị Ba Nết.
          Dì Sáu Tý lại chạy qua than thở với má Mít Ướt:
          -Dì Năm ơi ! Đâu dì nói coi tui phải làm sao đây? Cái thằng Út bây giờ nó nhất quyết không cưới con Nết nữa. Tui mà không chịu qua hồi là nó bỏ nhà đi Sài gòn liền, cho dù bị bắt quân dịch rồi chết luôn nó cũng chịu. Nó nói lần nầy má tui mất rồi, nó không có ngại cái gì hết nên làm thiệt đó!
          Má Mít Ướt vốn rất có cảm tình với Hai Tho nên nói:
          -Chị hổng nghe ông bà mình nói sao? " Ép dầu ép mở chớ ai nỡ ép duyên", tụi nó coi bộ thương nhau dữ lắm ! Thôi ráng chìu nó một lần nữa đi chị, sau nầy nó có khổ cũng hổng có đổ thừa cho mình. Mà con Hai Tho nó giỏi giang, coi ngộ hơn Ba Nết nhiều, tính tình cũng đầm thắm nữa. Từ hôm về tới nay là chui vô đồng làm túi bụi liền, đâu có làm bộ làm tịch giống cái dân ở chợ như mấy đứa khác đâu!




          Rồi mợ Bảy Thơm qua đời. Mợ được chôn trong miếng đất sau hè, gần cái mả của đứa con trai thứ ba của mợ, bị chết đuối mấy năm trước. Ngày mở cửa mả, người ta dắt con gà mái đi xung quanh ngôi mộ, bóp cái mình cho nó kêu lên để mợ nghe tiếng mà thức dậy rồi theo nó về nhà.
          Trong đám ma của mợ Bảy đã xảy ra một sự cố mà rất lâu sau bà con trong xóm vẫn còn nhắc tới.
          Số là lúc sau nầy cậu Út Dần cứ quanh quẩn ở nhà chị Hai Tho nên bên gia đình của chị Ba Nết rất xốn con mắt. Họ mời dì Sáu Tý qua nói chuyện. Sẵn dịp dỉ thuật lại cái ý của cậu Út, rồi xin bồi thường cho chị Ba Nết một đôi bông tai để đền cái duyên con gái lại cho chỉ. Ở miền quê, chuyện mấy cô gái bị chọc ghẹo, đụng chạm hay bị con trai chun vô mùng thỉnh thoảng lại xãy ra. Thường thì bên con trai bị làng bắt phải nộp phạt một đôi bông tai để trả cái duyên lại cho cô con gái. Ba chị Nết không chịu, ổng bắt phải cưới chỉ đúng như cam kết, cưới liền chớ không có nói "on, đơ" gì ráo ! Vậy là nổ ra một cuộc tranh luận rồi cãi vả. Dì Sáu bỏ về nhà mà mặt hầm hầm vừa nhìn thấy cậu Út là chụp liền cây đòn gánh mà đập cẩu mấy cây cho hả giận. Tội nghiệp cậu Út, ổng biết lỗi nên ngồi im chịu trận không dám né một cái nào. Sự việc như đám lửa đang cháy hừng hực, đã vậy cái đám ma của mợ Bảy còn góp thêm nhiên liệu, y như cái thùng dầu hôi đổ tràn vô nữa. 
          Chẳng là mấy hôm đám ma, cậu Út thức suốt đêm canh quan tài của mợ Bảy, không cho con mèo, đặc biệt là mèo đen nhảy qua sợ nó nhập hồn vào xác và người chết sẽ ngồi bật dậy. Cậu hết sức sốt sắng, chuyện gì cũng lăn xả vào làm y như mình là con rễ thực thụ rồi vậy. Điều nầy làm cho anh Hai Na, anh của chị Ba Nết hết sức là bực bội vì ngoài cái chuyện tức giùm đứa em, ảnh còn ngấm ngầm thương chị Hai Tho từ lâu, còn trước hơn cậu Út nữa.
          Mỗi đám ma thường có một bàn nhậu dành cho mấy người thanh niên để họ thức thâu đêm trò chuyện, giúp cho người nhà cùng người vừa nằm xuống không thấy cô quạnh, và giữ cho cái lư hương lúc nào cũng có một cây nhang đang cháy. Trong đám thanh niên đó có anh Hai Na và dĩ nhiên có luôn cậu Út. Chị Hai Tho hết sức là ngại. Chỉ ngồi miết trong bếp để nấu trà, nấu cháo, không dám ló cái mặt ra nhà trước đến một lần. Cậu Út cứ mượn cớ vô bếp mồi thuốc để nói chuyện với chỉ. Anh Hai Na đã ngấm ngầm để ý nên đâm ghét. Ảnh chờ đến lúc cậu Út đi ra bụi tre sau hè để xả cái bầu tâm sự là xông tới chửi liền một trận. Thế rồi xãy ra xô xát, cho tới khi mọi người nghe tiếng thét đau đớn của cậu Út mà chạy ra thì thấy ổng đã ngất xĩu với một cánh tay bị gảy.
          Ở đám ma mấy cái chuyện ẩu đả, xào xáo là tối kỵ. Người ta rất sợ làm người vừa quá cố kinh động, tức giận mà "bức néo". Việc gây gổ ở đám ma coi như hành vi mất lịch sự, bị mọi người đả kích nhất.
          Chuyện xảy ra làm bà con chới với, gia đình chị Ba Nết và dì Sáu Tý được cho hay liền. Dì Sáu bao một chiếc tắc rán chở liền cậu Út xuống nhà thương Long Xuyên, còn anh Hai Na tức tốc lấy xuồng bơi qua nhà bà con ở Châu Ma để trốn. Gia đình chị Ba Nết lật đật điều đình với dì Sáu Tý. Họ đồng ý dẹp luôn chuyện đám cưới, với điều kiện nhà dì Sáu cho chìm xuồng cái vụ nầy, không đâm đơn thưa, vì sợ anh Hai Na bị bắt bỏ tù rồi đưa vô lính luôn.
          Vậy mà chuyện đó cũng tới tai chính quyền, họ đi điều tra, bà con đã được nớm lời từ trước nên ai cũng trả lời là cậu Út bị té gãy tay. 
          Anh Hai Na trở về nhà, một tuần sau ra đồng lại như bình thường. Cuối mùa lúa năm ấy, nhà của ảnh và nhà cô Út Tím gộp chung đám nói và đám cưới lại một lần để tổ chức cho hai người, cả dì Sáu Tý và cậu Bảy Thơm cũng được mời tới dự.
          Thường ở đời cái rủi, cái may hay cặp kè như muối mè rau muống, người may mắn nhất trong chuyện nầy, hơn cả hai nhân vật chính, đó là anh Lơ. Cái anh Lơ nầy ảnh mừng như chết đi sống lại, bởi ảnh thương chị Ba Nết từ hồi hai người còn chơi cất nhà chòi và làm đám cưới giả chung mà đâu có dám nói vì nhà nghèo nhất xóm. Ảnh giấu nỗi lòng của mình ghê lắm nhưng trong xóm cũng có người biết. Má chị Ba Nết cũng biết nên một hôm ba chị Nết mướn ảnh làm cỏ lúa, ổng lân la nói chuyện thấy ảnh hiền lành lại khoẻ mạnh, giỏi giang bèn gợi ý gã chị Ba Nết cho ảnh, làm ảnh mừng đến khóc luôn tại chỗ. 
          Thế là cậu Út Dần và chị Hai Tho không còn bị bà con kêu rêu nữa. Họ chờ đến ba năm sau xả tang bà Năm xong mới làm đám cưới. Một cái đám cưới hết sức đơn sơ, với chú rễ cho dù tập thiếu điều muốn mẻ cái đầu gối, mà vẫn lạy xấu hoắc bởi một cánh tay bị cáng vá. 
          Mít Ướt không được ăn cái đám cưới nầy vì lúc đó nó đã đậu vào lớp đệ thất trường Trung Học Công Lập Tân Châu, nên phải ở trọ trong một căn nhà sát kinh Vĩnh An, đối diện với trường Bán Công Tân Châu trên thị trấn để đi học cho tiện.

           
          (Xem tiếp CHƯƠNG SÁU/9)


          (Xem tiếp CHƯƠNG SÁU/9)
           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 18:30:33 bởi Lâm Du Yên >
          #5
            Lâm Du Yên 05.09.2019 09:04:09 (permalink)
            MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI 
            CHƯƠNG BỐN

            Chiều hôm ấy, má Mít Ướt bưng mâm cơm ra đặt lên cái chõng tre sát bờ sông để cả nhà ra đó ngồi ăn.
            Giờ nầy mấy ngọn gió từ giữa sông rủ nhau lên bờ đi dạo. Chúng mang theo bên người những hơi thở mát dịu và gói trong vạt áo một mùi thơm thoang thoảng của nước sông pha lẫn bông mận, bông cau, bông ổi ...từ những ngôi vườn gần đó. 
            Con đường giờ nầy thưa vắng chỉ có một mình Ba Đực lủi thủi xách nước tưới đường mà thôi! Trên mâm cơm một tô canh chua đang bốc khói nghi ngút. Một cái dĩa nhỏ đựng nước mắm có trái ớt đỏ được dầm từ chót đuôi lên đến ngang lưng. Màu nước mắm vàng óng như mật ong để được một năm và màu đỏ của ớt làm cái khúc cá trắng phau trong đó trông mới ngon lành làm sao! 
            Hồi xế nầy cậu năm Quí câu được ở dưới sông một con cá vồ đém ú nu, nặng gần một ký đem bán cho má Mít Ướt. Hôm nay chị Hai của nó về thăm, chỉ rất thích món canh chua, nhất là do má nó nấu.
            Má Mít Ướt nấu ăn bằng tất cả tấm lòng của mình. Ngay từ lúc bắt tay làm cái món mà má biết là bầy con ưa thích, là trong lòng má đã nôn nao. Có thể nói bữa cơm chính là bức tranh sinh động nhất minh họa cái niềm hạnh phúc, tình thương và lòng tận tụy của má. Chỉ cần nhìn mọi người ăn một cách ngon lành là má cảm thấy niềm vui chảy tràn trong lòng như một dòng suối mát. Lúc nào má cũng là người ăn sau chót. Má hay tìm một cái cớ, một công việc gì đó để nán lại trong bếp đến gần nửa bữa cơm mới chịu ra ăn. Má cũng đâu có chịu ăn ngay, hết quạt cho người nầy lại gắp cho người khác... 
            Mít Ướt rất mê món canh chua và hầu hết các món ăn má nấu. Sau nầy khi không còn ở gần má nữa, cứ mỗi lần ăn lại những món quen thuộc ngày xưa má từng làm, trong khi mọi người xung quanh khen ngợi hết lời, nó vẫn cảm thấy có một cái gì đó bất mãn, như thể đó là một điều thiếu công bằng đối với má. Cho dù các món ăn đó có ngon mấy đi nữa, nó vẫn chưa bao giờ tìm lại được cái cảm xúc ngày xưa, của những buổi cơm chiều bên má.
            Nghe mùi canh chua là Mít Ướt hít đến phồng cả mũi. Nó có thể ăn món nầy suốt năm cũng hổng ngán, nhứt là cái món canh chua rau nhút. Nó rửa sơ hai bàn tay, chùi đại vô quần cho lẹ, rồi phóng lên chõng ngồi xếp bằng gọn hơ. Ăn bằng miệng lẫn mắt, bằng cả tâm hồn luôn. Nhìn cái kiểu nó ăn mà má nó sướng rơn, vội gắp cái bụng cá ngập mở bỏ vô chén nó. Nó nhìn má, cám ơn bằng mắt rồi đưa gọn miếng cá vào miệng. Ngon thiếu điều muốn ná thở luôn. Nó vừa ăn vừa chùi mấy giọt mồ hôi tươm ra đầy mặt. 
            Má nó lôi cái khăn trên vai xuống lau cái mặt cho nó, rồi nhắc:
            -Húp canh vô, coi chừng mắc nghẹn đó!
            Một người đàn ông tuổi ngoài bốn chục đang bước từ trên đò xuống, xâm xâm đi vô nhà Mít Ướt. Má nó bỏ đũa chạy theo hỏi:
            -Ông anh cần cái chi?
            Khách nhìn dáo dát, thấy nhà có bán tạp hóa bèn chỉ tay vào cái thùng kiến đựng thuốc lá hỏi mua một gói RUBY. Trong khi chờ má nó thối tiền khách hỏi:
            -Chẳng dám nào, cô cho tui hỏi, ở đây có ai tên Út Son hông?
            Má nó trả lời liền:
            -Hổng có ai tên đó ở cái xóm nầy đâu ông anh!
            Ổng vừa xé cái bao giấy kiếng bọc bên ngoài gói thuốc, vừa hỏi:
            -Đây là bến đò số mười bảy phải hông cô?
            Má Mít Ướt gật đầu:
            -Đúng rồi đó ông anh!
            Ông khách lẩm bẩm:
            -Sao lạ vậy cà! Có người chỉ nhà vợ chồng nó ở tại đây mà.
            Suy nghĩ một chút khách lại hỏi tiếp:
            -Vậy có ai tên Tư Tồn hông cô?
            Lần nầy má nó lắc đầu:
            -Hổng có luôn ông anh! Ông anh ở xa đến đây tìm bà con hả?
            Ổng gật đầu:
            -Chẳng giấu gì cô, tui ở Cà Mau, đi kiếm con nhỏ em gái út. Nó theo chồng đi lập nghiệp mười năm rồi không có liên lạc. Nay má tui bịnh nặng, bả nhớ nó quá muốn gặp mặt rồi chết mới yên bụng. Tui đi kiếm muốn nát nước, có người quen đi bán khô, họ nói có gặp nó ở đây. Nó cỡ ba mươi ngoài, có cái nút ruồi son ở ngay gò má. Cô làm ơn nhớ giùm coi có ai giống như vậy hông?
            Má Mít Ướt giựt mình cái độp, nói thầm trong bụng :" Hổng lẻ vợ Tư Đờn sao ta", rồi nói với ông khách:
            -Ở sát bên nhà tui có một người giống hệt như ông anh tả. Để tui kêu mấy đứa nhỏ dẫn ông anh lại coi có phải hay không .
            Rồi nói vói :
            -Đứa nào dẫn ông cậu nầy qua nhà cậu Tư Đờn giùm má cái coi!
            Mít Ướt nãy giờ lóng tai hóng chuyện. Nó có linh cảm sắp xảy ra một điều gì phi thường lắm nên lật đật xung phong:
            -Để con đi cho, con ăn cơm rồi!
            Vừa nói nó vừa lùa hết miếng cơm trong chén, vớ cái gáo dừa treo tòn teng gần lu nước kê sát một bên cái chõng, múc đầy rồi ngửa cổ ực một cái để tống mọi thứ trôi tuốt vào bụng.
            Vừa đi nó vừa đưa tay quẹt mỏ, rồi nói với ông khách:
            -Cậu đi theo con!
            Nhà trước của Hai Ốm vắng teo, mọi người dồn hết ra cái chõng tre sau hè để ăn cơm. Mít Ướt dắt ông khách xông tuốt vô bếp. Ổng vừa đi vừa nhìn ngang nhìn ngửa như để thẩm định giá trị tài sản của căn nhà, vừa khịt khịt lỗ mũi. Tiếng nói chuyện, tiếng chén muỗng va chạm và tiếng má Hai Ốm rầy mấy đứa con tạo nên một bầu không khí gia đình vô cùng đầm ấm, đi vừa tới bếp Mít Ướt đã kêu to:
            - Cậu Tư, mợ Tư ơi! có người kiếm nè!
            Má Hai Ốm đang vừa ăn cơm vừa cho con bé Út bú, nghe vậy vội quay qua nhìn. Bàn tay cầm cái muỗng đầy canh đang đưa tới miệng, bỗng ngừng ngang rồi rơi xuống đất!

             
            Má hai Ốm y như bị điểm huyệt, ngồi im ru rồi nước mắt cứ tuôn tầm tả. Từ trước tới giờ Mít Ướt chưa từng thấy má Hai Ốm khóc, cũng chưa từng thấy người nào khóc như má Hai Ốm. Khóc mà im ru, cũng không có chớp mắt một cái nào hết, nước mắt cứ chảy ra đều đều giống y như cái máng xối vậy! 
            Con bé Út cảm nhận được sự thay đổi của má nó nên nhả vú ra nhìn người đàn ông mới đến, rồi ngước mắt nhìn lên má nó. Thấy không ai nhìn lại và cũng không quan tâm đến mình, nên tủi thân oà khóc. Tiếng khóc đó đưa má Hai Ốm trở về trạng thái cân bằng, mở miệng ra được mà chào:
            -Anh Hai!
            -Cô Út!
            Ba Hai Ốm nãy giờ cũng ngồi như trời trồng bây giờ mới mở miệng:
            -Anh Hai ở xa mới tới, chắc chưa có gì bỏ bụng, gặp bữa mời anh ăn với vợ chồng tui ba hột cơm lấy thảo!
            Ổng xua tay:
            -Tui ăn rồi, cô, dượng nó cứ ăn đi!
            Má Hai Ốm ngờ vực:
            -Giờ nầy đâu có ai bán cơm, bán bánh gì. Anh phải ăn một miếng dằn bụng chớ để đói quá, tối làm sao mà ngủ.
            Vừa nói má Hai Ốm vừa liếc nhìn mâm cơm. Bữa ăn gần xong nên trên dĩa ếch xào, chỉ còn hai cái xương sống ốm nhom của mấy con ếch và xả băm vón lại. Tô canh bầu với một chút nước trong, còn mấy con tép thì đã chui vào bụng mọi người hết ráo! Trong cái nồi bám khói đen thui chỉ còn sót lại một miếng cháy vàng ươm, cũng may là Hai Ốm hôm nay nấu cơm không bị khét. Thường thì vào các buổi chiều, tới giờ nó nấu cơm là cả xóm điều biết. Mỗi lần nghe mùi cơm từ nhà nó bay ra là má Mít Ướt lại kêu to:
            -Tíu ơi, coi chừng cơm khét đó!
            Rồi lại lẩm bẩm:
            -Tội nghiệp con nhỏ, còn mê chơi quá, chắc một chút lại bị rầy nữa đây!
            Má Hai Ốm vừa đưa con bé Út hãy còn đang khóc cho Hai Ốm vừa nói:
            -Anh ngồi dựa lưng một lát nghen, để em đi bắt nồi cơm nóng, nướng thêm con khô cho anh ăn.
            -Thôi, có gì ăn nấy, bây nhiêu đây cũng được rồi, cô đừng có nấu nướng lùm xùm cho mắc công!
            Mít Ướt làm tài lanh liền:
            -Để con về nhà bới cơm qua cho, má con nấu cơm nhiều lắm!
            Nhà Mít Ướt lúc nào cũng có cơm dư trong nồi. Ông ngoại Mít Ướt hồi còn sống thấy ăn cơm vét nồi là cự dữ lắm ! Ông bắt phải nấu cơm dư để gặp người lở đường ghé ngủ nhờ, mình mời ăn người ta không có ngại. Cái lề thói ấy đã có từ thời xa xưa, quê của Mít Ướt hồi trước nhà cửa còn thưa thớt, mỗi lần có ai đến nhà là mừng hết lớn. Lòng hiếu khách là nét đặc biệt trong tính cách của nông dân quê nó. Nhà nào cũng sắm sẵn một bộ chiếu, gối, mùng, mền để dành đón khách. Đôi khi khách ở lại luôn và trở thành người thân như ruột thịt. Ba má Hai Ốm là một trường hợp điển hình:
            Ba má Hai Ốm lần đầu ghé xóm làm nghề đổi lúa. Họ có một chiếc ghe tam bản nhỏ, đậu nhờ dưới bến của ông ngoại Mít Ướt. Mùa lúa năm đó họ đến, mang bánh kẹo và nhu yếu phẩm đến đổi cho bà con để lấy lúa. Má Hai Ốm đang mang thai nó. Một đêm má nó chuyển bụng, ông ngoại của Mít Ướt bèn cho ở nhờ trong cái chái chứa củi sau hè để sanh. Ông thương cái tính hiền và mến cái tài đờn ca của ba nó nên giữ ở lại luôn. Cùng bà con trong xóm giúp ba nó dựng cái nhà trong đất của ông, chia thêm mấy công đất cho ba nó làm rẻ để có lúa ăn. Từ đó ba má Hai Ốm không còn sống kiếp thương hồ trôi nổi trên sông nữa. Họ thương ông cũng giống như con thương cha vậy!
            Mít Ướt nói chưa dứt câu là vọt về nhà liền. Vô chưa tới nhà đã hối má nó như giặc : 
            -Má ơi, bới cho mợ Tư một tô cơm đi má ! Mở khóc dữ lắm, nhà mở hết trơn đồ ăn rồi, cái ông đó in là anh hai của mở đó!
            Nó nói hổng đầu, hổng đuôi gì hết, vậy mà má nó cũng hiểu. Lật đật vét hết cơm trong nồi cho vô cái tô con gà. Lấy cái dĩa kiểu múc hai khứa cá kho tiêu làm sẵn, để dành sáng mai mới ăn. Lau cái mâm cho sạch rồi để lên cho nó bưng coi cho được. 
            Mít Ướt đưa cái mâm cho má Hai Ốm. Má Hai Ốm vừa vói tay bưng vừa nhìn nó bằng đôi mắt vô cùng êm dịu, chưa có người dưng nào cho nó một cái nhìn ấm áp như vậy! Mít Ướt cảm thấy hết sức là sung sướng và đồng thời cũng bứt rứt quá trời, vì đã có lần nó ghét ơi là ghét má của Hai Ốm.

             
            Như để thưởng công cho Mít Ướt, má Hai Ốm quay ra sau lưng nói:
            -Tíu dẫn mấy đứa em đi chơi đi, để chén đó má rửa cho.
            Hai Ốm không chờ nhắc đến lần thứ hai, bồng con bé Út và lùa luôn ba đứa em nó đi ra nhà con Thẹn. Mít Ướt cũng lẽo đẽo đi theo, đến đường lộ đã thấy con Thẹn cùng ba đứa em nó ngồi đợi sẵn trên cái chõng mà hồi nãy nhà Mít Ướt ngồi ăn cơm. Ba đứa em con Thẹn gặp mấy đứa em của Hai Ốm thì bu lại mà bày trò chơi liền. Thằng Lém em của Hai Ốm bắt tụi nó ngồi thành vòng tròn, úp hai bàn tay lên chõng. Nó cũng úp một bàn tay của mình lên đó, bàn tay kia xoa đều lên mười một bàn tay nằm sấp ấy. Chúng cùng lật ngửa lên một lượt, nó lấy ngón trỏ chỉ vô từng bàn tay rồi đọc:

            Úp lá khoai
            Mười hai chong chóng
            Đứa mặt áo trắng
            Đứa mặt áo đen
            Đứa xách lồng đèn
            Đứa cầm ống thụt
            Thụt vô thụt ra
            Thụt nhầm bụi chuối
            Thúi ình, chình mủ.


            Trò chơi nầy có tên là "úp lá khoai"
            Con bé Út nghe tiếng tụi kia cười vui vẻ nên khoái quá, trườn ra khỏi lòng Hai Ốm mà bò lại nhập bọn. Tụi nó bây giờ đổi sang chơi "de de, chành chành". Lần nầy con Xíu xòe tay ra cho cả bọn chỉ ngón tay trỏ vào lòng bàn tay của nó. Con Bé Út cũng bò lại gần, xen ngón tay nhỏ xíu của nó vào giữa. Được cho nhập bọn nên nó thích quá, giương to mắt nhìn tụi kia đọc:

            De de chành chành
            Trái chanh thổi lửa
            Con ngựa chết trương
            Ma vương ngũ đế
            Dắt dế đi tìm
            Ù à ù ập.


            Đọc vừa dứt là con Xíu nắm chặt bàn tay lại liền. Mấy đứa kia cũng rút lẹ tay ra, ngón tay của đứa nào còn mắc kẹt lại thì thế chỗ cho con Xíu. Ngón tay con bé Út bị kẹt lại, nó cười toe. Tụi kia cũng áp nhau cười thế là con Xíu lại phải làm thay cho em nó, được mấy lần con Xíu nổi quạu nó kêu Hai Ốm:
            -Chị Hai, kéo con Út ra cho tụi tui chơi!
            Hai Ốm nạt:
            -Cho nó chơi chung hổng được sao, bộ mầy hổng thương em hả? Tao vô mét má bây giờ!
            Con Xíu hậm hực, giận dỗi nhảy xuống đất rồi rủ mấy đứa kia chơi " rồng rắn lên mây". Thế là chúng đứng thành hàng một, đứa sau ôm chặt eo đứa trước. Con Thùa em con Thẹn đứng đầu rồi tới con Xíu, mấy đứa chút chít đứng tuốt phía sau. Thằng Lém tách ra đứng đối diện với con Thùa, nó quơ tay để tóm một đứa trong bọn. Con Thùa giang thẳng hai cánh tay để che cho mấy đứa đứng sau lưng. Nó cứ di chuyển liên tục, chạy qua trái rồi qua phải. Mấy đứa kia cũng chạy theo nó, trông giống như cái đuôi rắn quơ qua, quơ lại. Tụi nó vừa cười vừa đọc:
            Rồng rắn lên mây, có cái cây ở giữa, có ông chủ ở nhà hông?
            Đang lúc hào hứng thì ba Hai Ốm bước ra, thế là chúng dừng lại nhìn ba nó với vẽ thăm dò, Ổng cười cho chúng yên lòng rồi nói với Hai Ốm:
            -Đưa em đây ba giữ cho, con đi chơi đi.
            Hai Ốm nhìn thấy mặt ba nó buồn hiu nên hỏi:
            -Ba sao vậy, ba?
            Ba nó không trả lời lấy tay xoa cái đầu nó rồi giục:
            -Đi chơi đi con.
            Rồi ổng quay qua con Thẹn:
            -Con đi chơi với tụi nó luôn đi, để chú coi cái đám nhỏ nầy cho.
            Ba đứa nó liền bá vai nhau vừa đi vừa hát : "Cặp kè ăn muối mè ngồi xuống, ăn rau muống đứng lên". Chúng cố bước sao cho thật đều chân và ngồi xuống đứng lên cùng một nhịp.
            Sát bờ sông mấy đứa con trai đang đứng thành hàng ngang, mỗi đứa cầm một miếng sành trên tay, Chúng đang thi chọi lia thia, cái trò nầy thì bọn con trai ăn đứt mấy đứa con gái. Có đứa chọi hay đến nỗi cái miếng sành cứ nhảy cẫng lên tạo thành những quỷ đạo hình vòng cung bé dần ra đến gần giữa sông mới chìm. Mít Ướt buông hai cái vai của con Thẹn và con Tíu ra rồi dừng lại nhìn. Nó cúi xuống lượm một cục đá nhỏ xíu để chọi thử. Cục đá rơi tỏm, không nhảy lên được tới một cái. Mấy đứa xung quanh cùng cười nhạo. Vừa quê, vừa tức, nó bỏ đi tự hứa khi nào rảnh sẽ tập một mình, chừng nào thảy được miếng sành nhảy đến giữa sông sẽ đem ra thi cho tụi nầy biết mặt.


            Sáng hôm sau má Hai Ốm nghỉ bán một bữa, ở nhà làm bánh xèo đải cậu nó. Điều nầy làm kế hoạch của ba đứa nó bị phá sản, thường thì ngày chủ nhật được nghĩ học nên tụi nó hay chơi cất nhà chòi.
            Chúng làm nhà chòi trong vườn, nơi có hai cây ổi đứng cạnh nhau. Đầu tiên phải đi chặt mấy nhánh tre nhỏ để làm cây đà. Chúng dùng hai cây ổi làm hai cây cột cái. Đóng thêm bốn nhánh tre to bằng ngón chân cái ở bốn góc, sao cho đứng song song và cách đều hai cây ổi. Gác ba nhánh tre nằm ngang, cây đòn giông ở giữa gắn trên hai cây ổi và hai cây kia thì gác qua bốn cây cột tre. Gác bốn nhánh tre nằm xiên từ hai cây ổi xuống tới hai cây cột, vậy là cái sườn nhà coi như đã hoàn tất. Chạy ra vườn chặt hơn một chục tàu lá chuối để làm mái và làm vách nữa là xong.
            Để trang trí nội thất cho căn nhà chúng tháo cái võng sau vườn cột vào hai cây cột cái, tức là hai cây ổi, lấy một mớ mủn vùa để vừa làm nồi vừa làm chén. Hai Ốm nhỏ xíu thường đóng vai con, khỏi có làm gì hết cứ nằm trên võng. Mít Ướt và con Thẹn làm hai vợ chồng. Mít Ướt bưng cái rổ đựng một mớ lá ổi giả làm cá đem đi bán. Con Thẹn làm chồng, nó đi giăng câu bằng cách lấy sợi dây chuối giăng ngang mấy cái cây trong vườn, cột mấy cái lá ổi dính tòn teng trên đó giống như cá bị mắc câu. 
            Mít Ướt lấy gạo của má nó cho vô mủn vùa, cũng đổ nước vô vo đàng hoàng rồi bắt lên ba cục gạch để nấu. Rút kinh nghiệm để lửa ít một chút để không bị cháy cái nồi như lần nấu đầu tiên. Cơm chỗ thì cháy, chỗ thì nhão, vậy mà chúng ăn ngon lành không chừa một hột.
            Hôm nay Hai Ốm bị má nó trưng dụng tối đa, dễ gì mà chơi nhà chòi với tụi nó được. Mít Ướt đang ngồi buồn thiu thì nghe Hai Ốm gọi:
            -Ướt ơi, đi xay bột với tao hông?
            Nó mừng như rút số trúng được con cúp bế vậy đó! Vừa đáp "đi" vừa bỏ giò chạy cái vù qua nhà Hai Ốm liền. Hai Ốm sai nó bưng cái thau đựng gạo có mấy lát nghệ được ngâm từ đầu hôm. Hai Ốm xách theo một cái thau không và một cái vá. Tụi nó qua nhà ngoại của Mít Ướt để xay nhờ, vì nhà ngoại nó có một cái cối bằng đá to đùng, hầu như xài chung cho cả xóm.
            Cái cối nầy nặng lắm, con nít cỡ tụi nó phải hai đứa hợp sức lại quay tay cối mới đi. Bột phải xay hai lần mới nhuyễn, lần đầu gọi là xay sống, lần sau là xay chín. Hai Ốm lại làm cho Mít Ướt lé con mắt nữa, một tay nó quay cối với Mít Ướt còn một tay nó múc gạo cho vào miệng cối đều đều [gọi là cho ăn] mà không đổ ra ngoài đến một hột. 
            Bột xay xong tụi nó rửa cối sạch sẽ rồi bưng bột về cho má Hai Ốm. Bà đang vừa ngồi nạo dừa sột sột vừa canh chừng cái chảo thịt gà xào củ hành đặt trên bếp. 
            Quê của Mít Ướt món bánh xèo được dùng nhiều nhất, khi có khách, khi rãnh rổi, hoặc có đám, có tiệc... Nhưng nhiều nhất là vào mùa nước lên, vì vào mùa nầy bông điên điển nở rợp trời và dưới sông thì đầy nhóc tép. 
            Nhưn bánh xèo rất đa dạng có thể làm với thịt gà, vịt, heo, tôm, tép thậm chí cả cóc, ếch, nhái nữa. Cực nhất là làm nhưn với gà, vịt, vì phải dùng cái chày gỗ dần cho nát bộ xương của chúng rồi bầm cho thật là nhuyễn, sau đó mới cho thịt vô mà bầm tiếp.
            Bánh xèo khéo không phải ở chỗ cái nhưn mà là bột. Phải cho vô bột một lượng nước cốt dừa vừa đủ, sao cho vỏ bánh có mùi thơm, có vị giòn và béo.
            Cái chảo dùng để đổ bánh chiếm phần quan trọng nhất. Nó quyết định dung nhan của cái bánh. Mấy bà má có kinh nghiệm thường dùng cái chảo sắt to để tráng bánh. Cái chảo nầy có nhà [như nhà Mít Ướt]chỉ dành riêng cho việc làm bánh xèo thôi chớ không dùng để xào nấu cái thứ gì khác. Cái chảo của má Mít Ướt có thể gọi là "Thiên hạ đệ nhất chảo" nên được cả xóm xài ké, nhờ vậy mà nhà nó có bánh xèo ăn quanh năm.
            Mít Ướt rất thích nhìn má tráng bánh. 
            Đầu tiên má đặt cái chảo lên cái bếp đỏ lửa. Chảo nóng má nhúng cái cọng lá chuối vào chén mỡ nước, thoa đều khắp chảo, chờ mỡ ngấm rồi cho một vá bột vào chảo, bột vừa đổ vào là nghe một tiếng "xèo" [bởi vậy mới có tên là bánh xèo]. Má Mít Ướt thường nói chỉ cần nghe tiếng bột kêu là biết cái chảo có đủ, dư hay thiếu độ nóng. Hai tay bưng liền cái chảo xuống, đảo thật nhanh tay để bột chạy vòng tròn từ đáy lên đến miệng chảo. Cái lớp bột trên cùng quanh vành bánh thường mỏng dính như miếng ren, ăn rất giòn nên ai cũng khoái. Đặt chảo lên bếp lại, rắc mấy hột đậu xanh còn vỏ đã được nấu chín đều lên lớp bột, bớt lửa để bột chín dòn, cho giá sống vào rồi đậy nắp. Canh giá vừa chín là cho nhưn vào rồi gấp đôi cái bánh lại. Trở bánh cho vàng đều hai mặt rồi xúc ra để trên mâm có lót sẵn lá chuối.
            Rau ăn chung với bánh cũng góp phần không nhỏ, càng nhiều thứ càng tốt. Mỗi lần nhà Mít Ướt tráng bánh xèo, việc hái rau má Mít Ướt hoàn toàn trông cậy vào nó . Hầu như nó không bao giờ làm má thất vọng, bởi đây là công việc mà nó yêu thích nhất. 
            Hái rau ăn sống không cần phải đi ra tuốt ngoài đồng như rau nấu canh. Nó chỉ cần rảo một vòng quanh vườn là gom về hàng chục thứ cho má nó. Nào là lá lốp, lá xoài non, lá cóc, lá mận, chùm ruột, rau nhái, rau thơm, rau quế, vấp cá ...v...v...
            Nhưng số phận cái bánh xèo được quyết định bởi cái tô nước mắm ớt. Nói tới cái món nước mắm thì má Mít Ướt là một tay cao thủ. Chén nước mắm má làm xong còn thiếu vị chua một chút. Má gọt vỏ trái chanh, trước khi ăn mới cho mấy múi chanh vào chén nước mắm, mấy tép chanh nhỏ xíu như hột gạo nổi đầy trên mặt. Gấp nửa cái bánh xèo cho vô tô, cho rau sống cắt nhỏ vào, múc một muỗng nước mắm chan vào cái bánh, trộn đều rồi ăn. Mấy tép chanh vở ra trong miệng như từng cái bong bóng nhỏ xíu làm mùi vị thêm đậm đà, cảm giác khoái khẩu cũng tăng gấp bội!




