(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI
Thay đổi trang: << < 404142 > >> | Trang 42 của 45 trang, bài viết từ 616 đến 630 trên tổng số 666 bài trong đề mục
Nhatho_PhamNgocThai 18.06.2019 13:20:22 (permalink)
 
 
            EM CÓ ĐƯỢC BAO PHẦN NƯƠNG NÁU TRÁI TIM ANH
                          . Bài thơ viết lúc nửa đêm
                                                 *
Câu em hỏi làm anh đau xót
Anh chỉ biết yêu, biết nhớ, biết thương
Có bao giờ chia nhỏ trái tim
Phần này cho em, phần này cho người khác.
 
Nửa đêm trường bỗng choàng thức giấc
Nghe tiếng ai tha thiết gọi tên mình ?
Trong lòng anh, em vẫn vẹn nguyên
Không cắt sẻ tình thương chia ai cả.
 
Đời khát vọng... ôm ấp người nhi nữ...
Đưa em vào trong biển nhớ, trời yêu
Nỡ khi nào để em bị thương đau
Hãy tin nhé: Anh vẫn dành cho em, không xén bỏ.
 
Mong em sống ngọt ngào hương cám dỗ
Hương vị đời... Hương vị của tình yêu...
Em đừng buồn. Anh sẽ chẳng xa đâu
Sớm tối về bên em ấp ủ.
 
Hãy cùng anh sống những ngày vui vẻ
Hãy cứ yêu như chỉ để mà yêu
Đời người lưu luyến được bao nhiêu
Tình anh trao. Em cứ giữ riêng mình, không đau khổ !
 
Anh lang bạt khắp chân trời, xứ sở
Là chàng thi sĩ của thương yêu
Đến với em chỉ muốn cưng chiều
Để em được thêm nhiều hạnh phúc.
 
Cũng đừng nghĩ, anh sẽ vì người khác...
Lãng quên em ? Không. Lòng vẫn tột cùng thương
Dành cho em tới cuối cung đường
Cả khi khuất. Gió bay... Hồn vẫn tràn nhung nhớ...
 
Bởi em là người nhi nữ anh đã nặng tình... từ buổi đầu gặp gỡ...
 
             17.6.2019
      PHẠM NGỌC THÁI
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.06.2019 13:22:02 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 17.07.2019 11:24:40 (permalink)
 


 
 
NGƯỜI THÔN NỮ MIỀN SÔNG NƯỚC
 
Nén hương lòng anh tưởng niệm mối tình em
Bóng trúc vắng, làng quê xanh viễn vọng
Giọt lệ đắng em hòa cùng anh uống
Chốn xa vời người lữ khách đứng dừng chân.
 
Xin để lại cho đời vài khúc ca ngân
Nghìn năm sau - Thế nhân ơi, hãy nhớ !
Tấm hình ta cùng nàng một thưở
Và cuộc tình nước mắt lẫn yêu thương.
 
Anh không thể mang em theo trọn kiếp thi nhân
Giúp em vượt qua đời bể dâu khốn khổ
Mai có đến gặp lại anh bên nấm mồ
                                  nơi chân trời, xứ sở
Xõa tóc mà than khóc cõi dương gian...
 
Anh vẫn chờ em ở dưới suối vàng
Ta hãy quên đi thế giới đầy bạo loạn
Để cùng em kết trăm năm tình bạn
Của tình yêu tự trái tim anh !
 
Anh vẫn thương em dù duyên phận bẽ bàng
Chẳng phải vì em, chẳng phải anh không muốn
Nhưng em ạ ! KIỀU đã nói rồi,
                                        đó là bể sống...
Tình giữa trần ai, nước mắt trộn cơm chan.
 
Dẫu phải biệt xa...
                           anh có hạnh phúc đâu em ?
Vẫn biết đời em cũng hòa dòng lệ đắng
Ừ, thì trang nam anh khinh thường kiếp nạn
Chỉ thương em là phận nữ nhi.
 
Hãy vững bước lên em vào thế giới của ca thi
Sẽ giúp em quên mọi điều sầu muộn
Anh chỉ tiếc không thể dìu em tới bến...
Mong đất trời có Thượng đế đỡ em đi !?
 
                          *
 
Thơ viết đã dài mà chẳng thỏa nỗi tình si
Ta lại cất tiếng gọi tên em:
-  Người thôn nữ miền sông nước...
Mai dân tộc có đặt ta nằm ở nơi nào
                                 dưới gầm trời tổ quốc
Hãy đưa mộ nàng về
                               chôn cạnh nấm mồ ta.
 
Để con cháu đời đời cất cao bản tình ca
" Không có chiến tranh,
                           chỉ có tình yêu bất diệt ! "
Anh sẽ nâng hình em bay trên đất trời nước Việt
Vượt qua mọi chủ nghĩa tới muôn năm.
 
Hãy đi cùng anh, mình không chết đâu em
Kinh thánh đã dậy rồi: nay chỉ là "cõi tạm"
Khi biết vượt qua đủ buồn đau, khổ nạn
Mới vào được ngôi đền...
                          - Tòa Thánh của tình yêu !
 
Ôi ! Người thôn nữ anh thương
Cuộc tình mình dù đắng đót bao nhiêu
Nhưng hãy nghe lời anh:
              - Ta được nhiều hơn mất...
Đã giúp em nhìn ra nghĩa sống
                          trong bể đời khốn kiếp
Vượt lên bão táp, phong ba.
 
Em hãy hòa nước mắt vào
                         viết những bản tình ca
Nó vĩ đại hơn các luận ngôn đảng phái
Ta sẽ là ánh sao băng trên thiên hà sông núi
Anh đợi đón em về
                               trong thế giới bên kia.
 
PHẠM NGỌC THÁI                   
(Trích tập thơ " PHẠM NGỌC THÁI CÁNH ĐẠI BÀNG CỦA THI CA ĐƯƠNG ĐẠI VN" XB 2019)
 
          Hà Nội, 8/11/2018
( sáng mùa đông năm Mậu Tuất)

 


  Tác phẩm dầy 300 trang XB 2019

 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.07.2019 11:33:06 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 01.09.2019 16:26:53 (permalink)

     Phạm Ngọc Bảo ( 7.3.1992 - 22.7.2019 )
 
 
              VĨNH BIỆT CON YÊU
                   . Tưởng niệm con Phạm Ngọc Bảo
                           ( 7.3.1992 - 22.7.2019 )
 
Bố nhỏ lệ, nhìn con đi biệt tích
Dòng đau buồn cắt tự máu tim cha
Con ơi con ! Khi con vĩnh biệt bố, mẹ ra đi
Thế là hết đời người cha già đau khổ
 
Già chưa chết mà đầu xanh đã bỏ
Ở thiên đàng, con hãy đợi cha lên !
Bố con mình sẽ ôm ấp nhau tới nghìn năm
Cha không bao giờ rời con ra nữa
 
Thôi con ạ ! Kiếp người là bể khổ
Con đi rồi, trút gánh nặng vào cha
Đứa con yêu, cha thương nhất cõi sơn hà
Vài dòng thơ. Cha cầu nguyện vong hồn con siêu thoát
 
Cha vẫn nói: Con là linh hồn của người cha bất diệt !
Nay linh hồn bỏ đi rồi, cha sẽ sống sao đây ?
Trăm lậy con yêu !
Bố quì xuống trước vong linh con, muốn nói rất nhiều
Nhưng nghẹn đắng, không thể cất lời khôn được nữa
 
Viết mấy dòng thơ. Bố, mẹ tiễn con về nơi yên nghỉ
27 năm trời con sống với mẹ cha, bỗng chốc hóa tiêu tan
Cha có ở lại chốn trần gian, cũng chỉ là nắm thân tàn
Hãy đợi cha, nhanh thôi con yêu ! Sẽ đến ngày cha con ta đoàn tụ
 
Thơ bố viết, lệ tuôn dòng máu đổ
Cái cõi trần khốn kiếp này, tiếc làm chi !
Thôi thì con đi trước. Bố trả nốt tí nợ đời, rồi cũng ra đi
Bố sẽ bế ẵm con như thuở còn rất nhỏ
 
27 năm sống trên cõi đời. Bố nhìn vận con xấu số
Lòng người cha trăm nhát dao đâm
Khi con sống, không phút giây nào... Cha mẹ ngừng chăm sóc, thương con
Nay con mất, chỉ còn biết sụp lậy trước vong linh... oán than số kiếp...
 
Mấy dòng thơ vĩnh biệt con ! Bố viết ra từ máu và nước mắt
Một lần cuối trong đời, run rẩy nhìn khuôn mặt đứa con yêu
Hãy đợi bố nghe con !
Rồi bố sẽ đến bên con một sớm, một chiều...
 
                  PHẠM NGỌC THÁI
                  Đọc tại tang lễ con
                15h... ngày 25.7.2019
 
 
 
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.09.2019 16:29:53 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 06.10.2019 12:45:04 (permalink)
 
         CHUYỆN VỀ HAI NGÔI MỘ CHA CON MAI SAU


Gió vi vút ngàn năm thổi vọng
Khói sương chiều quấn quít bay đưa
Kể rằng: Ngày xửa ngày xưa
Có hai cha con nhà thơ, hồi còn sống...
 

         Phạm Ngọc Bảo (7.3.1992 - 22.7.2019)
 
Trời Hà Nội. Cha hay dắt con ra Hồ Tây chơi lắm !
Vọng bên chùa Trấn Quốc tiếng nam-mô
Qua bốn mùa, ngày tháng thoi đưa
Đứa bé lớn khôn, rồi trở thành sinh viên, thạc sỹ

Hai thế hệ ở trong cùng thế kỷ
Người cha dần cũng già đi
Con lại đỡ cha, chăm sóc sớm khuya
Nam mô a di đà Phật !

Nghĩa phụ tử trên dòng sông nước Việt
Bóng trời Nam in dấu ngày đêm
Mây bay, gió thổi triền miên
Tình cha con mãi thiêng liêng sống còn

Bỗng một hôm bão giông, sấm sét
Cắt người con ra khỏi người cha
Lá vàng thì vẫn còn kia
Đầu xanh đã bỏ, chia ly trọn đời !

Nỗi đau uất rụng rời trời, đất
Vì khóc con, cha ngất nhiều phen
Hận đời, giận cả địa thiên
Đã sinh thượng đế, sao còn ác tâm ?

Người cha những kêu Quan Âm, Phật Tổ
Giúp một tay nâng đỡ sinh linh
Dù không cứu được đứa con
Thì xin Người đón về trên niết-bàn !?

Người cha thề ra tay hay bút  (*)
Viết đoản thiên tuyệt tác lưu danh
Con mình vào với sử xanh
Bao giờ non nước tan tành mới tan.

Một đời đã dọc ngang thi phú
Hẹn về bên Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du
Miếu thờ tôi ở thiên thu
Mong hậu thế cho con thơ cùng vào !

Vài lời trăng trối trời cao
Nay xin để lại rồi chào, tôi đi...
Xác người cũng chẳng còn chi
Gió đưa đôi mộ vu vi vọng hồn

"Tình cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"...

                   17.9.2019
           PHẠM NGỌC THÁI

-----------------------------------------------------------------------
(*)  Đến nay người cha cũng đã viết được hơn 40 bài “Thơ khóc con”, chuẩn bị xuất bản thành sách.
 

[link=https://tintuconline.com.vn/xa-hoi/nhung-cau-chuyen-dau-long-quanh-5-ngoi-mo-vo-danh-va-mieu-tho-2-co-gai-chet-tre-o-bai-song-hong-n-370268.html][/link]
 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2019 12:49:48 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 06.10.2019 12:54:46 (permalink)
 
CHUYỆN VỀ HAI NGÔI MỘ CHA CON MAI SAU


Gió vi vút ngàn năm thổi vọng
Khói sương chiều quấn quít bay đưa
Kể rằng: Ngày xửa ngày xưa
Có hai cha con nhà thơ, hồi còn sống...
 

         Phạm Ngọc Bảo (7.3.1992 - 22.7.2019)
 
Trời Hà Nội. Cha hay dắt con ra Hồ Tây chơi lắm !
Vọng bên chùa Trấn Quốc tiếng nam-mô
Qua bốn mùa, ngày tháng thoi đưa
Đứa bé lớn khôn, rồi trở thành sinh viên, thạc sỹ

Hai thế hệ ở trong cùng thế kỷ
Người cha dần cũng già đi
Con lại đỡ cha, chăm sóc sớm khuya
Nam mô a di đà Phật !

Nghĩa phụ tử trên dòng sông nước Việt
Bóng trời Nam in dấu ngày đêm
Mây bay, gió thổi triền miên
Tình cha con mãi thiêng liêng sống còn

Bỗng một hôm bão giông, sấm sét
Cắt người con ra khỏi người cha
Lá vàng thì vẫn còn kia
Đầu xanh đã bỏ, chia ly trọn đời !

Nỗi đau uất rụng rời trời, đất
Vì khóc con, cha ngất nhiều phen
Hận đời, giận cả địa thiên
Đã sinh thượng đế, sao còn ác tâm ?

Người cha những kêu Quan Âm, Phật Tổ
Giúp một tay nâng đỡ sinh linh
Dù không cứu được đứa con
Thì xin Người đón về trên niết-bàn !?

Người cha thề ra tay hay bút  (*)
Viết đoản thiên tuyệt tác lưu danh
Con mình vào với sử xanh
Bao giờ non nước tan tành mới tan.

Một đời đã dọc ngang thi phú
Hẹn về bên Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du
Miếu thờ tôi ở thiên thu
Mong hậu thế cho con thơ cùng vào !

Vài lời trăng trối trời cao
Nay xin để lại rồi chào, tôi đi...
Xác người cũng chẳng còn chi
Gió đưa đôi mộ vu vi vọng hồn

"Tình cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"...

                   17.9.2019
           PHẠM NGỌC THÁI

-----------------------------------------------------------------------
(*)  Đến nay người cha cũng đã viết được hơn 40 bài “Thơ khóc con”, chuẩn bị xuất bản thành sách.
 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2019 12:56:17 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 07.11.2019 17:38:41 (permalink)
 
 
           CHÙM THƠ TÌNH THÔN NỮ DƯỚI TRĂNG

                                              PHẠM NGỌC THÁI

   

       NHÌN TRĂNG NHỚ EM
 
Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em
Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ
Chúng mình đến với nhau, không còn thơ bé
Nhưng lòng tha thiết yêu thương.
 
Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng
Cả tới khi không còn trăng nữa
Thì em vẫn bên… vành vạnh tỏ…
Đưa anh vào giấc mộng ru đêm.
 
Để cùng nhau say cảnh thần tiên
Cho quên hết biển đời ngang trái
Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi
Chân trời sẽ lụi tàn, nếu chẳng có tình em.
 
Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang
Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận
Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn
Đêm nằm thao thức vấn vương.
 
Trăng không còn… Em vẫn hiện lên…
Dìu anh qua phong ba, bão táp
Trong giấc ngủ chập chờn đêm vĩnh tuyệt !
Anh đã bay về ôm lấy trăng em.
 
Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng
Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển
Lại thấy ảnh ông Tổng thống Hoa Kỳ đang cầu nguyện
Dân chủ – Cộng hòa ? chả Đảng nào sánh được hơn.
 
Cả nhân thế này chỉ một “mảnh trăng con”…
Sống mãi muôn đời, dù thay bao chủ nghĩa
Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa
Nhìn khắp thiên hà… Càng da diết yêu thêm…
 
            12.7.2019
 

 

         EM VÀ CHIẾC VÁY MÀU CỎ ÚA

Mưa bay chiều nay trên Hồ Tây
Bóng em vẫn xa như áng mây
Hỡi cô mặc áo màu cỏ úa
Lòng anh cô đơn. Anh ngồi đây !
 
