Những mảnh đời - Tuyết Minh
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 34 bài trong đề mục
frank 18.11.2022 01:31:53 (permalink)
 
 
17-   Ghen

 
 
Nói đến chữ ghen có nhiều kiểu, nhiều cách. Ghen bóng, ghen gió, nhẹ nhàng thôi, ghen tức tối quá đến phát điên, phát cuồng. Có khi ức quá đến ngất lịm đi cả giờ, ghen bồng bột phải nói ra, nhẹ thì nói cạnh nói khóe, nói xa nói gần ám chỉ người mình ghen, tệ hơn, đặt điều nói xấu, kéo bè kéo cánh chỉ trích người ta.
 
Ghen gì mà nhiều thế: ghen người ta đẹp hơn mình, giỏi hơn, thành công hơn, giàu có hơn, cửa hàng buôn bán sầm uất hơn, nhà lớn hơn, xe đẹp hơn, ăn mặc trang sức đồ mắc tiền, bất luận thứ gì người ta hơn mình cũng phát sinh lòng ghen. Có khi ghen cả với những người đạo đức có lòng tốt hay làm việc xã hội giúp đỡ tha nhân được nhiều người quý mến, đưa rước, ca ngợi. Đã ghen tất ghét đi với nhau. Có khi ghét cả đến bố mẹ, các con của người hơn mình. Những thứ ghen kể trên có thời gian rồi thôi. Như ở xa ít khi gặp, lâu ngày không ai nói tới, hay nói chán không có người hưởng ứng sẽ thôi.
 
Ước gì những người hay ghen biết giữ bình tĩnh, suy nghĩ một chút hay đặt những người hơn mình làm đối tượng tìm hiểu để kích thích, cố gắng bắt chước tiến tới sẽ bằng hay hơn người thì lúc đó xã hội mới có cơ thăng tiến.
 
Còn thứ ghen ghê gớm, nguy hiểm hơn các thứ ghen kể trên là ghen về tình. Khi yêu không được đáp ứng, ghen với người được yêu. Nhiều người tỉnh ngộ khi không được yêu, cũng khổ chút ít ban đầu rồi đi tìm tình yêu khác, khó gì đâu! Còn một số kém nhận xét đổ ghen tương lên đầu người được yêu, tìm cách gây sự hạ nhục được tình địch, có dịp cho người đàm tiếu chẳng lợi ích gì.
 
Đau đớn hơn là những cặp vợ chồng lấy nhau, yêu nhau, đang sống hạnh phúc nhưng chỉ vì công việc, nghề nghiệp phải giao thiệp với người khác phái, có cơ hội, sẵn môi trường, thêm ma đưa lối quỷ đưa đường đã lỗi đạo vợ chồng. Lòng thủy chung tạm thời cất một chỗ, dấu vợ, dấu chồng, đi ăn chè nên mới có những cuộc đánh ghen, bắt ghen như các trường hợp điển hình ngày xưa. Thời cận đại trong Nam nổi tiếng có cô Quờn đổ xăng đốt chồng, ngoài Bắc ông huyện Trường tham sang bỏ người yêu đã nuôi mình ăn học thành tài bị 18 nhát dao thái thịt. Ở Sàigòn, vụ vũ nữ  Cẩm Nhung bị hủy sắc đẹp vì bị tạt nước cường toan. Còn nhiều cảnh đánh ghen tàn nhẫn có thương tích, kết cục kẻ chết hay bị tàn tật, kẻ vào tù tan nát gia đình không được lợi chút gì mà cái ghen tức vẫn không giải tỏa được.
 
Một nhà cách mạng đầy lý tưởng, yêu nước, yêu đồng bào, trên bước đường lữ thứ tạm thời dừng chân một nơi chốn, gặp nàng, mê nàng. Đi đâu, ở đâu vẫn mang nặng một bông hồng yêu kiều nhỏ bé, dịu dàng, có hồn thơ, lãng mạn, giỏi đàn hát. Nhưng muốn xây dựng với người yêu phải chịu một điều kiện: từ bỏ người vợ cả như ý đàng gái đòi hỏi.
 
Lần này trở về nhà, chàng quyết liệt từ giã người vợ nhà quê mà cha mẹ đã cưới hỏi cho chàng, người vợ mà chàng đã chung sống, yêu vợ cho tới lúc nghe tiếng gọi non sông đành dứt áo ra đi. Quy cố hương, thăm phần mộ, thăm mẹ cha, thưa với song thân và từ giã người vợ vì không muốn dối gạt.
 
Tới nhà, chàng vừa để hành lý xuống cũng là lúc vợ chàng vừa đi làm ngoài đồng về. Nàng gặp chồng mừng mừng tủi tủi lại vừa xốn sang e thẹn. Nhìn người vợ lam lũ trong bộ quần áo phai bạc, rách vá qua mấy câu hỏi thăm lẫn nhau, vợ chàng đã tất tưởi lo cơm nước, thu dọn hầu hạ bố mẹ chồng chu tất.
 
Nhìn ánh mắt cha mẹ vui vẻ về con dâu, chàng khựng lại, trong lòng nổi lên niềm cảm thương ân hận dâng lên trong lòng, chàng hiểu rằng mình có lỗi. Đêm ấy chàng đã xin lỗi người vợ tào khang, nàng chỉ cười không hề lục vấn lỗi chàng ra sao, nàng biết chồng nay đây mai đó khỏi sao có lúc vướng mắc trong lúc cô đơn, đang theo đuổi lý tưởng, nếu nàng tỏ ý ghen dằn vặt, cũng không giữ nổi chồng mà có thể làm cho chồng khó chịu cho rằng vợ mình nhỏ nhen thiếu tấm lòng bao dung và sẽ không còn muốn trở về gặp vợ như thế chỉ có mình bị thiệt.
 
                                   ***
 
Sau ngày 30-4-75 biết bao gia đình đau khổ chia ly, thương nhớ cũng đành cắn răng, chồng đi trước, hay vợ mang con đi trước với hy vọng sẽ xum họp gặp lại nhau ở đất tự do. Chẳng có ai tính trước hay học được chữ ngờ. Một mệnh phụ phu nhân có tài buôn bán vì công việc luôn luôn di chuyển, ông chồng công chức lương đủ ông tiêu xài theo lời ông, bà cũng chiều ông để cho ông hoa lá chút ít không sao vì bà làm ra nhiều tiền, bà chỉ cần người ta nể vì chức tước của ông. Khi chạy nạn bà còn mải lo đi thu tiền, hối ông đem cậu con trai lớn đi trước, bà sẽ đi sau với con gái nhỏ, khi tiễn chân xuống tầu bà gặp bà bạn cùng đi một chuyến tầu, nhưng tự tin còn làm ra tiền đi đâu ông cũng cần  có bà, bà yên trí trở về đi chuyến sau.
 
 Cách mấy tháng sau ông ra phi trường đón bà có cả cậu con trai, em gái ông lại cả bà bạn gái ngang nhiên đứng cạnh ông, bà chưa hiểu ra sao, người em gái ông kéo chị dâu ra nói nhỏ và mời bằng được đưa chị dâu và các cháu về nhà em gái của ông, để gỡ thế bí cho anh, con trai kể lại ở với bố và dì ghẻ đi học về đói bụng gặp lúc dì đi vắng, tới tủ lạnh đã được giấy niêm phong không được lấy đồ ăn, chỉ có ăn bánh mì, cơm nguội uống nước lã. Bà có ngờ đâu trong khi đi công việc vắng ở nhà người chồng cũng là bạn học trước kia đã cùng người bạn gái của bà khéo nói khéo chiểu âm mưu lừa dối bà.
 
Khinh dã tâm của bạn và sự nhu nhược của chồng, bà đặt niềm tin vào các con tái tạo cuộc đời bên các con đã thành công. Ngày cậu con  trai ra trường với bằng bác sĩ y khoa, bà để con trai mời bố đến dự. Ông bố với vẻ mặt ngượng ngập không dám nhìn bà đang hưởng hạnh phúc bên các con đã thành công, bà không nhắc đến việc đã qua, hiểu ông đang hối hận vì tội phản bội vợ con, còn bị hàng ngày cong lưng làm nuôi vợ hai và lũ con riêng của nàng. Cũng là một cách ghen trả thù người chồng bội bạc.
 
                             ***
 
Ở trong tù ai mà không thương vợ nhớ con, mỗi khi được thăm nuôi vui thích không vì có đồ ăn tiếp tế mà còn mong muốn được gặp mặt vợ bây giờ không còn vẻ tươi  trẻ,  đẹp để biến mất đã đổi sang  nét mặt khắc khổ lo âu, đen đủi xấu xa, lam lũ chạy ngược chạy xuôi mới có đồ tiếp tế cho chồng. Lòng ông chùng xuống xót xa, thương biết mấy người vợ trẻ vì lo cho chồng mà thành thân tàn xấu xa già trước tuổi. Ngày ông được về đoàn tụ mừng chưa thỏa, vợ chồng lo xa sợ ông bị bắt lại, bà lại một phen chạy vay giật gấu vá vai đi vay đi mượn cho đủ số tiền mua một chỗ cho ông xuất ngoại trước, cầu mong ông đi thoát hiểm tới nơi tự do đi làm kiếm tiền gửi về để trả nợ và mua chỗ cho mẹ con bà đi sau.
 
Ông tới nơi tự do bình an, có việc làm thảnh thơi, vật chất tiện nghi đầy đủ, nhưng im vắng quá nhớ nhà nhỏ vợ nhớ con thui thủi một mình, trẻ chưa qua già chưa đến, đợi chờ vợ con mỏi mòn con mắt lại thêm tối xem truyền hình, sách báo như khuyến khích phơi bày để kích thích, ở vào nơi thừa tự do thiếu luân lý.
 
Đi chợ đi làm lại hay gặp các bà có trường hợp như chồng còn ở tù, mất tích v.v.., đồng cảnh tương lân, rủ nhau góp gạo thổi cơm chung nương tựa nhau lúc tắt lửa tối đến chờ ngày vợ con, chồng con tới, chúng ta sẽ chia tay, lúc  đầu người ta đều có lòng tốt hiếu tình cảnh nhau, với tấm lòng cao thượng trong sáng. Khốn thay cái ngày xum họp của ông, của bà mong chờ biết đến bao giờ. Xa mặt cách lòng, cái sự yêu thương thuở ban đầu ấy dần dần tàn phai.
 
Không ngờ chương trình đoàn tụ kẻ trước người sau cũng đến lượt và vợ của ông, chồng của bà tới đoàn tụ. Ông cứ ngay thẳng nói cho vợ biết trước ông đang sống chung với một bà. Ông còn bàn tính trong lúc đầu chưa có chỗ dung thân, chưa có công việc phải tá túc với người đàn bà đến sau này vì người đi trước đã có sẵn nhà cửa. Vả lại, ở với người ta ít tình nhiều nghĩa, còn phải nghĩ tới việc trả ơn cho thanh thỏa. Hãy tạm thời ở chung với nhau, ít lâu sẽ thuê nhà ở riêng.
 
Chân ướt, chân ráo mới tới, lạ nước lạ cái, tiếng nói phong tục chưa hiểu ra sao bà vợ cả bấm bụng vui vẻ chịu lép một bề. Anh chồng tham lam này cứ tưởng lâu dần các bà quen nhau thương nhau như ông thương cả hai bà. Nhưng ông không nhớ câu “Sống mỗi người một nhà, chết mỗi người một mồ”. Qua cả năm, bà vợ cả cố gắng học hỏi tìm được việc  làm có thể tự túc. Cái bọc ghen anh ách trong lòng cần được tháo bỏ cho hả hê.
 
Một hôm bà kiếm sẵn con dao thật bén, nấu một nồi nước sôi để sẵn chờ chồng và vợ hai đi làm vừa về tới nhà, bà bưng nồi nước sôi dội vào người vợ hai, người chồng chưa kịp phản ứng đã bị bà cầm dao đâm vào bụng người chồng tham lam, rồi bà ung dung ngồi chờ cảnh sát tới. Người chồng đành nhận hết lỗi tại mình để trả nghĩa, dứt tình, đưa người vợ nhỏ đi biệt phương khác.
 
Nếu bà vợ cả chịu nghe bạn khuyên biết nhẫn nhịn trì chí, khi mình đã tự túc kiếm nhà ở riêng không lệ thuộc vào chồng và vợ nhỏ, dần dà sẽ lôi kéo bằng êm đềm nhỏ nhẹ nhắc  lại mối tình thơ lúc ban đầu nghĩa tào khang, vợ cái con cột rồi có lúc chàng hiểu không thể tham lam mãi được phải dứt khoát mới có hạnh phúc gia đình mãn đời.
 
                             ***
 
Một số người đã ghen một cách khôn ngoan, có lợi kể cả các ông và các bà. Khi biết vợ hay chồng đã chia sẻ tình yêu, dối gạt mình, ai mà không đau khổ muốn lục vấn, chửi bới, đánh đập cho bõ tức, nhưng họ kịp thời chịu đựng nhẫn nhục, thứ nhất để bảo vệ hạnh phúc cho con,  giữ được thanh danh, cứu vớt lấy người yêu chẳng may sa ngã. Đã biết chắc chắn vợ hay chồng đã phản bội mình, nhưng cứ giả tảng như mình không hay biết. Vì người có tội bao giờ cũng sợ người lòng ngay. Hãy đem tấm lòng cao thượng đối xử lại, chiều chuộng, yêu quý, săn đón hơn, lo dậy con cái, chu toàn nhà cửa phải ngăn nắp, sạch sẽ, tạo dịp nói chuyện với vợ, chồng thật vui vẻ.
 
Bàn bạc dự tính công việc làm ăn có vẻ phấn khởi, cần nhất kiểm soát tài chính liệu cách nắm giữ một cách khôn khéo. Ngoài giờ đi làm hay công việc gì cần còn phải đi sát với vợ hay chồng, đừng để họ tạo cơ hội đi hay ở một mình… Chỉ một thời gian có một lúc chồng hay vợ cảm thấy tấm lòng bao dung cao thượng của chồng hay của vợ, sẽ xấu hổ nhìn lại tình nhân của mình đã chỉ là hạng ăn chơi sa đọa, lợi dụng tình, tiền thật bỉ ổi, chỉ khéo nói, khéo mơn trớn phơi trần bộ mặt xấu xa làm họ tởm lợm, hối hận biết ăn năn tội quay về quỳ xuống dưới chân chồng hay vợ xin lỗi xin tha thứ.
 
Sự khôn ngoan rộng lượng chỉ thiệt một tí nhất thời nhưng rồi sẽ giữ được thế thượng phong, giữ được hạnh phúc bền vững, các con không bị thiệt thòi xấu hổ về cha mẹ chúng.
 
#16
    frank 18.11.2022 22:54:00 (permalink)
     
     
    18-    Nước Mắt Chảy Xuôi
     
     
     
    Ở Việt Nam, hầu như ai ai cũng nói muốn đi Mỹ, vì sinh sống dễ dàng, cho Mỹ là nơi tiền rừng bạc bể, đời sống đầy đủ tiện nghi, Mỹ có nhiều cái hay nhất thế giới, được tự do ăn chơi sung sướng.
     
    Trên thế giới biết bao nhiêu người mong mỏi được di cư vào Mỹ, nhập cảnh công khai hay đi lậu, mỗi năm hàng mấy trăm ngàn người Mễ hay Nam Mỹ vượt biên giới trốn lậu vào Mỹ, hàng trăm người Tàu phải trả mỗi người mấy chục ngàn Mỹ kim để vượt biển trong bốn, năm tháng giời trên những con tầu chở hàng cũ kỹ, bị Hải quân Mỹ bắt ngoài khơi Mễ Tây Cơ và bị trả về nước.
     
    Mỗi năm người ta chờ có cuộc rút thăm của Sở Di Trú Hoa Kỳ, trông vào sự may mắn hi hữu được vào nước Mỹ như người trúng số độc đắc, thế mới hiểu được vào đất Mỹ không phải là dễ, còn biết bao thuyền nhân còn đang chờ đợi ở trại tỵ nạn, mong muốn được chấp nhận cho nhập cảnh vào đất Mỹ.
     
    Theo nhận xét chung của một số người, việc được nhập cảnh vào đất Mỹ rất thích hợp cho những người trẻ tuổi có tinh thần cầu tiến, muốn học hỏi và nghiên cứu về kỹ thuật, khoa học tân kỳ cũng như huấn nghệ của Mỹ, vì họ sẽ có phương tiện và được chỉ dậy đến nơi đến chốn và rất tận tình, sự ước muốn học hỏi của giới trẻ này rất chính đáng và đáng khen ngợi.
     
    Từ sau ngày Sàigòn thất thủ năm 1975 đến nay, gần một triệu người Việt Nam đang sinh sống ở đất Mỹ, chúng ta tới xứ này qua các chương trình tị nạn cộng sản, chương trình đoàn tụ gia đình, chương trình Mỹ lai, và hiện nay chương trình H.O. (Humanitarian Operation) cho các tù nhân trại học tập của cộng sản. Đối với các cộng đồng khác ở Hoa Kỳ, cộng đồng Việt Nam đoạt được nhiều  thành công nhất trong vấn đề hội nhập vào xã hội Mỹ, kể cả việc giới trẻ thành công tột bực trong ngành học vấn cũng như trên thương trường.
     
    Khi còn ở quê nhà trước đây, qua sách vở, báo chí cũng như được tiếp xúc nhiều với người Mỹ, chúng ta cũng được biết qua về đời sống ở Hoa Kỳ, và không lấy gì làm xa lạ lắm, nhưng trong những năm đầu của cuộc đời tị nạn, biết bao những tin đồn thổi về đời sống của dân tị nạn ở đây làm cho người trong nước quá ư xôn xao, vì những tấm hình chụp một ngôi nhà trông có vẻ hết sức tráng lệ đối với con mắt người Việt ở trong nước, và dân tị nạn khoe mình là chủ nhân, rồi lại cảnh đứng bên cạnh một chiếc xe trông thật láng cóong và bắt mắt, nói rằng xe của tôi đấy.
     
    Người bạn của chúng ta nói đúng sự thật, vì đúng anh ta là chủ nhân của cả nhà lẫn chiếc xe, nhưng có một điều anh ta không biết nói hết là chiếc xe nhà như biệt thự đó còn phải trả tiền hàng tháng trong 15 hay 30 năm nữa, cũng như chiếc xe đẹp không kém xe của Tổng thống Thiệu trước kia, nhưng còn phải trả tiền hàng tháng 3 hay 4 năm nữa.
     
    Ông bà cụ Tham từ trên máy bay bước xuống đã có bao nhiêu người đứng đón, con cháu, họ hàng, bạn hữu xúm xít hân hoan; những con mắt trìu mến nhìn không chớp, những bàn tay nắm lấy, ôm lấy nhau không muốn bỏ, người này hỏi, người kia nói, không kịp trả lời. Những chiếc xe hơi đi đón, chu choa sao đẹp thế! Ngồi dựa vào ghế bọc nhung, bọc nỉ êm ái dễ chịu mát mẻ, nhìn ra ngoài hai bên đường xe chạy ngược xuôi vun vút, nhà cửa đường xả rộng rãi sạch sẽ như lau, cái gì cũng lạ mắt.
     
    Về tới nhà bước vào trong  phòng khách, một bình hoa đồ sộ, to đẹp, trên bàn ly tách bày sẵn với các thứ nước ngọt đủ các màu tím, trắng, đỏ, các cụ chưa quen, qua màn giải khát, đi xem nhà, các cụ tấm tắc khen sang trọng quá, đưa tới phòng ngủ dành cho các cụ, chiếc giường nệm trắng  mới tinh, rồi màn cửa mầu cửa mầu vàng, tường sơn màu xanh lơ, các con đã dành cho bố mẹ, cái gì cũng mới lạ, các cụ sững sờ nhìn. Một bữa ăn thịnh soạn mừng ngày đoàn tụ có đủ anh em, bà con thân thuộc, bạn hữu ở các nơi xa tụ về, ăn uống, chúc mừng, hàn huyên đủ truyện bên nhà và ở đây, rồi ai nấy giải tán trở về để ngày mai còn đi cầy, đi làm.
     
    Trước khi đón hai cụ tới Mỹ, các con trai gái hội ý thuê sẵn căn chung cư để các cụ ở và chia nhau phụng dưỡng và thăm hỏi mỗi ngày về chiều sau khi đi làm, hai ngày cuối tuần cũng lần lượt thay phiên nhau đưa bố mẹ đi chơi, đi lễ nhà thờ, đi ăn hiệu, đi shopping, muốn mua sắm tùy thích các con trả tiền, nhưng các cụ vẫn kêu buồn.
     
    Mấy tháng sau, người con trai nói không thể góp hơn, ngoài số tiền góp trả tiền nhà, và đề nghị các cụ về ở chung với anh ta, để dành số tiền thuê nhà gửi về. Cụ ông không thèm trả lời lại phán thêm: “Bố cần 5000 Mỹ kim gửi về cho thằng cháu đích tôn cưới vợ.”  Cụ gọi điện thoại cho ba cô con gái ở các tiểu bang khác bảo phải gửi tiền về cho  cụ: cô thứ nhất gửi  về 100 Mỹ kim, nói mới bị thất nghiệp, ông bố chê ít nói: “Đồ bất hiếu, đừng có về nhìn mặt tao”.  Cô thứ hai gửi cho bố 500 đồng, ông bố chê ít nói: “Mày đi làm mỗi  tháng  bao nhiêu mà gửi ít như vậy.” Cô gái thứ ba chưa kịp gửi, nghe tin bố chửi hai chị cũng ớn vì buôn bán ế ẩm, chẳng dư được nhiều, lây đâu mà gửi, rồi cũng bị bố gọi điện thoại nói: “Nữ sinh ngoại tộc là đúng, bố mẹ còn trông mong gì!”
     
    Rồi hàng tháng, ông bố vẫn điện thoại  bắt các con góp tiền vì thơ bên nhà gửi sang, con này mua nhà, con kia sửa nhà, ông anh đau, bà em phải vào nhà thương, cháu này cần chiếc Honda, cháu kia thiếu xe Cúp. Cụ không cần biết các con cụ đang lo mất việc lấy gì mà trả  bill, các cháu vào đại học, không đủ tiền trả học phí phải đi vay, con trai và con dâu cãi nhau om xòm, gia đình có thể tan vỡ vì các món tiền phải cung ứng cho bố mẹ.
     
    Một câu truyện khác là ông anh phàn nàn với các em, vì gia đình mình không đi được  hết, ở nhà còn chị, mấy em đã lớn, tưởng đón được bỏ mẹ sang đây xum họp, đỡ lo cho bố mẹ lúc tuổi già. Bây giờ các cụ kêu buồn, hết nhớ nhà, nhờ các con còn kẹt lại, phàn nàn rầu rĩ hết ngày này sang ngày khác đòi về, anh em phải dè sẻn, dành dụm để có tiền cho bố mẹ về thăm nhà; ở nhà chẳng được bao lâu, hết hạn thông hành, lại phải về Mỹ.
     
    Được mấy tháng  các cụ lại đòi về, vậy lấy đâu ra tiền cho các cụ về chơi luôn mãi; mỗi lần về, tiền vé máy bay khứ hồi, lại còn tiền đưa về giúp những người ở nhà, mà đưa ít tiền các cụ giận dỗi, người con nói: “Biết thế này, thì không dám đón bố mẹ sang đây, mà cứ gửi tiền về để các chị em phụng dưỡng bố mẹ, như vậy các cụ tiêu sướng hơn ở Mỹ.”
     
    Còn mấy trường hợp khác, đón được bố mẹ tới xum họp được ít lâu là gia đình người con tan vỡ. Các nhân vật này đã không tiên liệu được rằng: một số người bị kẹt ở lại sống với cộng sản, vì tình trạng thiếu thốn, phải tranh đấu để sống, đã bị nhào nặn từ tâm hồn đến thể chất, cách nghĩ, lời nói khác trước.
     
    Nhiều cụ khi tới đây, mang theo cách sống, nề nếp phong tục như khi ở nhà xưa kia, có cụ tới hôm trước hôm sau đã xem xét hỏi han ngay về chi thu trong gia đình các con, thậm chí còn đòi các con tòng phục như các con khi còn nhỏ, những người con quá hiếu thảo, muốn chiều ý bố mẹ, lại chạm vào quyền tự do của vợ hay chồng, do đó mới một số gia đình có thể đi tới tan vỡ, chờ cho đến lúc các cụ hiểu ra, đã không kịp cứu vãn được hạnh phúc cho gia đình các con.
     
    Một số các cụ thức thời, tính tình dễ dãi, thương con, không muốn phiền các con, các cụ tự động dành công  việc gì có thể làm được giúp các con, không đòi hỏi, không nề hà, không phân biệt con dâu, con gái, con trai, con rể, chỉ mong gìn giữ hạnh phúc cho các con là hơn cả.
     
    Các cụ đã ý thức nối tiếp được tinh thần cổ truyền, như xưa các cụ đã dựng vợ gả chồng cho các con xong là các cụ bàn tính về hậu sự. Xã hội mình là xã hội nông nghiệp, sản xuất lúa gạo, ăn tiêu còn dư dả, chỉ biết tậu ruộng, tậu vườn, tùy nhà giầu có, khá giả, các cụ đưa tích sản ra phân chia, quan trọng hơn là phần để lại dưỡng thiệm. Phần hương hỏa được lấy ra 1/20; phần dưỡng thiệm lấy 1/10 của tích sản, còn lại mới chia cho các con, trai hai gái một, nhà đất nơi bố mẹ đang ở về phần con trai.
     
    Khi viết chúc thư, bố mẹ và các con đều ký tên ở dưới, người nào không biết viết thì điểm chỉ, bố mẹ sẽ cất chúc thư này đi, tới khi bố mẹ chết mới chiếu theo chúc thư thi hành việc phân chia, lúc đó các con mới được làm của riêng; cũng có trường hợp tích sản được phân chia trước cho các con nhưng phần dưỡng thiệm và phần hương hỏa, bố hay mẹ còn sống vẫn hưởng dụng; về phần dưỡng thiệm ông hay bà muốn giao cho con hay cháu canh tác lấy hoa lợi phụng dưỡng hay bán đi tùy ý, còn phần hương hỏa sẽ thuộc về người con trai cả rồi sẽ truyền lại cho cháu đích tôn, không ai được quyền bán phần hương hỏa vì phần đó hàng năm được dùng để sinh lợi lấy tiền cúng giỗ và sửa sang phần mộ.
     
    Sỡ dĩ xua kia các cụ để phần dưỡng thiệm lại trước khi chia phần cho các con, vì không muốn phiền đến con phải nuôi dưỡng hay muốn ăn tiêu gì thì tùy ý,  con nào khéo chiều hơn, các cụ sẽ ở với. Nhưng ở đất Mỹ này, hiển nhiên là các cụ cũng muốn lo xa, khi tuổi già sức yếu bệnh tật, nếu không phòng xa, phải phiền đến các con, dĩ nhiên các con hiếu thảo và cũng là bổn phận phải phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, nhưng tránh sao khỏi có sự bất đồng ý kiến hay thiếu sót vụng về của nàng dâu, chàng rể, làm cho các cụ đau lòng, chưa kể gặp phải ở với hạng người này mà không có của, thì phải làm lụng, lo dọn dẹp, nấu cơm, coi cháu như người làm không công, đến lúc đau yếu, không còn làm được công việc gì nữa, không hiểu những người con này sẽ đẩy bố mẹ đi đâu?
     
    Cho nên khi các cụ đến ở xứ Mỹ này, phải lo cho đủ giấy tờ, lãnh được tiền già, và có thể sống tự lập không phải nhờ đến con cái.
     
    Đối với các cụ mời tới, tiếng nói chưa biết, chưa hết hạn bảo lãnh, tiền già chưa được lãnh, nếu gặp phải cảnh không nhờ được con cháu thì phải nhẫn nhục cho qua ngày. Ca dao có câu: “Mẹ thương con biển hồ lai láng, con thương mẹ kể tháng kể ngày” và nước mắt chỉ có chảy xuôi, nước mắt chảy ngược thì hiểm lắm thay!
     
    #17
      frank 20.11.2022 23:56:49 (permalink)
       


      19-    Tâm Hồn Đẹp Xưa Và Nay

       
       
       
      Nói về sắc đẹp ai cũng thích cũng mê, từ cổ đến kim có biết bao văn sĩ, thi sĩ viết về cái đẹp, làm thơ ca tụng sắc đẹp; những áng văn hay những bài thơ tuyệt bút với chủ đích ca tụng sắc đẹp của người phụ nữ như cụ Nguyễn Du tả về hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:
       
      Mai cốt cách, tuyết tinh thần
      Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
      Vân xem trang trọng khác vời
      Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
      Hoa cười ngọc thốt đoan trang
      Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
      Kiều càng sắc sảo mặn mà
      So bề tài sắc lại là phần hơn
      Làn thu thủy nét xuân sơn
      Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
      Một hai nghiêng nước nghiêng thành..
       
      Quan niệm về sắc đẹp mỗi người có con mắt thẩm mỹ riêng: đẹp lành mạnh, đẹp ẻo lả, nước da trắng xanh, nâu hồng, bánh mật hơi đen, người cao, thấp, lớn, nhỏ, dáng đi khoan thai, nhanh nhẹn… cộng với sự ăn nói khéo léo, biết chiều chuộng người, đấy chỉ là những sự nhận xét hời hợt bên ngoài.
       
      Hiếm có những người vừa đẹp vừa tài hoa, thực sự mấy ai thoát khỏi câu “Hồng nhan bạc mệnh” như Ngọc Hân công chúa. Quỳnh Như tiểu thư… để lại ngậm ngùi thương tiếc cho những ai nhắc tới.
       
      Trong bất cứ những buổi hội họp đông người nào, khi có người đẹp tới thì tất cả mọi người đều để ý tới, bắt kể già trẻ, nhiều ông, nhất là thanh niên đeo theo người đẹp để làm quen, để được nói chuyện cho như vậy là hân hạnh, để rồi được chiều chuộng, sẵn sàng chờ người đẹp nhờ cậy và sai bảo!
       
      Biết mình đẹp được nhiều người để ý và theo đuổi, nhiều cô lại càng lấy điệu, làm kiêu làm bộ, khó dễ với những anh chàng không có tài nịnh bợ, kém bộ mã bên ngoài, không giầu sang, kém địa vị. Nhiều chàng trai vì quá si mê, cầu cạnh rước được người đẹp về làm vợ, mà không có những nhận xét trước về đức tính của mình để chỉ biết ăn chơi phung phí, ích kỷ, đua đòi và có nhiều người ham mê cờ bạc đến nỗi phá tan gia tài, hết tiền xui chồng làm bậy để lấy tiền đi đánh bạc nữa và đã có trường hợp, người chồng vì quá thất vọng và phẫn uất nên đành tự vẫn.
       
      Những người tính tế nhận thấy cái đẹp phải phát xuất tự tâm hồn ra sắc diện: hồn nhiên, tươi vui, lễ độ, hòa nhã, biết lui tới, biết giúp đỡ người kém mình, thẳng thắn không a dua, xiểm nịnh, không phô trương, chỉ tiêu biết tùy gia phong kiệm.
       
      Ở đời nhân vô thập toàn, những người đẹp về tâm hồn mà trong tứ đức được ba: Công, Ngôn, Hạnh, về Dung có phần kém nhiều hay ít. Buồn thay cho các người này, chẳng may gặp phải người chồng chỉ biết nhìn vẻ đẹp bề ngoài mà quên và coi thường đức tính người vợ.
       
      Phạm lỗi bất trung, nhiều ông chỉ muốn thỏa mãn quyền làm chồng, không ly dị, nhưng coi người vợ không nhan sắc như một công cụ chỉ biết sinh con đẻ cái, lo việc cửa nhà và hầu hạ chồng con; tệ hơn nữa, nhiều ông chồng coi người vợ không xứng đáng đối với mình khi ra khỏi nhà.
       
      Các bà vợ đáng quý này, không phải là không hiểu sự khinh khi của người chồng, họ tự ái không nói ra, không phàn nàn phản kháng tích cực, họ muốn được êm cửa êm nhà, giữ cho con cái hưởng cuộc sống thanh bình trong tuổi ấu thơ, họ nhẫn nại mong người chồng hãy có dịp so sánh nhận ra đức tính của vợ như trường hợp ông Hứa Doãn, thời xưa vâng lời cha mẹ lấy phải người vợ không nhan sắc và có thể gọi là xấu.
       
      Sau khi đậu tiến sĩ, một hôm ông ngồi chơi nhìn bà vợ một lúc, đâm ra bực mình, hất hàm hỏi “kháy” vợ với một giọng đầy bực tức khinh bỉ “Đàn bà có bốn đức, bà có được mấy đức?” Nếu phải người khác bị chạm tự ái, chắc đã xẩy ra to chuyện, nhưng bà vợ vẫn dịu dàng, lể phép trả lời như sau: Thưa lang quân, đàn bà có bốn đức: công, dung, ngôn, hạnh, thiếp nay chỉ kém về dung (nhan sắc) mà thôi. Nhưng, thưa lang quân, thiếp nghe kẻ sĩ có 100 hạnh, dám hỏi lang quân được mấy hạnh?”
       
      Hứa Doãn hết sức ngạc nhiên thấy tài ứng khẩu của vợ, lại càng phục tính điềm đạm của bà, ông hối hận về thái độ bất nhã của mình.
       
      Nhưng đã trót lỡ nên cũng phải đáp: “Kẻ sĩ có trăm hạnh… tôi có đủ cả trăm”. Bà vợ nhìn chồng tủm tỉm cười và trả lời: “Trăm hạnh của kẻ sĩ thì chữ Đức đứng hàng đầu, thiếp thấy lang quân hiếu đức không bằng hiếu sắc, sao lại bảo có đủ cả trăm?”
       
      Hứa Doãn cảm thấy câu nói của vợ có lý, ông cả thẹn và lảng sang chuyện khác. Từ  đó ông tìm thấy ở bà vợ mình có nhiều đức tính đẹp.
       
      Khi ông ra làm quan, bà cùng giúp chồng trong công việc trị dân, đến đâu dân tình cũng sợ oai ông nhưng mến đức của bà. Từ đấy tuổi càng cao, ông càng trọng bà như người khách quý vậy.
       
      Ông Tú Xương, một thi sĩ thông minh tột bực, văn hay chữ tốt, chuyên làm thơ văn quốc âm. Tính tình hào phóng, cầm kỳ thi họa ông đều thông thạo cả, nhưng vì tính ngông nghênh, bướng bỉnh  nên bao lần đi thi, ông đều bị đánh hỏng nên sống đói nghèo nàn, nhưng nhờ bà vợ hiền nội trợ, giỏi dân, đảm đang, quán xuyến tất cả công việc của chồng. Thi sĩ nhờ đó mà vẫn sống nhàn nhã dù trong cảnh nghèo túng. Cảm thương người vợ hiền, ông đã bộc lộ trong lời thơ:

       
      Quanh năm buôn bán ở mom sông
      Nuôi đủ năm con với một chồng
      Lặn lội thân cò khi quãng vắng
      Eo sèo mặt nước buổi đò đông
      Một duyên hai nợ âu đành phận
      Năm nắng mười mưa dám quản công
      Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
      Có chồng hờ hững cũng như không!
       
       
       
      Hỏi đời có mấy vợ chồng được như ông bà Hứa Doãn, như hai cụ ông, cụ bà Tú Xương, biết sống đức độ, biết nhường nhịn thương yêu nhau, nhất là biết trọng cái đẹp trong tâm hồn, biết hợp tác, biết đề cao, biết thán phục phẩm giá đức độ của vợ mình, của chồng mình.
       
      Gia đình nào được người cha đáng kính, người mẹ đáng phục như trên thì đây là cả một bài học luân lý, giáo dục thực tế bằng gương sáng của bố mẹ để cho các con noi theo.
      #18
        frank 22.11.2022 01:17:15 (permalink)
         
         
         
        20-   Tu Là Cõi Phúc
         
         
         
        Bà Thành dừng xe trước cửa, vào nhà gặp bé Liên, bà hỏi:
         
        -Anh Thăng đâu con? Mẹ cần anh khuân đồ vào cho mẹ.
         
        Bé Liên trả lời:
         
        -Thưa mẹ, anh Thăng còn đang khuân đồ giúp bà Rose. Để con đi gọi anh về. Anh vừa giúp ông John kê bàn ghế xong lại chạy sang giúp bà Rose.
         
        Thăng có tính hay giúp đỡ mọi người từ khi còn nhỏ. Bất luận ai nhờ việc gì, có thể làm được. Thăng vui vẻ giúp liền. Vì vậy hàng xóm hay nhờ đến cậu, ngày cuối tuần, các ông bà đi chợ, mua đồ, cần khuân vác, đều nhớ đến Thăng. Không người này nhờ thì người kia gọi, ngày nghĩ  ít khi Thăng được đi chơi. Mẹ và các em trong nhà phàn nàn: “Có ai bắt buộc đâu? Có ai trả tiền đâu? Cứ ăn cơm nhà vác ngà voi!”
         
        Thấy con dễ tính, tốt bụng quá, bà Thành phải dặn cả nhà nếu có ai hỏi Thăng phải trả lời Thăng đang bận hay đi vắng, để cho Thăng học bài, nghỉ ngơi, người ta lợi dụng Thăng nhiều rồi!
         
        Thăng học giỏi, đẹp trai, khỏe mạnh, ít nói. Từ khi lên đại học Thăng bị các cô bạn gái tấn công, đi chơi chung hay tìm dịp để nhờ Thăng đưa về. Tính cả nể, giúp người làm Thăng  khó từ chối. Trong số này có Lan hay đòi Thăng đưa về một mình, rồi tìm cách yêu cầu Thăng đưa về nhà giới thiệu với bà Thành và các em.
         
        Lan sau đó hay lại nhà Thăng chơi luôn và thân với Liên, em Thăng, Lan xinh đẹp, khôn ngoan gây cảm tình nhiều với mẹ và các em Thăng, họ thường giữ Lan ở lại ăn cơm. Thăng trái lại mỗi khi Lan lại chơi thường tìm cớ vào phòng đóng cửa lại học, có việc gọi mới ra.
         
        Trong bốn năm học dự bị y khoa, cuối tuần nào Thăng cũng phải chờ Lan về nhà. Hôm sau Lan đã có mặt tại nhà Thăng chơi với Liên. Các em đòi đưa đi chơi chung với Lan, Thăng đều kiếm cách từ chối, viện cớ học bài hay phải đi tham gia công tác xã hội, không có thời giờ.
         
        Đến hè, Thăng không về nhà. Nói phải tìm chỗ yên tĩnh để học. Thăng tới xin ở trong một tu viện. Có ai biết đâu Thăng đã hướng về tâm linh, tìm hiểu những nguyên lý sâu xa. “Đời sống trăm năm của con người, so ra có nghĩa lý gì với sự đời đời. Thân xác có nghĩa gì khi cát bụi lại trở về với cát bụi”.
         
        Khổ nỗi Thăng là con lớn trong gia đình, còn nhiều em. Bố mẹ đi làm nuôi các con ăn học, sợ tuổi già sức yếu, trông vào Thăng để lo tiếp cho các em. Thăng biết vậy, cố sức học hành để làm vui lòng cha mẹ. Chàng tâm niệm phải lấy xong bằng bác sĩ y khoa để cha mẹ yên tâm và có phương tiện thực thi lý tưởng sau này.
         
        Lan không nản lòng với sự thờ ơ của Thăng, chỉ coi Lan là bạn của em gái mình, không hơn không kém. Liên quý Lan, muốn Lan là chị dâu mình nên tìm cách khen Lan đẹp, hiền, ngoan. Nhà Lan giầu, có tiệm vàng lớn, Lan thường biếu Liên những đồ trang sức đánh giá. Liên có lần nói với Thăng:
         
        -Anh Thăng ơi! Anh lấy chị Lan em không phải nghĩ ngợi gì với quà chị Lan cho em nhiều quá đây!
         
        Thăng không bằng lòng nói:
         
        -Em không nên lấy quà của Lan! Nhà mình nghèo không có tiền mua đồ trang sức cho em, em chờ đến khi anh làm có tiền, anh sẽ mua cho em. Anh muốn em trả ngay những đồ đắt tiền đó. Có sự gì cần mà phải mang ơn người ta!
         
        Chẳng những cho Liên nhiều thứ, Lan còn đưa mẹ đến chơi làm quen với bà Thành rồi hai bà đi lại, biếu xén lẫn nhau, coi nhau như đã nhận làm thông gia. Thăng càng ngày càng khó nghĩ, cảm thấy không nói thẳng ý nghĩ mình, đã kéo dài quá lâu sẽ làm mọi người ngộ nhận chuyện lấy Lan là việc dĩ nhiên.
         
        Hết mùa hè năm ấy. Thăng gửi đơn xin thực tập các nhà thương. Nhiều chỗ nhận nhưng Thăng chọn nhà thương ở xa. Bố mẹ Thăng không vui nói:
         
        -Từ lâu con đã biết bố mẹ suy xét kỹ, Lan được người  được nết. Trước khi con đi thực tập xa hãy lo liệu làm đám cưới!
         
        Thăng trả lời:
         
        -Xin bố mẹ đừng bận tâm. Con không nghĩ đến chuyện lập gia đình. Các kỳ hè mấy năm rồi con vào tu viện để học cho yên tỉnh. Con đã tìm hiểu về tâm linh và dứt khoái tự nguyện dấn thân theo con đường con đã chọn, vẫn nằm sâu trong tiềm thức con: “Tu là cõi phúc”.
         
        Thăng vừa dứt, bố Thăng đã nhăn mặt quát:
         
        -Mày điên hay sao mà đi tu!
         
        Mẹ Thăng khóc kể lể:
         
        -Con không biết thương bố mẹ hay sao? Lo cho con ăn học để thành bác sĩ, con lấy vợ có con như người ta, bố mẹ cũng được mát mặt chứ!
         
        Các em Thăng cũng nhao nhao lên phản đối. Thăng thấy cả nhà không bằng lòng phải hứa lấy xong bằng bác sĩ rồi hậu tính.
         
        Lan không gặp được Thăng trước ngày đi đánh nhờ Liên  đưa thư. Thăng cũng chẳng buồn mở xem vì thừa biết nội dung, chỉ viết thư đáp lại vỏn vẹn một câu: “Tình yêu của tôi đã trót hiến dâng lên Chúa Chí Tôn”.
         
        Lan khổ sở vì tình yêu một chiều, không được đáp ứng, quá buồn sinh ra xanh xao gầy ốm. Bố mẹ Lan xót con nên tìm cách gán ghép Lan với Thiện, một kỹ sư mới ra trường. Thời gian sau cùng vẫn là liều thuốc hay nhất. Lan vui vẻ trở lại và đám cưới giữa Lan và Thiện được bố mẹ Lan tổ chức thật linh đình, trọng thể.
         
        Các bạn Thăng ai cũng chê cười Thăng là thằng điên, khờ dại đã từ chối không nhận những mối tình thơ mộng, những người đẹp như hoa sẵn lòng dâng hiểu. Thăng chỉ cười tự nghĩ:
         
        “Riêng tôi sự điên, khờ dại là sự khôn ngoan tôi đã chọn lựa. Các bạn có biết tôi không bị cột chặt, hạn chế, lòng tôi thanh thản không phải lo nghĩ về chuyện vợ con, không lo mất việc làm, không phiền hà đến ai. Nhìn cuộc đời thênh thang trước mặt, ai cần gì tôi sẵn lòng giúp đỡ. Làm cho người khác sung sướng là tôi sung sướng. Sau khi lấy xong mảnh bằng bác sĩ như đã hứa với cha mẹ, tôi sẽ theo đúng tâm nguyện là vào dòng tu, nơi tập thể của những người cùng chí hướng với tôi là dâng cả cuộc đời mình cho Thượng Đế”.
         
        #19
          frank 22.11.2022 23:36:39 (permalink)



          21-   Lễ Giáng Sinh

           
           
           
          Hàng năm vào ngày 25 tháng Chạp dương lịch, khắp nơi trên thế giới, người Công giáo cũng như một số người không Công giáo, ai nấy đều hân hoan mừng lễ Giáng Sinh, kỷ niệm Chúa Cứu Thế sinh ra tại Belem cách đây gần 2000 năm. Miền Bắc Việt Nam sau mùa gặt lúa đã được phơi khô cất vào nhà, rơm rạ đã lên đống, miền quê sinh sống về nghề nông nên người ta ước lượng số thu hoạch được nhiều, ít để chi tiêu vào dịp lễ, tết. Gần ngày lễ các bà đi chợ sắm sửa mua vải về may sắm áo quần mới cho cả nhà, gà vịt trữ sẵn hay chung nhau giết con heo để ăn mừng lễ.
           
          Một tuần trước lể mọi người trong xứ đạo rộn rịp hào hứng, các thanh niên tới các xóm xin chặt tre và làm đèn ông sao, người đi mua giấy rơm, kẻ đi kiếm trái cây xanh già lấy nhựa hòa với bột than phết vào giấy phơi khô cho cứng để làm hang đá.
           
          Ngày 24, đèn ông sao đã được chăng đầy chung quanh nhà thờ, một đèn ông sao thật lớn bán kính ít nhất cũng phải dài 2 thước tây, ở nhà quê không có điện người ta phải dùng đèn cầy cắm trong lồng đèn được treo trên nóc tháp chuông nhà thờ. Đến lễ nửa đêm 24 rạng 25 tháng 12, nhà thờ nào cũng chưng bầy bộ tượng Sinh Nhật trong hang đá. Nơi máng cỏ Belem nhân loại đã tìm thấy ơn giải thoát mà nguyên tổ Adong và Eva đã làm mất. Chúa Kitô đã sinh ra vì tội lỗi nhân loại.
           
          Trong máng cỏ ngoài Chúa Hài Đồng, tượng Mẹ Maria, tượng thánh Giuse còn có một số thiên thần bằng giấy đang bay lượn ca hát tung hô vinh quang Thiên Chúa, trên cánh đồng Behthelem trong đêm Giáng Sinh mà tiếng hát từ trời cao đã được phổ thành những bản nhạc bất hủ từ trời cao đã vọng lên như để nhắc nhở loài người nhớ tới cảnh thần tiên ngày trước mà tổ tiên của ta đã đánh  mất, và tượng ba vua phương Đông đến dâng vàng, nhữ hương và mộc được, một số mục đồng với chiên, bò. Bên ngoài nóc hang có một ngôi sao có đuôi dài, đây là ngôi sao dẫn đường cho ba vua đến thờ lạy Chúa Hài Nhi.
           
          Sau lễ trọng nửa đêm nhưng các ông bà già vẫn ở lại dự hết lễ thứ 3, trời gần về sáng mới chịu ra về, những người trẻ, thanh niên thiếu nữ xong lễ thứ nhất, vội vã vui vẻ ra về, để còn chè chén nói truyện, ca hát tới sáng. Ở Bắc Việt Nam về cuối năm khí hậu rất lạnh, không ai muốn ra khỏi nhà, chỉ vui trong gia đình, ngồi quanh bếp than với cái thú chuyện gẫu, cời than nướng ngô khoai, đậu phụng.
           
          Ở miền Nam Việt Nam trước 1975 không khí mùa Giáng Sinh đã có vẻ nhộn nhịp ngay từ ngày đầu tháng 12. Tại một số đường phố Sàigòn, đặc biệt là khu chung quanh nhà thờ Đức Bà, nhà thờ Tân Định, Thị Nghè v.v… Người ta bầy bán những bộ tượng Sinh Nhật với máng cỏ, hang đá làm bằng giấy cứng và giấy trang kim rất đẹp, những cây thông giả hoặc thật và nhất là những đèn ngôi sao Sinh Nhật khung làm bằng tre, dán giấy đủ màu lại dán thêm những ông sao nhỏ làm bằng giấy cứng, ngay ban ngày nhìn những ngôi sao này trông lộng lẫy huy hoàng huống là ban đêm có thêm ánh điện xanh đỏ càng thêm phần rực rỡ biết mấy.
           
          Những người ở Sàigòn và vùng phụ cận có đạo Công giáo hay không cũng tới tấp rủ nhau đi mua đèn Sinh Nhật để treo trước cửa nhà, cây thông về trang hoàng trong phòng khách. Cũng bắt chước tập tục Tây phương, nhiều người còn đi mua quà biếu nhau, nhất là quà biếu cha mẹ đôi bên cho các con như đã hứa với chúng trước đây mấy ngày, quà được gói các thứ giấy mầu thắt nơ thật đẹp, quà của các con  trong nhà được treo vào các cảnh thông hay để dưới gốc thông, đợi đến đêm Noel, đi lễ về bấy giờ bố mẹ mới phát quà cho các con. Nhìn các em bé hăm hở khi nhìn thấy được món đồ chơi mà chúng mong ước từ lâu. Đêm Noel những gia đình giầu có cũng quen lệ mở tiệc Réveillon  để thiết đãi bạn bè.
           
          Từ khi cuộc chiến miền Nam sôi động, các nhà thờ không làm lễ Sinh Nhật vào nửa đêm như trước. Các linh mục cử hành thánh lễ vào khoảng 9, 10 giờ đêm. Vào dịp này các cô các cậu lợi dụng mừng lễ đua nhau chưng diện bảnh bao hết mức, từ chiều trước khi hành lễ họ rủ nhau đi bộ đi xe lũ lượt lượn quanh các phố gần nhà thờ. Sau giờ lễ họ rủ nhau đi ăn chơi tưng bừng từng đoàn từng lũ, chỗ nào cũng đông nghẹt người, không khí Sàigòn hồi bấy giờ vui hơn Tết.
           
          Những người chua thấu hiểu được tinh thần của mùa Giáng Sinh, đã lạm dụng dịp lễ mừng để tiêu xài phung phí, thi đua trưng diện quần áo. Xin nhớ rằng Chúa Hài Đồng đã sinh ra nơi hang đá hèn hạ, trong cảnh cơ bần. Nên chỉ ai có tâm hồn đơn sơ, trong sạch, ngay thẳng mới có thể tiếp nhận được sự bình an thật sự của Thiên Chúa, như lời của các vị thiên thần hát mừng Chúa trong đêm Giáng Sinh. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Mỗi người trong chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để Chúa Hài Nhi được sinh xuống, mỗi người hay bầy tỏ tình yêu của mình cho Đấng đã được sinh ra để cứu chuộc nhân loại. Được như vậy ngày lễ Sinh Nhật mới có ý nghĩa.


           
          Chuông Giáng Sinh


           
          Những nhà theo đạo Công giáo đã rộn ràng sửa soạn đón mừng lễ Giáng Sinh trước hàng tháng. Không những họ dự trữ mua thực phẩm để ăn trong mùa Giáng Sinh mà còn may sắm quần áo mới cho những người trong gia đình, chăng hoa, treo đèn và trang hoàng nhà cửa. Đặc biệt một bộ sinh nhật đặt dưới cây thông có đủ tượng Chúa, Đức Mẹ, ông Thánh Giuse, Ba Vua, một ít mục đồng, ít thiên thần bằng giấy treo trên nóc hang đá. Cạnh hang đá là những gói quà bố mẹ định cho các con sau khi đi lễ về. Đây là dịp trẻ con nao nức mong đợi nhất trong năm. Chúng sẽ được quần áo mới, gói quà, đồ chơi mới, được ăn những thu hành với bữa cơm thịnh soạn.
           
          Dũng đang ngồi xay bột để nấu cho em ăn hàng ngày. Nó quay cối xay bằng đá nặng quá với sức của thằng bé lên 8 tuổi. Nó phải xay xong rá gạo đã xấp nước từ sáng. Trước lúc mẹ ghẻ nó ra đi có dặn khi về phải xay xong và trông chừng đừng để em Loan đưa em bé ra khỏi nhà, cả hai sẽ phải đòn. Bé Loan, em Dũng, 6 tuổi được giao cho việc giữ em bé.
           
          Dũng vừa xay bột vừa nhờ lại lúc còn học ở trường, chỉ mong tới giờ ra chơi với các bạn để chơi bi, đá dế, đá bóng, và nhiều trò chơi vui khác. Sau khi mẹ nó chết ít lâu nó có mẹ mới, rồi thêm em bé. Nó không được đi học nữa, phải ở nhà để mẹ mới sai vặt. Đã vậy nó còn bị đánh mắng luôn, không được ăn quà hàng ngày như khi mẹ nó còn sống. Nhìn thấy em Loan phải coi em bé, tự nhiên nó nhớ mẹ, thương em. Nhỡ khi  mẹ ghé về gặp em bé khóc thì cả hai anh em đều bị đòn vì không biết dỗ cho em bé nín. Có khi anh em nó còn bị phạt không được ăn cơm.
           
          Bỗng nghe có tiếng đập cửa, tiếng gọi. Nó biết thằng Thạch tới. Thạch là bạn học cùng lớp với nó khi còn đi học. Cả hai cùng đi về với nhau vì nhà Thạch cũng gần nhà nó. Thạch hỏi vọng vào xem có mẹ ghẻ Dũng ở  nhà không. Dũng trong nhà cũng nói vọng ra: “Không!” Thạch bước hẳn vào trong nhà. Nó đưa gói xôi với ít đường cho Dũng và bảo:
           
          -Mẹ tôi bảo hai anh em Dũng ăn hết đi, đừng để mẹ ghẻ trông thấy.
           
          Bà Toàn, mẹ Thạch, đã biết rỏ tình cảnh hai anh em Dũng Loan hay bị mẹ ghẻ chửi mắng, bỏ đói nên bà hay sai Thạch về chiều lấy cớ sang chơi với Dũng để tiếp tế khi nắm cơm, khi chiếc bánh.
           
          Được dịp nhà không có ai. Thạch ở lại chơi với anh em Dũng. Nó khoe tối nay cả nhà đi lễ nửa đêm rồi về ăn rè-vây-ông, sau đó sẽ đi chơi xa, lâu mới về. Nó rủ:
           
          -Dũng, Loan có đi lễ với tôi rồi về nhà tôi ăn, có nhiều món ngon lắm. Nhất là đến nhà thờ viếng hang đá lớn, trong có những con bò, con lừa to như thật, cỡi được, có đèn ông sao sáng lắm. Có nhiều đèn đủ màu, trông mê lắm. Lại nghe hát thật vui tai.
           
          Cả hai anh em Dũng nghe Thạch kể thích quá muốn đi nhưng nghĩ một lát. Dũng trả lời:
           
          -Chắc mẹ tôi không cho đi đâu, uổng quá!... Hay Thạch cứ chờ, đợi cho mẹ ngủ rồi chúng tôi lẻn ra đi.
           
          Thạch trả lời:

          -Khi chuông nhà thờ báo hiệu gần lễ nửa đêm, tôi tới đón ở ngoài đường rồi mình cùng đi.
           
                                 ***
           
          Vừa bước chân vào nhà, cũng là lúc con bé giật mình thức giấc, khóc ầm ĩ. Nghe tiếng con khóc, chị Nghi, mẹ ghẻ của Dũng và Loan, đã quát:
           
          -Chúng mày làm gì để em khóc?
           
          Không cần biết hay nghe Dũng Loan nói đầu đuôi tại sao em khóc, chị Nghi đã tát bé Loan, dúi đầu nó vào cạnh giường, sưng trán, chảy máu miệng. Chưa đã, chị lấy roi quất Dũng vì tội để em khóc. Chị còn đe tối nay không cho chúng ăn cơm.
           
          Tội nghiệp cho hai đứa bé, chúng bé nhỏ chẳng có tội tình gì, chỉ vì cái mầm độc ác của những người mẹ ghẻ như một thứ bệnh truyền từ đời nọ đến đời kia, mà nạn nhân là những trẻ em không may bị mẹ chết sớm. Hay những người mẹ không còn lương tri, mê dục vọng bỏ con cho chồng nuôi. Có những người cha thiếu trách nhiệm, lại sợ vợ, hay trái lại có những người đàn bà không biết thương yeu, bảo vệ con, mà chỉ nghĩ đến dục vọng của mình, đem con đến ở với người đàn ông khác để nó hành hạ con mình như đã từng xảy ra hằng  ngày trên đất văn mình. Báo chí đã đăng những vụ bố ghẻ trói con của vợ ở ngoài trời tuyết lạnh rồi lấy thuốc lá đốt cháy dí vào người em nhỏ để thương tích đầy mình hoặc còn nhiều cách hành hạ dã man khác mà chưa được phát giác.
           
          Sau khi dỗ con nín khóc, chị Nghi bế con đi ngủ, mặc cho hai đứa con chồng nhịn đói. Cũng may trước đó chúng đã được ăn gói xôi của Thạch đưa đến. Đợi một lúc không nghe tiếng mẹ ghẻ gọi hay tiếng em khóc. Nhà im phăng phắc. Xa xa  có tiếng chuông nhà thờ vọng lại. Dũng nắm tay Loan và sẽ bảo em: “Chúng ta đi nhà thờ với anh Thạch. Mẹ ngủ rồi không biết đâu.”
           
          Hai anh em ra khỏi nhà. Thạch đứng đợi sẵn ở ngoài. Cả ba cùng đi tới nhà thờ. Chúng dự lễ xong, viếng hang đá, xem đèn, mải mê quên về. Bà Toàn đi lễ về tới nhà không thấy con, phải trở lại nhà thờ tìm con. Gặp anh em Dũng đi với Thạch, nó xin mẹ cho anh em Dũng Loan về nhà ăn rề-vây-ông. Thạch còn kể hôm nay anh em Dũng Loan bị mẹ ghẻ phạt.
           
          Ăn mừng lễ, thu dọn xong, hai ông bà Toàn nhìn hai đứa bé mồ côi trán sưng, môi miệng còn rớm máu mà thương xót. Hai ông bà cùng nổi lòng thương như nhau nên quyết định đưa cả hai đứa bé mồ côi cùng đi vượt biên lúc này. Đêm lễ Giáng Sinh người ta chú trọng vào ăn nhậu say sưa nên việc canh phòng ơ hờ. Toán vượt biên quyết định ra đi sau lễ nửa đêm. Nghe nói được đi xa, được ăn no, cả hai bé mồ côi hồ hởi, sung sướng, nhất là ra khỏi nhà không còn bị đánh, bị bỏ đói.
           
          Sang đến bến bờ tự do, ông bà Toàn thương hai đứa bé mồ côi như con ruột. Chúng học giỏi, ngoan ngoãn. Khi lớn, đi làm, có tiền Loan vẫn nhớ đến em bé nên mỗi năm vào dịp Giáng Sinh, Loan lại mua đồ gửi cho bố đồ chơi cho em.
           
          Phần Dũng đã lấy được bằng kỹ sư chuyên về computer. Chàng đi làm với ý nghĩ có tiền trả nghĩa ông bà Toàn đã cưu mang hai anh em và coi như con. Dũng hay ưu tư tìm hiếu về số phận con người. Khi một người bạn hỏi về anh, Dũng trả lời:
           
          -Trong khi đi làm ở sở, tôi gặp người manager kiêu ngạo, tự ái, tự tôn, tự đại. Có những người làm cùng bên tôi, người thì lười biếng, người thì mở miệng ra chỉ nói chuyện dục vọng xác thịt, người thì có tình tham lam, hay cờ bạc. Phần đông họ đố kỵ, ganh tỵ, hiềm khích, nói hành nói xấu để chia rẽ. Họ hận thù, ghen ghét nhau. Quyền lực của sự tối tăm của cuộc sống vật chất đang muốn lấn át đi những con người đang được ánh sáng Chúa Kitô chiếu soi.
           
          Rồi một hôm tôi đến thăm một nhà mồ côi, thấy một bé gái ngồi trong cái chậu không có quần áo chờ để tắm. Bé kêu lạnh quá. Tự nhiên trong lòng tôi hiện lên một ý nghĩ: “Mình phải làm gì đây?” Tôi nhớ lại lúc bé khi ở quê nhà, sau khi mẹ tôi chết, hai anh em tôi đã từng bị đói, bị lạnh và bị dì ghẻ đánh chửi. Em tôi đói chỉ khóc  và sẽ gọi tôi: “Em đói quá, rét quá anh Dũng ơi!” Tôi bảo em chờ mẹ ghẻ đi khỏi, chạy sang nhà bà Toàn xin cơm cho em.
           
          Mỗi khi nhớ lại đoạn đời anh em tôi đã qua cũng như tình cảnh các em mồ côi ở trại, tôi không sao quên được. Tôi bị ám ảnh về câu hỏi mình phải làm gì đây? Tôi đi làm ở sở về computer, khi làm việc trên màn ảnh điện toán hay nổi lên hàng chữ “Dũng phải làm gì?” Tôi xóa đi, một lúc sau hàng chữ lại nổi lên. Mỗi khi nghe tiếng chuông nhà thờ tôi lại nhớ đến quãng đời thơ ấu đã qua, và cũng cùng lúc đó hiện tượng tôi cảm nhận khi ngồi vào bàn máy điện toán và những hàng chữ “Tôi phải làm gì?” lại hiện lên.
           
          Lễ Giáng Sinh tới tôi viếng hang đá Belem ở trong nhà thờ, tôi đã cầu nguyện nhiều, quyết dâng mình cho Chúa, trở thành linh mục, đạt được tâm nguyện và chú ý đến hoàn cảnh các trẻ em mồ côi.
           
                                           ***
           
          Tiếng chuông đổ dồn một hồi, lễ nửa đêm vừa dứt. Những con chiên ngoan đạo kéo nhau ra về lòng đầy tràn ơn phúc của Chúa. Người thanh niên trẻ tuổi năm nào nay đã đạt được ý nguyện là hiến dâng trọn mình cho Chúa và sống hết lòng phụng sự tha nhân.
          #20
            frank 24.11.2022 03:09:18 (permalink)
             22-    Tìm Một Hướng Đi  
             
             
             
            Nghe tin ông bạn thân đau đã lâu, hỏi thăm qua điện thoại, không bao giờ có thể giải tỏ hết tâm tình tri kỷ, phải dành một dịp thuận tiện mặt đối mặt, vui buồn thổ lộ tâm can và chúng tôi đã tới thăm bạn.
             
            Nghe tiếng chuông, chủ nhà, anh Kh. tự ra mở cửa đón chúng tôi. Nhìn nhau ngạc nhiên, chúng tôi hỏi anh đã khỏe, sao nghe nói anh ít khi ngồi dậy được. Chúng tôi mừng rỡ, chào hỏi nhau qua phút đầu hồi hộp. Có sẵn nước sôi ở bình thủy, anh tự pha trà mời các bạn uống, anh nói:
             
            -Các anh chị điện thoại đến thăm, tôi mừng rỡ nên khỏe hẳn ra, hôm nay mời các bạn ở chơi lâu để tôi có dịp nói nhiều truyện, nhất là người như tôi đang mang trong mình thứ bệnh nan y và biết rõ hạn kỳ sống không lâu nữa, ở vào cái tuổi tri thiên mệnh, không già không trẻ, như mọi người yêu đời, nói đến sự chết, cũng sợ hãi như ai, sau khi đi bác sĩ thử nghiệm, đã khuyên tôi ở nhà tỉnh dưỡng. Nên tôi có nhiều thì giờ rỗi rãi để suy nghĩ.
             
            Nhớ lại những việc mình đã làm từ khi hiểu biết, đang làm và dự định làm sau này, anh Kh. nói:
             
            -Lúc nào tôi cũng hăng say làm việc, lúc thành công đã vậy, lúc thất bại không ngã lòng, và tôi gặp rất nhiều cơ hội may mắn, danh vọng có, tiền của có, chẳng  hơn ai, nhưng cũng không kém nhiều người. Về tín ngưỡng tôi đã bỏ nhiều thì giờ, lúc nhàn rỗi, để tìm hiểu các đạo giáo có nhiều người theo, tới nhà thờ, nhà chùa, và tìm hiểu qua sách nói về đạo giáo, tôn giáo nào cũng có hay cái tốt, có cả mê tín, hay là điều siêu nhiên, xem để biết, chằng có chủ ý niệm nào, tóm lại tôi là người vô tín ngưỡng, xin đừng hiểu lầm, tôi không có vô gia đình, vô tổ quốc như người “cộng sản tam vô” đâu.
             
            Đây là điều chính tôi muốn nói cho các anh chị biết về tôi, trong lúc tỉnh dưỡng, quá nhàn rỗi, tôi nhớ lại tất cả các việc tôi đã làm: vất vả, khó nhọc, lo lắng, để có được những cái mình muốn, hay không muốn và bây giờ đã qua, chẳng còn để lại chút dư âm; lo lắng, sợ sệt, sung sướng hay tiếc nuối cũng vô ích, mọi sự đã ra hư không, và bây giờ phải làm gì? Sửa chữa lại, rồi sẽ ra sao?
             
            Dịp dưỡng bệnh nay có sẵn thì giờ cho tôi nhớ lại, tìm hiểu nội tại: để sống ra sao? Theo phương hướng nào, có mục đích để tiến tới không? Con đường nào mình đi, có đúng không?  Hay phải xoay chiều làm khác, nghĩ khác. Phải tìm đáp số, vì thời gian qua mau, người ta đã nói cuộc đời “ví tựa đào hoa sớm nở tối tàn” hay nhanh như “bóng câu qua cửa sổ”.
             
            Các danh nhân, các bậc anh hùng để lại những chiến công oanh liệt, dẹp giặc cứu nước, bậc  vĩ nhân quân tử để lại những gương hiếu, trung, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, các nhà khoa học dầy công sáng tạo những tiện nghi cho đời sống nhân dân thăng tiến. Các bậc trên đã được vinh danh, suy tôn một thời, hậu thế còn có dịp khác lời, đều đã qua.
             
            Với sự nhận xét hẹp hòi của tôi, cũng phải nhìn lên trời cao, tinh tú, mặt trời, mặt trăng bao la, địa cầu là hành tinh nhỏ bé mà còn gồm biết bao bể khơi, núi non hùng vĩ, danh lam thắng cảnh, hiện tượng kỳ bí, mà các nhà khoa học trên thế giới chỉ biết chiêm ngưỡng trước đấng sáng tạo vô biên.
             
            Nên tôi đã trở về suy tư: phải có một đấng Thượng Đế đã tạo dựng ra vũ trụ và muôn vật, mà loài người là tác phẩm tuyệt hảo, giống mình hình ảnh Thượng Đế (theo như Kinh Thánh, sách Sáng Thế) và đặc biệt Thượng Đế đã ban cho loài người có linh hồn, sống động, có sự hiểu biết để quản trị muôn loài, muôn vật. Thượng Đế đã ban cho con người nhiều ưu điểm, thì bên cạnh cũng cho ẩn phục những nhược điểm. Đó là bản tính yếu hèn, vị kỷ, đam mê hưởng thụ, lười biếng, tham lam, ác độc, ghen tỵ, lừa đảo, tranh dành nhau, xâu xé nhau vì quyền lợi, mưu mô cho dục vọng bất chính, ngụp lặn trong sự tội lỗi.
             
            Và hơn hết, Thượng Đế cũng ban cho loài người hơn các loài khác, có lương tâm, khôn ngoan, biết phân biệt: điều phải nên làm, điều trái nên tránh. Để  biết rõ hơn là Thập giới của Thiên Chúa giáo mà Thượng Đế đã dậy loài người tóm thâu với hai ý chính: Phải thờ phượng, cảm tạ Thượng Đế và thương yêu mọi người.
             
            Tôi tin rằng những người hưởng thụ sung sướng trong giầu sang bởi dành giật, mưu chước, khủng bố, đe dọa, ức hiếp, phỉ báng người khác, họ không biết quay lại, nhìn những đau khổ của người khác do họ gây nên, họ cũng không nhớ câu “ác quả ác báo”.
             
            Những người phải chịu nghèo hèn, thiếu thốn, bất công, đau khổ ở đời này chẳng có gì tồn tại, cuộc đời rất ngắn chóng qua. Đấng Tạo hóa khi cho loài người ra khỏi lòng mẹ thì ai cũng như ai, cũng như đến khi vào lòng đất và hành trang mang theo gồm bên phúc, bên tội. Vậy sự thưởng công và đền tội là quyền của Thượng Đế chí công.
             
            Muốn tìm một hướng đi hoàn hảo, phải tìm về cội nguồn là những điều Thượng Đế đã in trong lương tâm của mình, đã giải bầy trong Thập giới răn, y đấy mà  theo sẽ cảm thấy trong tâm hồn được bình an, vui sống; hiện giờ với căn bệnh nan y, tôi không nghĩ đến lúc chết rồi sẽ ra sao, không lo sợ vì mình đã nghĩ đúng, làm phải và sống hay chết cũng là cuộc đời nói tiếp vĩnh cửu.
             
            Cám ơn các bạn đã đến thăm tôi, nghe tôi nói về ngả rẽ cuộc đời của tôi.
             
            #21
              frank 24.11.2022 03:24:39 (permalink)
               
               
               
              23-   Quan Niệm Hôn Nhân Xưa Và Nay
               
               
              Gặp năm làng chia lại công điền, cứ ba năm chia lại một lần, là lúc các con trai tới tuổi 18 được vào số chia điền. Lúc này cũng là dịp bố mẹ nghĩ rằng con trai mình đã lớn, phải đi tìm vợ cho con, tìm người về đỡ đần công việc  trông coi nhà cửa.
               
              Tìm vợ cho con đây là một việc quan trọng. Anh con trai nào cũng nghĩ muốn tìm người đẹp, nhưng quyền ở bố mẹ lại nghĩ khác. Đẹp càng hay nhưng theo ý bố mẹ con dâu phải là người hay làm, hiền thục, ngoan ngoản, dễ bảo, hiểu biết việc làm như đi cấy, làm  ruộng ngoài đồng, chăn tầm, hái dâu, se tơ, kéo chỉ ở nhà thêm nghề dệt cửi, buôn bán càng hay. Con người phải khỏe mạnh, có tướng sai con mắn đẻ, phải là con nhà khá giả, môn đăng hộ đối, giòng giống, họ hàng bề thế. Những ý kiến trên bố mẹ nói với bà mai, chuyên đi làm mối để tìm đám nào hợp ý với bố mẹ đàng trai, rồi mới đi nói với đàng gái.
               
              Các cô thiếu nữ mới lớn lên đã có người dòm ngó. Cha mẹ thương con cũng muốn chọn được rể hiền và xuôi gia phúc hậu cho con mình ấm thân, đỡ khổ. Nhưng biết đâu mà kén cá chọn canh, hầu như mối lương duyên đã định từ tiền kiếp. Các cô biết vậy nên thường hay hát câu:
               
              Thân em như tấm lụa đào,
              Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
               
              Trông vào phần số may rủi, 12 bến nước, biết bến nào đục bến nào trong. Quanh năm ở trong nhà làm việc dưới sự chỉ dậy của mẹ, cũng được theo mẹ ra chợ mua bán. Một năm có đôi ba lần trong làng, hàng tổng mở hội đình đám hay ngày Tết các thiếu nữ mới có cơ hội được phép ra khỏi nhà, cũng là dịp các cậu đi tìm các cô, xa xa thấy bóng hồng nào dám nói gì. Cũng có một đôi khi có cặp táo bạo hẹn hò gặp lại. Chỉ có đằng trai mới dám về thưa với cha mẹ xin đi cưới vợ. Còn các cô chỉ biết yêu trộm, nhớ thầm, không bao giờ dám nói ra khỏi miệng, dù nói với mẹ cũng không dám.
               
              Do bởi hủ tục quái đản “tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng từ), bọn hủ nho thấy có lợi cho họ nên đã tuân theo bắt chước bọn đô hộ Bắc phương tròng lên đầu lên cổ người đàn bà, con gái phải cực khổ như thân nô lệ. Khi đi lấy chồng, bước ra khỏi cửa nhà mình sợ số mệnh đen tối đã phát khóc. Bà mẹ cũng khóc theo, một phần vì nhớ cha mẹ, anh chị em đang ở cùng nhà, nay phải đến ở một nơi xa lạ với những người chưa hề quen biết. Nhất là người chồng ngày cưới mới biết mặt. Còn đẹp, xấu, tính nết ra sao chưa rõ.
               
              Gặp được nhà cha mẹ chồng hiền lành, tử tế, người chồng hiền hậu, có lòng bao dung, đi lấy chồng là gánh vác giang sơn nhà chồng. Gặp gia đình chồng hiền lành, không phải gồng mình mà gánh, ăn mặc đầy đủ, còn có lúc được nghỉ ngơi. Ngày giỗ Tết còn được phép về thăm cha mẹ và gia đình mình, được nở mày nở mặt với xóm làng rằng có phúc hơn người.
               
              Người con gái nào không may, số phận hẩm hiu, than thở với bố mẹ thì lại nghe câu “đá gà bán cho người ta rồi, phải sao chịu vậy” thì ôi thôi, trăm đắng nghìn cay! Thức khuya dậy sớm hầu hạ bố mẹ chồng, ông bà chồng, các em chồng. Người xưa có câu: “Giặc bên  Ngô không bằng bà cô bên chồng.” Cứ cúi đầu mà nghe những câu chửi rủa, nhiếc móc của mẹ chồng vì tiếc của đã mất món tiền cưới nàng dâu về. Lỡ dại chống đối gì với các em chồng sẽ bị mẹ, em túm vào xúi giục chồng lôi ra đánh rất vô cớ.
               
              “Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng
                Mất tiền mua gỗ thì bố lấy giăm.”
               
              Người con gái bị hành hạ ngược đãi. Bố mẹ, anh em, họ hàng nhà người con gái dù có biết cũng ngậm đắng nuối cay, thương cho con cho cháu, phải làm lơ không can thiệp. Theo phong tục, con gái đã làm dâu nhà người ta là thuộc quyền sở hữu của nhà chồng rồi.
               
              Đến khi sắp có con, không còn làm việc được nhiều, lúc bấy giờ bố mẹ chồng sợ phải nuôi thêm cháu mới cho vợ chồng con trai, con dâu ra ở riêng. Nhiều người phụ nữ đã thốt lên: “Ngày ra riêng là ngày hạnh phúc nhất đời tôi,” và bây giờ bố mẹ người con gái mới dám giúp đỡ con mình.
               
              Cha mẹ các cô có khi chỉ vì một lúc hứng tửu trong bữa tiệc mà các ông chồng đã hứa gà con cho nhau khi hai bà vợ chồng mang bầu. Hai người cùng để con trai hay con gái thì thôi, nếu một bên đẻ con trai, một bên đẻ con gái vì lời hứa đã kết thành thông gia từ đây. Đợi khi lớn, cha mẹ cứ tự tiện lo làm lễ thành hôn cho đôi trẻ, bất kể chúng có bằng lòng hay không. Có bệnh tật bẩm sinh cũng mặc vì đôi bên cha mẹ đã hứa, nên đàng trai hay đàng gái vẫn phải cắn răng chịu đựng.
               
              Đàng trai tuy vâng lời phải cưới vợ nhưng gặp phải người vợ không  vừa ý, họ phản ứng ngay bằng cách có quyền cưới thêm một cô vợ khác mà họ chọn, hay đi ngang về tắt cũng chẳng sao. Chỉ có đàng gái là thiệt, cắn răng mà chịu cảnh “đồng sàng dị mộng” một cách kín đáo. Có người phản ứng bằng cách bỏ nhà ra đi, tuy cũng sợ mang tiếng cho cha mẹ. Nhiều cảnh túng quẫn, tự hủy thân cho toát nợ đời. Ảnh hưởng khốc hại như vậy mà người đời vẫn không qui kết tội cho bố mẹ đôi bên.
               
              Quan niệm hôn nhân ngày nay đã cởi mở nhiều. Tầm nhìn cùng sự hiểu biết thêm vào không khí tự do ở xứ này, các bậc cha mẹ không còn câu nệ câu “Nam nữ thụ thụ bất thân” như xưa. Trai gái đã được cắp sách đến trường học chung. Họ quen nhau khi đi học lúc nhỏ, lớn lên tìm hiểu nhau. Nhiều đôi giao tình đằm thắm năm bẩy năm sau mới làm đám cưới.
               
              Đôi bên cha mẹ bằng lòng hay không cũng không cản nổi họ. Thời nay, lấy nhau rồi vì đời sống không cần dựa vào bố mẹ, họ sống tự lập kiếm nhà ở riêng, không có cảnh làm dâu, làm rể, hay phải hầu hạ bố mẹ chịu lụy đến các em chồng. Sự thăm hỏi, giúp đỡ tùy vào lòng hiếu thảo, không có sự bắp ép giả tạo của nàng dâu, chàng rể nữa.
               
              Một số bậc cha mẹ vẫn tồn cổ, chưa chịu cởi mở theo thời, còn muốn thi hành quyền làm cha mẹ, bắt các con lấy chồng theo ý mình. Họ tự chọn cho con cái người có bằng cấp, có sản nghiệp lớn, với thâm ý sau này được nhờ và về danh tiếng, tiền bạc các con giúp đỡ. Họ không tính xa hơn vì dễ gì mà dâu rể đem danh lợi san sẽ cho bố mẹ? Gặp phải người xa hoa, cờ bạc, liệu họ có giữ được lâu như hiện tại không? Không được như ý là các cụ mắng chửi con bất hiếu. Vì áp lực của bố mẹ, nhiều cô cậu yêu nhau đành chờ thời gian để bố mẹ nghĩ lại.
               
              Các thanh niên nam nữ ngày nay đều được đi học, sự hiểu biết về hôn nhân dưới con mắt của họ không phân biệt về tuổi tác cách biệt nhiều ít, không phân biệt bằng cấp, tiền bạc, giàu nghèo. Họ yêu nhau vì cùng lý tưởng, hợp tình hình. Về duyên dáng, hiền lành đức độ, vui vẻ ở người nữ hòa hợp với vẻ hùng tráng, cương quyết, bao dung và cởi mở ở người nam. Họ không quan niệm chữ trinh tuyệt đối vì có bao trường hợp như bị hiếp, bị tai nạn… đã xẩy ra trước đây. Một câu chuyện điển hình dưới đây như sau:
               
              Bưởi còn nhỏ cũng được đi học, biết đọc biết viết, làm đủ bốn phép tính. Cha mẹ xem thế là tạm đủ, bắt Bưởi nghỉ học ở nhà giúp mẹ làm việc vặt. Lớn lên có nhan sắc dễ coi, rồi bà mai làm mối một đám nhà giầu lại con một. Hiếm hoi, tất nhiên họ quý người. Bố mẹ nàng bằng lòng vì nhà trai giầu có. Bố mẹ Bưởi chỉ nói qua loa cho nàng mới biết đã đến tuổi phải lập gia đình. Hôm làm lễ nàng mới biết mặt người chồng tương lai. Người đâu mà xấu trai quá, tóc quăn, da đen, mắt trắng dã, môi thâm xì, vẻ mặt thì lầm lì. Bưởi chán quá khóc với mẹ và không muốn lấy người này. Mẹ nàng còn dỗ ngon dỗ ngọt, nhưng bố nàng quắc mắt lên quát: “Đã nhận lễ rồi, không nói đi nói lại được nữa.” Mặc cho Bưởi khóc lóc, đám cưới cử hành với đầy đủ lễ nghi, có họ đưa họ đón vui vẻ.
               
              Đưa chân họ hàng về hết. Hân, chồng Bưởi, nói:
               
              -Em thay áo, xuống nhà thu dọn với anh, đừng để mẹ phải làm.
               
              Và đến khuya Bưởi mới được đi ngủ. Hôm sau nhị hỷ, trước khi đi mẹ chồng nói:
               
              -Vợ chồng con đi sớm ăn cơm rồi  về ngay còn phải đi trả đồ mượn hôm cưới các con.
               
              Bưởi đã bước chân vào một nhà tù. Còn hơn thế nữa, nhiều việc quá nàng không làm kịp, ngoài hai bữa nấu ăn, nàng còn phải trông coi việc cho heo, gà ăn, tưới bón một vườn rau. Ở nhà với cha mẹ Bưởi cũng phải làm nhưng còn có mẹ và các em giúp cùng làm.  Ở nhà chồng không có ai giúp, một mình nàng làm không hết việc, còn bị mẹ chồng chửi mắng là lười biếng, không biết làm ăn, chỉ là đồ ăn hại. Mỗi lần nghe mẹ chồng chửi là mỗi lần người chồng nắm lấy vợ tay đấm chân đá, đánh túi bụi cho mẹ hắn hà tức. Lại còn cấm nàng kêu khóc và dọa nếu còn kêu khóc còn đánh thêm.
              Được vài tháng, quá khổ sở sau một trận đòn như hằn như thù, những lời nhục mạ của mẹ chồng, của chồng. Bưởi đã không còn nhẫn nhịn được nữa, nàng nói:
               
              -Không bằng lòng thì cho tôi về nhà cha mẹ tôi.
               
              Sau câu nói của Bưởi, bà mẹ chồng bắt người chồng tàn nhẫn đuổi nàng ra khỏi nhà, đưa về trả cho bố mẹ Bưởi. Không những thế họ còn đòi tiền phí tổn đã cưới nàng.
               
              Bưởi về nhà nhưng cha mẹ nàng không cho ở, bắt phải về lại nhà chồng. Quá nhục nhã, cay cực, nàng trốn đến ở nhà người bà con. May mắn có chuyến vượt biên, người bà con thương tình đưa nàng đi luôn tới Hoa Kỳ bình an.
               
              Sang đến Hoa Kỳ, Bưởi được đi học, đi làm. Trong một bữa giỗ ở nhà người đỡ đầu, Bưởi gặp lại Bân, người quen ở cùng xóm đã tới Mỹ từ 1975. Cả hai đều mừng rỡ vì bạn quen từ nhỏ. Họ đã kể hết cho nhau nghe về cuộc đời họ đã trải qua. Từ tình bạn thắt chặt dần dần đã trở thành tình yêu. Những người quen biết ai cũng mừng cho đôi này sớm trở thành vợ thành chồng.
               
              Sau đó không lâu bố mẹ Bân sang  được Hoa Kỳ đoàn tụ. Bân mừng gặp được bố mẹ nhưng khi Bân thưa với bố mẹ để xin cưới Bưởi, cha mẹ chàng gạt đi, không bằng lòng. Ông bà cho rằng Bưởi đã có một đời chồng rồi, không lấy được. Ông bà tìm đám khác cho Bân nhưng người nào Bân cũng từ chối. Chàng cương quyết nói: “Con không lấy người mà con không yêu. Bắt con lấy người ta về ‘đồng sáng dị mộng’, chẳng bao lâu sẽ bỏ nhau.” Thế là chàng đầu sông Tương, nàng ở cuối sông Tương.
               
              Sắp sang thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn những bậc cha mẹ cố chấp, thương con mà vẫn chưa hiểu được lòng con. Họ chưa theo kịp trao lưu tiến hóa, chưa phân biệt nổi sự lợi hại trong tâm hồn người có tình yêu chân chính.
               
              #22
                frank 01.12.2022 01:16:12 (permalink)
                 


                24-   Vội Giận Mất Khôn

                 
                 
                 
                Giờ nghỉ trưa các bà các cô kéo nhau xuống cafeteria ai không ăn cũng tới để góp truyện, thôi thì đủ thứ truyện, truyện mình truyện người. Chị Yên nhìn quanh khắp lượt cất tiếng hỏi:
                 
                -Hôm nay sao thiếu bóng chị Thi?
                 
                -À, cô Thi hôm nay xin nghỉ để ra tòa xin ly dị với chồng. – Bà Tùng trả lời rồi nói luôn một thôi: -Tôi đi ăn cưới đám cô Thi, cách đây hơn một tháng nay chứ lâu la gì, các cô các cậu thay đổi vợ, đổi chồng như thay áo, câu truyện chẳng  có gì quan trọng cũng đòi bỏ nhau, chẳng còn ra thể thống, khuôn phép gì. Đôi này lấy nhau, biết nhau, quen nhau từ ba, bốn năm nay, đâu cha mẹ có ai ép uống gì hay nhầm lẫn gì cho cam, họ đã tìm hiểu cẩn thận rồi mới cưới.
                 
                 Đám cưới thật linh đình, nhà gái đòi nhà trai mọi thứ theo đúng lễ nghi, phong tục y như ở quê nhà, ai cũng công nhận cô dâu chú rể thật xứng đôi, cô dâu ở đây ai cũng biết, người không đẹp lắm nhưng có duyên, ăn nói vui vẻ, hòa nhã, học hết bậc trung học, có công ăn việc làm, không đua đòi cặp bồ này đến bồ khác khi quen Tạ trong một buổi đi picnic. Thời buổi bây giờ, cô Thi được kể như là một thiếu nữ đứng đắn: còn anh Tạ khá đẹp trai, khỏe mạnh, đậu kỹ sư rồi mà vẫn vừa đi làm, vừa đi học, con người có chí cầu tiến, cha mẹ cũng khá giả không cần sự giúp đỡ của anh, và chỉ muốn anh Tạ lập gia đình, có nhiều mai mối, không có đám nào hợp ý cha mẹ hay ý anh Tạ cho đến lúc gặp cô Thi. Cả hai đều để ý tìm hiểu nhau, nói cho nhau biết tính nết, ý niệm về hôn nhân gia đình có thể chấp nhận được.
                 
                Thi thường nói về ý của mình muốn có người chồng biết thương yêu, chiều chuộng tạo lập gia đình, có nhà có xe riêng, không chung đụng với ai, không muốn ai làm phiền tới mình.
                 
                Còn anh Tạ là con người có tình cảm, muốn sống với đại gia đình, giữa cha mẹ và các em; tính tình cởi mở, trước khi cưới vợ Tạ vẫn hay đi dự đình đám, hội hè, giao thiệp với các bạn, quen biết nhiều các bà các cô, đôi khi có thư từ, hen hò, gặp nhau để tìm hiểu, ý anh Tạ muốn tìm người vợ hiền, nội trợ để có một gia đình hạnh phúc trường cửu, không phải là hạng người chỉ ăn chơi qua đường rồi thôi. Nghĩ mình là một người ngay thẳng không cần phải giấu giếm ai, nên sự giao thiệp giữa hai phái, Tạ vẫn giữ được vẻ hồn nhiên, đến các thư từ viết cho cô nọ kia anh vẫn giữ lại không thấy gì đáng hủy bỏ.
                 
                Sau khi cưới, Thi đã toại nguyện vì bố mẹ Tạ là người thức thời bằng lòng cho đôi vợ chồng trẻ mua nhà ở riêng, có xe riêng như ý Thi mong ươc, hơn nữa Tạ cũng rất yêu chiều Thi.

                Rồi một hôm, trong khi thu xếp các đồ đạc trong phòng ngủ, lôi các đồ của Tạ ra Thi bắt gặp một số phong bì có cả hình ảnh, có cái Thi nhận thấy được là của bạn bè hay họ hàng của Tạ, nhưng có nhiều thư của bạn gái của Tạ mà Thi không biết. Thế là cơn ghen vô lý  của Thi từ từ kéo đến, chờ Tạ có mặt ở nhà đã đem từng bức thư, từng chiếc hình ra chất vấn Tạ, còn bẻ quặt những điều không có, không đáng nói.
                 
                Thật là vội giận mất khôn. Phần Tạ đã hết lời giải thích cho rằng mình ngay tình, việc đã qua không còn nhớ hay để ý làm gì. Nhưng Thi cố chấp cho rằng đời sống trước kia của Tạ trụy lạc, rằng nàng đã nhầm và bị lừa dối. Tạ không còn xứng đáng làm chồng Thi, như vậy không còn mong ăn đời ở kiếp với nhau. Thi như con thú dữ, không còn biết nghe lời giải thích của Tạ. Rồi từ cãi và đến xô xát không còn tránh được, chỉ vì Thi nói dai, mà tâm lý đàn ông phần nhiều không muốn phải nghe những lời thô tục và nói dai rất dễ làm cho họ nổi sùng.
                 
                Sau một cuộc cãi và xô xát đập phá tan hoang nhà cửa. Tạ bỏ đi chơi đến nhà bạn bè, cho đỡ cơn tức, nếu được người bạn tốt khuyên giải an ủi, dẹp bớt tự ái, nóng giận rồi cũng sẽ qua đi trở lại đời sống bình yên; chẳng may gặp ông bạn quá lãng mạn và thiếu suy xét lại bảo Ôi, không hợp thì bỏ, thiếu gì người, ta tìm cô nào thích hợp, chiều theo ý mình thì lấy có sao đâu”.
                 
                Đến lúc hết cơn nóng, bình tĩnh nghĩ lại. Tạ trở về nhà, căn nhà trước kia ngăn nắp sạch sẽ, bây giờ hoang vắng, đồ đạc xô lệch, ly chén bể vỡ đầy dưới sàn nhà, cơm nước không có, bóng Thi không còn, làm cho Tạ bực bội trở lại.
                 
                Tạ ra khỏi nhà thì Thi cũng gấp quần áo trở về nhà cha mẹ với sự bực bội ghen tức; trong mấy ngày xa nhau, cả hai không ai chịu dẹp bớt tự ái tìm lại nhau, bây giờ ai cũng có lý do để đưa nhau ra chỗ xin hủy bỏ hôn ước.
                 
                -Nếu vậy cả hai đều bị thiệt thòi – lời của bà An sau khi nghe hết câu truyện, bà An nói tiếp: -Này nhé, cô Thi chịu thiệt thòi hơn, vì sau khi lấy chồng cô đã trở thành đàn bà, còn đâu là trinh nữ, nếu lấy chồng khác cô bị tụt xuống một bực, mà đã chắc gì lấy được người nào bằng người chồng trước, mà cũng còn may là chưa có con, nếu có con vừa làm khổ con vừa làm khổ chính mình vì phải nuôi con và còn khó lấy chồng nữa.
                 
                Còn về anh Tạ cũng thiệt nhiều, nhất là về phương diện vật chất, vì một khi ly dị, cô Thi được quyền lấy nhà giữ xe, và về phương diện tinh thần, khi đi lấy vợ khác anh sẽ hồ nghi sự lựa chọn của mình, lấy cô Thi chắc chắn như thế mà còn phải bỏ nhau, hơn nữa anh bị mang tiếng là người chơi bời, quá khứ không ra gì nên bị vợ bỏ, những cô có đức hạnh hay hiền hậu không muốn lấy anh, rồi anh tìm được thể nào người cũng không hơn cũng phải bằng cô Thi, và như vậy cả anh Tạ lẫn cô Thi đều bị thiệt thòi chỉ vì vội giận mất khôn.
                 
                Sau đây là một câu truyện không giống nhau truyện cô Thi và anh Tạ, mới lấy nhau mà đã bỏ nhau, mà cả đôi vợ chồng có ăn học, có địa vị, nghề nghiệp vững chắc, đủ con trai con gái, chúng đều ăn học sắp thành tài. Chỉ vì quá tự ái, nóng nẩy nên hạnh phúc gia đình của đôi vợ chồng đã bị tan vỡ làm cho các con bị thiệt thòi và khổ sở, câu truyện như sau:
                 
                Hai nhân vật chính trong câu truyện này tạm gọi là bà A và ông B, cả hai gia đình đều là bạn bè và đồng nghiệp hơn nữa lại rất thân với nhau. Bà A người thật đẹp và duyên dáng nhưng tính hơi lẳng lơ, giao thiệp rộng rãi, có khá nhiều bạn bè  nam cũng như nữ, hơn nữa bà A lại là người thích ăn diện và bê tha cờ bạc, nhiều khi đi Las Vegas chơi bài hết ngày này sang ngày khác, nên lắm tiếng đồn thổi đến tai ông A, làm cho ông này bực tức và xấu hổ nên để trả đũa ông ăn chả vì bà ăn nem, rồi mỗi ngày một quá nên hai ông bà A thỏa thuận chia tay hợp pháp, do đó bà được hưởng món tiền lớn do việc chia của sau khi ly dị.
                 
                Sống trong cảnh độc thân bất đắc dĩ, bà A rắp tâm tìm cách chinh phục con mồi mới, và bà không thấy ai hơn là chính ông B bạn thân của gia đình và đồng nghiệp với chồng cũ của mình, bà đưa hết sở trường, chiều chuộng ông B và bà đã thắng, chỉ vì bà B là chủ một hàng vàng, bận rộn cả ngày, ít thì giờ săn sóc chồng con, hơn nữa bà đâu có ngờ người bạn gái thân thiết của mình lại dã tâm cướp chồng mình và ông chồng đạo mạo mà bà tin tưởng từ xưa tới nay lại sa ngã mau chóng như vậy.
                 
                Vì tính nóng nẩy, bà B không kìm hãm nổi con ghen tức, gây truyện cãi lộn và đánh nhau với chồng cũng đòi ly dị. Ông B sẵn tính tự ái lại bị bùa mê, đâm ra mù quáng và bị bà A xúi dục, ông đem tất cả nhà cửa, xe cộ cùng những gì có giá sang tên cho bà A hết, rồi lúc đó mới chịu ly dị với vợ. Bà B tự ái cũng không kém, nghĩ rằng mình buôn bán làm ăn, có thể tự tạo nuôi các con ăn học đến thành tài, nên không cần tới cả của cải lẫn sự giúp của ông chồng.
                 
                Nhưng chẳng bao lâu vì quá buồn rầu lo nghĩ, công việc làm ăn của bà bị thất bại, gia sản bị tiêu tàn đến nỗi nay phải sống cảnh thiếu trước hụt sau. Ông B thấy cảnh lầm than của vợ cũ và con cái, nhưng khốn thay cô vợ mới này  nắm hết quyền chi thu, ông không có gì để giúp đỡ con cái nên quá hối hận ông B phát bệnh đau yếu, muốn gặp các con cũng không được vì bà vợ mới ngăn cản và ông B đã chết trong cảnh buồn phiền và phẫn uất nhưng đã muộn. Bà vợ mới ông B không tổ chức ma chay gì hết và cho hỏa táng, thuê người ném tro tàn xuống biển Thái Bình Dương, rồi bà này lại đi cặp bồ là người Hoa Kỳ. Đây lại là một cảnh thảm thương gây ra bởi tính tình nóng nẩy, thiếu suy nghĩ và tự ái nên hạnh phúc gia đình có trong tầm tay bị tan vỡ.
                 
                Hôn nhân là một khế ước giữa hai người nam nữ đã trao cho nhau cả thể xác lẫn tình yêu, cả hai trở nên một trong hạnh phúc độc hưởng “Mình với ta tuy hai mà một”. Vợ chồng tương kính nhau, tôn trọng ý kiến của nhau, thảo luận để đi đến quyết định phải lễ. Hạnh phuc rất dễ đổ vỡ, phải biết săn sóc đề phòng, đừng quá tin  vào tình bạn, người xưa có câu “Tin bạn mất vợ nằm co ro một mình”. Đời nay cảnh tin bạn mất vợ mất chồng không phải là ít.
                #23
                  frank 01.12.2022 01:19:06 (permalink)
                   
                   
                   
                  25-   Gia Đình Đau Khổ
                   
                   
                   
                  Trên một chuyến xe lửa từ Sàigòn ra Qui Nhơn ngồi cạnh tôi là một ông bạn đồng hành đã đứng tuổi. Với vẻ mặt vui tươi, ông hỏi thăm chúng tôi đi tới đâu. Khi biết cùng lộ trình và đường còn dài, chúng tôi cả hai bên nói truyện hết xa đến gần, đến truyện thời sự thế giới, trong nước, nhân tình thế thái. Cuối cùng bây giờ tôi còn nhớ lại câu truyện mà ông bạn đồng hành đã kể:
                   
                  Tôi có ông bạn thân là ông Tham T. Cả hai ông bà đều là con nhà gia giáo, đã có hai người con trai khá khôi ngô và thông minh. Bà vợ ông Tham T. người đẹp, khôn ngoan, buôn bán giỏi. Ông Tham T. trông ngoài con người có vẻ đạo mạo nhưng thiếu đứng đắn, hay nghe chúng bạn nay đi nghe hát cô đầu, mai đi vũ trường.
                   
                  Giới công chức thời đó hay đua đòi bắt chước, người tỏ ra đứng đắn “cơm nhà quà vợ” lại bị những bạn đồng nghiệp túm vào chế giễu rằng cù lần, sợ vợ, không văn minh, họ tìm đủ cách cho phải sa ngã như họ, họ mới hả hê. Biết được ông Tham T. hay đi ngang về tắt, bà Tham T. đổ ghè tương rất mạnh, bà thiếu khôn ngoan, không biết cách chiêu hồi ông, bà chỉ biết đi bắt ghen, chửi nhau, đánh nhau, rồi một hôm quá tức, bà chửi ông lại móc thêm đến bố mẹ ông ra mà chửi. Đây là một cái cớ quá sức chịu đựng của ông vì bà Tham đã nói động tới bố mẹ ông nên ông Tham T. dứt khoát bỏ bà vợ tào khang.
                   
                  Biết mình quá nóng, nói lỡ lời, bà đã nhờ họ hàng và bè bạn thân với ông Tham để bà xin lỗi nhưng đều vô ích, -ông bạn đồng hành với tôi nói: “Chính tôi là bạn rất thân cùng nói giúp, vì bà Tham trong cơn nóng giận tức tối đã trót lỡ lời, xin hãy bỏ qua, hàn gắn lại gia đình, thương đến các con”. Ông Tham dứt khoát trả lời: “Nếu bát nước đổ xuống đất mà hốt lên được, tôi sẽ nghe lời anh”.
                   
                  Hết hy vọng, bà Tham T. ôm mối hận, đành buôn bán nuôi con một mình. Lịch sử tái diễn, xưa Cao Tôn Lý trị đời Đường, mê gái loạn luân với người sư nữ nguyên là  thiếp của bố, lập nàng làm Võ Hậu, rồi bị bà này đè đầu cưỡi cổ giết cả cậu ruột của vua vì lời can ngăn không bằng lòng cho lập làm hoàng hậu, giết cả hoàng hậu, giết con, nắm lấy quyền chính làm nhiều điều càn dở, tai ác… Ông Tham T. đã có cớ bỏ vợ con, tha hồ tự do không phải kiêng dè ai, không còn phải nghe tiếng mè nheo; chả bao lâu ông cưới người vợ thứ hai, nguyên là một cai gà ở vũ trường mà ông quen biết từ trước.
                   
                   Cô này quỷ quyệt, đáo để nắm được yếu điểm của chồng nên ông Tham T. chỉ còn biết đưa lương về để cô vợ đi đánh bạc, la cà ngày đêm, không còn biết đến nhà cửa, chồng con ra sao. Đều đặn, mỗi năm cô sản xuất cho ông Tham một đứa con; đẻ xong cô để con ở nhà mặc người vú nuôi và người chồng. Con có bị yếu đau, ăn đói mặc rách cô cũng không cần. Vì thương con, ông Tham ngoài giờ đi làm phải thay vợ trông coi con cái nhà cửa; cái khổ tâm nhất cho ông Tham T. là  trong sáu đứa con của người vợ sinh ra, ông không biết đứa nào là con của ông, bỏ thì thương vương thì tội, ông đành phải nuôi chăm sóc mấy đứa nhỏ như nhau. Ngay cô vợ của ông cũng không biết đứa nào là con của ông vì đêm nào cũng đi đánh bạc tới khuya mới về, và cô sống một đời rất buông thả.
                   
                  “Trước đây một ngày, tôi có đến thăm bạn” lời ông bạn đồng hành nói – Bây giờ ông Tham T. quá thất vọng, đau khổ, hối hận vì lầm lỡ, vì tính thích chơi bời, cố chấp, bỏ mồi bắt bóng, bây giờ phải sống trong đau khổ, ân hận, lo lắng, thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất, vì mù quáng không biết phân biệt, không chịu tìm hiểu, không đủ nghị lực uốn nắn người vợ để cho vợ xỏ mũi mà chịu nhục nhã – Đây là câu truyện xẩy ra trước 1975.
                   
                  Cảnh trên lại cũng tái diễn ở nơi hải ngoại này, với những ông trẻ lẫn ông gìa, trông ngoài phong độ có thừa, tài giỏi về nghề nghiệp nhưng lại thiếu tài trị gia. Mấy bà vợ cũng con nhà thế giá nề nếp, học hành dở dang, được bố mẹ đủ tiền nuông chiều, ăn chơi đủ mùi. Lấy chồng có bằng cấp cao, có địa vị, nghề nghiệp vững chắc, kiếm lắm tiền đủ cho các bà tiêu xài ăn chơi. Nếu là người có lương tâm, có đức hạnh, sống một đời an nhàn, đầy đủ để hưởng cảnh một gia đình hạnh phúc và góp phần cùng chồng xây dựng thăng tiến xã hội thì thực là hữu ích cho quốc gia. Nhưng than ôi! Trông ngoài thì vậy mà không phải vậy.
                   
                  Người chồng chỉ là một bức màn che cho họ làm những điều bỉ ổi, gia đình đối với họ chỉ là nơi tạm nghỉ những lúc mỏi mệt, đau yếu.
                   
                  Họ là người có tài nói khéo, nói như rót vào tai người nghe, có đủ cách cớ để đi khỏi nhà mà người chồng chỉ cười để vợ đi, hay có nghi kỵ trong lòng nhưng nể vợ không muốn nói ra, sợ làm phật ý vợ, hay muốn nói rõ hơn thì người vợ đã nũng nịu, vuốt ve: “Em chỉ đi với người mách mối mua món hàng, chạy áp phe, mua nhà, mua đất bán lấy lời, chung nhau mở nhà hàng, đi thăm bạn bè, họ hàng….”
                   
                  Những lời đồn nói xa gần, người chồng cũng có nghe biết, nhưng vì danh dự, vì địa vị, cứ nhắm mắt làm ngơ, giả câm giả điếc không tin; lâu ngày những người biết rõ hành vi của bà vợ, không ai muốn nói cho người chồng hèn nhát biết, họ chỉ cười riêng với nhau.
                   
                  Một điểm đặc biệt của bà vợ này là được lòng nhiều người; gặp ai bà cũng vui vẻ xã giao, để che đậy hành vi xấu. Những ai biết cũng không nỡ mạt sát ra mặt. Có về đến nhà thì ôi thôi! Gặp chồng bà đóng kịch tuyệt hảo, vui tươi chiều chuộng ông từng ly từng tý, thu dọn nhà cửa, làm cơm ngon lành đúng với bổn phận một người nội trợ giỏi. Nhưng một hai ngày sau bà lấy được tiền, những món tiền ông dành dụm chắt chiu từng đồng không dám tiêu, chỉ để cung phụng cho bà rồi bà đem đi nuôi những kép già kép trẻ mà bà mê say.
                   
                  Những ngày bà bỏ nhà đi khỏi, ông chồng đi làm về lụi cụi vào bếp nấu nồi cơm điện ăn hai ba ngày, muối ít dưa để ăn dần.
                   
                  Những người con lớn đều vừa đi học vừa phải đi làm, không còn được hưởng lợi tức của bố, vì người cha quá hèn yếu trước người vợ vô lương tâm, đem hết tiền của chồng làm ra đưa cung phụng đám nhân tình, phung phá, cờ bạc nên nợ nần quá nhiều, cho đến một ngày ông chồng phải tuyên bố vỡ nợ.
                   
                  Có nhiều đàn ông  bạc nhược, muốn giữ thể diện hy vọng tiến thân cầu công danh, nhưng nếu những người này may mắn nắm được chính quyền trong tay thì thật là đại họa cho quốc gia và xã hội vì có những bà vợ mê cờ bạc, mê kép, cần tiền tất phải tham nhũng vì sẵn lợi khí trong tay là điều khiển những ông chồng bạc nhược sẵn sàng tuân theo ý bà vợ. Đã không đủ năng lực tề gia, còn dám có cao vọng trị quốc, nên nước mình đã tan nát, mất hết tiềm lục quốc gia bởi những gã đàn ông yếu hèn và bà vợ vô hạnh.
                   
                  Biết người biết mình, tế nhị uốn nắn khi mới lấy nhau, trong thời kỳ hương lửa đương nồng nói gì, muốn điều gì, người phối ngẫu sẽ còn đang chiều chuộng, dễ nghe theo. Gặp phải người phối ngẫu bệnh hoạn, dâm dật, vô lương tâm, mình phải chủ động, cương quyết giữ cho phải đạo, làm gương cho người phối ngẫu noi theo.
                   
                  Làm nghề gì cũng vậy, việc đi về cũng có thời khóa biểu, phải kiểm soát một cách khéo léo người phối ngẫu và dùng những lời nhẹ nhàng để cảm hóa khi cần, đừng quá nóng giận mất khôn, đừng quá yếu lòng chiều theo lời ỏn thót, đừng để người phối ngẫu lợi dụng cảm tình qua mặt một lần, quen đi lâu ngày sẽ làm tới nữa, riết hồi trở thành thói quen, bệnh hoạn và  tới khi không còn chịu nổi  nữa là đi tới tan vỡ, chỉ còn cách chia tay hay ngậm đắng nuốt cay một mình, hay phẫn hận quá đi tới cảnh sát nhân tàn tạ cuộc đời.
                   
                  #24
                    frank 01.12.2022 01:23:22 (permalink)
                     
                     
                     
                    26-   Nghĩa Vợ Chồng
                     
                     
                     
                    Ở đời người ta thường nói tình nghĩa vợ chồng, it khi nói nghĩa vợ chồng không, nhưng điều cao quý nhất  và đẹp đẽ nhất trong  đời sống lứa đôi cổ truyền Việt Nam là nếu tình chẳng còn thì đành hy sinh giữ lấy nghĩa vợ  chồng vậy và dồn hết tình yêu ấy cho con cái với hy vọng “cóc chết ba năm quay đầu về núi”.
                     
                    Lụa, đang ngồi đan áo, hai tay thoăn thoắt đan rất nhanh với ý nghĩ đến lễ Sinh Nhật sẽ lên Đà Lạt thăm bà cô, và làm quà biếu cô cái áo và khăn quàng  đáng đan, chắc cô thích lắm vì nhiều lần cô tỏ ý muốn mặc áo và khăn quàng mầu mận đỏ . Vì mải mê đan, Lụa không nghe tiếng mẹ gọi, làm bà Hải phải gọi đến lần thứ hai, nàng mới để ý tới vội vàng bỏ kim đan và len xuống, chạy vội lên nhà trên, thấy bố mẹ đang ngồi bàn chuyện gì có vẻ kín đáo nhưng nét mặt của hai vị đều rạng rỡ vui vẻ. Lụa khoanh tay thưa:
                     
                    -Con đang mê mải  đan áo cho cô  Nhung, nên không nghe tiếng mẹ gọi. Thưa bố mẹ có điều gì dậy bảo.
                     
                    Ông Hải nhìn con bảo ngồi lại gần và bà Hải nói:
                     
                    -Ngày mai nhà có khách đến chơi, ông bà An Thịnh có tiệm bán xe đạp ở Ngã Sáu sẽ cùng con trai là Trung úy Đạt, mới được nghỉ phép, đến thăm bố mẹ, nên mẹ nói để con thu xếp nhà cửa gọn ghẽ sạch sẽ, mua ít trái cây ăn chơi và lau chùi bộ đồ trà tầu cho sẵn sàng.
                     
                    Lụa nghĩ “À ra vậy, có người đến xem mắt mình” và e thẹn, nàng bước xuống nhà dưới.
                     
                    Ông Hải là một công chức gương mẫu, giáo dục con cái trong vòng lể giáo nghiêm túc, ông thường dậy các con không được tự ý đi chơi nếu chưa có phép của bố mẹ và đặc biệt với Lụa, khi còn đi học ông thường khuyên nhủ phải đoan trang, đừng có trò truyện với các cậu con trai học trò theo đuổi tán tỉnh, nhất là trên đường từ trường học về đến nhà sau khi tan trường. Trong số những cậu học trò tán tỉnh Lụa có cả Đạt, trước khi nhập ngũ học trường sĩ quan Thủ Đức, nên khi nghe bố mẹ nói tới Đạt, Lụa mỉm cười nghĩ thầm: “Lại anh chàng này.”
                     
                    Sau khi ông bà An Thịnh đưa Đạt đến chơi nhà và có sự đồng ý của bố mẹ Lụa nay có dịp nói chuyện với Đạt để tìm hiểu nhưng vì Đạt là một sĩ quan bận việc quân ngũ nên ít có dịp để hai người gặp nhau, còn đối với đôi bên cha mẹ, chỉ  nhìn bề ngoài, thấy đôi trẻ xứng hợp, môn đăng hộ đối, nên cứ tiến hành công việc cưới xin, chờ ngày nghỉ phép tới, Đạt được về là làm lễ thành hôn.
                     
                    Sau lễ thành hôn, Đạt lại trở về quân ngũ, đôi bên cha mẹ vui vẻ hả hê có con rể có chức phận, con dâu vừa đẹp vừa ngoan, có ăn học, biết lễ độ.
                     
                    Tình hình mặt trận càng ngày càng sôi động, nhiều vùng mất an ninh. Đạt muốn đưa Lụa đi theo, nhưng vì ở vùng hỏa tuyến Đạt phải luôn luôn đi hành quân, di  chuyển khắp nơi nên đôi bên bố mẹ cản ngăn không muốn để Lụa đi vào nơi hòn đạn mũi tên rất nguy hiểm, nhất là trong lúc Lụa đã cấn thai cần gìn giữ hơn.
                     
                    Ngày 30 tháng 4 là ngày lo sợ hoang mang cho mọi người vì mặt trận đã tới sát gần Sàigòn, Lụa tay ôm con, tay dọn đồ lo lắng cho chồng, không biết Đạt có về nhà hay xiêu bạt đi đâu xa. May mắn thay, hình bóng Đạt hiện ra trước cửa, giục giã Lụa bế con ra xe cho mau, nàng không kịp đem theo nhiều thứ đã sắp xếp sẵn.
                     
                    Thoát hiểm đưa được vợ con đến chốn tự do an toàn, đôi vợ chồng đã lấy lại được sự bình tĩnh, vừa đi học vừa đi làm. Sẵn căn bản học vấn, cả hai đều kiếm được việc làm hợp với khả năng, từ nay không còn phải xa cách nhau.
                     
                    Cũng vì khi còn ở nước nhà hay phải xa cách nhau, đôi bên chưa có dịp tỏ hết cái hay, cái dở của nhau, mà những ngày nghỉ phép ở nhà ngắn ngủi gần nhau. Lụa nhận thấy chồng mình là người thô tục từ cử chỉ đến ngôn ngữ. Đạt thường sỗ sàng hay sổ nho với vợ. Lụa cho rằng ở trong quân ngũ, Đạt thường quen thói nói sỗ sàng vói thuộc cấp, nên nàng cũng nhịn cho qua.
                     
                    Đến đất tự do không còn có sự cản trở nào khác, bản tính có cơ hội bộc lộ. Trước kia Lụa chi tiêu trong gia đình phải chờ lương của chồng đưa về, bây giờ cả hai vợ chồng cùng đi làm, lương bổng xấp xỉ nhau, cùng đi làm về tới nhà, Lụa đã vội vàng vào bếp làm cơm dọn sẵn trên bàn, mời Đạt vào ăn; nhiều khi chàng còn đang xem báo, coi tivi chưa chịu ăn ngay bắt phải chờ không thèm nghe nói. Có khi Lụa đang nói thì Đạt ngắt lời, hay đang lúc nói nửa chừng chưa hiểu ra sao, đứng dậy bỏ đi làm việc gì không đúng hẹn mà chẳng thèm nói tại sao, có khi Lụa lấy cho cái gì chậm một chút là khó chịu, quát tháo, tức giận. Rồi muốn Lụa làm việc gì, không thèm nói tử tế, cứ như ra lệnh đúng với câu “chồng chúa vợ tôi”.
                     
                    Lụa rất buồn vì trước kia mình không có dịp tìm hiểu, bây giờ phải bình tĩnh chịu đựng, tìm cách đối phó để giữ cho không khí trong gia đình được êm ấm. Để chứng tỏ mình là người mẹ  hiền, vợ thảo, hiểu biết, mỗi khi Đạt la ó, quát tháo, Lụa kiên nhẫn bình tỉnh ăn nói sẽ sàng và có cử chỉ đàng hoàng, tỏ ra người lịch sự không thèm tranh chấp  thói thô lỗ, ăn miếng trả miếng.
                     
                    Lụa hy vọng mình kiên nhẫn chịu đựng ít lâu Đạt sẽ hiểu thấy cử chỉ lễ độ của vợ tất nhiên sẽ dịu dần và thành thói quen. Nhưng tính thô lỗ, quen thói phũ phàng của Đạt không giảm, có khi trước mặt bất cứ người lạ hay người quen Đạt cũng không biết giữ thể diện cho vợ, mà Lụa dù tức tới mấy cũng cố nhịn để khỏi mất mặt, chạm tự ái tới chồng. Nàng nghĩ mình nói ra những lời cay độc chẳng có ích gì lại càng làm cho người ta chê cười, không đem lại kết quả. Lụa đổi cách đối phó, không lẽ cứ cúi đầu nhẫn nạn chịu nhục phục tùng chồng mãi sao được.
                     
                    Mỗi khi xẩy ra việc gì mà Đạt làm tới, Lụa không thèm trả lời, cứ làm hết bổn phận cái gì đang làm, cần làm mới nói, hỏi và giữ im lặng không thèm nhìn mặt. Đúng như Lụa dự đoán, nàng im lặng tỏ ra như khinh, coi như không có Đạt ở nhà, nhưng Đạt không biết phục thiện, chàng cảm thấy mất mặt, sau  một hồi tuôn ra những lời thô bỉ, đập phá ít đồ đạc, Đạt xách xe ra đi trước mặt mấy đứa con còn nhỏ.
                     
                    Lụa rất buồn nhưng không tiếc gì vì đã biết Đạt có bóng hình nào chen vào xúi bẩy chàng bỏ vợ con ra đi. Lục tự túc nuôi con, cảm thấy tâm hồn được nhẹ nhõm hơn.
                     
                    Chẳng được bao lâu, hết tiền hết tình, Đạt buồn nản sống cô quạnh một mình, hối hận về tính độc đoán, thô tục của mình nên không dám trở về nhà nhìn con nhìn vợ mà bấy lâu nay chàng coi thường, đối xử một cách bất công cho rằng vợ phải có bổn phận hầu hạ mình.
                     
                    Nhớ con Đạt đến trường chờ các con ra để nhìn, gặp những đứa con ngoan ngoãn. Một thằng con nhỏ bá cổ bố nói: “Chúng con muốn bố về với chúng con lắm, nhưng bố không được làm cho mẹ buồn”. Lời nói của thằng nhỏ làm cho Đạt xấu hổ, ân hận, tiếc nuối hạnh phúc gia đình với người vợ lý tưởng có tâm hồn cao thượng biết tha thứ nhịn nhục, có ý muốn cải đổi tâm tính mình: biết lịch sự, hòa đồng, dịu dàng với vợ mà mình đã coi thường không biết phục thiện.
                     
                    Thiếu mái gia đình, Đạt lang thang đi không định hướng nên mới gặp tai nạn xe bị thương trầm trọng và được đưa cấp cứu vào bệnh viện.
                     
                    Cơm chiều xong, như thường lệ Lụa đang giúp con xem bài vở thì chuông điện thoại kêu, nói có người tên Đạt ở số điện thoại này bị thương vì tai nạn xe đang nằm mê man trong bệnh viện. Lụa liền hối  hả đem các con vào ngay nhà thương tìm tới phòng cấp  cứu thấy Đạt đang nằm bất tỉnh, băng bó đầy người. Nàng nhỏ lệ tự nghĩ một phần đời của mình sống với Đạt, phải chịu nhục nhã khinh bỉ, với cái tính phách lối thô lỗ, không chung tình, thật đáng giận, nhưng nghĩ lại không tình yêu cũng còn con cái nghĩa chung sống với nhau đã có ba mặt con, nay gặp bước gian nan, hãy đem tình thương giúp đỡ an ủi. Lụa xin nghỉ dài hạn ở sở làm để có thì giờ săn sóc Đạt.
                     
                    Trong phòng cấp cứu, Đạt rất cảm động khi tỉnh lại, nhận ra Lụa đang săn sóc mình với lời an ủi dịu dàng, cử chỉ trìu mến. Đạt chỉ còn ứa nước mắt xin lỗi mong Lụa quen quá khứ nối lại tình xưa để chàng có cơ hội chứng tỏ lòng phục thiện, và biết ơn.
                     
                    Hôn nhân là một khế ước giữa hai người nam và nữ, đã trao cho nhau cả thể xác lẫn tình yêu khiến cả hai trở nên một trong hạnh phúc gia đình như hợp với câu: “Mình với ta như hai mà một”.
                     
                    Nhưng nhiều khi những việc không đâu rất tầm thường mà cả hạnh phúc gia đình bị tan vỡ chỉ vì một lời nói, một cử chỉ, một việc làm vô ý thức.
                     
                    Cả đôi bên không chịu tìm hiểu, không biết tha thứ, không nghĩ đến hậu quả sẽ tác hại cho cả hai bên, nhất là để cho con cái mình thiếu tình thương phụ tử hay mẫu tử, thiếu an ủi, dậy dỗ khi còn thơ ấu.  Nên cái đẹp của ông  cha chúng ta là luôn luôn bảo vệ hạnh phúc gia đình bằng sự hy sinh, nhẫn nại, nếu tình chẳng còn thì cũng vẫn ở với nhau, sửa chữa cho nhau để giữ nghĩa vợ chồng.
                     
                    #25
                      frank 01.12.2022 01:39:01 (permalink)
                       
                       
                       
                      27-   Mấy Đời Bánh Đúc Có Xương
                       
                       
                       
                      “Ông Quang ơi! Tại sao ông ghét, ông thù hằn những người có phòng nhì? Có mắc mớ, có thiệt hại gì đến ông đâu?”
                       
                      Nhiều người quen biết ông Quang đã trêu chọc ông như thế. Và ông Quang đã trả lời cho họ hiểu tại sao:
                       
                      -Tôi thương những bà có chồng bị phụ bạc, thương những đứa nhỏ gặp phải dì ghẻ ác độc. Tôi khinh những người đàn ông có mới nới cũ, bất công, mù quáng, bỏ bê con cái khốn quẫn, đói rách, để cho dì ghẻ hành hạ con mà không dám bênh vực. Vì chính tôi đã là nạn nhân. Và tôi không bao giờ quên được quãng đời thiếu thốn đã chịu đựng nhiều khổ ải tại gia đình.
                       
                      Bố tôi quê ở Bắc Ninh  là con nhà khá giả ở miền quê. Sau khi đỗ bằng tiểu học Pháp Việt, ông bà nội gửi bố tôi lên Hà Nội học. Sau khi ông nột tôi chết, bà nội bảo bố tôi về quê làm ruộng lấy vợ. Nhà có 10 mẫu ruộng, cũng đủ sống, rồi làm lý trưởng, chánh tổng cũng danh giá chán. Bố tôi chê cô gái bà nội chọn cho bố tôi là quê mùa, nhất định không chịu về. Giữa bà nội và bố tôi vì thế xảy ra xích mích. Bà nội tôi không gửi tiền ăn học nữa và bố tôi phải nghỉ học kiếm việc làm với chân thư ký kế tòa án, ngày xưa kêu là ông phán.
                       
                      Nhân ngày nghỉ, một người bạn rủ bố tôi về quê ở Hưng Yên ăn giỗ. Bố tôi gặp mẹ tôi bán tiệm tạp hóa ở đây và ông bị tiếng sét ái tình ngay. Bố tôi ngỏ lời cầu hôn nhưng ông bà ngoại tôi không chịu, lấy cớ người làm việc ở tỉnh thành dễ bị sa đọa, người nhà quê không thích ứng được. Ông bà ngoại tôi nhất định không gả nên mẹ tôi chỉ còn cách trốn nhà theo bố tôi lên Hà Nội. Bố mẹ tôi ở với nhau không được cả hai bên nội và ngoại công nhận, nên không có hôn lễ, không có ai  chứng nhận, không có cả hôn thú. Yêu nhau có bao giờ nghĩ ai sẽ phản bội ai mà cần bảo vệ quyền lợi.
                       
                      Mẹ tôi là người biết buôn bán nên việc chi tiêu trong nhà không cần đến lương của bố, còn nuôi thêm người giúp việc bế em nấu nướng. Anh em chúng tôi được cưng chiều, ăn mặc không thiếu thứ gì, Mẹ tôi chiều bố tôi muốn tiêu gì cũng không để ý.
                       
                      Mấy ông bạn cùng sở thấy bố tôi có tiền hay rủ bố tôi đi chơi đi hát, đi nhảy. Mẹ tôi không bằng lòng kêu ca phàn nàn lại bị những người bạn xấu của bố tôi nói khích, chê  bố tôi sợ vợ, không dám đi chơi chỉ ở nhà với vợ con. Lâu dần, bố tôi  nghe lời mấy ông bạn xấu nết này, ngày nào cũng theo họ đi du hí, ngụp lặn trong chốn ăn chơi, không còn biết đến vợ con. Mẹ tôi không can nổi đành buông xuôi.
                       
                      Mẹ tôi buồn rấu, lo nghĩ, lại bị buôn thua bán lỗ chi tiêu nuôi các con, bố tôi không cho, bắt mẹ tôi đi buôn bán tiếp. Tiền vốn buôn của mẹ tôi đã cạn dần tiêu vào tiền thuốc, tiền ăn hết. Bố tôi bắt mẹ tôi ở riêng ở căn phòng nhỏ gần bếp lấy cớ sợ lây bệnh lao và chỉ cho đủ tiền mua gạo, mua thức ăn.
                       
                      Một hôm bố tôi về nhà bảo bà giúp việc lau nhà cửa, thu dọn sạch sẽ, thay khăn giường mới, cắm hoa tươi, Bố lại dẫn anh em tôi đi mua quần áo mới, giầy mới.
                       
                      Ngày Chúa nhật hôm ấy, mẹ tôi gọi chúng tôi vào phòng nói chúng tôi ở nhà đừng đi đâu chơi, mẹ nhìn các con mẹ mới đỡ buồn. Mẹ chịu nhục nhã vì các con mà sống. Tôi hỏi mẹ tôi sao lại khóc. Mẹ tôi nấc lên nói: “Hôm nay bố đưa dì hai về làm mẹ tủi thân nên mẹ khóc!” Ba mẹ con đang nói chuyện với nhau, tôi nghe tiếng pháo nổ trước cửa, chạy ra xem. Bố tôi khóac tay một người  đàn bà khác cùng mấy người bạn trên xe bước vào nhà. Họ chia nhau ngồi vào bàn ăn, bố tôi đã thuê người bầy sẵn.
                       
                      Sau này tôi mới biết, bố hay đi hát đã mê cô Huệ tức dì hai, là cô đầu ở Khâm Thiên. Cô này bắt bố tôi phải cưới đàng hoàng để lấy mẽ với bạn bè, lấy le với bồ cũ. Mấy người bạn của bố tôi gọi anh em tôi vào nhưng bố đuổi anh em tôi xuống bếp ăn với u già.
                       
                      Từ ngày có dì hai, bố tôi hay đánh mắng chúng tôi, nhất là những lúc dì hai sai tôi làm gì mà tôi không làm bị bố đánh thật đau, bắt phải lễ phép với dì, gọi dạ bảo vâng, thưa gửi. Rồi dì hai lấy cớ tôi lớn, cho u già nghỉ việc, bắt tôi nghỉ học ở nhà nấu cơm, quét nhà, giặt quần áo, làm những việc trước kia u già làm. Bố và dì hai đi ăn cơm tiệm, chỉ đưa tiền đủ để mua gạo, củi, nước mắm. Mẹ con tôi sống thật thiếu thốn đủ thứ. Cũng may thỉnh thoảng bạn buôn của mẹ tôi và mấy bà hàng xóm thương tình tới giúp đỡ thăm nom yên ủi mẹ con tôi.
                       
                      Cuối năm 1946, tự vệ thành tới nhà đục vách tường thông sang các nhà  hàng xóm để phòng đánh nhau. Bố bảo mẹ tôi dẫn anh em tôi đi lánh nạn còn bố tôi đi với  dì  hai. Mẹ con chúng tôi không biết đi đâu, muốn về với ông bà ngoại, sợ ông bà còn giận. Mẹ tôi nghĩ bà nội còn một mình thấy cháu nội cũng mừng nên kiếm đường tới nhà bà nội.
                       
                      Trái với sự mong muốn, bà nội tôi lạnh nhạt hỏi loạn lạc về quê biết làm gì mà ăn. Bà cho mẹ con tôi ở một gian nhà nhỏ sát bếp.
                       
                      Hai tuần lể sau, bố tôi cũng đưa dì hai về ở với bà nội. Khác với mẹ tôi, di hai ăn mặc sang trọng, đem theo quà về biếu bà nội, vải lụa, giày dép đủ cả nên bà nội vui vẻ hỏi han và dọn căn phòng nhà trên cho bố và dì hai ở, bắt mẹ con tôi làm cơm cho bố và dì hai ăn. Tôi tức quá chảy nước mắt. Mẹ tôi an ủi: “Thôi con nhẫn nhục mấy hôm nữa mẹ sẽ dẫn con về ở với ông bà ngoại. Loạn lạc chắc ông bà cũng tha thứ cho mẹ.”
                       
                      Một bà hàng xóm tốt bụng tới thăm thấy cảnh bất công, an ủi mẹ tôi. Mẹ tôi nói:
                       
                      -Tôi bị bệnh không thuốc uống, còn phải hầu cơm nước cả nhà. Tôi lượng sức không biết có kịp đưa các con tôi về Hưng Yên nương náu ông bà ngoại không? Tôi có viết sẵn địa chỉ nhà bố mẹ tôi, nếu chẳng may tôi chết, xin bà làm phúc chỉ đường cho các cháu hay có thể hơn thế nữa, nhờ bà nhắn tin cho bố mẹ tôi đưa người đến đón các con tôi đi. Tôi biết các con tôi ở với bố và bà dì ghẻ chúng sẽ bị đánh chửi và sẽ khổ đến thế nào nếu tôi chết.
                       
                      Sau buổi nói chuyện với bà hàng xóm, mẹ tôi có vẻ bình thản hơn. Mẹ tôi nói: “Chờ về với ông bà ngoại các con sẽ được đi học, ăn mặc đầy đủ hơn.” Mẹ tôi lại gói sẵn quần áo, giấy tờ làm hai gói, một lớn một nhỏ và dặn chúng tôi không được nói cho ai biết.
                       
                      Hai ngày sau, buổi sáng định mệnh hôm ấy, mẹ tôi ra cầu ao bưng rá gạo, Nhìn mẹ tôi đi không vững, tôi nói mẹ tôi chờ tôi nhúm lửa xong sẽ ra vo gạo cho. Than ôi! Đâu còn kịp, một tiếng kêu “ùm”, tôi nhìn ra, mẹ tôi đã nằm sấp trên hòn đá cầu ao, rá gạo rơi chìm xuống nước. Tôi gọi, mẹ không nói gì. Tôi lấy hết sức  kéo mẹ tôi đứng lên, dìu mẹ vào bếp. Nhìn mặt mẹ tôi xanh vì lạnh, tôi lấy chiếu phủ lên người cho mẹ tôi. Bà nội tôi nghe tiếng kêu chạy ra thấy mẹ tôi đánh đổ gạo xuống ao, bà tru tréo quát ầm phải xuống ao mà vớt  gạo lên. Dì hai cũng chạy ra nói thêm: “Mẹ mày không dám lội  xuống ao, thằng Quang phải xuống vớt gạo lên.” Tôi đang ngồi bên mẹ, lòng quặn đau thương mẹ, nghe thế tôi tức quá nói:
                       
                      -Nước lạnh lắm, tôi không lội xuống ao được. Dì xuống mà vớt gạo.
                       
                      Tôi vừa nói xong, dì hai quát lớn:
                       
                      -Đấy, anh nghe con anh nói với tôi già giẻo như vậy đấy.
                       
                      Bố tôi ra sân tát tôi mấy cái chúi đầu xuống  vào chiếc bàn làm gẫy chiếc răng cửa. Tôi khóc chạy vào bếp cạnh mẹ tôi. Mẹ tôi mở mắt nhìn máu miệng tôi chảy ra, chỉ nắm chặt lấy tay tôi rồi nấc lên mấy cái và từ từ nhắm mắt lại. Tôi không biết mẹ tôi đã chết, nắm lấy tay mẹ tôi hồi lâu thấy lạnh dần. Bà nội tôi mang gạo khác ra gọi mẹ tôi không thấy đáp mới phát giác ra mẹ tôi đã chết. Bà nội tôi gọi ầm ĩ mọi người. Hai anh  em tôi nghe mẹ tôi chết chúng tôi cứ ôm mẹ mà khóc. Tôi không còn biết sợ bố nữa, vừa khóc vừa chửi dì hai vì dì hai mà mẹ tôi chết. Vì có đông người, bố tôi không dám đánh tôi, chỉ bắt tôi im không được nói gì. Tôi thương mẹ quá, liều rồi, cứ tiếp tục chửi dì hai.
                       
                      Ngày hôm sau, người ta đưa mẹ tôi đi chôn, quan tài là chiếc phản cũ mà mẹ tôi vẫn nằm. Người ta cưa phản đóng lại thành áo quan. Bà nội thắt khăn trắng lên đầu hai anh em tôi, đi theo quan tài có bố và cả bà hàng xóm tốt bụng cùng đi với anh tôi ra nghĩa địa. Tôi thấy bà ta cũng khóc, mắt đỏ hoe.
                       
                      Lấp đất xong, mọi người ra về, còn hai anh em tôi không chịu về. Bố tôi nói sẽ thay mẹ thương các con hơn. Tôi trả lời: “Bố ác lắm, bố bắt mẹ phải hầu di hai nên mẹ chết”. Bà hàng xóm chen vào nói: “Ông Phán  về trước để tôi khuyên các cháu đi về sau.” Bố tôi đi khỏi, bà ta sẽ nói với tôi.
                       
                      -Bác đã nhờ người đưa tin cho ông bà ngoại cháu biết. Trong mấy hôm nữa sẽ có người đến đón các cháu. Cháu không được nói cho bà nội và bố cháu biết. Khi nào thấy bác tới nhà xin hỏi bà nội miếng trầu thì cháu dắt em cháu ra sau vườn chui qua hàng rào đứng sẵn  ngoài đường chờ bác.
                       
                      Chúng tôi về nhà, sau đó suốt mấy ngày chúng tôi ngồi trước hè đợi bà hàng xóm. Bà nội hay bố bảo làm gì tôi còn làm. Dì hai tôi coi như người thù, gọi hỏi tôi không trả lời, bố chửi tôi cũng mặc kệ.
                       
                      Tới ngày thứ năm sau ngày mẹ tôi chết, chúng tôi mới thấy bà hàng xóm tới xin bà nội tôi miếng trầu. Hiểu ý, tôi dắt em tôi ra vườn sau chui rào ra đường đứng chờ. Một lúc bà hàng xóm đi với một bà nữa tới, đưa cho tôi một gói nói là cửa mẹ tôi gửi trước và nói đi theo bà này về với ông bà ngoại. Hai anh em  tôi chỉ nói được câu cám ơn. Cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa gặp lại và cũng không biết đến cả tên bà hàng xóm tốt bụng.
                       
                      Chúng tôi theo người đẫn đường về đến Hưng Yên. Ông bà ngoại tôi hỏi, tôi kể mẹ yếu đau làm sao cho đến lúc chết. Bà ngoại khóc thương mẹ, lại trách ông ngoại quá nghiêm khắc không chịu cho người đi tìm mẹ. Đền bù lại, ông bà ngoại yêu chiều săn sóc anh em chúng tôi, lo lắng cho chúng tôi mọi sự.
                       
                      Năm 1954, hiệp định Genève ra đời, ông bà ngoại đưa cả nhà vào Nam. Lúc đầu khó khăn, ông bà vẫn cho chúng tôi đi học. Đến tuổi động viên, tôi đi học sĩ quan Đà Lạt, mấy năm sau em tôi xong Tú tai hai đi dậy học, lập gia đình. Hai ông bà ngoại đã già, nhìn chúng tôi an ủi tấm lòng và nói:
                       
                      -Các cháu đã thành danh, đã có gia đình. Ông bà đỡ ân hận với mẹ các cháu, vì đã bỏ bê mẹ các cháu chết tức tưởi ngày trước.
                       
                      Mỗi khi nhớ lại thời thơ ấu chịu nhiều đắng cay, thương mẹ chịu nhục nhã, tôi lại thù người dì ghẻ ác độc, khinh ghét những người đàn ông mê muội để cho dì ghẻ hành hạ con mình. Tôi thề trong đầu không bao giờ để con tôi phải chịu cảnh đó, thà tôi chịu  ở góa nếu nhà tôi chết sớm.
                       
                      Như câu ca dao: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ có thương con chồng.” Tôi thường khuyên trong họ hàng, bạn bè có ai chẳng may gặp cảnh vợ chết sớm, hay cảnh cơm chẳng lành, canh không ngọt, hãy thương đến đàn con dại, nuôi dậy cho chúng học hành khôn lớn biết tự túc, đủ trí khôn góp mặt với đời, rồi hãy nghĩ tìm người thay thế làm chủ gia đình.
                       
                      Kinh nghiệm riêng cho tôi thấy những người đàn ông bạc tình khinh bạc người vợ đầu đời, đến khi lấy người vợ thứ hai thường là xấu người, xấu tính, dữ dằn, hay ăn hiếp chồng. Âu cũng là quả báo cho những người đàn ông đã phụ rẫy người vợ hiền lành nết na đầu đời của mình như trường hợp bố tôi vậy.
                       
                      #26
                        frank 01.12.2022 01:51:41 (permalink)
                         
                         
                         
                        28-    Thiên Chức Làm Mẹ
                         
                         
                         
                        Thiên Chúa dựng nên muôn vật, trong các loài thụ tạo, chỉ có loài người được Chúa ưu đãi, có linh hồn thiêng liêng hợp với thể xác trở nên con người, đã được qui tụ trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn đón nhận tin mừng cứu rỗi, trên con đường lữ hành về nước Cha trên trời, ở trần thế loài người còn có một trọng trách truyền sinh.
                         
                        “Sinh con cái không phải là đáp lại nhu cầu nối tiếp giống nòi, nhưng là ước muốn tăng trưởng nhiệm thể; giáo dục con cái là huấn  luyện những kẻ thờ phượng Đức Chúa Cha cách trung thực… Gia đình là tế bào của Hội Thánh”. Chân lý này làm thấy rõ sự cao cả và sức mạnh của gia đình:
                         
                        1-Nói tiếp Hội Thánh Chúa Giêsu đã thiếp lập ở trần gian.
                         
                        2-Hiện diện  của Chúa là chủ gia đình thực sự.
                         
                        3-Thừa tác vụ tư tế trong gia đình là vai trò của người cha… (Đường Hy Vọng) và vai trò của người mẹ trong việc giáo dục con cái cũng là một thiên chức không kém phần quan trọng.
                         
                        Đôi với con ngay từ khi còn thơ ấu, mẹ là thần tượng là tất cả của con. Nói đến tình yêu con của người mẹ, nó bao la thắm thiết, cụ thể; thấy con đau yếu, mẹ cảm  thấy như chính mình bị đau, con gặp cảnh khổ não, lòng mẹ cũng lo buồn không yên, nếu như mẹ chịu đau chịu khổ thay được cho con. Yêu con, lòng người mẹ không những lo sức khỏe của con, còn bé mong cho con ăn nhiều chóng lớn, biết đi biết nói, mỗi tuổi mỗi khôn, đồng thời còn phải dậy con “từ thuở lên ba”.
                         
                        Nếu người mẹ chỉ lo chăm sóc cho con về mặt vật chất, ăn mặc mua sắm đầy đủ, cũng cho con đi học, nhưng phó mặc nhà trường về phương diện giáo dục con cái, lơ là về mặt tinh thần thì thật là một thiếu sót trầm trọng trong thiên chức làm mẹ.
                         
                        Sự dậy dỗ, săn sóc về mặt tinh thần, cũng cần phải được phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm và đạo đức mới có được đời sống quân bình.
                         
                        Giáo dục con cái
                         
                        Đọc truyện xưa nói về Mạnh mẫu, mẹ của thầy Mạnh Tử, bà là một bậc hiền mẫu. Để con khỏi phải nhiễm tính xấu những đứa bé láng giềng, bà đã đổi chỗ ở ba lần. Một hôm, thầy Mạnh Tử mê chơi bỏ học, để cảnh tình con, bà đã bẻ gẫy khung cửi đang dệt vải. Bà chỉ cho con biết sự học dở dang không khác nào khung cửi bị hủy đi; nhờ đó Mạnh Tử đã hối ngộ và cố gắng chăm chỉ học hành, để rồi trở thành bậc thánh hiền. Rút kinh nghiệm của câu truyện xưa, chúng ta thấy sự giáo dục con cái chúng ta ở trên đất Hoa Kỳ, nơi có đời sống vật chất thừa thãi, đầy chước cám dỗ đưa con cái chúng ta đến chổ hư hỏng, sa đọa, một số bà con mình đã lơ là ít chú trọng đến việc giáo dục con em; dậy dỗ thiếu phương pháp, nên đã tạo ra nhiều tệ trạng.
                         
                        Đối với học đường ở Hoa Kỳ, người ta chỉ chú trọng tới vấn đề học vấn và không hề nói tới vấn đề dạy dỗ về phương tiện tinh thần hay luân lý như ở quê hương chúng ta, nên bổn phận của cha mẹ lo giáo dục cho con cái ở trên đất nước này trở nên hết sức  quan trọng và chúng ta cần theo dõi và kiểm soát từ việc học hành đến cả những bạn bè của chúng, mỗi chiều đi học về nên xem bài vở, khuyến khích con bằng cách thưởng tiền hay quà tùy ý, nếu phiếu điểm mỗi tháng trường gửi về được xếp hạng tốt, nếu kém thì bị cúp hay cho tiền thưởng ít đi, cốt khuyến khích chúng chăm chỉ học hành, nếu con kém thông minh thì hãy an ủi và khuyên chúng chăm chỉ hơn.
                         
                        Đừng bao giờ so sánh con mình với con người khác hay bạn bè nó; làm như vậy là miệt thị con cái làm cho con dễ bị tự ti mặc cảm. Ngay đến việc sửa trị những lỗi lầm hay hỗn láo, chúng ta cũng nên hết sức cẩn thận và bình tĩnh, đừng bao giờ nên dọa con như: “Bố mày biết truyện này bố sẽ giết mày” hoặc ngay đến việc đánh đòn bằng roi vọt cũng phải hết sức tránh, đã có người cha bị rắc rối với pháp luật và bị buộc tội hành hạ trẻ con.
                         
                        Lại cũng có trường hợp nhiều bà mẹ quá thương con, biết con có tính xấu, bỏ học, nói dối, ăn cắp vặt, đã không dậy dỗ lại còn che chở, giấu nhẹm không cho chồng biết để tìm cách sửa chữa, để buông xuôi, đã phải hứng chịu những đứa con mất nết, không có tương lai và còn gây tội ác nữa.
                         
                        Xử công bằng với con cái
                         
                        Yêu con cái, tình thương phải đối xử đồng đều, không thiên lệch, con hơn con kém, không bao giờ nên chế riễu nói con dốt, con xấu, hay có tật gì nhưng phải nói cho khéo, thí dụ như da nó đen thì bảo đen một tí mà đen dòn, có duyên, trắng mà vô duyên có hơn gì, hay nếu con có mặt bèn bẹt, phinh phính thì nói thế mà trông phúc hậu đấy ít người có. Nếu con chậm chạp thì nói chậm mà chậm chắc làm đâu được đấy còn hơn là nhanh nhẩu đoảng nếu là con gái, còn nếu là con trai thì nói đâu cần đẹp, chỉ cần khỏe mạnh, rắn chắc tướng đó là tướng anh hùng, cứ chịu khó học hành giỏi, giúp đỡ những người yếu đuối nghèo nàn sẽ được nhiều người quý mến, đừng để con có mặc cảm thấy bị thua thiệt sẽ tủi thân bất mãn.
                         
                        Lời ngọt thì lọt đến xương
                         
                        Khi con hư nên tìm nguyên nhân sự thiếu sót dậy dỗ của mình, tiên trách kỷ hậu trách con.
                         
                        Khi các con có lỗi, ta đừng la lối mắng chửi, hãy gọi vào phòng kín, tránh cho nó khỏi xấu hổ với anh chị em, cắt nghĩa cho con hiểu không nên nói hay làm như vậy sẽ làm buồn lòng cha mẹ, người ngoài khinh chê con gái cần nhắc nhở cho biết ở đất Hoa Kỳ này, con gái họ tự do, ăn mặc hở hang, tự do hưởng thụ, nhưng người Việt mình phải kìm hãm bản thân, tránh mọi cám dỗ dẫn đưa vào con đường tội lỗi.
                         
                        Thấy con cãi lại cho là vô lễ, bất hiếu rồi bạ đâu  mắng đó, chê bai, day dứt, những cái không đáng nói lại nói gắt gỏng, chẳng hạn nó cười thì chê nó toe toét, nó không cười thì bảo nó lầm lì, đi nhanh thì bảo đi nhanh như ăn cướp, đi chậm thì bảo đi như rùa bò, không ăn diện thì bảo nó đần, ăn diện thì bảo nó lẳng lơ.
                         
                        Quá nghiêm khắc áp dụng quy tắc chặt chẽ, không cho phép con cái được tự bào chữa và cũng không thèm nghe chúng nói, ra lệnh bắt chúng phải theo không được có ý kiến, tất cả sẽ làm cho chúng bất mãn. Trái lại, cha mẹ hãy tha thứ, hãy lắng nghe, khuyến dụ và hướng dẫn các con tin tưởng làm điều phải, ôn tồn an ủi chúng, sẽ cảm thấy được yên ổn phấn khởi, thoải mái.
                         
                        Hoa Kỳ là nước đa chủng, từ nhỏ cha mẹ không khuyến khích con cái học tiếng mẹ đẻ, học biết về lịch sử, văn hóa, giống nòi, không biết gốc  gác từ đâu đến, sẽ bị mặc cảm với những bạn khác chủng tộc, bị người gán cho câu “mất gốc”, còn gì tủi nhục hơn.
                         
                        Hãy để nhiều thì giờ kiểm soát, hướng dẫn, ăn uống và cầu nguyện chung trong gia đình. Người mẹ có đặc điểm hữu hiệu hơn người cha: sẽ sàng, ngọt ngào và nước mắt. Nhưng phương pháp hữu hiệu nhất của các bà mẹ Công giáo là kiên trì cầu nguyện nhiều như bà thánh Monica xưa, kiên nhẫn cầu nguyện cho người con lãng tử quay về với Chúa, sau trở nên  một bậc đại thánh  là thánh Augustinô.
                         
                        #27
                          frank 01.12.2022 02:10:18 (permalink)



                          29- Góp Ý




                          Trong cái chết đi tìm lẽ sống, trong tâm tư chúng ta hầu hết là hoang mang, sợ hãi, lo âu. Lo bất trắc xảy ra dọc đường, lo mình sẽ đi về đâu, rồi ra mình sinh sống bằng việc gì? Có hợp với khả năng mình không? Có khổ cực lắm không? Đấy là những cái lo riêng cho bản thân mình, còn lo cho vợ chồng, con cháu, cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu, ai đi được, ai không, ai thất tán nơi nào?

                          Còn ai kẹt lại, bị bắt bị chết bởi bọn đồng chủng mất hết lương tri, dã man tàn bạo cưỡng chiếm miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975. Và trong chúng ta ít ai nghĩ rằng tới sống trên phần đất mới sẽ hoàn toàn đảo ngược với nơi mình đã được sinh ra và lớn lên, nơi mình đã hưởng thụ nếp sống di truyền văn hóa đã sẵn có từ nghìn xưa để lại. Quá giang tùy khúc, nhập gia tùy tục. Nơi đất mới này, học hiểu được tiếng người nói của người ta đã là khó, còn nề nếp phong tục dị biệt là khó khăn.

                          Phải tìm hiểu để theo những cái hay cái tốt, loại bỏ cái dở, cái xấu của họ. Nước Mỹ có tiếng văn minh nhất thế giới, mà cái dở cái xấu của họ cũng không thua kém nhiều nước, như lời một đấng khả kính, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, khi tới Mỹ đã nhận xét: Nước này thiếu luân lý! Và chúng ta cũng có nhiều nếp sống cũ rích, nhiều thói xấu cần loại bỏ. Khi đã yên bề nghề nghiệp sinh sống, bậc làm cha mẹ ai cũng lo lắng đặt sự giáo dục con cái lên hàng đầu. Đó là bổn phận tự nhiên do mình thương yêu con mình.

                          Một khác biệt đáng kể là khi còn ở nước nhà, phần đông gia đình chỉ có người cha đi làm từ sáng đến chiều, hoặc ở ngoài đồng, ở công sở, xưởng hãng, hoặc mặt trận triền miên, ít khi ở nhà gặp con. Việc dậy dỗ con cái đều do bà mẹ, trừ trường hợp phải cần đến uy quyền người cha.

                          Một số nhỏ gia đình ở thành thị, các bà mẹ có trình độ học vấn cao, còn lại nói chung các bà phần nhiều chỉ biết đọc biết viết nên các bà ở nhà làm việc nội trợ, coi sóc nuôi con, cơm nước quần áo cho con. Con cái đi học, uốn nắn từ bé đến lớn luôn luôn trực tiếp dưới tay mẹ dậy dỗ chỉ dẫn nên người, nên ở nhà ít khi xẩy ra trường hợp con cái chống đối cha mẹ, bỏ nhà ra đi, để các bà mẹ phàn nàn khóc lóc có con hư hỏng.

                          Trái lại, trên phần đất văn minh quá tự do này, chúng ta không tiên liệu, đề phòng hết được những hậu quả sa ngã hư hỏng của con chúng ta, đã làm cho biết bao gia đình tan nát, cha mẹ đau khổ vì con.

                          ***

                          Trong một buổi hội thảo có rất đông các bà mẹ, nhiều trường hợp khác nhau đã được đưa ra để góp ý kiến, mổ xẻ, lấy kinh nghiệm giúp đỡ, học hỏi lẫn nhau như sau:

                          Trường hợp A.

                          Con trai tôi 13 tuổi, nó hay bỏ học đi chơi. Nhà trường cho biết học bạ nó kém quá, mỗi khi bố nó xem giấy nhà trường gửi về là đánh mắng. Nó có quá nhiều thói hư tật xấu. Tham ăn, nói dối, ở nhà có cái gì hở ra là nó ăn cắp. Cả nhà ai cũng ghét, mỗi khi có quà bánh, tôi không chia cho nó thì nó cướp của em, anh nó ăn. Bây giờ nó bỏ nhà đi chẳng buồn tìm nó về. Nhiều lúc nghĩ lại cũng thương con dù nó hư xấu mấy cũng là con đứt ruột đẻ ra.

                          Phải nói đây là lỗi ở cha mẹ trước. Bà yêu con không đồng đều thiếu công bằng. Mỗi khi bà chia quà, vì ghét con có nhiều tính xấu bà đã không chia cho nó như các anh em khác. Nó tức, thèm ăn, thì nó cướp quà của anh em. Bà đã gây cớ cho con bà thêm tính xấu. Cũng như những lần bà mua quần áo đồ chơi đã không xử với nó như những đứa con khác, càng ngày em này sẽ càng thêm bất mãn. Tính xấu đã không chừa lại càng gia tăng thêm. Còn bố thấy con học kém hay bỏ học là chỉ biết đánh mắng, nên con bà chán nản. Không lạ gì có người rủ bỏ học theo vào băng đảng ăn cắp ăn cướp là nó theo ngay. Để có tiền mua những thứ từ trước nó muốn bố mẹ đã không cho nó.

                          Lòng mẹ giận con vì con xấu tính, nhưng vẫn thương con Bà muốn cứu đời con hãy đi tìm năn nỉ nó trở về. Cả hai ông bà phải cộng tác với nhau. Ông nên đưa cháu đi chơi, cho đi xem đá bóng, đi xem xinê phim lành mạnh, ra bãi biển, cắm trại nơi thiên nhiên. Trong những ngày đi chơi nên kể chuyện anh hùng liệt nữ đã làm việc nghĩa tốt lành, cứu giúp tha nhân. Hãy làm cho tinh thần nó sảng khoái thích thú, đừng nhắc đến lỗi lầm của nó. Đi mua những thứ nó thích, quần áo đồ chơi. Thỏa mãn nó, tỏ ra quý mến yêu chiều rồi đưa trở lại trường học như trước. Nhiều khi bà còn phải dùng đến nước mắt mà lung lạc nó.

                          Trường hợp B.

                          Con tôi bỏ nhà ra đi, có nên gọi nó trở về hay không? Thà mất đi một đứa con còn hơn gọi nó về để nó làm gương xấu cho các em bắt chước sẽ hư hết. Một bà góp ý như sau: Nên đón con bà về ngay. Thứ nhất, cả hai ông bà nên tự hỏi, trong đời sống hằng ngày, ông bà đã lỗi lầm thiếu sót điều gì để đến nỗi con phải bỏ nhà ra đi? Tại bố, tại mẹ, hay tại cả hai?

                          Khi đón con về, ông bà hãy đón với thái độ bình tĩnh, vui vẻ, coi như con đi chơi xa trở về. Ăn uống truyện trò thân mật như thường. Một hai ngày sau, bà hãy đưa con vào phòng kín, tránh đừng để các em nó biết. Bấy giờ hãy hỏi han khuyên bảo, phân tích tỉ mỉ lợi hại, khuyên bảo những điều nên và không nên làm, dẫn dụ, khuyến khích nó hãy làm gương tốt cho các em bắt chước.

                          Trường hợp C.

                          Một bà phàn nàn, chỉ vì một câu nói tôi đã mất con. Tôi có người bạn gái chơi thân với nhau từ lâu. Mỗi lần tới nhà bạn con tôi hay đi theo, ngược lại bạn tôi cũng đưa con gái lại nhà tôi chơi. Bố mẹ đôi bên thân nhau thì con cái đôi bên cũng chơi quen biết nhau. Tôi biết bạn tôi muốn kết thông gia với tôi, nhưng tôi không ưng ý cô gái con người bạn nên không nói gì. Một hôm con trai tôi về nhà với cái xe bị bẹp, méo mó. Cháu xin tiền để sửa xe, tôi hỏi tại sao. Con tôi trả lời: Đến nhà người bạn tôi chơi, họ giữ lại ăn cơm, lúc ra về vì đường tối xe bị xô vào gốc cây. Tôi quá giận, nói tại sao không về nhà ngay lại đến nhà bạn tôi và cấm từ nay không được đến đấy nữa. Mẹ bảo không nghe lời mẹ thì cút xéo đi đâu thì xéo. Nói xong tôi bỏ đi. Tôi không ngờ nó xếp quần áo vào va li rồi đi luôn.

                          Tôi cũng tưởng nó giận đi lên trường học vì nó ở lưu trú trong trường. Ít lâu sau tôi mới biết người bạn tôi thừa cơ có xích mích giữa mẹ con tôi, bà ta đưa con gái đến cám dỗ nó, đưa nó về mua chiếc xe mới, tổ chức đám cưới linh đình lấy con gái bà ta. Từ đấy nó nghe lời mẹ vợ và vợ, không trở về nhà nhìn nhận bố mẹ nữa. Tôi nói câu truyện của tôi để các bà rút kinh nghiệm đề phòng những người gian ngoan, tìm cách chia rẽ tình mẫu tử, lợi dụng tình bạn đưa con gái đến rũ quyến con tôi vì biết tôi không muốn kết thông gia với họ.

                          Trường hợp D.

                          Một bà xin giúp ý kiến: Con tôi sắp ly dị, tôi là mẹ chồng phải khuyên các con tôi ra sao?

                          Một bà góp ý như sau: Một hôm con dâu tôi tới gặp tôi, nói con sắp xin ly dị. Con không chịu được chồng con nữa. Tôi sửng sốt hỏi tại sao.

                          -Chồng con khó tính hay chửi con lắm. Con đi làm về nhà đã mệt, còn phải vào bếp làm cơm, hì hục nấu những món ăn chồng thích. Làm xong, dọn ra bàn mời anh ấy vào ăn, đã không ăn lại còn mắng chửi. Rồi cứ nằm xem báo, xem truyền hình cho chán, con nói thì gây sự. Nói con cứ ăn đi rồi đi đâu thì đi. Trêu tức con mãi, con không nhịn được nữa, phải ly dị thôi.

                          Tôi gọi con trai đến hỏi, tại sao chúng con định ly dị. Con tôi trả lời. Vợ con nói dai, nói dai lắm. Con đi làm về mệt, muốn nằm nghỉ một lúc, tắm rửa mát mẻ sẽ ăn cơm. Đằng này vợ con dọn cơm xong là bắt ăn ngay, rồi nói sốt ruột không chịu được. Gây gỗ với nhau hoài, nó muốn ly dị cũng chẳng sao. Cho đỡ mệt lỗ tai!

                          Tôi gọi cả hai tới, tôi vừa khóc vừa nói:

                          “Má hiểu cả hai con cùng có lỗi. Con phải hiểu vợ con đi làm về cũng mệt như con. Vì thương yêu con, đã phải vào bếp làm cơm dọn sẵn cho con ăn. Con phải cảm ơn lòng tốt của vợ con mới phải”

                          Quay sang con dâu tôi nói:

                          “Má nghĩ con nên nói ngắn, nói ít đi. Con nên hiểu, người đi làm về đang mệt, chưa kịp tắm rửa cần phải nghỉ ngơi chút ít. Đã mệt lại phải nghe nhiều lời cáu bẩn dễ làm cho chồng con nổi nóng. Hai con hãy suy nghĩ mà làm hòa.”

                          Vài hôm sau, con dâu tôi lại cám ơn:

                          “Má nói nên bây giờ anh tốt với con lắm! Giúp con làm bếp, dọn bàn rửa chén. Cái gì bây giờ chúng con cũng cùng làm với nhau.”

                          Trường hợp E.

                          Con trai, con gái đến tuổi có nên cấm chúng giao thiệp với bạn trai, bạn gái không?

                          Muốn cấm cũng không được. Ở đây, chúng học trường Mỹ, giao thiệp giữa trai gái rất thường. Chúng đến tuổi không thể cấm chúng giao thiệp tìm bạn luyến ái được, nhưng mình phải để ý theo dõi cố vấn cho chúng. Như thấy con mình có bồ, mình không nên ra mặt cấm, hãy khuyến khích nên có nhiều bạn để so sánh tìm hiểu, xem người nào có nhiều tính tốt hợp với mình hơn. Đừng chỉ chú ý một người sẽ không nhận thấy được người đó tốt ở chỗ nào, xấu ở chỗ nào.

                          Cha mẹ cũng cần biết những người bạn của con mình thuộc thành phần nào, tính nết ra sao? Hỏi ý kiến con rồi góp ý, ngăn chặn thành phần xấu đừng để con mình bị bạn xấu lôi kéo.

                          ***

                          Các trẻ em đến tuổi đi học là tuổi dễ cảm nhận, thích tìm hiểu. Chúng như tờ giấy trắng, người lớn làm gì, nói gì, hành động ra sao, sẽ in vào trí não chúng tuy chưa hiểu gì. Người lớn dắt đi lối nào nào, trẻ em đi theo lối đó vì ngây thơ chưa phân biệt được phải trái, khi lớn lên vẫn không quên được lời nói hành động của người lớn.

                          Vậy chúng ta hãy tự giáo dục bản thân mới có đường lối giáo dục con cái được. Hãy làm tấm gương tốt cho con cái noi theo.

                          Nếu bố mẹ hay nói dối, có tính tham của người, con cái sẽ bắt chước trở thành ăn trộm ăn cướp.

                          Nếu bố mẹ hay cờ bạc nghiện rượu, nói lảm nhảm, các con sẽ bắt chước, coi khinh lời nói của bố mẹ.

                          Nếu bố mẹ bất trung với nhau, gây gỗ, chửi bới nhau, có khi giận cá bằm thớt, đổ sự tức giận lên đầu các con, đừng trách các con phẫn hận bỏ nhà đi theo băng đảng, hút nghiện.

                          Nếu bố mẹ không hy sinh để nhiều thời giờ coi sóc con cái, về sau sẽ hối hận vì thiếu sự chăm nom dậy dỗ chúng.

                          Nếu bố mẹ hà khắc, cấm cản, tham lam, bủn xỉn, chúng rất dễ sa ngã vào tay những kẻ lợi dụng bằng lời nói ngọt ngào.

                          Trên đây là những góp ý khác nhau trong cuộc hội thảo. Rất mong sẽ có thêm nhiều cuộc hội thảo đầy bổ ích thích thú như trên.
                          #28
                            frank 02.12.2022 02:39:46 (permalink)
                             



                            30-   Bình Quyền

                             
                             
                            Nước Mỹ là nơi văn minh nhất, giàu nhất, giỏi nhất, đủ tiện nghi nhất, cái hay cũng nhất, cái dở cũng nhất, và cũng tự do nhất thế giới. Tuy nhiên, giới phụ nữ Mỹ chưa thỏa mãn, cho là vẫn còn chưa bình quyền với nam giới, nên phải đòi thêm nữa cho bằng được, vì người đàn bà có thua gì đàn ông đâu. Tất cả các ngành, nghề đều có đàn bà, các ông làm được thì đàn bà cũng làm được.
                             
                            Chỉ phiền một chút là Thiên Chúa, khi tạo dựng trời đất, đã để cho người đàn  ông xuất hiện trước, rồi mới lấy xương sườn cụt của đàn ông để dựng lên đàn bà, và truyền cho hai người ở với nhau, thương yêu nhau như thân mình, và trở nên như một vậy. Chỉ khác biệt bên ngoài, người đàn ông lớn con, có sức mạnh hơn đàn bà, vì vậy việc làm nặng nhọc cần đến sức mạnh của đàn ông, việc nhẹ nhàng cần đến bàn tay mềm yếu khéo léo của đàn bà. Thiên Chúa công bằng vô cùng, Ngài không có nói đàn ông có quyền hơn, cũng không nói đàn bà phải phục tùng đàn ông, nhưng rồi loài người cứ vẽ thêm truyện, để bắt nạt lẫn nhau.
                             
                            Hồi tưởng lại khi còn nhỏ, nàng nhớ khi được bố dẫn đến trường nơi anh nàng đang học, rồi năm sau em nàng đến tuổi cũng đi học ở đây, học được vài năm, biết đọc biết viết, biết làm bốn phép toán cộng, trừ, nhân, chia. Rồi mẹ bắt ở nhà, nói: “Con gái không cần học nhiều, biết đọc biết viết là đủ, hãy ở nhà giúp mẹ coi em, tập rửa bát, quét nhà và để mẹ sai vặt.” Trong lúc đó, anh và em trai vẫn đi học, đúng là các cụ trọng nam khinh nữ, như người ta thường nói.
                             
                            Không được đến trường học nữa, cũng nhớ trường, nhớ bạn, trong những giờ chơi cùng với bạn rủ nhau đánh chuyền, đánh chắt, chơi ú tim. Tuy nhiên tuổi trẻ cũng chóng quên; ở nhà có công việc mới cũng luôn chân luôn tay hợp với tuổi nhỏ; lớn dần, việc theo tuổi, mẹ sai đi chợ mua đồ, ra vườn làm cỏ, hái dâu nuôi tầm; lớn hơn nữa, lại tới xóm trên học se chỉ, kéo sợi, quay tơ, học dệt vải, ngày mùa ra đồng trông coi người làm trồng, cấy, gặt hái.
                             
                            Vào mùa thu, công việc nông tang đã dãn, tuổi nàng đã cặp kê, các bà mai mối họat động ráo riết, hết đưa đám này đến xem mặt lại đến đám kia, gia đình nào cũng khoe là tốt là hay, các bà mẹ đàng trai hay chọn con gái nhà khá giả, biết làm ăn, có nghề, biết buôn bán thì hay nhất, nếu cô nàng trông dễ coi, không cần đẹp lắm, mà ăn nói nhẹ nhàng nữa thì cũng thật hợp ý. Tin đi mối lại, rồi bố mẹ cũng chọn được một đám theo ý bố mẹ, không cần biết con gái nhà mình có bằng lòng hay không, nếu không bằng lòng thì cô gái cũng chỉ phản đối một cách tiêu cực, bù lại bố mẹ hứa cho thêm ít tiền làm vốn hay mua cho đồ trang sức theo ý thích, là cô gái cũng bằng lòng luôn.
                             
                            Rồi một ngày đẹp trời, nàng đã lên xe hoa về nhà chồng với họ trai đón, họ gái đưa, cuộc đời có nhiều ngã rẽ, nàng làm dâu một gia đình buôn  bán, mà nàng chưa hề học buôn học bán; nhưng chẳng làm sao hết, len lỏi vào nghề rồi cũng biết, làm ăn có thời có vận; gặp may, vợ chồng hứng khởi, chồng đi mua vợ ở nhà bán hàng, buôn có khi lãi, có khi lỗ, không ai nói ra nói vào, như chồng lên mặt khi có lời hay vợ bẳn gắt khi thua lỗ, vì họ hiểu cùng làm, cùng chịu, cùng hưởng.
                             
                            Nhiều khi nàng tự hỏi, có phải phong tục trọng nam khinh nữ đã có từ hồi Bắc thuộc, người Tầu đã du nhập phong tục Tam Tòng (tại gia tòng phụ, xuất gia tòng phu, phu tử tòng tử, có nghĩa là ở nhà thì phục tòng bố mẹ, đi lấy chồng thì phục tòng chồng, khi chồng chết thì phục tòng con) buộc lên đầu lên cổ người phụ nữ Việt Nam, nên đàn ông thấy lợi đã cố duy trì hủ tục này để cho phụ nữ các thế hệ sau phải chiụ sự bất công.
                             
                            Theo phong tục Việt Nam trước đây, cha mẹ thường chỉ cho con trai đi học, mong sau này đỗ đạt làm nên danh phận, rạng rỡ tông môn, con gái đi lấy chồng không giúp được gì cho cha mẹ. Nhưng xét về tình yêu thì cha mẹ vẫn thường yêu trai cũng như gái. Tuy không được đi học nhà trường, ở nhà người con gái được mẹ dậy cho biết tề gia nội trợ, biết thêu, may, đan, dệt, buôn bán hay một nghề phòng thân, như mẹ thường nói “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Cha mẹ thường quan niệm rằng con gái khi đi lấy chồng, hãy làm trọn bổn phận của người mẹ hiền, vợ thảo, xứng đáng là “nội tướng” trong gia đình, vì người xưa thường nói “lệnh ông không bằng còng bà”, vì bà giữ tay hòm chìa khóa, có quyền thu quyền phát, nên thường thường đàn ông không cần phải nghĩ đến việc nhà, vì đã có bà chu toàn lo liệu tất cả.
                             
                            Nam nữ bình quyền có nghĩa là cả hai: vợ cũng như chồng, trở nên như một, thì người chồng có cớ gì dám khinh người vợ và người chồng phải ý thức được rằng vợ mình là một con người có cảm tình, trí khôn và những mong ước cao vời như bao người khác. Thời xưa, không nghe thấy ai nói giới phụ nữ đòi hỏi bình quyền, vì trên thực tế nam nữ vẫn quyền ngang nhau, kính trọng nhau, đó là lẽ tự nhiên.
                             
                            Theo vận nước, trôi nổi tới đất văn minh nhất thế giới, có tự do, có quyền bình đẳng, người ta không còn biết tương nhượng, biết lui tới, biết nhẫn nhịn nhau; việc gì cũng đưa tới pháp luật giải quyết. Tại nước Mỹ cũng như tại quê hương hiện giờ, nền tảng gia đình của chúng ta đang nứt rạn trầm trọng và có cơ đổ vỡ tận gốc rễ. Viễn ảnh gia đình mỗi ngày thêm mù mịt tăm tối.
                             
                            Con trai con gái đến tuổi trưởng thành, việc lo dựng vợ gả chồng là quyền và bổn phận của cha mẹ, nhưng ở xứ này, cha mẹ còn có quyền gì đâu nữa trên con cái, khi chúng đủ 18 tuổi. Chỉ có lấy kinh nghiệm  mà dìu dắt, khuyên bảo, đưa ra những câu truyện gia đình đã đổ vỡ, để làm gương cho con em học hỏi. Các cô các cậu đứng trước cửa, trong cửa, hay đã qua cửa đại học mặc lòng, nhưng vẫn chưa đủ kinh nghiệm tìm người bạn đời, mà lại còn tự phụ cho mình đủ khôn ngoan; nhưng gặp phải đối phương, trông có mã đẹp bề ngoài, hay kém nhan sắc nhưng biết nói khéo, nhẹ nhàng, hiểu được tâm lý, chiều chuộng đối phương theo ý thích, như thích đi ăn ngon, mặc đẹp, thích âm nhạc, thích khiêu vũ, thích đi chơi, mà cô cậu cho là đã gặp được ý trung nhân, cho đây là tiếng sét ái tình.
                             
                            Nhưng có biết đâu đối phương chỉ nhằm vào túi tiền, địa vị, nghề nghiệp, bảo đảm cho một cuộc sống đầy đủ xa hoa. Vì đã có chủ đích, họ sẽ không từ bỏ một phương cách nào đã nắm chắc linh hồn chàng hay nàng. Họ khéo che đậy tính xấu, đóng kịch một người con gái ngoan hiền, nết na, hoặc một chàng trai hào hiệp, phóng khoáng, có tư cách, có tinh thần cầu tiến.
                             
                            Họ ngụp lặn trong tình yêu, họ hồ hởi đưa nhau về giới thiệu với gia đình dù cha mẹ, anh em, họ hàng hay bạn hữu, có người biết về quá khứ không tốt, hay vì hở một lời nói, một cử chỉ, hành vi, mà gia đình nhận biết sự giả tạo của cô, cậu, mà muốn ngăn chặn, khuyên bảo cũng vô ích, họ vẫn tiến tới, viện vào quyền tự do kết hôn.
                             
                            Qua tuần trăng mật, trở lại cuộc sống thực tế, trút bỏ mọi giữ gìn, cô, cậu hiện nguyên hình, mọi tính tốt, xấu đều bộc lộ, nếu không chiều được tính xấu, không nhịn được lời lỗ mãng, tục tĩu, hoặc thiện chí không được đáp ứng, viện vào quyền tự do và bình đẳng, không ai trói buộc được gì, nên đi đến chia rẽ là cái chắc, và nguyên nhân đưa đến gia đình tan vỡ cũng có rất nhiều.
                             
                            Cặp A và  B, đôi bên cha mẹ rất vừa lòng cho là môn đăng hộ đối, mọi việc  cưới hỏi đều theo tục  lệ và tổ chức thật linh đình. Chàng là chuyên viên mới ra trường, trẻ đẹp, công việc làm vững chắc và lương cao và có cao vọng lấy cô nào trẻ đẹp càng hay nhưng phải là con nhà giầu và có công ăn việc làm. Cô B. hội đủ điều kiện nhưng tiền lương kỹ sư của cô ít hơn lương của chàng A. Sau khi cưới hỏi xong chàng bắt nàng vừa đi làm vừa đi học  thêm để có công việc tốt hơn. Tiền lương cô B đưa về chàng nắm hết. Ngoài công việc ở sở và sau khi đi học về, cô B phải lo hết việc nhà: cơm nước, quần áo, lau chùi dọn dẹp chỉ một mình cô làm, chàng chẳng hề giúp một tay, lại còn dở trò vũ phu, thượng cằng chân hạ cẳng tay mỗi khi không vừa lòng. Chịu không thấu, nên cô B đành chia tay trở về nhà cha mẹ.
                             
                            Cặp T. và H., chàng đang học trường y khoa sắp ra bác sĩ, gặp nàng H. con cưng của người bạn của cha mẹ, nàng đẹp, nhỏ nhẹ, khéo nói, kéo chiều, nên hai người yêu nhau. Đám cưới của T và H đã diễn ra một cách khá nhanh vì đôi bên cha mẹ đều là bạn với nhau.

                            Cưới H. về, bố mẹ chồng chiều chuộng nàng dâu, mua xe thật sang, sắm nhiều đồ trang sức đắt tiền; nhưng chỉ ít lâu sau, cô H. bắt đầu bộc lộ bản tính lăng loàn và nhất là thích đi ăn đi chơi, ban ngày đi đánh quần vợt, tối về đòi chồng đưa đi ăn rồi đi khiêu vũ. Chàng T. đầu tiên còn chiều vợ nhưng chỉ một ít lâu sau, vì bài vở nhiều, và gác trực nhà thương cũng mất nhiều thì giờ, nên chàng T. và nhà chồng đành chịu thua không chiều được nữa, nàng H. vẫn đi chơi một mình.
                             
                            Đi lắm có ngày gặp ma và nàng đã ngã vào tay của người làm nhà hàng. Ra tòa xin ly dị, nàng lấy được xe, giữ được hết nữ trang và đồ đạc bố mẹ chồng sắm cho, và về sống với người tình mới. Vì chỉ nghĩ đến ăn chơi, ích kỷ cho sướng thân nên chỉ được ít lâu cũng trở thành thân tàn ma dại, không còn dám nhìn đến người chồng cũ, đã công thành danh toại, có một tương lai đầy hứa hẹn.
                             
                            Anh P. và chị K. thương nhau, ban đầu chiều nhau lâu dần nhàm quen, bản tính chồng chúa vợ tôi thừa hưởng của bố anh từ ở quê nhà đã ngóc đầu dậy ở đất tự do này. Anh đi làm về, chi tiền cho vợ như người làm công, việc nhà không bao giờ giúp vợ, dù con đói khóc đòi ăn, vợ cũng cứ phải hầu anh cho đầy đủ. Thậm chí vợ mới sanh con yếu ớt, anh lại muốn ăn đồ Việt Nam, chị phải bế con ra để anh lái xe tới chợ, một mình vợ vào mua đồ khệ nệ khuân đồ ra một mình, anh không giúp một tay.
                             
                            Chi K. hiểu cái cảnh ăn nhờ chồng, theo cái ý nghĩ hẹp hòi của chồng, khổ cực nhục nhã, chị âm thầm chịu đựng chờ con lớn khôn, mới đi gửi nhà nuôi trẻ, chị đi làm kiếm được nhiều tiền hơn anh, cảnh chồng chúa vợ tôi không còn tái diễn, luật bình đẳng tự nhiên mà có, không cần đòi hỏi.
                             
                            Khi lấy nhau không có cha mẹ cố vấn, hay không nghe lời cha mẹ, họ hàng thân thích, hoặc bạn hữu đã biết trước những khuyết điểm và thấy tình hình không hợp nhau, nên khuyên can, nhưng quyết đi tới hôn nhân và do đó đời sống gia đình của nhiều cặp đã bị đổ vỡ.
                             
                            Có nhiều nơi, nhất là các nhà thờ Công giao đã mở những lớp dự bị hôn nhân cho các thanh niên nam nữ sửa soạn bước vào đời sống gia đình; những lớp này thường kéo dài 6 tháng, nên đôi trẻ có thì giờ để hiểu biết  nhau hơn. Những lớp dự bị hôn nhân này thường có những chương trình học hỏi chung rất đặc sắc để giúp cho đôi trẻ nhận thức được tình cảm của mình đối với người bạn đời để cùng sống với nhau trọn đời trong ân sủng của Thiên Chúa.
                             
                            Các cụ ngày xưa không xóa được phong tục trọng nam khinh nữ, nhưng đã khôn ngoan trang bị cho con gái đức tính tốt, và học nghề nghiệp trước khi lập gia đình, nên con gái các cụ đã trở thành người chủ phụ,  nội tướng, nắm được quyền tay hòm chìa khóa trong gia đình, làm cho ông chồng phải nể, phải kính trọng, khỏi cần phải tranh đấu cho nam nữ bình quyền.
                            #29
                              frank 02.12.2022 03:07:48 (permalink)
                               
                               
                               
                              31-   Chân Dung Người Phụ Nữ Việt Nam Qua Các Thời Đại
                               
                               
                               
                              Từ cuối đời nhà Triệu đến đời nhà Ngô hơn một ngàn năm, người mình phải cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người Tàu. Cho đến năm 43, hai bà Trưng nổi lên đánh quân Tàu, thu được 65 thành trì, nhưng chỉ tiếc rằng quân mình ô hợp, lực lượng còn trong thời kỳ phôi thai, chưa kịp chỉnh đốn quân mã. Đối thủ lại là tay danh tướng từng trải, đoàn quân Việt bị phá vỡ, hai bà thế cùng phải gieo mình xuống sông Hát Giang tự vận.
                               
                              Sử gia Lê Van Hưu nói rằng, Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu đến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người Tàu mà không biết xấu hổ với người đàn bà họ Trưng (Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim).
                               
                              Nguyên hai bà Trưng là con gái một vị Lạc tướng ở huyện Mê Linh làng Hạ Lôi, thuộc tổng Yên Lãng tỉnh Phúc Yên. Bà Trưng Trắc có chồng là ông Thi Sách bị Thái thú Tô Định bắt giết. Sau khi ông Thi Sách bị giết, bà cùng với em bà là Trưng Nhị đứng lên quy tụ anh hùng hào kiệt chỉ huy đại cuộc. Nhị vị nữ anh hùng Trưng Vương đầu tiên đã mở trang sử độc lập cho giống nòi mà dân Việt Nam mỗi  khi nhắc đến đều  tỏ lòng kính phục.
                               
                              Ngoài hai bà Trưng, những vị nữ danh tướng dưới cờ hai bà Trưng còn có nhiều người:
                               
                              -Bà Hoàng Thiệu Hoa người ở huyện Gia Hưng tỉnh Thanh Hóa. Bà tổ chức nghĩa quân, mua sắm gươm đao, tích trữ lương thảo, khi nghe tin hai bà Trưng nổi dậy đã kéo quân về dưới cờ. Được khen thưởng công trạng, bà nói: “Tôi chỉ làm nhiệm vụ cứu dân, chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề khác.” Câu nói bất hủ không màng danh lợi của bà đã được ghi vào sử sách.
                               
                              -Bà Phùng Thị Chính là một danh tướng túc trí đa mưu. Bà có sức khỏe phi thường; trong một trận đánh giặc Tàu, bà đang có thai gần kỳ sinh vẫn lên ngựa xông ra trận. Đang khi đánh, bà chuyển bụng lâm bồn, đẻ con ngay ở mặt trận. Bà lấy áo bọc con buộc vào người rồi lại tiếp tục đánh quân địch lui, bà mới trở về. Bà là vợ ông Đinh Lượng người làng Phú Nghĩa thuộc tỉnh Sơn Tây. Khi nghe tin hai bà Trưng  hiến mình cho tổ quốc, bà cũng tự vận theo.
                               
                              -Bà Lê Chân người làng An Biên, huyện Đông Triều thuộc tỉnh Hải Dương. Cha bị hại về tay Tô Định, bà xin gia nhập vào đội nghĩa binh của hai bà Trưng, giữ chức Tiên phong. Bà lập được nhiều chiến công oanh liệt. Khi hai bà tuẫn tiết bà cũng tự trầm chết theo.
                               
                              -Bà Cao Nhự ở làng An Bồi, phủ Kiến Xương thuộc tỉnh Thái Bình. Xuất thân nơi miền duyên hải, bà được hai bà Trưng tin dùng giao lãnh đạo thủy quân. Bà đánh đâu được đấy, lập được rất nhiều công trạng. Chẳng may hai bà thế cùng lục kiệt, bà Cao Nhự cũng cùng hai bà nhảy xuống sông để bảo toàn danh tiết.
                               
                                                             ***
                               
                              Năm 248, sau hai thế kỷ bà Triệu đã theo gương hai bà Trưng. Bà là một thiếu nữ trên 20 tuổi, ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, tên là Triệu Thị Trinh. Bà còn có những tên khác là Triệu Trinh Vương, Triệu Trinh, Nhụy Kiều tướng quân. Tên Triệu Ẩu là do giặc Tàu đặc ra để miệt thị bà. Bà mồ côi cha mẹ từ thuở bé, ở với người anh là Triệu Quốc Đạt.
                               
                              Bà có chí anh hùng, có sức mạnh, có mưu lược nên hàng nghìn tráng sĩ theo bà vào núi để thao luyện   quân mã, mưu cuộc khởi nghĩa. Buổi đầu ông Triệu Quốc Đạt không tán thành, khuyên can bà thì bà trả lời: “Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, chém cả tràng kình ở biển Đông, quét bờ cõi để cứu dân khỏi khổ ải, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu còng lưng làm tì thiếp cho người ta.” Sau khi ông Triệu Quốc Đạt bị đầu độc chết, bà bị cô thế thua sút trước lực lượng của giặc, bà lui quân về xã Bồ Điền tỉnh Thanh Hóa và tuẫn tiết tại đó.
                               
                                                            ***
                               
                              Trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh của vua Lê Lợi, có chuyện của nữ ca kỹ Kim Oanh. Nàng là người làng Đào Xá, huyện Tiên Lữ thuộc tỉnh Hưng Yên, có sắc đẹp lại hát hay và cũng là một công dân yêu nước. Mặc dù chân yếu tay mềm nhưng nàng tiêu diệt giặc bằng mưu trí.
                               
                              Một buổi tối nọ bọn giặc mời nàng vào đồn ca hát, nàng vận động khả năng phục rượu  cho bọn lính Tàu say túy lúy. Một mặt nàng đã mật báo cho các dũng sĩ mai phục quanh vị trí giặc, rồi dụ chúng cho nàng cột túi ngủ cho chúng vì giặc Tàu sợ muỗi chui vào bao để ngủ. Xong nàng ra mở cửa đồn cho nghĩa quân xung phong vào tiêu diệt giặc. Câu truyện nữ ca kỹ Kim Oanh được truyền đi khắp nơi như một bài hịch tướng sĩ trong đại cuộc kháng Minh.
                               
                                                              ***
                               
                              Những thế kỷ tương đối gần đây có các nữ danh nhân Việt Nam như vào đầu thế kỷ thứ 18 có bà Đoàn Thị Điểm. Bà người làng Hiếu Phạm, huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh, biệt hiệu Hồng Hà nữ sĩ. Bà còn nhỏ đã nổi tiếng thần đồng vì có 6 tuổi đã đọc được bộ sử ký Tư Mã Thiên. Khi có sứ Tầu sang bà giả làm người bán quán rượu, ở bên ghế bà ngồi để nhiều sách vở. Sứ Tàu mới ra một câu đối rằng: “An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh” có ý xấc và chọc ghẹo (nghĩa là An Nam một tấc đất, chẳng biết mấy người cày).
                               
                              Bà bèn đối lại ngay rằng: “Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất” (nghĩa là nước Bắc (Tàu) các vị đại phu do đường ấy mà ra cả). Các sứ giả chịu tài và cũng lấy làm thẹn.
                               
                              Bà có soạn tập Chinh Phụ Ngâm diển nôm thành điệu song thất lục bát, nguyên văn chữ Hán của ông Đặng Trần Côn. Năm 30 tuổi, bà mới kết duyên với ông Nguyễn Kiều. Khi chồng chết, bà mở trường dậy học, năm 70 tuổi bà mới từ trần.
                               
                              Bùi Thị Xuân là vợ danh tướng Tây Sơn, ông Trần Quang Diệu. Bà người làng Xuân Hoa, xã Bình Phú quận Linh Khê tỉnh Bình Định. Bà là một nữ tướng rất dũng cảm, lập được nhiều chiến công và có độ lượng, không bao giờ bà giết những quân đã thua chạy hay đầu hàng.
                               
                              Ngọc Hân Công chúa con vua Hiến Tôn nhà Lê khoảng cuối thế kỷ 18. Vua Hiển Tôn gả bà cho ông Nguyễn Huệ tức vua Quang Trung. Năm 1792 vua Quang Trung tạ thế, bà mới ngoài 20 tuổi. Văn chương bà để lại rất nhiều nhưng bị mai một tất cả, chỉ còn bài tế vua Quang Trung và bài Ai Tư Văn là nhưng áng văn chương thật hay.
                               
                              Huyện Thanh Quang (không ai biết tên thật) ở làng Nghi Tàm, huyện Hoàng Long tỉnh Hà Đông. Bà lấy ông Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, đã để lại những bài: Cảnh Chiều Thu, Qua Đèo Ngang, Thăng Long Hoài Cổ, Chơi Chùa Trấn Quốc, là những bài nổi tiếng nhất.
                               
                              Nữ sĩ Hồ Xuân Hương nguyên quán làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Sớm mồ côi cha, được mẹ cho theo dõi bút nghiên, được ít lâu bà phải thôi học. Nhờ ở tự tu tự học, bà nổi tiếng hay chữ và hay làm thơ trào phúng hào hước. Thi  phẩm của bà người sau sưu tầm lại thành một tập gọi là Xuân Hương Thi tập.
                               
                                                            ***
                               
                              Những nữ danh nhân nổi tiếng trong thời chống Pháp cũng rất nhiều.
                               
                              Mai Đình Ý, thường gọi là bà Tú Ý, là con gái của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ. Bà là nữ thi sĩ nổi danh đương thời có lòng ái quốc, vận động tổ chức thuộc phòng trào Cần Vương.
                               
                              Tám không ai biết tên thật, khi vào yết kiến ông Phan Đình Phùng, nói là con gái ông Hoàng Phúc một nhà cách mạng Cần Vương ở Quảng Bình đã chết. Cô là người quả cảm mưu trí, thường giả làm người bán rượu lừa những người lính tập để lấy súng. Sau cô được cụ Phan phái đi xuyên rừng qua Xiêm mua thuốc  súng đạn được, cô đi được bốn năm chuyến rồi thất tung.
                               
                              Đào Thị Mai con vị mưu sĩ Đào Duy Đức ở Thái Nguyên. Cô là nữ điệp viên có hạng trong chiến khu Bãi Sậy. Đến khi thất thế cô hướng dẫn đưa cụ Nguyễn Thiện Thuật và em là ông Hai Kế tạm xuất bôn qua Trung Hoa. Sau cô vào tu ở chùa Thương Tích Quang ở Hàng Châu pháp danh là Diệu Thanh.
                               
                              Cử Hanh, chồng là tri huyện Thủy Đường, có một con trai là Nguyễn Cao, mới được 7 tháng thì ông Cử Hanh chết. Lúc đó bà mới 22 tuổi, là hoa khôi của tỉnh Bắc Ninh, tuy có nhiều nhà quyền quý theo đuổi bà vẫn cương quyết không tái giá.
                              Ở làng có tên lý tưởng giầu có nhất tỉnh Bắc Ninh, tìm đủ cách mai mối không được, một hôm gặp bà ở ngoài đường hắn dùng sức mạnh làm ẩu sờ được nhũ hoa. Bà cho đó là cái điểm nhục nhất đời. Sau đó bà phải ôm con đi lánh nạn nơi xa. Cách mấy năm sau con đã hơi khôn lớn, bà trở lại làng cũ.
                               
                              Nhân ngày giỗ chồng bà sửa soạn bữa tiệc mời họ hàng làng xóm tới, có cả tên lý tưởng. Vừa lễ chồng xong, bà chỉ mặt tên lý trưởng nói: “Đồ ác bá, mi lợi dụng cường quyền ép ta, đón đường toan hiếp ta. Đã 6 năm nay ta ngậm tủi hờn mang dấu tay ghê tởm của mi. Ta sống nhục nhã đến nay là vì con ta còn quá nhỏ không để nó bơ vơ được. Nay nó có thể nối dõi được rồi, nên hôm nay ta quyết đi theo chồng ta cho trọn tiết phải đạo. Ta tố cáo hành động dâm ác của mi trước họ hàng làng xóm. Đây dấu tay nhơ uế của mi ta trả cho mi.” Lập tức ba rút con dao bén nhọn, thản nhiên rạch áo, cắt lìa cặp nhũ hoa ném vào mặt tên lý trưởng trước sự kinh hoàng của mọi người. Trước khi tắt thở, bà nắm tay Nguyễn Cao (sau này là Tán Cao) trăn trối: “Mẹ đau đớn lìa con, con ở lại cố gắng lập thân với đời. Giòng nhà ta là giòng máu trung trinh tiết liệt.”
                               
                              Ấu Triệu, tên thật là Lê Thị Đàn, người xã Thế Lai tỉnh Thừa Thiên, con gái cụ Lê Xuân Uyên, một nhà tiền bối cách mạng bị Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Thiên. Trong lúc bà đi tiếp tế cho cha đã lọt vào mắt ông Đốc phủ họ Đinh người Nam kỳ, lúc đó là công chức cao cấp ở tòa Khâm Sứ, Bà nhận lời lấy làm lẽ ông Đốc  nhưng buộc ông ông Đốc phải tìm cách giải cứu ông cụ khỏi tù. Khi ông Đốc phải đổi về Sàigòn, bà không đi theo, ở lại nuôi cha già và tiếp tục chí hướng của cha làm cách mạng. Năm 1912, bà là đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị. Năm 1916, cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục Hội do vua Duy  Tân lãnh đạo bị thất bại, bà Đốc bị Pháp bắt. Bị giam ở nhà lao Phủ Thừa, mặc dù chúng tra khảo dã man, bà cương quyết không khai ra một ai. Nhân một lúc lính gác ngủ say, bà xé áo làm giây treo cổ tự sát.
                               
                              Nhà chí sĩ Phan Sào Nam bị Pháp giam lỏng tại Bến Ngự đã dựng một bia đình hình vuông mặt tiền có bốn chữ Hán “Ấu Triệu bi đình”. Hai bên trụ là một câu đối quốc văn: “Tổ nhân soi nghĩa giây lưng trắng – Dạ sắt lòng sen nét má hồng.”
                               
                              Đặng Thị Nhu là bà ba Đề Thám, anh hùng dân tộc hùm thiêng Yên Thế. Bà cũng bày binh bố trận, đầy đủ mưu cơ chính trị cũng như quân sự. Vị anh hùng chọc trời khuấy nước Đề Thám đã trông cậy rất nhiều vào tài ba lỗi lạc của vị nữ lưu anh kiệt ấy. Trong nhà bà dắt con gái là Hoàng Thị Thế 8 tuổi chạy theo ông Đề Thám trong rừng tỉnh Bắc Giang thì cả hai mẹ con đều bị bắt. Cuối năm 1909, trên chiếc tầu binh Pháp từ Hải Phòng đi Guyane, bà Đặng Thị Nhu cắn lưỡi tuẫn tiết trước hơn 40 chiến sĩ anh hùng Yên Thế đang ngậm ngùi sa lệ.
                               
                              Trần Thị Quy hiệu Thiệu Trưng, người làng Tương Lộc, quận Tân Bình tỉnh Vĩnh Long, con cụ Trần Phước Định và bà Bùi Thị Lang. Bà xuất ngoại định sang Nhật đi tới Sơn Đầu bị chính quyền tại đây trục xuất. Trở về Quảng Châu, bà gặp cụ Phan Bột Châu giao trách nhiệm về nước hoạt động cho phong trào Đông Du. Bà bị mật thám bắt rồi thả, ba lần chịu nhiều cực hình tra tấn, bà vẫn không cung khai một đồng chí nào. Bà đấu tranh gian khổ cho cách mạng, suốt đời hiến thân cho dân tộc.
                               
                              Thị Nghè, vợ một ông Nghè đã chết từ lâu, sinh sống tại Thị Nghè gần Sàigòn. Khi thấy một chiếc  tàu Pháp tiến vào sông Thị Nghè đổ  quân lên bộ, bà kêu gọi nhân dân nam nữ tổ chức thành một nhóm du kích, đón đường giết giặc Pháp trong nhiều trận kinh hồn. Quân Pháp bị giết khá nhiều, nhưng bà bị chết trong trận du kích chót. Nhân dân tại đây đã đặt tên vùng này là Thị Nghè để nhớ người phụ nữ dũng cảm có tấm lòng yêu nước cao độ.
                               
                              Nguyễn Thị Giang, người làng Đồng Vệ, phủ Vĩnh Tường tỉnh Bắc Giang, là nữ đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng và cũng là người vợ chưa cưới của đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Bà là một người dân tận trung với nước, một người vợ tận nghĩa với chồng.
                               
                              Bắc, cô Vân, cô Tám, bà Chánh Toại đều là nữ đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, bị bắt, bị tù đầy và bị thủ tiêu.
                               
                              Các bậc hiền phụ có rất nhiều và nổi tiếng như bà Tú Xương, bà Phan Bội Châu, bà Sương Nguyệt Ánh….
                               
                                                           ***
                               
                              Từ ngày bọn quỷ đỏ gieo tang tóc trên đất nước Việt Nam, đã có biết bao nhiêu bà hiền phụ dũng cảm, đầy đức tính chưa được nêu danh vì còn trong vòng kiềm tỏa. Những bậc hiều phụ đánh kính trọng, chồng bị cộng sản bắt giam trong trại học tập, sống eo hẹp thiếu thốn, phải nuôi con nhỏ dại, cha mẹ già đau yếu, kiếm đủ cách để thăm nuôi chồng nơi núi thẳm rừng sâu. Bà nào nhan sắc mặn mà còn bị cán bộ nay đòi mai ép, nhiều trường hợp xảy ra có bà phải chui qua cửa sổ nhảy sang mái nhà bên cạnh rồi nhảy xuống đất, bất kể sống chết để bảo toàn danh tiết.
                               
                              Người phụ nữ Việt Nam qua các thời đại có đủ đức tính anh dũng, bắt khuất, đảm đang, trung hậu, đức hạnh. Những bản tính này đã có từ lâu, người trước làm gương cho người sau, là căn bản cho dân tộc Việt và giúp cho sự gìn giữ và trường tồn của người Việt chúng ta.
                               
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 34 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9