            Má Hai Ốm vừa thấy mặt Mít Ướt là nhờ liền:
            -Con qua nhà nói má cho mợ mượn cái chảo đổ bánh xèo nghe !
            Mít Ướt dạ một tiếng giòn rụm rồi chạy đi liền, vừa tới cửa là hét om sòm:
            -Má ơi! Cho mợ Tư mượn cái chảo để đổ bánh xèo.
            Má nó đưa cho nó cái chảo mà coi bộ không yên tâm nên cứ dặn đi dặn lại:
            -Cầm cho chắc à nghe! Nếu rớt bể là hai chục roi lãnh đủ đó, biết chưa?
            Nó bưng cái chảo một cách vô cùng trân trọng, hầu như thót cả bụng và không dám thở mạnh nữa. Bàng giao cái chảo cho má Hai Ốm cùng với tiếng thở phào nhẹ nhỏm xong, nó hỏi:
            -Mợ hái rau chưa, để con hái giùm cho.
            Má Hai Ốm chộp lấy cơ hội liền, giọng mừng rở:
            -Ừ, con đi hái giùm mợ đi.
            Rồi vừa lôi cái rỗ tre gác trên giàn bếp xuống đưa nó vừa nghĩ thầm, chắc nó muốn góp công để chút nữa ăn cho không ngượng miệng. Thực ra tình cảm của Mít Ướt dành cho má Hai Ốm như hạt mầm vừa gieo xuống đất đang cần nhiều nước. Nó muốn lấy lòng má Hai Ốm và chuộc lại mối ác cảm từ trước đến nay nên mới sốt sắng, chớ không có ý vụ lợi. Hơn nữa má nó cấm ngặt cái chuyện xin ăn và dòm miệng.
            Mít Ướt cầm cái rỗ ra sân trước của nhà Hai ốm hái một mớ rau nhái. Cậu của Hai Ốm đang chấp tay sau đít đứng nhìn cái vườn bông nhỏ. 
            Thấy nó ổng cười rồi hỏi:
            -Bữa nay con không đi học sao?
            Nó lễ phép đáp:
            -Dạ bữa nay là chủ nhựt mà!
            -Ừ hén ! Con học lớp mấy?
            -Dạ lớp ba.
            -Có học chung với con Tíu hông?
            -Dạ có.
            -Con Tíu có học giỏi hông?
            -Dạ hông.
            Thấy ổng không hỏi tới mình, nó ngứa miệng khoe:
            -Tháng nào con cũng được lãnh bảng danh dự hết đó!
            -Vậy hả?
            Rồi thôi, hổng hỏi tiếp coi nó đứng hạng mấy. Nó hơi bất mãn nên hái rau cho lẹ, không muốn cà rà bắt chuyện nữa mà đi lại cái hàng rào giáp ranh nhà nó với dì Sáu Tý. Ở đây ngoại trồng đủ thứ, nào là bù ngót, lá dứa, xả, lá lốt... Nó gom một mớ lá lốt rồi sang vườn của cậu Hai Đủ hái lá mận và lá chùm ruột non. Cây chùm ruột đã bị đốn mất thế là nó ra bờ sông chỗ chuồng bò của cậu Ba Đời, ở đó có một cây mọc sát bờ dốc nhô về phía sông. Cây chùm ruột nầy từ ngày thằng Đúi té bị gảy tay thì không đứa nào dám leo lên đó hái. Từng chùm trái căng mọng trên cây và chín rục rơi đầy đất. Nó ngước mắt nhìn lên mấy cái lá chùm ruột non mọc chùm nhum ở đầu nhánh. Chúng có màu nâu hồng trông ngon hết biết, rồi nhìn xuống sông. Giờ nầy nước lớn " đầy mà" nên có té thì chỉ rơi xuống nước thôi chớ hổng đến nỗi nào. Đứng lưỡng lự một chút rồi bỏ dép leo thót lên cây, vừa leo vừa vái thầm:
            -Ông ngoại ơi! Ba ơi! Phù hộ cho con đừng có té để con hái cho má con Ốm một mớ lá chùm ruột, tại nhà nó nghèo lắm không có tiền mua rau đâu!
            Thật ra nó cũng biết nhà Hai Ốm đâu có nghèo dữ vậy, nhưng mà phải nói như thế để ông ngoại và ba của nó động lòng.
            Hái được đầy nhóc hai cái túi áo nó leo xuống, tim đập đùi đụi trong lồng ngực. Xui cho nó một giọng nói từ trên cái gác chuồng bò cất lên :
            -Tao mét cô Năm là mầy dám leo cây Chùm ruột nầy!
            Con Ý nói bằng giọng đắc thắng. 
            Mít Ướt sợ đến teo ruột luôn, liền xuống nước năn nỉ:
            -Đừng có mét má tao, tao lạy mầy. Má tao mà biết là tao bị đòn nát đít đó, là tao nghĩ mày ra luôn, không có cho mầy cọp bi đâu!
            Con Ý trề cái môi dưới ra cả tấc rồi đáp:
            -Tao đâu có cần, mầy hổng cho thì tao coi bài của con Ghết.
            Nó biết con Ý dám làm thật. Con nhỏ nầy đang giận nó vì hôm qua chơi "Chim bay, cò bay" đủ cặp rồi nên nó không cho con Ý vô, nó bèn dụ:
            -Đừng có mét má tao, tao cho mầy năm sợi dây thun.
            -Hông!
            -Mười sợi.
            -Hai chục tao mới chịu.
            -Mười lăm thôi !
            Nó năn nỉ bằng cái giọng hết sức là tha thiết vậy mà con Ý không hề nao núng, lắc đầu nói:
            -Mầy hổng chịu thì thôi!
            Thế là đành phải tháo cọng dây thun đang quấn ngang lưng ra, đếm đủ hai chục sợi đưa mà đau lòng hết sức!
            Bầu nhiệt huyết trong lòng nó cũng xẹp xuống như bong bóng thủng. Nó mang cái rỗ rau về đưa cho má Hai Ốm mà không nói một tiếng. 
            Má Hai Ốm bèn kêu lại rồi nhờ nó tiện tay đem ra sàn nước rửa giùm, còn dặn vói theo là đừng có đổ bỏ nước mà để lại rửa chén. 
            Nó rửa rau xong, lấy hai cây củi gác qua cái miệng thau để rỗ rau lên cho ráo rồi bỏ đi về. Má Hai Ốm kêu giựt ngược lại rồi đưa cho nó một cái tô có cái bánh xèo tráng đầu tiên bị rách nên không bày ra mời khách. Nó định từ chối nhưng Hai ốm giục:
            -Ăn đi Ướt, ngon lắm!
            Hai Ốm đang bưng một tô, ngồi bệt lên ngạch cửa ăn một cách rất khí thế. Mít Ướt cầm lòng không đậu bèn đón lấy rồi lại ngồi cạnh Hai Ốm. Hai đứa nhai nhồm nhoàn, ăn như chạy đua, tới chừng cái tô sạch bách rồi Hai Ốm mới hỏi nó:
            -Má tao với má mầy ai làm bánh Xèo ngon hơn?
            Nó trả lời không hề do dự:
            -Má tao.
            Hai Ốm coi mòi phật ý, gặng tiếp:
            -Hơn chừng nào?
            Mít Ướt đưa cái ngón tay út ra:
            -Chừng nầy!
            Trong hệ thống so sánh và đo lường của tụi nó thì ngón út là nhỏ nhất và mức chênh lệch cũng ít nhất. Hai Ốm cười lộ nét hài lòng trên mặt!




            Sáng hôm sau má Hai Ốm dắt bốn đứa em đi theo ông cậu về thăm bà ngoại của nó đang bịnh nặng. Hai Ốm ở lại nhà để đi học, nấu cơm cho ba nó và lo cho hai con heo.
            Từ hôm má nó đi ba nó có vẻ buồn lắm! Ba Đực thừa dịp nầy qua nhà Hai Ốm ngủ luôn để gần gụi Hai Bé được chút nào hay chút nấy.
            Ngay buổi tối đầu tiên vắng má nó là cái ban đờn ca qui tụ về nhà Hai Ốm liền. Ba nó chỉ đờn cho mọi người hát mà không chịu ca một bản nào hết, gương mặt thì buồn thiu không nói cười rôm rả như các lần khác.
            Ba Đực đã tập hát bài "Trái khổ qua" cả mấy tháng nay, cũng hay nhưng không có mùi bằng ba Hai Ốm. Cái tiếng đờn của ba nó nghe cũng thiếu sinh khí, rời rạc và gượng gạo làm sao cho nên họ ráng kéo dài thêm một đêm nữa rồi ngưng.
            Hai Ốm cũng vậy, đến ngày thứ ba thì nó nhớ má và mấy đứa em quá nên tối nằm khóc, khóc âm thầm vậy mà ba nó cũng biết. Ổng bèn biểu Mít Ướt rủ nó qua ngủ chung. Con Thẹn nghe vậy cũng đòi đi theo. 
            Ba đứa nó nằm trên cái bộ ngựa ở nhà trước sát cái tủ thờ, có bộ lư và bài vị cữu huyền đặt trên đầu tủ, phía trên cao là trang thờ phật. Ba đứa nó cứ nói chuyện rì rào má Mít Ướt rầy đến hai lần tụi nó mới chịu nhắm mắt nằm im mà ngủ. Đến nửa đêm bỗng có tiếng gõ cửa dồn dập và giọng nói rất cấp bách một người đàn ông :
            -Cô Năm ơi! cô Năm.
            Nghe tiếng kêu Mít Ướt giật mình mở mắt ra trước, liền trông thấy trên trang thờ, một người mặc áo đen dang hai cánh tay như sắp nhảy xuống vồ nó vậy. Nó hoảng hồn kéo cái mền trùm kín đầu, nghe tiếng tim đập túi bụi cùng tiếng bước chân từ trong buồng ngủ của má đi ra nhà ngoài tiến gần đến cái bộ ngựa nơi chúng ngủ. 
            Mít Ướt run quá sợ con ma sẽ vén mùng bắt nó, bước chân vẫn tiếp tục đi về phía cửa. Nó nghe tiếng mở cửa và tiếng rù rì, cái mền dầy cui kín mít nên không nghe rỏ. Vừa sợ , vừa hiếu kỳ lại vừa ngộp thở nó hé mền ra một chút. Cùng lúc ấy một bàn tay đang vén cái cửa mùng. Nó gom hết sức bình sinh mà hét lên một tiếng.
            Giọng nói hốt hoảng của má ngay sát một bên:
            -Cái gì vậy? Thấy cái gì mà la dữ vậy?
            Mít Ướt run lập cập:
            -Có con ma, má ơi ! Nó nhảy từ cái trang thờ xuống, vô buồng của má rồi vén mùng tính bắt con, mà nó còn ngồi trên trang kìa!
            Nó vừa nói vừa kéo mền trùm cái đầu kín lại. 
            Má nó nhìn lên trang thờ phật. Thì ra một con bướm bà đang bám vào cái lư hương, ánh sáng từ cây đèn trứng vịt bị cản lại tạo thành cái dáng tung đôi cánh. 
            Má nó vội trấn an:
            -Con bướm chớ ma cỏ gì đâu, ma nào mà dám leo lên bàn thờ phật !
            Nó cãi:
            -Có mà con còn nghe nó kêu cửa nữa.
            Má nó giải thích:
            -Đó là tiếng của cậu Hai Cón, cẩu nhờ má đi rước mụ giùm. Mợ Hai đang chuyển bụng. Nhắm mắt lại, niệm phật cho định tâm rồi ngủ đi, má đi một chút rồi về.
            Ở xóm nầy, bà con hay nhờ má nó đi rước mụ giùm vì tánh của má nó lẹ làng, bong bắn nên sản phụ sẽ sanh nhanh, sanh dễ.
            Chờ má nó đi một đổi là nó rủ con Thẹn và Hai Ốm, hai đứa nầy cũng đã thức vì tiếng hét chói tai của nó:
            -Tụi mình đi coi má con Ý đẻ đi!
            Con Thẹn gạt phắt:
            -Thôi, má tao nói vô mấy cái chỗ đó là học ngu lắm!
            Hai Ốm nói thêm:
            -Ai mà cho mấy đứa con nít như mình lại gần, thấy là bị cú đầu đuổi đi liền.
            Rồi hai đứa kia trùm mền ngủ tiếp. Mít Ướt nằm im nhưng không thể nào ngủ được, má nó đi lâu quá làm nó đâm ra sốt ruột, bên ngoài có những tiếng chân dồn đập và một giọng phụ nữ không quen:
            -Đẻ ngược, không biết có rặn ra được hông .
            Ở quê của Mít Ướt, mấy người đàn bà khi bị oan ức, tức quá hay chỉ tay lên trời mà thề :" Tui mà có làm như vậy cho đẻ ngược đi", bởi vậy đối với Mít Ướt đẻ ngược là một chuyện gì đó rất ư rùng rợn. Tánh tò mò của nó bị kích thích dữ dội, nó lén chui ra khỏi mùng rồi đi lại nhà con Ý coi thử.
            Ở nhà con Ý, bà con trong xóm hầu như đều có mặt. Mấy người phụ nữ đang đứng chùm nhum trước cái tấm liếp mở he hé, ánh sáng, tiếng rên và một giọng phụ nữ vọng ra từ đó. Mít Ướt định mon men tới dòm thử bỗng thấy má nó tay bưng cái chén bốc khói nghi ngút, từ trong nhà đi thẳng vô chỗ má con Ý nằm. 
            Thời đó người ta không cho sản phụ nằm ở trong nhà vì cho rằng sinh đẻ là chuyện dữ. Má con Ý phải nằm cái chái sau lưng nhà. Những người có tang cũng không được đến thăm vì sợ bị mắc phong long, cái câu "sinh dữ, tử hiền" hay nằm ở cửa miệng của mọi người. 
            Mấy bà bầu hồi đó phải kiêng cử đủ thứ, không được gây gỗ, hờn giận, làm điều sai trái...Cũng không được thoa son dồi phấn [người ta cho rằng làm như vậy là giành mất cái duyên, cái đẹp của đứa con trong bụng]. Phải làm những việc tốt như, bố thí, cúng lạy, tu dưỡng tâm, ý để đứa bé sau nầy trở thành người tốt. Còn muốn con xinh đẹp thì kiếm mấy tấm hình chụp hợp nhãn mà nhìn. Hồi đó ảnh tài tử xi nê và nghệ sỹ chưa được phổ biến lắm. Quê của Mít ướt đa số bà con theo đạo Phật, nên hình của Quán Thế Âm Bồ Tát được chiêm bái nhiều nhất. Điều nầy chứng tỏ ông bà ta ngày xưa rất coi trọng việc thai giáo, việc dạy dỗ con cháu được đặt lên hàng đầu. Những đứa trẻ trước tiên được dạy phải biết thương yêu, tôn trọng và vâng lời. Chúng được uốn nắn sao cho trở thành người tốt rồi mới đến giỏi. Xã hội ngày xưa quý trọng nhất là cái đức rồi mới đến cái tài.
            Những nhà có đám cưới, đám nói [đám hỏi] không thích mấy bà bầu có mặt. Họ cho rằng mấy bà bầu có tới bốn con mắt nên xét nét, bắt chặt, bắt lỏng đủ thứ cuộc hôn nhân nào mà có họ dự sẽ gặp trở ngại, khó khăn đủ thứ.
            Ở ngoài sân, ba con Ý gương mặt hết sức lo lắng đang đi xà quầng. Dì Tám Dư bước tới ba nó nói nhỏ cái gì đó, thế là ba con Ý chạy cái vù ra chuồng bò, dùng hai tay không cố nhổ một cây cột, hè hụi hồi lâu cây cột cũng bật lên được. Ba nó chạy liền vô nhà, hỏi dồn:
            -Sanh chưa?
            Dì tám Dư lắc đầu, nói:
            -Chưa, cái kiểu nầy chắc cậu phải trồng chuối ngược đi giáp một vòng xung quanh nhà quá!
            Ba con Ý làm liền, lộn mèo chống hai tay xuống đất. Hai người đàn ông trong xóm giúp nâng hai cái chân của ổng cho thẳng lên. Ba nó đi bằng hai bàn tay, mồ hôi rịn ra khắp mặt. Hai người đi theo đỡ cẳng cho ổng trông cũng rất vất vả, vừa đủ một vòng là ổng nằm mẹp xuống liền.
            Vẫn chưa nghe tiếng con nít khóc vậy là phải làm tiếp cái cách thứ ba, phải lội ngang sông. Dì tám Dư đem lại một muỗng nước mắm cho ba con Ý uống để lội sông cho ấm bụng. Ổng ở trần mặc cái quần xà lỏn để lội cho dễ rồi đi xuống bến sông. 
            Ba Đực lấy chiếc xuồng ba lá bơi theo sát một bên để ổng có mỏi thì vịn vào và đề phòng trường hợp bị vọp bẻ. Cái cách nầy hay thiệt, ổng lội chưa tới giữa sông thì đứa nhỏ đã chui ra liền. Bà con mừng quá cỡ xúm nhau hú, gọi ì xèo:
            -Hai Cón ơi! Đẻ rồi, lên xuồng bơi vô đi!
            Ba con Ý không thèm leo lên xuồng cho Ba Đực chở mà lội ào ào vô bờ luôn. 
            Cậu Hai Đủ cầm sẵn cái chàng Xà rông đưa cho ổng quấn ngang người. Ổng vừa thay đồ vừa nói với cậu Hai bằng cái giọng hết sức bất bình:
            -Anh Hai coi, nói hổng phải khoe chớ con vợ tui nó hiền nhứt xóm, đâu có biết ăn đàng sóng, nói đàng gió. Vậy mà ông trời quá cắc cớ, bắt nó đẻ ngược. Đây rồi thiên hạ kêu rêu, rầu sẩu mình chớ hổng chơi đâu!
            Cậu Hai Đủ khoát tay lia lịa:
            -Chú Hai mầy nói tầm ruồng rồi. Trăm ngàn đứa mới có một đứa như nó, bộ dễ kiếm lắm sao? Nói chi cho xa, mai mốt trong xóm có ai mắc xương là nhờ cậy vào nó, khỏi có đi kiếm xa lơ xa lắc!
            Ba con Ý nghe mát ruột quá chừng!


            Cậu Hai Cón quyết định đặt cho đứa nhỏ mới ra đời cái tên rất đẹp :"Tấn Tài". Không phải vì nghĩa tốt ý hay của nó, đơn giản là cậu rất mê nam nghệ sỹ mang tên nầy, đóng cải lương và ca vọng cổ.
            Mấy năm gần đây bà con làm ăn khấm khá. Nhà nào cũng ráng sắm cho được một chiếc radio để giải trí. Có một loại radio "trăn si to" xài pin, được gọi là "la dô ấp chiến lược". Nó tương đối rẻ lại gọn nhẹ nên bà con thích lắm, đi ra đồng cũng xách theo, vừa nghe vừa làm rất đắc dụng. Tha hồ mà nghe vọng cổ, ca nhạc, cải lương và kịch nữa.
            Mấy cái chương trình quảng cáo cũng được bà con nghe một cách vô cùng hào hứng. Cứ ba giờ chiều là cái tiếng nhạc" từng tưng tưng, tứng tứng tưng " lại vang lên khắp xóm, không biết ai đặt lời mà tụi con nít cứ hát rân trời là:
            -Nồi cơm sôi, má nó ơi!
            Hoặc:
            -Bà con ơi! Chó cắn tui.
            Mấy đứa nó nhớ hết tất cả các bài trong cái mục được giới thiệu là "chương trình phát thanh thương mại" ấy và nhái lại hổng sót một chữ. Có khi vừa chơi tụi nó vừa đọc. 
            Với thằng Bảy Ghẻ, cái bản ruột của nó là cái bài quảng cáo chiếc xe Suzuki. Nó chơi bắn cu ly, cứ đọc một câu là nả một viên đạn y như đặt cái dấu chấm xuống hàng vậy đó:


            " Thanh lịch ngoài đường phố (cốp)
            Tiện lợi khi vào ngõ hẽm (cốp)
            Và nhất là bà xã hài lòng (cốp) 
            Vì nó bền chắc (cốp)
            Nó là chiếc xe Su zu ki (cốp, cốp, cốp...)".


            Kể từ lúc ấy cả xóm ráp nhau đặt tên con theo nghệ danh của các nghệ sỹ mà mình mến mộ. Những cái tên như "Thanh Nga, Ngọc Giàu, Thanh Hương, Lệ Thủy, Minh Cảnh, Út Hậu, Thành Được ...", được đặt lềnh khênh. Lối nói chuyện của bà con cũng dần thay đổi, thay vì nói "quá xá" người ta thay bằng chữ "quá khứ ". Chính tai của Mít Ướt nghe cậu Sáu Sung khuyên má nó nên làm lúa Thần Nông vì cái giống nầy rất là có "tương lai quá khứ". Ngay cả những bậc lão thành cũng chịu khó đưa vào những lời dạy bảo những từ ngữ của cách nói "đợt sống mới". 
            Một hôm bà Sáu, chị của bà ngoại Sáu Ngón dạy Mít Ướt se bột làm cọng bánh tầm như vầy:
            -Con thoa sáp cho trơn hai bàn tay. Ngắt cục bột bằng ngón chưn cái rồi để lên tấm thớt, se cho thiệt đều tay cứ làm "cù lần, cù lần ", riết là được.
            Có những trường hợp nghe tức cười đáo để. Chẳng hạn như cái bữa anh Ba Đực ra mắt cậu Sáu Sung. Ảnh đã đạt được một bước tiến đáng kể, nhờ sự vận động của ba Hai Ốm. Hôm nhà chị Hai Bé có đám giỗ, ba chỉ có mời ba Hai Ốm và biểu dắt Ba Đực lại luôn để ổng coi giò, coi cẳng. 
            Ba Đực lâu nay nghe nói ổng khó tánh lắm, nên co ro, cúm rúm. Ổng lại còn ngồi sát một bên mà nhìn chầm chầm nên đâu dám ăn, dám gắp món gì. 
            Ổng thấy vậy tội nghiệp nên biểu:
            -Cháu cứ đại tiện mà ăn như ở nhà, đừng có ngại ngùng gì hết!
            Má con Thẹn bây giờ cũng đem một vài từ thường nghe trên ra dô ra mà xài xễ nó, chẳng hạn:
            -Đồ cái con cà chớn!
            Hoặc từ chối những lời cầu xin dai dẳng của nó bằng một câu dứt khoát:
            -Bỏ đi tám !(câu nầy có người còn thêm vô "lặn đi tép" nữa)
            Chỉ có má Mít Ướt là không bao giờ dùng đến, thậm chí nghe ai nói cái kiểu đó còn lắc đầu trề môi chê:"nhiễu sự".
            Má Hai Ốm đi đúng một tuần thì về. Từ lúc má nó về, ba nó chẳng hề vui mà mặt mày còn buồn thiu, buồn chảy hơn lúc trước nữa. 
            Má nó thôi không còn bán bắp và năn nỉ má Mít Ướt mua lại hai con heo lứa giùm. 
            Một hôm ba đứa cùng đi thọc me nước. Tụi nó đang cười nói vui vẻ Hai Ốm bỗng buồn thiu.
            Con Thẹn hỏi:
            -Bộ mầy sợ một chút về nhà bị đòn hả Ốm?
            Nó lắc đầu:
            -Má tao hổm rày cưng tao lắm! Cho tụi tao ăn hàng thả ga, không có la rầy nữa chớ đừng nói gì đánh.
            Mít Ướt hỏi:
            -Vậy mà sao mầy buồn thiu vậy? Cái mặt méo xẹo hà! Nhà mầy cũng im ru, ba mầy cũng không còn cười nhiều, nói nhiều, chiều chiều đờn ca như trước nữa.
            Hai Ốm chảy nước mắt:
            -Ba tao còn hổng muốn ăn cơm nữa, ăn bánh nữa chớ ở đó mà ca. 
            Mít Ướt hỏi:
            -Bộ ổng bị má mầy xài xể hả?
            Hai Ốm lắc đầu:
            -Không có đâu ! Má tao bây giờ không còn chửi ba tao nữa. Bả nói chuyện với ổng ngọt ngay, còn kêu bằng anh rồi cười nữa vậy mà ba tao cũng hổng vui, cũng không thèm cười lại.
            Con Thẹn hỏi:
            -Tại sao vậy?
            Hai Ốm vừa chùi nước mắt, vừa đáp :
            -Má tao nói mai mốt nhà tao về Cà Mau ở chung với bà ngoại.
            Hai đứa nó nghe như vậy thì rúng động toàn thân.
            Mít Ướt bèn xúi Hai Ốm:
            -Mầy xin má mầy ở lại đi, nói mầy mắc đi học.
            Hai Ốm lắc đầu, trả lời bằng cái giọng buồn hiu hắt:
            -Tao nói rồi ! Má tao nói về nhà ngoại tao cũng được đi học. Trường chỗ đó còn lớn và đẹp hơn trường mình gấp mấy lần luôn. Má tao còn hứa mua cho tao một chiếc xe đạp nhỏ để chạy đi học nữa. Má tao nói về ở với ngoại là tụi tao sướng lắm! Được mặc quần áo đẹp nè, được ăn cơm với thịt heo không hà.
            Mít Ướt can:
            -Mặc đồ đẹp có gì đâu mà sướng, khổ thấy mồ! Đi xe đạp rủi té là gãy cẳng, què giò đó! Mầy ở lại đây đi, tao cho mầy nguyên cái chùm dây thun nầy luôn.
            Phải nói đây là sự hy sinh lớn lao nhất của Mít Ướt. Chắc nó quá tuyệt vọng nên muốn giữ hai Ốm bằng mọi giá. 
            Con Thẹn còn sang hơn nữa, nó kề sát tai Hai Ốm nói thì thầm:
            -Mầy đừng có nói cho con Mít Ướt nhe! Mầy mà ở lại thì tao cho mầy luôn cái bộ nồi chảo của tao. Nó đòi đổi lấy chùm dây thun của nó hoài mà tao hổng chịu, còn hông thôi tao moi ống cho mầy rút số thả giàn, tới chừng nào trúng con cúp bế thì thôi.
            Hai Ốm suy nghĩ một chút rồi nói:
            -Hay là hai đứa bây nói với má tao đi, hổng chừng bả chịu đó!
            Mít Ướt và con Thẹn đều le lưỡi, lắc đầu một lượt.

             
            Cái tin nhà Tư Đờn sẽ dọn đi, như một ngọn gió bấc lạnh buốt thổi qua làm se buồn cả xóm.
            Mít Ướt là cái đứa bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nó không còn thuộc bài nhanh như lúc trước, ngồi học mà cứ nghĩ vơ vẩn chữ đọc trong miệng rồi chui qua tai mà đi mất. Cái bài học thuộc lòng "rau muống" có tám câu thôi mà nó cứ đọc đi đọc lại mãi:


            Rau muống mọc ở hồ ao
            Tuy thân hèn mọn tự hào rằng hay
            Quanh năm cung phụng món nầy
            Cho nhà nghèo khó, buổi rày, buổi mai
            Nhà giàu thịt cá ăn hoài
            Nghèo thì rau muống cũng hai bửa thường
            Giàu thì mỹ vị cao lương
            Nghèo thì rau muống chấm tương cũng vừa!


            Lúc trước nó đọc qua một lượt là đã thuộc hơn phân nửa rồi, đọc thêm một lần nữa là có thể xách tập lại trả bài cho má ro ro rồi, có đâu như bây giờ!
            Hai Ốm cũng cùng một tâm trạng nên trước hôm ra đi nó trả bài không thuộc bị thầy cho ăn một cái trứng vịt. Lát sau thầy kêu lên bảng làm toán nó cứ cầm cục phấn hoài không viết được một nét. Thầy tức quá cho thêm hai con lươn cầm trong tay nữa, bài toán dễ quá nên thầy giận cũng phải. Thầy hỏi cả lớp:
            -Trò nào làm được?
            Cả một đống con trai và mấy đứa con gái đưa tay. Mít Ướt không có đưa, thầy nhìn nó ngạc nhiên gặng:
            -Trò làm bài nầy được không?
            Nó ấp úng:
            -Dạ thầy, được.
            Thầy liền bảo:
            -Lên bảng.
            Mít Ướt đứng dậy đi mà lòng hết sức nặng nề, có cảm giác như đang phản bội Hai Ốm vậy!
            Chiều hôm ấy Hai Ốm không đi học, con Thẹn cũng nghĩ. Mít Ướt không dám vì má nó cấm ngặt cái chuyện trốn học. Thầy lại là chỗ quen biết với gia đình cho nên trước sau gì má nó cũng biết, tới chừng đó chạy trời không khỏi nắng ! Nó đi học một mình mà buồn hết sức! Đang đi trên cây cầu khỉ thì nghe một tiếng kêu từ phía sau lưng:
            -Ê cái con dấm đài!
            Không cần quay lại nhìn Mít Ướt cũng biết là thằng Đá Lửa đang giương cái ná thun, nheo một con mắt lại để ngắm bắn nó.
            Nó sợ đến rung hết hai chân, một tay bám cái cây tre vắt ngang để vịn, một tay lột dép để chạy cho khỏi té. Tay rung quá nên làm rớt chiếc dép xuống sông luôn. Đôi dép nầy má nó mới vừa sắm cho. Đó là kiểu dép kẹp mới nhất gọi là "bánh da lợn" với cái đế tới ba lớp màu: vàng, trắng, tím và cặp quai màu đỏ. Hôm đưa cho má cứ dặn đi dặn lại là nó mà làm mất hay nhảy dây làm đứt quai là bị ăn roi liền. 
            Nhìn chiếc dép bị nước cuốn đi nó bật khóc hu hu. Thằng Đá Lửa không thèm nói đến một tiếng. Nó lật đật tháo cái ná thun đang quàng trên cổ, mấy cây gươm giắt ngang lưng quần ra rồi nhảy đùng một cái xuống sông bơi theo vớt chiếc dép. 
            Nó leo lên bờ vừa đưa chiếc dép cho Mít Ướt, vừa nói bằng cái giọng chế nhạo:
            -Có vậy mà cũng khóc, đúng là cái đồ Mít ướt!
            Mít Ướt cũng vừa vói tay cầm vừa hỏi nó:
            -Bộ mầy hết giận tao rồi hả?
            Nó lắc đầu làm nước văng tùm lum, khoái trá nhìn Mít Ướt đang lấy tay chùi mặt lia lịa, nói:
            -Ai thèm giận mầy làm chi cho hao cơm, hao cá.
            Cái tai nạn ấy như viên thuốc mầu nhiệm, hóa giải mối lo sợ về thằng Đá Lửa, đẩy lui cái nỗi buồn sắp xa Hai Ốm, đang tràn ngập lòng nó trong chốc lát .

             
            Chiều hôm ấy, khi thầy vừa cầm cây thước gỏ vào lon và mấy chục cái miệng cùng hét lên "ra giờ". Mít Ướt là người đầu tiên chạy bay ra khỏi lớp. Nó lại đi trên con đường lộ lớn mà gần một tháng nay không dám đặt chân qua. Về đến nhà khoanh tay chào má xong, thấy chưa dọn cơm là nó vọt qua nhà Hai Ốm liền.
            Nhà Hai Ốm hôm nay đông như đám giỗ. Cái bộ giạt ở nhà trước nơi mỗi tối bốn chị em nó nằm ngủ đang đầy nhóc khách ngồi, có cả ba con Thẹn nữa. 
            Mít Ướt khựng lại chưa kịp lui ra thì ba Hai Ốm trông thấy liền bảo :
            -Con ra sau bếp chơi với con Tíu đi .
            Mít Ướt rón rén đi ra nhà sau. Hai Ốm đang cầm nguyên cái đầu gà luộc mà ăn. Ở quê của Mít Ướt cái đầu gà được để dành cho con nít. Bà con cho rằng ăn bộ óc của con gà sẽ sáng dạ, học giỏi. Nó vừa thấy Mít Ướt là bóc thêm một cái còn lại trong tô để trước mặt đưa và nói:
            -Mầy ăn đi cho học giỏi.
            Mít Ướt lắc đầu:
            -Tao ghét đầu gà lắm, má tao cứ bắt ăn hoài hà! 
            Trong bếp cũng có chị Hai Bé nữa. Chỉ đang ngồi chồm hổm dưới đất, đâm mấy cục muối hột trong cái mủn vùa cho thiệt nhuyễn để làm muối ớt. Nghe tiếng của Mít Ướt thì ngóc đầu lên cười với nó một cái, rồi cúi xuống đâm tiếp.
            Hai Ốm xử xong hai cái đầu gà thì má nó cũng cho con bé Út bú xong, bèn đưa em cho nó biểu bồng đi chơi cho bả làm công chuyện. Tụi nó đi ngang qua cái mâm tiệc chỗ ba Hai Ốm ngồi, thấy ổng đang bưng ly rượu ngữa cổ uống một hơi rồi để xuống, lấy tay chùi nước mắt. 
            Ông Bảy Đởm an ủi ba nó:
            -Thằng Tư mầy đừng có buồn, về đó ráng ở cho yên nơi yên chốn, khi nào rảnh rổi thì về đây thăm bà con. Nói hổng phải chú em mầy bỏ qua giùm nghe, nếu nhắm bề không xong thì phải trở về đây. Qua nói thiệt, cái cảnh ở rễ cho nhà giàu nó khổ trăm bề. Ông bà xưa có câu "thực lộc chi thê như cá trê ăn cứt" mà!
            Không khí bàn tiệc bỗng chùng hẳn xuống. Tụi nó cũng đâm buồn lây bèn kéo nhau ra cái chõng ngoài bờ sông ngồi, không nói chuyện với nhau mà cùng ngó xuống sông. Mấy bụi lục bình có bông rất đẹp tấp vô bờ mà chẳng đứa nào thèm đi xuống vớt. 
            Má Mít Ướt bưng mâm cơm ra đặt lên chõng thấy nó liền nói:
            -Rửa tay rồi ăn cơm, nãy giờ đi đâu mất biệt vậy hả?
            Rồi quay sang nói với Hai Ốm:
            -Con ăn cơm chung luôn cho vui nghe!
            Hai Ốm lắc đầu:
            -Con mới ăn một tô cháo gà đầy nhóc, hổng thể ăn thêm nổi đâu !
            Mít Ướt năn nỉ:
            -Ăn đi mà Ốm, một chén nữa thôi, má tao làm mắm chưng ăn với bí hầm dừa ngon lắm nè!
            Không biết có phải bởi cái câu mà tụi nhỏ hay hát "đọt lang, đọt lang chấm mắm, bí hầm dừa ngon lắm em ơi !" hông, mà lần nào làm bí hầm dừa má Mít Ướt cũng chưng một tô mắm cá lóc ăn kèm. Hai cái món nầy nó cũng hợp với nhau hết sức, kể cả màu sắc lẫn mùi vị. 
            Cái tô bí hầm dừa với cái màu trắng đục của nước cốt dừa hơi sánh lại làm nền. Mấy viên bí màu vàng tươi, viền một đường màu xanh lá cây ở chỗ dính liền lớp vỏ. To bằng cái nắm tay, nhô lên như mấy cái cù lao nhỏ ở ngả ba sông, trên mặt rắc những sợi lá gừng non xắt thật nhuyễn y như những bụi lục bình trôi rải rác. Nằm kế bên nó, một cái tô kiểu xưa có cái đế cao màu trắng, với hoa văn là tám vị tiên màu xanh dương đậm. Các vị nầy cầm trên tay đủ loại nhạc cụ, đứng vây quanh một vị vua đang nằm trong một tư thế hết sức thoải mái để thưởng thức âm nhạc.
            Vị vua ấy chính là con mắm lóc ! Trên lớp áo màu vàng nâu của vị vua nầy được trang điểm bằng những miếng cẩm thạch nhỏ li ti, làm từ các khoanh hành lá. Những hạt tiêu sọ trắng được đâm ba sồn, ba sực rắc lên như nạm thêm những hạt ngọc trai. Mấy lát gừng mỏng dính đắp lên mình nó, y như những miếng vàng dát thêm cho kín hết lớp áo. Một mỹ nhân ngồi kề bên vua đang cố phô bày nhan sắc. Đó là cái dĩa dưa hấu với những miếng hình tam giác đỏ au điểm những cái hạt màu đen vô cùng hấp dẫn. Mấy chén cơm trắng được bới vung lên, bốc khói nghi ngút, trông như những tên lính đứng hầu đang bưng trên tay những cái lư trầm toả hơi nghi ngút vậy!
            Một bữa tiệc hoành tráng, vương giã đến vậy vẫn không làm xiêu lòng Hai Ốm. 
            Nó bảo Mít Ướt:
            -Mầy ăn đi, tao ngồi đây chờ, không có đi đâu đâu.
            Mít Ướt nghe vậy thì yên tâm nhưng cũng ăn lia lịa, một phần vì ngon, một phần vì sợ Hai Ốm sốt ruột. Má Mít Ướt hiểu bụng nó lắm nên không bắt rửa chén như thường ngày mà làm thay cho nó luôn.
            Tụi nó ngồi một chút thì con Thẹn cũng đến nhập bọn. Ba đứa nó không giành nhau nói hay bày trò ra chơi như mọi lần mà ngồi im bên nhau. Mặt mày đứa nào cũng ỉu xìu.
            Tội quá ! Chỉ ở lứa tuổi một con số thôi mà nỗi buồn ly biệt đã thấm đẵm trong lòng của ba đứa nó rồi!

             
            Con Thẹn bỗng lên tiếng, phá vỡ cái không gian như khối nước đá cứng và lạnh từ nãy giờ:
            -Bộ bà ngoại mầy giàu lắm hả Ốm?
            Hai Ốm lắc đầu:
            -Tao cũng hổng biết nữa!
            -Bộ má mầy là con gái út hả?
            -In là vậy, tao nghe cậu Hai hôm hổm kêu má tao là cô Út.
            -Vậy là hồi đó chắc má mầy sướng lắm!
            -Sao mầy biết?
            -Thì mầy hổng thấy con Mít Ướt nó sướng như tiên đó sao? Còn tao với mầy cực thấy bà cố luôn!
            Mít Ướt cự liền:
            -Tao bị đòn nhiều gấp đôi tụi bây chớ bộ!
            Con Thẹn cự lại:
            -Tại mầy đi chơi hoài. Mầy ở nhà tao với con Ốm còn nhiều hơn nhà mầy nữa!
            Mít Ướt nói bằng cái giọng buồn buồn:
            -Tại ông ngoại tao chết, hai chị tao ở xa, không có ai chơi với tao hết. Vài tháng nữa chị tao về tao sẽ ở nhà chơi với chỉ.
            -Rồi mầy hổng chơi với tụi tao nữa hả? Con Thẹn hỏi.
            Mít Ướt đáp:
            -Chơi chớ, nhưng tới chừng đó còn một mình ên mầy chớ con Ốm có còn ở đây đâu mà chơi với nó.
            -Vậy mầy phải hứa là chơi với tao cho tới chết luôn nghen!
            -Ừ!
            -Nghéo tay đi tao mới tin.
            -Nghéo thì nghéo!
            Con Thẹn đưa ngón tay trỏ ra, Mít Ướt cũng vậy. Tụi nó chưa kịp móc tay vào nhau thì Hai Ốm bỗng bật khóc nức nở. Nó tủi thân vì chưa chi mà hai đứa nầy đã xí nó ra rồi. Hai đứa nó lật đật rút tay lại, ngồi làm thinh và bức rức muốn chết. Hồi lâu Hai Ốm nín khóc rồi nói:
            -Chắc tao hết gặp tụi mầy nữa rồi!
            Con Thẹn an ủi nó:
            -Hổng có đâu, tao nghe ba tao nói ba mầy hổng có muốn đi, tại má mầy ép quá. Ba tao nói má mầy cán ba mầy như hủ lô cán đá vậy đó! Ba tao còn nói ba mầy hứa nếu ổng mà thấy hổng êm là trở về đây liền. Tới chừng đó mầy nhớ đi theo chú Tư về ở với tụi tao nghe!
            -Ừ ! Hai Ốm gật đầu một cách rất quả quyết.
            Con trăng mười sáu rất to và tròn, ló đầu ra khỏi ngọn dừa nhìn chúng đăm đăm. Nó mới tắm xong, vừa ngoi mình ra khỏi mặt nước là choàng ngay vào mình cái áo bào bằng vàng pha bạc vô cùng rực rỡ. Nó lướt đi thật nhẹ nhàng, chậm rải, trông rất lộng lẫy, đường bệ như một nữ vương sắp thiết triều. Cả dòng sông, cây cối, mái nhà đều đắp lên mình một tấm lụa thật mềm mại, óng ả để đón tiếp nó một cách vô cùng trang trọng.
            Tiếng nô đùa của đám con nít từ sân nhà của cậu Hai Đủ vang tới. Giọng rất thanh của con Ý nổi bật lên trong nhóm của mấy đứa con gái đang chơi " chuyền tay":

            Nào chuyền tay
            Tay giấu, con thoi vàng
            Con thoi vàng chuyền vàng tay ai
            Đưa em nầy, đưa em nầy rồi chuyền em kia
            Đưa em nầy rồi chuyền em kia.

            Nếu ngày mai Hai Ốm không đi thì giờ nầy tụi nó đã có mặt trong cái đám con gái đó rồi. Cùng ngồi chồm hổm thành hình vòng tròn, nắm tay sau lưng, vừa chuyền cho nhau bất cứ thứ gì có thể để gọn trong lòng bàn tay như, hột me, cục gạch, miếng gỗ.... cùng nghiêng người qua lại và cùng hát. 
            Hai Ốm nói bằng cái giọng lo ngại:
            -Hổng biết ở chỗ ngoại tao có chơi mấy cái món giống mình hông há?
            Mít Ướt nói cho Hai Ốm yên lòng:
            -Có chớ sao không, hồi tao ở chợ cũng có chơi hoài hà! 
            Mấy đứa kia lại chuyển sang chơi thứ khác: " Bỏ khăn". Tụi nó cũng ngồi y kiểu cũ cùng đồng loạt hát và giọng của con Ý vẫn vút cao như đọt tre non:

            Bỏ khăn , khăn nổi, khăn chìm
            Ba cô thiếu nữ đi tìm cái khăn.

            Đám con trai bây giờ mới bắt đầu ùa ra chơi trò đánh trận. Vũ khí là những cây súng làm bằng thân cây bắp. Chúng nhắm một con mắt lại để ngắm cho rõ mục tiêu rồi bắn bằng miệng: "ì chéo, ì chéo, tạch tạch tạch, đùng, tạch tạch tạch, đùng". Thỉnh thoảng chúng ngừng bắn nhắc đối phương:
            -Tao bắn trúng mầy rồi mà, nằm xuống chết đi chớ!
            Tên kia đâu có chịu, nó cãi lại:
            -Tao bắn trúng mầy trước, mầy chết mới phải .
            Rồi chúng cãi nhau, có khi giận luôn hổng thèm chơi tiếp.
            Mấy đứa khác lượm tàu dừa rụng, một đứa ngồi lên bẹ lá rộng, áp cả hai bàn chân lên cái sống lá nhô cao, dùng hai bàn tay tóm chặt lá dừa giống như cầm cương. Hai đứa phía trước đứng hai bên cùng nắm lá dừa mà kéo. Tụi nó chơi kiểu rắn mắc, lôi tàu dừa ra con lộ trải đá, rồi chạy rất nhanh làm bẹ dừa cứ nẩy lên liên tục. Tên ngồi phía sau, chân cố kềm, tay bám chặt còn miệng thì la chói lói:
            -Tụi bây chạy vô sân đi, hổng thôi là móp cái xương khu của tao đó!
            Nó càng la thì hai tên kia càng cười khoái trá, cho đến khi nó chịu hết nỗi, sắp té chúng mới chịu kéo vô sân.
            Con bé Út đã buồn ngủ, nó khóc nhề nhệ đòi vú mẹ. Hai Ốm đút cái ngón tay trỏ vào miệng cho nó nút đỡ ghiền. Má Hai Ốm cũng vừa xong công việc ra bồng nó. 
            Hai Ốm xin:
            -Má cho con ngồi chơi thêm một chút nghe!
            Má nó chẳng những đồng ý mà còn nói bằng một giọng hết sức dịu dàng:
            -Nhớ vô ngủ liền nghe con! Ngày mai mình phải dậy thiệt sớm để kịp đi chuyến xe tài nhứt đó!
            Không ai hiểu và thương con bằng mẹ. Tối hôm đó, khi những tiếng hát hò, tiếng chân đuổi bắt trong sân cậu Hai Đủ đã ngưng bặt, con nhà ai về nhà nấy hết rồi. Má Mít Ướt, má con Thẹn và má Hai Ốm mới lần lượt ra cõng từng đứa vô nhà. Tụi nó ôm cổ, tựa đầu, áp má sát vào mấy tấm lưng ấm áp ấy mà ngủ tiếp một cách ngon lành!

             
            (Xem tiếp CHƯƠNG NĂM)
             
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 18:07:12 bởi Lâm Du Yên >
            #6
              Lâm Du Yên 05.09.2019 09:38:40 (permalink)
              MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI 
                  
              CHƯƠNG BA

              Việc học không bị cưỡng chế cho nên cả cái xóm của Mít Ướt chỉ lèo tèo vài đứa đi học. Con gái càng ít hơn vì phải ở nhà giữ em, nấu cơm giúp má. Không hiểu tại sao mà mấy đứa ở nhà ghét mấy đứa đi học quá, mỗi lần thấy tụi nhỏ nầy đi ngang là hát ghẹo:"Học trò đi mò cá sặc...". Tụi nó đâu có biết mấy đứa nầy thèm được như chúng biết bao nhiêu!
              Cô bác lớn tuổi cũng hay trêu mấy đứa học trò, thỉnh thoảng hay hỏi tụi nó:
              -Con có lấy được cái bằng "rút rơm" chưa?
              "Rút rơm" là từ dùng để gọi cái bằng mà tiếng Pháp gọi là "Đíp lôm", cấp cho những người học trò đã qua được cuộc thi sát hạch, một cách giễu cợt.
              Vào thời ấy nhà nào nuôi bò cũng trữ rơm cho bò ăn quanh năm. Mỗi nhà đều có một cây rơm để phía sau hè, cách nhà một đổi.
              Cây rơm được làm bằng cách như sau: Trước tiên người ta cắm một cây tre già, to và cao xuống đất rồi chất rơm chung quanh. Người chất rơm đòi hỏi phải có kinh nghiệm, làm sao cho cây rơm thật chặt chẻ, tròn đều để khi rút rơm ra từ phía dưới, những lớp rơm bên trên sẽ tuột xuống từ từ chớ không đổ ập xuống. Những cây rơm nầy thường cao đến ba bốn thước nên không thể nào lấy từ trên xuống được. Người rút rơm đứng dưới đất rút lớp rơm ngang tầm mắt. Phải rút đều khắp theo vòng tròn xung quanh cây rơm, nếu lệch về một phía sẽ làm cây rơm đổ sụp. Công việc nầy cũng đòi hỏi sự khéo léo, chỉ những người đã được hướng dẩn, tập luyện thật nhuần nhuyễn mới được làm. Cho nên cái bằng "Rút rơm" (nếu có cuộc thi và có bằng cấp) cũng cần học tập lâu dài, rốt ráo mới đạt được và giá trị không hề thua kém cái bằng "Đíp lôm".
              Mấy đứa ở trong xóm của Mít Ướt ngày ngày thường tụ tập, rủ nhau ra cây duối cổ thụ mọc ở đường cộ ngang, tận ngoài đất ruộng. 
              Con đường cộ nầy nằm song song với đường lộ lớn. Nó được dành riêng cho xe bò và cộ (loại xe không dùng bánh xe tròn mà chỉ xài hai cái càng cong, được bào nhẳn). Thân thể nó cong vẹo, ngoằn ngoèo. Mặt thì lồi lõm, mang đầy những vết thẹo do dấu chân bò và vết xe để lại từ những mùa mưa trước. Hai bên đường bà con trồng rất nhiều cây me nước, một loại cây thường dùng để chất chà và làm củi. Vô số hoa cỏ dại mọc kín hai bên lề và những bụi bông trang, bông điệp mang hai màu duy nhất, vàng và đỏ, mọc chen vào.
              Cây duối nầy tàng rất rộng, có thể che mát cho tất cả bà con, già, trẻ, lớn, bé trong xóm nếu cùng tập trung lại. Cái gốc nó to cỡ hai người ôm, cao đến độ phải ngước cho đầu chạm ót mới trông thấy đọt. Từ dưới lên trên có cả trăm cái nhánh. Trông như một người khổng lồ trong thần thoại, có vô số những cánh tay và cùng chìa ra mọi hướng. Sáng sớm nó đã được viếng thăm bởi hầu hết các loài động vật:

               
              Đầu tiên là bầy chim sẻ từ xa bay đến đậu trên cành cây, trước những cái tổ hình chiếc giày. Chúng hót líu lo để gọi những đứa bạn đang còn ngủ ra đi học.
              Rồi đến những đàn bướm mà đa số đều mặc mấy cái áo choàng may cùng một kiểu, thường mang màu vàng, đen hoặc trắng. Tụi nầy chắc cũng đến từ lâu, đã làm quen và đang cúi sát đầu thủ thỉ trên những đóa hoa nhỏ xíu. Hai cái râu của nó cứ cọ mãi vào gò má của mấy cái cánh, làm chúng nhột và cười đến rung rinh cả người. 
              Các con ong, những vị khách không mời mà đến ấy, thì quá ư kênh kiệu. Chúng bay tuốt trên cao, cất tiếng vo ve liên tục như thể phàn nàn vì bị đón tiếp một cách lơ là. 
              Bám sát cành cây là những con thằn lằn, rắn mối. Chúng như một đội quân trinh sát, nằm im re, đợi một cách hết sức kiên nhẫn. Chờ cho thật chắc ăn mới phóng lưỡi ra tóm gọn mấy con tin là những chú kiến, mối đang đi lại một cách hết sức e dè.
              Dưới gốc cây, trên mặt đất là lãnh thổ của các loài động vật to lớn và ồn ào hơn : 
              Con gà trống, điệu bộ hết sức đường bệ, dắt mấy bà vợ và hàng chục đứa con, vừa đi vừa liếc mắt đưa tình với mấy nàng gà mái khác, vừa ưỡn ngực như muốn phô trương sự cường tráng của mình. Để thuyết phục hơn nó đứng phắt lại, dang rộng hai cánh, đập phành phạch rồi rướn cao cái cổ, dùng hết sức bình sanh mà gáy một tràng dài. Cái kiểu phô trương của nó làm cho con chó mực đang đứng cọ mình vào thân cây gãi lưng sồn sột xốn con mắt quá ! Nó phải dừng ngang công việc, nhảy cởn lên một cái rồi sủa thôi là sủa để chửi dằn mặt cái tên phách lối kia! 
              Con mèo mướp, dáng dấp ngạo đời y như một triết nhân, đang mằm suy tư. Chán nản đứng lên rồi không thèm nói đến một tiếng, lửng thững bỏ đi, tránh xa cái cảnh cạnh tranh, so đo của những kẻ quá đỗi tầm thường.

               
              Ngoài ra còn có một loài động vật khác to lớn hơn, cạnh tranh dữ dội hơn, đang xúm đen xúm đỏ trong các trò chơi ở trên cây, núp dưới bóng lá hay chạy vòng vòng trên mặt đất.
              Cái khoảng sân mát rượi dưới bóng cây Duối được chia thành hai phần riêng biệt: Phía đông, mấy đứa tóc ngắn, quần ngắn, lưng dài chơi những món như bắn bi, tạt lon, u, tán hưng...Phía tây, mấy đứa tóc dài, quần dài, lưng ngắn chơi những trò như thảy vòng, nhảy chưn chán, nhảy chống lưng...
              Ba nhóm phía đông chơi ba môn khác nhau.
              Sát góc cây, nơi mát nhất, một nhóm gồm năm đứa ngồi chồm hổm, vây quanh cái lỗ to bằng trứng ngỗng được khoét dưới đất. Tụi nó đang nhìn chòng chọc vào một tên có cái đầu trọc lóc bôi đầy thuốc đỏ. Tên nầy cũng ngồi chồm hổm, bàn tay trái của nó xoè rộng hết cỡ với ngón cái chống xuống đất. Ngón tay giữa của nó ểnh ngược với một viên bi ở đầu ngón, được giữ lại bằng ba ngón, cái, trỏ và giữa của bàn tay phải. Mắt nó nhìn chăm chú vào viên bi màu xanh cách đó độ năm gang tay, bẻ ngón giữa về phía sau thêm một chút để lấy đà, rồi bắn một cái rất mạnh. Cái viên bi bị kềm giữ nãy giờ đã quá ư sốt ruột, được phóng thích vội vọt đi như hỏa tiễn. Nó chạm mạnh vào viên bi xanh rồi đẩy cái viên bi nầy văng rất xa để chiếm chỗ, còn say men chiến thắng nên nó cứ xoay tít như con vụ một hồi rồi mới chịu dừng lại. Mấy đứa ngồi xem ồ lên thán phục làm cái mặt của tên đầu trọc căng ra bởi niềm tự hào. Nó chùi hai bàn tay vô quần rồi vẫn ngồi chồm hổm, nhích hai bàn chân xê lại chỗ viên bi vừa được bắn ra, lập lại cái động tác cũ, quyết tâm truy sát cái viên bi kia. Tội nghiệp cái viên bi xanh còn chưa kịp hoàn hồn đã bị thêm một phát, đẩy nó rơi luôn xuống lỗ! Lại một tiếng " ồ" khoái trá từ mấy cái miệng há to thán phục. Tên đầu trọc cầm viên bi xanh lên bỏ vô túi quần rồi tiếp tục cuộc chinh phạt, thâu tóm mấy tên còn lại đang nằm rải rác trên sân.
              Cái nhóm chiếm chỗ nhiều nhất là nhóm chơi tán hưng. Một thằng bé với cái răng chó vừa nhổ chưa mọc kịp đang đứng trước cái mức vạch sẵn. Cây gậy tre to bằng ngón chân cái, chiều dài cỡ cánh tay được nó cầm ở mút đầu, kèm thêm một khúc tre ngắn, to cỡ chừng đó nhưng chỉ dài độ một gang thôi. Nó hô bằng một giọng dõng dạc:
              -Mười bốn ...tán!
              Vừa hô vừa tung khúc tre ngắn lên cao, chờ cho nó rơi ngang tầm tay mới lấy cây gậy dài mà vụt một cái rất mạnh về phía trước. Một tên đứng đàng xa, cũng sún răng nhưng là răng cửa, đang khom người ở tư thế sẵn sàng, vọt lên bắt gọn trong tay cái khúc cây ngắn ấy. Thế là nó, mặt mày tiu nghĩu, đưa cái gậy trong tay cho tên vừa bắt trúng kia. Tên nầy đặt khúc tre ngắn vào cái lỗ dài chừng một ngang, rất hẹp được khoét sâu gần một ngón tay sao cho phân nửa ló ra miệng lỗ. Nó cầm cây gậy dài đập mạnh vào cái đầu chổng lên ấy. Khúc tre ngắn nhảy dựng lên, chưa kịp chạm đất lại bị thêm một cú vụt thật mạnh nên bay như đạn pháo làm cái tên đang đứng khom lưng chờ sẵn không thể nào đón kịp. Thằng bé vừa đánh, đến chỗ khúc cây ngắn vừa rơi đang nằm chết giấc, dùng cây gậy dài đo khoảng cách từ cây ngắn đến lỗ, vừa đo vừa đếm rất to. Mấy đứa cùng chơi cũng ráp nhau đếm theo nó:
              -Một, hai, ba...mười tám.
              Nó dừng lại trước cái mức qui định, nơi thằng bé kia cũng đứng khi nãy, hô:
              -Mười tám....tán! Rồi tung cây gậy ngắn lên làm y như lúc nãy....
              Cuối cuộc chơi thằng bé sún răng cửa thắng. Nó lại để cây gậy ngắn nằm ngang miệng lỗ, cầm cây gậy dài rồi vét tất cả sức lực trong người mà vít cây gậy ngắn bay xa mút chỉ, để phạt cái thằng kia phải cõng nó từ cái điểm rơi đó chạy về mức.
              Cái nhóm thứ ba là ồn ào nhất, tụi nó đang chơi u, chúng lấy cái que vạch một đường dài chia khoảnh sân làm hai phần bằng nhau, rồi dùng cách " tay trắng, tay đen" để chia phe. Mỗi phe sáu đứa đứng về hai phía của cái mức vừa vạch ấy. 
              Bắt đầu trò chơi, tụi nó bao xiễng xùm coi bên nào đi trước. Phe nào thắng sẽ cử một người chạy qua lằn ranh, vừa chạy vừa kêu "u...u..." một hơi, vừa cố chạm vào một đứa rồi chạy bạt mạng về đất nhà. Mấy đứa phe kia lật đật chạy nhào tới ôm chặt để cứu mạng cái đứa vừa bị chạm và bắt thêm tù binh. Nếu nó kêu dứt một hơi mà không vùng ra và kịp chạy về đất nhà thì coi như bị chết. Nếu ngược lại thì mấy cái tên bị nó chạm trúng sẽ chết. Rút kinh nghiệm từ các lần trước chúng cởi hết áo ra máng lên cành duối, vì trò chơi nầy phải ôm thật chặt khi đối phương vượt qua mức. Đứa nào cũng phải lôi kéo, vùng vẫy hết sức nên rất dễ rách áo.
              Một hôm chơi trò nầy Mít Ướt cũng được cử qua đất địch và bị ôm dính khắng. Với một tinh thần bất khuất được kế thừa từ bà Trưng, bà Triệu, nó chống trả một cách hết sức mãnh liệt. Cuối cùng cũng bảo vệ được tính mạng chỉ để lại có nửa cái vạt áo. Ngày hôm đó, nhờ có Mít Ướt mà phe của nó chiến thắng huy hoàng trên chiến trường. Nhưng khi về hậu phương nó chẳng hề được tôn vinh mà còn bị một trận đòn thê thảm.
              Thường thì những giây phút vinh quang ngắn ngủi mà nó được hưởng, đều phải trả bằng một giá rất đắc!

               
              Phía tây, nơi bị phe tóc dài chiếm dụng, những trò chơi ít sôi động hơn, khoảng chừng hơn mười đứa tập trung thành hai nhóm nhỏ.
              Nhóm thứ nhất chừng sáu đứa đang chơi nhảy chống lưng. Một con bé nhỏ choắt đang bị bắt, nó đứng thẳng gối, gập người thành góc vuông nên cái lưng song song với mặt đất. Hai bàn tay của nó đặt lên đầu gối, hai cánh tay ốm nhom lòi ra khỏi cái tay áo ngắn ngủn chống thẳng băng. Nó dồn hết sức lực vào hai cánh tay nầy nên chúng hơi rung rung. Mấy đứa khác đứng cách đó một đoạn, từng đứa chạy lấy đà, vừa đến sát bên nó là phóng người, bẹt hai chân ra hai bên thành cái góc 180 độ. Chúng dùng hai bàn tay chống thật mạnh lên lưng con nhỏ ốm nhom ấy để lấy đà rồi vọt qua một cái vù, sao cho hai bàn chân chạm đất một lượt. Từng đứa nhảy qua một cách xuôi rót chỉ còn lại một con bé sau cùng. Con bé nầy tròn như hột mít, to gấp đôi con nhỏ đang bị bắt. Nó mới chơi lần đầu nên sợ té, cứ đứng do dự mãi.
              Mấy đứa bạn nó sốt ruột quá giục:
              -Nhảy đại qua đi Bánh Ú, hổng có sao đâu!
              Mấy cái miệng cứ hối dồn, hối dập, thế là nó đành phải bậm môi, bậm miệng mà làm đại. Nó lui xa thêm một chút để có đà hơn, bắt đầu chạy nhanh rồi khi sắp nhảy bổng hụt hơi kiệt sức. không thể phóng lên cao, vướng chân vào lưng con bé kia làm hai đứa cùng té một cái đụi, đành lồm cồm ngồi dậy phủi quần rồi thay chỗ cho con bé ốm. Con nhỏ nầy nảy giờ chắc đã nóng máy lắm nên giành nhảy đầu. Nó nhảy rất nhẹ, nhanh và đẹp. Có thể nói chắc một điều, nó chính là đứa nhảy hay nhất bọn. Mấy đứa còn lại chỉ thua nó chút xíu mà thôi. Cái con Bánh Ú kia, e rẳng sẽ đứng cong lưng tới chiều, chẳng có cơ may được ai thế chỗ!
              Nhóm thứ hai chơi nhảy "chưn chán".
              Hai đứa con gái lót hai miếng lá chuối khô xuống đất rồi ngồi bệt lên đó, tụi nó ngồi duỗi hai chân thẳng về phía trước, bốn bàn chân từng đôi chạm vào nhau tạo thành một hình thoi với cái góc nhọn chừng năm mươi độ, bốn bàn tay cũng nắm lại từng đôi. Chúng giữ nguyên cái tư thế ấy, cả hai đều ngồi im như bị điểm huyệt, rình chờ hể đứa nào từ bên ngoài phóng vào cái hình thoi, là giựt cái tay lên thật cao. Cái đứa kia nếu bị chạm chân là chết, phải thay chỗ cho một trong hai đứa.
              Một nhóm khác, tóc ngắn, dài lẫn lộn, đó là những đứa nhỏ xíu đi theo anh hay chị của nó, tụi nó gom nhau lại chơi "tập tầm vông".
              Trò chơi nầy hết sức là đơn giản. Chúng đặt vào lòng bàn tay bất cứ một vật gì, kích thướt nhỏ thôi để có thể giấu kín, như hột me, dây thun vòng, hòn sỏi nhỏ...v...v...Chỉ đặt vào lòng một bàn tay, rồi cùng nắm chặt cả hai lại và đưa ra trước mặt. Chúng liên tục đẩy hai cái nắm tay ra, vô. Vừa làm liên tục vừa hát:

              Tập tầm vông, tay không tay có
              Tập tầm gió, tay có tay không
              Tay nào không? Tay nào có?
              Tay nào có? Tay nào không?


              Đọc xong thì dừng tay để đứa kia đoán. Hễ chỉ trúng cái tay có nhưn bên trong là tụi nhỏ xung quanh ré lên thích thú. Cái đứa bị chỉ trúng phải chịu phạt.
              Chơi một hồi thấy chán, tụi nó rủ nhau ngồi thành vòng tròn rồi một đứa ngồi chính giữa chỉ tay vào từng đứa mà đọc:

              Xù xì xục xịch
              Hột mít lùi tro
              Ăn no té ****
              Thằng cha nào ****
              Phải nói cho ra
              Đến bữa mùng ba 
              Thằng cha nầy ****.

              Cứ mỗi chữ là nó chỉ tuần tự từng đứa kế tiếp nhau, kể cả nó. Chữ cuối cùng rơi vào đứa nào là đứa đó bị chết, phải phồng hai cái gò má căng tròn như bong bóng để tụi kia thay phiên nhau. Mỗi đứa cong cái ngón trỏ, tựa vào cái ngón cái thành hình chữ O, búng mạnh từng bên của hai gò má quá hấp dẩn ấy nghe một cái tróc. Trò nầy có tên "Xù xì xục xịch".

               
              Con bé vừa bị búng, lần nầy đến phiên nó đọc, không hiểu làm cách nào cái chữ cuối cùng lại rơi vào nó. Hồi nãy bị búng đau quá nên bây giờ nó sợ, ngồi giấu cái mặt giữa hai đầu gối không cho tụi kia búng nữa, cũng không chịu chơi tiếp. Mấy đứa nhỏ kia xúm lại năn nỉ rồi hỏi nó:
              -Bây giờ mầy muốn chơi món gì?
              Nó suy nghĩ một lát rồi trả lời:
              -Tao muốn chơi " bòn bon, xi cu la ".
              Mấy đứa kia đồng ý cái rụp. Thế là hai đứa lớn nhất trong nhóm, một trai, một gái kéo nhau ra một chỗ hơi xa nói nhỏ không cho tụi còn lại nghe. Kế đó chúng đứng đối diện, cùng nắm một tay nhau và đưa cao qua khỏi đầu để làm cái cổng. Mấy đứa kia sắp hàng nối đuôi chui qua từng đứa một, vừa đi tụi nó vừa cùng nhau đọc:


              Bòn bon, xi cu la
              Bánh canh sữa hột gà
              Dầu cù là, bánh trung thu. *

              Đọc dứt bài tụi nó hạ tay xuống, đứa con gái đang đi tới bị chặn lại rồi hai đứa kia đồng thanh hỏi nó:
              -Ăn bom hay ăn nho?
              Con bé nầy phân vân, như thể nó đang đứng trước hai dĩa trái cây ngon lành ấy và không biết nên bóc thứ nào cho vô miệng.
              Mấy đứa bên ngoài hối:
              -Lựa đại đi mà! 
              Nó đành liều mạng:
              -Ăn nho!
              Thế là được đứng sau lưng đứa con gái. Từ đó trở đi cứ con trai thì trả lời "ăn bom", còn con gái là "ăn nho". Vô tình tụi nó tạo thành một cuộc chiến đại diện cho hai giới tính. 
              Khi cái đứa cuối cùng đã chọn phe xong, chúng bèn lượm một cục gạch rồi vạch một đường dài chia khoảng sân làm hai phần bằng nhau. Hai đứa cầm tay khi nãy mỗi đứa đứng một bên cái vạch. Mấy đứa theo phe đứng sau lưng tụi nó theo thứ tự lớn trước nhỏ sau, đứa sau ôm thật chặt cái eo của đứa trước. Lúc nầy hai đứa đứng sát vạch nắm tay nhau cố kéo đối thủ qua vạch của mình. Chân của đứa đứng đầu chỉ cần cán mức thôi thì tụi nó coi như thua và phải cõng mấy đứa thắng.
              Phe con gái đông hơn nhưng lại yếu sức, vì vậy nên lực lượng hai bên coi như ngang ngửa. Cả hai phe đều cong người lại mà kéo tận lực. Mười ngón chân của hai cái đứa đứng đầu bấm chặt xuống đất, chúng bậm chặt môi và hầu như nín thở gồng mình dồn sức vào hai cánh tay mà kéo. Bỗng cái thằng con trai đứng đầu bị nhột lỗ mũi nó "ách xì " một tiếng thế là bị vuột tay, cả hai bên đều té chổng gọng. Mấy đứa phía trước bật ngửa, nằm chồng lên những đứa sau. Cả đám con nít nhỏ xíu phía sau bị đè, hết hồn khóc ré báo hại anh chị tụi nó đang chơi gần đó, phải bỏ ngang chạy lại dỗ hoài cho chúng nín.


              Cái nhóm nhỏ nhất lại là cái nhóm biết điều nhất. Chúng chơi với nhau rất hòa thuận, không hề gây gổ. Chúng bò lổm ngổm trên sân, đôi mắt mở to nhìn quanh quất, đang dùng hết các giác quan của mình mà khám phá thế giới. Giác quan mà chúng dùng nhiều nhất chính là cái lưỡi. Bất cứ thứ gì lạ lạ chúng cũng không ngần ngại mà cho tuốt vào miệng, rồi vừa nhai vừa nhăn mặt lại và dù có đôi chút thất vọng cũng ráng mà nuốt cho hết. Chúng cũng chẳng thèm phân biệt môn phái, chơi với nhau rất ư hòa thuận .
              Một thằng bé chừng mười tháng tuổi, hết sức ga lăng. Nó cầm cục đất ăn thấy ngon bèn cố nhét vào miệng con bạn đang ngồi bên cạnh tuổi cũng xêm xêm nó. Con nhỏ ấy cảm động quá bèn nuốt trọng luôn. Chị nó đang chơi gần đó trông thấy thế bèn lật đật chạy tới, đè ngửa cái con bé ấy xuống. Bất kể nó giẫy giụa, khóc thét om sòm, cũng thọc ngón tay trỏ vào miệng nó cho bằng được mà móc ra sạch bách cái món ăn được ân cần trao tặng đó. Như thể nó không muốn em mình bị dụ khị quá sớm, trước con mắt hết sức ngạc nhiên đầy bất mãn của cái thằng bé kia!
              Trên cành cây cũng chia thành hai khu vực riêng biệt. Mấy đứa con gái chiếm những nhánh thấp gần đất hơn. Chúng hái mấy chùm duối chín, vừa ăn vừa cất bớt vào túi để dành, đứa nào có em đi theo thì thảy xuống cho mấy đứa nầy lượm ăn.
              Mấy tên con trai leo lên cao chót vót, tụi nó thách nhau coi đứa nào leo cao nhất. Những chùm trái trên đó đủ mưa, đủ nắng nên chín mọng hơn, ngọt hơn và nhiều hơn bên dưới. Chúng hái tới đâu ăn tới đó chớ không để dành như con gái, còn bày đặt xài sang, lấy trái chọi lên đầu mấy thằng bạn ngồi ở mấy cái cành thấp hơn để chọc quê mấy tên kia.

              *Trò chơi nầy ở một số nơi khác, nhất là ở xứ đạo thiên chúa, có tên là "thiên đường, địa ngục". Lời của nó khác đi:


              Thiên đàng địa ngục hai bên
              Ai khôn thì nhờ ai dại thì sa
              Đêm nằm nhớ chúa, nhớ cha
              Đọc kinh cầu nguyện kẽo xa linh hồn
              Linh hồn phải giữ linh hồn
              Đến khi gần chết được lên thiên đàng.




              Cái thế giới xung quanh cây duối ấy đang diễn ra hết sức sôi động, những trò chơi cứ thay đổi liên tục.
              Trên sân mấy đứa nhỏ xíu đang đắm mình trong một trò chơi. Một đứa con gái với mái tóc bù xù ngồi gục đầu xuống, mấy đứa khác ngồi xung quanh. Thằng bé ngồi sau lưng nó vừa hít mũi một cái rột, vừa cong ngón tay trỏ cú lên đầu nó nghe một cái cốc rồi thu tay lại cho thật nhanh. Con bé nầy ngóc đầu lên liền, nhìn mặt từng đứa rồi chỉ trúng phóc cái thằng bé đang quẹt mũi đó. Cả bọn hét to khoái trá, vậy là tên nầy phải đổi vai cho nó! 
              Mấy đứa con trai hơi lớn hơn một chút thì chơi đá gà. Chúng ngắt lá khoai mì rồi móc hai cái cuống lá cong cong vào với nhau mà giựt. Lá nào bị đứt cuống là thua và tên đó phải bị búng lỗ tai.
              Một nhóm nữa cũng chơi đá gà nhưng kiểu khác. Hai tên con trai đứng đối diện và nhìn nhau gườm gườm, cả hai đều dùng cánh tay trái ôm cái chân trái được gập gối, sát vô ngực, một chân cò cò để giữ thân bằng. Cánh tay phải cũng được gập lại ở cùi chỏ, cứ liên tục kéo vào hất ra, trong trò chơi nầy, đầu gối và cùi chỏ được dùng như vũ khí.
              Mấy tên bên ngoài cứ liên tục hô hào:
              -Nhào vô đi, nhào vô đi!
              Thế là chúng xông vào nhau như hai con gà chọi. Chạm mạnh cùi chỏ và đầu gối vào nhau, bật ra và nhào vô liên tục cho đến khi một tên bị té hay rớt chân xuống đất.
              Cả ba bốn nhóm đó vừa cười nói ồn ào, vừa cãi cọ khóc la đủ thứ, vậy mà con chó vàng nằm ngửa cạnh đó, vẫn đưa bốn cẳng lên trời mà ngủ một cách say sưa. Bất chấp các tiếng reo cười, hò hét xung quanh. 
              Tọa lạc trên các nhánh cây thấp, mấy đứa con gái vừa ngồi đu đưa chân, vừa bắt chí cho nhau vừa chuyện trò rôm rả. Những đứa nầy đã đến từ sáng, hái và ăn đến chán chê mấy cái trái duối kia. Những đứa đến trễ hơn đang nhanh tay mót những trái còn sót cho vào miệng nhai chóp chép. Bỗng một thằng bé ngồi chót vót trên đọt cây, vừa leo xuống thoăn thoắt vừa hét to:
              -Con rắn!
              Y như cái tổ kiến bị cây chọc vào, chúng rùng rùng xô nhau leo xuống. Một đứa con gái vốn rất sợ rắn nghe thấy thế giật mình té xuống đất. Cũng may mà nó đang ngồi ở cành cây thấp nhất, đất ở chỗ đó cũng mềm và xốp nên không bị u đầu chảy máu. Có điều nó sợ quá nên nằm bất tỉnh, đứa em đang chơi gần đó thấy chị nó nằm im thì sợ quá, chạy đến ôm rồi khóc nức nở. Mấy đứa bạn của nó hồn vía lên mây, chúng đu cành nhảy xuống đất cho nhanh rồi chạy đến chỗ con bé đang nằm. Một đứa có vẻ thành thạo, vừa giựt tóc mai nó vừa kêu:
              -Hú ba hồn chín vía con hai Hãnh về ăn cơm với cá!
              Mấy đứa kia cũng ráp nhau gọi om sòm. Đau và nghe tiếng gọi nên nó mở mắt ra, lật đật ngồi dậy ôm và dỗ cho em nó nín.
              Thực ra không có con rắn nào hết cả. Cái tên con trai đó muốn hù mấy đứa con gái nên bịa ra thôi. Mấy đứa con gái và cả đám con trai nữa xúm lại xỉa xói. Một thằng chỉ ngón trỏ vô mặt nó nói:
              -Sao mầy ngu quá vậy, rủi cái hồn nó đi luôn là ba má nó bắt mầy thế mạng đó!
              Tên nầy, mặt còn xanh lè không mở cái miệng trã lời nỗi một tiếng, lủi thủi bỏ đi về luôn.
              Mấy tên còn lại xì xào phê bình một lúc rồi lại chơi tiếp.
              Lần nầy chúng không chơi mấy trò cũ nữa mà từng đôi cõng nhau vừa chạy vừa ném cái lon sữa bò, cũng chia làm hai phe giống như đá banh. Tên được cõng cầm lăm lăm một cái lon trong tay, cố chọi vào cái lon đặt trong ô hình vuông cỡ bằng miếng gạch tàu ở cuối bên sân của phe kia. Sao cho cái lon đó văng ra khỏi cái ô là thắng. Cái tên được cõng có nhiệm vụ chọi còn cái tên cõng phải chạy né mấy tên cản đường. Sau một bàn chúng lại đổi vai, đứa ngồi trên lưng nhảy xuống đất và ngược lại, trò chơi nầy được gọi là "cõng chọi lon".
              Mấy đứa con gái thì chơi "hùm bắt rắn". Tụi nó đứng chòm nhom trong một cái vòng tròn lớn được vạch trên đất, một đứa bên ngoài vừa chạy xung quanh vòng vừa hỏi:
              -Nhà ai có bán heo hông?
              Mấy đứa đứng trong vòng cùng đáp:
              -Hông có!
              -Con gì lấp ló trong chuồng?
              -Con nhện!
              -Nhện gì?
              -Nhện hùm!
              -Hùm gì?
              -Hùm beo!
              -Beo gì?
              -Beo thịt!
              -Thịt gì?
              -Thịt heo!
              Bây giờ đến việc trã giá:
              -Một trăm bán hông?
              -Cà lang, cà lang không bán!
              -Hai trăm bán hông?
              -Cà lang, cà lang không bán!
              -Ba trăm bán hông?...
              Cứ lập đi lập lại cái câu hỏi đó, mỗi lần lại tăng giá lên một mức, cho đến khi được trả lời là bán.
              Lúc nầy mấy đứa bên trong sẽ tập trung vô giữa vòng. Đứa bên ngoài sẽ vói tay cố chụp vào một đứa để lôi ra, đứa bị lôi ra ấy sẽ phải thế chỗ cho nó.
              Mấy đứa bé gái con con hầu hết đều khoái chơi trò "bắt kim thang", gần như ngày nào chúng cũng chơi trò nầy: Cả bọn đứng vòng tròn quay lưng lại với nhau, chúng đứng bằng chân phải, chân trái gập lại chỗ đầu gối, đưa về phía sau để gác lên chân đứa khác. Sao cho những cái chân đan vào nhau thật chắc, rồi vừa cò cái chân phải cùng một lượt, vừa đọc:


              -Bắt kim thang, cà lang bí rợ
              Cột qua kèo, kèo qua cây cột
              Bắt ngựa ô chạy vô đường núi, 
              Hái lá chuối, chùi đít ngựa ô.


              Trò chơi này không có tính đối kháng, không có phe thắng, phe thua. Khi nào bị rớt chân xuống thì chơi lại mà thôi!

               
              Khi mặt trời chiếu đến ngang lưng cây duối, mấy đứa con gái, nhất là những đứa bồng em theo, phải về nhà để nấu cơm và dỗ cho em nó ngủ. Con nhỏ bị xỉu hồi nãy, kéo vạt áo lên lau mũi cho em của nó. Con bé nầy mặt mày tèm lem vì khóc. Nó cõng em trên lưng rồi sắp hàng chạy đua với mấy đứa khác. Đích đến là cái miễu cô Mười. Đứa nào thắng là gom của bốn đứa kia mỗi đứa năm sợi dây thun vòng. Tụi nó đếm một , hai, ba rồi cùng chạy thục mạng. Mấy đứa nhỏ ngồi trên lưng chị, đầu lắc qua lắc lại liên tục, chúng khoái chí cười ré lên từng chập...
              Bên con trai cũng thưa dần đi. Mấy đứa lớn bây giờ mới nhớ tới nhiệm vụ của mình: Đứa thì đi xách nước dưới mương lên tưới dưa; đứa thì cắt cỏ cho bò ăn; đứa chạy gom mấy con bò đang lang thang trên đường cộ...
              Cái nhóm bắn bi vẫn còn đông đúc lắm, tên đầu trọc hôm nay hên dữ, nó cứ liên tục thắng suốt. Cái túi to đùng của cái quần xà lỏn đen đựng đầy nhóc bi, kéo cái lưng quần xệ xuống bày cái rún lồi bằng ngón tay cái của nó ra ngoài. Một tên chơi chung ngứa mắt, ngứa tay liền lượm cái que tre chọt vào đó rồi hát:
              -"Mặc quần dưới rún, chúng đâm lòi phèo!"
              Nó quay qua sừng sộ, sắp chửi cho thằng kia một trận bỗng đâm đầu chạy miết. Tụi bạn đang chơi chung ngạc nhiên nhìn theo, còn chưa biết ất giáp gì thì nghe một tiếng quát từ đằng sau:
              -Thằng nào coi con bò nầy hả?
              Tụi nó quay lại, một ông bác ở trần, mặc quần dài, quấn khăn trên đầu mặt hầm hầm. Tay ổng cầm chặt sợi dây vàm kéo mũi con bò cái tơ lông vàng, vừa đi xâm xâm tới, vừa hỏi. 
              Một đứa ấp úng trả lời:
              -Thằng Bảy "ghẻ" đó bác Sáu!
              -Tụi bây nói với nó, tao bắt luôn con bò. Chừng nào ba nó dậm lại đám lúa bị con bò nầy ăn coi cho được thì tao mới trả lại!
              Ổng nói to hết cỡ để đến tai của nó vì biết chắc rằng nó đang núp trong đám mía gần đó. Thằng Bảy "ghẻ" chờ ổng đi thật xa mới ló đầu ra mặt mày tiu nghỉu. 
              Mấy đứa bạn hồi nãy hết sức ganh tị và mong muốn được như nó, bây giờ bỗng nhìn nó bằng đôi mắt hả hê pha thêm nửa phần thương hại.
              Chiều hôm đó cả xóm ráp nhau chạy đi kiếm nó.
              Chẳng là vầy, nó quá sợ ba nó đập nên trốn trong đồng luôn không dám về nhà. Ba nó vót một cây roi đợi sẵn, chờ hoài không thấy nó về. Ban đầu ba nó giận lắm định đánh cho nó một trận nhớ tới già, ổng vừa sốt ruột, vừa chửi, vừa hăm he đủ thứ. Má nó với mấy đứa con ngồi xếp ve. Mâm cơm dọn lên mà ổng chưa ăn nên hổng ai dám cầm đũa. 
              Má nó hết sức bồn chồn lo lắng, sợ ổng giận quá rồi bẻ gãy tay, lọi giò của nó thì tốn tiền thuốc thang mà hổng chừng còn mang tật. 
              Ba nó sẵn trớn lôi hết tội của má nó và mấy anh em nó ra kể, còn đòi xử chung một lần với nó. Cả nhà đang sống trong cảnh lo lắng tột cùng. Người tội nhẹ thì mong nó về để bị đòn phức cho rồi. Người tội nặng hơn thì cầu mong nó trốn lâu lâu một chút. Mấy đứa nhỏ đói bụng quá cứ nắm áo má nó giựt miết, nhưng bả đâu còn lòng dạ nào để ý tới chúng.
              Mặt trời sụp xuống đất, hắt tia sáng leo lét rồi tắt dần, tối hù rồi mà vẫn chưa thấy nó về. Ba nó bắt đầu chuyển từ giận, sang lo, rồi sợ, còn má nó thì khóc hu hu. Mấy đứa nhỏ thấy vậy cũng rống lên theo.
              Cậu Sáu Sung nhà sát một bên nghe tiếng lật đật chạy qua, biết nó bỏ trốn luôn ổng đâm hối hận. Thật ra ổng chỉ hù cho nó sợ để không làm vậy nữa, chớ đâu có bắt đền, hay giữ bò làm chi. Bà con lối xóm không hà, làm vậy coi sao được! 
              Nghe má nó kể, cậu Sáu bèn cho lối xóm hay rồi mỗi người đốt một bó lá dừa cầm tay, đem theo một bó nữa rồi ra đồng kiếm nó. 
              Mọi người vừa đi vừa réo tên nó inh ỏi:
              -Bảy "ghẻ" ơi ! về nhà đi, ba mầy không có bẻ gãy giò mầy đâu!
              Thường ngày người lớn hay ghẹo nói láy tên của nó nên có một ông bác buột miệng:
              -"Bẻ gãy" ơi! ra đi đừng có trốn nữa!
              Thế là mọi người bỗng ráp nhau cười, rồi sực nhớ nên dừng hẳn lại liền rồi đi kiếm tiếp.
              Khi bó lá dừa đầu tiên sắp rụi, bó thứ nhì được châm tiếp bà con bèn chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất nhảy xuống mương mò coi nó có bị té xuống đó không. Nhóm thứ hai thì lại miễu cô Mười để van vái xin cổ độ cho kiếm ra nó.
              Ba nó đi trong nhóm thứ nhất, vừa mò ổng vừa rung, cứ lầm bầm vái bà Thủy và Hà bá đừng có bắt nó về làm lính. 
              Má nó đi trong cái tốp thứ hai đến miễu cô Mười, từ xa xa đã thấy một đống lù lù nằm ngay trước miễu. Một người chạy tốc tới, cầm bó lá dừa soi rồi la to:
              -Bà con ơi, nó nè!
              Má nó vọt nhanh như tên bắn đến kéo nó dậy. Nó đang nằm nhắm mắt trên tay còn cầm nửa cái bánh ú, cái dĩa trên bàn thờ sạch bách. 
              Mọi người hết hồn, thôi chết rồi! Nó dám ăn đồ cúng miễu, chắc chắn là bị quở rồi hổng chừng bị mất mạng như chơi. Bà con xì xào lo lắng. 
              Thằng Bảy Ghẻ đã thức rồi nhưng nó nằm im ru giả chết. Nó biết chỉ có cách nầy mới giúp nó thoát khỏi cái trận đòn sanh tử do cái tội tày trời vừa mắc phải. Cậu Sáu Sung đưa lưng cõng nó, một người lật đật chạy đi cho ba nó hay cho ổng yên tâm.
              Thế là cái thằng Bảy Ghẻ được thoát tội một cách hết sức vẻ vang.
              Từ hôm đó trở đi, nó được cái đám loi choi thập phần ngưỡng mộ, vì dám ăn đồ cúng của cô Mười mà không bị đứt một cọng lông nào hết trọi!

               
               
              (tiếp CHƯƠNG BỐN)


               
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 17:48:09 bởi Lâm Du Yên >
              #7
                Lâm Du Yên 05.09.2019 09:44:21 (permalink)
                MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI 
                    
                CHƯƠNG HAI

                Má Mít Ướt có tham vọng biến nó thành một tiểu thư xinh đẹp, nết na và thuỳ mị. Phải nói đây là một trong những nỗi thất vọng lớn lao của má. Điều nầy làm má khổ tâm hết sức và nó cũng khổ không thua, hổng chừng còn nhiều gấp đôi.


                Ngày đầu chuyển về trường, nó y như đồng xu mới được đánh bóng. Má cho nó mặc cái quần sa ten màu trắng, áo cổ lá sen tay cúp màu hồng. Mái tóc cắt theo kiểu bom bê của nó ngắn ngủn, vậy mà má cũng ráng kẹp vén qua mép tai bằng hai cây kẹp. Một cây có gắn con bướm màu vàng và cây kia là con bướm đỏ. Má còn chu đáo quàng vào cổ nó một túi bắp rang đầy nhóc, nói:
                -Vô lớp con nhớ cho mấy đứa bạn ăn chung nghe, để tụi nó chơi với con.
                Chẳng đứa nào thèm nói với nó thì nói gì cái chuyện ăn chung. Ngay cả cái con Ghết, con em cô cậu ruột ngồi cùng bàn, cũng xê ra tới mút cái đầu bàn bên kia, ra vẻ hết sức là xấu hổ vì nó. 
                Khi thầy cho cả lớp tập viết, bằng cách lấy phấn viết vào bảng, hai tay cầm lên đưa qua khỏi đầu cho thầy xem. Cả lớp đều xài bảng giấy chỉ có mình nó là xài bảng đá (bằng thiếc sơn đen), điều nầy lại càng tạo thêm khó khăn cho nó. Đã vậy thầy còn cầm tấm bảng của nó đưa lên cho mấy đứa bạn xem để bắt chước nữa, cho nên phải nói là cái ngày hôm đó, trong mắt cả lớp nó như là con quỷ "xà mâu" vậy!
                Ra giờ chơi, sân trường ồn ào nhộn nhạo như tổ ong vò vẻ. Con trai chiếm hơn một nửa cái sân, chơi mấy trò bắn cu ly, tán hưng, chọi đá, quay vụ...Còn con gái chụm nhau lại một góc chơi chuyền chuyền, cò tây, cò bẹp...Đứa nào cũng có bạn chỉ có nó là đứng một mình. Hễ nó xán lại cái nhóm nào là cũng bị tụi nó làm ngơ, không thèm nhìn đến cặp mắt van lơn và cái túi bắp được mở rộng hết cỡ của nó. Một lần nó làm gan mon men lại gần cái nhóm chơi cò cò có con Ghết trong đó, hỏi:
                -Cho tao chơi với nghen?
                Tụi nó cùng lắc đầu mà không thèm trả lời một tiếng. Con Ghết thì quay mặt qua chỗ khác giả bộ như không thấy nó.
                Thế là nó đứng một mình dựa vô cây me, nhìn tụi bạn bằng tia mắt thèm thuồng. Một thằng con trai từ đâu chạy đến đuổi:
                -Ê, cái con nhỏ kia xê ra mau, chỗ nầy là của tụi tao chơi chọi lõng bẽn.
                Lõng bẽn là cái nắp của mấy chai la de, xá xị, mỏ nát....được tụi nó đập cho bẹp xuống. Mỗi thứ có một mệnh giá khác nhau: Nắp la de tính bằng một, nắp mỏ nát tính bằng năm, nắp xá xị con nai tính bằng mười...Tụi nó chơi trò nầy bằng cách chọi một cái nắp vào tường hay góc cây, nó văng ra và trúng cái nào đang nằm trên đất thì được ăn cái đó. Cái thằng nhỏ đó mới nói, đúng hơn là cự nó có một câu thôi, mà bị mấy thằng bạn xúm lại chọc túi bụi:
                -Tụi bây ơi! Lại mà coi cái thằng Cà Mum nó ve con nhỏ mặc quần trắng kìa!
                Thằng Cà Mum đỏ mặt rướn đến nổi gân cổ lên cãi:
                -Tao ve nó hồi nào, tao mà thèm ve cái thứ mặc quần trắng hả?
                Khi đi học về má hỏi:
                -Trường mới vui hông con, tụi nó có chơi với con không?
                Nó đưa cái túi bắp rang còn nguyên chưa bóc một hột cho má rồi oà khóc:
                -Tụi nó hổng có đứa nào thèm chơi với con hết, tụi nó chê con mặc quần trắng.
                Má ngạc nhiên quá hỏi tiếp:
                -Còn con Ghết, nó có ngồi chung với con hông? Nó có chơi, có về chung hông?
                -Nó ngồi mút đầu kia, ra chơi nó không cho con chơi chung. Ra về nó chạy cái vù mất tiêu bỏ con đi mình ên, con hổng đi học nữa đâu!
                Má không trả lời, đi ngay qua nhà ông cậu để mắng vốn. Một lát má quay về nói:
                -Má mét mợ sáu rồi, ngày mai nó không dám làm vậy nữa, con đừng có lo!
                -Con hổng muốn đi học, cũng hổng mặc quần trắng nữa đâu!
                -Bậy nà! Mặc quần trắng thì có gì mà xấu, tại tụi nó hổng có nên ganh với con. Con mà không đi học, lớn lên phải đi ăn mày là khổ dữ lắm đó!

                 
                Hôm sau và những hôm sau nữa, tình hình chẳng khá lên tí nào, mặc dù Mít Ướt cố cải thiện bằng cách, vừa ra khỏi nhà là lột hai cây kẹp nhét vào túi áo. Nếu mà bỏ được cái quần trắng chắc nó cũng bỏ liền.
                Con Ghết vì bị mợ Sáu hăm he, và được má Mít Ướt lót tay năm cắc bạc nên cũng chịu rủ Mít Ướt đi học. Trên đường đi hễ có một đứa nào xuất hiện là nó bỏ rơi con nhỏ liền, xáp lại bá vai con bạn kia ra vẻ hết sức là thân mật. Tới giờ ra chơi, năm cắc bạc giờ đây không còn hiệu lực. Mít Ướt lại lủi thủi một mình.
                Một hôm tới giờ chơi, thấy nó cứ ngồi hoài trong lớp, thầy bèn đến xoa đầu nó, hỏi:
                -Sao con không ra sân chơi với các bạn?
                Nó trả lời thầy mà nước mắt rưng rưng:
                -Tụi nó hổng cho con chơi chung.
                Thầy kéo tay nó đứng lên biểu đi theo, rồi dắt lại chỗ mấy đứa con gái đang chơi nhảy dây, có cả con Ghết trong nhóm đó. Thầy biểu mấy đứa đó phải cho nó chơi chung hông thôi thầy sẽ phạt. Chúng không dám cãi thầy, đành bấm bụng mà cho nó nhập bọn.
                Nó mới vô nên phải cầm dây cho tụi bạn nhảy. Chúng đang chơi nhảy dây tấc, trò chơi nầy còn được gọi là nhảy cao hay "ông đi qua, bà đi lại". Môn nầy chỉ cần một sợi dây, dây gì cũng được nhưng thường thì tụi nó dùng những sợi dây thun vòng nhỏ, thắt lại với nhau thành một sợi dài chừng ba, bốn thước. Dây thun có độ giãn nên té ít đau, cũng không bị đứt phải mắc công nối hoài như dây khoai, dây chuối. Sợi dây thun nầy được hai đứa đứng đối diện cách nhau độ bốn mét, mỗi đứa nắm một đầu căng ra. 
                Đầu tiên nó được đặt ở cái mức ngang mắc cá chân, tụi nó vừa bước qua vừa đọc:


                Ông đi qua
                Bà đi lại
                Chặt cây hồng
                Trồng cây bông
                Gánh nước tưới bông
                Bông lên cho tốt
                Gánh nước tưới dừa
                Dừa lên cho cao.


                Đọc xong và khi đứa nào cũng nhảy qua giáp lượt, sợi dây được nâng lên đầu gối, rồi lại đọc, rồi nâng dây lên rún, rồi lần lần đến núc áo :Núc một, núc hai, núc ba, núc bốn...Hết núc thì lên vai, miệng, lỗ tai, đầu...Thường thì nhảy tới núc ba là tối đa, đứa nào nhảy tới vai là được tôn thờ y như thần tượng vậy.
                Trong nhóm nầy có một con nhỏ bé choắt, tên Yến có biệt danh là Yến "đèo", nhảy dây phải nói là "thần sầu" luôn. Trước khi nhảy tụi nó hay ấn định cái mức giới hạn, nhảy qua cái mức đó là bắt đầu xuống mức mắc cá chân trở lại. Mức giới hạn của mấy đứa kia là núc ba, với con Yến phải lên tới đầu nó mới chạm dây, cho nên chẳng bao giờ nó bị cầm. Vì vậy khi chơi theo kiểu cứu bồ, đứa nào cũng dành về phe của nó cho bằng được.
                Hồi đó Mít Ướt cứ mong sao mình được như con Yến. Nó nhìn con nhỏ đó nhảy bằng đôi mắt say mê đầy thán phục. Con Yến hay đứng tuốt ngoài xa để chạy lấy đà, chạy theo đường chéo, khi gần đến sợi dây mới tung mình lên, bay phớt qua mặt cái đứa cầm dây rồi hai chân chạm đất một cách thật nhẹ nhàng. Cái động tác ấy, nhanh, gọn giống như ta tung cái miếng ngói trong tay vậy! Thời đó con nít đa số mặc đồ đen để không phải tốn xà bông khi giặt. Yến luôn luôn mặc bộ đồ bà ba bằng vải ú màu đen. Cái cảnh nó nhảy nhìn cũng giống con chim én bay vút lên không rồi đáp xuống.
                Chờ mãi rồi cũng có đứa bị bắt thay cho Mít Ướt. Hai cái đứa cầm dây nháy mắt với nhau. Mít Ướt đang nhảy tới cái mức rún. Ở mức nầy thì nó "dư xăng", nên rất tự tin phóng qua một cái vù. Hai đứa ấy cùng một lúc đưa dây lên cao rồi giật mạnh. Mít Ướt bị vướng giò té cái đụi. Tụi kia vỗ tay cười ré, cả mấy thằng con trai đang chơi de gần đó cũng cười theo...


                Mít Ướt cứ ngồi trên sân mà khóc mãi. Mặc dù té rất đau, nhưng chính những cái vỗ tay, những tiếng reo thích thú ấy mới làm cho nó khóc nhiều đến vậy. Cái tên "Mít Ướt" bắt đầu được khai sinh từ đó.

                 
                Nỗi bất hạnh của Mít Ướt đâu có chịu dừng ngay tại đó. Hết giờ ra chơi thầy ra đứng trước cửa lớp gõ thước vào lon ra hiệu. Tụi nhỏ mãi mê chơi không nghe (ngu gì nghe liền), thầy bèn ngoắc một tên đứng gần nói nhỏ vào tai. Tên nầy liền chạy ra giữa sân, bắt tay làm loa, kêu thật to, thật dài:
                -Vô...giờ...
                Tới chừng đó tụi nó mới chịu kéo nhau vào lớp. Mít Ướt cũng thôi khóc đi lại cái lu để trước hàng ba, lấy cái gáo dừa máng trên cái cọc tre cắm sát một bên múc nước ra để rửa mặt.
                Trường của Mít Ướt nghèo lắm! Không có trống, chuông để báo giờ nên thầy nó phải dùng thước gõ vô cái lon sữa bò đựng phấn. Có lần tụi nó tắm sông thầy đứng trên bờ vừa gõ, vừa gọi chẳng đứa nào thèm nghe. Thầy bèn bưng nguyên một cục đất bự chãng thảy xuống sông cái đùng. Chừng đó tụi nó ngó lên mới thấy thầy, bèn hoảng hồn bơi vô bờ lồm cồm bò lên. Thầy, với cây roi mây trên tay đứng đợi sẵn, hễ đứa nào đi ngang đều bị đét một roi đau quéo đít, vừa chạy, vừa xoa lia lịa...
                Chờ tụi nó ổn định thầy kêu lấy tập ra viết chánh tả. Con Yến quay xuống nói với con Ghết:
                -Mầy cho tao mượn bình mực nghen? Mầy chấm ké nó đi!
                Vừa nói nó vừa chỉ Mít Ướt. Con Ghết vốn rất ghét nó nên lắc đầu nói:
                -Hổng được đâu mầy chấm ké con Thảnh đi!
                -Nó xí tao ra rồi, cho tao mượn đi mà, viết chánh tả xong là tao trả liền hà! Để không thôi tao quay lên quay xuống, thầy mà thấy là hai đứa chết chùm hết đó!
                Tụi nó đi học mỗi đứa đều phải mang theo cái bình mực để xài (cỡ lớp tư trở lên là bắt đầu phải dùng viết mực). Bởi vậy đứa nào tay cũng dính mực tèm lem, có khi cả mặt mày quần áo. Mấy bà má giặt đồ cực quá nên cho tụi nó mặc đồ đen cho đỡ giặt. Cái quần trắng của Mít Ướt, biểu hiện cho cái thói rởm đời làm đứa nào cũng ngứa con mắt.
                Viết mực gồm một cái cán bằng cây dài hơn một gang, phần trên to bằng ngón tay cái, được chuốt nhỏ dần nên phía dưới còn chừng bằng chót đũa, sơn hai màu khác nhau. Phần đầu to phía trên được sơn một đoạn ngắn màu đen, phía dưới dài gấp đôi thường sơn màu khác. Phần cái đầu to có khoét một chỗ để gắn ngòi viết vào. Nếu không có tiền mua cán thì lấy chiếc đũa rồi dùng sợi dây thun ràng cái ngòi vào xài cũng xong.
                Ngòi viết có ba thứ, ngòi viết muỗng, ngạnh và lá tre. Bình mực có hai loại. Một loại làm bằng nhựa hoặc bằng nhôm có nút chặn như cái quặng gắn trên miệng. Khi bị nghiêng hay úp xuống thì mực không đổ ra ngoài. Bình kia thì dùng bất cứ thứ gì có nút đậy chặt là được.
                Mực cho học trò gồm các màu, xanh, tím, đen còn màu đỏ thì thầy cô dùng để cho điểm hoặc sửa bài. Tụi nó còn hái trái mồng tơi để vắt ra làm mực, trái mồng tơi cũng bằng cỡ viên mực có màu tím. Ở thôn quê hầu như nhà nào cũng có một giàn mồng tơi để lấy lá nấu canh ăn cho mát. Cái giàn mồng tơi của bà ngoại Mít Ướt rất tốt, lá xum xê che một khoảng mát rượi bên dưới nên buổi trưa con heo nái hay dắt bầy con của nó đến nằm.
                Bình mực của con Ghết làm bằng cái hủ đựng dầu bôi đầu của ba nó. Vốn không có nút chặn cho nên khi con Yến, miệng nói tay chụp và nó giựt lại thì cái bình liền rơi xuống bàn. Mực bên trong đổ hết ra ngoài, tràn xuống bàn, thấm ướt một phần vạt áo và cả cái quần trắng tinh của Mít Ướt!
                Hôm ấy, khi Mít Ướt đi học về. Má nhìn nó bằng đôi mắt vô cùng thống khổ. Y như một hoạ sỹ nhìn bức tranh mình yêu thích nhất, bị một bàn tay ác ôn nào rạch nát vậy!

                 
                Hôm sau là ngày chủ nhật nên Mít Ướt được nghỉ học. Má nó bảo:
                -Ra cái chỏng ngồi chơi, canh chừng cái ông thợ nhuộm chừng nào ổng đi ngang thì kêu lại cho má.
                Ông ngoại của Mít Ướt có đặt một cái chỏng sát đường để cho bà con ngồi chờ đò. Những người nhà ở xa con đường cái, thường mang rau trái để ké ở đó nhờ bán. Thỉnh thoảng dì Út Nhế mang một rổ bông bí vàng ươm ra nhờ má nó bán giùm. 
                Dì dặn:
                -Có ai mua con lấy giùm dì năm cắc một bó nghe!
                Dì nghèo lắm cho nên hễ ế là má của nó mua hết giùm dì. Hôm đó nhà nó sẽ ăn bông bí nấu canh cá lóc, hoặc luộc chấm nước cá kho. 
                Nói đến cá kho thì má nó là số dzách.
                Con cá lóc được má làm và rửa thật sạch. Cắt thành từng khứa mỏng chừng độ một lóng tay. Ướp củ hành bầm nhuyễn, nước màu, đường, nước mắm vào cá cho ngấm gia vị rồi mới kho.
                Đầu tiên má cho lửa lớn chờ cá sôi bùng lên mới để lửa riu riu. Để nước cá kho có độ sệt má chắt nước cơm vào chừng một chén lưng lưng. Ăn với canh thì má kho cho kẹo lại, còn với rau luộc thì nước hơi sền sệt. Khi khứa cá đã săn và có màu vàng đậm hơn mật ong một chút, má rưới vô một muỗng mỡ nước có lẫn tép mỡ. Cho hành lá, tiêu xay rồi nhắc xuống. Lúc nầy một mùi thơm ngào ngạt tỏa ra làm cồn cào cái bụng. Mít Ướt đánh hơi được liền chạy ào vô bếp, liếc không thấy má là lấy đũa quẹt sát đáy nồi, mút một cái cho đỡ thèm!
                Mít Ướt nghe lời má ra chỏng ngồi. Ở đó đang có hai đứa con gái đang ngồi chơi chuyền chuyền. Nó nhận ra hai đứa nầy nhà ở gần, học cùng lớp và không chơi với nó. Nó ngồi ghé nửa cái mông lên mép chỏng, nhìn tụi đó chơi một cách thèm thuồng. Con nhỏ mặt có cái bớt hơi xanh xanh trên gò má hỏi nó:
                -Chơi hông?
                Nó mừng húm:
                -Chơi!
                Con nhỏ ốm nhom can:
                -Coi chừng con Ghết nó thấy là nó xí tao với mầy ra đó!
                Con nhỏ kia cự lại:
                -Kệ nó chớ, hổng chơi thì thôi thiếu gì đứa. Tao ghét cái kiểu làm má của nó lắm!
                Mít Ướt mừng hết lớn lấy cái túi bắp rang ra đưa cho hai đứa đó rồi nói:
                -Tụi bây ăn hết đi, nhà tao còn nhiều lắm!
                Con nhỏ ốm lắc đầu:
                -Tao ngán bắp thấy bà cố luôn!
                Thế là Mít Ướt đã có được hai đứa bạn đầu tiên, một đứa tên Thẹn, còn đứa kia tên Tíu. Mít Ướt nhìn tụi nó chơi mà phục lăn. Chúng không dùng trái banh lông mà chơi bằng trái ổi. Nhất là con Tíu, hai bàn tay nó chuyền thoăn thắt, thao tác chính xác gọn gàng. Trái hòn( trong môn chơi chuyền chuyền, bất cứ trái gì dùng để chơi đều gọi bằng trái hòn, thường là ổi, vú sữa, cóc, nếu được trái dưa hấu non là ngon nhất) như là cục sắt và lòng bàn tay nó có gắn miếng nam châm vậy! 
                Con Thẹn vụng về hơn. Mỗi lần chuyền điệu bộ nó trông rất ngộ, hai bàn tay xoay đều bó đũa, ngước đầu, căng cổ nhìn theo trái hòn, miệng há to như thể dùng để hứng trong trường hợp bàn tay chụp hụt.
                Mít Ướt thì tệ hết chỗ nói, trước đây nó chơi bằng trái banh lông (banh ten nít), nên cứ quên để trái hòn rơi xuống đất hoài bởi vậy thua bét không hà và bị nẻ mắt cá liên tục. Nó đang chuyền bỗng nghe tiếng trống lùng tùng liền dừng lại, nói với hai đứa kia:
                -Xin tì nhe! 
                Rồi kêu giựt ngược: 
                - Nhuộm đồ, nhuộm đồ! Má ơi có ông thợ nhuộm tới rồi nè!
                Ông thợ nhuộm lái xe có một tay, tay còn lại cầm cái trống nhỏ. Cái trống nầy có cái cán dài chừng gang tay, hai bên có hai cái quai nhỏ xíu cột hai sợi dây, mỗi đầu dây có gắn một hạt tròn bằng gỗ cỡ đầu ngón tay út. Cái tay cầm trống ấy cứ lắc liên tục để hai hạt gỗ chạm vào mặt trống. 
                Nghe tiếng kêu ổng liền thắng chiếc xe đạp lại, gạt chống xuống. Dựng xe cho ngay ngắn xong, ổng rút trong cái bó cũi treo tòn teng ra một que, cho vào cái lò lữa đang cháy leo lét. Cái lò nầy được ràng phía sau xe, cặp sát cái bánh sau, bên trên là cái nồi thuốc nhuộm đang bốc khói. Trước ghi đông có gắn một tấm bảng giấy trên đó có dán những miếng vải màu nhỏ xíu, một cái túi đựng mấy ống thuốc nhuộm treo liền kề.
                Má Mít Ướt xách bộ đô bị dính mực của nó ra. Ông thợ cầm lấy rồi hỏi:
                -Nhuộm màu gì?
                -Màu đen!
                Má nó trả lời một cách thật dứt khoát. Mít Ướt thở ra một cái khì, lòng vô cùng nhẹ nhỏm!

                 
                Sáng thứ hai Mít Ướt dậy thật sớm, mặc cái quần đen vừa mới nhuộm với cái áo màu xanh lục có mấy cái lá bồ đề nằm rải rác. Nó thích cái áo nầy ở chỗ có hai cái túi rất to chứa được tất cả gia tài của nó. Nó cho vào một bên là dây thun, hột ô môi. Bên kia là đồng xu, viên bi trong suốt, hai cây kẹp và một cây kim tây (để phòng hờ trong trường hợp núc áo bị đứt). Nó tự chải đầu rồi không chờ má cho tiền mà đi học liền.
                Mít Ướt chạy qua nhà con Thẹn để rủ như đã hứa. Con Thẹn cũng đang chờ con Tíu. Nó chia cho Mít Ướt nửa cái bánh bò bông đang cầm, thấy con nhỏ nầy ăn một cách ngấu nghiến bèn cho luôn nửa cái còn cầm trên tay. Mít ướt hỏi:
                -Sao mầy hổng ăn đi, ngon lắm!
                Nó lắc đầu:
                -Ngày nào tao cũng ăn, ngán gần chết!
                Con Tíu tới, thế là ba đứa cùng đi. Con Tíu học bài chưa thuộc nên nó mở cuốn tập ra đưa cho con Thẹn dò giùm. Mít Ướt lập công:
                -Đưa đây tao dò cho!
                Con Tíu vừa đưa tập cho nó vừa nói:
                -Chữ nào tao quên mầy hả (hãy) nhắc.
                Nó gật đầu. Con Tíu bắt đầu, chỉ đọc có cái tựa với câu đầu tiên là ngon lành, còn mấy câu sau cứ ngắc nga, ngắc ngứ:

                -Gà mẹ dạy con.
                Cúc, cúc, cúc...con chơi gần mẹ
                Chớ...chớ...chớ...
                Mít Ướt sốt ruột nhắc:" Đi xa nhào té xuống sông"
                Con Tíu cự:
                -Mầy nhắc một chữ thôi!
                Rồi nó đọc tiếp:
                -Lở ...lở...lở...
                Nó nhìn Mít Ướt, con nhỏ nầy bèn nhắc :
                -Ra.
                Con Tíu lại đọc:
                -Lở ra...lở ra...lở ra...
                Nó dừng lại chờ, thấy Mít Ướt làm thinh hoài bèn lấy cùi chỏ thúc vô hông con nhỏ nầy ra dấu thúc giục.
                Mít Ướt nhắc tiếp:
                -Nước.
                Con Tíu ráp ba chữ lại:
                -Lở ra nước...nước...nước...
                Lần nầy Mít Ướt không chờ tín hiệu, thêm liền:
                -Cuốn.
                Con Tíu lại thêm vô một chữ nữa, rồi nó cứ đọc lấp vấp hoài. Mít Ướt cự:
                -Mầy học vậy chừng nào mới thuộc, thôi mầy đọc theo tao nè!
                Rồi nó xếp tập đưa lại cho con Tíu, đọc từng câu cho con nhỏ nầy lập lại:

                Gà mẹ dạy con

                Cúc cúc cúc , con chơi gần mẹ
                Chớ đi xa nhào té xuống sông
                Lỡ ra nước cuốn theo dòng
                Thiệt thân con trẻ, đau lòng mẹ cha.

                Cúc cúc cúc, cáo già, mèo đói
                Với những phường chó sói diều hâu
                Nếu không nhờ mẹ lo âu
                Miệng hùm nọc rắn còn đâu thân nầy.

                Mít Ướt đọc trơn tru, con Tíu cũng lập lại từng câu suông sẽ. Phương pháp nầy vô cùng hiệu quả. Khi tụi nó đến trường thì con Tíu cũng vừa thuộc xong cái bài học thuộc lòng ấy và đọc lại mình ên rót rót.
                Hên làm sao ! Hôm đó thầy lại kêu con Tíu trả bài. Nó đọc trơn tru như húp cháo nên được thầy cho tám điểm, số điểm mà từ trước tới giờ nó chưa bao giờ vói tới. Thế là nó bắt đầu dành cho Mít Ướt một mối cảm tình hết sức là đặc biệt, pha thêm chút xíu kính nể!
                Kể từ hôm ấy cuộc đời của Mít Ướt dần thay đổi. Nó bắt đầu tạo được uy tín trong đám bạn bè, được tham dự hầu hết các trò chơi. Thậm chí có lần nó kẹp lại hai con bướm lên đầu mà chẳng bị đứa nào chọc quê, còn xúm nhau khen đẹp.

                 
                Vậy là Mít Ướt đã vô cùng mãn ý vì được mọi người đón nhận. Chỉ còn một đứa vẫn cương quyết không thèm chơi với nó, đó chính là con Ghết, con nhỏ em cô cậu ruột, nó ghét Mít Ướt vì một lý do duy nhất : Ông ngoại .
                Ông ngoại của Mít Ướt, cũng là ông nội của con Ghết, là thần tượng trong lòng của chúng nó.
                Tụi nó thương và hết lòng kính sợ ông. Hễ đứa nào phạm lỗi, thì đứa kia sẽ nói:
                -Tao về, tao mét ông nội [hay ngoại] cho mầy coi!
                Thế là cái đứa kia sợ đến xanh mặt và theo năn nỉ miết.
                Ông ngoại của Mít Ướt thương nó nhất trong đám cháu, tình thương ấy xuất phát từ nỗi bất hạnh của nó. Mít Ướt chỉ được ba bồng có một lần, cho nên ông muốn bù đắp cho nó cái hao hụt quá đỗi lớn lao đó.
                Ông là người ráng kiên nhẫn bắt cho được chuồn chuồn, năn nỉ cho đến khi nó chịu cho cắn rún để học lội cho nhanh. Rút cây lông nhím từ trên cái búi tóc củ tỏi xuống để lể cây dầm đâm vào ngón tay của nó. Vào mỗi buổi chiều, ông xăn quần chạy theo kềm cái yên xe đòn giông cho thật vững để tập nó chạy xe đạp. Cái răng lung lay đầu tiên đã được ông nhổ trong lúc nó đang nằm võng ngủ. Ông làm cái thòng lọng bằng sợi chỉ trắng, tròng vô cái răng, cầm một đầu dây rồi đưa mạnh cái võng. Cái răng bị kéo ra ngoài mà nó chưa kịp nghe đau.
                Hồi nhà nó còn ở Châu Đốc, cứ vài tuần ông lại qua thăm mẹ con nó một lần. Ông hay mặc bộ đồ bà ba đen, cầm cây dù cũng màu đen, trên đầu cột chiếc khăn màu trắng có sọc xanh, luôn xách theo một cái bao đựng gạo, một xâu khô cá lóc cùng bó đọt sầu đâu cho má nó trộn gỏi.
                Mít Ướt đi học về thấy ông là mừng hết lớn chạy lại ôm ông liền. Nó biết rằng hôm nay mâm cơm nhà nó sẽ hết sức thịnh soạn. Nó sẽ được ăn ké những món mà ông ưa thích như: Cá rô mề nướng chan mỡ hành và nước mắm tỏi ớt, thịt gà rô ti ăn với cơm nếp, tôm kho tàu...
                Ông bị đau bao tử cho nên thích ăn cơm nhão. Bà ngoại, má, dì của Mít Ướt đều biết cách nấu cơm với hai thứ khô và nhão chung trong cùng một cái nồi. Để nấu cách nầy má nó phải chắt nước nồi cơm không cho ráo hết, nghiêng nồi cho nước chảy về một phía để có cơm nhão cho ông. Má nó thương ông nhiều lắm nên lần nào ông qua thăm, má cũng sai chị Hai xách tô đi xuống tận rạp hát Tân Việt mua bún nem nướng, thịt nướng, chả giò về đãi ông. Ông rất thích xem chiếu bóng và cải lương. Hễ có ông là Mít Ướt học bài rất sớm rồi xin má cho đi theo ông xem hát.
                Ở Châu Đốc có hai rạp hát, rạp Lạc Thanh chỉ chiếu phim, nhất là phim Ấn Độ, còn rạp Tân Việt cũng chiếu phim nhưng khi có gánh hát về thì diễn cải lương.
                Lần đầu Mít Ướt được ông dẫn đi xem cải lương, đó là vở "Mắt em là bể oan cừu". Đến bây giờ nó còn nhớ cái câu "Ngọc Hà ơi ! mắt nàng đã gây lên sóng gió...", với cái giọng ngâm hết sức sầu thảm của kép chánh ÚT TRÀ ÔN!
                Mỗi lần có gánh hát về, sẽ có những chiếc xe đi rao khắp đường cho mọi người được biết. Gánh giàu thì đi bằng xe hơi, gánh trung bình thì xe lam, còn mấy gánh nghèo thì xe lôi với cái trống to đùng và hai người ngồi trên đó. Một người đánh trống liên tục còn người kia cầm cái "Ô bẹt lưa" vừa nói tía lia vừa phát tờ " chương trình" cho người lớn và mấy đứa con nít. Họ vừa đuổi theo xe vừa chìa tay ra xin.
                Hễ có ông ngoại qua là Mít Ướt được ông dắt đi xem hát. Lần tiên khi đi cùng ông đến rạp, tim nó cứ đập rộn ràng. Trước rạp hát có rất nhiều người chen chúc. Những người bán vé chợ đen, họ mua những vé thượng hạng, hạng nhất để bán cho những người khá giả (mấy người nầy không thích xếp hàng). Họ cứ phe phẩy mấy tấm vé trên tay xán lại mời chào những người ăn mặc đẹp. Người nghèo hơn thì nối đuôi nhau trước phòng bán vé để mua các vé hạng " cá kèo". Hai ông cháu của Mít Ướt cũng chen vào. Ông chỉ mua một vé mà thôi ! Nó còn nhỏ được cho coi cọp và được ngồi trong lòng ông suốt buổi.
                Vào trong rạp rồi nó lại càng thêm hồi hộp, choáng ngợp trước tấm màn nhung đỏ được phủ dài chạm đất, với những tấm rèm kết ren tua tủa. Một nhóm nhạc công ngồi dưới đất trước mặt sân khấu chơi những bản nhạc thịnh hành hồi đó như "Những đồi hoa sim, Đồi thông hai mộ, Hàn mặc tử...". Khách xem chưa đến đủ, chiếc ghế bên cạnh không có ai ngồi nên ông ngoại cho nó ngồi ké. Đó là những cái ghế tự xếp mỗi khi khách đứng lên, nên có khuynh hướng ngã về phía sau. Ông ngoại chưa kịp dặn là nó đã thót lên ngồi, cái ghế lập tức bật ngược, mông nó rơi xuống gần chạm đất. Hai cánh tay, ống chân còn mắc kẹt chổng lên trời và quơ lia quơ lịa. Mấy chú xếp ghế chạy vội lại. Một người kéo, một người đẩy để giúp nó thoát khỏi tình trạng hết sức hiểm nghèo ấy. Thế là ông ngoại bèn đặt nó ngồi trong lòng cho chắc ăn, xoa cái lưng còn đau cho nó...
                Rồi tất cả ánh đèn nê ông trong rạp đồng loạt tắt ngấm, một điệu nhạc mở màn vang lên. Nó nhìn như thôi miên vào tấm màn nhung đang từ từ hé rộng. Có một cái gì từ đáy lòng nó trổi dậy như con sóng lớn, buộc nó phải há miệng ngước cổ để phóng thích cái năng lượng dữ dội ấy ra ngoài. Nếu nó không làm như vậy chắc sẽ bị vỡ ngực mà chết!
                Cái cảm giác của lần đầu xem hát ấy đã để lại trong lòng nó một cảm xúc quá lớn lao, quá sâu đậm. Như thể một cơn địa chấn vô cùng dữ dội, làm xáo trộn, phá hủy mọi thứ đồng thời cũng hình thành các cơ cấu mới. Cái năng lượng quá mãnh liệt ấy, vẫn được lưu giữ mãi trong lòng đất, hễ có dịp là lại tác oai tác quái!

                 
                Bắt nguồn từ tình thương dành cho ông, tính cách, sở thích của Mít Ướt cũng dần giống ông từng chút một. Nó nghe lời ông răm rấp.
                Nó cũng khoái ăn xôi gà, kẹo đậu phọng, kẹo bánh tráng, mè xửng...Chỉ có cái món cơm nhão là nuốt hổng trôi. Cũng thích đoàn cải lương THANH MINH THANH NGA, cùng cặp đào kép chánh THANH NGA-HỮU PHƯỚC của đoàn hát đó. Tánh tâm hơ tâm hất nên ăn cơm hay làm đổ, một hôm ông bảo nó:
                -Con ăn cơm đổ như vầy là má con bị tội dữ lắm! Cứ một hột cơm con làm rớt là má con phải ăn một con giòi ở dưới âm phủ.
                -Sao con làm đổ cơm mà má con phải ăn giòi vậy ông? Nó ngạc nhiên.
                -Tại vì con còn nhỏ, chưa đủ mười hai tuổi nên má con phải gánh hết tội cho con! Con nghĩ coi, tụi con ngày nào cũng làm rơi rớt cơm như vầy thì má con phải ăn bao nhiêu giòi cho đủ đây?
                Từ đó nó cẩn thận hơn, cơm không còn rơi ra ngoài và ăn xong là vét cái chén sạch bách.
                Những lần ghé thăm của ông chỉ kéo dài chừng hai, ba ngày là tối đa. Ông không nỡ bỏ bà và dì ở nhà một mình vì biết thiếu ông hai người sẽ buồn lắm. Ông lựa lúc Mít ướt đi học mà về để nó không khóc. Làm sao mà tránh cho được, chỉ là ông không thấy đó thôi! Nó đi học về, chưa vào tới nhà đã kêu to:
                -Ông ngoại ơi! ông ngoại...
                Má nó chặn ngang:
                -Ông ngoại về rồi!
                Thế là nó khóc liền tại chỗ. Má nó thấy vậy tội nghiệp, bèn đi mua một ổ bánh mì pa tê về để an ủi nó.
                Bãi trường được nghỉ học, má cho về ở với ngoại suốt ba tháng ấy. Nó ngóng đợi mùa hè ngay từ buổi tựu trường, để được ở gần một bên, được lẽo đẽo theo ông khắp nơi. Thậm chí đến nhà bạn mượn sách, ông cũng dắt nó theo cùng.
                Ông hào hứng tham dự tất cả các trò chơi với nó. Ông làm rất nhiều đồ chơi: Lấy hai cái lon chao rổng, xỏ sợi dây vào cho nó đi trên đó. Làm bộ gióng gánh và đương mấy cái thúng, cái sàng, cái rổ... nhỏ xíu cho nó chơi bán hàng.
                Ngay từ thuở đó nó đã ý thức được rằng ông là báu vật trời cho nên hết sức trân trọng. Nó không dám làm cho ông phật ý. Điều gì ông rầy một lần là nó không bao giờ tái phạm. Cũng không dám quấy rầy trong những giờ phút thiêng liêng khi ông cúng lạy. Những lúc đó nó chấp tay đứng sau lưng ông, hành lễ rập khuôn theo ông. Hễ ông xá là nó xá, ông lạy là nó lạy, ông xoay hướng nào là nó xoay theo hướng ấy, một cách im ru không để ông kinh động. Thậm chí muỗi cắn cũng không dám đập, không dám gãi. 
                Cúng xong ông lại ngồi thiền trên cái bộ ngựa giữa nhà. Nó ngồi xa ông một chút, cũng xếp bằng và khép mắt lại, thỉnh thoảng hé ra xem ông xong chưa? Ông vừa đứng lên cởi bỏ cái áo choàng màu nâu ra là nó nhào lại liền. Bắt ông nằm úp mặt xuống trên cái bộ ngựa vừa ngồi thiền để đấm lưng cho ông, bẻ từng lóng tay lóng chân của ông cho nghe tiếng " rắc rắc". Hôm nào mà bẻ cái ngón chân út bị cá nóc cắn cụt hết một lóng của ông kêu to là nó mừng hết lớn.
                Hồi đó nó hay bị đòn vì cái tội đái dầm. Ông thấy vậy bèn cho nó ngủ chung. Dì Bảy cản:
                -Nó mà ngủ với cậu [dì Bảy, cậu Út, cậu Sáu và má Mít Ướt đều gọi ông là cậu, ba người con gái đầu tiên, chị của má Mít Ướt, đều chết cùng một năm, cho nên ông bán khoán mấy đứa con sau nầy cho người khác], thì làm sao mà giặt drap, phơi nệm cho xuể!
                Ông ngoại cương quyết:
                -Không sao đâu, bây cứ để nó ngủ với cậu! 
                Vậy là nó được nằm ngủ trên tấm drap bằng sa ten trắng tinh. Cứ nửa đêm ông ngoại lại kêu nó dậy, nhờ đó mà nó xử tiêu luôn cái tật xấu đó!
                Ông của Mít Ướt hết sức giàu lòng thương. Ông thương hết thảy: con cháu, họ hàng, lối xóm, cả đất đai và hoa cỏ nữa.
                Cuộc sống của ông êm đềm như dòng chảy của con sông trước mặt. Mỗi buổi sáng ăn cơm xong ông ra đồng, nếu xa, ông không về nhà ăn cơm trưa. Bà hoặc dì Bảy sẽ mang cơm ra. Mít Ướt cũng xin đi theo cho bằng được. Cơm mang ra đồng hầu như chỉ có cá kho hoặc mắm chưng, các món khô và gọn để không bị đổ. Trông thấy họ ông sẽ dừng tay, đi lại ngồi dưới bóng mát cây Gáo, mở cơm ra rồi hỏi Mít Ướt:
                -Ăn hông con?
                Nó liếc nhìn dì hoặc bà rồi gật đầu một cách lén lút, vậy mà cũng bị thấy và bị rầy:
                -Về nhà ăn, cơm đem theo đủ cho mình ên ông thôi!
                Ông bới cơm ra chén, rẻ [rỉa] một miếng cá kho, gắp thêm một đũa cơm rồi đút cho nó. Ông lấy từ túi áo ra một trái dưa leo còn dính đầy lông tơ và cái cuống hãy còn chảy nhựa, chùi sơ rồi đưa cho. Nó há miệng thật to, cắn nghe một cái "rốp"... Ôi! cái miếng cơm ấy, sao mà ngon lạ ngon lùng!
                Ăn cơm xong nó năn nỉ để được ở lại với ông, hiếm hoi lắm mới được cho phép. Để tỏ ra có ích, nó ngồi quạt cho ông chợp mắt. Nhìn cái bóng nắng từ cây gáo đổ xuống di chuyển rất chậm, từ vai lan đến cánh tay của ông. Nó nằm kế một bên ông, cũng gối đầu trên hai bàn tay đan lại và nhìn lên trời, trong lòng nó một cảm giác bềnh bồng như những đám mây trắng trên cao. Cảm giác ấy mãi sau nầy nó mới biết có tên là hạnh phúc.
                Ông ngoại cần thiết cho nó như thế đó! Vậy mà ông nỡ bỏ nó mà đi!

                 
                 
                (tiếp CHƯƠNG BA)
                 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 17:46:17 bởi Lâm Du Yên >
                #8
                  Lâm Du Yên 05.09.2019 09:54:11 (permalink)
                  MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI 
                      
                  CHƯƠNG MỘT

                  Hồi đó Hai Ốm, Mít Ướt và một đứa bạn nữa: "Cứt Mũi " rất là thân nhau, do điều kiện địa lý, nhân văn rất ư thuận lợi. 


                  Nhà của ba đứa nằm gần sát nhau. Tính từ bờ sông vào là nhà của Cứt Mũi, Mít Ướt rồi tới Hai Ốm. Tụi nó lại bằng chan tuổi nhau, nên không thân mới là chuyện lạ.
                  Cả ba đứa đều không hài lòng với cái "con nít nem" của mình, nhất là Cứt Mũi vì nó vạch ra một cố tật mà nó không bỏ được, đó là mê ăn cứt mũi.
                  Con nít hồi xưa (và ngay cả bây giờ) đều khoái ăn cứt mũi của chính mình, có điều khi lớn lên ý thức được đó là một điều vô cùng "tội lỗi" nên đều dần dần từ bỏ. Chỉ có con Thẹn là vẫn kiên cường nuôi dưỡng niềm đam mê của mình cho tới khi đi học.
                  Có một lần nó lên bảng làm toán, bài toán cũng hơi khó nó phải suy nghĩ thật lâu mới làm xong. Để thưởng cho mình nó liền móc cứt mũi ăn liền tại chỗ. Cái tên "Cứt Mũi" khai sinh ngay từ lúc đó.


                  Hai Ốm thì nói thật nó ốm còn hơn cái tên, má nó lại cứ cho nó mặc cái áo tay ngắn màu đen nên trông càng thảm hại. Má nó đẻ năm một nên bao giờ bên nách nó cũng đèo theo một đứa em, có khi còn nặng hơn nó nữa.


                  Mít Ướt roi roi, không mập, không ốm, không mê ăn cứt mũi có điều nó hay khóc dữ quá! Ngay từ lúc mới lọt lòng nó đã biết nước mắt là một công cụ vô cùng lợi hại, cho nên sử dụng mọi lúc mọi nơi: Không cho chơi chung vì đã đủ người là nó khóc, chơi thua nó khóc, thậm chí chơi ăn gian bị phát hiện nó cũng khóc. Vì vậy phải nói trong ba đứa nó là cái con ma lanh nhứt, đứa nào cũng bị nó khuất phục. Chỉ có một người không bao giờ bị nó lung lạc đó là má nó. Cái đòn nầy một vài lần còn phản tác dụng, có khi ngoài số roi nó chịu vì cái tội nào đó. Má nó còn khuyến mãi thêm vài roi bởi cái tội chưa đánh mà đã bù lu bù loa.


                  Mỗi lần Cứt Mũi được má nó sai ra đồng, đi ngang qua nhà Mít Ướt là nó kêu "Ướt ơi!". Mít Ướt lật đật vọt ra, hai đứa nó đi tiếp, ngang nhà Hai Ốm hai đứa cùng kêu "Ốm ơi!". Hai Ốm, với đứa em kè kè bên nách cũng phóng ra đáp lời sông núi liền.


                  Trong ba đứa Mít Ướt sướng nhất vì là con gái út còn Cứt Mũi và Hai Ốm đều làm chị hai. Hai Ốm cực hơn vì đông em hơn, tuy nhiên Mít Ướt lại bị đòn nhiều hơn hai đứa kia vì nó mê chơi dữ quá! Cũng bị rầy nhiều hơn, nhất là cái câu "khôn nhà, dại chợ" thì ngày nào nó cũng bị nghe. Má nó ít khi nào sai nó làm cái gì mà nó không nhăn nhó, còn lại nhà hai con bạn thì nó làm ào ào dù không ai mượn để hai đứa kia có thời giờ rãnh chơi cùng.


                  Thuở ấy trò chơi nhiều vô kể, tụi nó không bao giờ cảm thấy thỏa mãn và khi đang chơi mà nghe tiếng tía, má gọi là đâu có chịu lên tiếng liền. Chờ ổng bả xách roi mới ba chân bốn cẳng vọt về, không quên chỉ định ngay một đứa thay thế mình "chơi giùm tao nghe, chút xíu tao ra". Đó cũng là nguyên nhân của những trận đòn vì cơm khét, em té, bể tô bể tộ hoặc quét nhà không sạch, đi liền ngay sau đó.


                  Thân nhau là vậy mà hể đứa nầy ăn đòn là bị hai đứa kia bu coi và trêu chọc dù thật sự không cảm thấy sung sướng bằng cái lúc nhìn mấy đứa khác bị đòn. Điều nầy là nguyên nhân chính cho những lần "bo xì", nghỉ chơi của tụi nó. Cũng may là những cuộc hờn giận nầy qua rất nhanh. Chỉ cần một cái bánh, cục kẹo hay khúc mía là nhịp cầu gãy đổ ấy được nối lại một cách rất ngọt ngào.


                  Chỉ có một lần Mít Ướt giận Hai Ốm đến mấy ngày. Chẳng là trên đường cộ dưới cái gốc cây ô môi có một cái miếu. Hồi trước có một cô gái thất tình treo cổ trên cây ô môi tự vận. Cái miếu ấy được gọi theo tên của cổ:" Miếu cô Mười" nghe nói rất linh thiêng. Người trong làng hay đến cầu khấn khi gặp rắc rối hoặc xin số đề. Lúc nào cũng có chè, xôi hoặc một nải chuối của ai đó cúng trả lể. Mỗi lần ba đứa đi ngang qua miễu, đứa nào cũng giành đi chính giữa và đứa nào cũng không chịu là mình nhát gan hơn hai đứa còn lại. 


                  Hôm ấy Hai Ốm và Mít Ướt đi hái rau muống cho heo ăn về ngang qua đó. Hai Ốm thách Mít Ướt dám đứng lại mà sờ nải chuối đang để trước bài vị. Nải chuối của ai vừa dâng cúng, ba cây nhang còn đang tỏa khói. Thấy thách suông không mấy công hiệu. Hai Ốm bèn kèm thêm cái phần thưởng là chiếc cà rá giả mà nó đang đeo, có được nhờ một lần chơi bắt số trúng. 


                  Con nít trong xóm mê trò bắt số nhứt hạng. Mỗi ngày ông bác cụt một tay hay đẩy một chiếc xe đạp treo đầy những tấm bìa cứng, trên đó có cột mấy món đồ chơi như súng, xe hơi, máy bay dành cho con trai và cúp bế, cà rá, dây chuyền để cho con gái. Dưới mấy cái món đồ chơi ấy là những miếng giấy xếp thành hình tam giác không hoặc có ghi một con số nào đó. Nếu may mắn tờ giấy có ghi số có nghĩa là trúng thưởng thì sẽ được món quà có ghi số giống y như vậy. Nếu không, đành phải bằng lòng với cái miếng khô bò nhỏ xíu, mỏng lét được dán dính kèm theo tờ vé số. 


                  Ba đứa nó đều để dành tiền để mua mấy tờ giấy ấy. Mục tiêu mà cả ba đều vươn tới là con "cúp bế" bằng nhựa bự bằng trái bí đao có thể mở mắt ra và nhắm lại được. Kết quả chỉ có vé của Hai Ốm có số, nhưng không trúng cái giải nhứt là con" cúp bế", mà trúng chiếc cà rá có màu vàng chóe với cái hột bằng nhựa trong suốt to cỡ hột bắp màu tím.


                  Thế là Mít Ướt bặm môi, nhón chân bước vào lấy ngón tay trỏ chọt vào nải chuối một cái rồi chạy ù ra nhanh như tên bắn. Hai Ốm không cho chiếc cà rá như đã hứa, mà còn mét má của Mít Ướt, khiến Mít Ướt bị một trận đòn vô cùng thê thảm.

                   
                  Trong ba đứa nó con Thẹn là hiền nhất, ba má nó tử tế nhất, nhà nó có nhiều đồ chơi nhất nên Mít Ướt hay cà rà ở đó lâu nhất. 

                  Má con Thẹn đổ bánh bò bông rất khéo, cái bánh trắng tinh thơm, ngọt, mềm và xốp. Má nó cho bột gạo đã để lên men qua một đêm, múc vào mấy cái chung nhỏ, gác hai cái tăm tre thành hình chữ thập trên miệng chén rồi đem đi hấp. Khi bánh chín trên mặt có hình như cái cái bông bốn cánh nở bung rất đẹp. Sáng nào má nó cũng đi bán bánh thật sớm, khoảng nắng lên me mé ngọn dừa là về nhà.


                  Mít Ướt không đi học được má cho năm cắc bạc, còn đi học thì được một đồng. Nó ăn sáng khi thì một tô bánh canh cá lóc, khi thì bánh mì thịt khìa, nhưng cái món mà nó ưa nhất là bánh tầm bì nước cốt dừa. Bữa nào định mua món gì phải để dành tiền, hoặc hứng lên muốn ăn cơm nguội thì nó bới một tô ăn với cục đường thẻ, cá kho còn lại của ngày hôm qua hoặc dưa mắm. Hôm nào có ba khía từ chiều qua còn lại, nó mà dậy trễ là nồi cơm sạch bách, phải xách tô chạy qua nhà con Thẹn, hay Hai Ốm xin. Ăn xong là bỏ giò chạy qua nhà con Thẹn liền, ở miết cho tới khi má nó kêu mới chịu về! Hai Ốm cũng lùa mấy đứa em nó ra đó.


                  Ba đứa nó xáp lại là chơi đủ thứ, môn nầy chán thì nhảy qua môn khác. Mấy đứa em của con Thẹn cũng khoái mấy đứa em hai Ốm lắm ! Nhờ vậy mà đỡ phải chăn tụi nó. Bữa nào gặp hên, má con Thẹn bán ế, bánh còn thì thế nào mỗi đứa cũng được một cái. Có khi con Thẹn đưa thêm cho nó một cái rồi nói:
                  -Mầy ăn giùm tao luôn đi, tao ngán quá xá!
                  Má con Thẹn có cái tật hay la rầy chớ cưng con dữ lắm! Con Thẹn có bộ đồ chơi bằng nhôm nhỏ xíu mà con nít trong xóm đứa nào cũng mê. Má nó bán bánh ở chợ Tân Phú, ngồi kế bà bán đồ chơi. Mỗi lần bán ế hay đổi bánh lấy đồ chơi về cho mấy chị em nó, nên nhà của con Thẹn, trong mắt của Mít Ướt, y như chốn thiên đường vậy!
                  Ba con Thẹn chạy xe lôi, sáng sớm đưa má nó đi bán rồi chở bà con đi chợ. Chiều nào ba nó cũng chở mấy chị em nó đi chơi một vòng. Tụi con nít bu theo đầy nhóc, Mít Ướt, Hai Ốm kèm thêm hai đứa em của nó và ba chị em con Thẹn ngồi trên xe. Mấy đứa con trai đu theo phía sau. Mấy đứa khác cũng chạy bộ theo hộ tống, miệng kêu "ghê ghịch, ghê ghịch" không ngớt.


                  Ba con Thẹn được mấy đứa con nít trong xóm ái mộ dữ lắm! Mỗi lần thấy ổng chạy xe ngang là tụi nó kêu:
                  -Bác Hai ơi!
                  Ổng, cho dù có mệt cũng ráng trả lời:
                  -Ơi con!
                  Một lần ba con Thẹn trúng vé số kiến thiết [ba nó tuần nào cũng mua một tờ vé số]. Hễ đến bốn giờ chiều ngày thứ ba, trên "la dô" bắt đầu phát tiếng ca của ông Trần văn Trạch :"Kiến thiết quốc gia giúp đồng bào ta mua lấy xe nhà, giàu sang mấy hồi...", là ba nó móc tờ vé số ra ngồi dò chăm chú. Lần đó ba nó trúng đâu mấy trăm hay mấy ngàn gì đó. Thế là ba nó chở hết cả bọn lên chợ Tân Phú mua cho mỗi đứa một cái bánh bao. Làm con Thẹn nở mày, nở mặt với cái đám bạn quá cỡ thợ mộc luôn.


                  Má Hai Ốm thì khó hơn nhiều. Mỗi lần Mít Ướt lại chơi là Hai Ốm hay bị má nó la. Má Hai Ốm chửi con sa sả tối ngày, ít đánh [vì mắc làm không hở tay] nhưng cứ vừa làm vừa chửi:
                  -Cái con hà bá ngũ vị kia, sao mầy để em té vậy hả?
                  -Đồ cái thứ làm biếng nhớt thây!
                  -Cái con sút xiềng...
                  -Cái con hàng nàm...
                  Bởi vậy Hai Ốm cứ nơm nớp lo, cho nên dù có ăn bao nhiêu [nó ăn cơm rất nhiều, một tộ đầy nhóc] cũng không thể nào mập nổi. 
                  Mít Ướt sợ má Hai Ốm còn hơn má nó nữa. Nghe Hai Ốm bị chửi là nó không dám ló cái mặt vô, cho dù có chuyện cần kíp cũng chỉ dám đứng ngoài vách mà tróc lưỡi ra hiệu cho Hai Ốm. Vậy mà cũng bị bả phát hiện rồi bị chửi lây. Nhưng cũng có khi má nó vô cùng tử tế. Mít Ướt đang đứng xớ rớ bên ngoài thì được bà ngoắc, biểu nó vô nhà chơi. Đó là khi bà cần người lảy bắp. Mít Ướt vừa vào là bà bưng ra thêm một thúng bắp trái đã phơi khô đang treo đầy giàn bếp, rồi ra lịnh cho Hai Ốm:
                  -Lảy hết rồi mới được đi chơi!
                  Thế là hai đứa ngồi còng lưng mà lảy cho tới xế, vừa xong chưa kịp đi là nghe tiếng má Mít Ướt gọi nó về ăn cơm. Mít Ướt tiếc hùi hụi, thiệt là uổng cái công làm "chùa" cho má Hai Ốm.
                  Má Hai Ốm cũng bán bắp hầm, nhưng không có chơi đẹp như má con Thẹn. Mỗi lần bà bán ế thấy nó qua chơi là dụ. Lúc nầy bà nói bằng cái giọng ngọt xớt:
                  -Về xin tiền má qua mua bắp ăn đi con! Mợ bán rẻ cho.
                  Mít Ướt lật đật chạy về nhà, năn nỉ má cho đến khi lấy được mấy cắc bạc mới đâm đầu chạy qua nhà Hai Ốm, xách về một gói bắp hầm bự tổ chảng trét đầy nhóc tấm lá chuối, ăn tới ứ hự luôn!

                   
                  Ba Hai Ốm hiền lắm, hổng chừng hiền nhứt xóm luôn. Ai cũng kêu ba nó bằng "Tư Đờn", không biết đó là cái tên thiệt hay do cái tài đờn của ba nó. Ba nó chẳng những đờn giỏi mà hát còn hay nhất xóm nữa. Hễ có mặt ba nó là bà con trong xóm tới đông đủ để nghe ba nó hát. Má của Mít Ướt mà còn khen thì nói chi ai. Bản ruột của ba nó là bài vọng cổ "Trái khổ qua". Lần nào ba nó cũng được yêu cầu ca bản đó! Có khi ca đi ca lại tới hai, ba lần. Mỗi lần ổng tằng hắng rồi bắt đầu nói lối là Mít Ướt nổi da gà:
                  -"Tôi với em hai người cùng một xóm
                  Nhà của em có trồng đám khổ qua
                  Mỗi bình minh còn nặng giọt sương sa
                  Tôi đứng ngắm cánh tay ngà em tưới nước..."
                  Rồi ổng rướn đến nổi gân cổ để bắt đầu vô sáu câu:
                  "Dây khổ qua nhụy vàng bông trắng, trái khổ qua tuy đắng nhưng đượm thắm ân ...tình!". Bà con như nén chờ từ nãy giờ, ổng vừa xuống giọng là ráp nhau vổ tay rần rần, có người còn chắt lưỡi hít hà. Cho đến nổi ông Bảy Đởm phải buột miệng:


                  -Tao mà có đủ tiền là lập gánh cho thằng Tư mầy làm kép chánh liền! Hát như vầy đâu có thua TẤN TÀI, MINH CẢNH, ÚT TRÀ ÔN !
                  Lạ một điều là má Hai Ốm chẳng bao giờ thèm đến nghe. Hễ ai mang điều đó ra khen ngợi trước mặt má nó thì bả chỉ thở dài một cách vô cùng ai oán!
                  Cái tài đó là niềm hãnh diện và luôn cả nỗi bất hạnh của Hai Ốm nữa. Mỗi khi trong xóm có đám, để cho xôm tụ bà con hay mời ba nó đến giúp vui. Thường những cuộc đờn ca hay kéo dài từ đầu hôm đến quá nửa đêm, rồi sau đó gia chủ sẽ đãi nhóm tài tử một nồi cháo gà với một bình rượu Vĩnh phong Long. Ai cũng nhậu thả giàn có khi ngủ luôn tại chỗ. Mười lần như một, đến sáng ra là nghe tiếng tiếng má nó tru tréo om sòm. Hai Ốm lật đật đi kêu ba nó dậy. Ba nó mắt nhắm, mắt mở sai nó về lấy giùm cây cuốc rồi dông tuốt vô đồng luôn chớ không dám ghé nhà ăn ba hột cơm dằn bụng. Ba nó đi rồi má nó quay qua trút giận lên đầu của mấy chị em nó. Cái tính ăn hiếp chồng của má nó là đề tài của những câu chuyện vui trong xóm. Ba nó bị chọc dữ lắm nhưng ổng cứ cười hề hề.
                  Sau nầy Mít Ướt mới biết ba nó sợ má nó cũng có lý do:
                  Ba má của Hai Ốm không phải là người có gốc gác ở đây mà từ nơi khác đến. Nghe nói má Hai Ốm là con nhà bá hộ ở miệt Cà Mau, mê tài đờn ca của ba nó nên xách gói đi theo vì ông bà ngoại nó nhất định không gả. Má Hai Ốm nuôi giấc mơ chừng nào giàu có sẽ về nhà để tạ lỗi với gia đình và ở lại quê hương. Thế nhưng nhà nó cứ nghèo hoài nên giấc mơ ấy chưa được thực hiện. Vì vậy mà má nó ít khi cười, hay gắt gỏng, la rầy chồng con như cơm bữa.
                  Có lần Mít ướt hỏi Hai Ốm:
                  -Sao má mầy la mầy hoài vậy, bộ bả hổng thương mầy sao?
                  Hai Ốm đáp bằng cái giọng buồn thiu:
                  -Tao cũng hổng biết nữa!
                  Nhưng rồi xảy ra một chuyện xua tan nỗi nghi ngờ trong lòng hai đứa nó.
                  Hôm ấy vào buổi trưa Mít Ướt đang thiu thiu ngủ bỗng bị má nó lôi dậy, vừa kéo hai cánh tay nó má nó vừa hét:
                  -Dậy lẹ lên, cháy nhà!
                  Nó tỉnh ngủ liền chạy ra khỏi nhà thì thấy bên nhà của Hai Ốm khói đang túa ra nghi ngút, mọi người trong xóm đang ráp nhau chữa lửa. Mấy người đàn ông chuyền những thùng nước do mấy người phụ nữ gánh cho những người đứng trên thang tưới vô đám lửa. Số khác đang xúc phân bò trong chiếc xe bò đậu sát đó thảy vô lửa ào ào để dập tắt nó. Cậu của Mít Ướt ra sức khởi động cái máy bơm để bơm nước từ sông lên. Vì gấp gáp hay vì cái máy quá cũ nên nó cứ kêu lạch bạch mấy tiếng rồi im luôn. Mít Ướt nghe má nó khấn to:
                  -Vái ông địa, ông làng cho cái máy bơm nó chạy được con cúng một nải chuối!
                  Thiệt là linh nghiệm, má nó vừa dứt tiếng là cái máy nổ giòn liền. Thế là cái vòi bắn tung nước lên cao rồi phủ xuống mái nhà và đám lửa từ từ dập tắt. Cái mái nhà sau nơi đặt bếp lò cháy rụi còn cái mái trước cháy một nửa. Cậu của Mít Ướt cứ tưới hoài, tưới hoài cho đến khi nước tràn linh láng không còn một chút khói nào ổng mới chịu tắt máy. 
                  Tội nghiệp cho má của Mít Ướt, bà vừa lôi được cái tủ thờ (món có giá trị nhất trong nhà) ra sân. Giờ thì vừa thở hổn hển, vừa ngán ngẫm nghĩ tới việc rinh nó về chỗ cũ.
                  Không biết ai chạy ra đồng cho hay mà ba má của Hai Ốm đã hớt hơ hớt hải về tới. 
                  Má nó kêu to:
                  -Con Tíu, thằng Lém, con Xíu, thằng Mại, con Út đâu?
                  Hai Ốm đứng sát một bên nên Mít Ướt thấy nó rung như thằn lằn đứt đuôi. Chẳng riêng gì nó, Mít Ướt cũng rung ké, bụng nhủ thầm phen nầy chắc Hai Ốm bị đòn nứt đít vì cái tội nấu cháo heo thổi bay tàn lửa làm cháy nhà. Hai Ốm nhìn má Mít Ướt bằng đôi mắt đầy vẻ tha thiết như mong tìm một sự che chở. Má Mít Ướt đưa hai cánh tay ra, chưa kịp ôm cho nó yên tâm thì má của Hai Ốm đã trờ tới, giật phắt rồi ghì chặt nó trong tay mà hun tới tấp...

                   
                  Ngay hôm sau bà con trong xóm xúm nhau cất nhà lại cho ba Hai Ốm liền!
                  Ở quê của Mít Ướt, cất nhà không có tốn một xu tiền công nào ráo trọi ! Chỉ cần hô lên một tiếng là mọi người sẵn sàng hoãn công việc lại để giúp liền. Họ cùng làm một cách vui vẻ, sốt sắng chớ không hề miễn cưởng. Hơn nữa ai cũng ưa ba Hai Ốm nên đều đến giúp đông đủ. Có cả một anh chàng lạ hoắc, cao nhồng, mặt mụn tên Ba Đực ở bên kia sông nghe đâu là đệ tử ruột của ba Hai Ốm cũng có mặt. Thường thì mọi người chỉ giúp công, nhưng đây là trường hợp đặc biệt nên bà con kẻ thì góp mấy cây tre, người thì vài chục tấm lá. Ông Bảy Đởm là người hăng hái và hào phóng nhất, cho tới mấy chục tấm ván gòn để đóng vách. Vậy là căn nhà mới nầy sẽ khang trang hơn căn nhà cũ rất nhiều.
                  Mấy người đàn ông ai lo việc nấy, mỗi người đều có sở trường của mình, hể ai giỏi thứ gì là làm thứ đó: Cậu Hai Cón thì lo dựng cột, dượng Tư Ngỗng thì đóng vách, bốn, năm người khác ngồi trên nóc lợp cái mái lá...Cậu tư Chá được coi là thợ cái, giữ nhiệm vụ phân công, giám sát từng người.
                  Mít Ướt khoái nhìn cái cảnh lợp nhà: Một hàng người ngồi cạnh nhau, cột ngang thắt lưng bó dây lạt làm bằng tre chẻ mỏng vánh, dài chừng ba, bốn tấc. Mọi người bắt đầu cùng một lúc. Họ làm rất đồng bộ và đều tay để những tấm lá được thẳng hàng. Lợp từ dưới thấp rồi lên cao dần. Một người đứng ở dưới cầm thanh tre dài ngước cổ lên nhìn, hể thấy tấm lá nào đặt so le là thọt cây lên báo cho biết để người đang lợp chỉnh lại liền.
                  Phụ nữ thì mang đến rau, cá, bầu, mướp rồi cùng nhau nấu nướng. Bếp của má Mít Ướt được xài ké. Hôm đó Mít Ướt không qua nhà con Thẹn chơi mà cứ xà quần trong bếp. Mỗi lần được nhờ lặt rau, bằm xả là nó mừng húm! Những công việc mà ngày thường má nó phải sai hồ hơ hồ giựt. 
                  Mấy dịp như thế nầy lâu lâu mới có một lần nên mọi người đều tận dụng. Bao nhiêu câu chuyện được kể, bao nhiêu tâm sự được phơi bày, bao nhiêu nỗi lòng được giải tỏa. Những rạn nứt nếu có cũng được hàn gắn lại. 
                  Mít Ướt vốn thích hóng chuyện nên ngày hôm nay coi như bội thu. Nó cứ ôm cây cột đứng vểnh tai nghe không bỏ sót tiếng nào, nhất định không rời một bước. Cái không khí chan hòa và thân tình ấy đã ảnh hưởng rất nhiều đến nó. Nó không còn giận Hai Ốm vì vừa làm nó bị một trận đòn quéo đít. Một phần vì hoàn cảnh của Hai Ốm, nhưng phần lớn là do bối cảnh xung quanh tác động. Nó cương quyết chia cho Hai Ốm phân nửa số dây thun mà nó có (lúc đầu nó định cho chừng vài chục sợi), để làm vốn vì chùm dây thun của Hai Ốm đã bị cháy tiêu. Noi gương nó con thẹn cũng cho Hai Ốm cây cân xách tay đồ chơi bằng nhôm nhỏ xíu mà Hai Ốm hằng ao ước. Không ngờ sau đám cháy nhà Hai Ốm nói chung, và Hai Ốm nói riêng, còn giàu hơn lúc trước.
                  Trưa hôm ấy, khi mọi người đã tạm nghỉ sau khi ăn cơm, Mít Ướt vẫn không chịu đi ngủ, nó cứ ngồi cạnh Hai Bé. Trong bếp bây giờ chỉ còn một mình chỉ với nó. Hai Bé cứ giục nó đi ngủ hoài nhưng nó mê chỉ quá đổi nên cứ bám theo miết. 
                  Hai Bé xinh nhất xóm, da ngâm ngâm, tóc dài rất đen rất mượt có nụ cười rất đẹp với cái nốt ruồi sát mép. Nốt ruồi nầy được gọi là nốt ruồi ăn hàng. Mấy ông bà già cho rằng ai mà có cái nốt ruồi mọc xung quanh miệng thì làm ăn không có dư vì của cải cứ trôi vô miệng hết. Cho dù vậy cái nốt ruồi ấy lại làm tôn nhan sắc của các cô gái rất nhiều, nên còn gọi là nốt ruồi duyên. 
                  Mít Ướt đang ngồi nghe chỉ kể chuyện "Ma cây gáo" thì ba Đực bước vô. Hai Bé dừng ngang liền rồi ngồi cứng đơ mắt nhìn đăm đăm ngọn lửa. Ba Đực nói bằng cái giọng run run:
                  -Cô Hai cho tui xin đóm lửa mồi thuốc.
                  Hai Bé chẳng nói chẳng rằng rút cây củi đang cháy đỏ rực đưa ngang mà không nhìn đến Ba Đực một cái. Ba Đực cầm thanh củi, mấy ngón tay chạm vào cườm tay của chỉ, chỉ rút lại một cái rột. 
                  Ba Đực nhìn qua Mít Ướt rồi nói:
                  -Cô Năm kiếm em từ nãy giờ.
                  Mít Ướt nghe nói má kiếm thì lật đật chạy ra chuồng heo. Má nó đang ngồi nghiêng cái máng cho heo ăn. 
                  Nó vừa thở vừa hỏi:
                  -Má kiếm con hả má?
                  Má nó nói như nạt:
                  -Kiếm làm cái giống gì, giờ nầy sao còn chưa ngủ hả?
                  Biết mình bị lừa, Mít Ướt chạy bay vô bếp. Ba Đực đang nắm tay Hai Bé vội buông ra rồi đi liền một nước. Hai Bé móc trong túi áo, lấy ra năm cắc bạc dúi vào tay Mít Ướt rồi nhỏ giọng năn nỉ nó:
                  -Cưng đừng có nói cho ai biết nghe, tội nghiệp chị.
                  Mít Ướt vốn có uy tín trong chuyện làm ăn nên không hề hé răng, cho dù sau đó họ đã cưới nhau rồi lên đến chức ông, bà, nội, ngoại.

                   
                  Kể từ hôm ấy Ba Đực đối với Mít Ướt vô cùng trân trọng, cứ gặp Mít Ướt là y nhoẻn miệng cười rồi nheo một con mắt lại ngụ ý:
                  -Tụi mình là một phe nha, nhớ bảo vệ và giữ bí mật cho nhau!
                  Bao giờ y cũng chào Mít Ướt bằng cái câu:
                  -Cưng ăn cơm chưa, có đói bụng hông?
                  Hễ Mít Ướt nói chưa ăn cơm và có đói bụng, là anh ta chạy vô tiệm của má Mít Ướt mua cho nó mấy cái bánh Tai Heo, bánh Bía, bánh Quai Chèo...liền. Mít Ướt, con Thẹn và Hai Ốm cùng chia nhau chiến lợi phẩm. 
                  Hai đứa kia tấm tắc:
                  -Sao ảnh cưng mầy dữ vậy hả Ướt?
                  Mít Ướt cố mím chặt môi không nói tiếng nào, dù nó ngứa miệng gần chết!


                  Rồi nhà Hai Ốm cũng dựng xong. Buổi cơm chiêu đãi bà con lối xóm và những người ở nơi khác đến giúp thật là vui ( lúc nầy má con Hai Ốm mới biết, danh tiếng của ba nó đã lan đi rất xa và được rất nhiều người yêu mến). Má Hai Ốm tạm gác cái biệt danh "kẹo mạch nha" mà mọi người gán cho, để làm một bữa tiệc thật là hoành tráng. Má con Thẹn góp vô một con gà, còn má Mít Ướt thì mang qua một bụt măng tre Tàu và một cái giò heo.
                  Bữa đó đông, vui và cảm động lắm. Ba Hai Ốm hai tay nâng chén rượu đưa ngang trán mở lời cám ơn bà con, mới nói tới chữ "cám" là nước mắt chảy ròng ròng rồi khóc nức nở không có nói thêm cho dù là một tiếng. Hai Ốm đang đứng giữa con Thẹn và Mít Ướt, gục đầu để giấu cái mặt đỏ rần. Nó quê thiếu điều muốn độn thổ luôn.
                  Kể từ ngày hôm ấy cái sân nhà Hai Ốm, từng là đại bản doanh của tụi nó. Nơi con nít trong xóm hay quy tụ chơi tạt lon, cò cò, năm mười... Nơi ngày trước trống lỏng và in đầy dấu chân gà, vịt, nay đành phải nhường chỗ cho các loài cây, kiểng. Ba Hai Ốm bắt đầu bộc lộ sở thích của mình. Ba nó tha về những loại hoa, kiểng rất đẹp. Nào là bụi ớt kiểng với những chùm trái tròn tròn màu tím rịm. Cây rau có lá to bằng bàn tay với mép lá có những khía uốn lượn như được kết ren, có vị hơi chua được dùng ăn sống. Hoa của nó có màu vàng tươi và mỏng tanh như cánh bướm. Ở quê cuả Mít Ướt, nó là rau nhái, nhưng trong sách vở nó được đặt cho một cái tên thật lãng mạn:"Sao nháy". Cây bông mồng gà đỏ thắm. Bạch lan Thanh lá xanh như cẩm thạch điểm những đường viền màu trắng. Cây móng tay với những chùm bông có màu trắng, hồng, đỏ mà tụi nó hay rứt từng cánh rồi thắm nước miếng mà dán lên móng tay. Vào ban đêm những chùm bông nầy tỏa một mùi thơm rất dễ chịu nên còn gọi là "Dạ lai Hương" hay "Sứ quân tử" nữa.


                  Ba Hai Ốm còn trồng một loại dây leo cọng nhỏ bằng sợi kẽm gai, có lá rất nhuyễn màu xanh lặc lìa, bò quanh và che kín cả cây cột để bàn thông thiên, hoa cỡ chừng ngón tay cái có màu đỏ như xác pháo. Tại cái tên "Tóc tiên" của nó mà Mít Ướt một lần nằm mơ thấy vô số nàng tiên nhỏ xíu mặc áo trắng bay ra từ những bông hoa ấy. Cũng hợp lý thôi vì ở giữa cái bông màu máu ấy là một nhụy hoa trắng nuột, trắng nà!


                  Má Hai Ốm lúc nầy cũng bớt gắt gỏng, không còn chửi nó như bầm bầu nữa. Nhưng người thể hiện sự vui sướng rõ nhất là ba Hai Ốm. Gương mặt ông lúc nào cũng tươi hơn hớn với cặp môi cứ nhếch nhếch. Hễ gặp ai là nở một nụ cười rộng hết cỡ.


                  Ông bắt đầu chăm sóc, tu bổ, để căn nhà thêm đẹp hơn lên. Bởi đây là một món quà do bà con gom tặng nên ông đem hết tâm huyết ra để trau giồi và bảo tồn nó y như báu vật. Cứ chiều chiều ông lại lùa đám con đi tắm. Mít Ướt và con Thẹn cũng tháp tùng.
                  Cả bọn lặn sát đáy sông để mò tìm mấy con ốc gạo, sò, vẹm, chem chép, ốc cày. Mấy loại nầy có vỏ đẹp và luộc ăn rất ngọt. Ba Hai Ốm gom vỏ ốc lại, cẩn xuống lớp đất trước hiên nhà, nơi nước mưa từ mái nhễu xuống, làm thành những hình ngôi sao rất đẹp, vừa để trang trí, vừa không để đất bị soi mòn. 
                  Từ những cây cột tre cháy nham nhở ông mót lại rồi đóng thành một cái chỏng. Cái chỏng nầy được đặt cạnh giàn rau phía sau. Chiều chiều cả nhà Hai Ốm bày mâm cơm tại đó. Những đêm có trăng ông còn đem đờn ra đó ngồi gãy, điều mà trước đây ông chưa bao giờ dám làm vì bị má nó cấm ngặt, cấm nghèo!
                  Nhà Hai Ốm bây giờ lại có thêm một vị khách luôn túc trực. Chẳng ai xa lạ, chính là Ba Đực, đệ tử chân truyền của ba Hai Ốm. Má Hai Ốm mừng quá trời, quá đất, vì Ba Đực tỏ ra vô cùng tháo vát. Những việc như: Gánh nước, bữa củi, tưới cây... Không chờ má Hai Ốm nhờ y đều xung phong làm hết ráo. 
                  Y ta còn lấy lòng cả xóm bằng cách cứ vào mỗi buổi chiều là hai tay xách hai cái thùng thiếc, xuống sông lấy nước mang lên. Tưới cả một khúc đường dài hơn trăm thước từ nhà Hai Ốm đến tận nhà Hai Bé, để bà con ngồi chơi trên mấy cái chõng kê sát đường khỏi hít bụi. Cứ mỗi lần đi ngang nhà Hai Bé y ta lại gồng tay lên cho mấy con chuột trên ấy nổi lên cuồn cuộn, liếc mắt nhìn vô tìm Hai Bé rồi nhoẻn miệng cười trông ngu ngơ hết biết!
                  Má của Mít Ướt có lần trông thấy, bèn chép miệng quở:
                  -Thiệt, đồ cái thứ mê gái!

                   
                  Rồi dần dần bà con cũng thấu tim đen của anh Ba Đực. Cái chuyện ảnh ve chị Hai Bé đã đến tai cậu Sáu Sung ba của chỉ. Rắc rối bắt đầu xảy ra từ đó.
                  Cậu Sáu Sung là mẫu người hoàn toàn trái ngược với ba Hai Ốm. Ba Hai Ốm nổi tiếng sợ vợ bao nhiêu thì ổng cũng nổi tiếng vợ sợ bấy nhiêu!
                  Chị Hai Bé là con gái duy nhất và dù gọi là thứ hai nhưng mấy người thứ ba, thứ tư, thứ năm chờ hoài chẳng thấy bò ra, thế nên ba má của chỉ cưng chỉ dữ lắm. Ba chị Bé cũng giống má Mít Ướt ở cái chỗ là càng thương thì càng cho roi cho vọt, càng nghiêm khắc và cấm đoán đủ thứ. Chỉ ít có bạn bè và cũng ít được đi chơi, cứ mỗi lần chỉ xin đi chơi với bạn thì má chỉ biểu:
                  -Xin ba mầy á!
                  Ba chỉ bèn hỏi:
                  -Đi chơi làm chi? Có được mập béo lên chút nào hông? Có té cơm té gạo ra ăn hông?
                  Thế là chỉ ngậm câm luôn, khỏi đi.
                  Ba chỉ khó vàng trời như vậy cho nên khi biết được anh Ba Đực có ý ve vãn. Ổng liền giao cho má chỉ phải canh giữ chỉ thật cẩn thận không cho ra khỏi nhà một bước.
                  Niềm hăng say tưới đường mỗi buổi chiều của anh Ba cũng giảm sút rõ rệt, vì nhà chị Bé đóng cửa kín mít.
                  Một hôm ảnh ngoắc Mít Ướt lại, nhét vào tay nó tờ giấy hai đồng màu tím có in hình chiếc máy cày và một tờ giấy tập gấp lại nhỏ như bao diêm, rồi nói:
                  -Cưng đưa Hai Bé cái nầy giùm anh nghe!
                  Mít Ướt hỏi:
                  -Đưa luôn tiền cho chỉ hả?
                  -Hổng phải, tiền là anh cho cưng còn cái thơ là đưa cho chỉ.
                  Mít Ướt mừng húm, hồi nào tới giờ chưa có ai cho nó số tiền lớn như vậy. Rồi cái mừng nó dính chùm với cái lo. Nó bỗng cảm thấy không yên tâm, bèn hỏi tiếp:
                  -Rủi ba chỉ bắt gặp rồi làm sao?
                  Ba Đực gãi đầu, nói bằng giọng nóng nảy, bứt rức:
                  -Em chờ gặp một mình chỉ rồi đưa. Nhớ đừng để cho ai thấy là hư bột hư đường hết ráo đó!
                  Nghe ảnh dặn dò một cách khẩn trương như vậy Mít Ướt càng thấy không an tâm. Nó trả hết lại cho ảnh rồi nói :
                  -Thôi em hổng đưa đâu má em đánh chết!
                  Ba Đực gắt:
                  -Má em làm sao mà biết được, làm giùm anh đi rồi em thích cái gì anh cũng mua cho.
                  -Thiệt hông ?
                  -Thiệt!
                  -Vậy ngoéo tay một cái coi!
                  Mít Ướt vừa nói vừa đưa cái ngón tay trỏ bẻ cong lại như lưỡi câu ra trước mặt. Ba Đực cũng đưa cái ngón trỏ của mình móc vào. Mít Ướt dùng hết sức mình giựt mạnh, ngón tay của Ba Đực không bung ra, vậy là chắc ăn! Hợp đồng coi như đã ký.
                  Có lẽ trời thương cái đôi lứa ấy cho nên ngay buổi chiều hôm đó, má Mít Ướt sai nó đi mua dầu dừa về xức tóc. Nhà Hai Bé có trồng hơn một chục cây dừa, trái ăn không xuể nên những trái bị hư má Hai Bé nạo ra thắng dầu để bán cho mấy người bới đầu xức cho mướt tóc. Má Mít Ướt hơi ngạc nhiên vì mới sai có một tiếng là nó xách chén chạy te te đi mua liền, thường khi nó hay qùng quằng dữ lắm!
                  Đến nhà Hai Bé Mít Ướt lẩm bẩm khấn khứa cho nó gặp riêng một mình chỉ. Mợ Sáu Sung ngồi ngay trên bộ ngựa têm trầu làm Mít Ướt dội ngược.
                  Mở thấy nó cầm cái chén nên hỏi:
                  -Mua dầu dừa phải hông?
                  -Dạ phải.
                  -Bao nhiêu?
                  -Hai cắc.
                  Mở quay đầu ra sau bếp gọi:
                  -Bé ơi bán dầu dừa!
                  Rồi biểu nó:
                  -Xuống dưới bếp nói chị Hai mầy rót cho.
                  Mít Ướt mừng hết lớn chạy ào xuống bếp. Hai Bé đang chắt nước cơm bèn nói với nó:
                  -Cưng chờ chị một chút nghen!
                  Từ hôm xảy ra chuyện đó, cả Ba Đực và Hai Bé đều gọi nó bằng cưng. Nó đứng sát rạt rồi lấy cái chân đạp lên chân của Hai Bé, thúc thêm cùi chỏ vào hông của chỉ để ra hiệu. Hai Bé nhìn Mít Ướt vẻ dò hỏi, nó chìa cho Hai Bé thấy cái thơ. Hai Bé lật đật bỏ nồi cơm xuống, chụp lấy rồi nhét vô túi liền. 
                  Mít Ướt bưng chén dầu dừa về đưa cho má, tim nó vẫn còn đập đùng đùng, má nó hỏi:
                  -Mua bây nhiêu mà một chén đầy nhóc vậy?
                  -Má đưa con bây nhiêu thì con mua bấy nhiêu!
                  Má Mít Ướt lầm bầm bằng cái giọng bán tín bán nghi:
                  -Sao mua có hai cắc mà nhiều dữ thần áng địa vậy!
                  Rồi quay sang nó má nó hỏi:
                  -Má có đưa lộn tiền hông vậy?
                  Mít Ướt lắc đầu lia lịa:
                  -Dạ hổng có lộn đâu, má đưa con hai đồng một cắc nhỏ xíu hà, má nhớ hông?
                  -Ai bán cho con vậy?
                  -Chị Hai Bé.
                  Má Mít Ướt suy nghĩ một chút rồi hỏi gặng nó:
                  -Con có chuyện gì giấu má phải hông?
                  Mít Ướt hoảng hồn đưa thẳng cánh tay với ngón trỏ chỉ lên trời, thề:
                  -Con mà giấu má cho bà...
                  Mới nói tới đó má nó đã nạt ngang:
                  -Đừng có thề bạt mạng, bà linh lắm đó!
                  Mít Ướt hoảng hồn im re, than thầm " hai đồng bạc nầy sao mà khó nuốt quá!".

                   
                  Hai hôm sau, lúc Mít Ướt đứng núp sau chuồng gà trong trò chơi năm mười, đang nín thở nhìn con Ý. Con nhỏ nầy đang chạy tới chạy lui, ngó tìm dáo dác. Mấy đứa kia bị bắt hết rồi chỉ còn mỗi mình nó, nếu bị bắt trúng nó phải thế mạng cho mấy đứa trước. Nó phải đứng quay mặt vô gốc cây, nhắm híp mắt lại mà đếm:" Năm, mười, mười lăm , hai mươi...cho tới một trăm", rồi hỏi to: "rồi chưa?". Chừng nào tụi nó đáp " rồi "thì mới được mở mắt ra mà chạy đi tìm. 
                  Mít Ướt cố thu mình tránh ánh mắt của con Ý, đợi con nhỏ này chạy đi tìm hoặc nhìn về hướng khác là sẽ vọt ra, chạy đến cây gòn nơi con Ý đứng nãy giờ, vỗ tay vào đó và la to "tùng" để cứu bồ cho mấy đứa kia. Đang để hết tâm trí vào trò chơi, Mít Ướt bỗng giật nẩy mình vì bị hai bàn tay của ai đang từ phía sau bịt kín mắt. Nó rủa thầm:
                  -Cái đứa quỷ nào mà chơi ác dữ vậy, nhè lúc nầy mà giỡn!
                  Nó rờ hai bàn tay đang đè chặt lên hai con mắt mình để đoán xem đứa nào. Bàn tay nầy có sáu ngón, vậy là nó biết tỏng ai rồi. Bèn nhỏ giọng hỏi:
                  -Mầy đó hả Sáu Ngón?
                  Sáu ngón vừa cười hí hí vừa buông ra. 
                  Mít Ướt cự nự:
                  -Bộ hổng thấy tao đang trốn sao? Mầy đứng đây coi chừng bị động ổ bây giờ!
                  -Bộ mầy tưởng tao ham giỡn với mầy lắm sao? Tại chị Hai Bé nhờ tao đưa cho mầy cái nầy nè!
                  Rồi nó xòe tay ra đưa cho Mít Ướt một cái gói giấy xếp thật nhỏ, nằm gọn trong lòng bàn tay, bên trong có thứ gì cồm cộm. Mít Ướt lật đật mở gói ra xem, lại là một cái thơ và năm cắc bạc. Nó hỏi Sáu Ngón:
                  -Chỉ có nói cái gì hông vậy?
                  -Hông, chỉ kêu tao đưa cho mầy thôi hà, hổng có nói thêm gì ráo!
                  -Tao biết rồi thôi mầy đi ra đi, đừng có để cho con Ý nó thấy là nó biết tao trốn ở đây liền đó!
                  Sáu Ngón gật đầu rồi cong cái lưng lom khom đi ra, điệu bộ của nó làm cho con Ý sinh nghi. Nó vỗ một cái chát vào thân cây trước mặt, nói bừa:
                  -Tùng con Mít Ướt.
                  Mít Ướt biết con Ý không thể thấy nó được mà chỉ đoán mò, nên nó không chạy ra cũng không lên tiếng mà càng rúc sâu vô chỗ núp. 
                  Con Ý nói to:
                  -Bộ mầy tưởng tao hổng thấy mầy hả Mít Ướt? Mầy núp sau cái chuồng gà chớ đâu!
                  Mít Ướt vừa chạy ra vừa cự:
                  -Mầy chơi ăn gian ! Mầy đâu có thấy tao, mầy thấy mình ên con Sáu Ngón chạy ra rồi nói đại. Tao hổng có chịu bị bắt đâu!
                  Thế là hai đứa cãi nhau om sòm. Mấy đứa khác chia làm hai phe, một bên thì bênh Mít Ướt bên kia bênh con Ý. Rốt cuộc hai đứa phải "bao xiễng xùm"[ oẳn tù tì] để coi đứa nào đếm. Mít Ướt ra tấm giấy, con Ý ra cây kéo vậy là Mít Ướt bị thua, niềm vui từ năm cắc bạc đang cầm trong tay bay vèo. Lần đầu tiên Mít Ướt cảm thấy công việc làm thêm ngoài ý muốn này ảnh hưởng đến công việc chính của nó, cảm thấy buồn và chán nản như người phải đi nộp thuế.
                  Việc đưa thơ cho Ba Đực thì dễ dàng hơn nhiều. Lần trước, vừa nhờ nó xong là sáng hôm sau Ba Đực đã chặn đường hỏi:
                  -Chị Bé có viết thơ trả lời cho anh hông?
                  -Hông!
                  -Sao vậy?
                  -Em đưa chỉ rồi chạy về liền.
                  -Sao hổng ở lại chờ chỉ coi xong rồi trả lời cho anh?
                  -Chỉ khỏi có dám coi đi, có má chỉ ngồi gần ở đó mà!
                  Ba Đực thở dài, cái mặt buồn hiu. Bởi vậy hôm nay khi thấy Mít Ướt nháy mắt ra dấu, tay còn vỗ nhẹ vô túi áo là Ba Đực đang ngồi học đờn với ba Hai Ốm lật đật vọt ra gặp nó liền, tay còn cầm theo cây đờn. Mít Ướt rút cái tay nắm lá thư rất chặt đang nằm sâu trong túi áo ra, liếc nhìn hai bên không thấy ai mới dám đặt nắm tay vào tay Ba Đực rồi từ từ mở ra. Lá thư được trao một cách vô cùng kín đáo, êm đẹp. Ba Đực mừng húm quay lưng đi liền, bỗng sực nhớ quay lại nhìn Mít Ướt. Mít Ướt đang nhìn theo một cách tiu nghỉu, Ba Đực vội mò trong túi lấy ra cái bóp rồi móc tờ một đồng ra đưa cho Mít Ướt.


                  Kễ từ hôm ấy, cuộc đời của Mít Ướt lên hương thấy rõ. Giấc mơ được ăn hàng thỏa thích của nó được thực hiện khoảng năm chục phần trăm. Thỉnh thoảng nó bao con Thẹn và Hai Ốm mỗi đứa một cây cà rem hay vắt đá bào. Hai đứa nầy ngạc nhiên hỏi nó:
                  -Tiền ở đâu mà mầy có nhiều vậy Mít Ướt?
                  Nó nói dóc:
                  -Tao lượm được.
                  -Mầy lượm được mấy đồng?
                  Mít Ướt tính nhẩm trong đầu rồi trả lời:
                  -Tao lượm được một tờ năm đồng.
                  -Ở đâu?
                  -Bến dì Sáu Tý.
                  -Sao tiền giấy nằm ở dưới sông mà còn y thinh được?
                  Mít Ướt biết mình bị hớ lật đật chỉnh lại:
                  -Tao lượm năm đồng tiền chì.
                  Mấy đứa kia lộ vẻ nghi ngờ, hỏi tiếp:
                  -Bộ mầy lượm có một lần là được luôn năm đồng hả?
                  Lần nầy Mít Ướt không trả lời liền nó suy nghĩ lung lắm rồi nói:
                  -Tao lượm từng lần, mỗi lần được một đồng.
                  -Bộ ở bến dì Sáu Tý không hả?
                  Mít Ướt gật đầu. Hai đứa kia ráp nhau chạy ùa xuống sông, Mít Ướt cũng lật đật chạy theo. Ba đứa nó quầng nát cái bến sông của dì Sáu Tý. Chẳng mò được một cắc bạc nào. Con Thẹn được cái núc áo còn Hai Ốm hên hơn được một cục đạn dùng để bắn "cu ly" trong suốt.
                  Công việc làm ăn của Mít Ướt đang xuôi chiều mát máy. Mít Ướt còn định bỏ ống để mua con cúp bế biết mở mắt khi đứng và nhắm mắt khi ngủ, thì bỗng xảy ra một sự cố:
                  Hôm ấy, Ba Đực cho Mít Ướt tới năm đồng bạc. Ba Đực đưa cho nó cái thơ và một tấm hình của mình bỏ trong bao thơ đàng hoàng.
                  Bức ảnh chụp gương mặt của Ba Đực nhìn nghiêng, đưa một cánh tay với bàn tay nắm chặt và cái ngón cái vểnh ngược đỡ cầm. Cái cổ ngỗng dài ngoằng của y rướn cao để lộ cái cục trái cổ rất to, đầu chải kiểu " tăng gô" và phết "bi lăng tin" bóng lưỡng . 
                  Mít Ướt lo sợ gấp đôi, gấp ba ngày thường. Trong cái trí óc non nớt, nó cho rằng đưa thơ là tội nhẹ còn đưa hình là cái tội nặng lắm, nên cương quyết từ chối. Ba Đực cứ liên tục tăng giá, cho tới mức năm đồng bạc thì Mít Ướt bị đánh gục hoàn toàn.
                  Năm đồng bạc ấy không thể đền bù cho cái sự mang tai, mang tiếng trong suốt thời thơ ấu của Mít Ướt, do cái giấc mơ kinh khủng mà nó gặp liền trong đêm hôm ấy: Nó mơ thấy cậu Sáu Sung rượt nó chạy băng băng trên đường cộ, chạy ngang qua cái miếu cô Mười nó bị vấp cái rễ của cây Ô Môi té nhào. Cậu Sáu Sung liền chồm tới kề cái mặt sát vô mặt nó, hả cái họng rất to với cái lưỡi đỏ lòm thè ra dài thòng, chừng như muốn ăn tươi nuốt sống nó luôn. Nó sợ tới té đái, hét lên rất to rồi giật mình tỉnh dậy.
                  Sáng hôm đó, má nó đánh nó ba roi vì cái tội mê ngủ và làm biếng không chịu ra ngoài đi tiểu, rồi bắt nó vác cái chiếu xuống sông để giặt. 
                  Mấy đứa con nít trong xóm bu lại xem. Tụi nó lấy hai ngón tay trỏ quệt lên, quệt xuống trên hai gò má [đó là dấu hiệu trêu chọc] đồng thanh chộ nó:
                  -Lêu lêu mắc cỡ, con Mít Ướt đái dầm!
                  Rồi chúng cùng nhau hát:
                  -"Mắc cỡ chạy lở giồng khoai,
                  kêu bớ anh Hai,
                  cho xin cục mỡ,
                  thoa mặt thoa mày,
                  cho đỡ mắc cỡ ".
                  Mít Ướt đầu cúi gầm, giặt xong chiếc chiếu mà không dám ngước cái mặt lên đến một lần. Thiệt là nhục hết chỗ nói ! Nó đâm ra ghét Ba Đực, ghét Hai Bé, rồi ghét lây luôn năm đồng bạc!


                  Con trai cỡ độ tuổi Mít Ướt ở trong xóm có thể chia ra làm hai loại : Loại thứ nhất là những đứa rất hiền, rất nhát, thấy mấy đứa con gái là lủi nhanh ít dám chạm mặt. Tuy vậy khi được nhờ đến thì giúp rất tận tình. Loại thứ nhì là những đứa rất ư ngổ ngáo, lấy sự chọc phá, hiếp đáp làm niềm vui. Đại diện cho cái nhóm nầy là thằng Đá "Lửa". 
                  Ở xóm của Mít Ướt tên của từng đứa hay có tên đệm đi theo, như con Tíu thì được kèm theo chữ "Hủ" phía trước thế là thành tên của một món ăn. Con Lựu thì bị kèm thêm chữ "Đạn" làm nó ức quá trời. Nhưng còn đỡ hơn thằng Đức em con Ý, nó được ghép thêm chữ "Cạp" kế bên. Mỗi lần ai kêu "Đức Cạp" là nó chửi, có khi còn đánh lộn.
                  Thời đó bà con hay dùng hộp quẹt đá. Đó là cái hộp quẹt dẹp dẹp, cỡ hai ngón tay, bằng nhôm, có hai phần: một nấp đậy và một cái thân dài gấp đôi cái nấp. Cái thân nầy có gắn bánh xe bằng nhôm ở trên cùng, xài bằng cách quẹt cái bánh xe chạm vô cục đá lửa. Những viên đá nầy hình trụ nhỏ xíu như ruột viết chì, dài chừng hai li, được cho vô cái ống rộng hơn một chút. Nó được đẩy sát vào bánh xe nhờ một cây đinh ốc có gắn lò xo gọi là ruột gà. Khoảng trống còn lại trong bụng cái hộp quẹt chứa toàn là bông gòn tẩm xăng, được kéo qua một cái lỗ nhỏ xíu, se chặt lại tạo thành cái tim. Nằm sát cái bánh xe hể tia lửa văng ra là bắt trúng và tạo thành ngọn lửa liền.
                  Cái thằng Đá "Lửa" nầy có tính cách của một viên đá lửa. Nó hay khởi xướng cho những cuộc gây gổ, đánh lộn. Ai nó cũng không từ, cả con trai lẫn con gái. Hình như niềm vui của nó là được đánh hay nhìn người ta đánh nhau. Hễ thấy ai sắp đánh lộn là nó vỗ tay hô hào:
                  -Nhào vô đi! Đứa nào đánh trước làm cha, đứa nào đánh sau làm con!
                  Con gái trong xóm trạc bằng nó, hầu hết đều bị nó trêu chọc, đứa nào cũng ghét nó, nhất là Mít Ướt.
                  Hôm ấy Mít Ướt vác cây cù móc ra hàng đất giồng ở sau hè được gọi là "Ấp chiến lược" để thọc me nước, đang đi nó bỗng bị một viên đạn nhỏ chạm vào trán đau nhói. Một tiếng cười khoái trá nổi lên kèm theo một giọng nói vô cùng xấc láo:
                  -Ê, cái con "dấm đài ", hôm nay mầy có giặt chiếu hông mậy?
                  Mít Ướt nhìn lên, thấy Đá Lửa đang ngồi chót vót trên cây ổi, cổ đeo cái ná thung, một sợi dây chuối khô cột ngang lưng để giữ cây kiếm bằng tre đầu vót nhọn, tay cầm ống thục. Viên đạn nó bắn Mít Ướt chính là trái dâu tằm vừa chui ra từ đó.
                  Quê của Mít Ướt sản xuất ra lãnh "Mỹ A" nổii tiếng khắp nước nên trồng rất nhiều cây dâu để lấy lá nuôi tằm. Mỗi lần má Mít Ướt sai nó đi hái rau về nấu canh, nó chạy tuốt vô mấy đám ruộng dâu, hái lá dâu non về cho má.
                  Cây dâu có rất nhiều công dụng. Những nhánh nhỏ của nó được tước bỏ vỏ, cắt thành những đoạn ngắn chừng một hai li, kết lại làm vòng đeo tay cho trẻ sơ sinh ngủ không bị giựt mình. Trên đầu giường của người bệnh hay sản phụ thường được để một cây roi dâu để trừ tà ma. Vỏ cây rất dai và chắc thường được bện thành dây hay đan võng. Trái dâu nhỏ như núc áo, khi còn xanh là đã bị mấy đứa con nít tìm lặt, nhét vô ống thục bắn nhau trong những trò chơi đánh trận. Trái chín màu đỏ đậm có vị chua chua được chế thành thức uống để trị bệnh nhức mỏi. Ngoài những công dụng trên, khi ngắm nhìn " ngàn dâu xanh biếc", có một cái gì, rất êm, rất dịu, từ đôi mắt trôi dần vào lòng ta, đẩy những nổi ưu tư, phiền muộn, theo từng lỗ chân lông mà thoát ra ngoài!
                  Mùa nầy dâu đang có trái nên mấy đứa con nít đứa nào cũng chặt mấy nhánh tre cỡ bằng ngón cẳng cái để làm ống thục. Con trai thì dùng để bắn con gái, còn con gái thì bắn lung tung. Mít Ướt, con Thẹn và Hai Ốm hay kéo nhau đi hái trái dâu đem về nhét vô cái lỗ trống ở giữa cái ống tre, dùng chiếc đũa vừa khích với cái lỗ trống ấy mà thục cho trái dâu bắn xa. Tụi nó hay rình bắn mấy con thằn lằn mà chưa hề trúng được một con!
                  Mít Ướt lườm nó một cái rồi nói:
                  -Mầy mà bắn tao nữa là tao vô mét má mầy, cho mầy bị đòn nát đít đó!
                  -Mét đi, mét đi, tao đâu có ngán. Coi nè ! Tao bắn mầy bằng cái ná thun, cho mầy u đầu chớ không thèm bắn bằng trái dâu nhẹ hều đâu!
                  Vừa nói nó vừa lấp viên đạn đất sét phơi khô cứng như xi măng, tròn vo bằng ngón tay cái vào cái ná. Nó bắn xuống đất để dọa Mít ướt chơi, nào ngờ trúng cục đá dội lên, đập vô ống quyển của Mít Ướt nghe một cái cốp. Mít Ướt gào lên một tiếng thật thảm thiết rồi vừa khóc hu hu vừa đi cà nhắc kiếm má thằng Đá Lửa để mét. 
                  Má Đá Lửa đang ngồi sàng gạo. Mít Ướt nhào tới vừa khóc bù lu bù loa, vừa vạch cái chân đau để trưng ra bằng chứng, vừa kể:
                  -Dì sáu ơi, dì Sáu! Thằng Đá Lửa nó lấy ná thun, nó bắn con què cái giò rồi nè! Hu...hu...
                  Má Đá Lửa lật đật móc túi lấy chai dầu Nhị thiên Đường, thoa lên cái cục u bằng trái cau khô trên cẳng của Mít Ướt rồi nói:
                  -Cái thằng đó nó cộc lắm, con chọc nó làm chi?
                  Mít Ướt nói bằng cái giọng uất ức:
                  -Con đâu có chọc nó, khi khổng khi không nó chộ con đái dầm, bắn ống thục trúng trán con. Con đòi mét dì thì nó nói " mét đi tao hổng sợ", rồi lấy ná thung bắn vô chưn con nữa hu...hu...Còn nữa, nó cứ theo ăn hiếp con hoài hà, lấy cát rải lên đầu con. Con đang chơi tạt lon thì nó đá văng cái lon xuống sông rồi còn chửi tên má với ông ngoại con nữa hu...hu...
                  Thấy Mít Ướt tức tửi quá, dì Sáu bèn rút cây roi mây giắt bên vách rồi nắm tay nó dắt ra hiện trường, định đét thằng con mình vài roi cho Mít Ướt mát bụng. 
                  Đá lửa vẫn còn ngồi vắt vẻo trên cây. 
                  Má nó quát:
                  -Cái thằng ôn hoàng dịch vật, làm cái gì mà giắt chông đầy mình rồi leo lên đó ngồi, rủi té là nó đâm lòi ruột đó, xuống mau!
                  Thằng Đá Lửa đã không xuống còn nghênh mặt hỏi:
                  -Tui xuống cho bà đánh tui hả?
                  Dì Sáu nghiến răng:
                  -Bộ mầy ở đó tao không đập mầy được sao? Mầy du côn quá rồi, dám bắn sưng cái cẳng rồi còn lôi tên cha mẹ, ông bà của người ta ra chửi nữa!
                  Vừa nói má nó vừa cúi xuống lượm một cục đá cầm lên một tay, tay kia cầm thêm cây cù móc của Mít Ướt vứt ngay cạnh đó.
                  Đá Lửa lật đật leo xuống. Má nó vừa quất lia lịa vô hai cái ống cẳng của nó, vừa nói:
                  -Cho bỏ cái tật chọc ghẹo, hỗn láo nè!
                  Nó vừa nhảy tưng tưng vừa chửi Mít Ướt:
                  -Mít Ướt, mầy nói oan cho tao. Mai mốt mầy đi học ngang qua nhà tao, tao chặn đường đánh cho mầy sặc máu mũi. Tao bỏ thuốc chuột cho bầy heo của má mầy chết hết không còn một con!
                  Dì Sáu hét:
                  -Cái thằng cô hồn các đảng, cái thằng chúa ngục, sao mầy dám nói khùng, nói bậy vậy hả? Rủi heo nhà nó bị bịnh chết người ta nghi mầy thuốc là mầy ở tù mọt gông còn tao phải bán ruộng, bán đất mà thường đó!
                  Vừa chửi, má nó vừa, một tay cầm roi quất lia lịa lên vai, lên lưng, một tay nắm chặt cứng cái lỗ tai của nó. Thằng Đá Lửa mình đầy những lằn roi ngang dọc, vừa khóc, vừa la chói lói vừa nhảy loi choi. Hai bàn chân giậm lia lịa trên mặt đất.
                  Mít Ướt cảm thấy hối hận vì trận đòn quá khốc liệt, vượt xa sự mong đợi của mình nên lặng lẽ chuồn êm!




                  Từ hôm thằng Đá Lửa bị một trận đòn "lịch sữ" đến nay Mít Ướt không dám đi ngang qua nhà nó.
                  Mỗi ngày đi học nó phải đi con đường cộ sau hè, chui qua mấy khu vườn đánh một vòng dài gấp đôi mới đến trường. Nó đi học về trễ hoài nên cứ bị má nó rầy, dọa đánh đòn vì tưởng nó la cà, mê chơi để ở nhà phải đợi cơm. Đã vậy thằng Đá lửa cứ nhắn lời hăm he nó. Một hôm con Thẹn ngoắc nó lại gần rồi kề tai nói nhỏ:
                  -Thằng Đá Lửa nó hăm mầy mẻ răng đó Mít Ướt ơi! Nó nói mầy mà đi ngang qua nhà nó là nó xịt chó ra cắn. Mầy mà tắm sông là nó lặn xuống kéo giò cho mầy chết chìm luôn đó!
                  Từ hôm đó Mít Ướt bỏ tắm sông luôn! Nó xách nước đem vô nhà tắm để tắm làm má nó ngạc nhiên hết sức.
                  Hổm rày Hai Bé trông Mít Ướt thiếu điều đỏ con mắt. Theo lời yêu cầu của Ba Đực, Hai Bé đã chuẩn bị sẵn một tấm hình để gửi tặng, định nhờ nó đưa giùm mà cả tuần nay không thấy nó đâu. Đành phải cho Sáu Ngón năm cắc bạc, nhờ kêu Mít Ướt đến giùm.
                  Sáu Ngón chạy te lại nhà Mít Ướt liền, không thấy Mít Ướt đâu. Sẵn có năm cắc bạc nên mua liền năm cục kẹo, lựa thứ kẹo có kèm những chiếc cà rá bằng nhựa đủ màu, bóc ra đeo vào cả hai bàn tay. Nó chạy qua nhà con Thẹn thấy chúng đang chơi cất nhà chòi. Ba đứa nó lấy mấy cái chàng xà rông cột quanh bốn cái chân bàn để làm vách nhà. Mít Ướt nằm cong như con tôm trong căn nhà nhỏ xíu ấy. Hai tay ôm cái bụng độn to rên:
                  -Đau quá, đau quá, đau thấu trời thấu đất rồi bà mụ ơi! Bà coi tui đẻ được chưa?
                  Con Thẹn đóng vai bà mụ lấy tay nhấn nhấn vô bụng nó rồi nói:
                  -Đẻ được rồi đó! Rặn đi.
                  Mít Ướt rặn thiệt tình, cái mặt nó đỏ lòm. Con Thẹn lòn tay vô áo nó móc cái khăn lông ra. Cái khăn được cuốn tròn hai đầu làm thành hai cuộn dính liền nhau. Một phần ba được bẻ ngược ra phía sau, lấy dây thun cột ngang một đoạn ngắn ngắn làm cái đầu. Phần còn lại được bẻ về hai phía làm hai cánh tay để giả làm một đứa con nít. Hai Ốm bây giờ mới nhập vai giả tiếng con nít mới đẻ khóc"tu oa, tu oa". Mít Ướt lật dật ngồi dậy đầu đụng vô chân bàn một cái bốp. Nó vừa xoa đầu vừa đưa tay đòi bồng đứa con. 
                  Bà mụ Thẹn vừa đưa cho nó vừa nói:
                  -Cho nó bú liền đi, nó đói bụng rồi đó!
                  Mít Ướt vén áo áp con vào ngực. Bắt chước người lớn lấy hai ngón tay, ngón trỏ và ngón giữa kẹp cái đầu vú lại để sữa ra ít đi cho em bé khỏi sặc. Hai Ốm cũng chu mỏ nút khơi khơi, phát ra tiếng "chụt chụt". 
                  Sáu Ngón khoái quá bèn xin:
                  -Tụi bây cho tao chơi với!
                  Nó vừa nói vừa móc trong túi mấy cục kẹo đã bị lột mất cà rá, đưa cho mỗi đứa một cái. Ba đứa vội tháo giấy bao cho vô miệng ăn liền như sợ nó đổi ý, rồi hỏi :
                  -Mầy muốn làm cái giống gì?
                  -Tao muốn làm má!
                  -Tao làm má rồi. Mít Ướt chặn liền.
                  -Thôi mầy làm ba đi! Con Thẹn khuyên nó.
                  -Hông tao thích làm má hà, làm ba hổng có vui!
                  Thế là Mít Ướt phải đổi vai cho Sáu Ngón. Nó đóng vai ba, đi bổ thuốc. Nghĩa là chạy ra hàng rào bứt một nhúm lá bông bụp, gói vô lá chuối khô đem về sắc cho Sáu Ngón uống giả bộ để đẻ cho nhanh.
                  Chơi một hồi tụi nó đâm chán, Sáu Ngón nhớ lại nhiệm vụ của mình. Nó rũ Mít Ướt:
                  -Lại nhà tao chơi bún dây thun đi.
                  Gì chớ bún dây thun là Mít Ướt chưa bao giờ từ chối, đó là môn "ruột" của nó. Hai đứa nó kéo lại nhà Sáu Ngón, con Thẹn và Hai Ốm bận giữ nhà, giữ em nên không đi theo được.
                  Tụi nó ra chỗ cái tấm "đan" đúc bằng xi măng đặt trước bàn thông thiên để chơi. Sáu Ngón kiếm một mảnh ngói vạch lên nền xi măng một cái hình vuông cạnh chừng ba tấc, rồi hỏi:
                  -Chơi một bàn mấy sợi?
                  -Hai chục!
                  -Mừ [mười] thôi!
                  -Cũng được.
                  Sáu Ngón moi từ lưng quần ra một chùm dây thun lấy ra mười cọng. Mít Ướt tháo cái sợi dây thun dài thòn, được thắt từng mắc, mỗi mắc năm sợi, quấn ngang eo như đeo dây nịt. Nó tháo ra hai mắc bỏ vào. Hai đứa bao xiểng xùm coi đứa nào đi trước. Mít Ướt đi trước, nó rải dây thun ra bên ngoài hình vuông rồi bún vô từng sợi. Không có sợi nào văng ra ngoài hay cán mức, thế là nó ăn sạch .
                  Biết bún dây thun không lại Mít Ướt. Sáu Ngón chuyển qua chơi dây thun vò. Tụi nó sắp từng sợi dây thun rời rạc dọc theo cánh tay duỗi thẳng, rồi úp lại để mỗi sợi một nơi không dính vào nhau [những sợi nào dính lại bị loại ra, dùng cho lần kế]. Nó đặt bàn tay thẳng đứng vào giữa sợi dây thun, rồi dùng cạnh bàn tay đè mạnh lên đó và đẩy về phía trước, sao cho nó xoắn lại thì mới được ăn. Môn nầy nó cũng thua Mít Ướt.
                  Thế là lại đổi qua chơi thổi dây thun. Trước hết phải lau cái bàn thật sạch. Hai đứa đứng hai đầu bàn, đối diện nhau. Mỗi đứa đặt trước mặt mình một sợi dây thun, chu mỏ thổi cho nó tiến dần đến sợi của đối phương rồi nằm gác lên là thắng. Trận đấu đang gay go bỗng Hai Bé xuất hiện. Mít Ướt bị phân tâm thế là nó thua. Sáu Ngón thắng được một bàn danh dự.
                  Hai Bé đưa Sáu Ngón tiền nhờ nó đi mua giùm xà bông, chờ nó đi khuất xong mới móc trong túi ra cái bao thơ đưa cho Mít Ướt rồi nói:
                  -Em đưa anh Ba giùm cho chị cái gói nầy nhe!
                  Mít Ướt từ chối một cách quyết liệt:
                  -Chị nhờ Sáu ngón đi, em hổng đưa nữa đâu!
                  -Em giúp chị đi, lần nầy chị cho em một đồng lận nè!
                  Mít Ướt lắc đầu nguây nguẩy:
                  -Chị cho bao nhiêu em cũng hổng ham, em ớn cái vụ nầy lắm rồi!
                  Thấy nó quá quyết liệt Hai Bé bắt đầu năn nỉ:
                  -Tội nghiệp chị mà em, chị nhờ người khác là ba chị biết rồi ổng giết chị liền, đâu có ai giỏi mà tốt bằng em đâu.
                  Mít Ướt nghe mát ruột lắm nhưng vẫn chưa chịu cầm cái thơ. Hai Bé bắt đầu sụt sịt khóc, nó thấy vậy lấy làm cảm động nên mới chịu cầm, rờ thấy cứng cứng nó liền hỏi:
                  -Bộ có hình nữa hả trời? 
                  Móc tấm hình ra trả liền cho Hai Bé, nó nói:
                  -Em đưa giùm chị cái thơ thôi, hổng lấy tiền đâu còn tấm hình chị lấy lại đi.
                  -Chị năn nỉ em mà, em làm ơn thì làm ơn cho trót, gọt thì gọt cho trơn giùm chị đi!
                  -Thôi đi chị ơi! Từ hôm bữa em đưa hình của anh Ba cho chị tới giờ em xui tận mạng luôn! Bị đòn nè! Bị bắn què cẳng nè! Rồi còn bị hăm he đủ thứ nữa!
                  - Đó là tại cái hình ảnh chụp quạu đeo hà ! Còn hình của chị vui lắm nè, em không có bị làm sao đâu mà hổng chừng còn hết xui nữa đó!
                  Hai Bé vừa nói vừa dí tấm hình của mình vô sát mặt Mít Ướt. Nó liếc nhìn, thấy hình chụp Hai Bé rất đẹp: Mái tóc dài, mượt, chải phồng hình chữ S có mấy cây kẹp xước chặn lại, được vén qua phủ kín một bên vai. Cái đầu hơi nghiêng, ngón tay trỏ đặt cạnh khóe miệng che mất cái mục ruồi, miệng cười mĩm chi trông thật là thùy mị và duyên dáng hết chỗ nói. Hai Bé bỗng lơi tay, tấm hình rơi úp xuống đất. Mít Ướt cúi xuống để lượm, thấy có hai câu thơ ở phía sau, nó cầm lên đọc:

                  Thương nhau mới tặng ảnh nầy
                  Ghét nhau ai tặng ảnh nầy làm chi.

                  Nó nhìn Hai Bé một cách dò hỏi, Hai Bé giải thích:
                  -Thời buổi nầy tặng hình là phải ghi như vậy đó!
                  Sáu Ngón cầm cục xà bông thơm hiệu cô Ba về tới. Hai Bé rầy nó:
                  -Chị kêu em mua xà bông đá để giặt đồ chớ đâu phải xà bông tắm, đi đổi giùm chị đi.
                  Sáu Ngón lại cắm đầu chạy miết, khi nó đem cục xà bông vuông vức màu vàng ngà ngà có ghi chữ "72% dầu" về, thì lá thơ, hình và tờ giấy một đồng đã nằm gọn trong túi của Mít Ướt .




                  Nhà Hai Ốm cất lại ai cũng mừng chỉ trừ có con Thẹn. Điều nầy cũng để hiểu thôi vì từ nay muốn chơi cò cò, u, de, tạt lon... Nghĩa là các môn chơi ngoài sân tụi nó phải dời qua sân cậu Hai Đủ, cách nhà con Thẹn hơi xa nên nó không thể vừa chơi vừa coi em được. Ác một điều là cái môn mà nó ưa nhất và chơi giỏi nhất là cò cò. Có thể nói là nó chơi giỏi nhất xóm luôn.
                  Phải nhìn tận mắt cái cảnh con Thẹn co cái chân trái, dùng mấy đầu ngón của cái chân phải mà xủi cái miếng ngói đi từng ô một đến giáp một vòng của cái bàn "cò", mới cảm thấy nó dẽo dai, khéo léo làm sao! Hai cánh tay nó hơi dang ra để giữ thăng bằng, cứ mỗi lần chân phải của nó nhấc lên rồi chạm đất là hai cánh tay lại phe phẩy rất nhẹ như thể nó đang phân vân nửa muốn bay lên, nửa lại không. Cả thân người của nó y như cái lò xo, liên tục co vô, giãn ra theo từng cú nhảy, cú chạm đất, một cách rất nhịp nhàng uyễn chuyễn.
                  Cái bàn "cò xủi" nầy hình chữ nhật, chiều ngang chừng một thước rưởi và chiều dài độ hai thước. Một đường kẻ dọc chia chiều ngang thành hai phần như nhau, và bốn đường kẻ song song với chiều ngang chia chiều dài thành năm phần bằng nhau nữa. Như vậy tổng cộng có mười ô.
                  Trước tiên tụi nó phải định ra coi đứa nào được quyền đi trước. Bằng cách đứng thành vòng tròn quay mặt nhìn nhau, xòe một bàn tay đưa về phía trước, vừa lật qua lật lại vừa hát:
                  Tay trắng, tay đen
                  Da cóc ken, đen xì
                  Tay Chà Và đen thui
                  Tay Việt Nam trắng tinh.
                  Đứa nào ra bàn tay màu khác (lòng bàn tay gọi là tay trắng, còn lưng bàn tay gọi là tay đen) mọi người là thắng. Tiếp tục làm theo cái kiểu đó, cho đến khi chỉ còn hai đứa thì phải dùng cách bao xiểng xùm.
                  Cái đứa chơi, đầu tiên sẽ đứng bên ngoài bàn cò thảy "đồng mê", [cái đồng mê nầy là một mãnh ngói cỡ ba ngón tay, được mài nhẳn bốn cạnh và có hình bầu dục, tròn, vuông, chữ nhật...] vào cái ô dưới cùng rồi xũi vào từng ô một, sao cho mỗi lần xũi đồng mê rơi đúng cái ô bên cạnh mà không bị cán mức. Trong khi xũi cái chân trái của nó vẫn co lên không được chạm xuống đất. Xũi giáp đúng mười ô, nó và đồng mê cùng ra ngoài để bỏ chân xuống nghỉ. Nghỉ một chút rồi lại tiếp tục thảy đồng mê vào cái ô kế tiếp và lập lại những động tác cũ, cứ lần lượt cho đến hết cái ô thứ mười thì nó cất nhà. 
                  Lúc nầy nó đứng quay lưng về cái bàn cò, tung đồng mê lên cao. Hễ rơi trúng cái ô nào- phải rơi gọn bên trong chớ không được cán mức- thì nó gạch chéo cái ô đó coi như đó là nhà của nó. Chừng nào tất cả các ô đều được cất nhà thì trò chơi kết thúc. Tụi nó đếm coi nhà đứa nào nhiều nhất thì đứa đó thắng. Mấy đứa còn lại phải cò giáp vòng bàn cò, ít hay nhiều vòng tùy theo mức thua của tụi nó. Trong khi tụi thua cò, thì cái đứa thắng sẽ vỗ tay hát ghẹo:

                  Con cò
                  Co cái cẳng 
                  Cong cái cổ
                  Cẳng cao cao
                  Cổ cong cong
                  Chạy vòng vòng
                  Kiếm chỗ đẻ...

                  Cứ đọc tới đọc lui cho đến khi mấy đứa nó cò xong, đứa nào chưa cò đủ mà bị rớt cái chân xuống đất thì phải cò lại từ đầu. Con Thẹn chưa bao giờ bị cò phạt vì bao giờ nó cũng thắng, mặc dù trong ba đứa, nó có vẻ nặng nề và chậm chạp hơn hết thảy.
                  Nếu không được ra sân chơi cò cò, tụi nó sẽ ngồi trong nhà chơi bún lỗ. Một đứa lấy cái vỏ ốc bu, khoét sâu xuống để tạo ra một cái lỗ bằng nắm tay, rồi móc túi lấy hột ô môi ra bún.
                  Bún hột ô môi khác với bún dây thun, bún dây thun dùng ngón giữa của bàn tay phải còn bún hột ô môi phải dùng ngón cái. Điểm mấu chốt là nằm trong cách rải những cái hột ô môi, sao cho nó nằm gần sát lỗ, rời rạc cho dễ bún, mà không rơi vào lỗ. Dựng bàn tay trái che trên miệng lỗ để những hột ô môi được bún tới bị chặn lại và rớt xuống đó. Nếu nó kéo thêm một hột khác cùng rơi, hay không vào lỗ là không được đi tiếp nữa. 
                  Có lẽ nhờ trò chơi nầy mà những trái ô môi trước miễu cô Mười được tụi con nít bậm môi đến thọc, cốt ăn để lấy hột. Trái ô môi có vỏ rất cứng phải dùng cây dao yếm[một loại dao lớn để chặt thịt và làm cá] để róc. Những mắc ô môi với cái hột ở ngay chính giữa, xếp theo hàng dọc và đều tăm tắp, y như những chiếc bánh ngọt được đặt trong những cái hộp gỗ nhỏ hình trụ màu đen vậy. Nó có vị ngọt đậm và một mùi vô cùng đặc biệt. 
                  Một lần Mít Ướt bị thầy phạt quỳ suốt buổi học, vì cái tội nhét trái ô môi vô cánh cửa lớp rồi kẹp lại cho bung cái mắc ra. Trái ô môi cứng quá nên làm sút bản lề, bung luôn cánh cửa.
                  Đến mùa ô môi trổ bông, Mít Ướt hay rủ mấy đứa trong xóm đi lượm bông rụng. 
                  Những đóa hoa ô môi, nhỏ như bướm con mới nở, mang đôi cánh màu hồng, nhạt hơn màu son và đậm hơn màu phấn, bám chi chít trên cây. Chúng quá đẹp khiến gió phải động lòng. Chỉ một làn gió nhẹ cùng khiến chúng giật mình, chới với buông tay rồi bay theo. Anh chàng gió nầy mau chán lắm ! Chàng ta chẳng đem ai theo mình lâu. Mấy đóa hoa xinh xắn ấy bị bỏ lại từ từ, chúng đành ôm nhau nằm đầy trên mặt đất. 
                  Tụi con gái cùng rủ nhau đến nhặt, mang về. Mít Ướt lấy cây kim đít vàng trong rổ may của má, xỏ một sợi chỉ thật dài xâu chúng thành chuỗi để đeo lên tay, lên cổ. Nó lén nhìn vào gương, cười một cách sung sướng vì thấy mình đẹp lên nhiều quá!
                  Ở vào cái tuổi của Mít Ướt, nó và lủ bạn lúc nào cũng ở trong tâm trạng háo hức, sẵn sàng tham dự các trò chơi. Mấy đứa tụi nó lúc nào cũng đem sẵn trong mình, nào là dây thun đeo ở cổ tay, hột ô môi, đồng mê trong túi áo... Mít Ướt còn quấn ngang bụng một sợi to đùng như dây xích, làm bằng mấy sợi thun vòng thắt lại, để chơi nhảy dây quay, dây tấc...
                  Những môn chơi dùng móng tay để bún, là sở trường của Mít ướt. Nó chơi thường xuyên đến nổi mà móng tay không mọc dài thêm được mà còn bị lỏm sâu vào một phía. Lần nào cắt móng tay cho nó, má nó cũng la:
                  -Trời đất ơi, cái móng tay gì mà thấy ghê dữ vầy nè!
                  Má nó bèn hăm, nào là chặt ngón tay đó để nó khỏi lây cùi qua mấy ngón khác. Nào là nó mà còn chơi bún dây thun, bún lỗ là má nó đánh đòn, rồi liệng chùm dây thun vô lửa...Bởi vậy Mít ướt lo lắm, lúc nào cũng kè kè chùm dây thun bên mình, kể cả khi đi ngủ.

                   
                  Một hôm Hai Ốm nấu cơm khét và bị má nó rầy quá cỡ. Điều nầy là do lỗi của con Thẹn và Mít Ướt. Chẳng là vầy ! Khi Hai Ốm đang lui cui trong bếp nhóm lửa để nấu cơm chiều thì nghe tiếng con Thẹn:
                  -Ốm ơi ra chơi thẩy vòng.
                  Thẩy vòng là một trò chơi mà từng đứa đứng ở cái mức vạch sẵn, cầm một cọc dây thun thẩy vô cái vòng đường kính chừng một gang tay, cách xa mức độ chừng hai, ba bước chân. Sợi thun nào nằm gọn trong vòng thì được quyền ăn, những sợi còn lại được mấy đứa kia chỉ định hể chọi trúng mà không đụng cái sợi khác thì được gom hết. 
                  Để chọi, phải dùng một cọng dây thun, dày, cứng, tròn đều. Dùng ngón tay cái và trỏ cầm đứng sợi thun nầy rồi tập trung lực vào cổ tay mà chọi thẳng xuống.
                  Để định ra đứa nào đi trước, tụi nó phải "đi thi". Mỗi đứa cầm một sợi dây thun trên tay thảy vô cái vòng. Ưu tiên cho những sợi lọt vô vòng, kế đến sợi cán mức, rồi tới cái sợi ở gần vòng nhất...
                  Hai Ốm nói vọng ra:
                  -Tao mắc nấu cơm rồi, tụi bây chơi một mình đi.
                  Hai đứa kia chạy vào bếp một lượt, con Thẹn kêu lên:
                  -Cái bếp nhà mầy rộng hơn hồi trước quá hén Ốm!
                  Hai Ốm thích chí:
                  -Ừ, ba tao còn làm thêm biết bao nhiêu thứ nữa nè!
                  Hai Ốm vừa nói bằng một giọng vô cùng hãnh diện vừa đưa tay chỉ từng thứ một: Đó là hai cái cà ràng mới tinh có hình dáng và kích thước như cái thùng của cây đàn guitar ( loại lò nầy được dùng trên ghe vì tro và củi nấu được nằm gọn trong lò). Nó được hai tấm vách làm từ mấy cái thùng thiếc bể bao chung quanh để ngăn không cho tàn lữa bay búa xua, thay cho hai ông táo làm bằng ba cục gạch nằm trơ trọi dưới đất hồi trước. Một cái sóng chén có hai tầng được ba Hai Ốm đóng từ mấy cây cột tre cũ. Một cái kệ để nồi cũng bằng tre kê sát vách. Chỉ có cây đà ngang mắc mấy cái gióng để treo nồi cơm, trách cá là nhìn giống như hồi trước mà thôi!
                  Mít Ướt ngồi bệt xuống đất rồi nói:
                  -Thôi tụi mình ngồi đây chơi "Tùm nụm tùm nịu "đi!
                  Hai đứa kia đồng ý cái rụp. Hai ốm lấy chiếc đũa bếp xuống. Ba đứa em của nó cũng xáp lại đòi chơi ké. Mười một bàn tay cầm vào chiếc đũa để dựng đứng trên mặt đất. Hai Ốm vừa đọc vừa chỉ lên từng bàn tay:

                  Tùm nụm tùm nịu
                  Trời đánh tay tiên
                  Đồng tiền chén gạo
                  Hột lúa ba bông
                  Ông trộm ăn cắp trứng gà
                  Bù xa bù xít
                  Con rắn con rít
                  Phải ra tay nào
                  Phải ra tay nầy!

                  Cái tiếng sau cùng rơi vào tay con Thẹn. Nó liền rút cái tay đó ra, đưa lên miệng hú một tiếng rồi giấu sau lưng. Hai Ốm dừng lại, lật đật bỏ thêm củi vô lò rồi lại đọc tiếp. Cứ hết một lần đọc, một bàn tay rút ra là nó lại bỏ thêm một nhánh củi vô lò. Chẳng mấy chốc nồi cơm sôi sùng sục, cuộc chơi tạm dừng chờ nó chắt nước cơm. 
                  Hai Ốm lấy hai miếng nhắc nồi lót vào tay. Cầm hai cái quai nồi, bưng xuống rồi nghiêng nồi, đặt hai ngón tay cái lên cái mép của nắp nồi, ép nó sát vô rồi chắt nước cơm ra cái tô đặt sẵn dưới đất. Thao tác của nó hết sức gọn gàng làm Mít Ướt lé hết hai con mắt. Nó đặt lại cái nồi cơm lên bếp rồi quên cào bớt lửa than ra mà lật đật chơi tiếp liền. Cái bàn tay sau cùng còn nắm chiếc đũa là của nó thế là nó bị bắt. 
                  Tụi nó kéo nhau ra nhà trước. Vẽ một cái vòng rất to xuống đất, có đường kính chừng một sãi tay. Hai Ốm vừa chạy xung quanh vòng vừa vói tay chụp tụi nó. Mấy đứa nó đứng chùm nhum chính giữa vòng, né cho được cái tay của Hai ốm vì nếu bị quơ trúng thì phải bị bắt thay cho nó. Tụi nó chơi hăng say cho đến khi nghe tiếng má Hai ốm la bài hải trong bếp:
                  -Trời phật thánh thần ơi! Xuống mà coi cái nồi cơm nó khét lên tới nóc rồi nè!
                  Cả Hai Ốm, cả con Thẹn, cả Mít Ướt hè nhau bỏ chạy tứ tán!


                  Sáng hôm sau Mít Ướt chạy qua nhà Hai Ốm liền, để coi nó có bị làm sao không. Hai Ốm đang ngồi tỉnh queo đút con bé Út, hai chị em nó ăn chung một tô bắp hầm bự chảng. Mít Ướt nhăn mặt hỏi:
                  -Sao lần nào tao cũng thấy mầy ăn bắp hầm hết vậy Ốm, bộ hổng ngán sao?
                  Hai Ốm đáp bằng giọng điệu và lời lẽ sao y từ má nó:
                  -Có ăn là may lắm rồi, còn bày đặt đòi hỏi cái gì nữa!
                  Ba đứa em kia của nó mỗi đứa cũng bưng một chén bắp trên tay. Mít Ướt bỗng nghe thương Hai Ốm, trong ba đứa nó Hai Ốm là cực nhất. Nó ít được ăn hàng nhất vì má nó không bao giờ cho nó tiền. Nó chỉ có tiền từ những dịp tết mà thôi. Những đồng tiền ấy được nó nhét vô cái ống tre cất rất kỹ, vậy mà cái lần em nó đau má nó cũng chẻ ra để gom đi chích thuốc cho em nó. Thỉnh thoảng nó năn nỉ con Thẹn và Mít Ướt đừng ăn bánh mì thịt hay mấy món khác nữa, mà mua giùm nó năm cắc bạc bắp hầm từ phần của nó. Nó lấy tiền đó để mua ngòi viết vì cái ngòi viết của nó quá rè hay bị gãy, hoặc bắt vé số vì nó quá mơ được trúng con cúp bế.
                  Buổi sáng là thời điểm "huy hoàng" nhất của tụi nó vì má Hai Ốm đi bán tới trưa mới về. Dạo nầy má nó về trễ vì càng ngày càng ít người ăn bắp. Những món ăn mộc mạc nầy đang cạnh tranh rất khốc liệt với những món cao cấp hơn như: Bún cá, cháo lòng, bánh bao...điều nầy làm Mít ướt rất khoái. Nó ao ước phải chi má Hai Ốm vắng mặt suốt ngày.
                  Mấy chị em Hai Ốm ăn sáng xong thì nghe tiếng con Thẹn kêu to từ nhà nó:
                  -Ướt ơi! Ốm ơi! Qua nhà tao chơi!
                  Hai Ốm cũng la to đáp lại:
                  -Bữa nay tao hổng dám bỏ nhà đâu, mầy dắt em qua nhà tao chơi đi!
                  Con Thẹn liền lùa mấy đứa em nó qua. Mấy đứa con nít xúm lại chơi chung, chúng khoái vọc đất lắm. Tụi nó lấy tay vung đất lại rồi nhổ nước miếng vào, nhổ thật gọn để tạo thành những đốm bùn nhỏ làm bánh khọt. Chúng lấy cái muỗng múc, đưa lên gần miệng rồi há miệng cho to, hót thật mạnh cái môi dưới vào, đánh cho cái lưỡi chạm vào chỗ giữa cái nướu răng và môi dưới để tạo tếng "ót ót" coi như ăn giả bộ. Mấy đứa em con Thẹn chạy đi hái lá ổi làm tiền rồi mang đến mua...ổn định xong mấy đứa nhỏ, con Thẹn bèn rủ:
                  -Tụi mình chơi "Ông đi qua, bà đi lại" đi!
                  -Chơi cái đó rủi trúng mấy đứa nhỏ, tụi nó té lăn cù là dỗ chết bỏ luôn. Hai Ốm bác ra.
                  -Vậy mình chơi nhảy dây quây đi, tao có đem dây theo nè! Mít Ướt đề nghị.
                  Hai đứa kia cùng gật đầu cái rụp.
                  Hai Ốm gở cái võng đang giăng ngoài hiên để lấy chỗ chơi nhảy dây quay. Mít Ướt tháo sợi dây thun quấn ngang lưng ra, rồi ba đứa bèn "tay trắng, tay đen" coi đứa nào đứa nào được nhảy trước. Con Thẹn được ưu tiên. Mít Ướt và Hai Ốm mỗi đứa cầm một đầu dây rồi quay cùng chiều với nhau. Con Thẹn từ ngoài nhảy vô, xui làm sao cái chân nó bị vướng, sợi dây ngừng lại thế là nó bị "chết". Mít ướt và Hai Ốm lại bao xiểng xùm xem đứa nào thay chỗ con Thẹn. Hai Ốm thắng! Rút kinh nghiệm từ con Thẹn, nó chờ sợi dây chạm đất là lập tức phóng vô liền. Ba cái miệng của tụi nó cùng đếm, không phải một, hai... mà: năm, mười, mười lăm , hai mươi...đến chín mươi thì một con gà trống từ xa, đang trên đường chinh phục con gà mái. Nó rượt con gà nầy chạy bạt mạng, đâm đầu vô sợi dây, bị vướng chân nên giật lia giật lịa. Hai Ốm té cái đụi, nó nhất định không chịu chết, cãi om xòm, con Thẹn nói:
                  -Ai biểu hồi nãy mầy không chịu giao một trăm điều dễ làm chi.
                  Thường trước khi chơi tụi nó hay giành nhau nói cái câu:"Tao một trăm điều dễ còn mầy một trăm điều khó". Đây là cái cách vô cùng "bá đạo". Hễ đứa nào nói đầu tiên là sẽ được hưởng rất nhiều lợi thế. Lần nầy tụi nó quên cho nên Hai Ốm đành phải thay chỗ cho Mít Ướt.
                  Mít Ướt hít sâu một hơi để chuẩn bị cho cái màn trình diễn của mình, sao cho thật là hoành tráng. Đâu phải khi không mà nó cưng cái sợi dây thun của mình đến vậy! Chỉ vì nó nổi tiếng là nhảy dây hay nhất xóm đó thôi!
                  Hãy tưởng tượng một cái lò xo được vận hành bằng máy, nó hoạt động thế nào thì Mít Ướt cũng xêm xêm như vậy. Cả người của nó cứ cong lại rồi giản ra một cách nhịp nhàng, đều đặn. Những cái nhún để lấy đà vọt lên rồi chạm đất mới thật điêu luyện, nhẹ nhàng, uyển chuyển làm sao! Như thể hệ thống xương của nó được làm bằng chất dẻo. Hai đưa bạn nó bị cuốn hút theo nên cũng vung tay hết sức ăn khớp, tạo thành những vòng bán nguyệt đều tăm tắp, con Thẹn kêu lên:
                  -Nhảy "kiểu" đi Mít Ướt!
                  Thế là nó biến tấu liền. Nào là nhảy một chân, rồi ngồi chồm hổm, rồi vừa nhảy vừa xoay người, rồi nhảy theo kiểu vịt đi ...Tụi nó say sưa đến độ quên cả đếm, nhưng làm sao mà đếm cho xuể khi tâm trí tụi nó đã bị cuốn hút vào trò chơi một cách xuất thần đến vậy!
                  -Diệu ơi! về xối nước cho má gội đầu.
                  Tiếng gọi của má Mít Ướt làm tụi nó choàng tỉnh, chúng tiếc rẻ nhìn nhau. Hai Ốm và con Thẹn cùng nói một lượt:
                  -Lẹ lẹ rồi qua chơi nữa nghe Mít Ướt!

                   
                  Mít Ướt đâm đầu chạy về nhà. Má nó đang xõa tóc đợi sẵn. Tóc má nó dài lắm và hình như đã lâu, má chưa nhờ nó cầm cái mặt kiếng, cho má soi vào mà tự tay cắt tóc.
                  Trước khi gội, má dùng cây lược thưa để chãi tóc thật thẳng. Cây lược nầy có màu đen vì được làm bằng sừng trâu. Cây lược dầy mà má sắm để chãi chí cho nó thì bằng cây. Có những cái răng lớn hơn sợi tóc, nhỏ hơn tăm tre, cắm khít rịt với nhau sơn màu đỏ. Con nít tụi nó hầu như đứa nào cũng có chí, mấy con chí có máu phiêu lưu nhất trong các con vật, nên hễ một đứa có chí là lây giáp vòng cho cả bọn.
                  Má Mít Ướt hay gội đầu vào buổi sáng hoặc trưa, để tối đi ngủ là tóc kịp khô. Má nói nếu để đầu ướt mà đi ngủ thì lâu ngày sẽ bị bịnh "nhức đầu đông". Thường thì gội bằng hàng the, rồi xả lại bằng nước của trái chúc [ là một loại có họ hàng với chanh, cam, trong vườn nhà ngoại có trồng một cây, cho trái rất nhiều và có mùi thơm rất dịu]. Chờ tóc khô rồi má chãi lại một lần nữa, thoa dầu dừa rồi mới bới.
                  Những sợi tóc dính vào răng lược được má giữ lại, cho vô cái túi để bà ngoại khi rãnh rổi lấy ra vuốt từng sợi cho thẳng. Lấy chỉ đen cột thật chặt một đầu thành một chùm nhỏ cỡ bằng ngón tay cái để làm đầu tóc mượn. Cái đầu tóc mượn nầy được độn vô khi bới, giúp cái búi tóc thêm đầy, thêm đẹp.
                  Cái búi tóc đóng vai trò rất quan trọng, nó như một món trang sức quí giá của người phụ nữ. Từ đôi bàn tay khéo léo chúng được tạo thành, khi thì thật giản dị, khi lại rất cầu kỳ với những cái tên : Bánh tiêu, khu ốc, đầu lèo... 
                  Cái công việc xối nước cho má gội đầu là cái công việc Mít Ướt khoái nhì [khoái nhất là đi hái rau cho má nấu canh]. Nó chăm chú nhìn má sữa soạn việc gội đầu, như người ta đang quan sát việc tiến hành những nghi thức thiêng liêng, cho một buổi lễ vô cùng quan trọng.
                  Thoạt tiên, má nấu một ấm nước, đổ gói hàng the đã được tán nhuyễn vào thau nhôm rồi chế nước sôi vào. Nước hàng the làm cho nhôm đổi thành màu xám đậm. Cho thêm nước lạnh vào để không bị phỏng rồi bưng cái thau đó ra sàn nước. Mít Ướt không chờ má sai, lấy cái thau giặt đồ bự chảng đặt ở kẹt bồ lúa ra cho má hứng nước.
                  Má đứng dưới đất, ngay cạnh sàn nước, cúi đầu về phía trước, thả mấy ngọn tóc nằm gọn trong cái thau to nó vừa mang đến. Mít Ướt nhảy phóc lên sàn nước đứng cong người múc từng gáo nước lạnh trong cái lu đặt kế bên, xối lên tóc của má cho ướt hết, rồi mới dùng cái ca nhỏ múc nước hàng the rưới đều lên đó. Má dùng mấy đầu ngón tay xoa theo vòng tròn trên da đầu chỗ nó vừa xối, từng đám bọt hình thành, ban đầu có màu xám rồi trắng dần lên. Nó xối trên đỉnh đầu trước rồi đến phía gần tai sau cùng mới đến ót, thật thành thạo. Má khỏi cần nhắc đến một tiếng. Tánh nó là vậy đó, hễ gặp việc ưa thích thì làm một cách rất say sưa, rất chu đáo. Có lần má nó nói:
                  -Phải chi cái gì má sai, con cũng làm đàng hoàng như cái việc xối nước cho má gội đầu.
                  Khi đã xối hết nước hàng the, nó múc nước lạnh trong lu cho má xả tóc. Xả cho đến khi nước từ tóc nhễu ra cũng trong như nước lu. Lúc nầy nó mới bưng cái chén nước trái chúc lại, rưới đều lên tóc là xong. Nó lật đật chạy ra sào phơi đồ rút cái khăn lông vô cho má lau. Má tóm gọn tóc về phía trước, xoắn lại thật chặt như vắt áo, rồi, hai bàn tay căng cái khăn, gom hết tóc vào, ép lại, thấm cho ráo những sợi tóc nằm bên trong và xát nhẹ. Cái khăn đã đẫm nước, má thôi lau, vắt cho thật khô rồi đưa cho nó đem ra sào phơi lại. Má giũ tóc rồi lắc đầu cho những giọt nước còn cố bám lại trên tóc phải tuột tay rơi xuống. Một mùi rất riêng từ tóc má bay ra. Mít Ướt đứng một bên, nhắm mắt lại, căng mũi hít cái mùi thơm mà nó vô cùng yêu thích ấy.

                   
                  (Tiếp Chương 2)
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 17:38:14 bởi Lâm Du Yên >
                  #9
                    Lâm Du Yên 05.09.2019 10:04:21 (permalink)
                    MỘT LẦN “CHUYỀN” LẠI  
                         
                    DẪN NHẬP:
                     
                    Một lần bạn cũ ghé thăm
                    Bùi ngùi nhắc chuyện cùng làm ngày xưa:
                    Bơi xuồng, câu cá, tắm mưa
                    Bắt cua, ốc... hái rau dừa... đồng xa
                    Đạp xe ví vịt, ví gà
                    Xăn quần lội nước vớt hoa lục bình.

                    Cất chòi lá chuối xinh xinh
                    Mủn vùa đựng gạo, tụi mình nấu cơm
                    Ngờ đâu nồi cháy theo rơm
                    Cố tranh nhau vét miếng cơm vàng khè.

                    Đường quê hai đứa cặp kè
                    Choàng vai "rau muống... muối mè... đứng lên"
                    Nhảy dây, tùm nụm, chuyền chuyền
                    Năm mười, rượt bắt... liên miên cặp giò
                    U,de, bún lỗ, cò cò...
                    Thách nhau: "dám kéo đuôi bò mới ngon!".

                    Bao nhang miệng ngậm làm son
                    Bột mì làm phấn đóng tuồng rất vui
                    Đất giồng hai đứa lui cui
                    Moi từng củ sắn, củ khoai lang đèo
                    Bẻ đôi cây mía ốm teo
                    Chia nhau từng miếng ăn nghèo mà ngon.

                    Mùa mưa nước đỏ như son
                    Tắm sông đất bám miệng toàn là râu
                    Kiến vàng làm ổ cành cao
                    Vác cây thọc trứng về câu cá đồng
                    Có lần nhảy đại xuống sông
                    Bị ong túa rượt ai không vội vàng?

                    Đêm trăng đi ngủ muộn màng
                    Mê chơi, mê hát :"thoi vàng chuyền tay"
                    Chiều đông lạnh, gió heo may
                    Đống un tỏa khói lùi khoai ăn cùng,
                    Chuyện ma càng kể càng rung
                    Khi không ráp chạy ùn ùn nhát nhau.

                    Chuyện ngày xưa, quá ngọt ngào!
                    Mà sao cứ thấy nao nao trong lòng
                    Thế rồi hai đứa đồng lòng
                    Một lần trở lại tắm dòng nước xưa.
                    Hai bà "ngũ thập niên " thừa
                    Ngồi Chồm hổm dự trò xưa, ngày nào
                    Trái banh ten nít tung cao
                    Rải mười chiếc đũa, cùng nhau chuyền chuyền...

                    Hôm Hai Ốm đi Sài gòn, lận lưng cái địa chỉ rồi tìm cho bằng được nhà của Mít Ướt.
                    Hai đứa gặp nhau mừng không biết để đâu cho hết ! Bây giờ đã làm bà sắp nhỏ hết rồi mà còn ôm nhau nhảy tưng tưng y như con nít vậy. 
                    Mít Ướt nhìn Hai ốm hồi lâu rồi nói:
                    -Chắc tao phải kêu mầy bằng ú quá chớ đâu còn ốm cái chỗ nào .
                    Hai Ốm thở một hơi dài thượt rồi than:
                    -Đời tao nó ngang trái vậy đó mầy ơi! Hồi xưa ai cũng khoái ú thì tao ốm nhom ốm nhách, cứ cầu trời khẩn phật cho mập lên một chút để dễ lấy chồng. Bây giờ ai cũng thích ốm thì tao ú nu, ú nần. Ráng ốm lại để giữ chồng mà cũng làm không có nổi.
                    Mít Ướt hỏi:
                    -Mầy có tập thể dục với ăn kiêng hông?
                    Hai Ốm lắc đầu:
                    -Tao ngày hai lần ra đồng thăm ruộng rồi tập làm chi nữa. Nói tới cái vụ ăn kiêng tao càng thêm chán. Sáng nào tao cũng nhịn đói đâu có dám ăn thứ gì. Hai bữa cơm trưa và chiều nuốt lưng lưng có một chén. Ngặt nỗi tao mê phim Hàn quốc nên đêm nào cũng thức coi tới khuya lơ, khuya lắc. Ác một cái là nó toàn chiếu phim dài tập không hà, tập nào cũng chen mấy cái cảnh ăn uống. Hễ̃ thấy thằng diễn viên bưng cái tô bự tổ chảng húp một cái rột là bụng tao sôi liền. Thế là phải nấu một gói mì ăn liền. Có khi một gói hổng thấm tháp gì, tao phải làm thêm gói nữa.
                    Mít Ướt chắt lưỡi:
                    -Mầy ăn như vậy làm sao ốm nổi, phải chia đều ba bữa, rồi ăn độn rau vô cho nhiều mới được. Trước khi đi ngủ đừng có ăn cái thứ gì vô hết, không thôi là nó cứ kẹt suốt đêm ở trỏng rồi biến thành mỡ hết ráo ! Nhưng mà mầy mập ra lại coi đẹp hơn hồi trước nhiều, da căng bóng, tóc đen sì...
                    Hai Ốm vội ngắt lời:
                    -Tóc mới nhuộm đó mầy ơi!
                    Rồi cũng nhìn kỹ Mít Ướt và nói:
                    -Tao thấy mầy cũng vậy, có điều hơi già một chút.
                    Mít Ướt thở dài:
                    -Bộ mầy tưởng tụi mình còn nhỏ lắm sao ? Đứa nào cũng ngoài năm mươi rồi chớ bộ !
                    Hai Ốm cũng thở ra:
                    -Mới đó mà lẹ ghê mầy hén, nhớ hồi nào...
                    Rồi Hai Ốm kể thao thao những kỷ niệm, công việc, trò chơi mà hai đứa cùng làm chung với nhau, rồi vỗ vai Mít Ướt một cái bộp, hỏi:
                    -Ê! Mầy còn nhớ cái vụ tụi mình thọc me nước bị sâu suông hông?
                    Mít Ướt gật đầu:
                    -Nhớ chớ sao không, còn cái vụ tụi mình bị chui hàng rào nhà dì Sáu Tý lượm khế bị chó rượt, mầy có nhớ hông?
                    Hai Ốm trề môi:
                    -Tao mà quên hả? Có mầy hổng nhớ thì thôi, mầy vô tình thấy mồ hà! Lúc đi học đệ thất bỏ lại tụi tao đó, tao khóc hu hu còn cái mặt mầy tươi rói.
                    Mít Ướt biện hộ:
                    -Thì thi đậu ai mà hổng mừng, mà tao cũng cho mầy chùm dây thun của tao, tới mấy trăm sợi chớ ít gì đâu!
                    Hai Ốm cười:
                    -Phải công nhận là hồi đó mầy bún dây thun số dách luôn. Nhưng cái môn chuyền chuyền là mầy thua tao, lần nào cũng bị tao nẻ đỏ lòm cái mắt cá!
                    Mít Ướt có mòi tự ái cãi:
                    -Đó là hồi xưa chớ sau nầy tao chơi giỏi lắm!
                    Hai Ốm nói bằng cái giọng chắc lọi:
                    -Giỏi gì giỏi chớ cái môn đó mầy thua tao là cái chắc! Mầy chưa thắng nổi tao một bàn nào hết, nhớ hông?
                    Mít Ướt nóng mặt gặng:
                    -Chuyện đó xưa rồi Diễm, bây giờ mầy có dám đấu với tao hông?
                    -Đấu thì đấu, sợ gì !
                    Thế là Mít Ướt lật đật đi kiếm trái banh Ten nít. Cầm chổi quơ dưới gầm giường lôi ra được một trái, lấy mười chiếc đũa tre nữa là đủ bộ.
                    Hai Ốm ngồi xổm xuống đất rồi bật dậy liền:
                    -Mầy cho tao mượn cái quần ống rộng đi, cái quần "gin" nầy bó quá tao ngồi không có được.
                    Mít Ướt lấy cho Hai Ốm cái quần xà lỏn rộng rinh rồi bản thân mình cũng mặc một cái, chớ mặc áo đầm ngồi chồm hổm coi kỳ quá, nai nịt gọn gàng xong hai bà liền lâm trận.
                    Hai Ốm cầm ba chiếc đũa quay một cái thành hình tam giác liền. Mít Ướt khớp quá nên rung tay, ba chiếc nằm ba nơi. Hai Ốm cười ra vẻ đắc chí rồi vừa tung banh vừa đọc:
                    -Đi con hai, hai hốt, hai vùa...hai chụm. Đi con tư, tư hốt, tư vùa, hai chụm. Đi con sáu, sáu hốt, bốn chụm...
                    Hai Ốm đi một lèo không chút nào sai sót, từ : "sang sông", "nụm", "xắt chuối", "quay tơ", "cất chuồng heo", "bửa củi", "lòn kim", "xỏ chỉ', tới "bồng em",chỉ còn chuyền "giao chàm" nữa là hết. Theo luật đứa nào đi tới giao chàm trước thì thắng, mấy đứa còn lại khỏi được đi. Hai Ốm gần lên đỉnh Olympia rồi nên trong lòng phơi phới quay lại nhìn Mít Ướt cười tủm tỉm để chọc quê. Cái mặt của Mít Ướt buồn thiu thấy mà tội nghiệp, lòng trắc ẩn nổi lên. Hai Ốm nghĩ:
                    -Coi bộ con nhỏ nầy nó háo thắng dữ a! Nghe nói nó đau tim, căng thẳng quá hổng chừng đổ bịnh, thôi mình nhường nó một lần nầy cho nó vui.
                    Mới nghĩ tới đó thì bó đũa đang chuyền bỗng văng ra một chiếc. Mít Ướt cố nén tiếng thở phào nhẹ nhỏm.
                    Cầm lại bó đũa từ tay Hai Ốm, Mít Ướt khấn thầm theo thói quen:
                    -Cầu xin ông ngoại và ba phù hộ cho con được thắng lần nầy để hông thôi quê với con nhỏ nầy dữ lắm!
                    Hít một hơi dài thật sâu rồi thở ra nhẹ nhàng để lấy bình tĩnh. Mít Ướt cảm thấy tự tin, đi một lèo... Đến bồng em thì bắt đầu rung, nhét hết bó đũa vô nách, mỗi lần thảy banh là rút ra hai chiếc và đọc:
                    -Bồng em vô nách, xách đầu em ra...
                    Đọc được năm lần coi như xong, bây giờ đến màn cuối cùng, chuyền giao chàm là kết thúc. 
                    Mít Ướt nhớ Hai Ốm hồi nãy chết tại chỗ nầy nên lầm bầm một tràng nữa rồi mới chuyền. Không có chiếc đũa nào rơi ra, trái banh cũng được chụp trúng phóc. Trận chiến kết thúc, phần thắng thuộc về Mít Ướt.
                    Hai Ốm chìa thẳng cái cẳng ra phía trước, nghiêng qua một bên để đưa cái mắt cá cho Mít Ướt nẻ. Mít Ướt bặm môi cầm bó đũa đưa thẳng tay, Hai Ốm nghĩ thầm:
                    -Con quỹ nầy cái mặt đằng đằng sát khí, chắc nó dám nẻ mình bể" bạc đạn" để trả thù lắm !
                    Nào ngờ Mít Ướt xán xuống một cái nhẹ hều, còn nói bằng cái giọng vô cùng hiền hậu:
                    -Mình nẻ tượng trưng thôi, chớ đâu có ác độc như ai kia!
                    Nghe cái giọng của Mít Ướt tự nhiên Hai Ốm nổi nóng, nghĩ thầm: "Người ta nhường cho, hổng biết thân còn nói cái giọng làm phách, thấy mà ghét!"
                    Rồi buột miệng hỏi Mít Ướt:
                    -Dám chơi nữa hông?
                    Mít Ướt gật đầu cái rụp liền:
                    -Dám!

                    (Tiếp CHƯƠNG !)
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 18:02:03 bởi Lâm Du Yên >
                    #10
                      Lâm Du Yên 13.09.2019 11:49:45 (permalink)
                      NHƯ ĐI TRÊN CÁT
                      Lâm Du-Yên
                       
                       
                      Vì lý do kỹ thuật, “Như Đi Trên Cát” được re-posted tại link sau đây:
                      http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=888245
                       
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 17:03:21 bởi Lâm Du Yên >
                      #11
                        Lâm Du Yên 13.09.2019 12:27:57 (permalink)
                        NHƯ ĐI TRÊN CÁT
                        Vì lý do “Như Đi Trên Cát” được re-posted tại link sau đây:
                        http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=888245
                         
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 17:10:04 bởi Lâm Du Yên >
                        #12
                          Lâm Du Yên 13.09.2019 12:54:26 (permalink)
                          NHƯ ĐI TRÊN CÁT
                          Vì lý do “Như Đi Trên Cát” được re-posted tại link sau đây:
                          http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=888245
                           
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 17:18:39 bởi Lâm Du Yên >
                          #13
                            Lâm Du Yên 13.09.2019 13:35:29 (permalink)
                            NHƯ ĐI TRÊN CÁT
                            CHƯƠNG BỐN

                            Vì lý do “Như Đi Trên Cát” được re-posted tại link sau đây:
                            http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=888245
                             
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 17:19:45 bởi Lâm Du Yên >
                            #14
                              Lâm Du Yên 13.09.2019 15:08:01 (permalink)
                              NHƯ ĐI TRÊN CÁT
                              CHƯƠNG NĂM

                              Vì lý do “Như Đi Trên Cát” được re-posted tại link sau đây:
                              http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=888245
                               
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2019 17:20:55 bởi Lâm Du Yên >
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 20 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9