Tiểu thuyết 2 tập: CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU - Phạm Ngọc THái
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 53 bài trong đề mục
Nhân văn 02.09.2020 18:24:41 (permalink)
 
 
                                                      14-
 
     Hoàng đã nhận thấy tai hại về sự sa đà tình cảm của anh với cô gái Mường. Tâm hồn trong trắng, thơ ngây của người con gái dân tộc, thanh suốt như chiếc tách pha lê. Sau những lần anh lui tới thăm bản, những lời mời đón, ngọt ngào trai gái – Mỵ đã ái mộ anh! Một tình cảm âm thầm, trinh khiết và tha thiết.
     Phải nói rằng, tuy chưa phải là một lâu đài tráng lệ với những ô cửa tò vò cao chót vót, hay đỉnh tháp hùng vĩ... Nhưng chính sự tươi mát của tâm hồn và tình lưu luyến như hương hoa của em, đã kêu gọi trái tim những người con trai vươn tới. Đã làm cho lòng ta say.
     Ngày ngày cô mong được gặp anh. Thời gian này đơn vị được nghỉ ngơi đón tết, anh em chiến sĩ rỗi rãi, tự do hơn. Họ cũng thường tranh thủ lui tới bản chơi và thăm hỏi bà con.
     Sáng nay anh lại đến. Đang đứng ở cửa ngóng, trông thấy bóng anh từ xa... cô chạy ra đón. Đôi trai gái dắt nhau đi trong vườn đào chi chít hoa, hương đào bay quanh... cảm giác như đến ánh sáng cũng chứa đựng những hương say. Không biết đó chỉ là hương của hoa hay cả hương của người?  Mầu hồng của đào, mầu hồng của nắng... tắm lên làn da trắng mịn mà, trên khuôn mặt xinh xắn của cô gái Mường. Ánh mắt cô nhìn anh lung linh, tựa như đang có bản nhạc "tình yêu và cuộc sống" cất lên trong tâm hồn. 
     Anh đứng ngây ra ngắm nhìn cái vẻ đẹp thơm dại như bông hoa rừng của cô gái bản. Cô nhìn anh hơi e thẹn, cúi xuống:
-  Sao anh cứ nhìn em mãi thế?                         
-  Đào đẹp quá em nhỉ!
     Hoàng nói và mỉm cười.
-  Anh thích cành nào?
-  Cành nào cũng đẹp.
     Họ đi qua những cành đào đung đưa như chào đón. Hoàng giơ tay ngắt một nhánh hoa nhỏ. Mái đầu của cô gái Mường khẽ chạm vào má anh. Anh thoảng nghe hơi thở của người con gái cũng thơm nhẹ như làn hương hoa. Hoàng đưa tay vuốt lại những sợi tóc tơ, cài nhánh hoa lên bím tóc. Mỵ lặng yên để cho anh cài hoa. Cô áp đầu vào ngực anh, nói nhỏ:
-  Anh Hoàng, em rất mến anh!
     Bông hoa mùa xuân trinh bạch quá! Ở đây... chính giữa vườn đào này, người con gái Mường là quầng sáng thần diệu, đầy sức quyến rũ bủa vây. Khi vòng tay anh kéo cô sát vào người, Mỵ có cảm giác như toàn thân cô đang đổ sụp. Lúc này, người con gái bản sẵn sàng gieo vào lòng anh, nếu anh muốn...
     Ai có thể cắt nghĩa được đầy đủ về tình luyến ái? Ai có thể phân được giới hạn tình yêu và sự cuốn hút của người con gái? Bắt đầu chỉ là ý nghĩ về sự chiêm ngưỡng, nhưng rồi chính cái đẹp trinh trắng ấy đã hấp dẫn anh...
     Hoàng tự hỏi: "Tôi thích em, đấy ư!" – Một cái gì bỗng day dứt trong anh? Anh lưỡng lự và giây phút rụt rè, không dám để thả mình tiến xa hơn. Nhưng rồi cái tuổi thanh niên hay khao khát và ham muốn được khai phá...
     Chao ôi! Lỗi lầm sao cũng tươi mát như thân thể và tâm hồn em vậy? Đóa hoa thơm của người con gái đang choán trong anh.
-  Mình có làm gì tồi tệ đâu?
     Anh tự biện bạch cho mình như vậy! Dẫu ta không thể dành cho em một tình yêu thực sự của hôn nhân, nhưng ta vẫn có những tình cảm rất đẹp đẽ với em cơ mà? Những tiếng nói vẳng lên trong anh... và ta lại thích có em? Lại muốn được hưởng những niềm say mê, khao khát của tuổi thanh xuân với em.
     Hoàng bàng hoàng. Anh ôm lấy người con gái, tưới những nụ hôn lên trán, lên môi, lên vòm ngực thơm như hương hoa núi rừng của người thiếu nữ mới lớn.
     Anh bế cô đặt xuống vườn đào.
     Cả anh và cô đều biết rằng: những giây phút ân ái, gần gũi như thế này, chỉ là những khoảnh khắc ngắn ngủi. Rồi anh sẽ tiếp tục ra đi! Nhưng chính ý nghĩ đó... không phải để ngăn giữ, mà lại thôi thúc họ dành cho nhau nhiều hơn.
     Tiếng cô thầm thì: "Em đến với anh nhanh quá, phải không?". Khi đôi bàn tay của người chiến sĩ lần cởi tấm áo chẽn trắng, ra khỏi tấm thân trắng ngần và thơm mát. Cô khẽ giữ tay anh lại, nhưng rồi... lại để mặc anh. Khi anh cởi bỏ cả chiếc váy hoa ra khỏi cô – Trong cô chỉ nghe thấy tiếng nói thầm thì: Em yêu anh... chỉ vì em yêu anh... Dù một ngày nào đó em không còn được gặp anh nữa, thì giây phút này người con gái bản vẫn cho anh, giữ mãi mối tình đẹp đẽ với anh!
     Chiến tranh! Ngươi có ý nghĩa gì, khi đem so sánh với tâm hồn và thể xác trinh trắng của người con gái này? và chính đôi mắt của người con gái, đôi mắt như một bầu trời xanh, trong như dòng suối rừng... đang lên án ngươi!
     Ngươi muốn sự sống trên đời này phải vật vờ như bóng ma ư? Ngươi muốn hủy diệt cả tình yêu và cuộc sống, mà đấng thượng đế tối cao đã ban thưởng cho con người ư? Hãy nhìn đến người con gái xinh xắn, đáng yêu này – Ngươi sẽ thấy sự tồn tại của ngươi đáng nguyền rủa đến vạn lần?
     Anh ngắm nhìn ánh mắt ngây dại như giấc mơ xa của Mỵ. Hai tấm thân đã quyện vào nhau trong vườn đào. Cô run run và khẽ thốt lên: "Anh, em sợ!" – nhưng cả người cô vẫn uốn cong để ghì chặt lấy anh.
     Nhưng một tiếng nói nào đó từ trong trí não đã ngăn anh lại? - Không được! Anh không thể đi đến bước ấy. Bởi vì, anh yêu Thu! Nếu anh đi quá xa với người con gái bản này, anh sẽ có lỗi với Thu.
    Hoàng vội vàng đứng dậy, trước sự ngỡ ngàng của cô gái. Ánh mắt của cô như muốn nói với anh: Em cho anh mà, sao anh không chiếm đoạt em? Nhưng trong anh vẫn vang lên một tiếng nói kiên quyết: Không, anh không thể phản bội lại Thu!
     Hoàng bế Mỵ dậy... khẽ hôn lên tấm thân em lần nữa, rồi mặc áo và váy lại cho em. Mỵ vẫn ngạc nhiên không hiểu: Hay là, anh không thích cô? Người con gái bản lặng lẽ, những giọt nước mắt bỗng trào ra trong khóe mắt. Anh phân trần:
-  Anh không thể, dù anh rất mến em – Mỵ ạ!
     Anh nói như thể xin lỗi vậy. Anh cũng đã phải dùng hết lý trí để cưỡng lại những ham muốn mạnh mẽ của bản thân, nhưng Mỵ vẫn nhìn anh như có chút hờn dỗi và trách móc:
-  Anh không thích em ư?
     Hoàng âu yếm nói:
-  Không phải vậy đâu, em ạ! Anh rất thích em. Anh rất muốn, nhưng...
     Không để cho anh nói hết câu, cô căn vặn:
-  Vậy sao anh dừng lại...
     Anh không biết phải giải thích như thế nào? Anh không thể nói với cô rằng: Anh đã yêu một người con gái khác rồi, dù đó là sự thật. Hoàng đành chống chế:
-  Bọn anh sắp phải đi! Anh không thể ở lại đây với em được.
-  Thì em vẫn biết các anh phải đi...
     Giọng cô nghẹn ngào: "Nhưng em tình nguyện cho anh. Sao anh phải ngần ngại? Người con gái bản đã thuộc về anh rồi mà...". Cô bỗng ôm chầm lấy anh nức nở khóc:
-  Em sẽ đợi anh về! Phải cách xa anh thế nào, em cũng đợi...
     Sự bộc lộ tình yêu, hẹn hò của cô gái dân tộc hiền lành... làm cho Hoàng hoảng hốt. Tiếng khóc của cô thổn thức, nước mắt trào ra đẫm cả ngực anh. Tưởng như cả vườn đào kia cũng phải rung cảm trước tiếng khóc ấy. Nó cất lên từ trong thiên thai, trinh khiết và thơm hương như cánh hoa rừng mùa xuân. Một làn gió đưa về làm cho những cánh hoa bay lả tả...
     Cái dây cót của chiếc đồng hồ thời gian cứ thản nhiên quay. Thoáng chốc trời đã gần đứng bóng, cũng sắp trưa. Mỵ chỉ muốn thời gian thật chậm, để anh ở lại thật lâu với cô.
     Khi Hoàng từ biệt Mỵ ra về, anh vẫn chưa thể nào giải thích được cho cô hiểu? Anh chỉ biết hứa, tết này nhất định sẽ vào bản để thăm mế và cô.
     Họ cùng nhau đi ra khỏi vườn đào. Trên vòm trời, vài đám mây mềm mại đang trôi...
 
 
 
#16
    Nhân văn 02.09.2020 18:28:52 (permalink)
     
     
                                                                                            15
     
         Sáng nay được ngày nắng ấm, các chiến sĩ trong đơn vị Hoàng kéo nhau ra suối tắm. Từ trên núi cao đổ xuống một dòng thác lớn, như một con trăn khổng lồ trong cơn quẫy đạp, quăng cả tấm thân đồ sộ của nó xuống núi. Thác nước tràn ra một khu hồ, từ đó trào vào lòng con suối không lớn lắm, nên nước chảy rất xiết. Những chỗ suối nông, nhấp nhô những phiến đá bị nước bào nhẵn, nhớp nháp rêu. Chỗ suối rộng và sâu cũng phải ngập ngang ngực.
         Người ta kháo nhau: Ngày xưa hồ này còn có tên gọi “Hồ tiên nữ”. Họ truyền kể một câu chuyện thần thoại về hồ.
    … Cứ chiều chiều có bẩy con chim phượng bay đến hồ để tắm. Khi đó giữa hồ còn có một hòn đảo. Giữa đảo nổi lên một chòm núi nhỏ. Trong núi có một chiếc hang cũng không sâu lắm.
         Một chiều… bẩy con chim phượng hạ cánh đỗ xuống đảo, hiện thành bẩy nàng tiên xinh đẹp. Bẩy nàng tiên vào trong hang để trút bỏ xiêm y, rồi thứ tự từ cô chị cả đến cô em út – gọi là nàng bẩy, bước ra khỏi hang xuống suối tắm. Tắm xong họ lên phơi mình trên đảo.  
         Bẩy nàng tiên như bẩy tòa thiên nhiên, lồ lộ phơi mình trong sắc nắng hoàng hôn. Cái hoàn mỹ của mọi sự hoàn mỹ ngự trị trên da thịt các nàng. Hương thơm tỏa ra từ thân thể các nàng đã gọi những bầy chim khôn nhất, có tiếng hót hay nhất... bay đến đảo.
         Đẹp nhất là nàng Bẩy! Nàng nằm bên mé nước, tóc xõa xuống suối. Bầu ngực nàng hiện lên những nét trạm sinh động, tài hoa của tạo hóa. Nàng Bẩy lim dim mắt… nghĩ đến nơi trần thế? Giấc mơ của nàng mỏng manh như hơi thở. Niềm khao khát tình yêu ứa lên đôi môi nàng như nước mật ngọt của trái vả rừng.
         Nàng là tiên, nhưng vẫn là phụ nữ: Nàng không thần tượng sự trong trắng, tiết trinh - Nàng muốn hiến dâng! Nàng ao ước có một cuộc sống hạnh phúc và trăn trở ở cõi trần gian, hơn cuộc sống yên ả nhưng cô đơn, lạnh lẽo chốn thiên đình. Nàng khao khát được yêu, được biết mình đang tồn tại. Đàn bà: Họ là thực tại còn nàng là chiêm bao...
         Ý nghĩ ấy càng làm cho nàng Bẩy thêm buồn chán. Nhìn lên bóng nắng chiều – Nó cũng giống những năm tháng còn lại của đời nàng, lụi dần xuống núi. Nỗi khao khát về sự "hiến thân" truyền lan trong cơ thể nàng, nàng vùng dậy thét lên:
    -  Tồn tại! Tôi muốn tồn tại! Tôi muốn sống. Tôi mu...ốn... số...n...g...
         Tiếng thét của nàng Bẩy làm cho bầy chim sợ hãi bay lên cao. Các nàng tiên chị thì nhìn em lo âu...
         Con suối mà các anh đang tắm, bên cạnh Hồ Tiên Nữ ngày xưa. Hòn đảo ấy qua nhiều năm tháng, đã bị thác nước và sóng hồ đánh tan đi mất. Các chiến sĩ khỏa trần ngâm mình trong dòng suối mát, cười reo như  con trẻ.
         Dong vắt chéo chiếc khăn tắm màu cỏ úa, vừa kỳ cọ tấm lưng to bản vừa nói với Hoàng:
    -  Này, cô bé trông cũng xinh tươi không kém gì nàng Bẩy?
         Ý Dong muốn nói đến cô gái Mường mà mấy anh đã gặp đôi lần khi vào bản.
    -  Cũng khá.
         Hoàng làm ra vẻ thản nhiên đáp lại lời Dong, rồi nhào ra chỗ nước sâu ngụp lặn, lấy tay xoa vò mái tóc đang gội dở. Đám bọt xà phòng trắng lốp nổi lên mặt nước... bị sóng cuốn đi. Hùng thì đang nằm phơi mình trên một tảng đá ở chỗ suối nông, hai tay vắt qua đầu làm gối, nói lửng lơ:
    -  Không khéo có người viết thư đến đơn vị kiện cáo, là lôi thôi đấy!
         Văn đang tắm gần đấy nói gióng lại:
    -  Lo gì, lính là phải thế!
         Anh có ý ủng hộ sự thân tình của Hoàng với Mỵ. Thực ra, đồng đội của Hoàng cũng chỉ đoán già, đoán non ... trêu trọc anh cho vui. Họ vừa tắm vừa bàn tán đủ thứ chuyện, sôi nổi khắp mặt suối.
    -  Này, tớ nói thật: con gái ở đây là có bùa mê đấy! "ăn" phải bùa mê thì khó mà gỡ?
    -  Chậc, lính đất thánh. Cậu quê lắm!
         Dạo đó – lính Hà Nội, anh em đều gọi là "lính đất thánh"! Một chiến sĩ chỉ vào Thuyết, giọng trêu trọc:
    -  Cứ nhìn thằng Thuyết đây! Cũng là lính đất thánh: khôi ngô, tráng kiện như thế mà... chiều qua nó leo lên tận lưng chừng núi, giở thư nhà ra đọc rồi khóc thút thít như con nít?
    -  Nhớ bu chứ gì?
    -  Thế đã phúc. Chắc em yêu ở nhà lại "tút" theo thằng cha nào rồi?
    -  Chỉ nói bậy.
         Thuyết lúng búng vặc lại.
    -  Bậy à? Cũng may bọn tớ đi tìm mấy bông hoa núi mới gặp, nếu không lại chẳng ngồi đến tối.
    -  Hoa khôn trong bản thiếu gì mà đi tìm hoa núi, hả ông bạn?
    -  À... bọn tớ thích chơi hoa dại.
    -  Nghe đâu ra ngoài tết bọn mình về phép? Mỗi anh được giải quyết bốn ngày.
    -  Chắc sắp đi?
    -  Ồi, lính biết thế nào mà đoán trước? Đùng một cái, chẳng phép tắc gì... đi thẳng vào trong cũng nên.
    -  Mẫn ơi! Cậu còn nợ bọn này một chầu khao đấy nhé!
    -  Có tin mừng gì mà khao đấy?
    -  Vợ nó viết thư lên đơn vị, báo tin vừa sinh con trai. Thằng cu kháu lắm!
    -  Thế có "kháu" như anh dân quân xã không đấy?
    -  Cần quái gì. Con người cũng như con ta, con xã hội cả… phải không cậu?
    -  Chỉ nói nhảm.
         Tất cả cười ồ. Một anh chiến sĩ trẻ đã tắm xong, vừa đi về vừa ngâm bài thơ "lính mà em" – Cũng không biết tác giả bài thơ đó là ai?
                  Em trách anh gửi thư sao chậm trễ?
                  Em đợi hoài, sẽ giận cho xem
                  Thư anh viết: anh nào đâu muốn thế,
                  Hành quân hoài đấy chứ - Lính mà em!
     
                  Anh gửi cho em một cành hoa dại
                  Để làm quà, không về được em ơi!
                  Không đi lễ nửa đêm cùng em nữa
                  Thôi đừng buồn em nhé – Lính mà em!
     
                  Ngày về phép anh hẹn em dạo phố
                  Tay chiến binh đan năm ngón tay mềm
                  Em xót xa, đời anh nhiều gian khổ
                  Anh mỉm cười rồi nói – Lính mà em!
     
                  Qua phố nhỏ anh ghi dòng kỉ niệm
                  Trời mưa mưa hai đứa đứng bên thềm
                  Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím
                  Anh quen rồi không lạnh – Lính mà em!
     
                  Anh kể chuyện hành quân và gối súng
                  Trăng trên đầu không đủ viết thư đâu
                  Biên thư cho em, nét mờ chữ vụng
                  Hãy hiểu giùm em nhé – Lính mà em!
     
                  Ghét anh ghê chỉ được tài biện hộ
                  Làm em càng thương nhớ thêm nhiều
                  Em xa lánh những ngày vui trên phố
                  Để nhớ người hay nói – Lính mà em!
     
                                                    *
     
    Khi Văn rủ Hoàng ra về thì dưới suối cũng vãn người tắm, anh em đã về gần hết. Mấy hôm nay, Văn không khỏi ngạc nhiên vì sự thay đổi của Hoàng? Trong cuộc đời chiến sĩ đã bao kỉ niệm vui buồn có nhau. Nhưng rồi các cuộc hành quân liên tiếp, nhiệm vụ mới lôi cuốn họ vào. Sự thay đổi của Hoàng lần này, có gì đó hơi khác thường? Linh tính trong Văn báo cho anh biết, một cái gì "mới" xẩy ra với bạn mình.
         Hoàng nhớ gia đình chăng? Chắc không phải. Tình cảnh gia đình Hoàng, Văn hiểu lắm! Hoàng từng kể cho Văn nghe. Hay Hoàng nhớ Thu? Đúng thôi! Nhất là xuân đến, nhiều khi Văn cũng thấy lòng mình xốn xang. Hoàng còn có người yêu… chứ Văn, cuộc đời với anh mới mẻ quá! Anh chưa hề ý niệm rõ rệt về tình cảm ấy. Đôi lúc anh cũng vấn vương nghĩ đến một người bạn gái thủa học sinh, những kỉ niệm thời thơ ấu. Nhưng rồi tất cả qua đi. Cuộc sống đời lính sôi động, tất bật, mệt mỏi. Chẳng lẽ vì thế mà bạn anh thay đổi nhiều vậy ư?
    -  Hoàng đã nhận được thư của Thu chưa?
         Văn hỏi.
    -  Chưa.
         Hoàng trả lời gọn lỏn một tiếng như thế, dường như anh vẫn đang mải mê đuổi theo niềm tâm tư riêng của mình. Anh đã kể cho Văn nghe chuyện tình cảm của anh với Thu, nhưng chuyện mới này... với cô gái bản Mường xinh xắn, thì anh chưa thể kể được? Hay ít nhất là bây giờ anh chưa thể! Nếu biết, Văn sẽ nói gì với anh? Chắc lại chỉ vài câu vấn an bạn: Ồi, nghĩ làm gì nhiều! Lính mà...
        Không! Đây không còn phải là câu chuyện vui vẻ, bông đùa nữa. Nó sẽ trở nên khôi hài, thậm chí là "vô liêm sỉ", nếu anh coi đấy là một trò giải trí? Nhưng anh cần phải làm gì? Cứ mặc thế, ngày tháng sẽ qua đi ư? Thì mấy ngày nay, anh đã chẳng làm thế đấy sao! Anh đã tránh để khỏi gặp Mỵ... rồi anh sẽ đi xa... sẽ vào chiến trường...
         Anh có thể làm như thế, và anh biết rằng: dù không muốn thế thì anh cũng chẳng thể làm gì khác được nữa. Lương tâm anh bị cắn rứt?
         Hay là, nói thật với Mỵ mọi chuyện? Không, không thể được. Không nên làm như thế! Hoàng thấy chính anh chẳng khác gì kẻ phản bội cả hai người con gái?
         Hoàng cất tiếng hỏi bạn:
    -  Văn nghĩ như thế nào về một tình yêu đúng đắn? Chẳng hạn, một sự san sẻ ngoài ý thức, có phải là sự phản bội không?
         Trầm ngâm giây lát, Hoàng lại nói như thể tự vấn mình: "Mà cũng không hẳn đã là ngoài ý thức?".
    -  Mình chưa có kinh nghiệm trên lĩnh vực ấy!
         Văn nhún vai, ra vẻ muốn nói: "Cậu cũng biết đấy, mình đã có mối tình nào vắt vai đâu cơ chứ?". Nhưng Văn cũng thích tranh luận.
    -  Mình nghĩ: Một tình yêu đúng đắn là sự nhất quán trong tư tưởng, lý trí và tình cảm.
    -  Nhưng ai dám khẳng định rằng: Khi tôi đã yêu rồi, thì không được phép rung động trước bất cứ một hình ảnh nào? Một tình cảm nào? và chẳng lẽ: ngược nó là phản bội? Là thiếu nhất quán? Con đường của tình yêu còn bão gió hơn cả con đường chúng ta đang đi, Văn nhỉ!
         Hoàng triết lý một hồi.
         "À, thì ra thế! Thì ra sự thay đổi của cậu mấy hôm nay là thế đấy!" – Văn nghĩ vậy, nhưng không nói. Anh vui vẻ như người vừa khám phá ra một bí mật, lại sôi nổi tranh luận:
    -  Ờ ờ... thì chuyện tình yêu của người đàn ông với người đàn bà là chuyện của riêng, rối rắm lắm, khó có thể giải thích? Nhưng mình cảm thấy cậu đang tự gây cho mình phiền toái đấy, Hoàng ạ!
         Hoàng lặng lẽ không nói gì. Văn nhìn bạn có vẻ dò xét, buông ra một câu triết lý chẳng ra đâu vào đâu:
    -  Tại cậu đa cảm quá, và tính đa cảm có khi trở thành kẻ phản đồ của tình yêu đấy!
         Họ cũng đã về tới chỗ dựng lán trại, nơi đóng quân của đơn vị để đón tết. Một cái tết đầu tiên của đời lính trong khu rừng núi Hòa Bình này.
     
     
     
     
     
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.09.2020 18:30:35 bởi Nhân văn >
    #17
      Nhân văn 02.09.2020 18:33:28 (permalink)
       
       
       
       
                                                               16-
       
           Mỵ ngồi im lặng hàng giờ bên chiếc cửa sổ bằng trúc, mắt bâng khuâng nhìn ra xa. Bà mế ngồi gần chỗ bếp lửa giữa nhà, bàn tay gầy guộc, run rẩy đẩy những thanh củi vào sâu trong đống than hồng. Ngọn lửa đỏ lưng lức bốc lên, lè lưỡi uốn mình như một chiếc câu liêm. Chốc chốc mế lại quay về phía con gái chép miệng. Nhìn sâu vào ngọn lửa, mế than thở:
      -  Anh trai của con đi vào chiến trường không biết tình hình thế nào, vẫn chưa thấy báo tin về?
      -  Đơn vị của anh con chắc vẫn còn đang đi trên đường Trường Sơn, nghe nói phải hai, ba tháng mới vào đến miền Nam, mà mế?
           Mỵ trả lời mế nhưng mắt cô vẫn đăm đắm nhìn về phía xa. Bà mế lại chép miệng:
      -  Vắng nó, lắm lúc nhà cứ lạnh tanh như âm phủ vậy.
      -  Mế! Còn con vẫn đang ở nhà với mế cơ mà.
           Cơn ho của bà mế lại nổi lên cắt ngang câu nói Mỵ. Mế úp bàn tay trái lên ngực mình, bàn tay phải nắm lấy cây cột bằng bương gần bếp, ho rũ rượi. Mỵ vội chạy lại đỡ mế.
      -  Con đã bảo mế đừng hút thuốc nữa, mế không nghe!
      -  Thiếu cơm cũng không khổ bằng thiếu điếu thuốc.
           Bà mế nói vậy. Mỵ vuốt ngực cho mế. Cái sức người già bị cơn ho giằng xé, lưng mế muốn gẫy gập xuống. Mỵ đỡ mế đứng dậy, đi ra phía ổ ngủ của mẹ con cô. Hồi tối, cô đã trải thêm một chiếc chăn chiên bằng dạ lên trên chiếu, cho mế nằm đỡ đau lưng.
           Mỵ đến bên bếp lửa, ngồi đúng chỗ mế vừa ngồi. Cô tiếp thêm đôi khúc củi vào bếp lửa. Dịu cơn ho, bà mế chắc cũng đã ngủ. Những dòng suy nghĩ lại miên man đến trong đầu Mỵ.
           Mới chỉ ít hôm trước, ý nghĩ về cuộc sống với cô còn thật đơn giản. Nó đơn giản như anh nông dân dắt trâu ra ruộng cầy, hết luống cầy này lại tiếp sang luống khác. Thế mà hôm nay... lòng Mỵ cứ bồn chồn không yên.
           Ở một người con gái như chiếc nụ hoa mới hé nở, khi chưa nếm trải cái ngọt ngào và cả sự đớn đau của tình yêu, tâm hồn còn trong như giọt sương buổi sớm mai. Tuy có lúc do sự nhạy cảm của cuộc sống, họ cũng khao khát một cảm giác mơ hồ, trừu tượng về sự âu yếm, vuốt ve của người con trai. Tình cảm và trái tim còn rất mềm mại, một chiếc gai non lỡ chạm vào cũng làm ứa máu. Nói chung, khi chưa được hít thở niềm sung sướng đến mê dại của yêu đương, thì họ cũng chưa bị co giật bởi một cơn sốt tinh thần nào.
           Chính lúc ấy, bất ngờ Mỵ đã gặp gỡ anh, và cơn sốt tình yêu dồn dập đến trong cô. Có lúc, Mỵ cảm thấy như nghẹt thở vì vui sướng. Tiếng chuông của trái tim người đàn bà đã vang lên trong Mỵ, ngân nga, ngân nga mãi...
           Ôi, buổi sáng với anh ở vườn đào hôm ấy! Mỵ làm sao có thể quên được. Từ thân thể đến tâm hồn người con gái của Mỵ, tựa như một cung đàn bỗng rung lên! Bàn tay anh đã đặt vào cung đàn của em, để hàng ngàn, hàng ngàn những âm thanh trầm bổng bay ra. Nó làm dao động mọi tế bào trong cơ thể, vọng vào rất sâu, rất sâu... len lỏi đến cả nơi thầm kín nhất. Làm cho Mỵ hạnh phúc! Tuy anh chưa chiếm đoạt cái linh thiêng, quí giá nhất của người con gái. Khi ấy Mỵ cũng thấy muốn... nhưng anh đã dừng lại.
           Nghĩ về chuyện đó, bất giác Mỵ thấy thèn thẹn... mặc dù chỉ ngồi một mình, lại tự cười thầm bên bếp lửa.
      -  Ghét ghê! Người ta đã cho còn không muốn...
           Cô lẩn thẩn nói với chính mình, tay tiếp tục cời cho bếp lửa đêm đông cháy hồng lên với những dòng tâm tư thao thức.
           Như người ta nói: Người đàn ông nào đã chiếm được trọn vẹn tiếng chuông thứ nhất trong trái tim người đàn bà, có nghĩa là vĩnh cửu! Lần đầu tiên trong đời Mỵ được tận hưởng cái cảm giác khoái lạc, khi cả tấm thân anh trăn trở, dầy vò trên thể xác cô, dù anh chưa đi đến bước tận cùng. Nghĩ lại những giây phút ấy, niềm hoan lạc vẫn còn dấy lên rạo rực khắp người Mỵ.
           Ý nghĩ về thực tại chợt đến làm cho cô hoảng hốt: Chiến tranh! Phải, chiến tranh! Anh sắp ra chiến trường… Liệu cô còn có thể được gặp lại anh nữa không? Mặc dù cô biết mình sẵn sàng chấp nhận, hoàn cảnh nào... Mỵ cũng vui lòng trao tất cả cho anh.
           Một mình ngồi trong đêm vắng bên bếp lửa, cô gái vẫn mơ tưởng đến... cái cảnh trần truồng lăn lộn với người đàn ông ở vườn đào. Nó sẽ trở thành một kỉ niệm theo suốt cuộc đời cô.
           Tiếng con chim nào đó kêu nấc lên ở ngoài bìa rừng. Tự nhiên Mỵ lại thấy hơi run và lạnh... mặc dù ngọn lửa đỏ vẫn cháy bồng lên sưởi nóng cả gian nhà. Mấy hôm nay anh không vào bản, mai đã là 30 tết rồi! Anh đã hứa sẽ vào bản ăn tết với mế và Mỵ, bởi vậy cô nóng ruột chờ? Thời gian như kéo dài lê thê...
           Giọng khàn khàn của bà mế vừa thức giấc, giục con đi ngủ. Mỵ dập củi, chỉ để lại một bếp than hồng, rồi vào chiếc ổ bông nằm xuống bên cạnh mế. Một lúc, tiếng thở của người con gái bản đã đều đều.
       
       
       
       
       
       
       
      #18
        Nhân văn 02.09.2020 18:35:30 (permalink)
         
         
         
                                                                  17-
         
             Đã qua hai ngày tết vẫn không thấy anh đến? Anh đã hứa với cô, thế mà... Mỵ muốn giận dỗi và trách móc, nhưng có gặp anh đâu mầ trách cơ chứ? Bao ý nghĩ suy diễn cứ lẩn quẩn trong đầu óc, rồi cô lại tự thanh minh cho anh: "Chắc là có chuyện gì đột xuất ở đơn vị, nên anh không vào bản được".
             Hôm qua mồng 2 tết, yên trí thế nào anh cũng vào… nên Mỵ đã lùi sẵn mấy ống cơm lam bằng thứ gạo nương thơm nhất bản. Mế lại cho con gà trống béo nhất chuồng, để làm bữa đón anh. Suốt cả ngày chờ? cô đứng... cô ngồi... đến tận chập tối vẫn không thấy bóng dáng anh đâu. Khi đó, mế và cô mới dọn cơm ra ăn. Cô ăn nhả nhớt không thấy ngon miệng, mế thì suốt bữa chẳng nói câu nào.
             Cô cứ tự biện bạch với mình: Chắc hai ngày tết, các anh phải tổ chức vui xuân trong đơn vị, nên không vào bản được. Có lẽ anh cũng sốt ruột lắm? Anh cũng muốn vào với cô đấy, chứ không phải...
             Hôm nay là mồng 3 – Mỵ nghĩ, thế nào anh cũng vào. Cô lại hy vọng và chờ đợi! Thế mà... trưa đã đứng bóng, vẫn không thấy anh đâu? Cô gái bản ra cửa nhìn về phía rừng, ngóng đợi.
             Cô giận dỗi, đi đi... lại lại... dậm chân thình thình lên mặt sàn. Mế mắng:
        -  Cha đẻ mày, lớn bằng ấy mà vẫn như con nít.
             Mắng thế, nhưng mế thương cô lắm! Mế còn mong cái anh bộ đội vào đây bữa trước, hơn nó nữa.
             Sự thôi thúc muốn được gặp lại anh, mạnh hơn nỗi e ngại. Cả bữa cơm trưa nay, cô cũng chỉ ăn qua quít. Ăn xong, Mỵ nói với mế: Cô muốn vào dơn vị thăm các anh bộ đội? Mế chỉ chép miệng, rồi bảo:
        -  Ừ, con muốn đến chỗ các anh ấy thì cứ đi! Nhưng nhớ cẩn thận. Đừng về muộn quá, mế lo.
             Rửa bát đũa xong và uống vội chén nước. Bà mế chỉ kịp nghe hai tiếng: "Con đi"… bóng con gái mế đã ra đến ngoài đường bản. Nắng ngập trên con đường đất đỏ. Những cánh hoa mận trắng rơi phủ khắp đường, bay lên đuổi theo bước chân của Mỵ. Cô băng qua một nương rẫy lớn, những cánh cò bay nhanh về phía rừng. Núi đã ở trước mặt.
             Từ xa, Mỵ nhìn thấy thấp thoáng những chiếc lán tre mới dựng. Đó chính là nơi các anh bộ đội trú quân để ăn tết. Lúc này Mỵ thấy hồi hộp quá, trống ngực đập thình thình. Dừng lại giây lát để trấn tĩnh, cô mạnh dạn đi về phía dẫy lán đầu tiên, hỏi thăm đường đến chỗ của anh.
         