Nhớ buổi hẹn hò giữa thiên thai
Chỉ có vòm xanh và cỏ cây
Đặt em nằm xuống trong trăng sáng
Cùng nhau yêu hết cả trời này
 
Ôi, đáng yêu chưa mắt em cười
Chiếc váy ngắn với đùi thơm trắng nõn
Như gái đôi mươi, em đẹp lắm !
Anh say mà… ngắm mãi không thôi…
 
Thương tự ngày nào thì chẳng nhớ
Thân vàng ngọc em dâng anh tất cả
Anh đợi tin vui sau buổi ấy đến giờ ?
“cô bé” của em đẹp hơn thơ
 
Em bảo rồi sinh cho anh hai đứa con
Anh xa tâm trí cứ ngổn ngang
Em đi dậy học đường dài lắm
Nhất là những lúc phải sang sông
 
Nhớ nhé, em yêu ! Hãy giữ mình
Qua phà mưa gió chớ coi khinh
Tấm thân nhi nữ thường đau yếu
Đợi anh ít nữa sẽ về bên
 
Chiều nay anh lại ngắm ảnh em
Có cô thôn nữ thật là xinh
Với chiếc váy quê màu cỏ úa
Lòng dạ nôn nao tạc bóng hình
 
Anh dẫn em vào cõi thương yêu
Mưa bay, em ạ ! Suốt buổi chiều
Chỉ lo Cưng ở miền xa ấy
Lại nhớ nhau hoài… bến cô liêu.VÁY
 
                21.6.2019
         PHẠM NGỌC THÁI

<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2019 17:46:11 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhân văn 14.12.2019 11:15:32 (permalink)
CHÙM THƠ TÌNH THÔN NỮ DƯỚI TRĂNG - Phạm Ngọc Thái
 
NHÌN TRĂNG NHỚ EM
Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em
Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ
Chúng mình đến với nhau, không còn thơ bé
Nhưng lòng tha thiết yêu thương.
Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng
Cả tới khi không còn trăng nữa
Thì em vẫn bên... vành vạnh tỏ...
Đưa anh vào giấc mộng ru đêm.
Để cùng nhau say cảnh thần tiên
Cho quên hết biển đời ngang trái
Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi
Chân trời sẽ lụi tàn, nếu chẳng có tình em.
Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang
Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận
Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn
Đêm nằm thao thức vấn vương.
Trăng không còn... Em vẫn hiện lên...
Dìu anh qua phong ba, bão táp
Trong giấc ngủ chập chờn đêm vĩnh tuyệt !
Anh đã bay về ôm lấy trăng em.
Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng
Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển
Lại thấy ảnh ông Tổng thống Hoa Kỳ đang cầu nguyện
Dân chủ - Cộng hòa ? chả Đảng nào sánh được hơn.
Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con"...
Sống mãi muôn đời, dù thay bao chủ nghĩa
Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa
Nhìn khắp thiên hà... Càng da diết yêu thêm...
                                                     12.7.2019
EM VÀ CHIẾC VÁY MÀU CỎ ÚA
Mưa bay chiều nay trên Hồ Tây
Bóng em vẫn xa như áng mây
Hỡi cô mặc áo màu cỏ úa
Lòng anh cô đơn. Anh ngồi đây !
Nhớ buổi hẹn hò giữa thiên thai
Chỉ có vòm xanh và cỏ cây
Đặt em nằm xuống trong trăng sáng
Cùng nhau yêu hết cả trời này
Ôi, đáng yêu chưa mắt em cười
Chiếc váy ngắn với đùi thơm trắng nõn
Như gái đôi mươi, em đẹp lắm !
Anh say mà... ngắm mãi không thôi...
Thương tự ngày nào thì chẳng nhớ
Thân vàng ngọc em dâng anh tất cả
Anh đợi tin vui sau buổi ấy đến giờ ?
"cô bé" của em đẹp hơn thơ
Em bảo rồi sinh cho anh hai đứa con
Anh xa tâm trí cứ ngổn ngang
Em đi dậy học đường dài lắm
Nhất là những lúc phải sang sông
Nhớ nhé, em yêu ! Hãy giữ mình
Qua phà mưa gió chớ coi khinh
Tấm thân nhi nữ thường đau yếu
Đợi anh ít nữa sẽ về bên
Chiều nay anh lại ngắm ảnh em
Có cô thôn nữ thật là xinh
Với chiếc váy quê màu cỏ úa
Lòng dạ nôn nao tạc bóng hình
Anh dẫn em vào cõi thương yêu
Mưa bay, em ạ ! Suốt buổi chiều
Chỉ lo Cưng ở miền xa ấy
Lại nhớ nhau hoài... bến cô liêu. VÁY
                       PHẠM NGỌC THÁI
                            21. 6. 2019
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2019 11:24:20 bởi Nhân văn >
Nhatho_PhamNgocThai 19.01.2020 20:02:31 (permalink)
    
CUỐN TIỂU THUYẾT CUỐI ĐỜI CỦA CHA
 


         Phạm Ngọc Bảo (7.3.1992 - 22.7.2019)
 
Cha muốn viết cuốn tiểu thuyết cuối đời, có "cha và con" trong đó...
Cha sẽ giữ nguyên tên con Ngọc Bảo
Một cuốn tiểu thuyết tình yêu !
In bóng hình con trẻ mãi phiêu diêu.

Cuộc đời chìm nổi, bể dâu…
Hạnh phúc, khổ đau, tình yêu và nước mắt
Cha dồn tất cả trí tuệ, trút hơi tàn sau chót
Để quyển truyện tình sống đến ngàn thu.

Sáng hôm nay sương mát, gió đông ru
Hà Nội vừa bão xong, đổ cây, người chết
Luật sinh tử bất thường trong trời đất
Vẫn xẩy ra. Không phải với riêng con ?

Cuộc sống cứ ào đi. Phố xá vẫn rộn lên
Cha lặng lẽ ngắm nhìn người đang bước
Sống ở đây ? Hồn hướng về Tây Trúc
Một ngày nào đấy... tới cùng con...

Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, kết thúc nghiệp văn
Có cha và con, muôn năm tình nhân thế
Sông núi ôm con vào lòng, đời thương nhớ
Người về thắp hương trên ngôi mộ con yêu !

Sống kiếp này, chỉ mong được bấy nhiêu ?
Thì cũng thỏa dẫu là con chết yểu
Cha đã chuẩn bị một nấm mồ ở bên con. Khi yếu
Lúc cha về ngon giấc giữa trời mây

Dưới trăng, sao vằng vặc nước non này...

Cha ru con ngủ tháng ngày
Như hồi thơ bé. Hồ Tây gió về...
Xào qua cành sấu, cành me
Quanh con còn đó, bốn bề quê hương !

2.9.2019
PHẠM NGỌC THÁI
 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.01.2020 20:06:49 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 04.03.2020 16:57:40 (permalink)
 
 
ĐỜI VĂN CHƯƠNG PHẠM NGỌC THÁI & TẦM VÓC "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC"
                                                                           Nguyễn Thị Hoàng
  

      Nói là "đời văn chương" nhưng ở đây, do khuôn khổ của một bài viết  - Tôi chỉ khái quát mấy nét liên quan đến sự nghiệp thi văn của nhà thơ. Vào mùa đông vừa qua, anh đã cho xuất bản: "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC" Phạm ngọc Thái, Nxb Hồng Đức 2019 - Một tác phẩm thi ca hiện đại! 
  
       A.  KHÁI QUÁT CUỘC ĐỜI VĂN CHƯƠNG CỦA NHÀ THƠ
       Phạm Ngọc Thái lớn lên khi cả nước đang bước vào giai đoạn cuộc chiến tranh đánh Mỹ ác liệt nhất! Thu đông 1966, anh tốt nghiệp phổ thông cấp III Hà Nội... tiếp sang đời một sinh viên Trường Đại học Bách khoa. Như hàng vạn thanh niên thủ đô và cả nước -  Hồi đó, hưởng ứng lời kêu gọi tổ quốc có lâm nguy! Mùa xuân 1967, Phạm Ngọc Thái tình nguyện rời bỏ trường đại học, rời quê hương, gia đình... dấn mình vào cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt của dân tộc. Anh từng thổ lộ: Suốt mười năm chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên Nam Bộ - Qua các Sư đoàn 312, Trung đoàn pháo 40 Tây Nguyên, Trung đoàn 48 Sư 320... tiến vào đánh cứ điểm Đồng Dù của Mỹ, chiếm Sài Gòn 30.4.1975 - Kết thúc chiến tranh. Mỹ rút về nước!
     Trong những năm chiến trận, chính anh cũng ba lần đổ máu ngoài chiến trường... vẫn giữ vững kiên trung với nghĩa khí của một chiến binh cho tới giấy phút cuối cùng. Đất nước hòa bình. Anh đã được tặng thưởng 5 huân chương chiến công, kháng chiến, cùng các danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ và bằng khen khác.   
     Ròi quân ngũ trở về. Phạm Ngọc Thái tiếp tục theo học Đại học ngoại thương rồi công tác tại ngành ngoại thương quốc tế! Tới lúc về hưu. Tuy nhiên, dù làm công việc của một cán bộ nhưng anh vẫn dành hết tâm huyết mình với khát vọng thi ca ! 
     Suốt  ba mươi năm sáng tác văn học - Đến nay, nhà thơ đã cho ra đời đúng 10 tập sách:
        1/.  Chín tác phẩm về thơ và bình luận: 
        -  Có một khoảng trời (1990)
        - Người đàn bà trắng  (1994) 
        - Rung động trái tim   (2009) 
        - Hồ Xuân Hương tái lai  (2012) 
        - Phê bình & tiểu luận thi ca (2013)
        - Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại (2014) 
        - Thơ tình viết cho sinh viên (2015) 
        - Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam  (Xuân 2019)
-  " Tuyển thơ chọn lọc " Phạm Ngọc Thái (Đông 2019).
        2/.   Hai tiểu thuyết: 
        - Tiểu thuyết: CUỘC CHIẾN HÀ NỘI 12 NGÀY ĐÊM (2019)
        - Tiểu thuyết CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU (hai tập). Sách chuẩn bị xuất bản trước 30.4.2020
        3/.   Sáng tác thành công 5 vở kịch nói sân khấu:   
        *  Hai kịch bản dài: 
        -  Bản án dưới mồ
        -  Số phận những hòn đá tảng.
        *  Ba kịch bản ngắn: 
        -  Mối tình hoa hồng bạch
        -  Chuyện ở quán gốc đa
        -  Cánh cửa quốc tế
        * Hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu Thủ đô.  
        Nhà giáo Bùi Văn Dong - Nguyên GV Trường Đại học Quốc gia, cũng là một CCB từng có thời cùng chiến đấu với Phạm Ngọc Thái trên chiến trường Tây nguyên Nam Bộ, viết về nhà thơ như sau: 
        "Tôi biết Phạm Ngọc Thái từ thuở còn chiến tranh. Cùng là anh lính chiến ăn rừng ngủ rú  trên mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ. Suốt chặng đường chinh chiến ấy, Thái ham viết nhật ký và làm thơ. Nhiều đêm nằm với nhau bên võng giữa rừng Trường Sơn, anh thường đọc thơ cho chúng tôi nghe. Được biết, mấy cuốn nhật ký đó đã bị mất trong bom đạn của chiến tranh. Tác giả chỉ còn nhớ ít bài tản mạn. Cũng là một điều đáng tiếc.
        Bọn lính Hà Nội của tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi đó ! Hết chiến tranh, kiểm lại chỉ còn mươi đứa sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng: Cái anh chàng lính trận rất ham thích thơ thuở ấy, nay đã trở thành môt nhà thơ nổi danh trên văn đàn ". 
        Nhà giáo Bùi Văn Dong viết tiếp: 
        "Thơ Phạm Ngọc Thái rất hàm súc, kể cả những bài viết dưới dạng triết lý đến những bài trải theo dòng cảm xúc tự nhiên. Từ nhận thức về tình yêu và cuộc sống được trải nghiệm qua đường đời, thấm tháp chảy vào thơ. Thơ tình thì huyền diệu, có sức rung cảm trái tim người yêu thơ ! Thơ đời lại ôm bọc những giá trị hiện thực xã hội, cô đúc sâu sắc. Đặc điểm cơ bản trong tính triết lý thơ đời của tác giả là vận từ đời sống dân gian, nỗi kiếp con người. Thơ được chắt ra từ tim óc nên đọc không bị gò ép, tạo thành bản sắc riêng của thơ anh. Nó bao chứa tính nhân sinh xã hội cùng thế giới quan của nhà thơ ".
             (Trích Tiểu luận "Con người và thi ca" của Nhà giáo Bùi Văn Dong, in trong Tập "Phạm Ngọc Thái - Cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên 2019)   
        -  Nói về nhân cách và tầm vóc thơ Phạm Ngọc Thái, Nguyễn Khôi - Nhà văn Hà Nội viết:
        " Qua tác phẩm và gặp con người cụ thể - Nguyễn Khôi có cảm tưởng về tính cách như thấy ở Thái một Vladimir Maiakovsky Việt Nam: Hiên ngang đứng trên tầm thời đại, dám tự khẳng định mình bằng những bài thơ, dòng thơ trữ tình ( ở Maia là "phản trữ tình ) đều vì tình yêu lớn lao. Ước vọng sâu sắc nhất của anh...
        Thơ tình Phạm Ngọc Thái... đọc không nhàm chán, vì anh luôn tạo được ý mới, tứ lạ, ngôn ngữ thơ tinh luyện, hình tượng thơ ĐẸP và sống động. Cái "thơ" đan trong cái "mộng" - cái "ảo" diệu huyền để hiện lên cái thực thấm vào tâm can người đọc...
        Thơ trữ tình Phạm Ngọc Thái HAY vì anh luôn bám vào cuộc sống đầy máu thịt đang sinh sôi....
         Thơ "yêu" Phạm Ngọc Thái là tiếng lòng, tiếng con tim luôn ngân nga một giai điệu như "mưa rơi" vào miền ký ức sâu thẳm.
        Chao ôi ! Thơ là đời, là tâm huyết máu thịt của thi sĩ. Không có tình yêu lớn lao - chân thực thì không thể có những vần thơ tuyệt tác là thế.
        - Một tài năng lớn... với những giá trị văn học tuyệt vời!
        Mong rằng "thơ Phạm Ngọc Thái" sẽ được người đời ( trong và ngoài nước ) thưởng thức, đánh giá một cách trân trọng, đúng mức.. "
                                                                                              NGUYỄN KHÔI - Hội nhà văn Hà Nội (trích đăng trên báo Người Hà Nội - số 28)

  

        B.  TẦM VÓC "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC" PHẠM NGỌC THÁI 
     
        Sách dày 368 trang với 215 bài thơ tự do hiện đại các loại. Cấu trúc Tuyển Thơ chia ra thành 5 phần:
        -  Phần đầu và cuối là 122 bài thơ tinh 
        -  Thơ khóc con 20 bài 
        -  Thơ viết ở nước ngoài 19 bài
        -  Thơ đời " 54 bài.
        Nói về tầm vóc của một "tác phẩm thi ca lớn" ? Nó "lớn" không phải vì độ dầy của tập sách. Cũng chưa phải vì số lượng bài "thơ tuyển chọn" nhiều... mà vì cái HAY có được trong các bài thơ, tạo nên Tầm Vóc Lớn của tác phẩm!
        (Xin mở ngoặc nói thêm: Bên cạnh Đại thi hào Nguyễn Du và Nguyễn Trãi (dựa theo tác phẩm "Ba thi hào dân tộc" của Xuân Diệu) - Thơ ca Hồ Xuân Hương chỉ vẻn vẹn trong khoảng năm mươi bài, nhưng Bà vẫn được đánh giá thuộc mấy nhà thơ lớn nhất của Việt Nam). 
 
       BÌNH LUẬN TIẾP VỀ THƠ PHẠM NGỌC THÁI  
    Vì "Tuyển thơ chọn lọc" là thi tuyển được tinh chọn trong suốt cuộc đời nhà thơ Phạm Ngọc Thái ! Cần phải được trình bầy, dẫn giải bằng cả một quyển sách mới mong sự thỏa đáng. Cho nên, trong một bài viết ngắn - Tôi chỉ xin tóm bắt một số khía cạnh có tính chất giới thiêu tác phẩm. Tổng hợp bài viết các tác giả trong đương đại từ chục năm qua, đã bình luận về thơ hay của anh ! Nêu lên những nhận thức riêng mình. 
        "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái là cả một thế giới thơ tự do hiện đại các loại: Từ thi pháp thơ hiện thực, đến tượng trưng, nhiều bài pha trộn màu sắc thơ siêu thực - Được thể hiện bằng một bút pháp tinh luyện, tạo nên vô vàn những áng thi ca giàu cảm xúc, huyền thẳm, sâu sắc.   
        Nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc, trong tiểu luận với nhan đề: PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG MỘT NHÀ THƠ TÌNH LỚN CỦA DÂN TỘC, đã viết:
        "Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng cũng như ngôn ngữ nghệ thuật và tính nhân văn là rất nhiều. Mức độ hay mỗi bài khác nhau, nhưng những tình thi đó đều cảm hóa được trái tim người yêu thơ. Về bút pháp nhiều bài thơ tình của anh được hòa trộn trong khuynh hướng của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Điển hình là thuyết " tương ứng cảm quan" của nhà thơ tương trưng bậc thấy ở Pháp Charles Baudelaire (1821 - 1867) lúc đó chủ xướng".
        (Trích Tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại", xuất bản 2014)
        Đặc biệt là thơ tình của anh, nhà văn Nguyễn Khôi viết:
        "...Thơ tình Phạm Ngọc Thái viết với một dung lượng lớn tới vài trăm bài....  Từ trữ tình kiểu Xuân Diệu đã vượt lên cái tượng trưng, siêu thực của Bích Khê... ".
        Hơn hai trăm bài thơ tự do hiện đại trong "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái rất phong phú và đa sắc. Tôi chưa thấy có nhà thơ nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế ! Nếu thống kê thì phải có tới mấy chục bài đạt loại thơ tình thật hay, có khả năng sống trường tồn trong nền văn học nước nhà. Mỗi bài hay một vẻ nhưng đều có thể làm rung cảm trái tim đời ! 
        Những năm qua, các tác giả bình thơ đặc sắc và hay của anh, đăng trên các trang mạng Việt cũng nhiều. Sau đó được nhà thơ chọn lọc, cho xuất bản thành sách. Thí dụ: 
        * Trong tập " Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại ", 2014 - Có cả thẩy 32 bài bình thơ hay và tiểu luận chân dung của 30 tác giả viết về anh.
        * Cuốn "Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên 2019: có thêm 7 bài bình thơ và tiểu luận của 7 tác giả khác.
        Đến nay, tổng cộng có tới 39 tác giả là các nhà giáo, văn nghệ sĩ... với trên 40 bài viết về nhà thơ ! Còn không ít các bài thơ hay khác của anh được dư luận ca ngợi, chưa có người bình. 
        Tôi đã đọc hầu hết các bài bình thơ ấy, qua các tập sách đã xuất bản của anh:
        * Cô giáo Nguyễn Thi Xuân dạy văn tại Trường THPT  Ba Đình, Hà Nội - Bình và đánh giá bài thơ "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" hay vào hàng kiệt tác thơ tình ! Cô giáo ví bài thơ của Phạm Ngọc Thái hay tựa như bài "Hai sắc hoa ti-gôn" của nữ sĩ TTKH. nổi tiếng trên thi đàn thơ Việt năm xưa.
       Khi " Tuyển thơ chọn lọc " ra đời - Nhà văn Nguyễn Khôi thì khen: "Phạm Ngọc Thái, nhà thơ tình số 1 Hà Thành "! 
        Còn nhận thức của tôi: "Không chỉ riêng với Hà Thành - Phạm Ngọc Thái là nhà thơ tình số 1 của thi ca đương đại Việt Nam!".
        CÁCH THỨC PHÂN LOẠI THƠ HAY TRONG TÁC PHẨM
         
        * Trước hết, thơ hay phải là loại thơ có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm - Yếu tố cơ bản để nhận định tầm vóc tác phẩm.
        (Không phải là loại thơ chỉ có khả năng sống một thời, hoặc chỉ có giá trị làm văn nghệ, cổ động chính trị ):
         -  Thứ nhất: Thơ tuyệt hay ?  
         * Thí dụ: Đây thôn Vỹ Dạ ( Hàn Mặc Tử ), Đèo Ngang ( Bà Huyện Thanh Quan ), Hai sắc hoa ti-gôn ( T.T.KH ), Thu Điếu ( Nguyễn Khuyến ), Thương vợ ( Tú Xương ), Tranh lõa thể ( Bích Khê ), Làm lẽ - Cảnh thu ( Hồ Xuân Hương ) - Là thơ tuyệt hay !
        -  Thứ nhì: Những bài giữa thơ hay và tuyệt hay !
        Ví dụ về loại thơ thứ nhì này -  Hàn Mặc tử có ba bài thơ được văn đàn đánh giá hay.
        * Trong đó, bài "Đây thôn Vỹ Dạ" hay nổi tiếng nhất. Đời bình luận nhiều hơn cả: Là thơ "tuyệt hay" ! 
        *  Hai bài "Mùa xuân chín" và "Bẽn lẽn" hay nhưng kém hơn chút, thuộc hàng: Giữa "thơ hay" và "tuyệt hay" !
        -  Thứ ba:  Khá hay và thơ hay" ! 
        (Phân chia như thế để chọn các loại thơ hay đỡ khó quá! Vì sự hay mỗi bài một kiểu? Cao thấp... cũng không bài nào giống bài nào cả?) 
         NHỮNG BÀI THƠ HAY CỦA "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC" 
        1/.  Thơ tuyệt hay Có 5 bài:
        *  Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối /  Người đàn bà trắng /  Váy thiếu nữ bay /  Vĩnh biệt con yêu / Làm ma em vợ. 
        2/.  Giữa thơ hay và thơ tuyệt hay - Có 7 bài: 
        * EM sống mãi bên anh /  Tiếng anh gọi (viết theo giọng thơ điên Hàn Mặc Tử) /  Em về biển /   Anh đứng nhìn theo bóng chim câu /   Thương con và lời cầu nguyện thế nhân /   Tiếng hát đời thường /   Em bán xoài.    
        3/.  Khá hay và thơ hay -  26 bài: 
        -  Ký ức mùa thu /    Khoảng trôi trong lá /   Em nghe/    Anh đau xé lòng đành quay gót /    Phố thu và áo trắng /    Biển hát /   Sáng thu vàng /    Sáng xuân nay /    Anh vẫn ở bên Hồ Tây /   Khóc bên Hồ Núi Cốc /    Con đường phượng đỏ /    Em ơi ! Thành phố lại mưa /   Mưa bay trong tiếng chuông /    Bên nấm mồ con /   Những kỉ niệm bên con/   Nỗi trăn trở người đi tìm vàng /    Xem tranh bán lõa thể /    Khóc Hàn Mặc Tử /   Đêm tóc đá /    Một góc Hồ Tây /   Em là người tình của lính /   Người thôn nữ miền sông nước /    Đêm nay trời lại không mưa /    Đêm thu phố vắng /    Thời áo trắng /   Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ.    
        *   Tổng cộng Thơ hay các loại trong "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái là 38 bài.
        Bạn đọc nào muốn thưởng lãm tác phẩm bất hủ của nhà thơ, mà chưa có sách ? Hãy tìm đọc trên Website của Việt Nam Thư Quán! 
        (Nhà thơ đã cho đăng cả Tuyển thơ ở đó ) - Mở qua link sau đây: 
<font styl
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.03.2020 17:05:14 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 08.04.2020 13:11:22 (permalink)
 
 
                     TỰ SỰ NỖI ĐAU ĐỜI 
                                                           PHẠM NGỌC THÁI



     Sau cái mất của người con trai yêu quí ! Đã lâu rồi… mà lòng tôi vẫn không hết đớn đau, mệt mỏi. Phần vì tuổi tác, phần vì nỗi đời ?
     Sớm nay ra Hồ Tây, nhìn cảnh sống mọi người đang diễn ra thường nhật – Tôi lại ngẫm ngợi về "đời" trong chốn nhân gian: Nhiều người cũng gặp cảnh đau, chứ đâu phải riêng con mình ? Lại nghĩ đến những nỗi đau mất con của mấy bậc cao nhân, trong kim cổ xưa nay !
                           VIẾT RA ĐÔI DÒNG TỰ SỰ
* Karl Marx: Ông tổ của Chủ Nghĩa cộng sản, đã trở thành viễn tưởng – Người viết nên TƯ BẢN LUẬN vĩ đại ! Chẳng phải cũng đã rất đau đớn khi bị mất một đứa con trai mới 21 tuổi, tên là Hăm Lét… đó sao ?
* Văn hào nước Pháp Vích-to Huy-gô, tác giả của Bộ tiểu thuyết bất hủ “ Những người cùng khổ”, cũng phải chịu nỗi đau đớn trong cuộc đời: Người con gái xinh đẹp, yêu dấu của ông bị một tên vô lại dụ sang châu Phi rồi bỏ ? khiến con gái của văn hào thất tình, trở nên tâm thần, lang thang nơi đất khách quê người. Sau được dân bản xứ vì quí trọng danh tiếng của nhà văn, đã đưa người con gái trở về Pháp trả lại cho ông ! Nhưng cả đời người con gái phải vật vã trong điên loạn. Sống không bằng chết – Nỗi đời của Văn hào nước Pháp vĩ đại đó, đau đớn lắm chứ !
* Nhà văn Tô Hoài danh tiếng của nước ta, cũng không thoát nỗi đau đời: Đứa con trai yêu của ông bị chết trong tuổi thanh xuân, khi đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài !? Bỏ lại người vợ trẻ, mới cưới ở quê hương.
* Giờ nói về thi nhân Hàn Mặc Tử – Nhà thơ lớn của Việt Nam ! Ông chết khi mới bước sang tuổi 28 ( Đúng bằng tuổi Phạm Ngọc Bảo con mình ) : Vì căn bệnh hiểm nghèo ? Để lại một nỗi buồn đau vô hạn, cho bà mẹ già và người chị gái ruột yêu thương.
…..
    Ngẫm đi rồi ngẫm lại: Hậu sinh có cần quan tâm nhiều lắm đến nỗi đau đời đó của nhà thơ Hàn Mặc Tử đâu ? Hay những bậc cao nhân kia ? Nhưng mãi mãi tôn vinh tên tuổi của các cao nhân cùng tác phẩm ! Danh bất hư truyền… sống đến muôn thu…
    Lại ngẫm về cái chết đau thương của đứa con trai, trong nỗi đau tột cùng của một người cha: Tôi đã viết cho con 45 bài thơ đẫm máu và nước mắt – Xuất bản riêng cho con một tập thơ “CHA KHÓC CON “ rất đẹp ! Với hình ảnh kỷ niệm từ nhỏ đến lớn của cuộc đời con.
     Mai sau… sẽ thuộc vào HÀNG THƠ KHÓC độc nhất vô nhị trong thiên cổ ! Nếu con được lưu truyền cùng sông núi, nước non ? Nhân gian mãi thương yêu, linh thiêng mà hương khói – Thì cái chết của con đâu có phải là vô nghĩa !
 
 
   
Phạm Ngọc Bảo (7.3.1992 – 22.7.2019) 

–   45 bài thơ khóc con, độc nhất vô nhị ấy: Hy vọng đủ độc đáo và hay ! Mong mai sau, hậu sinh tái bản mãi thành sách, truyền bá cho xứ sở thân yêu.
                             CÁI CHẾT CỦA CON
              CHẲNG PHẢI ĐÃ TRỞ THÀNH BẤT TỬ ĐÓ SAO !
     Nghĩ vậy, lòng cũng nguôi ngoai, đỡ đau buồn. Danh tính con sẽ vĩnh cửu như một kỳ nhân huyền thoạị ! Khi đó, người cha là nhà thơ Phạm Ngọc Thái này – Có nhắm mắt mà chết mới yên lòng.                                                          ( Viết ở Hồ Tây, 21.3.2020)
                                               Phạm Ngọc Thái

                                   Đăng thêm bài thơ trích trong Tập " Cha khóc con "

   CON SỐNG MÃI TRONG THƠ CHA
 
Cõi dương trần chỉ là cõi tạm
Con người sinh ra trong hữu hạn không gian
Con là con của Đấng Thiên
Cha mẹ nuôi lúc nhỏ, lớn lên con về trời…
 
Nay con hết kiếp người rồi !
Tiếc thương cha mới ngậm ngùi làm thơ
Vần thơ đẫm máu tim cha
Hòa trong biển lệ Cõi Ta Bà, đó con !
Hình con còn mãi nước non
Nước non còn đó, con còn hiển linh
Theo thơ cha tỏa rung rinh
Như vầng nhật nguyệt, tâm linh cõi người
Xót con cha khóc mấy hồi
Tiễn đưa tới tận cổng trời mới thôi
Thân tàn ở lại, con ơi !
Nhớ cha mẹ… Tối giữa trời hiện lên
Giờ con ở chốn thánh thần
Miếu thiêng chờ lúc cha qui tiên cùng ngồi
Khói hương sẽ phủ muôn đời
Nhân gian vạn kiếp, vọng lời thơ cha
 
                         *
Ngẫm rằng trong cõi người ta
Chỉ như giấc mộng la đà thế gian
Dù sung sướng hoặc cơ hàn
Ai rồi cũng lúc thịt tan, xương rời
Hơn nhau ở chỗ làm người
Đứa ma âm phủ, kẻ về trời hóa tiên
Tượng con cha đã lập lên
Ngẫm trong sử sách, vạn niên mấy người ?
Là con kiếp hạnh hơn đời
Cha xin sụp lậy giữa trời vọng ơn
Cả Thượng Đế, Đức Phật hiền
Cho con thơ được phỉ nguyền: Nam-mô…
 
          6.8.2019
   PHẠM NGỌC THÁI




<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.04.2020 13:16:04 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 05.05.2020 17:48:14 (permalink)
 
 


                GIỚI THIỆU TẬP THƠ " CHA KHÓC CON "

                                                              PHẠM NGỌC THÁI



    Trong nỗi đau tột cùng một người cha về cái chết của đứa con trai bị đột quị mới 27 tuổi đầu ? Những ngày tháng đó, tôi cứ miên man viết những dòng thơ khóc xót xa con đầy máu và nước mắt ! Rồi xuất bản riêng cho con một thi phẩm - Đó chính là tập thơ "Cha khóc con", Nxb Hồng Đức 2020.
      "Cha khóc con " là một tập sách đẹp và trang trọng nhất trong đời thi ca của tôi ! Gồm 45 bài thơ, dầy 132 trang, khổ rộng 20 x 18cm, bìa gập 10 phân - Mở đầu bằng bài thơ CHUYỆN VỀ HAI NGÔI MỘ CHA CON MAI SAU thay cho " Lời giới thiệu ".
     Tập sách chia hai phần:
-  Phần một:  KHÓC CON gồm 20 bài.
-  Phần hai:   CHA PHẢI SỐNG gồm 24 bài.
      Như nhà nghiên cứu văn học - Trang chủ Trần Mỹ Giống nhận xét:
     " Xuyên suốt tập thơ 45 bài là cảm xúc tình cảm sâu sắc của người cha khóc con mệnh yểu với rất nhiều góc độ khác nhau, vô cùng cảm động bởi cảm xúc hết sức chân thật của tác giả.

    Xưa nay khóc cha, khóc vợ, khóc con… cũng đã được một số tác giả thể hiện bằng thơ, nhưng để có cả một xê-ri (45 bài) khóc con trong một tập thì có lẽ, đến giờ, chỉ có nhà thơ Phạm Ngọc Thái làm được - Chắc chắn, Phạm Ngọc Thái phải là một người cha yêu con sâu nặng, chân tình và có năng lực thơ ca thực sự lớn ! Mới làm được nhiều bài thơ đa tình, đa cung bậc, đa góc độ, khía cạnh... mà bài nào cũng rung động người đọc như vậy.
    Mời độc giả tìm đọc các bài thơ khóc con giàu cảm xúc, đa dạng, tình cảm thống thiết ở những trạng huống khác nhau của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - Trong ấn phẩm có một không hai: CHA KHÓC CON ! ". 


    Phạm Ngọc Bảo ( 7.3.1992 -  22.7.2019 )
 
      Hay như nhà thơ Hội nhà văn Hà Nội Nguyễn Khôi - Khi tôi cho đăng các bài thơ khóc con ấy trên facebook của mình, Ông đã tiên định rằng: 
    " Thơ khóc nổi tiếng xưa có Đông Hồ khóc vợ, Tương Phố khóc chồng, Tam Nguyên Yên Đổ khóc con... Nay thi sĩ Hà Thành Phạm Ngọc Thái thống thiết khóc con... Hy vọng lưu danh thiên cổ !? " 
                                             ( Theo comment Nguyễn Khôi ngày 3.8.2019 ). 
      Nhà thơ Quang Hoài HNVVN thì nhiệt thành ca ngợi tập sách "Cha khóc con" ra đời: 
    "  Chúc mừng nhà thơ Phạm Ngọc Thái ! Một tập thơ có một không hai... mang ý nghĩa tâm linh rất sâu sắc ".
                    


 Xin đăng một bài thơ ( chưa giới thiệu trên các trang mạng ) trích từ tập "Cha khóc con":  
 
              THÂN GIÀ HÉO ĐÀNH NGẬM CƯỜI, SỐNG TIẾP

Thơ khóc mãi ? Cha không muốn viết
Nỗi thương con cứ da diết trong tim
Chẳng thể nào nguôi dạ, sống yên ?
Định cất bút ! Lại phải lấy ra, thảo vài trang chữ...

Ôi, cuộc sống ! ta hằng yêu quí
Kiếp người ai oán quá, Hàn Mặc Tử ơi !
Danh thi nhân cũng chỉ được mình tôi
Sao có thể, sống dưới trời không con chứ ?

Thế là hết cuộc đời thi sỹ 
Mơ màng, vơ vẩn... để làm chi ?
Bao mối tình tan vỡ, chia ly
Chẳng đau bằng một phần, con mất !

Ta từng qua... cả cuộc chiến tranh tổ quốc !
Chứng kiến bao lần chết chóc, hy sinh
Có nỗi đau nào như thế này không ?
Xưa tăng căm thù, bây giờ rơi xuống vực.

 
Tôi đã có một người cha chết vùi trong bom giặc (*)
Đau xé lòng nhưng trí vẫn vùng lên !
Không yếu mềm như cảnh mất con
Chỉ muốn qui tiên, theo con đi nốt.

Đời cha trót mang khát vọng của người cầm bút
Muốn tuổi tên vang vọng mãi ngàn thu
Trở thành một Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du...
Thân già héo đành ngậm cười, sống tiếp.

Chưa thể theo con, giải thoát mình khỏi kiếp...
Cha cố vùng lên, sống quyết liệt phút tàn hơi
Làm bậc thi nhân lớn ở trên đời
Không chỉ thỏa mãn riêng cha ?
               Còn trả " cả hận trời " cho con đó !

Rồi cha con mình sống mãi bên nhau... như mây, như gió... 

                                         11.8.2019
                                   PHẠM NGỌC THÁI
             ( Trích tập "Cha khóc con", Nxb Hồng Đức 2020 )
.....   
 (*)  Cha tôi bị chết vì bom B52 giặc Mỹ ném hủy diệt Thủ đô - Trong 12 ngày đêm Hà Nội, tháng 12/1972.

                 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.05.2020 18:01:06 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhân văn 21.06.2020 17:19:27 (permalink)
 
 
                                        TỪ MỘT CHIẾN BINH TRỞ THÀNH NHÀ THƠ DANH GIÁ
                                                                                                        Nguyễn Thị Xuân
                                                                                                                                   GV Trường THPT Ba Đình Hà Nội

                     Cô giáo Nguyễn Thị Xuân    
        Đó là chân dung nhà thơ Phạm Ngọc Thái qua các tác phẩm thi ca của anh! Nhất là với "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC", Nxb Hồng Đức 2019 -   Trong bài bình luận mới đây, cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - Nguyên giảng viên Trường ĐH Sư phạm đã viết:
     " ... Phạm Ngọc Thái lớn lên khi cả nước đang bước vào giai đoạn cuộc chiến tranh đánh Mỹ ác liệt nhất ! Thu đông 1966, anh tốt nghiệp phổ thông cấp III Hà Nội, tiếp sang đời một sinh viên Trường Đại học Bách khoa - Mùa xuân 1967, Phạm Ngọc Thái tình nguyện rời bỏ trường đại học, quê hương và gia đình, dấn mình vào cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt của dân tộc. Anh từng thổ lộ: Đã theo suốt mười năm chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên Nam Bộ - Qua các Sư đoàn 312, Trung đoàn pháo 40 Tây Nguyên, Trung đoàn 48 Sư 320... tiến vào đánh cứ điểm Đồng Dù của Mỹ... rồi chiếm Sài Gòn 30.4.1975 - Kết thúc chiến tranh. Mỹ rút về nước! 
     ... Chính anh cũng ba lần đổ máu ngoài chiến trường, vẫn giữ vững kiên trung với nghĩa khí của một chiến binh cho tới phút cuối cùng. Anh đã được tặng thưởng 5 huân chương chiến công, kháng chiến, danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ và các hình thức khen thưởng khác ". 


Nhà thơ Phạm Ngọc Thái
       Nhà giáo Bùi Văn Dong - Nguyên GV Trường ĐH Quốc gia: Người bạn chiến binh từng có một thời cùng nhà thơ chiến đấu trên chiến trường miền Nam, viết về anh như sau:
     "Tôi biết Phạm Ngọc Thái từ thuở còn chiến tranh, cùng là anh lính chiến ăn rừng, ngủ rú trên mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ. Suốt chặng đường chinh chiến ấy, Thái ham viết nhật ký và làm thơ. Nhiều đêm nằm với nhau bên võng giữa rừng, anh thường đọc thơ cho chúng tôi nghe. Được biết, những cuốn nhật ký đó đã bị mất trong chiến tranh. Tác giả chỉ còn nhớ lại ít bài tản mạn, cũng là một điều đáng tiếc.
     Bọn lính Hà Nội cùng trong tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi đó, hết chiến tranh kiểm lại chỉ còn mươi đứa sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng: Cái anh chàng lính trận rất ham thích thơ thuở đó, nay đã trở thành một nhà thơ nổi danh trên văn đàn ".
         (Trích bài "Phạm Ngọc Thái - Con người và thi ca" của Nhà giáo Bùi Văn Dong - Ở tập "Cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb. Thanh niên 2019)
     Phạm Ngọc Thái bắt đầu xuất hiện trên văn đàn vào mùa xuân năm Canh Ngọ - Khi anh cho xuất bản tập thơ đầu tay: "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990. Đến nay vừa tròn ba mươi năm. Trong 30 năm đó, nhà thơ đã cho ra đời đúng 12 tập sách - Trong đó có hai cuốn tiểu thuyết:
        - "Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm", 2019 
        - "Chiến tranh và tình yêu" (hai tập), Nxb Hồng Đức 2020! 
        Còn lại là 10 tác phẩm thi ca và bình luận văn học.  
        Ngoài ra, anh còn tham gia trong Hội nghệ sĩ sân khấu Thủ đô và Quốc gia, sáng tác thành công 5 vở kịch nói lớn, nhỏ... dự các hội diễn sân khấu của thành phố và toàn quốc.
        Ta chưa cần đề cập sâu vào tầm vóc các loại tác phẩm đã được sáng tác ấy của anh? Chỉ với chân dung từ một người lính trận từng qua cả chục năm trong cuộc chiến tranh đánh Mỹ trở về, rồi trở thành một cán bộ trong ngành ngoại thương quốc tế - Đạt được con số tác phẩm văn học đa dạng, nhiều đến như vậy! Từ thi ca, phê bình & tiểu luận văn chương, tiểu thuyết, kịch bản - Chưa nói tới việc anh đã viết hàng trăm bài bình luận tác phẩm và xã hội... đăng trên các báo của cả nước: Thật là đáng nể!
      Cuộc đời Phạm Ngọc Thái không phải được hưởng những sự êm ả và sung sướng gì? Từ thuở thiếu thời, nhà thơ đã phải cắp sách tới trường với hoàn cảnh cả nước chìm trong cuộc chiến tranh: Các trường phổ thông ở thủ đô phải sơ tán về các vùng quê hay rừng núi, tránh bom đạn của giặc Mỹ để học. Lúc bước vào đời một sinh viên - Theo lời kêu gọi của Tổ quốc lâm nguy ? Phạm Ngọc Thái lại cùng với lớp thanh niên yêu nước thời đó, tình nguyện rời thủ đô... lên đường ra chiến trường chiến đấu. 
        Suốt mười năm chinh chiến trên mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ. Khi đất nước hòa bình: Anh rời quân ngũ trở về thì lại lâm vào cảnh ngộ đau thương ? Cả gia đình nhà thơ lúc đó sống ở phố Khâm Thiên, Hà Nội - Một con phố bị máy bay Mỹ dội bom B52 tàn phá, hủy diệt thủ đô trong 12 ngày đêm, tháng 12/1972. Ngôi nhà của gia đình bị trúng bom và người cha anh đã chết vùi trong đống bom kinh hoàng, chấn động địa cầu ấy! Chỉ còn lại một bà mẹ già đau khổ với hai đứa con (hai em trai của nhà thơ), lúc đó chưa thật trưởng thành. Người chiến binh ấy khi đánh tan giặc trở về cố hương... thì chính gia đình mình lại bị nhà tan, cửa nát.
      Bản thân anh tuy may mắn thoát chết ngoài chiến trường, mang được cái xác trở về cũng... "thân tàn ma dại"? Với 10 năm chinh chiến nghiệt ngã và bom đạn: Bị thương ba lần, ba lần đổ máu - Để lại một bàn tay không còn đủ ngón. Mảnh phảo vẫn còn găm sót lại trong người, không lấy ra được? Cứ giở lại đau. Sức ép bom vào ngực, trở thành căn bệnh "tắc nghẽn phổi mãn tính" phải dùng "thuốc khó thở" đến hết đời! Cũng bởi 10 năm sống nơi chiến trường rừng sâu, nước độc, ác liệt và cực khổ? Nhà thơ mắc thêm căn bệnh chảy máu bên trong... phải cắt bỏ 2/3 dạ dầy. 
        - Đấy, tất cả chùm lên cuộc đời còn lại của một anh chiến bình khi đất nước đã hết chiến tranh trở về!
        Tưởng rằng: Những hoàn cảnh khốn cùng ấy sẽ đè bẹp người chiến binh ấy xuống? Hoặc nếu có vực lại mà sống thì cũng chỉ còn biết an phận thủ thường? Nhưng không! Với chí khí, nghị lực phi thường và đầy khát vọng vốn có của một thanh niên Hà Nội từ thuở còn 18 - Lại được tôi  luyện, thử thách qua cả một cuộc chiến tranh: Người chiến binh ấy đã vượt lên và đè bẹp tất cả... để vươn đến chân trời cuộc sống hằng mơ ước - Và, Phạm Ngọc Thái đã chiến thắng!
        Nói thêm chút nữa về quá khứ: Khi rời khỏi quân ngũ trở lại quê hương ở thủ đô! Từ một sĩ quan quân đội, anh được tuyển vào làm việc trong phòng tổ chức của một tổng công ty của Bộ ngoại thương - Phạm Ngọc Thái vừa công tác vừa theo học hàm thụ tại trường Đại học ngoại thương, rồi trở thành một cán bộ có đầy đủ năng lực của ngành ngoại thương quốc tế! Tiếp xúc, ngoại giao với các thương gia khắp trời Âu, Á - Hồi anh còn làm việc, chưa phát triển rộng rãi sang Mỹ.
        Nhưng thật là ngược cảnh? Cuộc đời đang mở ra cho anh rất nhiều triển vọng trên con đường ngoại thương: Nào là cấp chức? Sẵn sàng có một xuất được Bộ điều ra nước ngoài làm thương vụ? Với một trí thông minh vốn có, lại thêm bề dầy về lý lịch của cả gia đình và bản thân anh cống hiến cho tổ quốc! Bao hứa hẹn một cuộc sống sung sướng, giàu có?
        Nhưng phạm Ngọc Thái lại ôm khát vọng, khát vọng đến tột cùng: Về con đường văn học! Ngày làm việc ở cơ quan, tối đêm lao đầu vào sách vở. Trau dồi kiến thức văn chương và sáng tác thơ, văn - Anh hiểu rằng: Công việc của một cán bộ ngoại thương phải đòi hỏi rất nhiều tâm, sức. Nếu cứ vừa làm, vừa viết... chắc gì đã có nổi tác phẩm hay để lại cho đời ? Đến khi đủ tuổi về hưu thì... đã già! Thế là, mới chỉ ngoài tuổi bốn mươi (vì có nhiều năm cống hiến ngoài chiến trường, được cộng thêm thời gian công tác), Phạm Ngọc Thái quyết đinh xin nghỉ hưu sớm để... làm văn học!  
        Như trên tôi đã viết: Trong 30 năm chuyên tâm vào sáng tác, anh đã cho xuất bản đúng 12 tập sách và viết thành công 5 vở kịch nói - Không khỏi làm cho ta phải giật mình, trân trọng! 
          Chỉ trong vòng hai năm vừa qua, nhà thơ đã cho xuất bản liên tục 5 tác phẩm: 
          A. BA TÁC PHẨM THƠ: 
        - Tập "Cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên. Xuân 2019
        - "Tuyển thơ chọn lọc - Phạm Ngọc Thái", Nxb Hồng Đức. Đông 2019
- Tập "Cha khóc con", Nxb Hồng Đức. 2020
        B.  HAI TIỂU THUYẾT:
        - "Hà Nội 12 ngày đêm", Nxb Hồng Đức 2019
        - Bộ tiểu thuyết hai tập "Chiến tranh và tinh yêu", Nxb Hồng Đức 2020
        Xin tóm bắt khái quát về:
                                        
        BA TÁC PHẨM MỚI NHẤT CỦA ANH



        1/.  "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngoc Thái, Nxb Hồng Đức 2019.  
                                          
        Đánh giá về tầm vóc của "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái, đã có nhiều đàm luận trên văn đàn - Đặc biệt là bài tiểu luận của cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - Nguyên giảng viên Trường ĐH sư phạm phân tích rất sâu sắc. Xin trích dẫn thêm mấy đoạn có tính tổng hợp: 
       "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC" Phạm Ngọc Thái là cả một thế giới thơ tự do hiện đại các loại: Từ thi pháp thơ hiện thực, đến tượng trưng, nhiều bài pha trộn màu sắc thơ siêu thực - Được thể hiện bằng một bút pháp tinh luyện, tạo nên vô vàn những áng thi ca giàu cảm xúc, huyền thẳm, sâu sắc.
     .... "Dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng cũng như ngôn ngữ nghệ thuật và tính nhân văn là rất nhiều. Mức độ hay mỗi bài khác nhau, nhưng những tình thi đó đều cảm hóa được trái tim người yêu thơ...
        Nhà văn Nguyễn Khôi thì khen: Phạm Ngọc Thái, nhà thơ tình số 1 Hà Thành! Nhận thức của tôi (tức là cô giáo Hoàng): Không chỉ riêng với Hà Thành - Phạm Ngọc Thái là nhà thơ tình số 1 của thi ca đương đại Việt Nam!
     Và cô giáo kết luận: " Tôi chưa thấy có nhà thơ nào sáng tác được nhiều thơ hay đến thế!... Với TUYỂN THƠ CHỌN LỌC -  Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ lớn! Ngôi sao sáng của thi ca đương đại Việt Nam!".



        2/. Tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" (hai tập), Nxb Hồng Đức 2020
        - Một Bộ tiểu thuyết có tính dã sử khá đồ sộ: Không phải về trang sách mà là tầm vóc, trữ lượng thời đại chứa đấy ắp trong tác phẩm! Tổng cộng cả hai tập dầy gần 500 trang xuất bản. 
        Bởi tác giả chính là một chiến binh đã từng tham gia suốt cuộc chiến tranh đánh mỹ, nên các tình tiết lịch sử và chiến trường được mô tả rất sinh động, sắc bén. Tính dân tộc hòa cùng tình yêu gái trai quyện vào nhau nồng nàn, tha thiết, cao đẹp! Diễn biến đươc khắc họa ly kỳ, chìm trong sự thảm khốc đau thương bởi chiến tranh.
        Tiểu thuyết không chỉ mô tả những trận đánh điển hình trên mặt trận Tây nguyên Nam Bộ - Từ mùa xuân Mậu Thân 1968 đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tác phẩm còn tóm bắt toàn cục cả chiến trường miền Nam, đến tận ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1975.
        Đồng thời, phục lại cuộc chiến tranh oanh tạc bằng không quân của giặc Mỹ đánh ra miền Bắc: Vụ thảm sát tàn bạo 12 ngày đêm thảm khốc 1972 ở Hà Nội - Hoa Kỳ đã cho máy bay B52 mang bom đánh vào thủ đô, hòng hủy diệt biến Thủ đô Hà Nội trở về thời kì đồ đá ? Bị cả loài người lên án!
        Diễn trình lại những trận oanh kích điển hình, với hàng đàn máy bay B52 Mỹ ném bom tàn sát xuống bệnh viện Bạch Mai - Cảnh tình đêm noel trong không khí chiến tranh (1972) ở thủ đô - Và trận ném bom tàn khốc, san phẳng cả khu phố Khâm Thiên đông dân nhất Hà Nội (tối đêm 26/12/1972). Tới khi Hiệp định Pa Ri giữa Lầu Năm Góc và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được kí kết, tháng 1/1973.
        Quan điểm của tác giả: Khách quan với thời cục, trung thành về tính lịch sử xã hội lúc đó - Tiểu thuyết nhằm lên án chiến tranh!
        MỘT  BỘ TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH LỊCH SỬ XÃ HỘI SÂU SĂC, SINH ĐỘNG VÀ ĐIỂN HÌNH TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ Ở VIỆT NAM!  

      

        3/. Tập thơ " Cha khóc con ", Nxb Hồng Đức 2020. 
     
        Tập thơ gồm 45 bài, dầy 132 trang sách xuất bản - Đã đươc viết bằng máu và nước mắt của một ngươi cha, khóc đứa con trai yêu quí bị chết vì đột quị khi mới 27 tuổi đời! Chính nỗi đau tột cùng đã tạo nên những cảm xúc tột cùng trong trái tim của người cha: Người cha ấy lại là một nhà thơ đầy tài năng! (Một thiên tài thi ca - Theo tôi)! Bởi vậy thi phẩm CHA KHÓC CON của anh, trở thành một Tập thơ "độc nhất vô nhị" trong thiên cổ!
        Nói về tập thơ - Như sự đàm luận trên văn đàn:
        Nhà thơ cội gạo Nguyễn Khôi (Hội nhà văn Hà Nội) nhận định - Khi nhà thơ Phạm Ngọc Thái cho đăng các bài thơ khóc con trên facebook: 
        "Thơ khóc nổi tiếng xưa có Đông Hồ khóc vợ, Tương Phố khóc chồng, Tam Nguyên Yên Đổ khóc con... Nay thi sĩ Hà Thành Phạm Ngọc Thái thống thiết khóc con... Hy vọng lưu danh thiên cổ !?"
          (Theo comment Nguyễn Khôi ngày 3.8.2019)
        Hay như nhà thơ Quang Hoài HNVVN thì ca ngợi lúc tập thơ ra đời: "Chúc mừng nhà thơ Phạm Ngọc Thái, một tập thơ có một không hai... mang ý nghĩa tâm linh rất sâu sắc".
       Còn nhà nghiên cứu văn học - Trang chủ Trần Mỹ Giống bình luận:
        "Xuyên suốt tập thơ 45 bài là cảm xúc tình cảm sâu sắc của người cha khóc con mệnh yểu với rất nhiều góc độ khác nhau, vô cùng cảm động bởi cảm xúc hết sức chân thật của tác giả.
        Xưa nay khóc cha, khóc vợ, khóc con… cũng đã được một số tác giả thể hiện bằng thơ, nhưng để có cả một xê-ri (45 bài) khóc con trong một tập thì có lẽ, đến giờ, chỉ có nhà thơ Phạm Ngọc Thái làm được - Chắc chắn, Phạm Ngọc Thái phải là một người cha yêu con sâu nặng chân thành và có năng lực thơ ca thực sự lớn! Mới làm được nhiều bài thơ đa tình, đa cung bậc, đa góc độ, khía cạnh mà bài nào cũng rung động người đọc như vậy.
         ... Mời độc giả tìm đọc các bài thơ khóc con giàu cảm xúc, đa dạng, tình cảm thống thiết ở những trạng huống khác nhau của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - Trong ấn phẩm có một không hai: CHA KHÓC CON!".
        Kết luận: 
        Mặc dù Phạm Ngọc Thái đã sáng tác đủ các loại tác phẩm văn chương như thế! Song vẫn phải nói: Thi ca chính là mảng văn học cốt lõi nhất làm nên tầm vóc nhà văn, nhà thơ của chân dung anh!
        Tôi còn nhớ - Trong lời đề tựa cho TUYỂN THƠ HÀN MẶC TỬ được xuất bản lần đầu vào năm 1988, sau ngót nửa thế kỷ bị chìm lấp (kể từ khi thi nhân tạ thế 11.11.1940). Với lòng tri ân và ngưỡng mộ tài năng thi nhân, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: 
        -  Hàn Mặc Tử anh là ai
        Để kết thúc bài bình luận: "Từ một chiến binh trở thành nhà thơ danh giá" này! Tôi thiết nghĩ: Với tầm vóc, chân dung Phạm Ngọc Thái đã đạt đến hôm nay - Cũng xin mượn câu nói của cố nhân, dành tặng lại nhà thơ:
         -  Phạm Ngọc Thái anh là ai? 
                                                          Hà Nội, tháng 5 - 2020                                                                       
                                                               Nguyễn Thi Xuân 



<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.06.2020 17:25:26 bởi Nhân văn >
Nhatho_PhamNgocThai 20.07.2020 17:22:27 (permalink)
 
           Tiểu thuyết "CUỘC CHIẾN HÀ NỘI 12 NGÀY ĐÊM"
                                           Nxb Hồng Đức 2019  
                                                                       Giới thiệu trên trang mạng
 
 
 
 

  Trang chủ đã nhận được sách tặng của nhà văn Phạm Ngọc Thái, tác phẩm:
        CUỘC CHIẾN HÀ NỘI 12 NGÀY ĐÊM 
                                 Tiểu thuyết 
                              Phạm Ngọc Thái

        Phạm Ngọc Thái được bạn đọc biết đến nhiều nhất qua những tác phẩm thơ tình “Có một khoảng trời”, “Thơ tình viết cho sinh viên”, “Người đàn bà trắng”, “Rung động trái tim”… Ngoài thơ, Phạm Ngọc Thái còn xuất bản một số kịch bản như “Bản án dưới mồ”, “Số phận những hòn đá tảng”, “Mối tình hoa hồng bạch”, “Chuyện ở quán gốc đa”, “Cánh cửa quốc tế”…
        Kỳ này Phạm Ngọc Thái trình làng tiểu thuyết “Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm”.
        Xoay quanh mối tình bi thương của hai nhân vật chính là sĩ quan pháo binh Hoàng và nữ nhà báo Thu, tác giả tái hiện cuộc sống xã hội Thủ đô Hà Nội trong những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ một cách sinh động, chân thực, đau thương, hào hùng.
        Hoàng và Thu tốt nghiệp cấp 3, tương lại đi học nước ngoài mở ra đầy triển vọng, nhưng họ đã từ chối cơ hội có một không hai ấy để nhập ngũ đi chiến trường, để ở lại cùng Thủ đô chiến đấu bảo vệ quê hương. Mối tình của họ thơ mộng, thiết tha nhưng đau thương. Khi Hoàng về phép cưới Thu thì Thu đã hy sinh trong cứu hộ Khâm Thiên… Hoàng ôm ấp mối tình bi thương trở lại chiến trường tiếp tục chiến đấu giải phóng miền Nam…
        Trong những năm chiến tranh phá hoại ác liệt, người Hà Nội phải sơ tán hết sức gian khổ. Những người ở lại kiên cường bám trụ làm nhiệm vụ, vượt lên mọi gian khổ hy sinh để giành thắng lợi…
        Bên cạnh những chương, những đoạn tả mổi tình Hoàng Thu thơ mộng, đẹp là Chương VI Hà Nội 12 ngày đêm đầy ắp tư liệu chính xác, là bản tổng kết tội ác của Đế quốc Mỹ và những chiến công của quân dân Hà Nội 12 ngày đêm 12 - 1972… trong “Cuộc chiến Điện Biên phủ trên không” ấy.
        Tiểu thuyết ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, dũng cảm, kiên cường của người Hà Nội, lên án chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
        Cảm ơn nhà văn Phạm Ngọc Thái tặng sách và trân trọng giới thiệu với bạn đọc tiểu thuyết “Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm” đầy âm hưởng tình ca, chất sử thi hào hùng rất đáng quý, đáng đọc...
                                               TRẦN MỸ GIỐNG
 




     ĐÂY LÀ BỘ TIỂU THUYẾT HAI TẬP
[                             "Chiến tranh và tình yêu" 
                                    Nxb Hồng Đức 2020
 
             SẮP TỚI SẼ GIỚI THIỆU
Trên "Tác giả - Tác phẩm người Việt" ở VN THƯ QUÁN


<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.07.2020 17:52:24 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 29.08.2020 04:00:02 (permalink)
 
 
      TIỂU THUYẾT CHIẾN TRANH CỦA MỘT NHÀ VĂN CHIẾN BINH 
                                                                                         Trần Đức
                                                                     Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hóa dân gian



    Đó chính là Nhà văn - Nhà thơ Phạm Ngọc Thái với Bộ tiểu thuyết (2 tập): CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU, Nxb Hồng Đức 2020.
        Mở đầu tác phẩm, ta đã thấy dòng chữ: "Truyện được viết dựa theo cuộc đời trận mạc của tác giả, từng trải qua cuộc chiến tranh trên chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ". Tổng cộng cả hai tập dầy 468 trang sách, trữ lượng thời đại chứa đầy ắp trong tác phẩm.

        Nguyễn Thị Xuân - GV Trường THPT Ba Đình Hà Nội, với bài viết: "Từ một chiến binh trở thành nhà thơ danh giá" - Bình luận về tiểu thuyết:
        " Tiểu thuyết không chỉ mô tả những trận đánh điển hình trên mặt trận Tây nguyên Nam Bộ - Từ mùa xuân Mậu Thân 1968 đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tác phẩm còn tóm bắt toàn cục cả chiến trường miền Nam, đến tận ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1975.
        Đồng thời, phục lại cả cuộc chiến tranh bằng không quân của giặc Mỹ đánh ra miền Bắc: Vụ thảm sát tàn bạo 12 ngày đêm thảm khốc 1972 ở Hà Nội - Hoa Kỳ cho B52 mang bom oanh tạc vào tận thủ đô, hòng hủy diệt biến Thủ đô Hà Nội trở về thời kì đồ đá? Bị cả loài người lên án! ".
        Cô giáo kết luận: "Bộ tiểu thuyết có tính lịch sử xã hội sâu sắc, sinh động và điển hình thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ xâm lược ở Việt Nam".


Tác giả Trần Đức                                              
     Trong bài viết này, tôi xin tóm lược diễn biến những sự kiện về đất nước - con người của cuộc chiến trạnh, được nhà văn miêu tả qua tác phẩm: 
     ... Nhân vật trung tâm của truyện là một đôi thanh niên nam nữ: Nguyễn Hoàng và Thu, cô bạn gái cùng học năm cuối cấp với anh ở trường phổ thông.  Mùa thu 1966, sau kỳ thi tốt nghiệp: Hoàng được gọi Đại học Bách khoa - Thu vào sư phạm. Họ cũng chính thức đến với nhau bằng tình yêu từ đấy! Khi đó, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền bắc đã rất ác liệt. Máy bay Mỹ nhiều lần ném bom, bắn phá xuống các vùng ven đô. Cả thành phố bước sang giai đoạn báo động. Các cơ quan, trường học cùng dân tình trong nội thành đều gấp gáp sơ tán về các vùng nông thôn và miền núi. 
        Hoàng sinh ra trong một gia đình thị dân thành phố. Nhà có ba anh em trai: Hoàng là con thứ. Mẹ của ba anh em mất sớm. Ông Thịnh, người cha của ba anh em lấy thêm một bà vợ lẽ. Anh trai lớn của Hoàng đã có vợ con và ra ở riêng, theo nghề cha làm thợ cắt tóc. Hoàng với cậu em út ở cùng cha và dì ghẻ. Gia đình sống trong một ngôi nhà tại ngõ Cống Trắng, phố Khâm Thiên, Hà Nội. Không biết từ bao giờ, ông Thịnh đã chiếm được một miếng đất ngay đầu ngõ gần nhà, sát với mặt phố để mở một cửa hiệu cắt tóc nhỏ. Bà dì ghẻ thì làm cái nghề mua đi, bán lại: Đêm đêm ra ga Hàng Cỏ đón tàu từ Đồng Đăng, mạn phía bắc giáp Trung Quốc về để mua hàng, rồi mang bán lại cho những người buôn bán nhỏ ở thành phố kiếm lãi.
        Gia đình Thu, nhà trên phố Hàng Bông. Ba và mẹ cô đều làm nhà giáo. Bà Giáo (thường gọi như vậy) đã nghỉ hưu - Ông Giáo, hiện vẫn đang công tác trên Bộ Giáo dục thành phố. Thu có một anh trai đang chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Người chị dâu với đứa cháu gái nhỏ, ở với ông bà Giáo và Thu. 
        Tiểu thuyết khắc họa theo những năm tháng của cuộc đời đôi trai gái ấy: Qua đó diễn tả lên toàn cảnh xã hội, trong những năm tháng chiến tranh đánh Mỹ của cả hai miền Nam - Bắc. 
        Nguyễn Hoàng, nhân vật chính của tiểu thuyết là một sinh viên, trí thức tiên tiến. Anh đã cùng với lớp thanh niên thủ đô yêu nước, tình nguyện rời bỏ trường đại học, xung phong vào quân ngũ lên đường đi chiến đấu - Thu theo học đại học sư phạm. Những năm tháng bởi cuộc chiến tranh phá hoại, trường của cô phải sơ tán lên mãi tận vùng rừng núi Việt Bắc để học.  
        1968. Ở miền Nam, đồng loạt diễn ra cuộc tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân trên toàn chiến trường. Quân giải phóng bất ngờ tiến công vào rộng khắp 6 thành phố lớn, 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Như các nhà bình luận quốc tế lúc ấy đã viết: "... Một cuộc Tổng công kích của mặt trận giải phóng miền Nam, làm rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc".
        Khi đó đơn vị của trung sĩ Nguyễn Hoàng - Hoàng đã nhập ngũ và là tiểu đội trưởng một trung đội súng máy đại liên, thuộc Trung đoàn 209, Sư 312... đang diễn tập trên rừng núi Hòa Bình, được lệnh hành quân bằng ô tô, đội mũ sắt (được gọi là trung đoàn mũ sắt), cấp tốc tiến thẳng vào chiến trường Tây Nguyên. 
        Đến đây tiểu thuyết bắt đầu rẽ ra làm hai hướng: Một hướng theo bước chân Nguyễn Hoàng - Tác giả phục lại tình hình chiến sự trên chiến trường miền Nam, tới ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1775 - Hướng kia theo cuộc đời Thu, khắc họa lại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra đất Bắc, ngày càng ác liệt. Kết thúc bằng trận ném bom hủy diệt 12 ngày đêm của Mỹ tháng 12.1972, hòng biến thủ đô Hà Nội trở về thời kỳ đồ đồng, đồ đá.
        Cách cấu trúc của bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" viết theo kiểu từng hồi, từng chương: Cả hai tập gồm 13 chương và 45 đề mục. Các chương xen kẽ nhau, diễn tả tuần tự thời gian chiến sự cả hai miền Nam Bắc. Trên đầu mỗi chương đều có tên đề giới thiệu... rất giống với phong dáng truyện  "Những người khốn khổ" hay " Nhà thờ Đức Bà Paris" của văn hào Pháp Victor Hugo - Thí dụ: Chương I "vào đời" - Chương II "Chiến tranh phá hoại và chia ly"...cứ thế tới Chương XIII "Trận chiến cuối cùng"... và hết.
        Nhưng cách tư duy và ngôn ngữ diễn tả thì lại ảnh hưởng rất nhiều các tác phẩm văn học Âu châu, như "Chiến tranh và hòa bình" hay "Anna Karenina" của văn hào Nga L. Tônxtôi qua bản dịch ra tiếng Việt - Tôi từng trao đổi với tác giả, anh nói: Những năm tháng trước, anh thường đọc nhiều tác phẩm của nước ngoài (qua bản dịch) hơn ở trong nước, nhất là đối với các tác giả lớn như: L. Tônxôi, Pushkin, Victor Hugo, Balzac... cho nên cách thức tư duy văn xuôi phạm Ngọc Thái ảnh hưởng nhiều của nền văn học Âu châu cũng là điều dễ hiểu.
        Nói rộng sang thi ca - Ở trong nước, chủ yếu Phạm Ngọc Thái ảnh hưởng kiểu tư duy thơ của Hàn Mặc Tử qua các bài thơ, như: Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín... và tính triết lý trong thơ của Chế Lan Viên -   không chịu ảnh hưởng một chút nào của thơ Xuân Diệu hay Huy Cận.
        Còn đối với các dòng thi ca ở nước ngoài - Anh chịu ảnh hưởng của dòng thơ tượng trưng Âu Châu đầu thế kỷ XX: Điển hình là nhà thơ tượng trưng bậc thầy ở Pháp Charles Baudelaire (1821 - 1867) với thuyết "tương ứng cảm quan".  Về chất trữ tình trong thi ca thì anh lại ảnh hưởng của nhà thơ Nga vĩ đại Pushkin qua bản dịch Thúy toàn - Chính loại ngôn ngữ thi ca này chi phối... kể cả khi anh viết kịch hay tiểu thuyết - Bởi vậy, bạn bè trong giới văn chương thường nói vui: Anh viết kịch như thơ -  Thơ thì lại rất nhiều tính kịch, là vậy. 
        Bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" của Phạm Ngọc Thái cũng được phối cảnh như các màn diễn của một vở kịch dài hay là một bộ phim nhiều tập. Cho nên tôi cho rằng: Nếu một tác gia hay đạo diễn phim nào, làm phim về tiểu thuyết Phạm Ngọc Thái? Nếu làm giỏi, rất dễ có một bộ phim tâm lý chiến tranh sâu sắc, tuyệt vời.
        Xin phân tích vào nội dung - Như cái tên đề "chiến tranh và tình yêu": Đó là hai phạm trù xã hội sâu sắc, được tác giả diễn tả qua tiểu thuyết. Tạo thành hai dòng chảy quyện vào nhau, xuyên suốt tác phẩm. Bình luận một bộ tiểu thuyết dài hai tập mà chỉ trong bài tiểu luận ngắn, thực không dễ. Tôi xin chia làm ba phần để phân tích:
        1/.  Chiến trường miền Nam
        2/.  Chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền Bắc 
        3/.  Tình yêu.


 Nhà văn Phạm Ngọc Thái thời chiến tranh                                     

 
       * PHẦN I - Tình hính chiến sự ngoài tiền tuyến được diễn tả theo bước chân Nguyễn Hoàng lên đường vào mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ: Bắt đầu từ năm 1968, sau cuộc tổng công kích mùa xuân Mậu Thân của quân giải phóng trên toàn chiến trường miền Nam. Khắc họa vào 7 chương, trong tổng số 13 chương của tác phẩm. Đó là các chương: V - VI - VII - VIII - IX.... XII - XIII và kết thúc. Trên đầu mỗi chương đều có tiêu đề:
                                   TẬP MỘT
        Bốn chương đầu tiên diễn giải về gia đình, tình yêu của đôi trai gái tại thủ đô Hà Nội. Tổng quát tình hình chiến sự, dân tình, không khí xã hội trong chiến tranh, cho đến khi đôi trẻ chia ly: Anh ra ngoài tiền tuyến giết giặc, em ở lại hậu phương...  
        -  Chương V:    Tổng quát chiến sự xuân Mậu Thân 1968
        -  Chương VI:   Trận đánh đầu tiên (nguyễn Hoàng vào chiến trường Tây Nguyên)
        -  Chương VII:  Người con gái bản ra chiến trường  
-  Chương VIII: Mặt trận Tây Nguyên đẫm máu (phần 1)  
                                    TẬP HAI
        -  .... Mặt trận Tây Nguyên đẫm máu (phần 2)
        -  Chương IX:   Cái chết của người con gái bản
        .....             
        -  Chương XII:  Chiến trường Tây Nguyên những năm cuối.
-  Chương XIII: Trận chiến cuối cùng của cuộc chiến tranh.
        Tóm lược về bẩy chương: Tình hình chiến sự của chiến trường miền Nam nói chung, qua những trận đánh điển hình trên mặt trận Tây Nguyên, Nam Bộ - Bắt đầu từ trận đầu tiên trung sĩ Hoàng tham dự, đó là trận đánh của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209, Sư 312 (vừa hành quân từ Bắc vào)... với TIểu đoàn Anh Cả Đỏ của Mỹ, tại dãy Chư Tan Kra thuộc vùng núi Kon Tum. Nói về chiến tích của trận đánh này, theo cuốn "Lịch sử Trung đoàn 209...", Nxb QĐND 2004 viết:
        "Trong trận tiến công tiêu diệt quân Mỹ ở cao điểm 995 (thuộc núi Chư Tan Kra), 204 lính Mỹ đã bị tiêu diệt và hy sinh hơn 200 đồng chí. Trận đánh Mỹ đầu tiên tại cao điểm 995, trung đoàn không dứt điểm, nhưng là trận đánh mở màn của trung đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trên chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ... ".
        Một trận đánh đẫm máu. Quân giải phóng tổn thất rất nặng nề. Chính Hoàng đã bị thương, phải rời đơn vị về phẫu điều trị vết thương trong trận đó. VÌ trận chiến không dứt điểm - Chính mắt anh nhin thấy bao đồng chí mình bị thương và hy sinh nằm phơi trên đỉnh đồi... tiểu đoàn phải rút quân không lấy được xác đồng đội ra và...  bọn Mỹ đã cho xe ủi đẩy tất cả xác của các chiến sỹ xuống một cái hố lớn, tẩm xăng vào đốt. Sau đó trung đoàn 209 tiếp tục hành quân xuống mặt trận dưới đồng bằng - Hoàng đến viện trị thương. Vết thương lành, anh được thuyên chuyển vào một trung đoàn pháo lớn của quân giải phóng ở Tây Nguyên. 
        Cứ thế cùng với bước chân Nguyễn Hoàng, tiểu thuyết khắc họa những trận đánh lớn điển hình ở Tây Nguyên, từ những năm của thập kỷ 70 đến tận ngày 30.4.1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng - Như trận đánh cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đầu năm 1972; Chiến thắng lớn ở Đắc Tô - Tân Cảnh trong chiến dịch xuân hè 1972; Sau đó quân giải phóng tiến đánh vào thị xã Kon Tum thì bị thất bại (lần đầu) phải rút bỏ về củng cố quân lực tại căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh, vùng đã được giải phóng.
        Ngày 27.1.1973 hiệp định ngừng bắn ở Việt Nam tại Pa Ri được kí kết. 
        Ngày 29.3.1973, người lính Mỹ cuối cùng đã rút khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam. Từ nay chỉ còn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu) đơn độc chống lại liên quân: Quân đội nhân dân Việt Nam từ Bắc tràn vào và Quân giải phóng miền Nam - Song thực chất Chính quyền Sài Gòn vẫn nhận được sự viện trợ của Mỹ (tuy so với trước thì rất ít)? chính quyền Thiệu đã ngang nhiên phá bỏ hiệp định ngừng bắn, huy động toàn bộ quân lực tiến hành chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ" để bình định, lấn chiếm lại một số vùng đã được cộng sản giải phóng - Nội chiến tiếp tục nổ ra.
        Tháng 9.1973 - Nguyễn Hoàng được đề bạt lên cấp đại úy, tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn hỏa lực gồm pháo hỏa tiễn DKB, cối 82mm, rốc két B41 và một đại đội pháo cao xạ phòng không với hai loại pháo 37ly - 14ly5 - Nhận lệnh từ Bộ tư lệnh Mặt Trận B3 chi viện cho Trung đoàn bộ binh 48 Sư 320, mở cuộc tiến công vào căn cứ Chư Nghé, phía tây Pleiku. Trận chiến đó quân giải phóng đã thắng lợi ròn rã.
        Khi đó Hoàng vẫn không hề biết được tin rằng: Thu, người yêu của anh đã bị chết khi đi làm nhiệm vụ cứu hộ dân bị nạn trong đợt Mỹ ném bom B52 rải thảm xuống 12 ngày đêm ở Thủ đô Hà Nội vào tháng 12.1972 ( vì anh không nhận được thư).
        Tháng 3.1975, trung đoàn trưởng Trung đoàn pháo 37ly Nguyễn Hoàng nhận lệnh chi viện cho các sư đoàn bộ binh chủ lực của mặt trận B3, mở cuộc tổng tiến công vào các thị xã lớn: Buôn Ma Thuột, Kon Tum và Pleiku...  giải phóng hoàn toàn vùng Tây Nguyên. Thừa thắng, các sư đoàn chủ lực của cộng sản ồ ạt tấn công, đánh chiếm Quảng Trị ngày 19.3.1975 - 26.3 giải phóng thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên - 24.3 đánh chiếm hàng loạt các vùng khác, như Thị xã Tân Kỳ  - Quảng Ngãi 25.3 - Chu Lai 26.3 - Ngày 30.3.1975 thành phố Đà Nẵng cũng hoàn toàn lọt vào vòng kiểm soát của quân giải phóng. Năm sư đoàn bộ binh thuộc chính phủ Việt Nam Cộng hòa cùng các lực lượng không quân, hải quân, địa phương quân... tổng cộng gần 300 ngàn quân VNCH bị tan rã. 16 tỉnh ở miền Nam, 5 thành phố lớn của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu - tức 1/3 lãnh thổ, trong vòng 15 ngày đã lọt vào tay quân giải phóng.
        Lúc tình hinh chiến trường miền Nam đang diễn ra rất căng thẳng, gấp rút giải phóng toàn bộ miền Nam - Hoàng nhận được tin Thu chết trong một lá thư của Lan gửi vào - cô bạn gái học cùng một lớp với hai người... kèm với lá thư của Thu viết cho anh đêm nô-en 1972 chưa kịp gửi. Hoàng nghe tin Lan báo về cái chết của Thu như sét đánh ngang tai, nước mắt anh chỉ muốn trào ra. Toàn bộ con người anh run rẩy. Nhưng lệnh chuẩn bị vào cuộc chiến quyết liệt - Hoàng phải nén lòng mình, vội nhét cả hai lá thư của Lan và người yêu vào túi áo ngực, rồi tiếp tục chỉ huy bộ đội tiến vào trận đánh.
        Ở miền Bắc: Bộ chính trị của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử: Tiến đánh vào đầu não của chính quyền VNCH ở Sài Gòn, ngay trong mùa xuân 1975. Sớm hơn dự định mà đáng lẽ theo kế hoạch, phải để tới năm 1976 mới thực hiện.
        Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và khắp trên chiến trường miền Nam, đẩy Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vào thế tuyệt vọng. Bộ máy chính quyền của tổng thống Thiệu tan rã. Ngày 21.4.1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức, trao quyền lại cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Sau đó nhượng lại cho Dương Văn Minh để có thể thương lượng với cộng sản Bắc Việt - Nhưng cuối cùng thì Dương Văn Minh thay mặt chính phủ VNCH ở Sài Gòn, đã phải đầu hàng vô điều kiện.
        Chiều 25.4.1975, Nguyễn Văn Thiệu cùng với gia đình và đoàn tùy tùng rời Việt Nam chạy sang Đài Loan - với sự hộ tống của trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polar, tướng Charles Times và đại sứ Martin.
        Trở lại với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào tháng 4.1975 ở trong tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu", Phạm Ngọc Thái đã phục lại: Trung tá Nguyễn Hoàng, trung đoàn trưởng trung đoàn pháo hỗn hợp ( cả pháo cao xạ đánh trên không và pháo mặt đất), trực thuộc Binh đoàn Tây Nguyên - Hoàng được phong vượt cấp sau chiến thắng ở mặt trận Tây Nguyên - Trung đoàn pháo của anh được Bộ tư lệnh binh đoàn điều động, dùng hỏa lực chi viện cho sư đoàn 320 đánh vào Đồng Dù - Đồng Dù là một căn cứ kiên cố, tuyến phòng thủ phía Tây Bắc Sài Gòn của Chính quyền VNCH. 
     
        6 giờ 30 phút ngày 29.4.1975, lệnh nổ súng bắt đầu. Ở đây, đã diễn ra trận chiến rất ác liệt. Thương vong và tử chiến cả hai bên đều rất nặng nề. Máu các chiến sĩ của Sư đoàn 320 cũng đã nhuộm đỏ mặt đồi. Mệnh lệnh của đồng chí Sư đoàn trưởng 320, chỉ thị xuống các trung đoàn: Bằng mọi giá dù phải hy sinh bao nhiêu, trong vòng 6 tiếng phải tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, để các binh đoàn chủ lực của mặt trận tiến đánh vào trung tâm Sài Gòn. 
     
        Đúng 11 giờ ngày 29.4.1975, lá cờ quyết chiến quyết thắng của Sư đoàn 320 tung bay trên nóc sở chỉ huy của quân VNCH. Mở tung cánh cửa hướng tây bắc, để binh đoàn Tây Nguyên tiến thẳng về giải phóng Sài Gòn. Chỉ trong vòng 5 tiếng đồng hồ, Sư 320 của quân giải phóng đã đập tan toàn bộ Sư 25 của chính quyền Thiệu đóng trên căn cứ.      
       
        Chiều 29.4.1975 sau khi chiến thắng Đồng Dù, trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng nhận được chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân đoàn: Trung đoàn pháo của anh sẽ ở lại đóng quân bảo vệ căn cứ - Còn đại quân gấp rút tiến vào nội đô, hợp với các quân đoàn của toàn miền, để kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
        Đúng 11 giờ ngày 30.4.1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh vừa nhậm chức hôm 28.4 phải lên Đài phát thanh Sài Gòn đọc lệnh ngừng bắn và đầu hàng vô điều kiện. Miền Nam hoàn toàn giải phóng.
     
        Tiểu thuyết mô tả hình ảnh những người chiến sĩ ôm lấy nhau hạnh phúc. Nhiều người đã khóc. Hạnh phúc lớn quá, tưởng có thể vỡ tim! Họ hò reo vui sướng như những đứa con nít. Lòng những người lính chiến trường thổn thức. Họ muốn gào to lên, gọi vọng về quê hương:
        -  Cha ơi! Mẹ ơi! Vợ con và những người thân yêu của ta ơi! Chiến tranh đã kết thúc rồi. Hòa bình rồi!
        Khi đó trong lòng người Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng - Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết này? Tôi xin chép lại đoạn cuối của cuốn tiểu thuyết: 
     "Buổi trưa ngày 30.4.1975, trên căn cứ Đồng Dù nắng chói chang như đổ lửa. Trong gian phòng của Ban chỉ huy trung đoàn pháo, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lặng lẽ đứng bên cửa sổ nhìn ra xa. Anh thấy cả một bầu trời đỏ như một dòng sông máu ( mở ngoặc - Hình ảnh "dòng sông máu" minh họa về sự đau thương, tang tóc do chiến tranh gây ra )... Máu của những chiến sỹ cách mạng đi làm nhiệm vụ giải phóng từ mấy chục năm nay, máu những đồng đội anh vừa ngã xuống hôm qua bên cửa ngõ Sài Gòn, và cả máu của bao chiến sỹ vừa chết trong trận chiến sáng nay ở nội đô, thành phố được coi là "hòn ngọc viễn đông" này.
        Không! Không phải chỉ những dòng máu ấy, mà còn cả máu của hơn một triệu người lính VNCH cũng hòa vào trong đó? Những người lính trận của phía bên kia? Họ cũng đã phải chết rất tang thương...
        (Đoạn này thể hiện tính hòa hợp dân tộc của tác giả)
  
        - Họ đâu phải là kẻ đã gây ra cuộc chiến tranh? Họ cũng là con em của dân tộc này! Chỉ có kẻ gây ra cuộc chiến tranh là do đế quốc Mỹ và lũ tay sai khởi chiến mới có tội: Phải bị lên án tới muôn đời!... Trong dòng sông máu loang đỏ kia, còn cả máu của những người thân và đồng bào ở thành phố và những làng thôn nơi quê hương anh... cũng đã phải đổ xuống vì chiến tranh ".
       Đấy, bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" của Phạm Ngọc Thái kết thúc ở đó.               

 
        * PHẦN II - Chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền Bắc, được diễn tả theo cuộc đời Thu. Thu tốt nghiệp trường đại học sư phạm, nhưng xin chuyển sang làm phóng viên của tờ báo Hà Nội Mới ở Hà Nội - Cũng vào giai đoạn Mỹ ném bom để hủy diệt thủ đô trong 12 ngày đêm - Cuộc chiến tàn khốc ấy được diễn tả qua hai chương:
        -  Chương X:   Hà Nội cuộc sơ tán vô tiền khoáng hậu
        -  Chương XI:  Hà Nội 12 ngày đêm
        Ngày 16.4.1972, chính quyền Hà Nội ra lệnh cho nhân dân phải "cấp tán" - Tức là sơ tán thật nhanh ra khỏi thành phố, vì Mỹ sẽ ném bom rải thảm thành phố. Tiểu thuyết đã phục lại một số cảnh điển hình "vô tiền khoáng hậu" của dân tình năm ấy.
        Ngày 17.12.1972, Tổng thống Mỹ Nixon chính thức ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng: Gọi là "chiến dịch Linebacker II" bắt đầu. 
        Vào 19h20 phút ngày 18.12.1972, nhiều tốp máy bay B52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm. Tiếng nổ long trời. Khói lửa mịt mù... Báo hiệu cuộc đụng độ lịch sử, giữa các lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ thủ đô của cộng sản - Mở màn cho chiến dịch 12 ngày đêm "Hà Nội - Điên Biên Phủ trên không", với các siêu pháo đài bay B52, những con "ngoáo ộp" Mỹ.
        Tiểu thuyết diễn lại hai trận ném bom tàn khốc nhất của không quân Mỹ trong 12 ngày đêm: 
        -  Đêm 21 rạng ngày 22.12, làm đổ sập hoàn toàn bệnh viện Bạch Mai, rất nhiều người bị thương và chết...
-  Đêm 26.12.1972, chúng đã trút bom xuống hủy diệt khu phố Khâm Thiên, nơi toàn dân thường ở: 17 khối phố bị đánh đổ sập. Phá và hư hại gần 2.000 ngôi nhà... trong đó có cả nhà trẻ, lớp mẫu giáo, cửa hàng lương thực, thực phẩm, đình chùa di tích lịch sử, rạp hát và nhiều cơ sở sản xuất - Làm chết 278 người, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em - 178 cháu trở thành mồ côi và 290 người nữa bị thương. Toàn bộ khu phố Khâm Thiên dài 1.200m, chỉ còn là một đống gạch vụn. Hàng trăm gia đình phải chịu cảnh tang tóc. Có gia đình 7 người không còn ai sống - Một tội ác của giặc Mỹ chưa từng có trong lịch sử loài người - Chỉ riêng ở Hà Nội, chúng thả xuống 10.000 tấn bom tương đương quả bom nguyên tử Mỹ đã ném xuống Hiroshima... 
        Thu bị chết vì bức tường đổ sập đè lên người... khi cô cùng nhóm phóng viên của Tòa báo Hà Nội Mới, trong đội cảm tử ở lại thành phố làm nhiệm vụ cứu hộ người bị nạn.
        Tiểu thuyết cũng phục lại chiến tích oanh liệt của quân chủng phòng không, không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn dân miền Bắc: Trong 12 ngày đêm... làm nên một "Điện Biên Phủ trên không". Bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111 ( cánh cụp cánh xòe) và 42 máy bay chiến thuật khác. Tiêu diệt và bắt sống hàng trăm phi công Hoa Kỳ - Đánh thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ.
        7 giờ sáng ngày 30.12.1972, Nixon buộc phải ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và phải họp lại Hội nghị Pa Ri về Việt Nam.
        Ngày 27.1.1973, Hiệp định Pa Ri đã được kí kết: Chính phủ Hoa Kỳ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Cam kết không dính líu về quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ về nước.

 
        *  PHẦN III: Tình yêu - Tình yêu của Hoàng và Thu đã nẩy sinh từ thuở thanh thiếu niên, khi đôi bạn mới rời khỏi trường phổ thông. Tình yêu đó còn mãi trong trái tim, dù do thời cuộc chiến tranh hai ngả phân ly. Em ở đất Bắc, anh phương Nam - Ngay trong chương đầu, tác giả đã mô tả về tình yêu:
        "... Cô quay người lại kéo anh sát gần vào mình. Núi Nùng đứng dựng lên như thành quách, ngăn cách họ với những bề bộn của cuộc sống bên ngoài. Những cây cối cũng rùng rùng đứng dậy. Gió thổi vút qua những cành lá, sóng vỗ vào mạn bờ lép bép... Thu ôm lấy Hoàng. Đôi bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của cô, ghì xuống đầu anh. Đôi trẻ tha thiết hôn nhau, những nụ hôn đầu tiên của cuộc đời. Như những đợt sóng táp lên mặt, lên trán rồi ướt đẫm đôi môi cô. 
        -  Không bao giờ chúng ta quên nhau!
        Thu bồi hồi nói trong hơi thở.
        -  Không bao giờ ta quên!
        Hoàng đắm đuối nhìn vào mắt người yêu, khẽ nhắc lại.".
        Khi hai người đã xa nhau - Hoàng ra chiến trường, Thu tiếp tục cuộc đời người nữ sinh sư phạm. Tác giả tả về nỗi nhớ người yêu của người chiến sỹ trên chiến trường:
     "... Bốn mùa mưa ở Tây Nguyên, Hoàng mới chỉ nhận được của Thu hai lá thư. Anh vẫn thường xuyên viết thư về cho người bạn gái, sau mỗi chiến dịch về hậu cứ. Không biết Thu có nhận được hết không?
        Hay là:
        ... Trong lá thư mà anh nhận được hồi đầu chiến dịch, Thu đã kể cho anh nghe về tình hình thủ đô: Không quân Mỹ ngày càng đánh phá ác liệt vào thành phố. Đa phần dân chúng Hà Nội đều phải đi sơ tán về nông thôn hoặc các vùng núi xa - chỉ những người cần làm việc tại Hà Nội và thanh niên tự vệ là ở lại.
        Anh nhớ đến những khoảnh khắc sống êm đềm bên người bạn gái. Anh thầm gọi tên em giữa đêm khuya... Cũng có thể, ngày mai thân xác anh vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Tây Nguyên máu lửa này. Anh không còn có thể trở về gặp lại người con gái thuở ấu thơ ấy nữa? Anh khao khát từng kỉ niệm nhỏ êm đềm... nhưng cũng bình thản để tiếp nhận sự khốc liệt, kể cả cái chết trên chiến trường đến bất cứ lúc nào? Cuộc chiến tranh đã tôi luyện cho Hoàng như thế! Có lẽ nỗi đau thuộc về những người thân của người chiến sĩ trên quê hương, về gia đình họ... chứ không phải bản thân những người lính như các anh.". 
        Còn tình yêu của Thu dành cho Hoàng trong những ngày xa nhau? Ta hãy nghe nhà văn tả tình cảm của cô gái:
        "... Thu ngồi trên một bộ bàn ghế đóng mộc mạc, cắm cúi viết thư. Cô viết:
        -  Nếu tình yêu của Thu có thể giúp cho Hoàng thêm phần nào lý trí, để Hoàng vững tin trên con đường đời rộng lớn. Thì đấy, chính là niềm hạnh phúc đã đến với Thu! Thu sung sướng thấy được, khi chúng ta có những tình cảm sâu sắc gắn bó với nhau - mà ở đó, mỗi đứa biết vượt lên cái riêng mình... ". 
        Hay là: "Anh thân yêu! Ở tận chiến trường xa xôi có nghe thấy tiếng thầm thì của em không? Đêm nay anh ở đâu, đang hành quân hay trong một trận chiến đấu máu lửa. Ôi, ước gì lúc này anh cũng có những phút yên tĩnh, thao thức trong đêm như em - Thu đang nghĩ đến anh đây, anh có biết không?". 
        Và cô gái ấy có cái mơ ước đơn giản như bao người con gái khác - Nhà văn Phạm Ngọc Thái đã diễn tả tâm lý bình dị mà thiêng liêng của người con gái, với người yêu ở nơi tiền tuyến:
        "... Một tình cảm rạo rực trào lên trong con người Thu. Cô tưởng tượng những ngày tới khi anh về phép... với niềm vui thật khó tả... Ôi! Một lễ cưới sẽ được tổ chức - Đó là một ngày trọng đại của người con gái. Người con gái nào vào tuổi xuân thì mà chẳng ước mơ, trong đời có một lần mặc đồ áo cưới" !?
        Nhưng rồi cái ước mơ bình dị và thiêng liêng ấy không bao giờ đến được với cô? Chiến tranh - Chính là tội ác của chiến tranh đã cướp đí tất cả. Cô đã ngã xuống dưới một bức tường đổ sập vì bom, đè lên tấm thân mỏng mảnh của người con gái - Và không bao giờ còn được mặc bộ váy cưới trong ngày vui của người thiếu nữ nữa.
        Còn đây? Ta hãy nghe những dòng thư cô viết cho người yêu trong đêm nô-en 1972 của 12 ngày đêm máu lửa đó:
        "...  Sau khi dự lễ ở nhà thờ, bọn em còn lang thang thâu đêm... rồi trở về tòa soạn và đang ngồi viết thư cho anh đây!... Chúng mình tuy rất xa nhau nhưng vẫn luôn có nhau, phải không anh?
        Anh ạ, nhiều người con trai thường nói với người yêu rằng: Anh sẽ dâng cả cuộc sống, cả thế giới này cho em! - Thì cô gái nói với anh: em chỉ muốn làm một người vợ, một người mẹ của những đứa con... sống một cuộc sống hạnh phúc bình thường, bên anh!".           
        Đọc đến đây thì chính ta muốn khóc? cả cái ước muốn, hạnh phúc bình thường làm vợ, làm mẹ của người con gái đó cũng không bao giờ đến được với em - Bom Mỹ đã tàn phá đi tất cả. 
        Lá thư dài năm trang giấy pơ luya màu hồng của Thu viết trong đêm nô-en, chưa kịp gửi cho người yêu thì cô bị chết. Mấy năm sau, Hoàng mới nhận được.
        Về Hoàng - Đất nước không còn chiến tranh nữa, nhưng lòng người sỹ quan ấy lại trào lên một nỗi buồn tê tái. Người yêu của anh mãi mãi không thể trở lại với anh? Những trang cuối cuốn tiểu thuyết, đã dừng lại trong những tâm trạng đó! Ta hãy nghe đoạn, trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng giở lại lá thư của em ra đọc:
        "... Bàn tay anh vẫn run run cầm lá thư của người yêu. Anh cố ghìm lòng mình bình tĩnh. Một đoạn Thu đã viết:
        ... Hoàng thân yêu, Thu yêu anh nhiều lắm, yêu hơn cả bản thân em đấy! Hoàng chính là mối tình đầu cũng là mối tình vĩnh viễn của em. Anh và em, ta đã trao nhau những gì đẹp nhất của cuộc đời, phải không anh? Em cũng đã dành cho anh trọn vẹn những gì quí giá nhất của người con gái. Em thấy hạnh phúc vì đã làm với anh điều ấy!
        Nghĩ đến anh là em lại thấy lòng mình bình yên và ấm áp. dù đêm mùa đông giá lạnh, phải sống xa anh cả nghìn cây số. Em ngồi viết thư cho anh đây, một mình em một bóng cô đơn. Tình yêu anh đã nâng đỡ em rất nhiều trong những vấp váp đầu đời, đấy anh!
....  Ôi, cứ nghĩ tới những ngày tới anh về phép, lòng em lại bồn chồn khôn tả? Em mong đợi ngày đó biết chừng nào. Khi đó đôi ta sẽ chính thức trở thành chồng, thành vợ - Phải không anh?
        Cứ mỗi lần đọc đến đây, Hoàng lại thấy run bắn người. Anh như muốn òa khóc nấc lên tựa một đứa trẻ con... ".
        Đấy, trong những trang cuối cùng tiểu thuyết đã kết như thế! Để nói lên: Hạnh phúc lớn lao của đất nước... đã phải trả bằng bao nhiêu máu, sự hy sinh, nỗi đau đớn của những người chiến sỹ và của cả dân tộc này.
....              
        Nhưng nói về tình yêu trong cuốn tiểu thuyết, còn xuất hiện một người con gái nữa !? Em cũng yêu Hoàng tha thiết  - Mối tình tay ba chăng? Không hẳn thế, vì trong truyện không có sự tranh giành tình yêu.
        Đó là tình yêu của một thiếu nữ người Mường, anh đã gặp trên đường hành quân đi chiến đấu. Tên em là Mỵ! Tiểu thuyết đã mô tả về sự gặp gỡ, dẫn đến cuộc tình tha thiết của người con gái bản với anh... vào một mùa xuân:
        "... Họ đi qua những cành đào đung đưa như chào đón. Hoàng giơ tay ngắt một nhánh hoa nhỏ. Mái đầu của cô gái Mường khẽ chạm vào má anh. Anh thoảng nghe hơi thở của người con gái cũng thơm nhẹ như làn hương hoa. Hoàng đưa tay vuốt lại những sợi tóc tơ, cài nhánh hoa lên bím tóc. Mỵ lặng yên để cho anh cài hoa. Cô áp đầu vào ngực anh, nói nhỏ:
        -  Anh Hoàng, em rất mến anh!
        Bông hoa mùa xuân trinh bạch quá! Ở đây... chính giữa vườn đào này, người con gái Mường là quầng sáng thần diệu bủa vây. Khi vòng tay anh kéo cô sát vào người, Mỵ có cảm giác toàn thân cô đang đổ sụp. Lúc này người con gái bản sẵn sàng gieo vào lòng anh, nếu anh muốn...
        Ai có thể cắt nghĩa được đầy đủ về tình luyến ái? Ai có thể phân được giới hạn tình yêu và sự cuốn hút của người con gái? Bắt đầu chỉ là ý nghĩ về sự chiêm ngưỡng, nhưng rồi chính cái đẹp trinh trắng ấy đã hấp dẫn anh...
        Hoàng tự hỏi: "Tôi thích em, đấy ư!" - Một cái gì bỗng day dứt trong anh? Anh lưỡng lự và giây phút rụt rè, không dám để thả mình tiến xa hơn. Nhưng rồi cái tuổi thanh niên hay khao khát và ham muốn được khai phá...
        Chao ôi! Lỗi lầm sao cũng tươi mát như thân thể và tâm hồn em vậy? Đóa hoa thơm của người con gái đang choán trong anh.
        -  Mình có làm gì tồi tệ đâu?
        Anh tự biện bạch cho mình như vậy! Dẫu ta không thể dành cho em một tình yêu thực sự của hôn nhân, nhưng ta vẫn có những tình cảm rất đẹp với em cơ mà? Những tiếng nói vẳng lên trong lòng anh... và ta lại thích có em? Lại muốn được hưởng những niềm say mê, khao khát của tuổi thanh xuân với em.
        Hoàng bàng hoàng. Anh ôm lấy người con gái. Tưới những nụ hôn lên trán, lên môi, lên vòm ngực thơm như hương hoa núi rừng của người thiếu nữ mới lớn.".
  
        Tưởng rằng những tình cảm trai gái cuốn chàng chiến sỹ sẽ chỉ dừng lại ở đây !? Nhưng không, khi lòng anh cảm thấy sự sa đà ấy là anh có lỗi với Thu - Nhân khi có lệnh cắm trại để chuẩn bị sẵn sàng tiến ra tiền tuyến, tết đó anh không vào bản nữa... cũng là để tránh không gặp Mỵ.  Nhưng lúc này người con gái Mường trong trắng, thật thà lại rất tha thiết với anh... và cô cho rằng, những lời ngọt ngào mà anh đã nói là tình yêu của anh dành cho cô? Với bản sắc mãnh liệt của người con gái bản, Mỵ lao đi tìm người yêu, trước khi anh lên đường ra chiến trường. Thế là cuộc tình thứ hai của anh chiến sỹ Nguyễn Hoàng đã diễn ra - Đây là đoạn tác giả tả khi cô đã gặp anh: 
        "... Mỵ đắm đuối nhìn Hoàng tha thiết biết nhường nào. Đôi mắt ấy như muốn nói: Hãy hôn em đi! Hãy ôm em như hôm ở trong vườn đào ấy? Rồi anh đi. Lúc này chúng mình không nghĩ về chuyện khác nữa. Chỉ nghĩ đến em đang ở bên anh. Chúng mình đang yêu nhau...
        Gặp lại được anh, em chỉ muốn theo anh ra mặt trận, để cùng chiến đấu với anh. Em sẽ nấu cơm cho anh ăn, ru cho anh ngủ...
        Hoàng như sống trong mơ. Mà đâu phải là mơ, cô gái đang nằm trong vòng tay anh đấy! Người con gái trong trắng, xinh tươi, đáng yêu này. Ôi, đôi bàn tay? Lý trí của ngươi thật tồi tệ. Nhưng lý trí mà làm gì? Những xúc động mãnh liệt cám dỗ anh phút này còn mạnh hơn. Chẳng có gì ngăn trở nữa, đôi bàn tay tham lam...
        "Anh là của em..." - Tiếng cô gái đang yêu, thầm thì bên anh.
        Hoàng không tránh khỏi những tâm tư, trì chiết ở trong lòng? Tác giả mô phỏng sự tự vấn đó: 
        "... Hoàng không thể nào nói nổi với Mỵ cái điều mà anh muốn nói với cô? Anh muốn thú nhận với người con gái bản rằng: Tình yêu giữa anh và cô, không dẫn đến một kết quả nào!  Nhưng anh không thể nói với cô là, anh đã có người yêu rồi! Đâu có phải anh cố tình muốn lừa dối cô? - Không, không phải thế! Trong Hoàng bối rối với bao suy nghĩ..." .
        Cứ tưởng, rồi tình yêu thứ hai này của Hoàng cũng chỉ đến đấy, khi anh đã ra trận? "Chiến tranh sẽ xóa đi tất cả - Hoàng nghĩ vậy". Nhưng không, Phạm Ngọc Thái lại phát triển tình yêu đó đi xa hơn. Anh để người con gái bản, vì thương nhớ người yêu?... Thời gian sau đó, khi anh đã ở ngoài tiền tuyến rồi - Cô cũng quyết định xin ra chiến trường. 
        Truyện thì dài. Mỵ cũng vào cùng chiến trường Tây Nguyên với anh - Vốn dĩ là một y tá bản, cô được bố trí làm việc ở trong  ban quân y của bộ tư lệnh mặt trận. Rồi Mỵ cũng đã gặp được Hoàng... trong một chiến dịch mà cô được Ban quân y cử đến tham gia chiến dịch phục vụ các đơn vị chiến đấu - Ta hãy nghe một đoạn, người con gái bản đã lý giải về quan hệ tình yêu tay ba, khi gặp lại anh trên chiến trường:
        "... Ít hôm trước, khi Đắc Tô - Tân Cảnh mới được giải phóng, Mỵ cùng với cô Sa người Huế đã tìm đến đơn vị để gặp anh. Mỵ trông vẫn xinh, vẫn đẹp gái... Lúc đó anh sững sờ nhìn người con gái bản, cứ nghĩ mình đang mơ? Chỉ vì lòng ham muốn của tuổi trẻ, anh đã gieo vào tâm hồn trong trắng của cô gái một tình yêu trái tim!...
        ... Anh và Mỵ tìm một nơi yên tĩnh trong rừng để tâm tình. Còn cô Sa thì anh em quây kín lại tíu tít chuyện trò... cứ như người thương nhớ, tận bên kia thế giới mới về... 
  
        Mỵ hờn dỗi, trách anh đi biền biệt không viết thư về cho cô. Anh đã phải tìm mọi lý do biện bạch cho mình: Nào là chiến trận liên miên, nào là bom đạn nên thư hay thất lạc?... Mỵ nói là rất yêu anh! Ngồi bên anh trong rừng, cô nằm vào lòng anh cho bõ nhớ - Cô bảo vậy.... Quả thật khi gặp lại Mỵ, lòng anh không khỏi choáng váng. Ngồi ôm em trong vòng tay, anh cũng thấy chính mình hạnh phúc! Thôi, cứ để cho em nghĩ rằng: Anh vẫn chỉ là của riêng em. Cả anh và em cứ tận hưởng những khoảnh khắc ân ái đang dào dạt tâm hồn. Nhưng giây phút anh man mê trên tấm thân nõn nà của người con gái...
        Mỵ cũng khao khát và trong lòng cô không thể nào cưỡng nổi. Cô cứ để tấm thân trần mà tận hưởng với anh, giữa một khu rừng chỉ có hai người và tiếng chim kêu...  
        .... Bỗng một ý thức nào đó vụt đến trong đầu, anh dùng toàn bộ lý trí của mình vùng đứng dậy: "Tình yêu của em dành cho anh thiêng liêng, cao cả quá! Anh không thể dối lừa em được nữa" - Một ý nghĩ nhân ái lớn lao hơn đến trong anh, đã đến lúc anh phải nói thật với em tất cả.
        ... Hoàng bế Mỵ ngồi lên. Anh cứ để tấm thân trắng ngần của người con gái trong vòng tay mình, kể cho cô nghe tất cả mối tình của anh đã có với Thu. Anh cũng nói rõ với Mỵ là, anh không thể phụ lại tình yêu của người bạn gái thưở thiếu thời ấy!
        ... Nghe Hoàng nói, Mỵ cũng lặng đi và rơm rớm nước mắt, nhưng cô không khóc. Giây lát, Mỵ ngước lên nhìn anh khẽ hỏi:
        -  Anh có yêu em không?
        -  Anh quí mến Mỵ! Anh thương Mỵ nhưng anh không thể...
        Hoàng bảo vậy rồi ôm chặt lấy cô, tỏ nỗi cảm thông với người con gái bản Mường. Mỵ không buông một lời trách móc nào với anh. Cô nói: Nếu anh cũng có tình thương yêu với cô, cô không giận anh - Bởi vì người con gái anh yêu đầu tiên, mà anh gọi là "Thu" ấy... đã đến với anh trước cô. Cô không oán thán anh. Cô kể, ở bản Mường cũng không thiếu gì những người đàn ông hai vợ, mà vẫn sống êm đềm, hạnh phúc. Nhất là chiến tranh, con trai ra tiền tuyến bị chết nhiều, đàn ông lấy hai vợ cũng là sự thường tình.
        Mỵ bảo: Cô chấp nhận Thu đã đến với anh trước nên chị ấy sẽ là vợ cả, Mỵ làm vợ hai của anh cũng được. miễn là anh vẫn yêu cô - Em còn nói, em tha thiết yêu anh và không thể bỏ anh...
        Đến lượt Hoàng bất ngờ, đến mức sững sờ... khi nghe thấy Mỵ lại giải quyết vấn đề nan giải ấy một cách nhẹ nhàng như thế! Anh ôm ghì lấy người con gái, tỏ lòng cảm phục cô về cả lý trí và tình yêu. Mỵ kéo Hoàng nằm xuống... ".
        Ôi, chuyện tình yêu của hai anh chị vẫn còn nhiều thú vị - Mời bạn đọc hãy xem trong tiểu thuyết, kẻo bài viết của tôi dài quá.
        Nhưng rồi trong chiến dịch đánh vào Kon Tum sau đó, quân giải phóng bị thất bại phải rút lui - Mỵ bị thương rồi... chết!   
        Thế là, cả hai mối tình của Nguyễn Hoàng với hai người con gái: Một ở lại hậu phương - Một ra tiền tuyến, đều bị cuộc chiến tranh cướp đi, không ai còn ở lại được với anh. Một cái kết thật bi thương! - Đấy chính là cái giá mà nhân dân Việt Nam và những người chiến sỹ đã phải trả cho sự độc lập!  Ta lại nghe Phạm Ngọc Thái nói về cái chết của người con gái chiến sỹ ấy, khi em trút hơi thở cuối cùng trên cánh tay anh:
        ".... Cô ấy chết rồi! Cô ấy không bao giờ tỉnh lại  được nữa... Như hoa lá, bầu trời - Tâm hồn em thật cao thượng! Ý nghĩ của em cũng thơm mát như những cánh hoa tươi. Tất cả ở trong em, người con gái bình dị mà cao cả biết bao nhiêu. Em là cái đẹp thiên nhiên nhất của thiên nhiên! "con người" nhất của con người! Nơi tập trung sự đẹp đẽ của lòng nhân ái, của khao khát và hy vọng!... Anh ghê tởm nguyền rủa cuộc chiến tranh phi nghĩa do Mỹ gây ra. Em vượt lên điểm đỉnh của phẩm giá, của chủ nghĩa nhân văn - Một người nữ chiến sĩ bình dị, trong cuộc chiến tranh tàn khốc này. Người liệt sĩ vô danh.".
        Một bộ tiểu thuyết tâm lý chiến tranh sâu sắc, sống động, ngôn ngữ đẹp và không kém vẻ ly kỳ... về thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ - Của một nhà văn chiến binh, từng sống trọn tuổi trẻ của đời mình trên chiến trường Tây Nguyên máu lửa. Theo tôi: Bộ tiểu thuyết có giá trị lịch sử cũng như đối với nền văn học nước nhà. 
                                                                                                                               Hà Nội, tháng 8.2020
                                            Trần Đức 
                           Nguyên CB Viện Ngôn ngữ & Văn hóa dân gian



<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.08.2020 04:11:20 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 30.09.2020 18:39:44 (permalink)
 
            NÓI VỀ THƠ HAY 
     NGÀN NĂM VĂN HIẾN THĂNG LONG
  
                                      PHẠM NGỌC THÁI
           
       Nói về thơ hay ở đây, nghĩa là bài thơ đó phải được lưu danh sử sách trong văn hiến của ngàn năm Thăng Long - Thí dụ: cao siêu là KIỀU của đại thi hào Nguyễn Du, thuộc thể tiểu thuyết thơ. Các loại thơ ngắn hay xưa nay, trường cửu với thời gian, như: 
      Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ) - Làm lẽ, Hồ Xuân Hương - Thu điếu, Nguyễn Khuyến - Thương vợ, Tú Xương - Đây thôn Vỹ Dạ * Mùa xuân chín * Bẽn lẽn, Hàn Mặc Tử - Tràng giang, Huy Cận - Tương tư, Nguyễn Bính - Tương tư chiều, Xuân Diệu - Tranh lõa thể, Bích Khê - Say đi em, Vũ Hoàng Chương - Hai sắc hoa tigôn, TTKH. - Thuyền và biển, Xuân Quỳnh - v.v...
          Đó là những bài thơ hay thuộc hàng đỉnh của nền văn học nước nhà. Thơ hay như thế của các nhà thơ đương đại hiếm lắm? 
    Vậy, Thế nào mới là một bài thơ hay của văn hiến ngàn năm Thăng Long? Dứt khoát phải có hai yếu tố:
1.  Thơ của muôn đời, chứ không phải thơ chỉ một thời.
2.  Thơ phải thật viên mãn về cả nghĩa và nghệ thuật thi ca.
     a-  Viên mãn về nghĩa: Bắt buộc tình, ý trong thơ phải viên mãn. Nếu nghĩa thơ không viên mãn? dù ngôn ngữ tinh túy, hình tượng đẹp... cũng chưa tạo được bài thơ hay.
     b-  Viên mãn về nghệ thuật thi ca: Khi nghĩa bài thơ đọc lên đã viên mãn rồi - Ngôn ngữ, hình tượng thi ca hay tới mức nào? Nó quyết định bài thơ hay đến đó.
            Nếu tất cả đều đạt tới đỉnh, thì bài thơ hoàn bích.
 
      ĐIỂM ĐÔI NÉT MẤY BÀI THƠ NỔI TIẾNG XƯA NAY
A/. " QUA ĐÈO NGANG" của Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ) -  Đây là một bài thơ thất ngôn bát cú, theo thể Đường luật rất mẫu mực ở nước ta. Ngôn ngữ, nghệ thuật tinh hoa. Ta bàn về ý nghĩa bài thơ xem độ viên mãn thế nào?
     Bốn câu đầu chỉ là miêu tả để giới thiệu quang cảnh Đèo Ngang: Trên trời bóng đã xế tà; quanh đèo cỏ cây, hoa lá mọc chen trong khe đá; dưới núi vài chú tiểu đi kiếm củi... và mấy quán chợ lác đác bên sông - Nhưng đến hai câu giữa:
                 Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                 Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
     Tương truyền, BHTQ rất thạo việc quốc gia: Khi ông Huyện đi vắng, bà vẫn thay ông lên chốn công đường xử kiện. Đồng thời Bà Huyện còn là một phụ nữ rất đảm việc nhà, để ông Huyện yên tâm làm việc nước - Vậy là, chỉ bằng hai câu thơ (cũng vẫn là mượn cảnh vật), đã ôm bọc cả nỗi lòng bà: về nước, về nhà trong đó.
 - Mượn hình ảnh con chim cuốc ra rả kêu vào những tháng hè - Cái tiếng "gia gia" ở đây là xuất xứ từ con đa - đa... gọi lái sang thành "gia gia"...  nói lên nỗi nước, tình nhà của bà - Hình tượng, ngôn ngữ trong thơ thật là sâu xa, huyền thẳm. Không biết khi sáng tác BHTQ viết là "con cuốc" hay "con quốc"? Người đời sau, nhiều bản khi chép lại thơ của bà, đã viết thành con "quốc quốc"... để biểu thị cho tính nước non. Hai câu cuối đẩy bài thơ đến hoàn toàn viên mãn:
                 Dừng chân đứng lại trời, non, nước
                 Một mảnh tình riêng, ta với ta
      Nỗi niềm tâm sự giữa chốn đèo hoang vu, chỉ mình ta với ta thôi - Một câu thơ kết tuyệt bút!
B/.  HÀN MẶC TỬ -  Thi nhân Hàn Mặc Tử có một chùm thơ ba bài tuyệt hay: Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín, Bẽn lẽn - Tôi nói ít nét về từng bài.
     1.  Đây thôn Vỹ Dạ: Bài thơ gửi gắm tâm tư về một mối tình đơn phương của thi nhân với nàng Hoàng Cúc - