Chữ Ăn: Cái thú đoạn trường
Đào Trọng Đủ và Hàn Lệ Nhân
(bản giản lược)
1.
Chữ Ăn ý nghĩa dồi dào,
Tha hồ thi sĩ nghêu ngao, ỡm ờ.
Bị Ăn cắp, ngồi trơ mắt ếch,
Vì Ăn tham nên mếch lòng nhau.
Ăn thua vang vẻ gì đâu ?
Ăn gian, Ăn lận của nhau bấy rầy.
Người túng bấn Ăn vay từng bữa,
Kẻ giàu sang Ăn bửa từng xu.
Ăn chơi quen thói lu bù,
Ăn tiền hối lộ như Vu (1) mới là.
Ông ốm nghén vì bà Ăn rở,
Cậu đi tu để mợ Ăn chay.
Trước khi Ăn tiệc mày-đay, (2)
Học cho biết cách Ăn mày huy chương.
Chồng cặm cụi Ăn lương nhà nước,
Vợ ung dung hút thuốc Ăn trầu.
Tổ tôm, ông phải ngồi chầu,
Cài khàn không phỗng mặc dầu bà Ăn.
Mong chóng đến ngày Xuân: Ăn Tết,
Vợ chồng ai Ăn kết xe điều.
Bánh chưng, bánh tét cho nhiều,
Để dành Ăn giỗ bao nhiêu cho vừa.
Ba ngày Tết, Ăn bừa, Ăn bãi,
Tết xong rồi họ lại Ăn chơi.
Khi âm nhạc, lúc cờ người,
Nhạc thời Ăn nhịp, cờ thời Ăn quân.
Người lao động cởi trần, Ăn nắng,
Khách phòng khuê da trắng như ngà
Thiên nhiên sẵn đúc một toà
Để cho Ăn ghét, chẳng ma nào thèm.
Vãi nào vãi Ăn khem suốt tháng,
Sư nào sư Ăn mặn quanh năm.
Ăn ngồi rồi lại Ăn nằm,
Ăn kham mặc khổ, Quan âm độ trì.
Ăn hương hoả thiếu gì sung sướng,
Ăn hoa hồng, tôi tưởng bền hơn.
Ăn thề là để rửa hờn,
Nhân dân đầy đủ, giang sơn vững vàng.
Kẻ xấu thói Ăn lường, Ăn lận,
Người quen mui Ăn bẩn, Ăn bây,
Ăn lời, Ăn lãi không đầy,
Bụng ta cũng vậy, bụng Tây khác gì ?
Người Ăn xổi, ở thì vô số,
Kẻ Ăn không nói có gia-na, (3)
Ăn non lại được Ăn già,
Ăn bây cờ bạc mới là người ngoan.
Ai chẳng biết làm quan Ăn lễ,
Ai không hay lính lệ Ăn bòn,
Ăn quèo, Ăn quịt mới ngon,
Ăn quanh, Ăn quẩn hãy còn ngô nghê.
Ăn lót dạ tỉ tê rồi đói,
Ăn thông lưng sành sỏi càng no,
Ăn chung đổ lộn tự do,
Ăn cầm chừng để vừa cho có chừng.
Trai cướp vợ Ăn mừng ỏm tỏi,
Gái tranh chồng Ăn hỏi linh đình.
Ăn thua có một chữ tình,
Để người Ăn cắp rồi mình Ăn năn. (4)
2.
Văn nhân quả khéo Ăn độ thế,
Hậu sinh xin Ăn ké lai rai.
Trước Ăn chữ, nay trả bài,
May ra Ăn mót thêm vài thứ chăng.
Gần cuối tháng Ăn banh tiền chợ,
Lòng lo lo: Ăn xớ đâu đây ?
Thăm bạn Ăn gọ dăm ngày,
Xoay vô cửa Phật Ăn nhây cũng rồi !?
Ăn để sống, ngàn đời thuyết vậy,
Sống để ăn tôi thấy đúng hơn:
Bởi chưng Ăn diện, Ăn ngon
Là mầm Ăn chẹt, Ăn luồn, Ăn xôi.
Nếu Ăn uống, no rồi là đủ
Thì làm chi có lũ Ăn người,
“Nói lời rồi lại Ăn lời”
Ăn cháo đái bát mười mươi thế này.
Nào cái bọn Ăn tay, Ăn rập,
Ăn phong bì, Ăn đất của dân ;
Ăn sắt, Ăn thép của công,
Bề trên bề dưới Ăn không (1), Ăn phàm.
Phường tuồng đó, Ăn giành thuở trước:
Nguyện một lòng vì nước Ăn thừa,
Ăn chạc, Ăn báo, Ăn bưa
Để Ăn gánh chuyện đuổi lùa xâm lăng !
Mãn chầu hát Ăn thông Bến Hải,
Ai là ai, Ăn hại là ai ?
Ăn chằng, Ăn hiếp, Ăn xài,
Ăn không kịp nuốt rạc rài núi sông.
Ăn như hạm lại không biết thẹn,
Cứ tơn tơn hoác miệng Ăn-ten:
Ăn ở cần kiệm chính liêm…
Ăn tục nói phét xứng tên phường chèo !
Ăn phải đũa, ăn theo ai đấy,
Ăn bẫm vậy, múa gậy làm sao ?
Ăn trăng nói gió tầm phào,
Ai Ăn bánh vẽ, lại gào khen ngon !
Ăn ấy ấy hãy còn nhiều lắm,
Nhưng mà thôi, Ăn khảnh bấy nhiêu
Đủ quyền Ăn nói đôi điều,
Chuyển qua Ăn mặc, Ăn tiêu thường thường.
Ăn là thú đoạn trường nhân thế,
Ai Ăn không (2) đặt để lăng nhăng:
Loài Ăn sương, cỏ: sống nhăn
Khác loài muốn sống có làm mới ăn.
Vừa đầy tuổi Ăn xam đúng bữa,
Rồi Ăn học sạch của mẹ cha…
Có tiền Ăn tiệm, Ăn nhà,
Ăn khách, Ăn khín đều là miếng Ăn.
Ăn kiểu Việt còn hàng trăm thứ:
Ăn lua láu, Ăn ngữ, Ăn phần,
Ăn đẽo, Ăn tạp, Ăn xàm,
Ăn chõm, Ăn boóng, Ăn dầm, Ăn loang.
Ăn bốc hốt, Ăn hoang, Ăn hổn,
Ăn thâm vốn, Ăn ngốn, Ăn tươi,
Ăn vã, Ăn vặt, Ăn vòi,
Ăn bẻo, Ăn bĩnh, Ăn bồi, Ăn hôi !
Ăn vòng ngoài đố ai chịu được,
Thời này thời Ăn trước trả sau.
Ăn hớt mãi phải Ăn sâu,
Ăn vụng được cái no mau, nhớ hoài.
Ăn cướp dở không tày Ăn trộm,
Đã Ăn đút: Ăn ngọn mới khôn.
Ăn mòn miệng, điếng lỗ trôn,
Ăn quen khó nhịn, Ăn luôn đồng bào:
Có giống người Ăn nhau quá đẹp,
Trăm năm nay, Ăn thiệt ăn thà.
Ăn trầu gẫm, gẫm non già:
Ăn thịt đồng chủng mới là khéo Ăn ! (7)
*
Ăn mới thực văn nhân tài tử,
Ăn nguyên là văn tự quốc gia.
«Trăm năm trong cõi người ta»,
Không ăn thiên hạ cho là dở hơi. (8)
Đào Trọng Đủ và Hàn Lệ Nhân