                                                            *
         
             Vào những ngày đầu xuân Mậu Thân năm 1968 ấy, tin thắng lớn trên chiến trường miền Nam dồn dập bay ra miền Bắc. Nhà quân sự đứng bên tấm bản đồ theo dõi tình hình chiến sự từ các nơi báo về. Vừa nhận được tin giải phóng thành phố này, chưa kịp đánh dấu bằng những đường chỉ đỏ - Thì ở thành phố khác hoặc một đô thị nào đấy tại miền Nam, lại nhận được tin đã giải phóng.
             Trên khắp miền Bắc mọi người dân đều nín thở, đứng bên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, nghe tin chiến thắng.
             Những sư đoàn, trung đoàn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam đều báo động, sẵn sàng cấp tốc lên đường vào chiến trường. Các chiến sĩ cũng nôn nóng muốn ra ngay mặt trận.
             Toàn Trung đoàn 209, gọi là "Trung đoàn mũ sắt" thuộc Sư 312, được mệnh danh là "Quả đấm thép của Bộ” đang đóng quân tại rừng núi Hòa Bình – Các đơn vị đều nhận được chỉ thị tổ chức cho anh em đón tết tại chỗ. Bộ đội không được đi đâu xa, đợi lệnh chuẩn bị hành quân tiến vào miền Nam.
             Đơn vị của Hoàng thuộc Đại đội 5 – Một đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209... nằm trong tình huống báo động ấy! Chính đó là lý do: các anh không thể vào bản ăn tết cùng bà con được.
             Khi Mỵ hỏi thăm vào đến đơn vị gặp anh, mới biết sự tình như thế! Mọi ý nghĩ oán thán của cô với anh tiêu tan hết. Cô lại tự giận mình vì đã vội vã trách anh.
             Mấy chiến sĩ cùng trong Tiểu đội súng máy đại liên với Hoàng, đã mang kẹo mứt... cả bánh trưng bộ đội tự gói ra đón mừng cô. Mỵ vui lắm, cười nói với các anh bộ đội không thấy chán. Mãi tới gần chiều, hai người mới tách riêng ra được, dẫn nhau lên núi ngồi nói chuyện. Họ ngồi bên nhau, trên một thân cây gỗ lớn đã bị đổ nằm giữa rừng.
        -  Tết này bọn anh có lệnh cấm trại!
             Hoàng nói lại lần nữa.
        -  Em biết rồi!
             Cô nhìn anh tủm tỉm cười. Cả hai đều thấy lòng nhẹ nhõm, khi mọi nỗi niềm riêng đều trở nên nhỏ nhoi, trước tình hình chiến sự đang diễn ra nóng bỏng.
             "Dù sao thì cũng không thể khác thế..." – Anh nghĩ vậy, với anh hay với cô... sẽ còn lại một kỉ niệm. Số phận của những riêng tư trong giờ phút này thật mỏng manh. Chiến tranh ào qua nó, không mặc cảm.
             Nghĩ thế, nhưng không biết vì sao sự gặp gỡ với Mỵ, vẫn làm cho Hoàng lúng túng. Anh không ngờ cô lại đến tìm anh?
        -  Anh Hoàng đang nghĩ gì thế?
             Mỵ ngả đầu áp sát vào ngực Hoàng, ngước mắt nhìn anh hỏi. Bỗng nhiên Hoàng bật cười.
        -  Anh Hoàng cười gì?
        -  Đêm qua anh nằm mơ.
        -  Anh mơ thấy gì?
        -  Anh mơ thấy là... trưa nay anh gặp em!
        -  Chỉ bịa, ghét anh ghê!
             Mỵ nũng nịu với người yêu. Cô quên hết sự trách móc, lòng đang trào lên một niềm vui khó tả. Lấy tay nhặt một cộng tre nhỏ, khô rơi trên đất... bẻ tanh tách, ném nó ra xa. Chợt nghĩ tới điều sắp phải xa anh, lòng cô lại bồn chồn.
        -  Bao giờ thì anh phải đi?
             Mỵ hỏi.
        -  Chắc cũng sắp.
             Hoàng trả lời vậy, nhưng bản thân anh cũng không hề biết rằng: chỉ còn bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa, anh đã phải lên đường. Chữ "sắp" của thì tương lai mà anh đã nói, sẽ trở thành thì "hiện tại".
        -  Em cũng nghĩ là anh sắp đi.
             Giọng Mỵ trầm hẳn xuống, nghe rất nhỏ, có gì đang ứ nghẹn trong cổ cô. Bỗng tiếng kêu choe chóe của một con sóc màu hạt dẻ, phá tan sự yên lặng. Nó có chiếc đuôi xồm như cái phất trần, đang nhảy trên những cành cây trước mặt. Thoắt một cái, con sóc đã biến mất vào trong núi.
        -  Đàn ông các anh thật tệ! Ghét anh ghê?    
             Mỵ ôm ghì lấy anh.
        -  Có phải tại anh đâu? Lệnh đấy chứ!
        -  Em không biết.
             Khi chưa gặp anh, cô những muốn nói với anh thật nhiều. Thế mà, giờ cô lại chẳng biết nói gì. Bao nhiêu ý nghĩ miên man trong trí não Mỵ? Khi em biết rằng, em đã yêu anh! Thế là, những ngày tháng vô tư của em không còn nữa. Mới có ít ngày thôi anh nhỉ, vậy mà em cứ nghĩ như đã yêu anh từ lâu lắm! Ở bên anh, em thấy mình hạnh phúc. Em sung sướng.
        -  Liệu rồi, em có còn được gặp lại anh nữa không?
             Cô cảm thấy hơi hoảng hốt. Hoàng không nói gì, chỉ ôm chặt cô vào lòng. Những giọt nước mắt không ngăn được trào xuống má cô. Nghĩ đến lúc phải xa anh, Mỵ tưởng chừng như không thể nào chịu nổi? Mặc dù cô cũng biết: yếu đuối lúc này, khi đất nước đang cần mình – Là không đúng! Nhưng chắc anh sẽ chẳng giận em đâu, phải không anh? Người con gái nào mà chẳng thế! Những lúc ấy, cô chỉ muốn gục vào anh mà khóc. Khóc được, cô thấy mình nhẹ hơn.
             Mỵ đắm đuối nhìn Hoàng, tha thiết biết nhường nào. Đôi mắt ấy như muốn nói: Hãy hôn em đi! Hãy ôm em như hôm ở trong vườn đào ấy? Rồi anh đi! Lúc này, chúng mình không nghĩ về chuyện gì khác nữa. Chỉ nghĩ đến, em đang ở bên anh. Chúng mình đang yêu nhau...
             Gặp lại được anh, em chỉ muốn theo anh ra mặt trận, sẽ cùng chiến đấu với anh. Em sẽ nấu cơm cho anh ăn, ru cho anh ngủ...
             Còn Hoàng, anh như sống trong mơ. Mà đâu phải là mơ, cô gái đang nằm trong vòng tay anh đấy! Người con gái trong trắng, xinh tươi, đáng yêu này. Ôi, đôi bàn tay? lý trí của ngươi thật tồi tệ. Nhưng lý trí mà làm gì? Những xúc động mãnh liệt cám dỗ anh phút này còn mạnh hơn. Chẳng có gì ngăn trở nữa, đôi bàn tay tham lam.
             "Anh là của em!..." – Tiếng của cô gái đang yêu, thầm thì ở bên anh.
             Hãy lấy ánh mắt của người con gái đang say đắm, trong biển cả tình yêu, thì mới thấy nó sâu xa, thăm thẳm đến nhường nào.
             Hoàng không thể nào nói nổi với Mỵ cái điều mà anh đã muốn nói với cô? Anh muốn thú nhận với người con gái bản rằng: Tình yêu giữa anh và cô, không dẫn đến một kết quả nào! Anh không thể nói với cô là, anh đã có người yêu rồi! Đâu có phải anh cố tình muốn lừa dối cô? - Không, không phải thế! Trong Hoàng bối rối với bao suy nghĩ...
             Những tiếng lá khô gặp cơn gió thổi đến, bay xào xạc dưới chân. Nhìn vào rừng cây mà Hoàng thấy mình cứ như đang nhìn đến một khoảng hư không nào đó.
        -  Anh Hoàng đang nghĩ gì vậy?
             Mỵ vẫn áp đầu vào ngực anh và hỏi. Đôi mắt cô trìu mến nhìn anh như muốn nói: "Anh đã thấy rồi đấy! Cả tâm hồn, trái tim tình yêu, rồi sẽ cả cuộc đời em nữa... đã chẳng thuộc về anh đó ư?".
             Hoàng ngập ngừng:
        -  Mỵ, anh đã yêu...
             Có cái gì đang thôi thúc trong anh phải nói ra, rằng... anh đã yêu một người con gái khác! Nhưng Mỵ lại cắt ngang ý nghĩ đó của anh.
        -  Em biết rồi! Thì em cũng rất yêu anh mà...
        -  Không phải thế. Ý anh muốn nói: chúng ta không thể kéo dài quan hệ với nhau hơn được nữa. Bởi vì...
             Mỵ lại lấy tay bịt miệng, không để anh nói tiếp.
        -  Anh lại muốn nói là: vì đất nước có chiến tranh, anh phải đi ra chiến trường, chứ gì?
             Giọng cô trở nên sôi nổi và kiên quyết:
        -  Anh đừng bao giờ có ý nghĩ ấy nữa nhé? Nếu không là em sẽ giận đấy! Em sẽ chờ anh trở về, dù năm – mười năm, hay hai mươi năm, em cũng chờ.
             Bóng nắng của rừng chiều nghiêng ngả. Cánh rừng có vẻ hơi chao đảo, nhưng rồi êm đềm trở lại. Mỵ thấy giờ đây tất cả với cô thật nhẹ nhõm,  không nghĩ gì nữa, chỉ biết là cô đang ở bên anh. Cô kéo vòng tay anh ôm chặt lấy mình.
             Hoàng không còn tỉnh táo nữa. Những cảm xúc mạnh mẽ dâng trào trong anh. Rừng và núi che lấy họ. Cô kéo anh cùng nằm xuống thảm lá. Đôi mắt đáng yêu kia đang nhìn anh tha thiết đến chừng nào!
             Hoàng đã bị khuất phục hoàn toàn.
             Anh hôn lên môi, lên vú... và bàn tay người lính trẻ luồn qua lớp vải mỏng... xoa lên cả cái chỗ thiêng liêng, kín đáo nhất của cô.
             Mỵ bỗng vùng nhỏm dậy, tưởng cô từ chối không đồng ý với anh? Nhưng không phải vậy. Đôi bàn tay xinh xẻo của người con gái Mường tháo cởi dải thắt lưng bằng vải mềm vẫn quấn quanh cạp chiếc váy hoa, trút bỏ hết bộ đồ đang mặc ra khỏi người... để mở ra cả tấm thân trắng nõn nà. Một đấng thiên thai của tạo hóa đang lồ lộ trước mặt anh.
             Hoàng ngập ngừng:
        -  Mỵ! Nhưng anh phải đi mà. Anh sợ em có thai?
        -  Néu có thai, em sẽ sinh con cho anh. Mẹ con em sẽ chờ anh trở về!
        -  Nhưng nếu em bụng mang, dạ chửa... bà con dân bản sẽ cười nhạo, chửi mắng em? Phải sống thế thì khốn khổ lắm, em ạ!
            Cô kể: mấy năm trước, bản em có một chị có thai với một anh bộ đội cũng về đây đóng quân, rồi anh ấy ra tiền tuyến. Dân bản không những không mắng mỏ, khi chị ấy sinh con… bà con còn cưu mang để chị nuôi con nữa. Giờ cháu gái, con của chị đã được một tuổi. Cháu rất xinh và đáng yêu lắm!
             Người ta thường bảo: Con gái dân tộc đã yêu thì như giông bão, yêu điên dại, yêu không tiếc mình. Như con hươu, con nai núi băng qua nương, qua rừng tìm đến bạn tình!
             Cô kéo anh ghì sát vào mình… Chẳng thể nào cưỡng lại được nữa. Giây lát, một cảm giác tê dại lan truyền ra cả hai thân thể đang quấn xiết vào nhau. Cô uốn cong thân mình khẽ rên lên vì sung sướng, hạnh phúc dâng lên đến tột đỉnh! Lần đầu tiên cô đã được hưởng mùi vị của cuộc đời, với người con trai mà cô rất mực yêu thương.
             Khi mọi chuyện đã xong. Hoàng cứ nằm phủ phục mãi trên tấm thân truồng của người con gái bản, cũng không biết là bao lâu nữa. Nhúm lông tơ mềm mại của cô vẫn đang cọ xát vào của anh kia - Ở nơi ấy vừa xẩy ra một vụ "động đất". Người con gái vẫn đang thấy râm ran khắp trong mình...
             Bóng chiều cũng đã tàn. Lúc này, Mỵ mới dịu dàng nói:
        -  Đừng bao giờ quên em, nghe anh! Khi vào đến chiến trường, nhớ viết thư về cho em. 
              Hoàng chợt nhớ lại chuyện cũ - Cả hai người con gái, hai miền quê và dân tộc khác nhau, đều đã cho anh cái cảm xúc say mê, ngây ngất của cuộc đời.
             Cái cảm giác khi với Thu thế nào nhỉ? còn đang nằm trên bụng người con gái bản, anh tự hỏi trong mình: Người con gái Hà Nội, nàng cũng đã yêu anh tha thiết. Với nàng - anh thấy rạo rực, đê mê khi lăn lộn trên tấm thân trần, tuyệt bích.
             Còn với người con gái Mường? Ôi, hương vị bông hoa dại núi rừng, em cũng ngọt ngào hương say của một đóa thiên thai. Cả hai lần đều cho anh một cảm giác không thể nào quên được.
             Lúc Mỵ khẽ đẩy Hoàng ra, hai chân anh vẫn còn quặp chặt lấy đùi cô. Như người tỉnh giấc mộng, anh bật dậy và nói:
        -  Ta về thôi em! Anh sẽ đưa em ra tới bìa rừng, rồi phải quay lại. Đơn vị không cho phép anh đi xa quá!
            Cô mặc lại áo váy, rồi cùng anh trở về. Nhìn theo bóng Mỵ đã khuất qua nương để vào bản, Hoàng mới quay lại đi về phía lán của đơn vị.
             "Thế là mình vẫn chưa nói được với Mỵ điều đó..." – Anh tự nhủ với mình: Rồi chiến tranh sẽ cuốn đi tất cả…
             Lúc này, bài thơ "Lính mà em" mà người chiến sĩ đã đọc bên bờ suối bữa trước, lại văng vẳng bên tai anh:
                       .......
                       Anh kể chuyện hành quân và gối súng
                       Trăng trên đầu không đủ viết thư đâu
                       Biên thư cho em, nét mờ chữ vụng
                       Hãy hiểu giùm em nhé – Lính mà em!
         
                       Ghét anh ghê chỉ được tài biện hộ
                       Làm em càng thương nhớ thêm nhiều
                       Em xa lánh những ngày vui trên phố
                       Để nhớ người hay nói – Lính mà em!
         
         
         
         
         
         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.09.2021 19:07:22 bởi Nhân văn >
        #19
          Nhân văn 10.09.2020 17:28:55 (permalink)
           
           
           
           
                              Chương IV.   
           
                    VỀ PHÍA HẬU PHƯƠNG
           
           
           
                                                 18-
              Sông Hồng nước đỏ quạch như pha máu, sóng trào lên lai láng. Đứng trên cầu Long Biên nhìn ra xa, mấy chiếc thuyền câu của dân vùng ven bãi vẫn đi đánh cá, tuy đã rất thưa thớt so với hồi trước. Trông xa tít, các con chim nhạn lao thẳng xuống gần chạm mặt nước, rồi nó nghiêng mình bay vọt lên, giống như những chiếc máy bay tiêm kích mig-21 đang nhào lộn.
               Ở mỗi nóc đỉnh cao của các trụ cầu Long Biên chạy vắt qua sông, người ta đều thấy có những cỗ pháo cao xạ 14,5mm loại hai nòng đặt trên đấy. Đó chính là những trận địa pháo của Binh chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Bóng những chiến sĩ đứng trên cỗ pháo, dưới trông lên nhỏ xíu.
               Trong những năm chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, khi không quân Mỹ đã leo thang đánh tới Hà Nội, không mấy ngày là không có máy bay đến đánh phá cầu Long Biên. Công việc của những tên giặc lái Hoa Kỳ là ném bom phá cầu – Nhiệm vụ của những người pháo thủ ở đây, là bắn máy bay Mỹ để bảo vệ cầu. Sự tồn tại của họ là sự tồn tại của cầu Long Biên, đường giao thông huyết mạch từ thủ đô lên mạn bắc. Khi những người chiến sĩ còn có mặt trên những mâm pháo, có nghĩa... cầu Long Biên vẫn còn thông suốt – Vì, nếu khi máy bay Mỹ đã ném bom trúng cầu, thì cùng với những đoạn cầu bị sập, xác họ và xác của cỗ pháo cũng sẽ bị hất chìm xuống sông. Bởi vậy, những người chiến sĩ trên trận địa pháo cao xạ phòng không này, được nhân dân mệnh danh là "Đội quân cảm tử"!
               Lúc này, có một cô gái mặc chiếc áo cánh màu nâu non, đi trên chiếc xe đạp mác hiệu Thống Nhất nữ, đang từ phía ngoại thành bên kia cầu Long Biên vượt vào nội thành. Cô gái gò lưng đạp mải miết, cố vượt qua cầu cho nhanh. "còn một phút ở trên cầu, là không có bình yên" – cô nghĩ vậy. Bỗng có tiếng gọi giật... Cô gái cảm thấy hình như có ai đó đang gọi mình?
          -  Này, cô em ơi! Cô em đi xe đạp áo nâu non... ơi! 
               Cô gái dừng xe, quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng không thấy ai thân quen. Chỉ mấy người lạ cùng đi một hướng với cô, ai cũng vội vã... phóng thật nhanh. Một bác già thấy cô đứng lại, vừa vượt xe lên vừa mắng:
          -  Muốn ăn bom à, còn đứng lại?
               Cô đã toan đạp xe đi tiếp, lại nghe thấy tiếng gọi lần nữa:
          -  Anh đây cơ mà...
          -  Chúng anh ở trên này, cô em ơi!
               Cô gái ngẩng đầu ngước nhìn lên cao, rồi tự mắng mình: "Rõ khỉ, thì ra mấy anh lính...". Tuy vậy, cô vẫn giơ tay vẫy vẫy... đùa lại:
          -  Về đi anh ơi! Cơm canh nguội hết rồi?
          -  Anh còn phải trực bắn máy bay Mỹ, chưa về được với em đâu! Có lên đây, anh đón?
          -  Nghỉ nhé.
               Cô gái nhoẻn cười: "Đằng ấy không về, thì đây về một mình" - Nói xong, cô đưa hai ngón tay lên làm động tác hôn gió rồi phóng xe đi. Những câu trêu chọc của mấy anh lính pháo thủ còn theo cô một quãng.
               Cô gái ấy là Thu. Từ sáng sớm đến giờ, phải đạp xe ngót trăm cây số đường trường, Thu đã thấm mệt. Ô tô thời kỳ này hay bị trắc trở, Thu phải mượn chiếc xe đạp của chị y tá ở trường, đi về Hà Nội thăm gia đình.
           
                                                                *
           
               Ông Giáo ngồi trên chiếc ghế sa lông kê giữa nhà. Ông cầm ấm nước trà nóng, vừa rót nước vừa nói với Bà Giáo:
          -  Tôi đã nói với bà cứ ở yên chỗ sơ tán. Tôi ở nhà đã có anh em trên Bộ giáo dục: ăn có nhà bếp tập thể, ốm đau có y tá của cơ quan. Bà về làm gì?
               Uống ngụm nước nóng, ông nói tiếp:
          -  Cứ năm, bảy bữa... bà lại bò về Hà Nội. Cái đất thủ đô này, giờ đâu có được yên ả cơ chứ!
               Bà Giáo ngồi trên giường, mắt đeo cặp kính trắng gọng nhỏ, đang lúi húi mạng cho chồng cái đầu gối quần đã bị sờn vải. Nghe Ông Giáo nói thế, mới đặt cả hai tay lên đùi, vẻ trách móc:
          -  Nếu tình hình không yên ả, thế sao ông còn ở lại?
          -  Bà này nói lạ. Là vì công việc, chứ có phải tôi ở lại Hà Nội để chơi đâu?
          -  Khốn ông còn hăng máu lắm cơ! Mình già rồi, lại không theo bộ phận đi lên chỗ sơ tán của cơ quan, cứ nhất nhất xin ở lại Thủ đô. Trên Bộ giáo dục dễ hết thanh niên rồi hay sao?
               Bà tỏ thái độ cương quyết:
          -  Sống cùng sống, chết cùng chết. Ông ở lại, tôi cũng ở lại.
               Đã vá mạng xong cái chỗ quần rách đó, bà ghé răng cắn đứt sợi chỉ rồi đưa kim cho cô con gái đang ngồi bên cạnh:
          -  Xâu hộ cho mẹ sợi chỉ khác, để mẹ mạng nốt cho ba con cái đầu gối quần bên kia, sắp bục đến nơi rồi.
               Bà chép miệng: "Chết chửa, hồi này mắt mẹ kém quá!". Thu kéo chiếc quần của ba về phía mình, nói với mẹ:
          -  Để con mạng nốt cho ba con!
               Ông Giáo vẫn cảu nhảu:
          -  Mà tôi ở lại Hà Nội thì cũng đã bị làm sao đâu, mà bà phải lo?
          -  Lại chờ tới lúc bị làm sao?
               Bà Giáo kéo dài giọng: "Ông cho tôi xin chén nước!". Thu để chiếc quần của ba xuống giường, đi lại phía bàn rót nước đưa cho mẹ, rồi nói:
          -  Hay là mẹ lên chỗ sơ tán của con ở trường, ở với con? Các bạn con, cũng khối người mang theo cả bố mẹ già lên đấy!
               Bà Giáo nhìn con gái, lắc đầu:
          -  Để ba con ở nhà một mình sao được?
               Ông Giáo đứng lên đi lại phía bàn làm việc, cầm lấy quyển sách đang dịch dở. Không quay đầu nhìn vợ, ông nói:
          -  Bà nó nên nghĩ lại cho chín? Tôi ở thêm Hà Nội ít bữa, cùng với anh em thu xếp công việc của Bộ cho gọn rồi... cũng sẽ đi sơ tán. Tình hình ngày càng căng thẳng thế này, chẳng ai để cho mình ở lại lâu.
               Đã mạng xong quần của ba. Thu gấp lại cẩn thận, để xuống dưới chiếc gối đầu giường, chỗ ba cô nằm... rồi cùng với mẹ lên gác trên.
               Gian phòng lâu ngày không có hơi người, đã có mùi ẩm mốc. Chiếc giường cá nhân của Thu kê sát cửa sổ, trông xuống phố. Vẫn như hồi cô còn ở nhà, mọi thứ không có gì thay đổi, nhưng Thu cảm giác như sự hoang lạnh đã tràn vào gian phòng. Bà Giáo đi về phía giường của mình, nói với con gái:
          -  Ngày mai, con có vào chỗ sơ tán thăm chị dâu và cháu Kỳ Anh không?
          -  Dạ, có ạ!
          -  Thế thì liệu mà đi cho sớm, con ạ! Hồi này máy bay, máy bò đánh luôn.
          -  Con cũng định đi từ sáng sớm, chiều tối quay về tranh thủ giải quyết mấy việc rồi phải trở về trường để học.
               Thu đi lại trong phòng ngắm nhìn những đồ vật cũ, nó gợi cho cô những kỉ niệm về quãng đời niên thiếu: "Ta cứ tưởng như vừa mới hôm qua thôi!" – Thu nghĩ. Cô nhìn mãi tấm chân dung thiếu phụ của nhà danh họa Ý Lê-ô-na Đờ-vanh-xi, được ba lồng vào trong một khung kính treo ở trên tường.
          -  Tuyệt quá!
               Cô tự nói với chính mình, rồi quay lại hỏi Bà Giáo:
          -  Anh con có viết thư về không mẹ?
          -  Có, từ tuần trước. Con không nhắc thì mẹ quên khuấy, cả thư riêng anh đã viết cho con nữa đấy!                    
               Bà Giáo nhỏm dậy, lấy bức thư từ trong ngăn kéo tủ, đưa cho con rồi bảo: "Xem mà viết cho anh, kẻo anh nó mong". Lá thư của anh trai viết cho Thu khá dài, cô đọc ngấu nghiến như người đang đói.
          -  Anh ấy kể chuyện chiến trường mà vui quá, mẹ nhỉ?                      
               Bà Giáo như đang suy ngẫm một điều gì, lơ đãng không trả lời con. Những kỉ niệm cũ với người con trai lại diễn ra trong óc bà. Chẳng nhiều nhặn gì, bà chỉ sinh được hai anh em nó. Thằng anh, được hai tuổi thì "cách mạng tháng 8" thành công. Cái thời mà Ông Giáo còn tham gia trong hội kín, hội mở... Mấy năm sau thì ông thoát ly đi kháng chiến. Bà có mang cái Thu trong lần vào vùng "tự do" của cánh mạng để tiếp tế cho chồng, ở Chi Lê thuộc vùng rừng núi Hòa Bình.
               Bất giác Bà Giáo thở dài: "Bây giờ chúng nó đã bằng ngần ấy". Một đời người, hai lần kháng chiến. Đời cha rồi lại đời con, không chừng rồi đến cả đời cháu của bà nữa? Thấy mẹ thở dài, Thu quay lại hỏi:
          -  Mẹ làm sao thế?                             
          -  Có viết thư, con nhớ bảo anh là mẹ dặn phải giữ gìn sức khỏe.             
               Nói rồi Bà Giáo trùm chăn ngủ.
          ...  Thế là cả hai người thân của Thu đều đến nơi chiến trường. Răng cắn vào cái quản bút chấm mực, cô nghĩ: Một người là anh, một người là bạn. Cả hai đối với Thu đều thân thiết.
               Những ý nghĩ cứ miên man trong trí óc cô: Khi người ta biết hy sinh cho một tình yêu, và sự hy sinh đó gắn bó bởi mối quan hệ riêng, chung... thì họ có quyền kiêu hãnh, phải không anh?
               Mình sẽ viết câu ấy cho Hoàng – mà không, viết cho anh trai có lẽ hợp hơn? Thu lấy giấy viết thư cho anh. Những suy cảm như dòng nước đang chảy xối xả ở trong cô...
               ... Cái nhận thức ấy đến với em từ lúc nào nhỉ? Em không còn nhớ. Nó cứ lớn dần, anh ạ! Nhất là từ buổi tiễn người bạn trai của em nhập ngũ. Người bạn mà em đã kể cho anh nghe, rồi đấy!
               Trước đây là sách vở, bây giờ là cuộc đời. Thực tế thì nhiều phức tạp hơn, song cũng sinh động hơn sách vở. Anh có biết em sung sướng thế nào không? Thực ra thì không đơn giản, nhưng khi em đã thấy mình vượt lên, đã khẳng định được con người mình, ý thức tốt đẹp về một cuộc sống - Em thấy mình hạnh phúc! Cũng như anh đã nói trong lá thư viết cho em: Cái hạnh phúc của người lính thường đến, sau mỗi lần chiến thắng...
               Trên giường Bà Giáo đã ngủ thiếp đi, tiếng ngáy của bà đều đều. Thân hình vốn đã bé nhỏ của bà, giờ lại gầy hơn một chút. Bà nằm lọt thỏm trong tấm đệm bông. Thu dừng viết thư, đến bên giường kéo chăn phủ kín lên ngực mẹ.
               Cô nhìn mẹ tủm tỉm cười, rồi quay lại bàn viết tiếp lá thư cho người bạn trai. Sáng mai cô sẽ bỏ vào hòm thư của thành phố, để gửi cả hai lá thư này ra nơi tiền phương.
           
           
           
           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.09.2021 18:32:50 bởi Nhân văn >
          #20
            Nhân văn 10.09.2020 17:34:25 (permalink)
             
             
             
             
                         Chương IV.   
             
                   VỀ PHÍA HẬU PHƯƠNG
             
             
                                                                                 18-

                 Sông Hồng nước đỏ quạch như pha máu, sóng trào lên lai láng. Đứng trên cầu Long Biên nhìn ra xa, mấy chiếc thuyền câu của dân vùng ven bãi vẫn đi đánh cá, tuy đã rất thưa thớt so với hồi trước. Trông xa tít, các con chim nhạn lao thẳng xuống gần chạm mặt nước, rồi nó nghiêng mình bay vọt lên, giống như những chiếc máy bay tiêm kích mig-21 đang nhào lộn.
                 Ở mỗi nóc đỉnh cao của các trụ cầu Long Biên chạy vắt qua sông, người ta đều thấy có những cỗ pháo cao xạ 14,5mm loại hai nòng đặt trên đấy. Đó chính là những trận địa pháo của Binh chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Bóng những chiến sĩ đứng trên cỗ pháo, dưới trông lên nhỏ xíu.
                 Trong những năm chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, khi không quân Mỹ đã leo thang đánh tới Hà Nội, không mấy ngày là không có máy bay đến đánh phá cầu Long Biên. Công việc của những tên giặc lái Hoa Kỳ là ném bom phá cầu – Nhiệm vụ của những người pháo thủ ở đây, là bắn máy bay Mỹ để bảo vệ cầu. Sự tồn tại của họ là sự tồn tại của cầu Long Biên, đường giao thông huyết mạch từ thủ đô lên mạn bắc. Khi những người chiến sĩ còn có mặt trên những mâm pháo, có nghĩa... cầu Long Biên vẫn còn thông suốt – Vì, nếu khi máy bay Mỹ đã ném bom trúng cầu, thì cùng với những đoạn cầu bị sập, xác họ và xác của cỗ pháo cũng sẽ bị hất chìm xuống sông. Bởi vậy, những người chiến sĩ trên trận địa pháo cao xạ phòng không này, được nhân dân mệnh danh là "Đội quân cảm tử"!
                 Lúc này, có một cô gái mặc chiếc áo cánh màu nâu non, đi trên chiếc xe đạp mác hiệu Thống Nhất nữ, đang từ phía ngoại thành bên kia cầu Long Biên vượt vào nội thành. Cô gái gò lưng đạp mải miết, cố vượt qua cầu cho nhanh. "còn một phút ở trên cầu, là không có bình yên" – cô nghĩ vậy. Bỗng có tiếng gọi giật... Cô gái cảm thấy hình như có ai đó đang gọi mình?
            -  Này, cô em ơi! Cô em đi xe đạp áo nâu non... ơi! 
                 Cô gái dừng xe, quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng không thấy ai thân quen. Chỉ mấy người lạ cùng đi một hướng với cô, ai cũng vội vã... phóng thật nhanh. Một bác già thấy cô đứng lại, vừa vượt xe lên vừa mắng:
            -  Muốn ăn bom à, còn đứng lại?
                 Cô đã toan đạp xe đi tiếp, lại nghe thấy tiếng gọi lần nữa:
            -  Anh đây cơ mà...
            -  Chúng anh ở trên này, cô em ơi!
                 Cô gái ngẩng đầu ngước nhìn lên cao, rồi tự mắng mình: "Rõ khỉ, thì ra mấy anh lính...". Tuy vậy, cô vẫn giơ tay vẫy vẫy... đùa lại:
            -  Về đi anh ơi! Cơm canh nguội hết rồi?
            -  Anh còn phải trực bắn máy bay Mỹ, chưa về được với em đâu! Có lên đây, anh đón?
            -  Nghỉ nhé.
                 Cô gái nhoẻn cười: "Đằng ấy không về, thì đây về một mình" - Nói xong, cô đưa hai ngón tay lên làm động tác hôn gió rồi phóng xe đi. Những câu trêu chọc của mấy anh lính pháo thủ còn theo cô một quãng.
                 Cô gái ấy là Thu. Từ sáng sớm đến giờ, phải đạp xe ngót trăm cây số đường trường, Thu đã thấm mệt. Ô tô thời kỳ này hay bị trắc trở, Thu phải mượn chiếc xe đạp của chị y tá ở trường, đi về Hà Nội thăm gia đình.
             
                                                                  *
             
                 Ông Giáo ngồi trên chiếc ghế sa lông kê giữa nhà. Ông cầm ấm nước trà nóng, vừa rót nước vừa nói với Bà Giáo:
            -  Tôi đã nói với bà cứ ở yên chỗ sơ tán. Tôi ở nhà đã có anh em trên Bộ giáo dục: ăn có nhà bếp tập thể, ốm đau có y tá của cơ quan. Bà về làm gì?
                 Uống ngụm nước nóng, ông nói tiếp:
            -  Cứ năm, bảy bữa... bà lại bò về Hà Nội. Cái đất thủ đô này, giờ đâu có được yên ả cơ chứ!
                 Bà Giáo ngồi trên giường, mắt đeo cặp kính trắng gọng nhỏ, đang lúi húi mạng cho chồng cái đầu gối quần đã bị sờn vải. Nghe Ông Giáo nói thế, mới đặt cả hai tay lên đùi, vẻ trách móc:
            -  Nếu tình hình không yên ả, thế sao ông còn ở lại?
            -  Bà này nói lạ. Là vì công việc, chứ có phải tôi ở lại Hà Nội để chơi đâu?
            -  Khốn ông còn hăng máu lắm cơ! Mình già rồi, lại không theo bộ phận đi lên chỗ sơ tán của cơ quan, cứ nhất nhất xin ở lại Thủ đô. Trên Bộ giáo dục dễ hết thanh niên rồi hay sao?
                 Bà tỏ thái độ cương quyết:
            -  Sống cùng sống, chết cùng chết. Ông ở lại, tôi cũng ở lại.
                 Đã vá mạng xong cái chỗ quần rách đó, bà ghé răng cắn đứt sợi chỉ rồi đưa kim cho cô con gái đang ngồi bên cạnh:
            -  Xâu hộ cho mẹ sợi chỉ khác, để mẹ mạng nốt cho ba con cái đầu gối quần bên kia, sắp bục đến nơi rồi.
                 Bà chép miệng: "Chết chửa, hồi này mắt mẹ kém quá!". Thu kéo chiếc quần của ba về phía mình, nói với mẹ:
            -  Để con mạng nốt cho ba con!
                 Ông Giáo vẫn cảu nhảu:
            -  Mà tôi ở lại Hà Nội thì cũng đã bị làm sao đâu, mà bà phải lo?
            -  Lại chờ tới lúc bị làm sao?
                 Bà Giáo kéo dài giọng: "Ông cho tôi xin chén nước!". Thu để chiếc quần của ba xuống giường, đi lại phía bàn rót nước đưa cho mẹ, rồi nói:
            -  Hay là mẹ lên chỗ sơ tán của con ở trường, ở với con? Các bạn con, cũng khối người mang theo cả bố mẹ già lên đấy!
                 Bà Giáo nhìn con gái, lắc đầu:
            -  Để ba con ở nhà một mình sao được?
                 Ông Giáo đứng lên đi lại phía bàn làm việc, cầm lấy quyển sách đang dịch dở. Không quay đầu nhìn vợ, ông nói:
            -  Bà nó nên nghĩ lại cho chín? Tôi ở thêm Hà Nội ít bữa, cùng với anh em thu xếp công việc của Bộ cho gọn rồi... cũng sẽ đi sơ tán. Tình hình ngày càng căng thẳng thế này, chẳng ai để cho mình ở lại lâu.
                 Đã mạng xong quần của ba. Thu gấp lại cẩn thận, để xuống dưới chiếc gối đầu giường, chỗ ba cô nằm... rồi cùng với mẹ lên gác trên.
                 Gian phòng lâu ngày không có hơi người, đã có mùi ẩm mốc. Chiếc giường cá nhân của Thu kê sát cửa sổ, trông xuống phố. Vẫn như hồi cô còn ở nhà, mọi thứ không có gì thay đổi, nhưng Thu cảm giác như sự hoang lạnh đã tràn vào gian phòng. Bà Giáo đi về phía giường của mình, nói với con gái:
            -  Ngày mai, con có vào chỗ sơ tán thăm chị dâu và cháu Kỳ Anh không?
            -  Dạ, có ạ!
            -  Thế thì liệu mà đi cho sớm, con ạ! Hồi này máy bay, máy bò đánh luôn.
            -  Con cũng định đi từ sáng sớm, chiều tối quay về tranh thủ giải quyết mấy việc rồi phải trở về trường để học.
                 Thu đi lại trong phòng ngắm nhìn những đồ vật cũ, nó gợi cho cô những kỉ niệm về quãng đời niên thiếu: "Ta cứ tưởng như vừa mới hôm qua thôi!" – Thu nghĩ. Cô nhìn mãi tấm chân dung thiếu phụ của nhà danh họa Ý Lê-ô-na Đờ-vanh-xi, được ba lồng vào trong một khung kính treo ở trên tường.
            -  Tuyệt quá!
                 Cô tự nói với chính mình, rồi quay lại hỏi Bà Giáo:
            -  Anh con có viết thư về không mẹ?
            -  Có, từ tuần trước. Con không nhắc thì mẹ quên khuấy, cả thư riêng anh đã viết cho con nữa đấy!                    
                 Bà Giáo nhỏm dậy, lấy bức thư từ trong ngăn kéo tủ, đưa cho con rồi bảo: "Xem mà viết cho anh, kẻo anh nó mong". Lá thư của anh trai viết cho Thu khá dài, cô đọc ngấu nghiến như người đang đói.
            -  Anh ấy kể chuyện chiến trường mà vui quá, mẹ nhỉ?                      
                 Bà Giáo như đang suy ngẫm một điều gì, lơ đãng không trả lời con. Những kỉ niệm cũ với người con trai lại diễn ra trong óc bà. Chẳng nhiều nhặn gì, bà chỉ sinh được hai anh em nó. Thằng anh, được hai tuổi thì "cách mạng tháng 8" thành công. Cái thời mà Ông Giáo còn tham gia trong hội kín, hội mở... Mấy năm sau thì ông thoát ly đi kháng chiến. Bà có mang cái Thu trong lần vào vùng "tự do" của cánh mạng để tiếp tế cho chồng, ở Chi Lê thuộc vùng rừng núi Hòa Bình.
                 Bất giác Bà Giáo thở dài: "Bây giờ chúng nó đã bằng ngần ấy". Một đời người, hai lần kháng chiến. Đời cha rồi lại đời con, không chừng rồi đến cả đời cháu của bà nữa? Thấy mẹ thở dài, Thu quay lại hỏi:
            -  Mẹ làm sao thế?                             
            -  Có viết thư, con nhớ bảo anh là mẹ dặn phải giữ gìn sức khỏe.             
                 Nói rồi Bà Giáo trùm chăn ngủ.
            ...  Thế là cả hai người thân của Thu đều đến nơi chiến trường. Răng cắn vào cái quản bút chấm mực, cô nghĩ: Một người là anh, một người là bạn. Cả hai đối với Thu đều thân thiết.
                 Những ý nghĩ cứ miên man trong trí óc cô: Khi người ta biết hy sinh cho một tình yêu, và sự hy sinh đó gắn bó bởi mối quan hệ riêng, chung... thì họ có quyền kiêu hãnh, phải không anh?
                 Mình sẽ viết câu ấy cho Hoàng – mà không, viết cho anh trai có lẽ hợp hơn? Thu lấy giấy viết thư cho anh. Những suy cảm như dòng nước đang chảy xối xả ở trong cô...
                 ... Cái nhận thức ấy đến với em từ lúc nào nhỉ? Em không còn nhớ. Nó cứ lớn dần, anh ạ! Nhất là từ buổi tiễn người bạn trai của em nhập ngũ. Người bạn mà em đã kể cho anh nghe, rồi đấy!
                 Trước đây là sách vở, bây giờ là cuộc đời. Thực tế thì nhiều phức tạp hơn, song cũng sinh động hơn sách vở. Anh có biết em sung sướng thế nào không? Thực ra thì không đơn giản, nhưng khi em đã thấy mình vượt lên, đã khẳng định được con người mình, ý thức tốt đẹp về một cuộc sống - Em thấy mình hạnh phúc! Cũng như anh đã nói trong lá thư viết cho em: Cái hạnh phúc của người lính thường đến, sau mỗi lần chiến thắng...
                 Trên giường Bà Giáo đã ngủ thiếp đi, tiếng ngáy của bà đều đều. Thân hình vốn đã bé nhỏ của bà, giờ lại gầy hơn một chút. Bà nằm lọt thỏm trong tấm đệm bông. Thu dừng viết thư, đến bên giường kéo chăn phủ kín lên ngực mẹ.
                 Cô nhìn mẹ tủm tỉm cười, rồi quay lại bàn viết tiếp lá thư cho người bạn trai. Sáng mai cô sẽ bỏ vào hòm thư của thành phố, để gửi cả hai lá thư này ra nơi tiền phương.
             
             
             
             
            #21
              Nhân văn 10.09.2020 17:37:21 (permalink)
                                                                              19-
               
                   Một người khách đang ngả đầu vào thành ghế cho ông Tiến Thịnh cạo mặt, nói:
              -  Ông có nghe tin tức: Tình hình Mỹ sẽ ngừng ném bom ở miền Bắc không?  
                   Ông Tiến Thịnh lấy tay xoa một thứ bọt xà phòng trắng, nhờn lên cằm khách, thản nhiên hỏi lại:
              -  Ai bảo ông thế?
                   Lưỡi dao của ông phó cạo đưa xoèn xoẹt. Một nhoáng, bộ râu cứng như rễ tre của người khách đã được bào nhẵn. Người khách vẫn ngồi lim dim mắt, đáp lại:
              -  Đài BBC đưa tin mà lị!
              -  Ồi, cái mồm chúng nó thì cứ hoen hoét.
                   Cũng chẳng hiểu ý ông Tiến Thịnh định nói về cái tin đài BBC mà người khách vừa thông báo, hay ông ám chỉ thằng Mỹ? Ông tiếp:
              -  Cứ xem ngay như cái Hiệp định Pa Ri ấy? Ngồi bàn vuông, bàn tròn với nhau rồi mà họ còn nhổ toẹt đi, nữa là...
              -  Thì cũng tại ông nhà mình làm căng quá!
                   Người khách có vẻ muốn phô trương sự hiểu biết của mình.
              -  Ông tính xem: Là một tên đế quốc đầu xỏ nhất hạng! Chịu lép quá, nhục, thằng nào nó nghe?
              -  Phải nghe tất! Thua thì phải nghe, nhục cũng phải chịu.
                   Giọng ông Tiến Thịnh "chắc như cua gạch".
              -  Đã đành. Chúa chết thì trạng cũng băng hà, ông ạ!
                   Người khách buột mồm buông một câu triết lý, mà cũng chẳng hiểu triết lý cái kiểu gì? Ông Tiến Thịnh vặn hỏi:
              -  Thế ông không nghe tin chiến thắng đầu xuân Mậu Thân à?
                   Người khách vẫn không chịu:
              -  Xôn xao cả phố, ai mà chẳng biết! Nhưng tôi thì tôi nghĩ: Cái ông Việt Nam nhà mình cũng hay chơi nước thượng lắm cơ?
                   Ông Tiến Thịnh nói kháy:
              -  Giá tiến cử ông vào Bộ chính trị mới phải?
                   Người khách cự lại:
              -  Chẳng phải thế. Tình hình chính trị của đất nước, mình phải quan tâm chứ ông!
              -  Tôi cứ cố "cắt" dăm cái đầu, kiếm cho vợ con thêm lon gạo.                    
                   Người khách nọ đã trả tiền xong, chào ông Tiến Thịnh rồi bước ra ngoài phố. Ông Tiến Thịnh lấy tay phủi phủi những sợi tóc bám vào áo mình, buông thõng một câu:
              -  Năng nhặt, chặt bị... là thượng sách.                     
                   Từ nẫy đến giờ một tay thanh niên tóc chờm đến ngang vai, ngồi đợi trên chiếc ghế dài, tranh thủ giở tờ báo Văn Nghệ ra xem "mục nụ cười". Chờ người khách kia đã ra khỏi cửa hiệu, mới bước vào chiếc ghế thay thế chỗ. Hắn tán dương ông Tiến Thịnh:
              -  Bố già nói chí lý lắm! Cứ như con đây này: Sáng ra chợ giời buôn bán đồ cũ làm mấy "sọi". Trưa về nhà, đánh một giấc ngủ khoèo đến bốn giờ chiều. Tối bát phố...                                            
                   Một vị khách khác vừa mới bước vào hiệu, thấy tay thanh niên nói vậy... mắng:
              -  Cứ như cái ngữ nhà anh á? Có mà mất nước.                        
                   Tay thanh niên mặt vẫn bình thản, tỉnh bơ:
              -  Bác già nặng lời thế!                                            
                   Hắn quay sang bảo với ông Tiến Thịnh:
              -  Bố xén gáy bằng cho con, bố nhé! Cả Hà Nội này, con chỉ tín nhiệm mỗi cửa hiệu cắt tóc của bố thôi đấy!
                   Ông Tiến Thịnh vừa cắt tóc vừa nói:
              -  Thế cậu đã biết hiệu cắt tóc Tiến Thành, trên phố Huế chưa? Cửa hiệu của thằng con cả tôi đấy! Nó cắt còn bợm hơn tôi.                         
                   Tay thanh niên vồn vã hỏi:
              -  Ở số nhà bao nhiêu phố Huế, hả bố?
              -  Cậu là tay chơi, dân "phe phẩy"chợ giời, mà không biết cửa hiệu cắt tóc Tiến Thành nổi tiếng ở phố Huế, sát gần ngay chợ... thì xoàng quá!
                   Cái kéo cắt tóc trong bàn tay nhà nghề của ông Tiến Thịnh vẫn kêu tanh tách. Từng đám tóc hắt ra, rơi đều đều lên chiếc áo quàng bằng vải dù pháo sáng, đang choàng trên vai khách.
               
                                                                 *
               
                   Ăn cơm trưa xong, ngồi khoanh chân trên chiếc sập lim nâu bóng, uống tách trà nóng, ông Tiến Thịnh gật gù nói với người vợ lẽ:
              -  Mợ vào đây, tôi bàn chút việc quan trọng.
              -  Thì ông cũng phải để tôi rửa ráy xong xuôi, uống ngụm nước, xỉa cái răng đã chứ?
                   Người vợ lẽ của ông đang ở chỗ máy nước ngoài sân, mồm lẩm bẩm rủa thằng con út của người vợ cả đã quá cố:
              -  Con với cái, đến hư hỏng. Ăn cơm xong là biến mất, để bát đũa cho dì rửa.
                   Ông Tiến Thịnh phụ họa:
              -  Ừ, tính nó lêu lổng. Mới buông bát, buông đũa, thoắt một cái đã chạy lêu têu ra phố.
                   Rửa ráy xong. Người vợ lẽ của ông bước vào nhà, rút chiếc tăm để trong chiếc lọ nhỏ, đến bên chồng hỏi:
              -  Ông định nói cái gì nào?
                   Ông Tiến Thịnh rót chén nước đưa cho vợ:
              -  Thì mợ cứ ngồi xuống. Tôi thì tôi nghĩ thế này? Cái tính cách làm ăn của nhà ta còn thủ công nghiệp lắm! Chật vật mà chả kiếm được bao nhiêu. Cứ nhìn vợ chồng thằng Tiến Thành thì đủ thấy – Phải làm ăn như chúng nó, chẳng mấy chốc mà "phát"!
                   Ông khề khà rồi nói tiếp:
              -  Cửa hiệu cắt tóc của tôi thì chỉ kiếm đủ ăn. Còn mợ, chợ búa bán bún bánh lặt vặt... ngày cò con dăm bảy đồng bạc. Con lợn nuôi trong chuồng, mang tiếng bán một lúc vài trăm thật, nhưng chẳng qua cũng chỉ là tiền bỏ ống.
                   Người vợ lẽ ngồi im nghe chồng nói. Tính ông thì mụ biết, cái khoản làm ăn là rất "đa tính". Ông Tiến Thịnh vẫn nói tiếp:
              -  Ở trên ga bây giờ hàng "miền ngược" về nhiều. Tôi đã thăm dò con mụ Tính ở khối trong? Tối nào mụ ta cũng ra ga: Khi thì mua vài tạ ngô, lúc dăm yến lạc... Mà mụ cũng chỉ là người đứng thầu, sang tay bán lại cho kẻ khác. Một chuyến hàng, mụ ta kiếm bằng vợ chồng mình làm ăn cả tháng.
                   Người vợ lẽ cắt ngang:
              -  Ông cứ làm như dễ ăn lắm đấy?
              -  Thì ai đã bảo là dễ? Có điều, ta cũng phải tìm cách.
              -  Cũng phải có mối lái, chứ ông tưởng? Không cẩn thận, công an tóm được... bắt phạt, thì có mà hết cả vốn lẫn lãi.
                   Ông Tiến Thịnh gạt đi:
              -  Chỉ cần ta khôn khéo một tí! Nghe nói, mụ ta mồi chài từ tay phòng thuế đến công an.
                   Ông chỉ đường đi, nước bước cho người vợ lẽ:
              -  Mợ chịu khó lân la với con mụ Tính? ngọt nhạt, theo nó vài bữa khi tàu mạn ngược về, để thông thạo mánh lới làm ăn. Xuôi buồm lọt gió, ta sẽ tính cách đi riêng. Khi đó tôi sẽ ra ga cùng với mợ...
                   Đặt tách trà xuống, ông dừng lại hỏi vợ:
              -  Mợ nghĩ thế nào?
              -  Thì để xem xem thế nào đã. Mình xưa nay chỉ quen chạy chợ vặt, chưa bao giờ buôn lớn cả. Tiền của chứ có phải vỏ hến đâu, nhỡ làm sao... thì chết?
                   Tối tối... khi cắt tóc về, ăn uống xong xuôi, ông lại ngồi trầm ngâm hàng giờ trên chiếc sập lim ấy. Ông vặn chiếc đĩa hát national cũ của Nhật mới mua lại, nghe ca vài bài vọng cổ. Tư tưởng làm ăn trong đầu ông nở ra như bong bóng xà phòng. Ông nghĩ hết cách này, cách khác, cách nào ông cũng thấy có cái hay, cái dở. Gạt cái này đi, tính đến cái kia. Ông lường trước, ông lo sau. Tuổi ông có phải còn bồng bột nữa đâu? Phải tính cho nó chín chắn! Ông TIến Thịnh nghĩ vậy, xong lại ngồi thở dài. Máu ông hám làm giàu, nhưng lại sợ bị "hố". Nhỡ một cái, thì khốn. Có khi tự an ủi mình: "Thôi già rồi. Chúng nó như con ngựa phi trên đường, ông như con dê đã về gần đến cửa chuồng" – Nghĩ thế, nhưng ông thấy người ta làm ăn "trúng"! Máu lại bốc lên, ông lại phải tính kế?
              -  Này, mợ nó này?
              -  Ông lại nghĩ ra cái kế sách gì, mà gọi giật thế?                            
                   Ông Tiến Thịnh lại trình bầy với người vợ lẽ:
              -  Có lẽ ta phải tính chuyện nuôi con lợn lái? Chà, con mẹ Ba Tẽo ở khói chợ nuôi có hai đàn lợn lái, mà làm được cả cái nhà cao ngất.                  
              -  Ối giời... ông cứ ngồi mà tính cho nó kỹ đi.                                   
                   Mụ nói vậy rồi bỏ vào nhà trong. Xa xa... có tiếng máy bay xoẹt ngang bầu trời, vọng tới. Chắc là phi cơ mig của ta đi tuần tra... chứ,  nếu là "thần sấm" hoặc "con ma" Huê Kỳ - thì còi báo động thành phố đã chẳng réo ầm lên: "Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Tất cả xuống hầm ngay, đề phòng máy bay Mỹ xâm phạm vào vùng trời Hà Nội".
                  Đằng này, máy bay đã đi qua… mà thành phố vẫn im phăng phắc.
               
               
               
               
              #22
                Nhân văn 10.09.2020 17:43:28 (permalink)
                                            Chương V.   
                 
                                  TỔNG QUÁT CHIẾN SỰ
                                      XUÂN MẬU THÂN
                 
                 
                 
                                                                       20-
                     Nhà sử học Mỹ Gbriel Kolko, trong tác phẩm "Giải phẫu một cuộc chiến tranh", xuất bản tại New York năm 1985, đánh giá:
                     "Cuộc tiến công tết Mậu Thân là sự kiện quan trọng nhất và phức tạp  nhất của chiến tranh Việt Nam" – Theo ông: "với Mậu Thân 1968, đã gây ra một cuộc khủng hoảng xã hội, nội bộ sâu sắc và một sự phân hóa về chính trị trong giới quan chức Mỹ".
                     Nghĩa là, cuộc Tổng công kích Mậu Thân 1968, đã làm rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc.
                     Theo con số thống kê của các nhà nghiên cứu trong Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Tính đến đầu năm 1968, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam lên đến 480.000 tên và 68.800 quân của các nước đồng minh. Đấy là chưa kể đến trong số trên 20 vạn quân Mỹ đóng ở các căn cứ quân sự của đất Thái Lan, Nhật Bản, phi-lip-pin, Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6 – thì đã có tới 80 vạn quân Mỹ tham gia vào chiến tranh Việt Nam... cùng một lực lượng hùng hậu của QLVNCH.
                     Người ta nói rằng: Trong lịch sử chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, chưa bao giờ có một cuộc tiến công đều khắp và rộng lớn như cuộc Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân 1968.
                     Đúng đêm giao thừa và mồng 1 tết Mậu Thân - Nếu tính theo lịch dương là đêm 30 sang rạng ngày 31.1.1968, như Bách khoa toàn thư Wikipedia: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy suốt từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau. Quân giải phóng bất ngờ tiến công rộng phắp vào 6 thành phố lớn, 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ.
                     Hiệu lệnh mở màn là bài thơ chúc tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
                                 Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
                                 Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
                                 Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
                                 Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.
                 
                                    MẶT TRẬN SÀI GÒN CHỢ LỚN
                 
                     Là trọng điểm lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, bởi vì đây là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ Bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ và Chính phủ VNCH tại miền Nam Việt Nam.
                     QGP tiến công đồng loạt vào Tòa đại sứ Mỹ; Dinh Độc Lập; Bộ Tổng tham mưu VNCH; Đài phát thanh Sài Gòn; Sân bay Tân Sơn Nhất; Biệt khu Thủ đô; Tổng nha cảnh sát; các Sở chỉ huy sư đoàn bộ binh Mỹ số 1,4,25,101...
                     Cùng với các cuộc tiến công này, hàng chục vạn người dân đã hưởng ứng nổi dậy giành quyền làm chủ dài ngày ở nhiều khu phố.
                     Tại Dinh Độc Lập: khoảng 1h30 phút ngày 2 tết, đội biệt động thành số 5 gồm 15 người đánh vào Dinh Độc Lập. Lúc này, Tổng thống Thiệu nghỉ tết ở quê vợ tại Mỹ Tho. Lực lượng phòng vệ QLVNCH bên trong Dinh Độc Lập chống trả quyết liệt. Lực lượng cảnh sát VNCH và Mỹ điều quân đến chi viện dữ dội để giải tỏa. Các chiến sĩ biệt động đánh rất dũng cảm, đã đẩy lùi nhiều đợt tấn công của quân đội Mỹ. Đến gần sáng mồng 3 tết, chỉ còn lại 7 người bị thương và bị bao vây. Còn quả lựu đạn cuối cùng, họ quyết định cảm tử... nhưng rút chốt ra, lựu đạn không nổ nên đã bị bắt.
                     2 giờ 30 phút sáng ngày 2 tết, 17 chiến sĩ đội biệt động thành số 11 của QGP đánh vào Tòa đại sứ Mỹ - Quân Mỹ đến cứu viện: đổ bộ lính Sư đoàn dù 101xuống sân thượng Tòa đại sứ, đã giải tỏa sau sáu giờ giao tranh. 17 người trong đội biệt động thì 16 người bị tử trận, 1 bị thương và bị bắt. Quân Mỹ cũng bị thiệt hại nặng: 5 lính chết tại chỗ, 17 chết tại quân y viện và 124 bị thương.
                     3h sáng ngày 2 tết, đặc công QGP đánh vào Đài phát thanh. Quân Mỹ dùng cả trực thăng vũ trang, xe tăng yểm trợ phản kích. Tiểu đoàn 1 lính dù của QLVNCH nhảy dù xuống giải tỏa. Sau ba ngày chiến đấu quyết liệt, những chiến sĩ biệt động còn sống sót quyết định bằng biện pháp cảm tử, dùng bộc phá phá hỏng một góc đài phát thanh. Lực lượng biệt động thương vong gần hết, chỉ còn 2 nữ phục vụ viên bị bắt.
                     Đấy là ba vị trí quan trọng. Mặc dù các chiến sĩ QGP chiến đấu rất dũng cảm, song do chiến đấu đơn độc, các lực lượng tăng cường không đến được theo kế hoạch – Chỉ chiếm được Đài phát thanh, Tòa đại sứ trong thời gian ngắn, các mục tiêu khác không vào được bên trong. Trong số 88  chiến sĩ biệt động tham chiến đánh vào 6 mục tiêu chủ yếu, đã có 56 người tử trận và 10 người bị bắt. Lực lượng vũ trang những huyện ngoại thành, không tăng viện được cho nội thành Sài Gòn. Bộ đội chủ lực không tiến vào được nội đô. Đặc công, biệt động và các đơn vị mũi nhọn tác chiến bên trong trở thành đơn độc. Lực lượng bị tiêu hao tới 80%, có đơn vị hy sinh đến người cuối cùng, tổn thất nặng nề.
                     Sau đó các đơn vị của QGP chiến đấu trong nội thành đã được lệnh rút ra vùng ven củng cố. Cuộc Tổng tiến công ở trọng điểm Sài Gòn Chợ lớn giảm dần và kết thúc.
                 
                                              MẶT TRẬN QUẢNG TRỊ
                 
                     4 giờ 20 phút sáng ngày 2 tết, hai trung đoàn 812 và 814 của cộng sản Bắc Việt đồng loạt nổ súng tấn công thành phố Quảng Trị.
                     Tiểu đoàn K4 thuộc E812 chia làm hai mũi tiến vào phía nam thành phố, để tấn chiếm làng Trí Bưu.
                     Tiểu đoàn K8 – E812 tấn công mặt tây bắc, nhằm vào các đơn vị bộ binh QLVNCH và địa phương quân, để chiếm lĩnh phần phía bắc Quảng Trị.
                     Tiểu đoàn K6 – E812 đánh mặt phía đông nam dọc Quốc lộ 1 và đường xe lửa, nhằm tấn chiếm khu nhà thờ La Vang.
                     Tiểu đoàn K5 – E812 chia làm hai thành phần trù bị, ém quân tại phía đông nam thành phố.
                     Trung đoàn 814 tiếp ứng cho E812 chuẩn bị tấn công vòng thứ nhì, bằng các chiến xa từ phía tây bắc, để tiến đến đánh chiếm hoàn toàn thành phố... đồng thời ngăn chặn viện binh của QLVNCH tái chiếm lại các thị trấn, khi đã bị quân cộng sản Bắc Việt chiếm giữ.
                      Các đại đội của Tiểu đoàn 9 QLVNCH nhảy dù chống trả quyết liệt, ở cả ba mặt đông, nam và phía bắc thành phố Quảng Trị.
                     Phía trong thành Đinh Công Tráng, các đơn vị bộ binh QLVNCH, địa phương quân và cảnh sát cũng giao tranh quyết liệt với QGP.
                     Về phía Mỹ:
                -  Hai đại đội của Sư đoàn 12 không kỵ đụng độ với Tiểu đoàn K4 – E812 Bắc Việt ở nam thành phố.
                -  Tiểu đoàn 1 Sư đoàn 5 không kỵ cùng với trực thăng vận, đánh nhau với K6 – E812 ở đông thành phố.
                -  Tiểu đoàn 9 quân nhảy dù Mỹ cùng với Trung đoàn 1 lính QLVNCH, tổ chức hàng loạt các cuộc phản công theo hướng đông và đông nam thành phố.
                     Không quân Mỹ oanh tạc trung đoàn 814 QGP đang đóng ở làng Trí Bưu, hợp lực với Trung đoàn 1 QLVNCH tấn công chiếm lại làng lúc 13 giờ 30 cùng ngày.
                     Bị tổn thất nặng nề, E814 phải rút khỏi làng Trí Bưu ngay đêm đó.
                     Vào lúc xế trưa ngày 2 tết, một tiểu đoàn của Trung đoàn 1 QLVNCH có thiết giáp yểm trợ, đánh nhau với K6-E812 QGP trong khu nghĩa địa thành phố - K6 bị áp lực lớn phải tháo lui về hướng đông nam thành phố. Số chiến sĩ bị tử trận và thương vong nhiều.
                     Đêm mồng 2 tết, cả hai trung đoàn quân Bắc Việt buộc phải rút khỏi thành phố.
                     Mồng 3 tết, QLVNCH sử dụng Trung đoàn 9 để phòng thủ thành phố Quảng Trị đã tái chiếm lại. Thành phố khá yên tĩnh.
                     Trong mười ngày sau đó, Sư đoàn 502 bộ binh QLVNCH cùng với lính nhảy dù Mỹ, có trực thăng yểm trợ... mở rộng vòng cung truy lùng những đơn vị QGP còn lại trong thành phố. Một số cuộc đụng độ đã xẩy ra, như:
                -  Ngày 2.2.1968 dương lịch, Tiểu đoàn 1 Sư 12 không kỵ Mỹ đánh nhau với một đại đội QGP, cách hướng đông thành phố 6 cây số.
                -  Này 4.2.1968, Tiểu đoàn 1 Sư 501 bộ binh QLVNCH đụng độ với K5 và D10 đặc công QGP tại quận Hải Lăng, cách thành phố Quảng Trị 8 km về hướng đông nam. 
                     Cuộc chiến nổ ra không kém phần dữ dội, cả hai bên đều tổn thất nhiều.
                     Vào cuối tuần thứ nhất của tháng hai, thành phố Quảng Trị đã qua vòng nguy biến. Các cuộc giao tranh lắng xuống, trừ vài vụ quân cộng sản dùng súng cối và hỏa tiễn bắn vào bãi đáp của Lữ đoàn 1 QLVNCH.
                     Tuy vậy, tình hình an ninh của thành phố Quảng Trị trong suốt tháng hai vẫn rất yếu.
                     Quân hai trung đoàn 812 – 814 Bắc Việt vẫn rải rác đâu đó, nhất là các vùng ở nông thôn, lính của VNCH chưa kiểm soát nổi.
                     Theo con số thống kê của Chính phủ VNCH: Từ sáng 31.1 (tức ngày 2 tết) đến 6.2.1968 – phía QGP bị chết khoảng 914 quân và 86 chiến sĩ bị bắt. Số thương binh rất lớn, tiêu hao nhiều súng đạn... đến mức E812 phải hoàn toàn né tránh các cuộc đụng độ sau đó.
                     Sau 24 giờ, giai đoạn khốc liệt nhất ở mặt trận Quảng Trị kết thúc. Về nhiều phương diện: Bắc Việt có phần bị bất ngờ trước sự phản kháng quyết liệt của Lữ đoàn 1 QLVNCH, Tiểu đoàn 9 quân nhảy dù và "trực thăng săn mồi" từ trên không của Mỹ.
                      Thành phố Quảng Trị tan hoang, cả hai bên đều tổn thất nặng nề.
                 
                                                    MẶT TRẬN HUẾ
                 
                     Thành phố Huế có diện tích 380km2 với dân số năm đó khoảng 209.043 người. Huế có ba quận: Hữu Ngạn, Tả Ngạn và Thành Nội.
                     Theo một tài liệu, thấy ghi: Huế là cố đô của Nhà Nguyễn (1802-1945), bao gồm những công trình kiến trúc lịch sử như cung điện, lăng tầm của các tiên vương Nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long khởi công xây cất từ năm 1805, mãi tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Đây là một tòa thành hình vuông, mỗi cạnh 2.223m, bề cao 6,60m, chân thành có hào sâu 4m. Phía đông nam bên bờ sông Hương, nhìn về phía trước là núi Ngự Bình. Ngoại thành, hướng bắc có đài Mang Cá. Ngoài ra còn có mười cửa chính với những vọng lầu cao ngất, để ra vào tòa thành. Được kiến trúc độc đáo, từ kiểu cách của Pháp cho tới nghệ thuật Á Đông. Biểu hiện nét hoành tráng, lộng lẫy, nhưng không kém phần mơ mộng, trang đài. Từ vách thành, vọng lầu, cửa Ngọ Môn cho tới đền đài, cung các… được chạm trổ, điêu khắc hài hòa với cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu.
                     Tháng 12.1993, Huế được tổ chức UNESCO của Liên Hợp Quốc công nhận là di sản văn hóa nhân loại, cần được bảo tồn.
                     Trong đợt Tổng công kích xuân Mậu Thân, Huế bị tàn phá nặng nề, sau này đã được tôn phục lại.
                …..   
                     Huế là một trong ba chiến trường chính của cuộc Tổng tiến công, cũng là thành phố lớn thứ ba miền Nam, sau Sài Gòn và Đà Nẵng. Lực lượng Mỹ và QLVNCH ở đây khá mạnh, khoảng 25.000 đến 30.000 quân, nòng cốt là Sư đoàn 1 bộ binh.
                     Lúc 2h33 phút sáng ngày 2 tết, pháo binh QGP đồng loạt bắn vào các mục tiêu, như: Khu Tam Giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Đông Toàn, Đông Ba, Bộ tư lệnh Sư đoàn 1 bộ binh QLVNCH, Ban chỉ huy tiểu khu, trung tâm huấn luyện Đống Đa và Thiết đoàn 7 kỵ binh ở An Cựu…để mở màn cho cuộc tiến công vào cố đô Huế.
                     Sau loạt pháo, QGP trên hai hướng cùng đánh vào bốn mươi mục tiêu trong và ngoài thành Huế.
                     Cánh thứ nhất: Đoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2, K6 và K12 từ phía bắc tả ngạn sông Hương, đánh vào đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc và Đại Nội.
                     Cánh thứ hai: Đoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ nam hữu ngạn sông Hương, tấn công vào các cơ sở hành chính ở phía đó.
                     Cùng với Đoàn 9 gồm hai tiểu đoàn 416, 418 từ Đồng Xuyên, Mỹ Xá dọc theo La Vân Thượng chiếm cửa Đông Ba.
                     Một đoàn khác mang tên Đường 12 từ Phú Thứ, Đập Đá qua cầu Trường Tiền chiếm cửa Thương Tứ.
                     Các trận đánh ác liệt kéo dài, thương vong mỗi lúc một tăng. Đến 11h trưa thì bộ phận QGP đánh vào Mang Cá – nơi đóng quân của Sư đoàn 1 bộ binh QLVNCH, buộc phải rút ra.
                     Lực lượng QGP đánh vào phi trường Tây Lộc, phá hủy 20 máy bay và một số xe quân sự của QLVNCH.
                     2h40 phút sáng 2 tết, cánh QGP đánh vào khu Đại Nội:
                -  Lúc 4h30 chiếm được khu Cột Cờ.
                -  5h sáng chiếm toàn bộ khu Đại Nội: diệt 1 đại đội thám báo và 130 cảnh sát VNCH.
                -  8h sáng ngày 2 tết, lá cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam được kéo lên cột cờ, báo hiệu quân cánh mạng đã làm chủ trung tâm thành phố Huế. Phần lớn thành phố với 90% dân chúng, hoàn toàn nằm trong vùng QGP kiểm soát.
                     Nói chung trong những ngày đầu tiến công và nổi dậy ở Huế, QGP đã chiếm được nhiều mục tiêu chủ yếu, phát động quần chúng nổi dậy và giành được chính quyền ở nhiều nơi. Mặt trận Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình thành phố đã ra đời. Tiếp đó, Ủy ban Nhân dân cách mạng Thừa Thiên Huế được thành lập.
                     Như Hãng thông tin Pháp AFP ngày 7.2.1968 đã bình luận: “Sau một đêm đánh nhau, Việt Cộng đã kiểm soát được 90% dân chúng thành phố Huế. Ngay sáng hôm sau, bộ máy hoạt động và cổ động chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng đã bắt tay vào làm việc…”.
                     Còn Hãng thông tin Anh Roitơ, cũng ngày 7.2.1968 thì viết: “Sau 5 ngày đánh nhau ác liệt giành giật từng ngôi nhà, quân Việt Cộng đã chiếm hơn nửa thành phố Huế, còn quân VNCH và đồng minh Mỹ tiến dần từng bước vất vả. Các nhà quân sự ở đây cảm thấy rằng, quân Việt Cộng chứng tỏ là họ có thể ra vào Huế bất cứ khi nào họ muốn.”.
                     Ngày 8.2.1968, quân Mỹ bắt đầu phản kích dữ dội. Mỹ huy động cả lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn ra: như Chiến đoàn A Thủy quân lục chiến.
                     Ngày 11.2, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 5 Thủy quân lục chiến Mỹ cũng được tăng cường, đưa quân số ở đây lên đến 16 tiểu đoàn.
                     Từ 9.2 đến 12.2, QGP phải liên tục chống phản kích, không thể tiếp tục tiến công mà buộc chuyển sang phòng ngự.
                     Quân Mỹ đồng loạt phản kích trên bốn cổng thành: Cửa Chánh Tây, Cửa Hữu, Cửa Thương Tứ, Cửa Đông Ba và phản kích từ Quốc lộ 1 vào An Hòa.
                     Ngày 16 và 17.2, quân Mỹ đánh dữ dội và chiếm lại được Đông Ba.
                     Ngày 18.2, quân Mỹ chiếm lại được Cổng Thủy Quan, uy hiếp Cửa Hữu, Cửa An Hòa và Cửa Thương Tứ.
                          Tình hình QGP lúc này xấu đi rõ rệt. Mỹ tăng cường cho khu Mang Cá và Đông Ba một tiểu đoàn Thủy quân lục chiến, kết hợp cùng lực lượng quân ở bên ngoài, bao vây tiêu diệt QGP đang chiếm giữ phần còn lại ở tả ngạn thành phố.
                     Chính trong thời điểm đó, Mỹ ồ ạt tăng quân đến 23 tiểu đoàn:
                -  11 tiểu đoàn trong thành phố.   
                -  12 tiểu đoàn ở vòng ngoài.
                     Ngoài ra cả máy bay B52 cũng được trưng dụng ném bom rải thảm, để nhanh chóng đánh bật QGP giải tỏa thành phố Huế.
                     Trước sức ép của quân Mỹ và tránh bị bao vây – Ngày 22.2.1968, Khu ủy Trị Thiên và Ban chỉ huy Mặt trận Huế quyết định, rút toàn bộ ra ngoài thành phố.
                     Sau 26 ngày đêm chiến sự, về phía Mỹ và Chính phủ VNCH thương vong trên 4.400 quân. QGP cũng thương vong hơn 4.000 người.
                     Tuy tổn thất lớn và phải rút, song việc giữ được thành phố 26 ngày – QGP Huế đã tạo nên một chiến tích lớn, giữ được thành phố lâu nhất so với các thành phố khác. Góp phần quan trọng vào thắng lợi chung về mặt chính trị của cuộc Tổng công kích Mậu Thân 1968 toàn miền.
                      Theo thống kê: sau 26 ngày chiến sự 40% thành phố bị phá hủy, 116.000 người mất nhà ở. Trong số 17.134 ngôi nhà tại Huế thì có 9.776 ngôi bị phá hủy hoàn toàn, 3.169 ngôi bị hư hỏng nặng.
                     Theo một học giả Mỹ Gareth Porter: ước lượng ban đầu số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776 người, trên tổng số dân bị thương, chết hoặc mất tích là 6.700 người.
                                                CÁC MỒ CHÔN TẬP THỂ
                     Tại thành phố Huế và khu Thừa Thiên, người ta tìm thấy 22 địa điểm các mồ chôn tập thể, đếm được 2.326 sọ người. Sau tết, các gia đình kê khai có người chết và mất tích với chính quyền VNCH, lên đến 4.000 gia đình. Theo số liệu của Chính phủ VNCH  đã đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân bị giết hoặc bị bắt cóc.
                     Nhưng theo con số của Cục tâm lý chiến, cơ quan thông tin Hoa Kỳ 1970, tổng kết số người chết và mất tích ở Huế như sau:
                -  Dân sự 7.600 người.
                -  Trong những ngôi mộ tập thể tìm thấy đợt đầu 1968 là 1.173 nạn nhân.
                     Vấn đề thảm sát dân thường trong xuân Mậu Thân ở Huế, cho đến nay tài liệu cả phía cộng sản Việt Nam và Mỹ vẫn qui trách nhiệm cho nhau về  nguyên nhân và tính xác thực, do các bên công bố còn sai lệch nhau - Nhất là sự kiện 22 hố chôn tập thể với con số khoảng ngót 3.000 thi thể các nạn nhân đã được đào lên?
                     Cộng sản thì nói rằng : Để tái chiếm lại Huế, Mỹ đã dùng pháo hạm, máy bay ném bom bắn phá suốt ngày đêm. Thậm chí dùng cả B52 trải thảm vào thành phố. Sử dụng các loại vũ khí sát thương hàng loạt, như pháo không giật 107mm, bắn đạn tổ ong (mỗi viên khi nổ sẽ văng ra 5 vạn mảnh như cơn mưa đinh), bom napan, đạn pháo tăng, súng phun lửa… Những vũ khí này đã giết hại rất nhiều dân thường.
                     Chính bản thân Tổng thống Thiệu, cho phép dùng bất kỳ phương tiện nào cần thiết để lấy lại bằng được thành phố Huế.
                     Thiệt hại gây ra cho Hoàng Thành – Sau Tổng công kích Mậu Thân, Huế bị tàn phá tới 80% nhà cửa, Thành Nội với chiều dài 2,5km kể như hoàn toàn bị tàn phá. Cửa Ngọ Môn cùng nhiều công trình trong Hoàng Thành hư hại nặng nề. Sau này, mãi tới cuối thập niên 1970 mới được trùng tu sửa chữa lại.
                              KHÁI QUÁT MẶT TRẬN MẬU THÂN Ở HUẾ
                     Để chuẩn bị chiến dịch đánh Huế, Quân khu đã đề nghị Bộ quốc phòng tăng cường, nên trước ngày Tổng công kích lực lượng QGP ở Huế đã có: 4 trung đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn pháo mặt đất, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ phòng không, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn thông tin, 15 đội biệt động thành và một số đơn vị phục vụ khác.
                     Đây là trận chiến ác liệt nhất trong đợt 1 Tổng công kích Mậu Thân của toàn miền - Dù QGP đã bị đánh bật khỏi Huế, song nó đã đem đến sự đổ vỡ về mặt tâm lý và chính trị lớn nhất cho Hoa Kỳ.
                     Ngày 23.2.1968, QGP rút khỏi Huế… thì cuối ngày 24.2.1968, quân đội Mỹ và QLVNCH tái kiểm soát lại các khu vực nội thành.
                     Theo tài liệu của QGP ghi nhận: Sau 26 ngày đêm, họ đã tiêu diệt , bắt sống, bức hàng và làm tan rã 25.000 tên địch. Bắn rơi và phá hỏng hơn 200 máy bay, bắn cháy 41 tầu chiến, phá hủy 533 xe quân sự, giải phóng 210.000 dân, 20 xã, 271 thôn – trong đó thành lập chính quyền ở 200 thôn.
                 
                                               MẶT TRẬN KHE SANH
                 
                     Căn cứ Khe Sanh tọa lạc trên một trảng cao của ngọn núi cao nhất vùng Đông Trị trong dãy Trường Sơn. Phía bắc và tây bắc có bốn ngọn đồi án ngữ là: 881 Bắc – 881 Nam – 861 – 558. Khe Sanh gần biên giới Lào Việt trên đường số 9 chạy theo hướng đông tây, nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị, ngang qua Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào Việt tới tận Savanakhet bên Lào.
                     Trong cuộc chiến Việt Nam, đường số 9 là trục chiến lược quan trọng được cộng quân sử dụng để vận chuyển người, vũ khí từ bên Lào vào các tỉnh cực bắc. Đường số 9 tuy chỉ là một đường giao thông nhỏ nhưng lại là một chiến trường quan trọng, nơi đã xẩy ra nhiều trận đánh lớn. Lý do, vì con đường này dẫn sang Lào rồi giao tiếp với đường mòn Hồ Chí Minh. Nơi quân Bắc Việt đưa người và vũ khí vào Quảng Trị,  Thừa Thiên, Tây Nguyên và miền Nam. Nơi các đại đoàn chính qui cộng sản Bắc Việt , từ vùng bắc vĩ tuyến 17 qua biên giới Việt Lào vào chiến trường Nam Bộ.
                     Về dân cư: vì là vùng rừng núi hoang dã, khí hậu khắc nghiệt nên Khe Sanh chỉ có vài ngàn người Việt cư ngụ - Đa số là thân nhân các gia đình quan chức, binh sĩ VNCH hoặc gia đình nhân viên những cơ quan hành chính làm việc tại đó. Còn chủ yếu là các dân tộc thiểu số Lào , chừng 50.000 người sống rải rác trên các đồi, núi dọc biên giới Lào. Qui tụ đông nhất ở hai làng: Khe Sanh và làng Vây dọc đường số 9, như các sắc tộc Bru, Rhađê, Hrê… Giống người Bru thuộc chủng loại Mã Lai – Polynesia.
                     Căn cứ Khe Sanh là một vị trí trọng yếu nhất, để ngăn chặn quân Bắc Việt xâm nhập vào chiến trường miền Nam. Căn cứ nằm cách biên giới Lào Việt chừng 14km về hướng cực tây, quận Hương Hóa, tỉnh Quảng Trị. Đóng trên một vị trí cao thuộc ngọn Đông Tre hùng dũng nhất trong vùng. Có phụ lưu của sông Thạch Hãn là Rao Quan chảy qua. Vùng này chẳng khác nào một lòng chảo được bao bọc bởi đồi 881 Bắc , 861, 558 và 881 Nam: kiểm soát các trục lộ quan trọng tới căn cứ và sân bay Khe Sanh. Tất cả các ngọn đồi trên mọc đầy tre nứa và cây cối. Đây là nơi tranh giành đẫm máu nhất suốt thời gian chiến sự giữa quân Mỹ và quân Bắc Việt.
                     Tóm lại, căn cứ Khe Sanh được coi như một bàn đạp, để bộ binh và pháo binh Hoa Kỳ đánh phá, ngăn chặn trực tiếp quân của cộng sản Bắc Việt trên đường mòn Hồ Chí Minh.
                     Theo như báo chí của Bắc Việt đã phân tích sau này, Bộ chính trị của Chính phủ Hà Nội quyết định mở chiến dịch tấn công Khe Sanh xuân 1968 với qui mô lớn, trước mười ngày khi nổ ra cuộc tổng công kích của toàn miền – Nhằm thu hút lực lượng chủ lực của Mỹ và QLVNCH ra khu vực Đường 9 để vây hãm, tiêu hao, tạo thế thuận lợi cho QGP đánh vào các đô thị lớn: đặc biệt là ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị…
                     Cũng theo thông báo của Chính phủ Hà Nội, lực lượng QGP tham gia chiến dịch Khe Sanh gồm:
                -  4 sư đoàn bộ binh F304, 320, 325, 324 và 2 trung đoàn E27, 270.
                -  2 tiểu đoàn biệt động địa phương của tỉnh Quảng Trị.
                -  Các trung đoàn pháo binh E45, 84, 164, 204, 675.    
                -  Các trung đoàn pháo cao xạ phòng không E128, 282, 241.
                -  1 tiểu đoàn và 5 đại đội đặc công.
                -  1 tiểu đoàn xe tăng PT-76
                -  1 tiểu đoàn thông tin.
                -  1 tiểu đoàn trinh sát. 
                -  1 tiểu đoàn hóa học.
                -  1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh.
                1 đại đội súng phun lửa.
                     Cùng bộ đội địa phương các vùng Cam Lộ, Do Linh, Hương Hóa thuộc tỉnh Quảng Trị.
                     Giữa chiến dịch, Bộ tư lệnh mặt trận đã điều F325 và phần lớn F324 sang chiến trường khác, đưa F308 và E246 vào thay thế.
                     Cũng theo thông báo từ phía Bắc Việt: Lực lượng Mỹ và QLVNCH tham chiến có khoảng 45.000 quân – Trong đó là 28.000 quân Mỹ, gồm 3 trung đoàn tăng cường lính thủy đánh bộ, 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới, 1 tiểu đoàn quân phái hữu Lào. Không kể lực lượng không quân Hoa Kỳ và pháo binh từ các vùng xung quanh bắn đến, cũng như các đơn vị phục vụ tham gia trợ chiến.
                     Trận chiến Khe Sanh bắt đầu ngày 20.1.1968 và kết thúc ngày 8.4.1968 - Sau 77 ngày bị QGP tiến đánh và vây hãm, Mỹ và QLVNCH mới giải tỏa được. Trong khi cuộc Tổng công kích trên toàn chiến trường miền Nam, chỉ có thể kéo dài 26 ngày: Mở màn chính là đêm giao thừa Mậu Thân, tức là lúc 2h sáng ngày 31.1.1968 dương lịch – Mặt trận Huế kéo dài nhất là tới cuối ngày 24.2.1968, quân đội Hoa Kỳ mới hoàn toàn tái kiểm soát được nội thành Huế.
                     Vào năm 1968, người Mỹ tin rằng: QGP thực hiện một trận quyết chiến chiến lược Khe Sanh, như một Điên Biên Phủ nữa. Nhưng về phía Cộng sản Bắc Việt, thực ra chỉ là một đòn nghi binh – Họ thực hiện một "Điện Biên Phủ giả vờ" để lừa đối phương, ghìm chặt Mỹ ở chiến trường miền núi, tạo điều kiện cho cuộc tổng công kích toàn miền... với mục tiêu lớn nhất của họ là, các thành phố và thị xã.
                     Nửa đêm 20.1.1968, chiến dịch Khe Sanh chính thức mở màn, bằng trận đánh đầu tiên quyết liệt tại đồi 881 Nam.
                     Đến 5h30 sáng 21/1, pháo bình QGP đồng loạt bắn vào căn cứ Khe Sanh. Ngày thứ hai, kho đạn chính của quân đội Mỹ với sức chứa 1.500 tấn đạn pháo bị phá hủy hoàn toàn.
                      Nhầ báo, Sử gia Mỹ Stanley Karnow kể: "Tổng thống Lyndon Johnson và Washington đã nghĩ rằng, Khe Sanh là một Điên Biên Phủ nữa, và họ đã làm sa bàn Khe Sanh ở Washington. Thậm chí họ còn yêu cầu tướng Westmoreland – Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam lúc đó, phải ký giấy cam đoan không được để mất Khe Sanh, vì đó là danh dự của nước Mỹ". 
                     Trong vũ lực bảo vệ Khe Sanh bằng mọi giá, Mỹ đã thực hiện chiến dịch Niagara II, ném rải thảm với hơn 100.000 tấn bom, cầy nát 32 km2 chiến trường mức độ ác liệt và tàn khốc chưa từng có.
                     Ngày 22.1.1968, Tiểu đoàn 1/9 Thủy quân lục chiến Mỹ được trực thăng vận đến chi viện.
                     Ngày 25/1, Thiếu tướng J.J.Tolson – Tư lệnh Sư đoàn 1 Mỹ, tổ chức một cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh.
                     Ngày 27/1, Tiểu đoàn 37 Biệt động quân VNCH được không vận đến tăng viện, hợp thành 5 tiểu đoàn phòng thủ căn cứ.
                     Về phía Mặt trận giải phóng – Khi đó có tin F325 đang ở phía bắc đồi 881 Bắc, F304 từ Lào hành quân vào chiến trường, có mặt tại tây nam Khe Sanh.
                     Một trung đoàn của F324 cũng có mặt tại khu phi quân sự, cách Khe Sanh chừng 24km.
                     F320 đang ở phía bắc căn cứ Rockpile để tiếp ứng cho mặt trận.
                     Hai trung đoàn 68 và 164 cũng được tăng cường đến.
                     Từ ngày 5/2, Cộng quân liên tục pháo kích, tấn công bằng bộ binh và bao vây quanh vòng đai Khe Sanh.
                     Ngày 7/2, với sự yểm trợ của 10 chiến xa PT-76 do Liên Xô chế tạo, quân Bắc Việt tấn công mạnh vào làng Vây, nằm sát biên giới Lào ngoài Khe Sanh.
                     Ngày 9/2, một tiểu đoàn quân Bắc Việt thuộc E101, F325 tấn công đồi 64 do thủy quân lục chiến Mỹ trấn giữ. Trong ba tiếng đồng hồ máu lửa cả hai bên đều tổn thất nặng nề, nhiều binh sĩ thương vong không còn khả năng chiến đấu, nhất là cộng sản Bắc Việt – Bởi vậy sau trận đánh đồi 64, cộng quân phải tạm ngừng các trận chiến để bổ xung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần.
                     Ngày 21.2.1968, QGP lại tiếp tục tấn công vào Tiểu đoàn 37 Biệt động quân. Quân của VNCH cố thủ và đánh trả quyết liệt, đợt tấn công của cộng quân bị bẻ gẫy.
                     Ngày 23/2, QGP tập trung pháo binh để mở đợt tấn công lớn: 1.300 quả đạn pháo đủ loại nã vào Khe Sanh tám tiếng đồng hồ liền, nhiều quân Hoa Kỳ bị tử trận và làm nổ tung một kho dự trữ đạn của Mỹ nữa.
                     Lúc 4h30 phút chiều tối ngày 29/2, Tiểu đoàn F304 Bắc Việt đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh – Nơi chiếm đóng của Tiểu đoàn 37 Biệt động quân. Quân VNCH chống trả quyết liệt, đã đánh lui cả ba lần xung phong của cộng quân, nhiều chiến sĩ QGP bị thương và tử trận.
                     Mỹ tập trung giải cứu Khe Sanh – Tướng Westmoreland đã chấp thuận kế hoạch giải vây Khe Sanh, với cuộc hành quân Lam Sơn 207A, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng J.J.Tolson. Lực lượng tham gia hành quân gồm có:
                -  3 lữ doàn quân đồng minh Hoa Kỳ.
                -  Trung đoàn 1 và 26 Thủy quân lục chiến.
                - Cùng 3 tiểu đoàn của Lữ đoàn 3 nhảy dù QLVNCH.
                     Bộ tư lệnh hành quân đóng tại căn cứ Stad gần Cà Lu. Quân số tham chiến lên đến khoảng 20.000 quân, với sự yểm trợ của 300 trực thăng và 148 khẩu pháo các loại.
                      Ngày 25.3.1968, Thiết đoàn 1/9 Hoa Kỳ dùng trực thăng rà sát dọc theo Quốc lộ 9, hướng về phía Khe Sanh nhằm tìm và tiêu diệt các ổ phòng không của Bắc Việt.
                     Sáng ngày 30/3, Sư đoàn 3 Thủy quân lục chiến Mỹ kết hợp với Sư đoàn 1 bộ binh QLVNCH, hành quân tại vùng Côn Thiện và Do Linh. Cuộc hành quân này chỉ chạm trán với cộng quân bằng những cuộc bắn súng lẻ tẻ.
                     Ngày 1/4, cuộc hành quân chính thức được khai triển: Lữ đoàn 3 Mỹ đổ quân xuống bãi đáp phía trước Khe Sanh khoảng năm dặm.
                     Ngày 2/4, Lữ đoàn 1 và 2 Mỹ liên tiếp trong hai ngày đổ bộ xuống phía nam Khe Sanh và Quốc lộ 9.
                     Ngày 4/4, các Tiểu đoàn 3,6 và 8 thuộc Lữ đoàn 3 QLVNCH được thả xuống khu vực phía tây và tây nam Khe Sanh.
                     Các trận chiến xẩy ra ác liệt, cả hai bên đều thương vong và tử trận nhiều.
                     Ngày 6/4, lực lượng hành quân Lam Sơn 207A từ bên ngoài Khe Sanh vào, bắt tay được với lực lượng Thủy quân lục chiến bên trong căn cứ tại đồi 471. Mỹ và QLVNCH bắt đầu thực hiện cuộc càn quét để đẩy lui quân Bắc Việt, từ đồi 552 đến đồi 681. Trận chiến mất tiếp hai ngày dữ dội.
                     Nhờ có tiếp viện từ ngoài, lính thủy quân lục chiến bên trong căn cứ được đẩy cao khí thế, phản công quyết liệt. Cộng quân bị kẹp giữa hai làn đạn trong và ngoài, tiến thoái đều khó khăn. Mỹ và QLVNCH lại được hỗ trợ bằng pháo kích mãnh liệt, máy bay ném bom – Cộng quân tổn thất nặng nề và bị chết nhiều.
                        Ngày 8.4.1968, sau 77 ngày bị vây hãm... căn cứ Khe Sanh đã được giả tỏa. Cuộc hành quân Lam Sơn 207A của Mỹ chính thức kết thúc vào ngày 15.4.1968.
                     Có con số thống kê nói: Sau 77 ngày của chiến dịch Khe Sanh, QGP thương vong từ 10.000 đến 13.000 chiến sĩ, cùng với sự tổn thất lớn về súng đạn và các phương tiện chiến tranh khác.
                     Theo một thông báo từ phía cộng sản Bắc Việt - Trong trận chiến Khe Sanh: 13.000 lính Mỹ và 4.000 quân VNCH bị thương và tử trận, 400 máy bay các loại bị bắn hạ. QGP thu được rất nhiều chiến lợi phẩm.
                     Sau này Tướng Abrams thay thế Tướng Westmoreland làm Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh tại miền Nam Việt Nam, đã mô tả:
                -  Trong thời gian trận chiến Khe Sanh có khoảng 6.000 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đóng, là nơi tranh giành đẫm máu giữa quân Mỹ và Bắc Việt.
                     Quân Hoa Kỳ được yểm trợ với nhiều pháo binh và thiết giáp, gồm chiến xa M-48, kể cả thiết vận xa M-113... cộng với sự kiên cố của vòng phòng thủ, có đặt mìn dầy đặc từ trong ra ngoài và máy bay oanh tạc.
                     Đặc biệt trong căn cứ còn được thiết kế, một hệ thống giao thông hào chạy vòng doanh trại.
                     Nói về mức độ ác liệt trong trận chiến Khe Sanh, theo một con số ở phía Bắc Việt:
                -  Chỉ tính riêng từ 20/1 đến 31.3.1968, Mỹ đã sử dụng đến 24.000 lần chiếc máy bay chiến thuật, 2.700 lần chiếc "pháo đài bay" B-52. Các trận địa pháo bắn tới 150.000 quả, tạo ra những trận bão lửa khốc liệt.
                     Ở Washington, Tổng thống Mỹ theo dõi chặt ché tình hình chiến sự Khe Sanh. Giôn Sơn bắt Bộ tham mưu liên quân Mỹ phải ký "Quyết tâm thủ bằng máu", giữ Khe Sanh trong bất kì tình huống nào.
                 
                                               MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN
                 
                     Cuối tháng 12.1967, nhận được chỉ thị từ Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương ở Hà Nội gửi vào – Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên của QGP đã mở hội nghị liên tịch ba tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc để bàn bạc cách phối hợp hoạt động giữa bộ đội chủ lực và quân địa phương. Chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân 1968, mục tiêu chính được xác định là ba thị xã: Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắc Lắc), Pleiku (tỉnh Gia Lai) và Kon Tum.
                     Bộ tư lệnh Mặt trận nhanh chóng bổ xung thêm cho mỗi thị xã đủ 1  tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội hỏa lực hỗn hợp. Tăng cường cho Buôn Ma Thuột 2 tiểu đoàn bộ binh, Pleiku 1 tiểu đoàn, đưa sang thị trấn Tân Cảnh (Kon Tum) 1 tiểu đoàn. Củng cố và mở rộng các tuyến ở hành lang Đông Tây.
                     Lúc này ở Kon Tum đã có E24, Gia Lai E95, Đắc Lắc E33 và Sư đoàn 1 (gồm ba trung đoàn 66, 174 và 320). Ngoài ra, còn một lực lượng cổ động của mặt trận được tập trung trên hướng Pleicần, để đón lõng quân Mỹ ra phản kích và sẵn sàng đánh sang Đắc Tô - Tân Cảnh.
                     Khi cuộc Tổng công kích Mậu Thân toàn miền bùng nổ, thì quân chủ lực cùng quân địa phương và dân Tây Nguyên , cũng đồng loạt nổ súng đánh vào hầu hết những cơ quan đầu não, các căn cứ quan trọng của Mỹ và QLVNCH ở khắp ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc.
                     Theo tư liệu phía cộng sản Bắc Việt - Thí dụ như ở chiến trường Gia Lai:  Đúng 0 giờ 55 phút đêm giao thừa, QGP chủ lực và quân địa phương, đồng loạt tấn công các mục tiêu chủ yếu của Mỹ và VNCH trong và ngoài thị xã Pleiku.
                     Đại đội 10 đặc công chia làm hai mũi:
                -  Một mũi đánh vào khu biệt động quân, diệt gọn ban chỉ huy với 200 lính (vừa Mỹ và QLVNCH), bắn cháy 35 xe quân sự, phá hủy 1 trận địa pháo 21 khẩu, đốt cháy gần 1.000 tấn đạn và hàng vạn lít xăng dầu.
                -  Mũi thứ hai đánh vào trung tâm thị xã, diệt lực lượng cảnh sát, bảo an, phá nhà lao giải phóng 2.000 người đang bị Chính phủ VNCH giam giữ.
                     Còn đội 21 đặc công của mặt trận – Đánh chiếm khu tỉnh đoàn, bảo an, tòa hành chính, khu cảnh sát. Phối hợp với các đội vũ trang Pleiku diệt 2 đại đội bảo an, phá hủy 10 xe M-113, bắn rơi 2 máy bay trực thăng.
                     Tiểu đoàn 408 đặc công quân chủ lực (gồm các đại đội 60,70,80), đánh vào sân bay Arêa, cơ quan Quân đoàn 2 của VNCH, phá hủy 45 máy bay lên thẳng, 37 xe quân sự.
                     Các trận địa pháo binh quân chủ lực nã pháo dồn dập vào sân bay, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2, phá hủy khu ra-đa với 15 máy bay.
                      Trung đoàn 95 chặn diệt đoàn xe lính Mỹ 26 chiếc trên Đường 9, không cho cứu viện Pleiku.
                     Tiểu đoàn 15 của Tỉnh đội Gia Lai đánh chiếm khu vực Thần Phong, Trà Bá. Phối hợp với đặc công quân chủ lực, tấn công căn cứ trung đoàn thiết giáp QLVNCH ở ngã ba Phù Đổng, rồi tiến đánh khu vực Hội Phú.
                     Sau khi đã chiếm các mục tiêu chính trong thị xã, bộ đội chủ lực cùng quân địa phương tiêu diệt các ổ đề kháng của địch ở ngã ba Diệp Kính.
                     Những ngày sau QLVNCH được Mỹ tăng viện, dùng cả không quân, pháo binh, thiết giáp và bộ binh phản công lại QGP rất quyết liệt.
                     Bộ đội chủ lực và quân địa phương Gia Lai, tuy thắng cũng lớn nhưng tổn thất rất nặng nề.
                     Những ngày này, Tỉnh ủy đã huy động được gần 11.000 quần chúng đồng loạt nổi dậy, 11 làng xung quanh Thị xã Pleiku được giải phóng.
                     Ở Kon Tum: 0 giờ 30 phút ngày 30.1.1968 - Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 174, Sư đoàn 1 bộ đội chủ lực cùng lực lượng vũ trang địa phương nổ súng nhanh chóng đánh chiếm Đắc Tô – Tân cảnh… tiêu diệt đồn cảnh sát, phá sập khu đồn Đắc Prông... làm tê liệt hoàn toàn khả năng phản kích của đối phương.
                      Đồng thời quân và dân toàn tỉnh Kon Tum đồng loạt nổi dậy, nổ súng tấn công vào 23 mục tiêu quan trọng của Mỹ và VNCH trong thị xã: như tòa hành chính, ty cảnh sát, tiểu khu và sân bay Kon Tum.
                     Tính riêng Kon Tum trong đợt Tổng công kích xuân Mậu Thân - Từ 30/1 đến 17.2.1968, quân cách mạng đã giải phóng và diệt 1.500 tên (trong đó có 650 lính Mỹ), đánh hỏng 253 xe quân sự, bắn rơi và phá hủy 37 máy bay, đánh phá 5 kho xăng dầu, 3 kho đạn, phá đồng loạt 7 ấp chiến lược và giải phóng nhiều làng xã.
                     Ở Đắc Lắc: QGP đã đánh chiếm được một số mục tiêu quan trọng trong thị xã Buôn Ma Thuột như đài phát thanh, trụ sở Sư đoàn 23 quân Sài Gòn, tòa hành chính, ty cảnh sát, đánh tan hoang Trung đoàn 45 Mỹ và sân bay. Sau đó đánh chiếm khu cư xá Mỹ, khu cơ giới và pháo binh. Cùng với QGP, nhân dân cũng nổi dậy phá ấp chiến lược, diệt ác ôn. Hàng vạn đồng bào Kinh, Thượng từ các ngả kéo vào Thị xã Buôn Ma Thuột, vây chặt các căn cứ QLVNCH và kêu gọi binh lính đầu hàng.
                     Tổng kết cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân Tây Nguyên - Đã làm chủ nhiều ngày Thị trấn Tân Cảnh (Kon Tum), Thị xã Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc) và nhiều khu vực ở Thị xã Pleiku (Gia Lai). Tiêu diệt, làm tan rã một lực lượng rất lớn lính Mỹ và VNCH, góp phần đáng kể vào chiến thắng của toàn miền.
                 
                             MẤY NHẬN ĐỊNH CHUNG TOÀN CHIẾN TRƯỜNG
                 
                     Tướng Maxwell D.Taylor – cựu đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, sau khi từ chức về làm cố vấn đặc biệt của Tổng thống Johnson, trong hồi ký "Thanh gươm và lưỡi cày" xuất bản tại New York năm 1972, đã thừa nhận: "Ngày 31.1.1968, quân địch (tức Quân giải phóng) tiến công chỉ trong hai ngày họ đã tiến vào 5 thị trấn, 39 tỉnh lỵ và nhiều thành phố".
                     Còn Westmoreland – nguyên Tư lệnh Bộ chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, viết trong quyển "Một quân nhân tường trình", xuất bản ở New York năm 1976: "Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị - Nói chung theo quan điểm thực tế thì chúng ta (Mỹ) phải công nhận, đối phương đã giáng cho Chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề.".
                     Hãng thông tấn Reuters của Anh ngày 5.2.1968, nói: "Mỹ có đến nửa triệu quân ở miền Nam Việt Nam, đã mất 13 năm và tiêu mỗi ngày 60 triệu đô la, mà vẫn không bảo vệ được một tấc vuông đất nào ở miền Nam Việt Nam cả.".
                     Theo thông cáo của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng ngày 20.12.1968, về những trận đánh trong năm 1968 – Chủ yếu là cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân: Quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên Mỹ, quân của các nước đồng minh và VNCH. Tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn – chiến đoàn – tiểu đoàn bộ binh, 18 chi đoàn thiết giáp, phá hủy 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu xuồng chiến đấu trên sông, 70 kho đạn, 100 khẩu pháo các loại. Diệt – bức hàng – bức rút 15.000 đồn bốt, chi khu.
                     Tài liệu Hoa Kỳ thì xác nhận - Tổn thất trong đợt Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân 1968, là: Hơn 48.500 quân và 552 máy bay bị phá hủy. Năm 1968 trở thành năm đẫm máu nhất đối với quân viễn chinh Mỹ tại Việt Nam, với 16.511 lính chết và 87.388 bị thương. Như vậy tổng thương vong của quân Mỹ và đồng minh trong năm 1968, khoảng 310.000 người.
                     Về phía Quân giải phóng – Theo một tài liệu của Chính phủ VNCH, ghi rằng: Năm 1968 có 44.824 chiến binh giải phóng bị chết, 61.000 bị thương, mất tích 4.511, bị bắt 912 người –Tổng cộng là 113.000 người.
                 
                 
                 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.09.2020 17:44:47 bởi Nhân văn >
                #23
                  Nhân văn 10.09.2020 17:48:22 (permalink)
                   
                                            Chương VI.
                   
                                 TRẬN ĐÁNH ĐẦU TIÊN
                                  CỦA ĐƠN VỊ HOÀNG
                         TRÊN CHIẾN TRƯỜNG TÂY NGUYÊN
                   
                                                                                   21-
                   
                       Sau thời gian diễn tập, chiều tối mồng 5 tết Mậu Thân 1968, đúng vào ngày chiến thắng Đống Đa lịch sử của vua Quang Trung – E209 thuộc Sư 312 gồm các Tiểu đoàn 7-8-9, được lệnh hành quân cấp tốc vào Tây Nguyên.
                       Trung sĩ Hoàng, tiểu đội trưởng ở Trung đội súng đại liên thuộc C5 – “xê” hỏa lực trợ chiến của Tiểu đoàn 7. Đại đội 5 gồm ba trung đội: Trung đội đại liên, Trung đội cối 82mm và Trung đội súng B-41. Giờ đây trong đội hình trung đoàn, họ đang tiến vào chiến trường miền Nam nóng bỏng.
                       E209 là trung đoàn bộ binh chủ lực đầu tiên chuyển quân bằng xe ô tô Giải Phóng, được cấp toàn mũ sắt, nên còn gọi "Trung đoàn mũ sắt". Họ dã dược huấn luyện kỹ suốt một năm để đánh công kiên, đánh tập kích và chống đổ bộ đường không. Được trang bị súng B-41, súng phun lửa Liên Xô, lựu đạn chống tăng, đại liên K63, trung liên RBD, mặt nạ phòng độc, súng AK báng gấp, giầy bộ binh cao cổ... là những trang bị và vũ khí bộ binh tốt nhất thời đó.
                  Tất cả đều nhập ngũ cùng ngày 27.3.1967, tuyển chọn toàn thanh niên sức khỏe loại A1, A2 – riêng Tiểu đoàn 7, phần đông là anh em người Hà Nội. Người chỉ huy nào nhìn thấy một đội quân toàn lính "đẹp" thế, đều phải trầm trồ ước ao…
                        Nói về hỏa lực B-41, kẻ địch gọi là rốc két B-41 dùng để bắn tăng, bắn lô cốt… tầm bắn 500 – 600m trên mặt đất, nóng tới 4.000 - 4.500 độ. Mỗi lần bắn chỉ nghe thấy một tiếng "đoành" nổ ở đầu nòng, chưa kịp nhìn... bùng một phát là: trúng rồi! “các con giời”… trong Sư đoàn Anh Cả Đỏ Mỹ và lính QLVNCH, cứ nghe thấy tiếng B-41 thì biết ngay đã chạm trán với quân chủ lực Bắc Kỳ. Mỗi lần bóp cò xong lại lộ vị trí, pháo Mỹ dập tới như mưa. QGP nhiều khi phải đặt súng lên một cái chạc, buộc dây vào cò giật nổ xong vội chui ngay vào hầm. Vãn tiếng pháo địch bắn tới, mới chui lên làm phát nữa.
                       Trung đoàn 209 được thành lập ngày 2.9.1949, trong kháng chiến chống Pháp tại Phú Thọ. Từng tham gia 55 ngày đêm tiến công cứ điểm Điên Biên Phủ. Một trung đoàn chủ lực tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam.
                       Tây Nguyên có một vị trí chiến lược quan trọng trên chiến trường miền Nam – Do vậy, Mỹ và Chính phủ VNCH đã thiết lập một bộ máy kìm kẹp hết sức khắc nghiệt ở nơi đây: dồn dân vào các ấp chiến lược, tìm mọi cách chia cắt dân với cách mạng.
                       Về phía Chính phủ cộng sản Bắc Việt, để tăng cường hơn nữa cho sức mạnh của QGP trên chiến trường Tây Nguyên – Khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 bùng nổ, E209 cùng các đơn vị trực thuộc đã được lệnh cấp tốc lên đường… vào chiến trường Tây Nguyên chiến đấu.
                       Trung đoàn xuất quân từ vùng rừng núi Hòa Bình, với quân số trên 2.100 người và được 150 xe Giải Phóng vận chuyển. Chặng đường hành quân kéo dài 25 ngày. Khởi hành mồng 5 tết Mậu Thân, tức 6.2.1968 dương lịch. Khi lên xe tiến vào miền Nam, trung đoàn chia làm ba nhóm:
                  -  Nhóm thứ nhất là Tiểu đoàn 7.
                  -  Nhóm thứ hai Tiểu đoàn 8.
                  -  Nhóm thứ ba gồm Tiểu đoàn 9 và các đại đội trực thuộc trung đoàn.
                       Mỗi tiểu đoàn có 4 đại đội, như D7 có C1,2,3,5 – D8 có C6,7,8,10 – D9 có C11,12,13,15. Trong đó các C5,10,15 là những đại đội hỏa lực trợ chiến của tiểu đoàn.
                       Những đại đội trực thuộc trung đoàn gồm: C16 DKZ, C17 cối 82mm, C18 thông tin, C19 công binh, C20 quân y, C21 súng máy phòng không 12,7mm, C22 đặc công – súng phun lửa, C23 vận tải, C24 hậu cần, C25 vệ binh.
                       Tốc độ di chuyển của xe khoảng 10-20 km/h. Xe chạy ban đêm, xuất phát lúc 16h 3o chiều tối đến 5h sáng thì dừng. Khi bộ đội nghỉ, đưa xe vào cất dấu cách xa tuyến đường chừng 300m, mỗi xe cách nhau khoảng 100-200m.
                       Lịch trình của Tiểu đoàn 7:
                  -  7.2.1968 đến Thanh Hóa
                  -  8/2 đến Hà Tĩnh, nghỉ 1 ngày và đổi xe.
                  -  10/2 đến Quảng Bình.
                  -  11/2 nghỉ 1 ngày và đổi xe để đi sang Lào.
                  -  12/2 đến Lào.
                  -  13/2 nghỉ 1 ngày và đổi xe.
                  -  14/2 đến 28/2 đi trên đất Lào.
                       Đến Lào Tiểu đoàn 8 bị địch phát hiện. Máy bay Mỹ đánh, 1 xe bị lật và 10 chiến sĩ bỏ mạng, nhiều xe khác bị hỏng - Từ đây D8 phải hành quân bộ.
                       Nói về đoàn xe chở D7 và D9 khi vào đến đất Tây Nguyên thì đường rất xấu. Xe đi qua nhiều đoạn trầy trật, trồi sụt, có những lúc bị nghiêng tưởng như sắp lật. Tuy nhiên, những chiếc xe Giải Phóng này cũng đã bền bỉ đưa cả đoàn quân mũ sắt đi tới tận điểm cùng của con đường mòn, nơi phương tiện cơ giới còn có thể đi được.
                       Qua sông Sa Thầy thuộc địa phận Kon Tum rồi, cả hai tiểu đoàn 7 và 9 của E209 cũng đành phải xuống xe để hành quân bộ. Đại đội trinh sát đi đầu, dốc ngược... từng người nối nhau, níu dây song nhích từng mét "thượng sơn". Chân mỏi, miệng khô, phía trước núi cao ngất trời, rừng xanh, dây leo, cây đổ. Có chiến sĩ bảo: đọc truyện "Rừng thẳm tuyết dầy" của Tàu, hình dung rừng ghê gớm lắm! Bây giờ mới thấy, thế nào là núi cao dốc đứng? Người sau đội đít người đi trước, sảy chân là nhào xuống vực. Hiểm trở hơn truyện nhiều. Chốn rừng thiêng nước độc, vẫn như những trang  sách cũ, đầy gai góc và nắng lửa. Muỗi to như con ruồi, chỉ cần đứng yên ít phút là chúng bu tới cùng với kiến rừng. Có cả kiến bọ nhọt, loài mà một phát cắn của nó có thể đứt thịt một con ruồi.
                       Sau một đêm mắc võng ngủ rừng Trường Sơn, các chiến sĩ trở dậy đi ăn rồi hành quân tiếp. Chúng tôi đi theo những con đường giao liên đã thành đường mòn nhẵn, leo lên những đỉnh núi, có khi luồn qua cả nương rẫy của dân bản và những vạt rừng già. Gặp không ít điều lạ: Bên các hố bom và những chiếc hầm đã bị sập nắp vì lâu ngày, gặp cả đàn bướm vàng, đỏ… bay đến đẹp hoa cả mắt. Luôn có những tiếng chim kêu lốc cốc bên rừng phía trước như dẫn lối, nhưng đến nơi thì chim lại bay mất.
                       Sao mà lắm núi, nhiều rừng thế? nhưng rồi núi cũng thua con người. Cao nguyên Kon Tum cũng chỉ cao đến thế là cùng. Lên cao thoáng gió, nhưng rừng vẫn che tầm mắt. Tiếng máy bay ì ầm... càng đi lại thấy địch càng gần.
                       Sau 25 ngày – 14h ngày 1.3.1968, D7 và D9 đã có mặt tại căn cứ của Bộ tư lệnh B3. Trừ Tiểu đoàn 8, lúc này vẫn đang phải hành quân bộ trên đất Lào, bị chậm hơn một số ngày so với kế hoạch. Đấy cũng chính là lý do, trong trận đánh đầu tiên của E209 trên chiến trường Tây Nguyên, nhưng D8 đã không có mặt.
                       Vừa đặt chân đến Kon Tum, E209 đã được Bộ tư lệnh B3 giao ngay nhiệm vụ đánh Kleng, hay còn gọi là căn cứ Lệ Khánh - Là một trại huấn luyện biệt kích, thám báo của Mỹ và VNCH, có mật danh M1 thuộc huyện Sa Thầy, ở phía tây – tây bắc Kon Tum.
                       Căn cứ và sân bay Kleng ở trên một bình độ khá cao. Trung đội trinh sát trung đoàn cùng trinh sát hai tiểu đoàn D7-D9 được lệnh lập tức lên đường điều nghiên cứ điểm.
                       Họ chuẩn bị ba ngày cơm nắm, cá khô, hai ngày gạo rang trộn đường và muối để đi trinh sát. Lại dốc đứng, rừng già, nắng chang chang. May mà gặp cơn mưa bất chợt chạy ngang khe núi, ướt nhưng mát rượi. Nhìn thấy mục tiêu đã hiện ra trong tầm mắt, vậy mà phải đi bốn tiếng sau mới vào được gần. Anh em nghỉ chờ đêm xuống.
                       Căn cứ Kleng ba bề dốc đứng, phía sân bay phẳng hơn. Đêm thứ hai vào sát hàng rào, lợi dụng pháo sáng của địch thả suốt đêm, vẽ sơ sài các hỏa điểm, nhà lính… Lại một đêm nữa, mất nhiều thời gian chờ lính thay gác. Chờ mãi không thấy chúng thay? Hóa ra, bọn lính đó là hình nộm. Mỹ cũng “ranh” thế! Trinh sát phát hiện các hỏa điểm, kho tàng, dãy nhà chỉ huy… vẽ chi tiết hơn rồi rút ra an toàn.
                       Ít ngày sau, trinh sát lại đưa đoàn cán bộ trở lại Kleng nắm địch. Trung đoàn trưởng E209 Trần Huy Toàn - người cao to như Tây, cùng các cán bộ sư đoàn thuộc Bộ tư lệnh, cán bộ hai Tiểu đoàn 7-9 vào sát căn cứ để nhìn tận mắt.
                       Đêm thứ ba… đoàn trinh sát vào thì bị lộ, có lẽ do đêm trước để lại nhiều dấu lạ. Ai đó sơ ý đã làm rơi vật dụng gì chăng? Lính trong trại biệt kích hò hét: “Đ.mả mấy thằng Bắc Kỳ”… rồi bắn cối 81 ra các hướng như mưa, pháo kích, cho B52 ném bom rải thảm vào những chỗ nghi quân chủ lực ém quân,  máy bay chiến thuật Mỹ thay nhau quần lộn, xới tung cả một vùng sơn địa. Tưởng như hỏa lực đó có khả năng làm nát một sư đoàn.
                       Sau này trinh sát kể lại, chính đồng chí Toàn đã đánh rơi gần căn cứ một cây bút Trường Sơn và bao thuốc lá Điện Biên. Chắc địch tuần tra phát hiện ra!... Hệ lụy từ bao thuốc lá và cây bút cũng không nhỏ? Nó chứng tỏ cho địch thấy, rằng: Bộ đội chính qui miền Bắc đã có mặt tại đây.
                       May mà chuyến đó, anh em trinh sát đưa đoàn cấp trên rút nhanh, nếu không thì sẽ tổn thất nặng. Những ngày sau, chúng bung ra xung quanh Kleng 4 cao điểm mới để ngăn chặn.
                       Ngay 10h sáng hôm ấy, chúng thả 1 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ Mỹ chuyên đánh rừng và 1 đại đội pháo 105mm xuống lập căn cứ FSB 14 – Chính là cứ điểm Chư Tan Kra hay còn gọi là cao điểm 995.
                       Chúng thả chất độc hóa học trên các đỉnh núi xung quanh, còn cứ điểm chính thì ném bom phát quang trước rồi dào công sự, ném bom cháy để không bị rừng cây rậm rịt hạn chế tầm nhìn. Trực thăng bay rè rè suốt ngày. Các máy bay trinh sát OV10, AL19 lấm chấm như ruồi từ đường chân trời lượn tới, nhào lộn tìm Việt Cộng. Trên các cao điểm, có pháo binh chi viện cho nhau, ứng phó khi Kleng bị vây hãm. Đó là các cao điểm Chư Tan Kra, Chư Pen, Chư Đô… QGP gọi là dãy Chư Tan Kra – mật danh M2.
                       Dãy cao điểm phòng ngự này án ngữ Đường 14 vào Thị xã Kon Tum, cách đó hơn 30km về phía đông.
                       Đêm cao nguyên bí ẩn và hoang dã, càng bí ẩn và hoang dã hơn khi nhìn về phía Kon Tum: ánh đèn vàng vọt chập chờn, cùng hỏa châu chốc chốc lại phọt lên sáng trắng. Những tàn lửa của pháo sáng bay lên như tua rua. Đêm cao nguyên giấu trong im lặng nhiều bí ẩn…
                       Quân Mỹ giàu, hậu cần mạnh – Để lập cứ điểm, chúng lập tức cho ném bom đốt cháy “làm sạch” các núi bên cạnh. Tại M2, trực thăng cần cẩu bay CH47 Chi-núc cẩu máy ủi xuống đỉnh cao, công binh Hoa Kỳ san phẳng lấy mặt bằng, sau đó dùng máy cưa gỗ, cẩu pháo đến lập trận địa, cả lô cốt di động đúc sẵn, chở dây kẽm gai, bao cát, nhà bạt và quân cụ tới. Mọi sinh hoạt của chúng đều do trực thăng mang lại: từ đạn dược, đồ ăn, cả tắm giặt và thay đổi quân số… Chỉ trong hai ngày cứ điểm đã xong.
                       Hàng trăm lượt trực thăng đổ các đại đội Mỹ xuống đỉnh 995, ngay trên đầu đội hình của Tiểu đoàn 7 – E209. Quân Mỹ nhanh chóng củng cố trận địa, rồi thúc quân sang các đỉnh xung quanh thảm sát. Quân chủ lực Bắc Kỳ phải né xuống các vạt rừng.
                       Từ ngày 20 đến 22.3.1968, hai bên đụng nhau vài lần, đã có thương vong nhỏ.
                       Từ bên này núi, C5 – Đại đội hỏa lực D7 nhìn sang cao điểm 995 rất rõ. Anh em còn nghe thấy cả tiếng xì xồ của công binh Mỹ. Chót vót trên đỉnh núi lố nhố quân da trắng lẫn da đen, nhà bạt giăng thành dãy bên các ụ súng. Chúng dùng bao cát chồng lên rất dày. Buổi chiều, trực thăng mang nước tới. Cả một tiểu đoàn Mỹ trần như nhộng, tắm dưới nước thả từ trên không xuống rất ngạo mạn - Đó chính là lính Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ Mỹ.
                       Tình hình chiến sự phải thay đổi. E209 buộc phải chuyển từ kế hoạch đánh Kleng sang đánh Chư Tan Kra trước – Vào một ngày trời mưa, Trung đoàn trưởng Trần Huy Toàn giao nhiệm vụ cho đội trinh sát đi điều nghiên Chư Tan Kra. 5 trinh sát, 7 ngày ăn, mũ sắt chỉnh lại quai da... tiếp tục vượt dốc, cắt rừng tới căn cứ. Càng đến gần, mũ sắt chạm cây rừng kêu leng keng dễ lộ, đành bỏ lại.
                       M2 ở trên cao, cây chắn tầm nhìn, tìm mãi mới được một khoảng trống hiếm hoi. Anh em trinh sát leo lên cây, bò ra cành bên ngoài, ngửa người bắc ống nhòm quan sát. Chiều, nghỉ lấy sức, đêm bò vào gần. Nhưng ác thay, không bò lên được... vì đất đá xe ủi của Mỹ ủi tràn ra, vướng trên các cành cây rất nhiều. Bám cây leo lên, đất xối xuống ào ào, đá lăn văng cả vào người. Chịu! Tìm cách sang hướng khác để vào dễ hơn. Trinh sát trát đất đỏ lên người, lẫn vào màu đất. Nghe rõ tiếng địch ho, thấy địch ném những lon bơ loảng xoảng. Nhiều giờ công phu quan sát, ước lượng: thấy rõ hai bệ súng đại liên, pháo, kho đạn... tất cả thu vào trong bản vẽ.
                       Chư Tan Kra là dãy núi hình vòng cung, có tới 7 đỉnh núi lớn ôm một phần thung lũng Kleng. Cách Kleng khoảng 10km. Nghĩa về chữ Chư Tan Kra? Người dân tộc họ giải thích bằng tiếng Gia Lai, nghĩa là "núi chính nghĩa".
                       Trong 7 đỉnh, đỉnh chính giữa cao nhất. Từ trên sườn phía đông Chư Tan Kra có thể quan sát được sân bay và Chi khu quân sự Kleng ở dưới.
                       Đồng chí trung đội phó trinh sát E209 nổi tiếng gan dạ, anh bò vào tận nơi địch bỏ túi rác, có cả thịt hộp, sữa, bánh... gùi ra cho anh em. Nhưng các anh không dám ở lại, phải rút thật xa mới "liên hoan". Bữa ăn trong những ngày gian nan sao quên được! Hai người được phân công nán ở lại, tiếp tục nắm qui luật hoạt động của địch, sẽ rút về sau. Nhưng không ngờ sau đó địch tăng cường thêm quân, lại có cả sông sự bê tông đúc sẵn cẩu đến…
                       Trung đoàn trưởng E209 phân tích: Hiện Chư Tan Kra công sự còn sơ sài, hàng rào thép gai chưa đủ sâu, địch mới đặt chân tới – nên ta phải tiến công nhanh. Càng đánh sớm càng bớt xương máu.
                       Như thế là trên Cao điểm Chư Tan Kra hay còn gọi căn cứ FSB 14, theo trinh sát trung đoàn xác định bằng đếm số lần chuyến trực thăng đổ quân, là: Một tiểu đoàn tăng cường - Gồm 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội pháo 105mm, lực lượng trinh sát, công binh tương đương 1 đại đội nữa và Chỉ huy sở tiểu đoàn.
                       Trong thực tế, ta không biết: Mỹ còn hai đại đội đánh bộ thường xuyên tuần tra trong rừng, đêm ngủ quanh căn cứ. Chúng luồn rừng lên từ Kleng. Để trợ chiến cho Chư Tan Kra, luôn luôn có 4 đại đội pháo ở sân bay Kleng và các vùng lân cận, với các cỡ nòng 203, 175, 155, 105mm cùng không quân.
                       Phải đánh Chư Tan Kra – M2, còn vì nó chặn đường thông thương từ Kon Tum về vùng ngã ba biên giới. Hơn nữa, địch lại đổ quân vào giữa vùng tập kết của E209 – Căn cứ FSB 14 Mỹ chỉ cách Tiểu đoàn 7 có 900 mét về phía nam.
                       Hàng ngày, đứng ở vị trí đóng quân của Đại đội 5, qua kẽ rừng – Hoàng và anh em trong trung đội đại liên vẫn trèo lên cây cao nhìn thấy rõ trực thăng của địch lên xuống, quân Mỹ đào hầm, căng rào thép gai, cưa cây, hò hét...
                       Tiểu đoàn trưởng Trương Ân và chính trị viên tiểu đoàn Phan Trung Bắc, xung phong để D7 đánh mũi chủ công, từ hướng tây và tây bắc. Cả hai ông đều là người Nam Bộ.
                       Trên cho phép ba đại đội của D7 mật tập, đánh công kiên vào Chư Tan Kra. Gọi là ba đại đội, nhưng Đại đội 3 chỉ còn có Trung đội 9 tham gia. Hai trung đội khác đã bị thương vong hết trong những trận đánh nhỏ trước đó.
                       Tuy nhiên, còn có sự tham gia của một đại đội Tiểu đoàn 9 đi phối thuộc, đánh từ hướng thứ yếu – Hướng nam, với một trung đội đặc công của trung đoàn, luồn sâu từ hướng bắc đánh vào chỉ huy sở của căn cứ địch.
                       Nguyên tắc của đánh công kiên – tức là tấn công một trận địa kiên cố: Lực lượng đánh phải lớn hơn từ ba đến năm lần, thậm chí lấy mười đánh một. Thế mà Tiểu đoàn 7, lính mũ sắt Hà Nội dám xin đi đánh một tiểu đoàn Mỹ trong lô cốt, chiến hào, công sự... Dám chơi như thế! Sau này chính Mỹ cũng không ngờ vừa mới qua đợt Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân, còn bị quân chủ lực đánh một trận vỗ mặt như vậy.
                       Tiểu đoàn trưởng Trương Ân nghiên cứu rất kỹ sa bàn do trinh sát đắp, hỏi tỉ mỉ trinh sát từng hướng vào, bệ súng. Lính của ông phần đông là Hà Nội được lựa chọn. Ông tin ở họ từ những ngày huấn luyện mang vác đường dài, anh em giữ kỷ luật nghiêm, hành quân lên xuống xe... và cả những khi phải "thượng sơn" leo ngược dốc đến đây.
                       Chư Tan Kra là một căn cứ hình chữ T trên sườn núi dốc, mỗi chiều 500-600m. Quân Mỹ bố trí ba đại đội bộ binh ở ba góc, để có thể dễ dàng chi viện cho nhau. Ở giữa bố trí trận địa pháo 105mm và chỉ huy sở. Được bảo vệ bằng lớp phòng ngự thứ hai là lính trinh sát, công binh, thông tin. Địch mới kịp ba lớp hàng rào, bù lại chúng giăng nhiều lớp mìn định hướng claymo, trang bị kính nhìn đêm và thiết bị thu tiếng động. Ngoài ra, như trên đã nói: Quân Bắc Việt vẫn không hề hay biết, còn hai đại đội Mỹ lưu động... ngày tuần tra, đêm ẩn kín trong rừng.
                       So sánh lực lượng Mỹ không chỉ hơn QGP một chút về quân số, mà còn thế lợi hơn hẳn vì căn cứ ở trên cao, lô cốt bê tông, công sự vững chắc. Pháo trong căn cứ, pháo bầy từ Kleng và các cứ điểm khác bắn đến yểm trợ. Đấy là chưa kể đến lực lượng không quân như trực thăng tác chiến, máy bay C130 ném bom và các loại phản lực.
                   
                                                                     *
                   
                  #24
                    Nhân văn 10.09.2020 17:52:15 (permalink)
                     
                         Bóng đêm của rừng núi sập xuống. Đi trong đêm giống như đang bơi giữa một biển nước đen lõng bõng, bưng lấy mặt. Đá khấp khểnh, rễ cây nhằng nhịt. Chỉ cần bước quá đà, rễ cây móc vào chân, vấp đá, húc ngay đầu vào thân cây trước mặt.
                         Dẫn đầu hàng quân là tổ trinh sát Tiểu đoàn 7. Tiếp theo Đại đội 1,  đại đội chủ công của tiểu đoàn chủ công.
                         C5 – "xê" hỏa lực của tiểu đoàn ở giữa. Đi đầu là Tiểu đội trưởng Nguyễn Hoàng trong đội hình của trung đội đại liên, tiếp đến trung đội B-41 và trung đội cối 82mm.
                        Sau tới các trung đội thông tin, quân y tiểu đoàn rồi Đại đội 2. Đại đội 3 -  còn lại duy nhất là Trung đội 9 được tiểu đoàn bố trí làm lực lượng dự bị, đi cuối cùng.
                         Đêm nay 25.3.1968, Tiểu đoàn 7 được lệnh xuất quân vào đánh căn cứ FSB 14 của Mỹ, trên cao điểm 995 dãy Chư Tan Kra. Đội hình tiểu đoàn phải dài ngót cây số. Viên trung sĩ, tiểu đội trưởng trinh sát sử dụng một chiếc đèn pin đầu đã được bọc kín, chỉ để hở một chấm sáng bằng hạt ngô, chiếu cắm xuống đất dò đường… dẫn cả tiểu đoàn vào tiếp cận trận địa.
                    Người thứ hai cho tới người cuối cùng bám nhau mà bước. Cách xa vài mét, anh đi sau không nhìn thấy anh đi trước, sẽ dẫn cả một đoàn quân lạc trong rừng.
                         Ở phia sau mũ sắt mỗi chiến sĩ, buộc một miếng lân tinh bằng hai ngón tay. Đêm đêm nó phát ra một vệt sáng trắng, làm tín hiệu cho người đi sau. Có anh vô ý đánh rơi miếng lân tinh, thì nhặt tạm dưới chân mình một mảnh lá mục, chiếc lá khô mốc có xạ quang thay thế. Nhìn vết sáng của những miếng lân tinh, vạch một đường sáng ngoằn ngoèo theo đội hình đoàn quân dài năm, sáu trăm người… như thể cuộc di chuyển hàng một của đàn đom đóm đêm. Đầu mũi sáng cứ từ từ khuất vào lưng chừng núi bên kia thung lũng.
                         Những bước đi lặng lẽ, không một ánh lửa. Có chiến sĩ nào bỗng nhiên lên cơn ho, vội vàng lấy chiếc khăn mặt bông ấn vào mồm. Những tiếng khục… khục… rên lên trong cổ họng người chiến sĩ nọ. Cái chết trên sách vở có khi bông lơn như câu chuyện phiếm, còn cái chết ở đây? Rất thực tế, nghiêm trang. Nó gần gũi như tiếng ho, đơn giản như âm thanh của tiếng nói. Cái “ho” để thoát ra khỏi cuống họng, cái “chết” đã chờ sẵn cửa miệng. Tiếng nói lỡ quên đi buột ra hơi to từ trong miệng, cái chết lập tức đến sát ngay bên tai. Không có một hình thức kỉ luật nào được thực hiện triệt để, tự giác như ở đây - Trong khoảnh khắc này, nơi cái chết không biết mặc cảm.
                         Căn cứ Chư Tan Kra nằm trên một dẫy núi. Mặt cứ điểm chinh giữa rộng và dốc đứng. Đã bị đốt trụi cháy không còn bóng cây xanh, phơi trần lớp đất đỏ như một thân thể đã bị lột mất da ngoài.
                         Một tiểu đoàn tăng cường của Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ Mỹ cố thủ trên cao điểm. Nó thông sang các ngọn núi xung quanh bằng những “yên ngựa”. Những lớp dây thép gai đã gài mìn bọc lấy các lô cốt.
                         Trước trận đánh, các khu rừng xung quanh tưởng như đang chìm trong một giấc ngủ thường lệ, tĩnh mịch. Thỉnh thoảng lại có loạt súng trung liên cực nhanh AR15 của Mỹ trong cao điểm bắn xối vào không trung, hoặc vương vãi ra các khu rừng xung quanh. Những con cú đang thu mình trong bóng cây đen kịt, rình bắt chuột rừng đi ăn đêm… giật mình, nhớn nhác. Vài chiếc trực thăng chốc chốc lại rè rè bay đến, thả mấy chùm pháo sáng quắc. Khoảnh khắc, để rồi cái bóng đen rừng lại nuốt không gian vào cái họng tối rợn người của nó.
                         Theo linh cảm nhà nghề: Một bầy quạ khoang, cái giống vật rất thích đánh hơi mùi tử thi bay đến từng đàn kêu quàng… quạc… Chúng hạ cánh đỗ xuống những khu rừng rậm vây xung quanh cứ điểm. Mầu tối trên thân thể những con vật nhập vào bóng đen của rừng.
                         Khoảng canh hai, các đơn vị của Tiểu đoàn 7 đã vào vị trí tiếp cận trận địa. Họ im lìm nằm phục trên các triền đồi của đỉnh Chư Tan Kra, hướng lên phía cứ điểm trên cao của Mỹ. Trong tay là súng, trước ngực là cơ số đạn cá nhân, thắt lưng đeo lựu đạn, buộc chéo trên vai là chiếc võng bằng vải dù bất ly thân: chiếc áo quan di động sẽ được bọc quấn quanh người - nếu chẳng may chủ nhân của nó phải nằm xuống vì tử trận. Thời gian như kéo dài cả trăm năm. Những đọt cỏ Chư Tan Kra mọc nhú trên đất đỏ thật sắc, nhưng vẫn ngọt và mềm. Chỉ có tiếng súng bắn cầm canh hú họa từ lô cốt. Thỉnh thoảng vài quả đạn pháo ở hướng sân bay Kleng vu vơ bay tới. 
                         Hai khẩu đại liên của tiểu đội Hoàng, nằm phục ngay phía sau đội hình Đại đội 1 chủ công. Tất cả im lặng chờ hiệu lệnh nổ súng! Trong những giây phút hồi hộp đó, bỗng nhiên anh lại nhớ đến những kỉ niệm từ đời học trò: Có một nhà văn mà anh được học, đã viết một bài tùy bút về tâm trạng người lính trước trận đánh? Giờ không còn là sách vở nữa, chính anh cùng đồng đội đang sống trong những giây phút thiêng liêng ấy! Đây là trận đánh đầu tiên của đời lính, nếu còn sống trở về… anh sẽ viết thư kể cho Thu nghe!
                         Ồ, chưa chi đã nghĩ đến cái chết? Hoàng tự chỉ trích mình. Anh sẽ kể cho người bạn gái thân yêu của anh, tâm trạng cái giờ phút này nó bồn chồn và cả căng thẳng nữa. Anh sẽ tả về những hình ảnh của trận mạc, cả những thằng lính Mỹ mũi lõ…
                          Hoàng nhớ lại năm học cuối cùng, khi cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc đã lan tới thủ đô, trường phải sơ tán về vùng quê Hà Bắc để học. Những tối, hai đứa ngồi ôn thi đại học dưới trăng, cùng nhau dạo bước trên con đường làng. Gió đưa hàng tre xào xạc lá… Anh nhớ cả đến buổi, hai đứa chạy vội ra ga để tiễn các bạn sang châu Âu học - Ừ, đất nước phải có những người được đi học mà trau dồi kiến thức như các bạn, để có trình độ khoa học, kỹ thuật cao. Khi nước nhà hòa bình, thống nhất rồi, còn xây dựng tổ quốc mình thật giàu và đẹp chứ! Nhưng giờ đang có chiến tranh, cũng phải có những người như chúng mình ra chiến trường diệt giặc. Giờ đây, trước trận đánh này - Mình cảm thấy rất tự hào vì đã có mặt trong lúc tổ quốc lâm nguy, các bạn ạ!
                         Viết Minh, Thanh Hà, Phi "đen" và cả Trần Tứ Đức nữa… các bạn phải học thật tốt đều trở thành những kỹ sư giỏi, sau này còn xây dựng Tổ quốc Việt Nam của chúng ta giàu mạnh, hùng cường như các nước Âu Châu và Mỹ. Khi nào hết chiến tranh trở về, mình cũng sẽ tiếp tục theo học đại học mầ hôm nay tạm thời bỏ dở, để lên đường cầm súng diệt thù.
                         Bao suy cảm cứ dồn dập như thước phim chạy trong óc Hoàng. Anh lại nghĩ đến Thu? Trên chỗ trường đại học sơ tán của em có được yên ổn không nhỉ? Không lẽ, bọn không quân Mỹ mang cả bom lên oanh tạc tận vùng rừng núi Tuyên Quang – Việt Bắc ấy! Mà cũng chẳng biết đâu mà lường? Nghe nói ở trên Tuyên Quang , nhà nước cho xây dựng nhiều cơ sở ở trong núi chứa hồ sơ, kho tàng. Các cơ quan, trường học lớn về đấy cũng nhiều... chắc gì bọn giặc lái Hoa Kỳ đã để cho yên?
                         Cả tình hình ở miền Bắc - Nghe đài báo: Hồi này thủ đô rất căng, Mỹ ném bom ngày càng gần vào Hà Nội hơn. Ở trong chiến trường, cả đại đội chỉ có một cái đài national xách tay của đồng chí chính trị viên. Cứ giờ nghỉ giải lao là anh em lính tập trung quanh thủ trưởng để nghe tin tức. Ngoài ra chỉ có tờ báo Tây Nguyên mỗi tháng một kỳ, chủ yếu là những thông tin chiến trường.
                        Nhớ Hà Nội thế! Hoàng có cảm giác như đã xa thủ đô từ lâu lắm. Thực ra, kể cả thời gian đi đường vào mới được hơn một tháng. Giò cũng đã nửa đêm, chuẩn bị bước sang ngày 26.3.1968 – Hoàng chợt nhớ ra ngày nhập ngũ của anh là 27.3.1967. Không phải chỉ riêng anh, lính của cả Trung đoàn 209 này toàn nhập ngũ ngày đó. Thì ra, đây còn là trận đánh kỷ niệm tròn một tuổi quân của tất cả các chiến sĩ trong đơn vị. Anh em sẽ phải đánh cho thật ròn rã, thật tốt!
                          Cách đây hơn một tháng, bọn anh rời vùng rừng núi Hòa Bình vẫn còn trải đầy hoa đào, hoa mận trắng và những vườn táo tây quả sai trĩu trịt. Bây giờ mới là cuối mùa xuân mà... Anh lại nhớ đến người con gái bản - "Mỵ ơi, em hãy quên anh đi!". Hoàng lẩm bẩm với mình. Anh biết người con gái ấy tha thiết yêu anh. Anh thương cô, nhưng anh không thể? Đối với anh, tình yêu duy nhất chỉ có Thu!
                         Đôi lúc, anh cũng tự trách mình quá sa đà, nhưng anh đâu có lừa gạt Mỵ! – Chưa bao giờ nói anh nói là sẽ lấy cô? Ngay cả một tiếng "yêu", anh cũng giữ mình không nói. Thực ra tuổi thanh xuân, nam nữ yêu người này, người nọ... là chuyện bình thường. Anh cầu mong có một người con trai bản nào đó thương yêu, và cô cũng quí mến anh ta. Họ sẽ lấy nhau. Đám cưới của cô nếu được biết tin, anh sẽ tìm một bông hoa rừng đẹp nhất, ướp vào trang thư để gửi về chúc phúc cho hai người. Dẫu anh biết, thư từ chiến trường gửi về rất chậm. Khi nhận được thư và hoa của anh, thì đám cưới của họ đã qua lâu rồi. Nhưng anh vẫn gửi: Đấy là tình cảm, tấm lòng của anh trước hạnh phúc của cô. Chắc họ cũng sẽ đón nhận một cách hoan hỉ và vui lắm! Cứ nghĩ thế, Hoàng thấy lòng mình thanh thản một cách lạ thường. Anh chỉ cầu mong cô hạnh phúc, thế là lòng anh mãn nguyện.
                         Từ bên trong căn cứ FSB 14 rộ lên một loạt trung liên AR15, bọn Mỹ bắn hú họa. Những tiếng súng nổ cắt ngang ý nghĩ của Hoàng. Đêm cuối tháng, phía rừng xa cũng đã thấy hắt lên chút ánh sáng mờ ảo của bóng trăng lên muộn. Chắc cũng sắp đến giờ nổ súng?
                         Từ phía sau, Văn bò đến bên Hoàng. Văn cũng là khẩu đội trưởng của một tiểu đội đại liên. Tiểu đội Văn tiếp cận trận địa gần ngay đó. Tiếng Văn thì thầm bên tai:
                    -  Sắp đến giờ nổ súng rồi đấy, đánh cho thật "đẹp" nhé!
                         Hoàng chỉ gật đầu đáp lại lời của bạn. Họ nắm thật chặt tay nhau, như để cùng động viên nhau vào trận đánh đầu tiên này. Văn lặng lẽ lui về phía khẩu đội của mình. Cũng như Hoàng, Văn rời bỏ trường đại học để lên đường nhập ngũ. Từ nhà Hoàng theo hướng ngã tư Khâm Thiên, qua bệnh viện Bạch Mai khoảng hơn cây số đường phố là tới nhà Văn. Nhập ngũ hai đứa mới biết nhau, nhưng đồng cảm và nhanh chóng trở nên thân thiết. Văn chưa có vợ và cũng chưa có cả người yêu. Trai tân mà... Lính D7 này, hầu hết đều là trai tân như thế!
                         Đúng 2h00 sáng ngày 26.3.1968, các mũi lập tức cho nổ mìn phá rào. Ở hướng tây – tây bắc, mìn định hướng ĐH10 dựng chếch thi nhau nổ, thổi tung hàng rào dây thép gai. Hàng trăm mảnh thép gai bị hất lên cao, rồi hồng hộc rơi sập xuống đất. Nó còn ưỡn lên bần bật mấy lần mới chịu nằm yên – Cửa đã mở! Chư Tan Kra nghiêng ngửa. Không gian đang yên tĩnh bị xé toạc, chẳng khác nào một tên bạo chúa giang đôi cánh tay quyền lực, xé nát xiêm y người cung nữ.
                         Trận đánh theo ba hướng - Ở hướng chính, Đại đội 1 chủ công cùng C2; được tăng cường hỏa lực đại liên – B41 – cối 82mm của C5 đồng loạt xông lên; rồi mũi đặc công với súng phun lửa từ yên ngựa đánh sang.
                         Những tiếng thét xung phong ầm vang bốn phía. Tiếng cối 60 – cối 82mm thi nhau rót vào cao điểm, hòa trong tiếng súng AK nổ đanh gọn từng loạt ngắn. Những tràng súng đại liên của tiểu đội Hoàng và trung đội bắn ròn rã tới hỏa điểm của địch trên đỉnh Chư Tan Kra. Tiếng lựu đạn, tiếng thủ pháo chuyên dùng để diệt các hầm ngầm thi nhau ném lên phía đỉnh đồi. Tiếng rốc két B-41 của C5 bắn “bùng”… ục ra một tiếng nổ lớn, kèm theo là đám lửa: Một chiếc lô cốt hoặc ổ hỏa lực địch trúng đạn, đã bị phá hủy. Súng phun lửa bắn chạy loằng ngoằng trong công sự lính Mỹ...
                         Sau cơn bất ngờ hoảng loạn, địch trong cứ điểm FSB 14 vừa bắn ra chống đỡ, vừa cuống quít kêu cứu viện. Chỉ ít phút sau: trực thăng, máy bay C130, phản lực Mỹ bu kín bầu trời như bầy nhặng. Chúng ném bom, bắn rốc két và tung từng chùm pháo sáng. Cả khu rừng vụt sáng quắc như chiếc lưỡi đỏ lòm liếm lên những xác chết nằm rải rác trên mặt đồi. Tiếng máy bay gào rú ghê rợn. Các đường đạn lửa đan chéo trên cao điểm nhằng nhịt. Những chiến sĩ đang xông lên trúng đạn, đứng chựng lại lảo đảo ngã xuống. Người dưới tiếp tục vượt lên. Máu chảy loang ra thành đám...có chỗ thành vũng... đất đỏ và than đen quyện vào máu, tạo thành một thứ đất nhớt quánh lại.
                         Tiếng thét xung phong vẫn ran lên! Tiểu đoàn Anh Cả Đỏ Mỹ trên Chư Tan Kra hỗn loạn. Chúng la hét, tiếng trung liên cực nhanh AR15 cùng các ụ đại liên Mỹ cũng điên cuồng bắn trả lại. Pháo dù từ trên máy bay trực thăng bắn tứ tung bồn phía, sáng như ban ngày. Mìn định hướng claymo Mỹ từ trên đỉnh thổi ngược xuống dưới chân núi, để chặn quân chủ lực Việt Cộng.
                         Chỉ ít phút sau, Pháo bầy từ Kleng và các nơi ập tới cùng với trận địa pháo 105mm Mỹ trên cao điểm hạ nòng bắn thẳng ra phía cửa mở của QGP. Máy bay tiêm kích lao tới cắt bom. Một chiếc máy bay vận tải C130 lắp súng máy có tốc độ bắn 6.000 phát/phút, điên cuồng vãi đạn xuống theo hình xoáy chôn ốc xung quanh đỉnh núi. Trung đội đại liên của C5 đã chĩa thẳng súng lên trời bắn máy bay C130 và trực thăng, cả tiêm kích khi chúng nhào xuống thấp cắt bom.
                         Tiểu đội đại liên của Hoàng theo đội hình C1 xông lên đánh thẳng vào trong căn cứ. Ở bên kia, tiểu đội đại liên của Văn cũng cùng C2 tràn lên... rồi trung đội cối 82mm, trung đội B-41 của C5 bắn trợ chiến mãnh liệt cho cả Tiểu đoàn 7 đang thừa thắng xốc tới.
                         Ở một mũi, đội hình của C1 bị một ổ súng máy Mỹ bắn rát quá, phải nằm dán xuống mặt đồi, không thể vọt tiến lên được. Tiếng gào lên của những chiến sĩ bộ binh gọi hỏa lực chi viện:
                    -  Đại liên đâu! Đại liên đâu!
                    -  B-41 đâu!
                         Hai khẩu đại liên của tiểu đội Hoàng bắn nhiều quá, nòng súng đã đỏ lên. Anh em chiến sĩ phải dành những bi đông nước mang theo người dội vào nòng súng. Đạn tiếp tục nổ, những đường lửa vọt lên vạch như đường thia lia của con nít trên mặt hồ. Những đường thia lia cũng tài tình như đường bay của những con dơi có sóng siêu âm, lách qua hàng rào dây thép gai phăm phăm lướt lên phía đỉnh núi. Thỉnh thoảng một viên đạn bật vào sợi dây thép gai, lửa tóe lên, sợi dây thép đứt tung. Họng súng máy của địch câm bặt.
                    -  Hoan hô đại liên! Các bạn bắn đẹp lắm, tuyệt lắm!
                         Tiếng các chiến sĩ bộ binh cổ vũ. Đại đội 1 chủ công của Tiểu đoàn 7 đã tiêu diệt được tuyến phòng ngự của địch, phát triển vào trong trung tâm trận địa pháo. Các chiến sĩ nhét lựu đạn, thủ pháo vào từng nòng pháo. Bọn pháo thủ của quân Anh Cả Đỏ Mỹ chạy tán loạn. Đại đội 2 đánh vượt qua ba tuyến chiến hào và công sự địch, đến tận đỉnh cao điểm 995 mới bị Mỹ chặn lại. Quân chủ lực Bắc Việt gần như đã hoàn toàn làm chủ căn cứ Mỹ. Căn cứ FSB 14 dài hơn 500m ngổn ngang xác Mỹ và cả xác bộ đội. Cả tiểu đoàn Mỹ bây giờ co cụm lại duy nhất trong chiếc lô cốt mẹ tận trên đỉnh Chư Tan Kra, nơi chúng đặt Ban chỉ huy. C1 và C2 của Tiểu đoàn 7 vẫn như hai mũi khoan lửa, lao lên để tấn công.
                         Không giữ được cao điểm, quân Mỹ cho từng tốp máy bay phản lực liên tiếp dội bom gần như san phẳng ngọn đồi, pháo địch từ Kleng bắn dồn dập quanh đỉnh núi. Sau đó chúng thúc quân từ trong boong ke tiến ra, nhưng lại bị bộ đội đánh bật trở lại. Có những chỗ quân chủ lực Bắc Việt đã tiến sát đến boong ke, lô cốt cố thủ của địch. Trận đánh gần như giáp lá cà. Quân Mỹ bắn xối xả. Lựu đạn Mỹ ném ra, bộ đội nhặt ném trả lại. Giao tranh ác liệt, chết như rạ. Trận đánh đẫm máu, thương vong lớn cho cả hai bên.
                         Đã hơn 4h sáng, Mỹ cho C130 tiếp tục tới thả pháo sáng và vãi đạn vào đội hình Việt Cộng, đồng thời cho hàng đàn trực thăng ùa đến đổ thêm hai đại đội bộ binh nữa, để tái chiếm lại cao điểm. Chúng cho cả B52 đến trải thảm rung chuyển các hẻm núi xung quanh, pháo bầy ở các nơi vẫn không ngừng bắn tới.
                         Chúng tổ chức lại toàn bộ gộp cả lính trinh sát, công binh, thông tin cùng với hai đại đội bộ binh vừa thả xuống giao tranh giành giật quyết liệt quanh từng ụ pháo, chiến hào, công sự.
                         Lại nói về hướng phía nam – Theo kế hoạch của Trung đoàn 209: Do Đại đội 13, Tiểu đoàn 9 đánh lên cao điểm để hợp với D7 ở hướng tây – tây bắc. Nhưng cả Đại đội 13 khi tiến vào tiếp cận trận địa bị lạc, không đến được đúng giờ nổ súng. Vì bối rối cả đoàn quân lại vấp phải bãi mìn của Mỹ gài, thương vong rất nặng. Nên mũi hướng nam Chư Tan Kra, quân chủ lực Bắc Việt đã không có lực lượng hỗ trợ, D7 trở thành đơn thương độc mã... mặc dù bộ đội vẫn dũng mãnh tiến công.
                         Đại đội trưởng C1 Ngô Xuân Lâm, quê gốc ở Quảng Nam, người anh cả hiền hậu của đại đội, một danh ca hát chòi – Ông có dáng người cao lớn. Chiếc áo ngụy trang bằng mảnh dù hoa Mỹ, khoác trên người ông đang dẫn đầu đại đội xung phong bay phấp phới. Ông hoa hoa khẩu súng ngắn mấy vòng trên không, lệnh cho đại đội xông lên! Ông vượt lên trước nhanh như một con sóc. Một tia chớp lòe lên ở miệng lỗ châu mai địch. Một tia khác tiếp theo... đường đạn nhằm ông lao thẳng tới như một mũi tên đỏ. Ông đứng khựng lại, người chúi về phía trước mấy bước. Tiếng ông nhỏ như đang thầm thì kể chuyện: "Tôi chết rồi..." – Bỗng ông ngẩng phắt đầu lên thét to:
                    -  Đồng chí đại đội phó thay tôi! Đại đội 1 xông lên!
                         Chân ông quì gập xuống đất, tay trái giang ra chống về phía trước. Bàn tay phải của ông vẫn nắm chặt khẩu súng ngắn K54, cắm mũi nòng lên mặt đồi. Ông đã chết! Người chiến sĩ liên lạc theo sau ông, có khuôn mặt nhỏ, dáng ngênh ngênh như một cậu thiếu niên. Cậu đang nắm chặt trong tay khẩu AK, lao tới ôm lấy vai đại trưởng. Cậu ta hét lên:
                    -  Đại phó ơi, đại trưởng chết rồi!
                         Một tiếng nổ gọn trước mặt, vãi ra một đám lửa vàng như hoa cải. Tay còn ghì chặt lấy người đại trưởng của mình, người chiến sĩ liên lạc ngã xuống. Hai cái xác cùng đổ sập lên mặt đồi. Lớp người vẫn ào ạt xông lên! Họ đã đẩy lùi được quân Anh Cả Đỏ của Mỹ trên đỉnh Chư Tan Kra phải chui vào trong lô cốt, tuyến phòng ngự cuối cùng.
                         Nhưng điều nguy hiểm nhất đã xẩy ra: Vào lúc đó thì hai đại đội lưu động của Mỹ ở ngoài rừng (mà trinh sát của trung đoàn 209 không phát hiện ra được), đã đến để ứng phó cho địch. Chúng đánh từ ngoài vào sau lưng D7 ở hướng tây bắc, hợp với quân Mỹ bên trong tổ chức đến bốn lượt phản công.
                         Bộ đội của C1 – C2 đang thế chủ động, bây giờ bị kẹp ở giữa. Trận đánh giằng co đến gần sáng... Hỏa lực đại liên – B41 và Cối, đạn súng đều cạn kiệt. Quân số lại thương vong quá nhiều.
                         Tiểu đoàn trưởng D7 Trương Ân đã phải tung nốt trung đội dự bị của C3 vào trận, nhưng cũng không thể cứu vãn nổi tình hình đảo ngược bất ngờ.
                         Địch hợp lực cả quân chi viện và hai đại đội quân lưu động, cùng lính trong boong ke phản kích lại. Trên trời thì máy bay các loại gầm rú, pháo trong – pháo ngoài bắn về yểm trợ. Chúng đã đẩy lùi được các mũi tấn công của quân chủ lực Bắc Kì.
                         Chư Tan Kra, cái tên nhẹ như một điệu hát của núi rừng, đã trở thành một trong những chiến trường ác liệt bậc nhất của mùa xuân 1968 này. Nơi chứng kiến sự quả cảm của hàng trăm chiến sĩ, những người con ưu tú của Hà Nội. Các anh đã ngã xuống vì nền tự do, độc lập của nước nhà.
                         Chư Tan Kra, một vùng núi hoang sơ... bốn mùa mây mù che phủ - Trở thành đỉnh cao của những người thanh niên anh hùng, vời vợi hiện lên trong lịch sử chiến tranh của dân tộc Việt Nam. Những chiến sĩ tham gia trận đánh đều trong độ tuổi thanh xuân mới mười tám, đôi mươi – Họ ra đi với tình thần "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh"! Đó chính là niềm tự hào sâu sắc, tinh thần chiến đấu anh dũng của các anh sẽ sống mãi trong lòng người dân thủ đô.
                         Chư Tan Kra, với hình ảnh ngọn núi cao chót vót – Tuổi trẻ và máu xương của những người con thủ đô đã nằm lại nơi đây! Đó là nhân chứng bất tử về hy sinh vẻ vang vì tổ quốc, nhân chứng cho sức sống mãnh liệt của mảnh đất này!
                         Theo một tài liệu Bắc Việt có được từ phía Mỹ đã ghi:
                         “ Ngày 26.3.1968, một tiểu đoàn tăng cường hỗn hợp cả bộ binh, pháo binh của Sư 4 Anh Cả Đỏ Mỹ, đã bị tấn công bằng vũ khí hạng nặng của quân chủ lực Bắc Việt, gồm rốc két B-41 và những trái cối 82mm. Cuộc tấn công bằng loại vũ khí này của họ là để mở đầu cho những cuộc tập trung tấn công tiếp theo… Quân chủ lực Bắc Việt dùng cả súng phóng hỏa, tràn vào cả bên trong các ổ súng đại bác. Họ nỗ lực để đánh bật quân Anh Cả Đỏ của Mỹ ra khỏi căn cứ FSB 14 có lô cốt và công sự kiên cố.
                         Nếu như chúng ta không kịp thời tăng viện và dùng tối đa các loại hỏa lực pháo từ các nơi với máy bay – kể cả “pháo đài bay” B52… mới đẩy lùi được họ.”.
                         Khi tiểu đội đại liên Nguyễn Hoàng yểm trợ cho các chiến sĩ bộ binh C1 chiến đấu quyết liệt trước những đợt phản kích lại dữ dội của quân Mỹ - Pháo thủ số 2 là người trực tiếp bấm cò súng đại liên đã trúng đạn bị thương, phải theo y tá đại đội lùi về tuyến sau. Là khẩu đội trưởng, Hoàng nhảy vào thay thế. Tiểu đội đại liên vẫn bắn xối xả về phía địch. Bỗng anh nghe thấy một tiếng nổ “oàng…”, kéo theo cả đám lửa vàng ngay trước mặt. Một chiếc C130 vừa lao chúi xuống phóng một quả rốc két trúng đội hình tiểu đội của anh. Trời đất mù mịt, tối sầm lại. Lồng ngực Hoàng như bị bửa đôi và ngất đi giây lát. Khi anh tỉnh dậy, mắt cay xè…
                         Trời cũng đã bắt đầu hửng sáng. Hoàng sờ lên đầu, lên cổ mình, toàn thân đau ê ẩm. Phú, người xạ thủ số 1 của tiểu đội cũng đã bị thương, lảo đảo bước tới. Tiếng nói của Phú như bị đứt quãng trong tiếng bom đạn vẫn gầm rú khắp bốn bề:
                    -  Anh em tiểu đội bị chết cả rồi, tiểu đội trưởng ơi! Súng cũng bị nó bắn bay mất rồi...          
                         Hoàng nhìn ra… các chiến sĩ quanh anh không còn thấy ai cả. Trời đất trên cao điểm nhuộm một thứ ánh sáng vàng vọt như tà khí trên nghĩa địa. Những tiếng máy bay xé trời, những tiếng pháo nổ và cả tiếng loa oang oang trên chiếc trực thăng của địch bay vè vè kêu gọi bộ đội Bắc Việt đầu hàng…
                         Phú nói:
                    -  Tiểu đoàn đã có lệnh rút lui! Anh bị thương nặng hơn, bám vào Phú để lùi về phía sau, kẻo quân Mỹ nó sắp ập đến đây rồi.  
                         Nói rồi, Phú tháo vội cuốn băng cá nhân băng bó vết thương ở đùi để cầm máu cho Hoàng. Hoàng không thể đi được. Anh giục phú cứ đi trước, mình sẽ cố lết đi sau… nếu gặp tải thương thì bảo họ đến cáng. Phú lảo đảo theo một số anh em chiến sĩ đang rút xuống chân dốc.
                         Hoàng cũng chẳng hiểu anh còn bị thương ở chỗ nào nữa? Quần áo anh thấm bê bết máu. Anh choáng váng cứ như người đang ngồi trên chiếc võng đu, quay tít… rồi lại có cảm giác như thể mình đang bay tựa một con chim,  lao hun hút… hun hút… xuống một cái khe đen ngòm giống một chiếc huyệt hình phễu.
                         Nhìn bốn bên trống hoác như ban ngày. Ý thức về lẽ sống vùng dậy. Hoàng nhìn quanh để tìm lấy một sự che đỡ nào đó? Thấy gần đấy, có một búi cây mây xơ xác còn sót lại trên mặt đồi, anh cố bò nhoai người đến đó.
                         Ánh sáng, đôi khi ánh sáng sinh ra chỉ để giúp cho sự tàn phá. Đó chính là cái thứ ánh sáng khốc liệt của cảnh chiến trường này. Nó đang sáng quăng quắc của lửa đạn, của pháo sáng địch thả xuống. Nó đang chiếu soi vào  Hoàng… Bản thân ánh sáng tuy không chứa đựng sự hung dữ, nhưng những sinh linh trong nó thì đang bị ức chế bởi cái đe dọa của sự chết chóc. Chính nhờ có thứ ánh sáng kia, nó mới phát huy được khả năng tàn phá. Đương nhiên, thứ ánh sáng ấy nhuốm đầy vẻ rùng rợn.
                         Cái ánh sáng rùng rợn đó đang ập vào mắt Hoàng, vây quanh anh… Giống như một sinh bé nhỏ không còn khả năng tự vệ, đang bị phơi lồ lộ giữa khoảng đất trống trên mặt đồi. Những tên lính Mỹ mũi lõ, khuôn mặt đỏ như máu, những sọc máu quầng lên trong đôi mắt đục ngầu. Chúng từ trên những chiếc trực thăng nhắm thẳng về phía Hoàng mà bắn xối xả. Nã hàng ngàn, hàng ngàn những viên đạn như những mũi dao lạnh toát. Tưởng như chúng đã nhìn rõ anh rồi? Cả những chiếc phản lực Mỹ trút từng loạt bom xuống đất. Hoàng rùng mình...
                         Có một chiến sĩ bị thương đang lao người chạy qua Hoàng, nói to lên:
                    -  Phải cố mà xuống dưới chân núi, sẽ có tải thương. Nằm ở đây thì chết? đã có lệnh rút quân rồi!   
                         Hoàng không hiểu những gì đã diễn ra trong anh. Như một bản năng tự vệ, anh đưa hai tay giữ chặt chiếc mũ sắt ở trên đầu rồi theo hướng người chiến sĩ vừa chạy, thả cho thân mình cứ thế lăn tròn xuống chân núi dốc.
                         Ở trên đài quan sát thấy Mỹ đánh bom suốt hàng giờ đồng hồ. Chúng thả cả bom xăng, pháo bầy để phá hủy trận địa. Khi đó, Tiểu đoàn trưởng D7 Trương Ân buộc phải báo cáo về Sở chỉ huy trung đoàn cho lệnh rút quân! Chính trị viên tiểu đoàn Phan Trung Bắc, hô hào các chiến sĩ thông tin, vận tải cùng quân y… xông vào trận để cứu thương binh ra, đưa về tuyến sau.
                         Trong trận chiến ác liệt này, những chiến sĩ dũng cảm của Trung đoàn 209 mũ sắt, những người con yêu dấu của Hà Nội đã tiêu diệt 204 tên giặc Mỹ, đánh tan gần hai đại đội và phá hủy 1 trận địa pháo 105mm thuộc Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ của Hoa Kỳ. Song trong trận đánh này, mấy trăm người chiến sĩ thân yêu của Tiểu đoàn 7 cũng đã vĩnh viễn gửi lại tuổi xuân tươi đẹp trên những ngọn núi, cánh rừng, khe suối của đại ngàn Tây Nguyên.
                         Khi những thương binh của D7 hầu hết đã rút được ra ngoài, vẫn còn nghe thấy tiếng súng AK của đồng đội, số ít anh em bị vây trong căn cứ - Họ đã chiến đấu, dù chết đến người cuối cùng. Lúc đó vào khoảng 7 giờ sáng.
                     
                     
                     
                     
                    #25
                      Nhân văn 10.09.2020 17:54:45 (permalink)
                       
                                                              22-
                       
                           Chiến tranh! Chưa khi nào Hoàng lại có thể hiểu về nó rõ nét như lúc này. Anh đang ở trong nghĩa nào: Rủi ro hay là may mắn? Nếu đem phân tích cả hai nghĩa đó, anh thấy nghĩa nào cũng đúng. Anh bị thương, là rủi ro – nhưng chỉ bị thương mà chưa chết, đấy lại là sự may mắn. Số phận chưa cắt anh ra khỏi cuộc sống.
                           Những ý nghĩ cứ quẩn lên trong đầu Hoàng, khi vẫn còn đang phải co người, thả mình lăn xuống dưới chân núi. Cảm giác về cái đau bởi đạn rốc két của Mỹ bắn vào, dường như tê dại. Nhưng nhận biết về thực tại, anh thấy mình vẫn còn tỉnh táo. Đang lăn xuống dốc, một gốc cây đã bị bom phạt cụt ngăn anh lại. Lõi than hồng giữa thân cây vẫn đang rừng rực cháy. Tàn than đỏ tả ra, rơi xuống ngực Hoàng, liếm thủng mảng áo, nhoay nhoáy khoét sâu vào da thịt anh. Phải khổ sở lắm, Hoàng mới đưa được cánh tay phải gạt mảng than ra ngoài. Anh lại tiếp tục lăn, cho tới khi xuống tận một con suối cạn dưới chân núi dốc. Toàn thân dính lép nhép bùn nước. Hoàng nằm kẹt vào giữa những tảng đá lởm chởm, rải rác theo lòng suối cạn. Anh đã nghe thấy tiếng nói, có lẽ cũng là những chiến sĩ bị thương như anh. Lúc này vết thương ở đùi đau buốt, gần như không thể đi được nữa. Hoàng nằm lại, hy vọng có đồng đội đến cứu giúp. Trong mơ hồ, tiếng nói chuyện của những chiến sĩ nọ vẫn văng vẳng bên tai anh. Một người nói:
                      -  Khi nghe tiếng pháo bầy của Mỹ cứ rít lên trong gió, tim tớ như thắt lại. Lúc trận đánh mở màn: chúng để xe tăng đi sau, xe ủi đi trước. Bao nhiêu mìn chống tăng bọn tớ cài đều bị ủi tung lên cả. Loại mìn này phải đủ trọng lượng đè lên thì nó mới nổ, không thì phải dùng kíp. Còn loại mìn định hướng ĐH10, mà tớ mất toi con mắt trái đây này? (anh ta lấy tay chỉ vào con mắt bị thương, đang phải băng bó của mình) – Người chiến sĩ ấy nói tiếp: Bởi vì ông tướng đi cùng đánh mìn với tớ để dây cháy chậm dài quá! Đã thế lại còn chôn cách hầm có 2m. Khi châm ngòi nổ, tớ thụp xuống hầm, theo qui định đếm đúng đến 5 thì chồm dậy quạt AK bắn địch. Ai ngờ hai giây sau nó mới nổ, thổi bay cả một trung đội Mỹ phía trước… nhưng dội mảnh về sau, toi luôn cả con mắt trái của tớ.
                           Môt người nữa phụ họa:
                      -  Khi nghe tiếng nghiến xích sắt của xe tăng, nhìn lính lố nhố đi sau, cảm giác ban đầu cũng thấy hơi sờ sợ. Nhưng khi đạn đã bắt đầu nổ thì bình tĩnh lại. Đầu hoàn toàn trống rỗng… cứ thế mà xả súng. Trực thăng Mỹ ùa tới cũng mặc, chẳng còn kinh hãi là gì nữa.
                           Một tiếng nói khác:
                      -  Thằng C130 thật lợi hại. Nó bay vòng quanh, xác định bán kính sát thương, vãi đạn như vòi rồng, kêu ồ ồ… rồi súng đại liên đạn 20mm từ trên máy bay bắn xuống. Chúng quần nhiều vòng, quyết chặn ta. Pháo địch từ các trận địa ở Kleng bắn tới. Đạn các loại từ ụ súng và lô cốt mẹ trên đỉnh Chư Tan Kra bắn tới tấp vào các hướng tiến công của ta, như dựng lên một hàng rào lửa.
                      -  Chúng dùng pháo đạn tổ ong mới kinh hoàng. Cứ mỗi chùm 15 quả. Chúng rót hàng trăm chùm vào trận địa.
                      -  Ừ, trận đánh kể cũng tiếc thật. Tuy ác liệt và đẫm máu như thế, nhưng đáng lẽ ta vẫn thắng và thắng lớn! Tại mũi hiệp đồng đánh hướng nam của Tiểu đoàn 9 bị lạc, lại còn vấp mìn thương vong quá nặng không vào được trận đánh. Sắp tới giờ nổ súng, đội đặc công đã vào trong chờ mãi không thấy D9 tới, còn cử người về Ban chỉ huy tiền phương báo cáo. Trung đoàn quyết dịnh vẫn nổ súng!
                       -  Cho dù sức tấn công ban đầu của ta rất mãnh liệt. Nhưng sau, súng phun lửa, hỏa lực B40 –B41… đều hết đạn. Địch bắn khói màu để phân tuyến, rồi cho các loại máy bay bắn phá, dội bom. Anh em bị thương vong nhiều quá, không còn đủ lực để xung phong.
                            Sau đó, các chiến sĩ giục nhau đi nhanh để đuổi theo đám người đi trước. Lúc này do vết thương hành hạ, cả thân thể Hoàng hoàn toàn tê dại. Anh chìm vào trong cơn mê sảng… Một đội tải thương của trung đoàn đi qua. Họ bế anh lên đặt vào một chiếc cáng võng, đưa anh về tuyến sau.
                           Đoàn tải thương đi trên một con đường xuyên rừng, vượt qua những ngọn núi, các con suối. Đường ngoắt ngoéo, chẳng khác nào lối mòn đã bị dẫm nhẵn lì của một bầy nai hay hoẵng trong rừng. Đó cũng chính là con đường trục dẫn ra mặt trận. Đi xuôi đến hướng đông thì ra phía trước, ngược trở lại là về tuyến sau.
                           Nắng hanh cuối mùa khô làm những vết thương của Hoàng căng ra nứt nẻ. Lớp băng quấn quanh đầu anh máu đông lại, nước vàng thấm ra bốc mùi khó chịu. Đầu Hoàng nhức nhối như thể một bầy ong vàng thi nhau sà xuống châm nọc đốt. Đến bây giờ anh mới biết là mình còn bị thương vào đầu, chứ không phải chỉ ở đùi và vài ba chỗ khác trên người. Lúc anh bị bất tỉnh dưới lòng khe suối, anh em trong đội tải thương thấy có máu chảy túa ra đẫm cả mái tóc, đã băng lại cho anh. Hoàng lựa chỗ đau ở chân, trở mình trên chiếc võng để vết thương trên đầu đỡ nhức. Trong cơn mê sảng, những ý nghĩ mông lung lại đến với anh…
                           Trong trận đánh ấy, có lúc nào tôi sợ hãi không nhỉ? Không ư! Liệu có phải là ta đã biện hộ cho mình chăng? Sao lúc này khi trận chiến đã qua, dù mới chỉ là lần đầu nghĩ đến điều đó, ta lại thấy lòng mình hơi kinh hãi?
                           “Ta cũng chỉ hèn nhát như một tên lính mạt hạng chăng? Mới một lần nếm thử mùi ác liệt của chiến trường thôi đấy! Không thể nói là lòng mình không hoang mang…” – Những trăn trở cứ day dứt ở trong óc, anh không thể dập tắt đi được. Hoàng tự hỏi mình rồi lại tự trả lời. Nghĩ lại những cảnh ghê rợn đã qua, sự khủng khiếp của bom đạn và cả máu đổ, anh cũng thấy mình hơi hoảng hốt.
                           Hoàng trằn trọc trên võng chỉ muốn xua đuổi những ám ảnh ấy! với anh, hoảng hốt có nghĩa là hèn nhát, dù đó chỉ là những ý nghĩ thoáng qua trong óc. Hèn nhát? Đó chính là điều khủng khiếp nhất mà anh không thể nào chịu nổi.
                           Phải, chính ta đã thấy mình hoảng hốt - Anh tự thú với mình. Như một con thú hiền lành, đang đau đớn vì bị một con sói rừng móc mắt, moi ruột. Con sói cứ túm chặt lấy Hoàng không chịu buông tha. Hoàng vừa là con vật đáng thương đang bị cấu xé, lại vừa là con sói kia cứ nghiến rít mình. Nó làm cho anh đau đớn hơn cả vết thương đang nhức nhối trên đầu và tê buốt ở chân? Anh muốn xua đuổi nó! Anh muốn tống sạch đi những con vật khốn nạn cứ tóm bắt lấy anh. Anh giẫy giụa mà không sao ra nổi. Dường như anh không chịu nổi cái đau mới này, nó vô hình mà lại cào cấu như ma quỉ trong trí não. Anh rên lên… 
                           Một bàn tay mát lạnh đặt lên trán Hoàng. Anh nghe thấy tiếng gọi của đồng chí y tá đi kèm bên cạnh:
                      -  Tỉnh lại? Tỉnh lại đồng chí!...
                           Hoàng vẫn đang mê sảng. Anh em tải thương đặt đòn cáng lên hai đầu của cây gậy có chạc, dựa võng vào một thân cây. Họ chạy đến chăm sóc anh. Hoàng mở mắt. Anh nhìn thấy những khuôn mặt vàng võ vì sốt rét và gian khổ của các đồng chí tải thương, đang cáng anh về phẫu. Họ là những người lính của mặt trận vào chiến trường này đã nhiều năm, đang chăm chú nhìn anh ái ngại. Những ánh mắt ấy như muốn nói:
                           “Hãy ráng chịu đựng đồng chí ạ! Chúng tôi biết đồng chí đau. Chúng tôi rất thương đồng chí. Nhưng có phải một mình đồng chí bị thương đâu? Đồng chí hãy nhìn xem, có bao nhiêu thương binh khác đang phải chống gậy lê từng bước một. Họ có được cáng như đồng chí đâu? Sao đồng chí lại rên…”.
                           Anh y tá nói với Hoàng:
                      -  Ráng lên chút nữa! Sắp đến phẫu rồi, anh em sẽ thay băng cho đồng chí.
                           Hoàng cảm thấy ân hận vì mình đã rên la. Như một chú bé ngoan ngoãn, anh nằm yên trên cáng. Anh em trong đội tải thương tiếp tục đưa anh về tuyến sau.
                          Trạm phẫu tiền phương của E209 đi về phía tây dãy Chư Tan Kra, là những căn hầm lớn đào nửa nổi, nửa chìm. Hàng trăm thương binh được đưa về đây, nhiều người đã hy sinh tại phẫu. Lúc này, người ta vẫn còn nghe thấy những tiếng bom, pháo từ phía căn cứ địch vọng về.
                       
                                                                             *
                       
                           Trong hầm chỉ huy tác chiến tiền phương của E209, Trung đoàn trưởng Trần Huy Toàn cứ đi đi lại lại quanh một chiếc bàn gỗ đóng mộc mạc. Đó là một căn hầm đã được khoét sâu vào trong lòng trái núi, gần với cao điểm. Thân hình cao lớn lắc lư, bước đi chắc nịch như một con gấu xồm đang muốn lồng lên trong một chiếc cũi sắt. Mái tóc rễ tre đỏ quạch bụi đất, mọc nghiêng ngả tựa một búi gai rậm xõa ra. Gian hầm chỉ huy im phắc, chỉ nghe thấy tiếng gót giầy ống của ông đanh như những nhát búa, nện trên các phiến gỗ lát hầm.
                           Tình hình chiến sự bất ngờ làm đảo lộn khả năng chiến thắng của Trung đoàn 209? Theo đúng phương án tác chiến: Khi Tiểu đoàn 7 đảm nhiệm mũi tấn công chính diện lên M2 từ hướng tây – tây bắc, thì một đại đội của Tiểu đoàn 9 cũng nhanh chóng đánh tan tác, hoặc cụp gọn đại đội Mỹ ở hướng nam Chư Tan Kra – Sau đó tiến thẳng lên đỉnh căn cứ, phối hợp với D7 và đại đội đặc công với súng phun lửa, thanh toán nốt tiểu đoàn Anh Cả Đỏ của Mỹ co cụm trong lô cốt mẹ.
                           Ở hướng mũi của D7, diễn biến trận đánh tuy ác liệt song khớp với phương án – nhưng hướng mũi thứ yếu của D9 do sự cố, kế hoạch tác chiến hoàn toàn bị đổ vỡ. Bộ đội chẳng những không vào đánh được mà lại còn bị thương vong gần hết.
                           Rổi lại một bất ngờ nữa, quân chủ lực Bắc Việt không hề hay biết: Đó là hai đại đội thám báo Mỹ vẫn hoạt động lưu động ở vòng ngoài – Khi Chư Tan Kra bị Việt Cộng uy hiếp, chúng lập tức tiến về đánh vào sau lưng Tiểu đoàn 7. Do trận đánh không giải quyết chớp nhoáng được theo phương án, nên Mỹ đã kịp cho trực thăng đổ thêm hai đại đội xuống… cùng với pháo bầy, máy bay đánh trả để chiếm lại cao điểm. 
                           Từ thế chủ động tiến công bất ngờ, ta rơi vào thế bị động, bộ đội lại bị thương vong quá nhiều – Ban chỉ huy trung đoàn đành phải cho Tiểu đoàn 7 lệnh rút quân, và tìm mọi cách đưa hết số thương binh ra ngoài. Ông không muốn nướng nốt số quân còn lại.
                           Viên trung đoàn trưởng nói với người chính ủy trung đoàn, đang ngồi im lặng bên chiếc bàn gỗ trong hầm:
                      -  Anh ở lại tổ chức cho bộ đội rút quân. Tôi về Bộ tư lệnh mặt trận xin thêm viện binh, mai ta sẽ tổ chức đánh tiếp.
                           Nói rồi, cả tấm thân đồ sộ lao ra ngoài. Bàn tay phải của ông nắm chặt lại tựa như một gọng kìm đang muốn bóp nát một thế lực nào đó. Ánh mắt ông quầng lên. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng gót giầy ống từ trên mặt núi vọng xuống.
                           Chính ủy Trung đoàn 209 là một bậc trung niên, trạc ngoài năm mươi tuổi. Người có khuôn mặt hiền hậu như một thiếu phụ, đăm chiêu nhìn ra phía cửa hầm, gần con đường trục trở lại tuyến sau. Anh em chiến sĩ bị thương phải về phẫu, vẫn từng đoàn nối nhau đang đi qua đó.
                           Trong trận chiến ngày 26.3.1968 ấy, Tiểu đoàn 7 chủ công của Trung đoàn 209 đã bị thương vong 2/3 quân số. Hơn 200 chiến sĩ phải nằm lại trên đỉnh Chư Tan Kra đẫm máu. Không một người lính nào của D7 đầu hàng quân địch, tất cả đều chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.
                           Bốn người sau trận đánh bị Mỹ bắt, đều là thương binh nặng không bò ra được: như một chiến sĩ, người Gia Lâm - Hà Nội, bị thương nặng gẫy hai chân, một tay. Anh đã cố bò ra khỏi trận địa, nhưng được vài chục mét thì ngất đi. Tỉnh dậy, thấy mình đã bị Mỹ bắt làm tù binh…
                           Cũng buổi sáng ngày 26.3.1968 đó, ở hậu cứ tiền phương – những người anh nuôi bầy cơm nắm ra la liệt, mà chẳng thấy mấy chiến sĩ về ăn? Họ hu hu lên khóc:
                      -  Anh em đồng đội ơi! Đi đâu hết cả rồi…
                          70% tiểu đoàn lính mũ sắt Hà Nội, tham gia trận đánh đầu đời đã không trở về nơi đóng quân. Một số người chết trong bệnh xá, còn thì bị thương nhiều. Tuyệt đại đa số họ đã nằm lại trên đỉnh Chư Tan Kra, trước lúc bình minh lên.
                           Theo tờ tin “Lập công” của các lực lượng vũ trang giải phóng Tây Nguyên, số ra ngày 28.3.1968 viết:
                           “Đêm 25 rạng ngày 26.3.1968 – Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209 đã đánh một trận tập kích tốt. Tiêu diệt gần hết một đại đội bộ binh, một đại đội pháo binh và tiểu đoàn bộ của tiểu đoàn Anh Cả Đỏ Mỹ. Giặc Mỹ đã phải thừa nhận: “Đây là một một đánh rất táo bạo, phía Mỹ đã bị thiệt hại vừa”.
                           Thực ra, thiệt hại nặng Mỹ mới chịu thừa nhận như vậy.
                           C1 và C2 của D7 ngay từ phút đầu nổ súng, đã đồng loạt xung phong chớp nhoáng, mãnh liệt, vượt qua cửa mở xông thẳng vào đánh chiếm các ụ súng, rồi nhanh chóng phát triển vào trung tâm, đánh phá các trận địa pháo và chỉ huy sở địch. Với lối đánh táo bạo bằng thủ pháo, lựu đạn, tiểu liên bắn gần. Bất chấp sự chống trả của địch trong cơn tuyệt vọng, đã oanh tạc bừa bãi bằng mọi thứ: bom phá, bom bi, bom lân tinh.
                           Đó là sự hiệp đồng rất đẹp của các phân đội trợ chiến, chi viện đắc lực cho bộ binh xông lên diệt địch.
                           Đại liên bắn điểm từng tràng ngắn. Xạ thủ đại liên Phạm Ngọc Thái bị thương, tự băng bó vết thương, vẫn băng lên chiến đầu. Còn khấu đội trưởng Nguyến Hoàng, khi một đồng chí xạ thủ bị thương liền nhảy vào thay thế, tiếp tục dẫn tiểu đội xông lên! B40, B41ần lượt hạ hết các ụ súng này đến các ụ súng khác, và luôn có mặt ở bất kỳ chỗ nào cần có mặt. Xạ thủ Nguyễn Đức Chính luôn động viên các đồng đội bị thương: “Các đồng chí cứ bình tĩnh, chúng tôi sẽ trả thù cho các đồng chí”. Xạ thủ Trực, sau khi đã hạ được ba ụ súng, ngồi hẳn lên xác Mỹ, tiếp tục dùng tiểu liên diệt địch.
                           Đó là hành động cụ thể, dũng cảm và tiên phong của những cán bộ, như Tiểu đoàn trưởng Trương Ân, Chính trị viên tiểu đoàn Phan Trung Bắc, như Đại đội trưởng C1 Ngô Xuân Lâm, phân đội phó Nhạc, như Lê Sĩ Nhật trung đội trưởng súng cối, B41 của C5, luôn xông xáo chỉ huy đơn vị xốc tới. Như Nguyễn Văn Kháng một mình đánh địch bảo vệ thương binh, diệt hàng chục Mỹ bằng tiểu liên, lựu đạn. Đó là tình yêu thương đồng đội và quyết tâm tiêu diệt địch của các đồng chí phục vụ như y tá Bắc, văn thư Tứ, đưa hết thương binh ra ngoài an toàn rồi quay lại dùng tiểu liên, lựu đạn diệt địch. Tinh thần dũng cảm của một tập thể dũng cảm, kết hợp với lối đánh gần, đánh nhanh, đánh thọc sâu… đã đem lại cho D7 một trận thắng lớn, mở ra nhiều triển vọng cho đơn vị và cho toàn trung doàn 209.
                           Hoan hô D7! Hoan hô các binh chủng phối thuộc! Chắc chắn trong những ngày tới, các đồng chí sẽ lập được nhiều thành tích xuất sắc hơn nữa.”.
                           Cuốn “Lực lượng vũ trang Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Nxb QĐND năm 1980, trang 135 viết:
                           “Nổi bật trong đợt này là trận Chư Tan Kra ngày 26.3.1968, diệt gọn 2 đại đội và 1 trận địa pháo Mỹ.
                           Tại đây diễn ra nhiều cuộc giáp chiến giữa ta và địch. Chiến sĩ ta dùng lựu đạn, thủ pháo giành giật với địch từng khẩu pháo, từng mỏm đồi, dưới tầm bom đạn ác liệt để giữ vững các điểm cao.”.
                           Cuốn “Lịch sử Trung đoàn 209…”, Nxb QĐND 2004, trang 94 – 95 viết:
                           “Trong trận tiến công, tiêu diệt quân Mỹ ở cao điểm 995 (thuộc núi Chư Tan Kra), 204 lính Mỹ đã bị tiêu diệt, ta bị thương và hy sinh hơn 200 đồng chí. Trận đánh Mỹ đầu tiên tại cao điểm 995, trung đoàn không dứt điểm, nhưng là trận đánh mở màn của trung đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trên chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ. Trận đánh đã thể hiện rõ ý chí kiên cường, tinh thần chiến đấu gan dạ, không sợ hy sinh của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 209. Đó chính là truyền thống của một trung đoàn đã được xây dựng từ những ngày đầu chống Thực dân Pháp xâm lược. Hôm nay truyền thống đó lại tiếp tục phát huy trên chiến trường chống Mỹ. Nhiều gương chiến đấu anh dũng đáng được nêu gương học tập: như đồng chí Nhạc (đại đội phó đại đội 1) bị thương lòi ruột, tự tay mình nhét ruột vào để tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu; như đại đội trưởng Ngô Xuân Lâm, một mình ôm bộc phá xông lên diệt lô cốt địch cho bộ đội xung phong, rồi sau đó chỉ huy bộ đội chiến đấu liên tục cho đến lúc hy sinh.”.
                           Cũng trong cuốn sách trên, trang 99 viết:
                           “Ngày 28.3.1968, trung đoàn 209 được lệnh cơ động về vị trí tập kết ở dọc sông Sa Thầy, để củng cố bổ xung quân và nhận thêm súng đạn, lương thực, thuốc men… Trên đã thông báo, có điện thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt thường trực quân ủy Trung ương, nhiệt liệt khen ngợi những thành tích vừa qua của trung đoàn và của quân dân Tây Nguyên.
                           Đại tướng chỉ thị: “Hãy thừa thắng xông lên đánh mạnh, đánh trúng, đánh giòn giã hơn nữa. “.
                      ………..     
                           Sau khi Mỹ đổ thêm quân, phản kích lại đã làm chủ được trận địa Chư Tan Kra rồi, Chúng thu gom xác lính Hà Nội lại một chỗ, dùng xe ủi đẩy anh em tử sĩ xuống hố, lấy xăng đặc đốt rồi lấp đất chôn ngay trên đỉnh cao điểm. Độ sâu anh em nằm khoảng 2m.
                           Khi đó những người bị thương đang bí mật đi ở bìa rừng bên này, nhìn lính Mỹ đốt xác đồng đội, không cầm được nước mắt. Lòng căm thù lại uất nghẹn lên trong lòng. Họ chỉ muốn mau lành được vết thương, trở về chiến đấu trả thù cho các anh em đồng đội, đã phải chôn xác bi thảm trên đỉnh Chư Tan Kra máu lửa này.
                           Như lời của một thương binh cùng đi trong đám chiến sĩ nói:
                      - Tớ là người chuyên lấy góc phương vị cho cối 82mm bắn. Cuối trận đánh, tớ còn đi vòng quanh nã mấy chục phát súng cối lên cứ điểm trả thù, rồi mới chịu rút.                  
                           Ngọc Văn, tiểu đội trưởng đại liên C5 cũng bị thương trong trận đánh này.
                           Vì không có hương và vàng mã để đốt – Những người chiến sĩ ấy, chân tay và cả người họ còn phải cuốn đầy băng, hoen đầy máu đỏ. Họ đã lấy những tờ giấy, những trang sổ viết mang theo người, trải ra trên mấy tàu chuối rừng… đốt thay hương và vàng mã. Họ lặng lẽ khấn cầu cho vong hồn đồng đội mình siêu thoát. Vong hồn hơn 200 người chiến sĩ của trung đoàn 209 mũ sắt Hà Nội, đang quẩn quanh đâu đây. Dưới lớp đất này, hoặc gốc cây kia… Các anh lặng lẽ đi vào lòng đất mẹ như một bí mật, mà anh em đơn vị đã không lấy được xác các anh ra.
                           Họ cứ lặng lẽ khấn cầu hàng giờ như thế! Đến khi, anh em đội tải thương phải giục họ đi, sợ lỡ gặp địch…
                           Khi đó, trời gió nhẹ. Những tàn giấy uốn cong bay lơ lửng lên trời xanh, như để nói với những người đồng chí của mình rằng: “Hình ảnh các anh sẽ còn sống trong lòng chúng tôi mãi mãi sau này.”.
                           Nhật kí chiến trường của trung tá D.M.Malone, chỉ huy căn cứ hỏa lực Mỹ FSB 14 lúc đó, viết trong tất cả các đêm từ 27.3.1968 đến 2.4.1968 đều có câu: “Quân Bắc Việt chuyển quân quanh căn cứ suốt đêm”.
                           Thực ra, không phải trung đoàn 209 chuyển quân… mà suốt 7 đếm ấy, đêm nào những người lính còn lại của D7 cũng bất chấp bom đạn, trở lại Chư Tan Kra, đi quanh căn cứ… để tìm cứu thương binh và tìm chôn xác các chiến sĩ của mình.
                       
                       
                      #26
                        Nhân văn 10.09.2020 17:57:35 (permalink)
                         
                                                        Chương VII.   
                         
                                            NGƯỜI CON GÁI BẢN
                                              RA CHIẾN TRƯỜNG
                         
                                                                    23-
                         
                             Một chiều cuối xuân 1971. Cuộc họp dân quân bản cuối cùng mà Mỵ tham dự, lúc trở về đi cùng với A Tòng, lòng Mỵ thấy nhẹ nhõm. Họ đi bên nhau im lặng, mỗi người đuổi theo ý nghĩ của riêng mình. Cũng về gần đến nhà Mỵ, A Tòng mới lên tiếng:                  
                        -  Thế là ngày mai, Mỵ đi thật rồi!
                             Tiếng của A Tòng nửa như hỏi, nửa lại như than thở.
                        -  Ừ, mai.                                     
                             Mỵ khẽ trả lời rồi im lặng. A Tòng rủ Mỵ tạt qua rừng thăm cái bẫy? Mỵ gật đầu. A Tòng xốc lại dây đeo khẩu súng dân quân tự vệ K44 trên vai cho khỏi trễ xuống. Người thanh niên bản cố tạo ra vẻ để làm chủ mình, rồi mở đầu câu chuyện. “Mình phải nói thôi!” – A Tòng thầm nghĩ, những tình cảm  từ bao lâu nay anh ta vẫn cất giữ riêng ở trong mình. Mỵ hơi ngước lên nhìn A Tòng, rồi lại cúi xuống thong thả bước. Môi cô khẽ hé một nụ cười: “Tôi biết tỏng đi rồi, anh bạn ạ!” – Cô gái nghĩ vậy, nhưng không nói.
                             Cái nhậy cảm của người con gái, cũng thính như cái tai của con nai rừng. Mỵ biết A Tòng muốn nói điều gì? Đi bên cạnh A Tòng nhưng tâm trí Mỵ lại nghĩ đến Hoàng, người chiến sỹ mà cô đã gặp từ ba mùa xuân trước.
                             “Anh biết không? Đã qua ba mùa xuân rồi đấy! Em vẫn chờ anh…” – Em không nhận được lá thư nào của anh gửi về cả. Em biết là chiến tranh,  anh lại ở nơi chiến trường đánh giặc, thư từ khó khăn lắm…  hay bị thất lạc nữa, phải không anh?
                             Ở bản, có chị chồng cũng vào chiến trường như anh, đã ngót mười năm nay vẫn không có tin về. Anh biết không? Những người ở quê hương, có người thân đi đánh giặc xa – mong tin cháy lòng, cháy ruột. Đêm nhớ, ngày thương…
                             Như con nai trên rừng, cứ đêm đêm hú lên gọi bạn. Như con chim trên cành , sáng sáng lại líu ríu gọi đàn. Khi em khỏa tay xuống con suối, em cũng mong anh về. Chiều đi nương, em cũng ngóng anh. Em biết bước chân của anh cũng đi dài như con hoẵng, nhưng sao không cố để viết thư về cho em? Anh viết mười lá, em cũng có thể nhận được một lá chứ!
                             Tiếng gọi của A Tòng kéo Mỵ ra khỏi ý nghĩ.
                        -  Mỵ đang nghĩ gì thế?
                             A Tòng nhìn Mỵ dò hỏi, có vẻ ngạc nhiên.
                        -  À, Mỵ nghĩ… nếu Mỵ chưa đi…                                                            
                        -  Thì làm sao cơ?                                                                                 
                             A Tòng gặng.
                        -  Thì chúng mình sẽ vẫn tiếp tục tập dân quân với nhau.                                  
                        -  Tất nhiên! Thế mà A Tòng cứ tưởng…                                                 
                        -  A Tòng không thích thế sao?                                                        
                        -  A Tòng thích lắm chứ! Thì có ai yêu cầu Mỵ đi đâu? Đấy là Mỵ nhất quyết xin đi, nên Ban lãnh đạo quân sự đành phải đồng ý.                     
                             Họ đã đến chỗ A Tòng đặt bẫy. Một chú sóc nâu, cổ bị thít chặt vào chiếc thòng lọng làm bằng sợi dây rừng dai như cước. Con sóc vẫn còn thoi thóp cựa quậy. Nó thè lè cái lưỡi nhỏ xíu, đỏ hỏn. Càng cựa thì chiếc thòng lọng càng thít chặt lấy cổ nó. Khi A Tòng gỡ được con sóc ra khỏi nút dây, nó chết hẳn. A Tòng đưa con sóc cho Mỵ, nói:
                        -  Cho Mỵ đấy! Đây là con thú cuối cùng, A Tòng tặng cho Mỵ.                  
                        -  Sao lại cuối cùng?                                                       
                             Mỵ cự lại.
                        -  Thì, Mỵ đi rồi… biết  đến bao giờ mới trở về, để A Tòng lại bẫy thú cho Mỵ.                                                                                      
                             Mỵ giơ con sóc lên thích thú.
                        -  Mỵ sẽ nói Sóc của A Tòng bẫy được biếu mế, mế sẽ khen A Tòng giỏi.
                             Họ tiếp tục ra về. A Tòng vẻ chán nản, miệng lẩm bẩm:
                        -  Thế là hết!
                              Tiếng cười của cô gái bản ròn tan, hòa trong tiếng reo lóc róc của con suối khi họ bước qua. Cơn mưa bất thình lình ập đến. Gió ào qua khu rừng rít lên từng hồi dài. Trời sầm lại. A Tòng kéo tay Mỵ chạy đến trú dưới một cây cọ lớn. Nước trên núi theo khe trũng đổ dồn xuống xối xả. Mưa mỗi lúc một to, Mỵ nép sát vào người bạn.
                             Tiếng sấm nổ đập mạnh vào vách đá. Chớp nhoằng lên, xé tan nền trời theo hình chữ "Z". Tiếng nổ chói tai như búa gõ.
                        -  A Tòng! Tôi sợ quá?
                             Mỵ quay lại ôm chặt lấy bạn. Đáng lẽ nên đưa hai tay kéo người bạn gái vào gần mình, thì anh chàng thanh niên bản lại quặt cả hai tay về phía sau. Hai bàn tay của A Tòng bám chặt vào cây cọ, thân cây xù xì như vẩy cóc. Chàng trai như thể đang run lên trong tiếng mưa gió ầm ầm. Mỵ cứ ôm riết lấy A Tòng. Như thể ở nơi đây, trong tấm thân cao lớn của người con trai bản, cô tìm thấy một sự tin cậy. Tai cô chỉ còn nghe thấy tiếng rú của gió, tiếng đổ ầm ầm của thác nước.
                             Những giọt nước mưa qua môi người con gái chảy xuống, thấm lên ngực A Tòng... nóng hổi. Cả mùi hương trên tóc Mỵ nữa? Cái mùi hương, A Tòng chưa từng thấy trong tất cả các loại hoa rừng. Đã mấy lần A Tòng định rời tay ra khỏi thân cây cọ để ôm lấy Mỵ, nhưng rồi anh không dám, vội rụt lại.
                             Tiếng mưa đã ngớt dần, lo âu cũng bớt đi. Lúc ấy, cái va chạm vô tư của người con gái, đã nhen lên trong chàng những cảm giác mạnh mẽ hơn. Bàn tay A Tòng run run, mới chỉ dám mon men bên ngoài lần áo mỏng. Cô gái yên lặng. Cũng chỉ cần từng ý thôi, đã đủ thiêu cháy cả trái tim lẫn tâm hồn anh thanh thanh niên bản. Cũng chỉ từng ý thôi, cái cảm giác háo hức đã tác động, truyền nhanh trong cơ thể người con gái như một dòng điện.
                             Giây phút ấy, lòng say sưa của người đàn bà chỉ bị thuần hóa trong câm lặng. Nếu coi đó như một tín ngưỡng của họ, thì A Tòng đã xúc phạm phải tín ngưỡng đó. Thực tại đang bị nghiền vụn, như khi ta nghiền vụn một mẩu bánh vứt nó lên không trung – Ai nói, thể rắn luôn luôn là một khối đặc? khi những cảm giác chứa trong thể rắn đó, kích thích giữa cơn say mê, thèm thuồng. Nó đã chẳng biến "chất rắn" kia thành hư không đó sao !? Cũng giống như ở một nhiệt độ cao cần thiết, chất rắn kia biến thành chất lỏng chảy ra thành nước, và hơi nước bay lên tầng không khí.
                             Cô gái khẽ gỡ đôi bàn tay có phần hơi mạnh bạo của người con trai bản. Đó chính là sự tỉnh táo duy nhất của cô, trong cái thực tại đã bị xé nhỏ như mẩu bánh nọ. Nhưng cánh tay của người con trai không muốn rời ra, anh xiết mạnh hơn.
                             Trong lúc xúc động, A Tòng đã gọi tên cô! Hình như anh đang muốn tìm... để hôn lên đôi môi người con gái? Tiếng gọi của A Tòng cũng nhỏ thôi, nhưng trong khung cảnh ấy, Mỵ lại thấy nó chói tai như tiếng vải xé... quất vào mặt người con gái. Vô tình nó lại trở thành một cái gì tựa sự thô bạo. Giống như một kẻ chơi trống đồng, lại lấy lưỡi dao thay cho dùi trống. Mặt chiếc trống đang căng, toác phựt ra.
                             Tiếng gọi của A Tòng làm cho cô gái ghê hãi? Mỵ vùng dậy, gỡ tay A Tòng để vượt ra. A Tòng níu lại... Người con gái giang thẳng tay tát vào mặt A Tòng, bước ra ngoài. Đôi chân cô vẫn còn run. Trống ngực cô đập mạnh, dư âm chưa kịp tan đi.
                             Giây lát, Mỵ trấn tĩnh lại. Cô yên lặng đi về phía bản. A Tòng xốc lại khẩu súng trên vai cho khỏi trễ. Anh cúi xuống nhặt con sóc bị vứt dưới gốc cọ, rồi lững thững bước theo Mỵ.
                             Gần đến nhà, Mỵ quay lại nhìn A Tòng, môi cô khẽ nở một nụ cười làm lành.
                         -  Chào A Tòng nhé! Mai Mỵ đi, A Tòng ở lại lãnh đạo đội dân quân của bản, thật giỏi nghe.
                             A Tòng nói như có vẻ muốn xin lỗi:
                        -  Mai A Tòng sẽ còn tới để tiễn Mỵ lên đường mà.
                             Chàng trai bản vẫn nhìn cô bạn gái anh hết lòng thương yêu, với cái nhìn thật trìu mến. Anh giơ cao con sóc lên nói:
                        -  Của Mỵ này...
                             Mỵ chạy lại cầm lấy con sóc trên tay A Tòng, chạy nhanh vào trong sân. Cô trèo lên chiếc thang gỗ, rồi khuất vào trong ngôi nhà sàn của mế con cô.
                             A Tòng còn đứng ngẩn theo giấy lát mới quay đầu lại, bước đi lững thững trên con đường bản màu đất đỏ, phủ đầy hoa mận trắng.
                         
                                                                           *
                         
                             Bà mế vẫn ngồi bên bếp lửa giữa sàn nhà, chờ con về. Cái rét cuối mùa xuân, gió qua cửa sổ tạt vào làm cho mế khẽ rùng mình. Bóng mế im phắc, tựa như bà đã ngồi thế này hàng thế kỉ, ngồi trọn đời mế, đến cả đời con mế. Sự sống của mế giờ đây, như đốm lửa lay lắt trước cơn gió. Nhưng mế không nghĩ về chuyện đó? cái chết của người già cũng giống như một chuyến đi xa, mế không sợ.
                             Thằng con trai cả mế, anh trai của cái Mỵ cũng đã trở về. Dù nó có bị một chút thương tật, thân thể không còn được lành lặn như trước, nhưng như thế vẫn còn may mắn chán. Khối thanh niên bản đi như nó bị chết, có về được đâu. Một số gia đình còn nhận được giấy báo tử, mấy người khác thì bặt vô tăm tích, chẳng biết sống chết ra sao? Con mế cũng chỉ mới mất một cánh tay trái. Còn mang được tấm thân trở về với mế, với bản đã là tốt phúc! Rồi nó sẽ lấy vợ và sinh con. Như thế gia đình mế cũng đã có phần đóng góp cho vận mệnh của nước non. Mế có quyền kiêu hãnh của một người mẹ, tự hào với dân bản... lắm chứ! Mế chỉ thương cái Mỵ...
                             Mế biết con gái mế đã yêu thương anh bộ đội ấy! Nghe đâu, nó với anh ấy cũng đã có hẹn hò với nhau? Thế mà đã hơn ba năm nay, qua ba mùa xuân... Nó chẳng nhận được lá thư nào của anh ấy gửi về. Nghĩ dại, ngộ nhỡ... Mế cố xua tan ý nghĩ khủng khiếp ấy đi.
                             Nay con gái mế lại quyết định xin nhập ngũ để vào chiến trường? Giá nó là con trai như anh nó lại khác, đằng này nó là con gái. Mặc dù mế biết: khối cô gái cũng đã tòng quân, ra tiền tuyến hẳn hoi. Thấy ý con đã quyết, mế chẳng muốn can ngăn. Mế biết – ngoài việc tình nguyện ra đi tham gia chiến đấu, nó còn có ý tưởng vào chiến trường... để tìm anh ấy? Nó yêu anh bộ đội lắm! mà người con gái bản đã yêu, thì chẳng có núi non, khó khăn nào ngăn trở được. Thế là, mai con gái mế đã lên đường...
                             Cứ thế, bao nhiêu ý nghĩ quay lộn trong đầu bà mế. Mỵ đã đưa con sóc ra con suối cạnh nhà làm lông sạch sẽ, mang về để mế nướng trên bếp than hồng. Cô ngồi xuống bên cạnh, vừa đưa cái xiên có con sóc cho mế, vừa hỏi:
                        -  Anh trai con lên trại thương binh làm thủ tục, vẫn chưa về hả mế?
                        -  Phải làm nhiều giấy tờ. Giấy chứng nhận thương tật, lại cả giấy xuất ngũ... chắc phải tối muộn, anh con mới về được.
                             Bà mế và cô con gái lại ngồi im lặng. Một lát sau, Mỵ mới khẽ khàng nói:
                        -  Con đi, chỉ thương mế ở nhà.
                        -  Ôi dào, có anh con về rồi, lại còn bà con dân bản nữa. Đừng lo cho mế!
                              Bà mế gạt đi: "Đi đi con! Mế già rồi, nếu còn trẻ trung như các con thì mế cũng đi mà.".
                             Bà mế lại ngồi trầm ngâm, giọng mế nhỏ nhẹ như dỗ dành con gái:
                        -  Có đi thì may ra gặp được anh ấy, con ạ!
                             Mỵ chỉ đáp "dạ" một tiếng, rồi ngồi im. Cô vẫn đăm đăm nhìn mế, mắt rơm rớm lệ. Con sóc đã chín, mùi thịt nướng tỏa ra thơm phức. Mế đưa cho Mỵ treo nó lên chiếc móc ở phía trên đống lửa. Mỵ bảo mế:
                        -  Con treo ở đây, lúc nào mế muốn ăn thì lấy mà ăn.
                        -  Ừ, con cứ để đấy! Đợi anh con tý nữa về, cả nhà ăn cơm luôn thể.
                             Đôi mắt bà mế lại đăm đăm nhìn sâu vào trong đống lửa. Mỵ tựa người vào cây cột giữa nhà, nhìn ra khu vườn qua những song cửa sổ. Cô lại nghĩ đến Hoàng...
                             Thế là ngày mai cô đã đi! Vào trong đó, cô sẽ dò hỏi để tìm anh. Cô nhìn ra phía vườn đào, kỉ niệm của ngày đó tràn về... Lòng Mỵ lại xốn xang. Tấm thân của người con gái là một báu vật, cô đã trao báu vật đó cho anh. Những con gió từ ngoài cửa sổ thổi vào, bếp than hồng đỏ bừng lên.
                        -  Cứ yên tâm mà đi, nghe con!
                             Mế nói giọng điềm tĩnh: "Con gái bây giờ cũng phải giỏi như con trai!" - Nói vậy nhưng trên khóe mắt mế, hai giọt nước mắt từ từ rôi xuống... những cái khe nhăn nheo ở má. Nó cũng lặng lẽ như cái bóng của bà.
                            Mỵ nói với mế, đi ra ngoài dạo một lát. Cô bước xuống những bậc thang gỗ rồi ra phía vườn. Gió chiều tối đã se lạnh, cô thấy trong người dễ chịu hơn. Cái tuổi xuân tràn ngập bao nhiêu kỉ niệm. Nó tươi mát như những bông hoa đang mời đón, trong sáng và trinh bạch.
                             “Hỡi rừng sâu thăm thẳm! Hỡi tiếng kêu của muôn loài cầm thú! Cả thiên nhiên hung vĩ, hãy bao dung lấy tôi! Tôi đi trong các người!” – Những tiếng ấy vọng ra từ trong Mỵ. Lòng Mỵ vẫn triền miên nhớ về từ ba năm trước. Ôi, cái tuổi mười tám, đôi mươi của tôi! Những kỉ niệm tha thiết của đời tôi! Tôi sống như thế đã đủ rồi ư? Không, đó mới chỉ là bắt đầu của cái tuổi bước vào đời. Chẳng lẽ những ngày sống sắp tới của tôi, sẽ chỉ giống như ngọn cỏ héo úa? Có thể nào như thế! Em khao khát được sống lại những giây phút bên anh: Một phần trăm thôi, hay một phần nghìn cũng được. Anh sẽ nghĩ, em chỉ lả một con bé ích kỉ phải không? Đúng, em ích kỉ!... và con bé ích kỉ ấy đã trao tất cả trái tim, tâm hồn cùng thân xác nó cho anh. Không mặc cả… Như con sói trên rừng, anh về bản làng bắt em đi! Em đã theo anh, em sẽ theo anh suốt đời.
                             Vườn đào ôi! Cây đào yêu quí của tôi ơi! Tôi ao ước cái vô tư của đào… Cứ thế, Mỵ đi sâu vào trong vườn đào lúc nào không biết. Những kỉ niểm bổi hổi của những buổi yêu ban đầu, với anh ở vườn đào này… sống dậy trong lòng cô.
                             Ngày ấy, đào còn thấp hơn tôi nữa đấy! Giờ thì đảo đã cao hơn tôi cả cái đầu. Bàn tay người con gái bản cứ mân mê trên thân cây đào. Trời đã tối từ lúc nào. Bóng trăng đầu tháng mọc sớm, đã lên trên đỉnh núi. Có ngôi sao đã tách riêng bạn bè, để đưa bước chân Mỵ đến với gốc đào này. Chính là gốc đào lần đầu tiên, Mỵ đã trao nụ hôn cho anh. Cả tấm thân trinh trắng như sương tuyết của Mỵ, cũng suồng sã với anh ở đây. Giờ như vẫn cháy râm ran trong cơ thể Mỵ… Mỵ áp má vào thân đào, cô nghe thấy cả tiếng của dòng nhựa trong cây đang chảy.
                             Bỗng Mỵ nghe thấy như có tiếng ai đang gọi? Đúng rồi, đúng là có tiếng người. Ai nhỉ! Không phải là tiếng của anh? Cái âm thanh trong giọng nói và hơi thở của anh, Mỵ vẫn nhớ. Nhưng ai đi tìm Mỵ vào buổi chiều tối này chứ? Một cảm giác ớn lạnh truyền nhanh trong cô gái. Cô muốn quay lại chạy cho nhanh về nhà, nhưng chân cô như bị mắc cạn. Cô muốn hét lên, nhưng lưỡi cô ríu lại. Cái bóng đen… nó đang tiến lại phía cô. Cánh tay cô gái nắm chặt lấy gốc đào, lùi lại. Khi cái bóng đen cất tiếng gọi, sợ quá cô rú lên!
                        -  Tôi đây mà! A Tòng đây mà, Mỵ!
                        -  A Tòng à? Đúng là A Tòng rồi!
                             Cơn giận ban chiều đã nguôi đi, giờ lại bùng lên.  Mỵ nói như quát nhẹ:
                        -  Anh đã về rồi, sao lại còn đến đây?
                        -  Tôi đã theo Mỵ đến đây từ lúc chiều tối. Tôi đứng ở gần chỗ cầu thang, nhưng không dám vào nhà.                                                                    
                             A Tòng phân trần:
                        -  Tôi đã gọi Mỵ hai lần, nhưng Mỵ vẫn không nghe thấy.                                  
                             Mỵ chẳng nói chẳng rằng, quay gót đi nhanh ra khỏi vườn đào để chạy về nhà. A Tòng hớt hải đuổi theo. Anh nói như không ra hơi:
                        -  Mỵ! Mai Mỵ đã đi rồi mà. A Tòng sẽ không được gặp Mỵ nữa. A Tòng muốn gặp để xin lỗi Mỵ.                                                               
                             Mỵ dừng lại. Cô im lặng đứng nhìn tấm thân cao lớn của người con trai bản, vẫn còn đang nài nỉ:
                        -  Mai Mỵ đi rồi, Mỵ đừng giận A Tòng nữa. Được không?                           
                             Cô gái bản lại nhìn chàng trai với đôi mắt thật hiền hòa. Có vẻ cô đã bỏ qua những sự giận dỗi của mình. Cô nói:
                        -  Ừ, Mỵ không giận A Tòng nữa!                                                                 
                             A Tòng thấy sướng rơn:
                        -  Có thế chứ! Có thế, Mỵ mới là người bạn gái tốt của A Tòng chứ!   
                             Anh chàng vẫn phân vân:
                        -  Mỵ có tha lỗi cho A Tòng thật không?                                                         
                        -  Có, tha thật.                                                                                   
                             Cô gái nhoẻn cười làm lành.
                        -  Thật chứ! Mỵ không giận A Tòng thật chứ!                                                
                        -  Thật.                                                                                                
                        -  Thế thì vui quá. Nếu Mỵ còn giận A Tòng? Mỵ đi rồi, A Tòng ở lại bản sẽ buồn lắm.                                                                                          
                        -  A Tòng đừng buồn nữa. Mỵ không giận A Tòng nữa đâu!                         
                        -  Mỵ tốt quá!                                                                       
                        -  A Tòng về đi, trời khuya đến nơi rồi.                                                                
                        -  A Tòng muốn…                                                                              
                             Cái nhìn của A Tòng như khẩn thiết.
                        -  Thôi, A Tòng đừng nhắc lại chuyện ấy nữa! Nếu không, Mỵ sẽ lại giận A Tòng cho mà xem?                                                                                   
                             Người con trai ngồi thụp xuống, hai tay quàng lấy chân cô gái, giọng nghe rền rã:
                        -  Mỵ! Tôi… tôi yêu Mỵ!                                                                
                             Cánh tay của A Tòng vô tình làm tốc bay cái váy hoa của cô gái Mường. Hoảng hốt, Mỵ giật chân ra khỏi A Tòng, chạy về nhà. Bóng A Tòng chạy theo chới với. Đến chân cầu thang, Mỵ quay đầu nói vọng lại:
                        -  Mai, Mỵ đi nhé! Mỵ không giận A Tòng nữa đâu.                     
                             Nói rồi, cô gái bước nhanh lên sàn. A Tòng nói theo:
                        -  Mai, tôi sẽ đến sớm để tiễn Mỵ đi cơ mà…                                          
                              Anh chàng thẫn thờ, nhìn cô gái đã khuất vào trong nhà bản. Miệng chàng vẫn còn lẩm bẩm: “Thế là hết!”.
                             Một lát, chàng trai chậm chạp bước ra khỏi vườn đào đi vào con đường bản. Mùa này, hoa nở nhiều thơm phức.
                         
                         
                         
                         
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.09.2020 18:01:17 bởi Nhân văn >
                        #27
                          Nhân văn 10.09.2020 18:06:41 (permalink)
                           
                                                                24- 
                           
                               Vào giữa mùa mưa năm 1971. Kể từ sau cuộc Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân ấy, mùa mưa này là mùa thứ tư. Tình hình chiến trường miền Nam nói chung và mặt trận Tây Nguyên nói riêng, vẫn vô cùng khốc liệt.
                               Trên tuyến vận tải quân sự chiến lược của QGP là “Con đường mòn Hồ Chí Minh” qua núi rừng Trường Sơn. Trong suốt thời gian chiến tranh - Đoàn 559 (một binh chủng vận tải thuộc sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ tư lệnh quân đội Bắc Việt), được giao trọng trách liên kết với hậu phương lớn ở miền Bắc, đảm nhận sự vận chuyển - phục vụ cho toàn chiến trường miền Nam.
                               Thí dụ: Chỉ tính riêng trong năm 1967, chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân 1968 – Đoàn 559 đã vận chuyển vào chiến trường miền Nam, theo Con Đường Mòn Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên khoảng 7 vạn tấn lương thực, 14 vạn người bổ xung cho quân chủ lực: gồm 2 sư đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn các binh chủng khác và đặc công.
                               Cuộc Tổng công kích tuy đã bị dập tắt như âm hưởng của nó rất lớn. Đến mức, sau đó Tổng thống Mỹ Johnson buộc lòng phải rút lui, không dám ra tranh cử nhiệm kỳ II. Thống tướng William Westmoreland bị cách chức tư lệnh trên chiến trường miền Nam.
                               Nói về địa bàn chiến trường Tây Nguyên: núi non trùng điệp – Cách thị xã Kon Tum trên 40km về phía bắc là trung tâm thị trấn Đắc Tô – Tân Cảnh, gần như là một thung lũng lớn, nằm án ngữ ngã ba đường 14 và 18. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã xây dựng tại đây một cụm căn cứ tương đối lớn: với 2 sân bay và nhiều kho tàng đạn dược. Đó là một căn cứ xuất phát cho các cuộc hành quân phản kích QGP, ra ba vùng biên giới Việt – Miên – Lào. Phía bắc là vùng căn cứ của quân cách mạng – Tỉnh ủy Kon Tum của QGP cũng nằm ở đây.
                               Các cao điểm xung quanh thung lũng Đắc Tô –Tân Cảnh như: Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Kom Liệt, Ngọc Dơ Lang, 724, 823, 882, 875, 1030, 1424… đều đã trở thành những chiến trường đẫm đầy máu – cả lính Bắc Việt, Mỹ và QLVNCH.  Đây là một địa hình có các điểm cao trên dưới 1.000m, để khống chế ra bốn hướng – Nếu quân chủ lực Bắc Việt muốn tiến đánh hoặc thọc sâu xuống mạn dưới đồng bằng, đều phải trải qua nhiều trận đánh ác liệt ở đây.
                               Để chuẩn bị cho những trận đánh của chiến dịch 1972 sắp tới – Trong vùng căn cứ địa của quân cách mạng tại rừng núi Kon Tum, đang khẩn trương làm công tác vận chuyển lương thực và vũ khí đạn dược về hậu cứ.
                               Những chuyện được ghi lại dưới đây, cũng ở trên con đường trục của QGP trong địa phận tỉnh Kon Tum ấy. Ngày đêm không ngớt các đơn vị hành quân và vận tải đi qua.
                                Vào một ngày trời nắng đẹp, cũng đã gần trưa. Dọc theo con đường giao liên lên một dốc núi cao, gọi là “Dốc cổng trời”. Một tốp chiến sĩ, anh nào cũng gùi nặng trĩu vai, mồ hôi nhễ nhại. Họ đi gùi gạo tại kho Q7 về đơn vị.
                               Đến bên một thân cây to đã bị đổ nằm dọc theo con đường mòn, họ dừng lại ngồi nghỉ giải lao tại đó. Một chiến sĩ vừa đến, đặt “bịch” một cái… cả gùi gạo xuống thân cây, trút hơi thở dài nhẹ nhõm:
                          -  Chà, quỉ tha ma bắt cái gùi gạo này! Nặng, nặng là…                                
                               Anh ta lấy tay mở nắp một chiếc bi-đông đựng nước của Mỹ bằng i-nốc sáng trắng đeo bên hông, ngửa cổ uống ừng ực. Nói với một chiến sĩ khác cùng đến:
                          -  35 kí đấy! Tớ tê cả hai tay.                                                                                         
                               Người đồng đội mới tới thì bảo:
                          -  Hai cánh tay mình cứ như không thể cử động được nữa.                            
                               Đấy là những chiến sĩ đi gùi gạo của trung đoàn pháo 40 trực thuộc mặt trận B3. Họ đang đến từng tốp, từng tốp ùn lên trên đỉnh dốc. Mỗi tốp ngồi chụm lại một chỗ, rải rác khắp bãi nghỉ. Chỗ này, một nhóm đang xúm quanh chiếc điếu cầy của một anh nào đó mang theo bên người, người này chưa hút xong, người khác đã chờ sẵn để đón lấy ống điếu. Lõ điếu không kịp nghỉ, tiếng rít thuốc long lên sòng sọc. Chỗ khác, mấy anh chàng ngả đầu lên gùi gạo, chân duỗi dài ra đất, phì phèo điếu thuốc lá dân tộc. Điếu thuốc được cuốn sâu kèn to như ngón tay cái. Anh ta rít từng hơi, mắt lim dim khoái trá. Mười lăm phút nghỉ sau một tiếng đường gùi, đỗi với họ là một lạc thú êm ái.
                               Ở một tốp lính. Cậu Nhượng nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, xoa xoa lên đôi vai hằn đỏ như dấu son, nói:
                          -  Rát thấy mồ.
                               Hoàng Phức có nước da trắng như da con gái, tiến lại gần chỗ Nhượng trêu:
                          -  Ông giặc lái nhà nòi chỉ quen lái jin-ba-cầu, không quen gùi gạo mà? Này, không có những chuyến đi gùi gạo đột xuất như thế này, mấy tay nhà lái các ông, làm sao thấu được cảnh tình lính pháo thủ của bọn này.
                               Nhượng làu bàu chửi:
                          -  Cũng tại cái thằng Xi-ha-núc! Nó mà không cắt cửa khẩu ở Miên, tớ chỉ ghé đít cái Jin-ba-cầu vào cầu cảng, cả trung đoàn các cậu ăn mệt.
                               Hồi đó Xi-ha-núc cắt không cho ngoài Bắc chuyển lương thực và súng đạn qua đường Căm Pu Chia, cho nên các đơn vị ở gần biên giới phải về tận các kho trong hậu cứ Kon Tum để vận chuyển gạo, đạn và các thiết bị quân trang, quân dụng. Mỗi chuyến vừa đi và về phải mất cả tuần.
                               Một người lính đã chững tuổi, khuôn mặt võ vàng vì sốt rét, có vẻ là lính binh trạm. Anh ta cởi trần trùng trục, để lộ tấm thân với những bắp cơ nổi lên cuồn cuộn... góp chuyện:
                          -  Thấm gì. So với hồi năm 1969, thì các cậu còn sướng nhiều. Khi đó mới cắt cửa khẩu Miên, nương rẫy thì chưa phát được như bây giờ, sắn cũng không có mà ăn. Lúc ấy, ở mặt trận Tây Nguyên này: tiêu chuẩn mỗi chiến sĩ một tháng, chỉ được 4kg rưỡi gạo thôi.
                               Ngưng giấy lát để rít cho xong điếu thuốc lào, người lính binh trạm nói tiếp:
                          -  Đồ vật, kỉ niệm có thứ gì... cũng đem vào bản đổi lấy sắn, ngô mà ăn. Một chiếc bật lửa Trung Quốc mới khự, chỉ đổi được một củ sắn to bằng bắp đùi.
                               Từ dưới chân dốc đi lên một đoàn cán bộ, có tới hơn chục người. Người nào cũng đeo súng ngắn. Đi đầu là một người đàn ông trạc cỡ năm mươi tuổi, dáng người to lớn. Ông chống một chiếc gậy bằng trúc vàng óng, đầu bịt vỏ đạn đồng. Họ dừng lại trên bãi nghỉ. Ông cán bộ già đó hỏi mấy chiến sĩ trong tốp đi gùi gạo, ngồi ở gần đấy:
                          -  Mệt không các đồng chí?                                                                     
                          -  Cũng vừa vừa thôi ạ!  
                               Một anh lính nhanh nhẩu mồm miệng trả lời. Người cán bộ già lấy chiếc khăn mặt bông, buộc ở dây đeo ba lô ra lau mặt rồi nói tiếp:
                          -  Tớ chịu không làm sao theo được đám thanh niên. Hồi tham gia chiến dịch Điện Biên, tớ có thể vác cả cái bàn đế cối 82 chạy hàng tiếng.
                               Ông lấy ra một túi giấy bóng đựng đầy thuốc lá sợi vàng ươm, loại thuốc Miên thơm, vê một điếu để hút rồi bảo mấy anh chiến sĩ ngồi gần:
                          -  Các đồng chí hút thuốc đi!
                          -  Cám ơn thủ trưởng. Thuốc lá của thủ trưởng thơm quá!
                               Anh chiến sĩ nhúm một ít thuốc, tãi mỏng đều vào miếng giấy cuốn thuốc lá, cuộn lại rồi đưa lên mép vê tròn thành một điếu loa kèn, châm lửa hút. Mấy tay khác nháy nhau ngồi xích lại gần người cán bộ già, xin thuốc hút. Ông thủ trưởng phúc hậu chỉ mỉm cười gật đầu. Họ chưa biết tên và cũng chẳng cần biết ông đã làm tới cái cấp lãnh đạo gì? vui vẻ ngồi hút thuốc. Mỗi anh vê một điếu, nhoáng cái gói thuốc đã vơi đi quá nửa. Người cán bộ già vẫn niềm nở mời anh em cứ tự nhiên.
                               Có hai cô gái mặc bộ quần áo bà-ba-đen cùng đi với mấy anh chiến sĩ nữa, cũng đang lên đỉnh dốc. Cô gái có khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, tóc cắt ngắn theo kiểu nữ sinh, quay lại nói với cô gái đi sau:
                          -  Sa thua tôi rồi nhé!
                               Một anh chiến sĩ cùng đoàn nói chêm vào:
                          -  Về tài leo dốc thì cô Sa thua cô Mỵ đứt đuôi rồi.
                               Người con gái có tên gọi là "Sa" với khuôn mặt bầu bĩnh, tóc tết đuôi sam, hai tay chống lên đùi vẻ mệt mỏi... vừa thở vừa nói:
                          -  Tớ chịu thua cậu rồi.
                               Mỵ kéo Sa ra tìm một chỗ để nghỉ chân. Mấy anh lính trong tốp đi gùi gạo nhìn về phía hai cô gái, nháy mắt. Họ thì thào bình phẩm với nhau:
                          -  Hai em giải phóng trông "ngon" ghê!
                               Người nói - đó là một anh chàng xương mặt, nổi đầy những mụn trứng cá đỏ hỏn. Một anh khác họa theo:
                          -  Cô em có khuôn mặt bầu bầu kia, nghe giọng nói có lẽ là gái Huế? Còn em trông xinh xinh, trắng trẻo, có vẻ dáng gái miền Bắc.
                          -  Ừ, em gái trông xinh thật! Nhưng có vẻ như là một bông hoa dại miền núi?
                               Anh chàng vừa nói, tỏ ra mình là một trang nam nhi khá tinh tường trong việc xét đoán. Rồi như một vòng dây cua-roa quay liên tục, những câu chuyện mời chào, hỏi han với hai cô gái chiến sĩ xinh xẻo cứ râm ran khắp bãi nghỉ.
                          -  Mấy anh gùi gạo về đâu đấy ạ?
                               Cô gái có tên là Sa bạo dạn hơn, lên tiếng hỏi mấy anh ngồi gần.
                          -  Chúng tôi về T3... còn hai cô?
                               "T3" là tên gọi một khu hậu cứ của QGP ở mặt trận Kon Tum.
                          -  Chúng em đến "Điểm 5" để lĩnh thuốc quân y.
                               "Điểm 5" là nơi phân phát những trang bị hậu cần thuộc Bộ tư lệnh B3. Một anh ngồi nghỉ ở mãi xa, hỏi với tới chỗ hai cô gái:
                          -  Hai cô ở đơn vị nào đấy?
                          -  Chúng em ở đơn vị thuộc Tổng cục hậu cần B3, mấy anh ạ!
                          -  Chà, lính trực thuộc Bộ tư lệnh hả?
                               Mỵ cười. Sa quay sang bắt chuyện:
                          -  Thế còn mấy anh ở đơn vị nào?
                          -  Các anh ở trung đoàn 40 – lính pháo đấy, mấy em ạ!
                          -  Thảm nào... nhìn mấy anh, chúng em biết ngay không phải lính bộ binh.
                               Sa nói vậy.
                          -  Thế, chúng tôi khác với lính bộ binh ở điểm nào?
                          =  Lính pháo các anh đi một bước là lên xe xuống xe, nên gùi gạo không thạo bằng mấy anh bộ binh.
                          -  Sao cô biết?
                          -  Cứ nhìn gùi gạo của mấy anh là bọn em biết! Gùi gạo của các anh lính  bộ binh, thường nặng và to hơn.
                          -  Pháo với chả mã... Ở cái đất Tây Nguyên này, nghĩ mà ớn đến tận xương sống.
                               Anh chàng vừa nói thở dài:
                          -  Vừa rồi chúng tôi đã phải tháo cả ô tô và pháo ra mà khiêng, mà kéo đấy? Cái giống xe cộ, nó chở mình thì dễ chứ... đến lúc mình phải cõng nó, cực hơn vợ đau đẻ.
                                Các chiến sĩ nghe anh chàng tán dóc thế, liền cười ồ. Một anh trêu:
                          -  Người yêu còn chưa có mảnh tình vắt vai. Vợ ở đâu ra, mà cũng đòi biết đau đẻ là thế nào?
                          -  Chuyện, cậu này? Đấy là người ta ví thế!
                          -  Thế hai cô quê ở đâu?
                          -  Dạ, chúng em ở xa lắm!
                               Sa nói bằng cái giọng Huế âm ấm, dễ nghe:
                          -  Em tên gọi là "Sa", quê tận Huế. Còn cô này là Mỵ, thì quê ở Hòa Bình.
                          -  Gái Hòa Bình hả? Đồng hương của cậu đấy, Dơng ơi!
                               Một anh nói vọng tới chỗ của người chiến sĩ ngồi tận cuối bãi. Anh chiến sĩ có tên gọi là Dơng có vẻ hơi dút dát, lúc này mới đi gần đến đánh bạo hỏi:
                          -  Trên Hòa Bình, cô Mỵ ở vùng nào vậy?
                          -  Dạ em ở ngoài Vụ Bản.
                          -  Hai cô chắc mới từ Bắc vào?
                          -  Cũng được mấy tháng rồi ạ!
                               Mỵ đánh bạo hỏi anh chiến sĩ đồng hương với mình:
                          -  Anh Dơng có quen ai tên gọi là "Hoàng" không?
                               Dơng ngớ người, có vẻ ngẫm nghĩ:
                          -  Trong các đơn vị ở gần, tôi không thấy có ai tên gọi là "Hoàng".
                               Một thoáng buồn trên nét mặt cô gái Mường. Cô nói:
                          -  Ấy là em cứ hỏi thế, may ra...
                          -  Thế, anh Hoàng của cô vào đây đã lâu chưa?
                          -  Cũng được hơn ba năm, gần bốn năm - rồi ạ!
                          -  Chắc anh Hoàng cũng là người tỉnh Hòa Bình?
                          -  Không ạ, anh ấy người miền xuôi.
                          -  Anh Hoàng của cô Mỵ quê ở tỉnh nào?
                               Một thoáng ửng hồng trên khuôn mặt Mỵ. Sa trả lời thay cho bạn:
                          -  Anh ấy là người Hà Nội, mấy anh ạ!
                          -  Người yêu à...
                               Mỵ ấp úng, lắp bắp trong miệng:
                          -  Dạ, không. Hồi trước, anh ấy có đóng quân ở bản của em.
                          -  Lính Hà Nội là tán gái giỏi lắm!
                               Một anh chàng hạ một câu phán xét, làm cho Mỵ càng thêm đỏ mặt.
                          -  Vào đây, tìm người như thể tìm chim. Biết đâu mà tìm?
                          -  Vâng, em cũng nghĩ thế! Nhưng cứ hỏi mấy anh, may ra...
                                Bỗng một anh chàng ngồi ở xa, hắng giọng nói dõng tới:
                          -  Ở đơn vị một người bạn của tôi, cũng có một cậu tên là Hoàng. Anh em vẫn gọi là "Hoàng rỗ". Hồi trước cậu ấy cũng đóng quân ở Hòa Bình.
                                Mỵ cuống quít thanh minh:
                          -  Dạ, không phải đâu ạ. Anh Hoàng của em không "rỗ".
                               Một chiến sĩ khác nói gạt đi:
                          -  Cậu này chỉ nói vớ vẩn. Hoàng nhà mình quê ở tận Bắc Thái, còn "Hoàng" của người ta là người Hà Nội cơ mà.
                               Một chiến sĩ ngồi sát mé bên kia, nói với sang:
                          -  Có phải Hoàng người Hà Nội cao lớn, trông kẻng trai phải không? Nghe đâu, trước đây là lính của trung đoàn 209, vào đây đánh trận Chư Tan Kra rồi bị thương. Lúc ra viện, được chuyển về trung đoàn pháo E40.
                               Mỵ cuống quít:
                          -  Dạ, có lẽ đúng đấy ạ! Trước khi vào Nam, anh ấy cũng ở trung đoàn 209. Thế, anh ấy bị thương có nặng không anh?                             
                          -  Khỏi rồi. Về chiến đấu rồi.
                               Người chiến sĩ vừa thông báo cho Mỵ biết cái "tin quan trọng", nói tiếp:
                          -  Lần này, anh Hoàng không đi gùi gạo mà ở nhà làm nương. Tôi có một người bạn ở cùng đơn vị pháo với anh Hoàng, nên cũng sang chơi luôn.
                               Mỵ ngẫm nghĩ giấy lát, mạnh bạo hỏi:
                          -  Từ Điểm 5 vào chỗ đơn vị của anh Hoàng có xa không ạ?
                               Người chiến sĩ bước tới bên Mỵ, lấy một cây que nhỏ vạch ra đất:
                          -  Thế này nhé: Đến Điểm 5, cô hỏi đường về Binh Trạm Bắc. Từ Binh Trạm Bắc tới ngã ba đầu tiên rẽ trái rồi hỏi đường vào trung đoàn pháo 40, tiểu đoàn 30, đại đội 6... là tới.
                               Anh ta vứt cái que ra xa, ngẩng nhìn Mỵ nói tiếp:
                          -  Từ Điểm 5 đi vào chỗ anh Hoàng, cũng phải mất 1 tiếng rưỡi đấy!
                               Những tốp đi gùi gạo đã giục nhau tiếp tục lên đường. Người chiến sĩ vừa mách đường cho Mỵ cũng đã khoác gùi gạo lên vai, dặn lại:
                          -  Nếu đến thăm anh Hoàng, có điều kiện mời cô Mỵ, cô Sa vào chỗ chúng tôi chơi. Tôi tên là Hòa, đại đội 11 pháo mặt đất.  
                          -  Dạ, cám ơn anh ạ!
                               Mỵ nhìn theo người chiến sĩ nọ, ánh mắt cô thầm biết ơn anh. Cô nói:
                          -  Bọn em dừng lại đây một lát, chờ mấy anh tạt vào kho Q7 lấy thêm ít vật dụng. Chúng em sẽ đi sau.
                               Sa ghé vào tai bạn tủm tỉm cười:
                          -  Chuyến này gặp được “người năm ấy”... là phải khao một bánh lương khô đấy nhé!
                               Mỵ khẽ ẩy bạn, gật đầu. Lúc này, cô mới cảm thấy hơi mệt. Mỵ ngả đầu vào Sa, nhìn lên những tia nắng mặt trời dọi qua các kẽ lá. Những chùm ánh sáng li ti chiếu xuống đất như một thảm hoa. Cô lim dim mắt, trong lòng dấy lên một niềm vui khôn tả.
                           
                           
                          #28
                            Nhân văn 16.09.2020 13:23:58 (permalink)
                             
                                                          CHƯƠNG VIII.
                                MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN ĐẪM MÁU (A)
                             
                                                               25-
                             
                                  Tây Nguyên là một vùng cao nguyên thuộc miền Trung Việt Nam, bao gồm năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam; phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận; phía nam giáp Đồng Nai, Bình Phước; phía tây giáp Lào và Căm Pu Chia.
                                 Trong khi phía tây của Kon Tum giáp cả Lào và Căm Pu Chia – thì Gia Lai, Đắc Lắc và Đắc Nông chỉ có chung đường biên giới với Căm Pu Chia – còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế.
                                  Tây Nguyên do một loạt các cao nguyên liền kề nhau mà tạo thành. Các cao nguyên này đều được bao bọc về phía đông, bởi những dẫy núi và ngọn núi cao: chính là Trường Sơn. Diện tích cả vùng Tây Nguyên với năm tỉnh rộng 54.641 km2. Hai tỉnh Kon Tum, Gia Lai thuộc Bắc Tây Nguyên – Đắc Lắc, Đắc Nông thuộc Trung Tây Nguyên – còn Lâm Dồng thuộc Nam Tây Nguyên.
                                  Về khí hậu Tây Nguyên được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng tư – Trong đó tháng ba và tháng tư là hai tháng nóng, khô nhất.
                                  Trong cuộc kháng chiến đánh Mỹ, chiến trường Tây Nguyên được gọi là chiến trường B3 – trừ tỉnh Lâm Đồng tách riêng ra, do trực tiếp Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ đạo.
                                  Như đã nói: mùa xuân Mậu Thân 1968, Trung đoàn 209 thuộc Sư 312 được lệnh gấp rút vào chiến trường B3 Tây Nguyên, trận đánh đầu tiên tại cao điểm Chư Tan Kra. Đến nay đã qua bốn mùa khô, lúc này đang ở vào cuối mùa mưa thư tư.
                                  Hiện Mặt trận B3 Tây Nguyên của QGP do Tướng Hoàng Minh Thảo chỉ huy. Năm 1966, Quân ủy Trung ương của quân đội Bắc Việt cử thiếu tướng Hoàng Minh Thảo vào chiến trường Tây Nguyên. Nghe nói: trước ngày lên đường, ông đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp mời tới gặp và dặn: “Tây Nguyên là một địa bàn vô cùng quan trọng đối với cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Tây Nguyên không chỉ là căn cứ địa, mà sẽ là bàn đạp, là nơi phát động những chiến dịch tiến công lớn của các binh đoàn chủ lực, để tạo ra những đột biến có tính chất bước ngoặt, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược”.
                                  Tướng Hoàng Minh Thảo sinh năm 1921, tên thật là Tạ Thái An. Quê ở xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là Khu trưởng chiến khu 3, Tư lệnh liên khu 4, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông được cử làm giám đốc Học viện quân sự rồi Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên.
                                  Lại nói về Mặt trận Tây Nguyên: có dung lượng chiến trường lớn, vừa có rừng núi vừa có cao nguyên, lại là nơi có con Đường Mòn Hồ Chí Minh đi qua.
                                  Như mọi năm vào tháng cuối mùa khô sang đầu mùa mưa này, những trận mưa dữ dội có thể ập đến bất cứ lúc nào. Trên bầu trời Tây Nguyên, nhất là vùng biên giới Việt Miên Lào trong địa phận Kon Tum, Gia Lai – Từ trên cao nhìn xuống, những rừng cây của dãy Trường Sơn, đồi núi và các thung lũng bao quanh những cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng…
                                 Trước kia, khi bom đạn chưa cầy xéo lên những vùng rừng núi – Các ngày nắng đẹp, nơi đây là cả một khung trời xanh êm, thoáng gợn mây hồng. Từng làn gió nhẹ không vẩn một chút bụi nào, vuốt ve bên tai khi ta đi qua. Cho ta một cảm giác dễ chịu và thơ mộng – nhưng bây giờ, đấy là chuyện trong tưởng tượng.
                                 Lại nói về Hoàng – nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết: Sau trận đánh trên cao điểm Chư Tan Kra đó, anh bị thương phải vào viện ở hậu cứ của mặt trận Tây Nguyên điều trị. Khi vết thương lành thì trung đoàn 209 của anh đã được điều động xuống đồng bằng – Do vậy, Hoàng được bổ xung về đơn vị pháo cao xạ phòng không 37ly, trung đoàn pháo 40 trực thuộc Mặt trận B3.
                                 Thời kỳ này, do yêu cầu chiến đấu – Hoàng lại được thuyên chuyển từ trung đoàn pháo 40 về làm trung đội trưởng một trung đội súng máy cao xạ 12ly7, đại đội 4, tiểu đoàn hỏa lực D16 của mặt trận, hiện đi phối thuộc với Sư 320 từ Bắc mới vào chiến trường Tây Nguyên.
                                 Nói về sự ác liệt và gian khổ, không đâu bằng chiến trường B3 – như những người lính từng nói; “Máu của đồng đội chảy, cũng chẳng còn nước mắt mà khóc nữa”. Có sống và chiến đấu trên chiến trường B3, mới hiểu hết được sức chịu đựng và sự hy sinh của những người lính trong chiến trận.
                                 Hoàng vào đây đã qua bốn mùa khô rồi đến bốn mùa mưa. Anh cũng đã tham gia hàng chục trận đánh, nên thấm thía thía lắm! Anh đã từng chứng kiến có những trận đánh, khi người chiến sĩ bị thương phải lên bàn mổ để lấy mảnh đạn ra khỏi người… mà không có thuốc gây mê. Không chỉ ác liệt còn thiếu thốn đủ điều. Tuy nhiên dù đói khát, gian khổ, nhưng những người lính vẫn rất thương yêu nhau; nhường nhịn, san sẻ cho nhau từng viên thuốc; khi đi hành quân núi cao hiểm trở, nhường nhau từng ngụm nước, chia nhau từng hạt gạo, ngọn rau và hút chung từng điếu thuốc lào.
                                 Đơn vị mà Hoàng mới chuyển đến làm trung đội trưởng, anh em vừa đặt ba lô ở hậu cứ đã nhận được chỉ thị phải vào chiến dịch ngay – Đêm nay họ dừng chân trong một cánh rừng già, dưới chân đỉnh cao 1008. Ở đây nhìn phong cảnh thì thật hữu tình, non xanh, suối chảy róc rách, chim ca vượn hót. Duy chỉ có sinh hoạt thì thật thiếu thốn. Mới vào chiến trường mà ra trận, mỗi người mỗi ngày chỉ được cấp 5 lạng gạo, thức ăn chủ yếu là cá khô và mắm kem. Đấy là với những người đi chiến dịch, chứ còn những ai làm nhiệm vụ ở lại hậu cứ - mỗi tháng chỉ được cấp 4kg rưỡi gạo một người. Nấu nồi cơm lên, phải nhìn kỹ lắm mới phát hiện thấy hạt cơm lẫn trong sắn.
                                 Hoàng cảm thấy thương thương những người lính trẻ, mới vào chưa quen chịu đựng như anh. Sức trai tráng tuổi mười tám: phải hành quân, vác súng, đào hầm… mà mỗi bữa chỉ được hai lưng bát cơm. Bụng lúc nào cũng đói cồn cào. Mưa thì mưa dầm, nắng thì nắng đổ lửa, lại phải leo dốc ngược. Hòm đạn pháo, súng ống đè trên lưng nghiến xuống vai. Lúc thì rừng sâu núi hiểm, nhìn lên đỉnh núi dựng ngược. Khi thì qua những triền đồi bọn Mỹ rải chất độc vẫn vàng ễnh màu cỏ cháy. Nếu được lệnh hạ trại dưới một rừng cây, mắc võng nằm phải mắc theo kiểu thời chiến: kiểu như thắt nút thòng lọng, càng ngồi càng chắc, có lệnh báo động hoặc di chuyển chỉ cần với tay giật đầu dây, cuốn võng lại là có thể đi ngay.
                                 Bước vào chiến dịch này, Bộ tư lệnh toàn miền cũng như Quân ủy Trung ương ở ngoài Bắc chỉ thị: Sẽ mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam – Tây Nguyên được xác định là hướng tiến công trọng yếu. Mặt trận B3 chính là bàn đạp cho các cuộc tiến công của các mặt trận B1-B2-B4-B5… và như cách nói của các nhà quân sự về Sư 320, quả đấm thép của quân chủ lực Bộ, rằng: “Khi quả đấm thép đã tung lên, thì chiến trường phải có tin thắng lớn!”.
                                  Theo dự đoán của nhiều tướng lĩnh Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam lúc đó: Vào năm 1972 tới, các binh đoàn chủ lực của QGP sẽ mở mặt trận đánh lớn trên chiến trường, và tập trung hướng tấn công chính tại chiến trường Tây Nguyên.
                                 Dựa vào những tin tức tình báo, phía quân đội của Chính phủ VNCH cũng đã biết: Hiện Sư đoàn 320 đã vào vùng ngã ba biên giới ở địa phận Kon Tum. Bởi vậy Tướng Ngô Du - chỉ huy QLVNCH và Mỹ trên lãnh vực Tây Nguyên, một mặt cho máy bay trinh sát do thám bầu trời Tây Nguyên, một mặt thu thập thông tin về đối phương để sẵn sàng ứng chiến. Tướng Ngô Du lệnh cho Sở chỉ huy tiền phương của hai trung đoàn 42-47 QLVNCH, cùng toàn bộ lực lượng pháo binh (khoảng 10 tiểu đoàn) và chiến xa (khoảng 10 chi đoàn) Sư 22 bộ binh, di chuyển lên Tân Cảnh – Đắc Tô, Ngọc Bờ Biêng, Chư Mom Ray thuộc Kon Tum… sẵn sàng giao chiến với Sư 320 của quân chủ lực Bắc Việt mới vào.
                                  Về phía Bắc Việt đã bắt được nguồn thông tin: Quân của Chính phủ VNCH sẽ thực hiện các động thái nhằm dụ 320 QGP tiến sâu vào vùng Đắc Tô – Tân Cảnh, rồi dùng B52 ném bom hủy diệt sư đoàn này.
                                 Tại Mặt trận B3: Để phối hợp với toàn miền chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công năm 1972, Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo – Tư lệnh mặt trận, đã điều động Sư 320 gồm ba trung đoàn 52 - 64 và 48, cùng 4 trung đoàn bộ binh độc lập thuộc mặt trận, phối hợp với trung đoàn đặc công và 2 trung đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn xe tăng, 6 tiểu đoàn phòng không – trong đó có cả trung đội súng máy cao xạ 12ly7 của Hoàng thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn hỏa lực D16. Ngoài ra, còn có sự tham gia của tổng binh lực quân địa phương khoảng 2.000 người.
                                 Ngày 30.3.1972, hai trung đoàn 52-64 Sư 320 liên minh với quân địa phương, đồng loạt tấn công 5 tiền đồn phía tây sông Pô Kô… do 3 tiểu đoàn biệt động QLVNCH đóng giữ. Tướng Ngô Du vội tức tốc điều 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn dù 2 từ Tân Cảnh về các cứ điểm phía tây sông Pô Kô phòng thủ.
                                 Tướng Hoàng Minh Thảo điều 2 tiểu đoàn của E48 - F320 đánh Ngọc Bờ Biêng, còn 1 tiểu đoàn E48 phối hợp với lực lượng quân địa phương đánh Ngọc Rinh Rua.
                                Tướng Ngô Du vội điều trung đoàn 47 QLVNCH tăng cường cho Ngọc Rinh Rua và Ngọc Bờ Biêng – Đó là hai căn cứ hỏa lực trên các triền đồi phía nam Tân Cảnh.
                                 Hoa Kỳ cho cả máy bay cường kích gọi từ Thái Lan về ném bom xung quanh để bảo vệ các cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua này.
                                 Trong tháng 3 và 4/1972, hai trung đoàn 52-64 F320 liên tục tấn công hai cứ điểm Charlie (1049) và Rocket Ridge (1015) của QLVNCH phía tây sông Pô Kô ấy – Các cuộc tấn công diễn ra nhiều đợt. Pháo binh và không quân Mỹ, đặc biệt là các phi cơ AC130 Spectre có gắn súng máy ngăn chặn QGP chủ lực suốt ngày đêm.
                                 Do núi non hiểm trở, việc đưa pháo lớn vào rất khó khăn nên các trung đoàn QGP chủ lực chỉ có pháo phòng không tầm thấp là 12ly7 và 14ly5, khả năng đánh máy bay địch dù sao cũng bị hạn chế.
                                 Vào lúc 22h30 ngay11 tháng 4, trung đoàn 52 F320 đã chiếm được căn cứ Charlie, đánh Tiểu đoàn dù 11 QLVNCH thiệt hại nặng phải rút về Võ Định. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn dù là Nguyễn Đình Bảo bị tử thương.
                                 Ngày 15 tháng 4, E64-F320 chiếm được Rocket Ridge, đánh tan Lữ dù 3 QLVNCH, diệt 9 máy bay trực thăng.
                                  Mỹ đã dùng B52 hủy diệt hai cứ điểm này. Một số chiến sĩ E52 trên đồi Charlie chưa kịp rút hết, đã bị thiệt hại.
                                 Sau khi thất thủ 1049 và 1015, QLVNCH cho tàn quân rút về bổ xung mặt trận Quảng Trị và cho không vận rút về Huế. Chính phủ VNCH điều tiếp Sư 23 và Liên đoàn biệt động 6 đưa vào Kon Tum, để cố giữ vùng Bắc Tây Nguyên.
                                 Về phía QGP – Hai trung đoàn 52-64 F320 tuy đã thắng nhưng thiệt hại cũng nặng, phải tạm thời chuyển vào củng cố và giữ các cứ điểm đã chiếm đóng được.
                                 Về Trung đoàn 48 F320 được sự trợ lực của các lực lượng phảo mặt đất và súng máy cao xạ 12ly7 - tiểu cao 14ly5, tiến đánh Ngọc Bờ Biêng.
                             
                                                                                    *
                             
                                 Thực ra giờ vẫn còn là cuối mùa khô, nhưng năm nay có vẻ đã có mưa sớm. Một đoàn trinh sát dưới sự trực tiếp chỉ huy của tham mưu trưởng D16 Hoàng Khấu – Nói về tiểu đoàn hỏa lực D16 trực thuộc mặt trận, đi phối thuộc cho E48 Sư 320 để đánh cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, gồm bốn đại đội hỏa lực: Đại đội cối 82mm – Hỏa tiễn cá nhân DKB – rốc két B41 và Đại đội 4 súng máy cao xạ 12ly – 14ly5 do đại đội trưởng Quảng dẫn đầu.
                                 Đoàn trinh sát dừng lại nghỉ chân bên một khe suối trên đường tiến sâu vào cứ điểm. Một con hổ già nào đấy, theo thói quen thường vẫn tới ngồi ở bờ suối này. Nơi nó ngồi, đất đã chai cứng lại. Không ai biết con hổ thường quen lệ đến đây lúc nào? Vào những buổi chiều hoàng hôn nhợt nhạt, hay các buổi sáng khi trời đỏ rựng trên đỉnh núi. Chỉ thấy phía trước nơi nó ngồi, một đám rãi rớt đã đóng thành nhiều lớp. Những lớp cũ khô đi và mốc rêu như da con kỳ đà, đám rãi trên cùng thì còn đọng nước. Một thứ nước nhờn như nhớt của loài ễnh ương, thường thấy ở các khe suối cạn. Vết chân con hổ in đầy trên đất. Vết chân mới hằn lên vết chân cũ, thành một đường mòn. Cứ đến bên suối là con vật dừng lại, ngồi đúng vào chỗ nó đã ngồi hôm trước, rãi chảy ra đụn cao thành đống như đống mối.
                                 Đoàn trinh sát đứng vây quanh chỗ ngồi của con hổ, cảm thấy con thú vẫn còn lảng vảng quanh đây, anh nào cũng rùng mình? Bởi vậy, tuy trời đã chạng vạng tối, tham mưu trưởng Hoàng Khấu quyết định đoàn tiếp tục đi thêm một quãng nữa để tránh xa nơi con hổ thường đến, rồi mới dừng lại nghỉ chân qua đêm ở đó.
                                 Đêm của rừng già đen trũi. Mưa mỗi lúc một to, nước xối lên mái tăng chảy ròng ròng xuống hai bên võng. Suốt quãng đời chiến sĩ ngoài mặt trận, tăng võng thân thiết với họ như mái nhà quê hương. Hôm nay mắc tăng võng ở khu rừng này, sớm mai khi con nai rừng còn thẩn tha tìm đến bên dòng suối uống nước, lại vội vã tháo tăng võng hành quân tiếp qua những con núi và các khu rừng khác. Những ổ lá để nằm của một đàn lợn rừng nào đó, mùi hăng hăng và hôi còn bốc lên nóng hổi, vết chân vẫn tươi in trên mặt đất xốp… tất cả cũng trở nên thân thuộc với họ như kỉ niệm.
                                 Nằm trên võng mắc gần chỗ với Hoàng là cậu Sảng: trung đội trưởng B2. Hoàng là trung đội trưởng B1, còn Đễ là trung đội trưởng B3. Trong tiếng mưa rơi, nhưng Hoàng vẫn nghe thấy tiếng cựa mình của Sảng… rồi rên hèm hèm trong cổ, chẳng khác nào tiếng khịt khịt của một con lợn rừng. “anh chàng vẫn chưa ngủ được?” – Hoàng nghĩ thầm trong bụng nhưng vẫn nằm im. Sảng cất tiếng gọi nhỏ:
                            -  Ngủ chưa Hoàng?
                            -  Ngủ rồi!
                                 Hoàng trả lời Sảng rồi bật cười trong đêm tối. “Chắc là lại nhớ mẹ thằng cu, nên mới không ngủ được chứ gì?”.
                            -  Kể thì cũng nhớ…
                                 Sảng trả lời, mắt nhìn lên mái tăng. Cơn mưa vẫn còn mạnh. Nước từ thân cây đã bắt đầu ngấm vào đầu dây võng. Sảng thì thầm tâm sự:
                            -  Nhiều lúc nhớ con đến phát cuồng lên được.
                            -  Thế, vợ không nhớ à?
                                  Sảng vội vàng thanh minh:
                            -  Nhớ! Nhớ lắm chứ, nhưng… à, mà ông chưa có vợ con, chắc không có tâm trạng như tớ?
                                 Hoàng vặn lại Sảng:
                            -  Ngoài vợ con ra, không còn ai đáng nhớ chắc?
                            -  Không, mình không muốn nói như vậy.
                                 Sảng xuýt xoa xin lỗi và nói tiếp:
                            -  Nghe nói chiến dịch này còn kéo dài suốt mùa mưa đấy!
                            -  Có thể còn kéo dài sang cả mùa mưa sang năm.
                                 Giọng Hoàng bỗng trở nên tư lự:
                            -  Anh em ở hậu cứ gặt lúa chắc cũng sắp xong.
                            -  Bây giờ mà được mấy lon gạo nếp nương, làm ống cơm lam thì tuyệt!
                                 Bỗng Sảng nhảy ra khỏi võng kêu lên: “Lưng tớ ướt sũng hết rồi!”.
                            -  Ai bảo cậu không làm cọc giả, chống mưa?
                                 Hoàng cười.
                            -  Thì từ sáng đến tối không mưa, cứ tưởng ông giời sẽ cho tạnh ráo cả đêm.
                                 Sảng lấy tấm vải mưa trong ba lô treo ở phía dưới chân, cuốn tròn vào người rồi lại nhảy lên võng nằm. Anh chàng nói có vẻ khoái trá:
                            -  Bây giờ thì bất chấp mưa. Nước mưa có chảy vào võng tớ như suối, tớ cũng mặc.
                                 Cách đấy vài bước đã nghe thấy tiếng ngáy của Đễ, phì phò như kéo bễ.
                            -  Cái tay Đễ này?
                                 Tiếng nói của quản lý Chu nằm cách đó cũng không xa lắm:
                            -  Người bằng một mẩu mà ngáy đến to.
                                 Chu nói tiếp: “Áp sát địch mà đi với tay Đễ này, có bận thiệt mạng”.
                                 Cậu chiến sĩ trinh sát mắc võng nằm phía ngoài đại đội trưởng Quảng, gọi giật giọng:
                            -  Anh Chu ơi!
                            -  Gọi gì thế ông trẻ?
                                Chu làu bàu mắng.
                            -  Mai phát cho hai đứa trinh sát chúng em thêm ít muối để giã vào giềng, làm thức ăn khô ăn cơm nắm buổi trưa nhé?
                            -  Ông trẻ lấy muối ăn độn hay sao mà dữ thế?
                                 Nghe anh quản lý mắng vậy, nhưng cậu chiến sĩ vẫn không hề mếch lòng. Ở C4 này, còn ai lạ gì tiếng ông Chu kỹ tính? Nhưng thực ra anh ta lại rất dễ. Cậu trinh sát vẫn nài nỉ:
                            -  Thôi mà anh Chu! Hai đứa trinh sát chúng em cũng phải được ưu tiên một tý chứ? Thiếu muối, cổ đã lên tràng hạt rồi đây này.
                            -  Tiêu chuẩn mỗi một tháng chỉ được sáu lạng muối một đầu người. Thế mà mới có hơn mười ngày, các tướng đã xơi hết tiêu chuẩn?
                                 Quản lý Chu tiếp tục dậy bảo mấy cậu trinh sát:
                            -  Các cậu không thấy à? Đến bếp ăn của cả đại đội, nấu canh cũng không dám cho muối, chỉ dành muối để xào măng. Đi trinh sát đã được ưu tiên hơn anh em ở hậu cứ rồi, ăn cơm nắm cũng đừng chấm muối bỗ bã quá!? Phải biết tiết kiệm một tí, ăn lẹm vào cả số muối dự phòng rồi đấy!
                                 Đại trưởng Quảng giục họ đi ngủ, mai còn hành quân sớm.
                                 Cứ thao thức giữa rừng mưa, Hoàng miên man suy nghĩ. Trong đầu anh, hồi ức về những năm tháng đã qua trên chiến trường Tây Nguyên, hiện về như một cuốn phim. Sau trận đánh Chư Tan Kra hồi mùa xuân Mậu Thân 1968 đó, anh bị thương phải đi viện điều trị mất hơn ba tháng. Khi vết thương ổn định thì trung đoàn 209 của anh đã được lệnh điều động xuống chiến đấu ở chiến trường B2. Anh được bổ xung về trung đoàn pháo 40.
                                  Mấy năm sau đó, đánh liên miên hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Nào là, đánh chiếm cứ điểm Kleng, diệt Tiểu đoàn 62 QLVNCH, áp sát phía tây Kon Tum; đánh Ngọc Tu Ba; Ngọc Rinh Rua; Chư Nghé; Đức Cơ; Plâyme… Đến tháng 3 năm 1970, đánh tiểu khu Plâycần thì QGP bị thiệt hại nặng phải rút về hậu cứ củng cố.
                                 Vào mùa xuân 1971, trung đoàn pháo cùng với các sư đoàn bộ binh chủ lực QGP liên tục bắn phá thị xã Kon Tum. Mục tiêu đánh mạnh nhất là công kích sân bay Phượng Hoàng bằng nhiều loại pháo: pháo mặt đất 130mm, 122mm và hỏa tiễn H12, pháo cao xạ phòng không…
                                 Anh còn nhớ giai đoạn đánh vào thị xã Kon Tum, chiến sự xẩy ra rất ác liệt – Đó là vào tháng 5 năm 1971, có ngày địch thả đến 75 lần B52 rải thảm, hơn 100 lần chiếc loại cường kích A37 và AD6, đến hàng nghìn quả bom vào những khu vực QGP đã làm chủ hoặc đang tranh chấp. Sau chiến dịch 1971, anh lại được điều động về C4 Tiểu đoàn hỏa lực D16 này.
                                 Chiến trường Tây Nguyên ngay từ mùa khô cuối năm 1968 thật sự đã rất khó khăn rồi: Đường vận tải lương thực, súng đạn từ Bắc vào bị địch bắn chặn. B52 và máy bay cường kích ném bom rất ác liệt. Mặt trận vừa đói vừa thiếu súng đạn, hầu như đến mức kiệt quệ. Bộ đội phải ăn toàn măng và rau rừng. Lính chết vì bệnh tật cũng nhiều, nhất là bệnh sốt rét.
                                 Theo chỉ thị của Bộ tư lệnh mặt trận, đơn vị phải để hẳn một bộ phận đi hàng tháng ròng sang Căm Pu Chia tải đạn, gạo về. Đường về bị B52 rải thảm khốc liệt. Sau đó mới có chủ trương phát nương trồng lúa, trồng sắn – Chiến trường tự cung cấp lương thực cho mình. Lúc đó quân B2 ở đồng bằng , lính tráng có vẻ ung dung hơn. Họ có gạo, có cả tiền của Chính phủ VNCH để tiêu. Họ gọi các chiến sĩ trên chiến trường B3 Tây Nguyên là “loại lính mọi rợ” cũng vì thế!
                                 Hoàng nhớ, thời gian khi vừa ăn xong cái tết 1970 – Có một trận đánh, Mặt trận B3 giao cho Tiểu đoàn 30 thuộc Trung đoàn pháo 40 của anh, chi viện cho Trung đoàn 66 bộ binh vây ép 1 tiểu đoàn lính dù Mỹ ở Plâycần. Lúc tiếp cận trận địa vào một đêm trời tối như bưng, đường rừng đi toàn đá lởm chởm. Trận đánh diễn ra nhiều ngày vô cùng cam go. Địch rải nhiều đợt B52, một lần trúng đội hình E66, bộ đội chết la liệt.
                                 Trời vừa sáng, khi đơn vị đang phải làm công tác thương binh, tử sĩ để chuyển về tuyến sau, thì bất ngờ một đại đội Mỹ da đen từ đâu ập đến. Trung đoàn 66 lại phải dàn quân đánh, rồi ta cũng đánh cho đại đội Mỹ da đen ấy tan tác, tàn quân còn sót lại của chúng phải tháo chạy vào cứ điểm. Trận đó, đồng chí đại đội phó của đơn vị Hoàng bị trúng bom napan, cháy bỏng cả người rất nặng. Anh vẫn rất kiên cường, chỉ huy đại đội cho tới lúc quị hẳn. Tải thương đưa về được đến trạm phẫu của mặt trận, thì anh ấy hy sinh không cứu nổi.
                                 Những ngày sau lương thực cũng hết – Quân chủ lực Bắc Việt phải đào kiếm củ mài, rau rừng ăn độn thay cơm. Lúc đó, Mỹ lại đổ thêm 1 tiểu đoàn lính dù Hoa Kỳ nữa xuống cứ điểm. Trên đành phải cho lệnh rút lui.
                                 Trên đường rút về, có đồng chí y tá của trung đoàn đi đào củ mài, lúc cúi lấy củ mài gục xuống chết luôn không dậy được nữa. Ăn măng rừng, mộc nhĩ, rau tàu bay, môn ngứa… tất cả nháo nhào, đều phải nấu lên mà ăn chống đói. Ngứa móc họng cũng phải ăn. Người ta bảo: Bộ đội kiếm lá ăn trụi cả rừng.
                                 Có lần hành quân, lính đói quá… tối vẫn phải mò vào rừng đào sắn, lấy măng. Trời mưa to bị lạc mất đường, phải đốt cả dép cao su để lần đường bò về chỗ chốt.
                                 Đêm rừng Tây Nguyên vẫn mưa tầm tã. Hoàng nằm miên man suy nghĩ, như thể nó vừa mới hôm qua. Anh không khỏi rùng mình. Nghĩ đến bao đồng đội đã ngã xuống, lòng anh lại trào lên nỗi xót xa.
                                 Hoàng lại xốn xang nhớ về quê hương! Bao hình ảnh thương mến với bạn bè cùng những người thân, và với Thu của anh? Lòng anh bồi hồi một cách lạ thường. Thời gian đưa người ta xa dần nơi mình đã sinh ra. Sự xa cách ấy làm sống lại đủ điều: một tiếng rao đêm của người bán bánh bao, bánh khúc trong đêm Hà Nội; những tiếng xe lúc lắc, hay tiếng chổi khua của quét rác đêm; đến một mảng tường chùa đã mốc rêu xanh…Quá khứ như đứng dậy choáng ngợp trong tâm hồn Hoàng.
                                 Thực tại là ác liệt và khốn khổ? nhưng thiếu những kỉ niệm về quá khứ ấy, tưởng chừng như linh hồn trống trải và nghèo đói – Đó chính là tâm trạng của những người lính ngoài mặt trận.
                                 Bốn mùa mưa ở Tây Nguyên, Hoàng mới chỉ nhận được hai lá thư của Thu. Anh vẫn thường xuyên viết thư về cho người bạn gái, sau mỗi chiến dịch về hậu cứ. Không biết Thu có nhận được hết không?
                                 Anh lại chạnh lòng nghĩ về người con gái Mường ở Hòa Bình? Anh thấy mình vừa có lỗi với Thu, vừa có lỗi với cô gái bản – Người ta không thể lẩn tránh được chính mình. Nhưng giờ có tự trách mình thì mọi chuyện đã rồi! Anh lại tự nhủ: “Thôi! Chiến tranh, tất cả sẽ xóa nhòa… em sẽ quên đi” – vì thế, anh đã không viết thư về cho Mỵ.
                                 Với người con gái bản, anh từng tự hỏi: Liệu có lúc nào mình đã yêu chưa nhỉ? Anh không thể không thừa nhận: hương vị và tình cảm của người con gái Mường ấy như làn gió thơm xoa mát lên tâm hồn anh. Tình cảm cô như chén nước trong muốt và tinh khiết. Mỗi khi hồi tưởng, Hoàng vẫn còn thấy lòng mình xôn xao – Nhưng rõ ràng, ranh giới giữa tình cảm của anh với cô và với người bạn gái thủa thiếu thời, có những phân cách rất khác nhau. Còn sự phân cách khác nhau thế nào? thì anh cũng chỉ cảm thấy, chứ không thể giải nghĩa được một cách rõ rệt.
                                 Khi triết lý về tình yêu, mọi sự so sánh đều trở thành khập khiễng và mâu thuẫn? Ta không thể mượn ngôn ngữ để thiết lập ra một công thức hay khuôn mẫu nào đó, mà định cho nó một qui tắc. Nó không giống như nhà toán học khi phát biểu một định lý, được rút ra từ một phép phối hợp tài tình, trong sự phát triển của khoa học tự nhiên.
                                Thế là nằm trong đêm mưa giữa chiến trường, tâm trạng Hoàng trở nên bối rối. Tuy vậy, anh vẫn khẳng định trong mình rằng: chỉ có Thu là tình yêu đích thực của trái tim anh! Anh không thể sống thiếu cô.
                                 Từ xa, một loạt súng trung liên AR15 của Mỹ ở cao điểm Ngọc Bờ Biêng bắn vọng đến, xé toang sự tĩnh mịch của đêm rừng già. Sảng chợt thức giấc, thấy Hoàng vẫn trở mình trên võng, liền hỏi:
                            -  Hoàng vẫn chưa ngủ à? Khuya rồi đấy! Phải ngủ đi chứ, mai còn xuất phát sớm.
                            -  Cũng muốn nhắm mắt mà ngủ, nhưng lại thấy tiêng tiếc thế nào ấy!
                                 Hoàng nằm nghiêng người trên võng quay về phía Sảng, anh nói tiếp:
                            -  Nhiều đêm tớ thèm mơ một giấc mơ đẹp, sáng mai dậy thấy mình thật tỉnh táo.
                            -  Ừ, cuộc sống của những người lính chiến đầy những sự khốn khổ và hy sinh, ai cũng thèm những giấc mơ đẹp, những kỉ niệm thân thương ở quê hương… trở thành những liều thuốc bổ dưỡng tinh thần.
                                 Sảng nói vậy rồi lại giục Hoàng:
                            -  Nhưng thôi, phải ngủ đi ông bạn! Cuộc chiến nghe chừng còn khốc liệt lắm! Hồi ở Bắc đã cứ tưởng, không vào mau thì giải phóng đến nơi, sẽ chỉ nhặt ống bơ rỉ? vào đến chiến trường, đánh nhau rồi mới biết…
                                  Sảng khẽ thở dài: “mà thôi, ngủ đi! Phía trước là chiến trận chứ không phải là những giấc mơ…”.  
                                 Chỉ một loáng, đã nghe thấy tiếng ngáy đều đều của Sảng. “Hắn vô tư thật” – Hoàng nghĩ vậy. Trời đã về khuya, các đồng chí của Hoàng đều đã ngủ say, chỉ còn hai người lính gác trong đêm thì vẫn thức. Qua kẽ lá rừng, Hoàng nhìn lên một khoảng trống, cơn mưa nhạt dần. Những vì sao sáng láng lại hiện lên trên nền trời xanh ngắt.
                                  Cơn mưa dứt, những con thú đã ra rừng để đi kiếm ăn. Tiếng một con nai đực gọi con nai cái. Giọng của nó mỗi lúc một khàn, như thể nó đã gọi rát cổ mà bạn gái của nó chưa chịu đến? Ở quãng rừng gần đấy, có con nai cái nào đó đang hít… hít… những ngọn lá non còn mát những giọt nước mưa - nghe tiếng con đực gọi, vểnh tai lên nghe ngóng? Dáng chừng còn tiếc rẻ cái vị chát và ngọt của lá, nên lại cúi xuống ăn tiếp. Bỗng nó nhảy té lên, chạy miết lại nơi con nai đực đang gọi.
                                 Có con chim nhỏ ngủ quên, ngã chúi xuống một cành cây thấp. Nó kêu choe chóe rồi đi lần lần mấy bước, rúc đầu vào một đám lá gần đấy, ngủ tiếp. Đêm đó cũng được coi là một đêm yên bình của đoàn trinh sát. Hoàng chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết.
                             
                             
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.09.2020 13:31:29 bởi Nhân văn >
                            #29
                              Nhân văn 16.09.2020 13:34:51 (permalink)
                                                                      26-
                               
                                   Sáng sớm hôm sau, đoàn trinh sát D16 tiếp tục xuất phát tiến gần về phía cứ điểm Ngọc Bờ Biêng. Hành quân đến xế trưa, họ leo lên một ngọn núi có tên là “nghìn không lẻ một” (1001). Đứng trên đỉnh 1001, có thể chiếu ống nhòm quan sát những hoạt động của địch trên cao điểm Ngọc Bờ Biêng, với khoảng cách 1km đường chim bay.
                                   Tham mưu trưởng Hoàng Khấu trải tấm bản đồ lên mặt đất, nói với các cán bộ và chiến sĩ trong đoàn:
                              -  Đây là nơi chúng ta đang đứng!
                                    Ông chỉ tay lên bản đồ: “… và chỗ có đánh dấu chữ thập (+) đỏ này, chính là cao điểm Ngọc Bờ Biêng mà các đồng chí đang nhìn thấy.”.  
                                   Ông giơ tay chỉ về phía cao điểm, tiếp tục nói:
                              -  Từ 1001 này, đi theo con đường yên ngựa dài hai cây số đường vòng, các đồng chí sẽ đến một khu đồi thấp, có tên là “mắt ngỗng” – Đấy là hướng chính diện để tiến vào cao điểm. Hướng mà Tiểu đoàn hỏa lực D16 ta trợ lực cho hai tiểu đoàn E48 bộ binh của Sư 320, mũi chủ công đánh lên đồi A – còn Tiểu đoàn 3 E48 cùng với quân địa phương, đánh hướng thứ yếu lên hai đồi B và C.
                                   Tham mưu trưởng Hoàng Khấu diễn đạt tỉ mỉ:
                              -  Theo như trinh sát bám địch báo về, con đường “mắt ngỗng” thỉnh thoảng vẫn có những tốp thám báo địch đi tuần tra qua. Bởi vậy, chúng ta phải hết sức đề phòng để không bị lộ.
                                     Ngọc Bờ Biêng là một cụm cứ điểm kiên cố, án ngữ phía nam vào Thị trấn Tân Cảnh. Theo quyết định của Bộ tư lệnh B3: Trong chiến dịch này, bộ đội chủ lực hợp với quân giải phóng địa phương phải đập nát cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua… chọc thủng phòng tuyến Tân Cảnh – Đắc Tô, tiến đến giải phóng Kon Tum – làm bàn đạp cho toàn mặt trận, để giải phóng Tây Nguyên, Nam Bộ.
                                   Tham mưu trưởng Hoàng Khấu gập tấm bản đồ lại, căn dặn rất cặn kẽ: Đã hai mươi năm nay, Ngọc Bờ Biêng là một trong những cụm cứ điểm làm tổn hại rất nhiều xương máu QGP, nhưng ta chưa bao giờ chiếm được. Ông nhấn mạnh:
                              -  Để đảm bảo thắng lợi, chúng ta phải có công tác trinh sát và chuẩn bị thật chu đáo. Như Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh trưởng Mặt trận B3 vẫn nói: “Kế hoạch tác chiến càng công phu kỹ lưỡng bao nhiêu, thắng lợi càng dễ bấy nhiêu. Thế trận càng phức tạp, thì tình huống càng diễn ra giản đơn”.
                                   Kon Tum chính là cửa ngõ để đi vào Tây Nguyên. Thọc qua Kon Tum và Buôn Ma Thuột là có thể khống chế được hoàn toàn Tây Nguyên – Mà Tây Nguyên là yết hầu của cả chiến trường miền Nam. Một khi đã làm chủ Tây Nguyên, có thể đưa quân chủ lực miền Bắc kết hợp với QGP miền, tràn xuống tiến công đánh vào các vùng đồng bằng và thành phố.
                                    Hoàng và đoàn trinh sát đứng trên đỉnh 1001 nhìn về phía cứ điểm Ngọc Bờ Biêng – Nơi mà cả Tiểu đoàn hỏa lực D16 của anh cùng với Trung đoàn 48, sắp tới sẽ tắm mình trong máu lửa. Giây phút này nhìn lên, bầu trời Tây Nguyên sáng và cao. Cơn mưa đêm đã dứt từ sáng sớm, mặt trời lại chiếu chứa chan lên các thảm rừng. Đồi núi và thung lũng bao quanh cứ điểm, khung trời xanh êm thoáng gợn một chút mây hồng.
                                    Mặc dù thỉnh thoảng vẫn có vài chiếc máy bay trinh sát OV10 hay L19 bay vè vè trên đầu, nhưng mặc nó. Trung đội trưởng Hoàng bỗng nhiên lại nhớ đến bài hát “Tây nguyên! Ai một lần đi qua đó”:
                                                  Tháng 3 mùa con ong đi lấy mật
                                                  Mùa con voi xuống sông uống nước
                                                  Mùa em đi phát rẫy làm nương…
                                    Mặc dù bây giờ đã là tháng tư rồi. Nếu không có chiến tranh thì Tây Nguyên đẹp và mơ mộng biết bao nhiêu. Chỉ có những ai đã từng đi qua cuộc chiến như anh và các đồng đội hôm nay, được thấy cả mùa hoa dã quỳ nở vàng rực ngay trong bom lửa, mới thấm thía câu hát:
                                                  Tây Nguyên! Ai một lần qua đó
                                                  Suốt cuộc đời nhớ lại vẫn thương nhau…
                                    Hoàng đã đi qua bốn mùa hoa dã quỳ nở vàng rực Tây Nguyên, bốn mùa con ông đi lấy mật. Những địa danh ở Kon Tum như Chư Mom Ray, Kleng, Ngọc Tu Ba, Gia Lai… rồi những dòng sông Pô Kô, Sa Thầy… những con đường quốc lộ số 7, 14, 18, 21… từng in dấu chân những người lính mặt trận như anh, với những trận đánh máu lửa. Nhưng cũng chính ở đây – trên mặt trận Tây Nguyên ác liệt và gian khổ này, đã gắn kết những người lính trận lại với nhau, thương nhau như máu thịt. Dù đói khát họ vẫn san sẻ, nhường nhịn nhau từng lưng cơm, củ sắn, nhúm muối. Chia nhau từng viên thuốc sốt rét. Dành nhau từng ngụm nước trong các cuộc hành quân, hút chung cả đồng đội một điếu thuốc lào, một hơi thuốc lá miên – vẫn nghe thấy những tiếng cười ròn tan giữa bom đạn chiến trường.
                                    Đoàn trinh sát truyền nhau chiếc ống nhòm nhìn về phía Ngọc Bờ Biêng: Một cụm cứ điểm gồm ba khu đồi lớn, đứng thành thế chân kiềng bảo vệ lẫn nhau. Khu đồi A – cứ điểm chính diện gần họ nhất, trung tâm của cụm cứ điểm là một đỉnh núi dốc ngược. Mũi chủ công của Trung đoàn 48 và D16 muốn đánh cứ điểm này, phải vượt qua một cái vực sâu hun hút như địa ngục. Chỉ có một con đường tương đối bằng phẳng nối liền cao điểm với Mắt Ngỗng - Ở tuyến này, địch phòng thủ rất vững chắc. Có những năm, các tiểu đoàn bộ binh của QGP bất ngờ từ dưới vực đánh lên cứ điểm, đã phải trả một giá rất đắt mà vẫn không chọc thủng được tuyến phòng ngự của địch.
                                    Bên trong cái vỏ lạnh lùng của cứ điểm kia, những trận chiến nóng bỏng và ác liệt đã từng diễn ra. Những trận chiến mù trời khét lẹt mùi bom đạn, và mùi da thịt của những người lính trận cả hai bên. Chiến tranh là vậy!
                                    Hoàng lại chạnh nghĩ tới những người đồng đội của anh: bao chiến sĩ gương mặt còn thật trẻ, nhiều anh vừa mới rời ghế nhà trường, dáng như các thư sinh. Giờ đây họ đã thành những người lính trận cảm tử… và chỉ ít ngày nữa thôi, có người sẽ phải nằm xuống vĩnh viễn, không bao giờ trở về nơi mảnh đất mình đã sinh ra được nữa. Hôm nay họ vẫn tươi cười với anh, nhưng ngày mai… chỉ còn lại trong kí ức. Có thể đó là một kí ức ghê người, khủng khiếp? và biết đâu, cả anh nữa liệu có qua được trận chiến tới không? Không ai trả lời được điều đó!
                                    Tiếng tham mưu trưởng Hoàng Khấu chậm rãi:
                              -  Cùng phối hợp với Trung đoàn 48 và Tiểu đoàn 16 của ta để đánh Ngọc Bờ Biêng này – các trung đoàn chủ lực mặt trận sẽ đồng loạt tiến đánh Pleicần, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba…
                                    Ông dừng lại giây lát:
                              -  Sau khi ta chiếm được Ngọc Bờ Biêng rồi, Trung đoàn pháo 40 của mặt trận sẽ tiếp quản trận địa pháo trên cao điểm của địch, dùng chính những họng pháo của chúng bắn thẳng vào các căn cứ quân sự của QLVNCH ở Tân Cảnh – Đắc Tô. Nghĩa là, dùng pháo địch để diệt địch!
                                    Giọng người tham mưu trưởng dằn xuống, chắc nịch như thể chiến thắng đã nằm trong bàn tay của ông:
                              -  Khi đó các trung đoàn bộ binh khác như E52, 64, 66 cùng phối hợp với các Tiểu đoàn pháo 30, 31… tràn qua Ngọc Bờ Biêng vào đánh Đắc Tô – Tân Cảnh, hợp lực với QGP địa phương ở dưới đấy – Sau đó, tất cả cùng tiến công vào chiếm thị xã Kon Tum.
                                    Lúc này, họ nhìn thấy mấy chiếc trực thăng Huê Kỳ bay đến, hạ cánh xuống cao điểm A trong Ngọc Bờ Biêng. Chúng tiếp tế lương thực, đồ hộp, nước uống và cả gái điếm cho những tên sĩ quan QLVNCH với mấy tên cố vấn Mỹ.
                                    Nghỉ ngơi một lúc, đoàn trinh sát D16 lại tiếp tục xuất phát. Họ rời đỉnh 1001, cắt tọa độ xuyên rừng tiến về phía Mắt Ngỗng – Nơi mà họ sẽ cho quân đến chiếm lĩnh trận địa, chuẩn bị đánh Ngọc Bờ Biêng.
                               
                               
                               
                               
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 53 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9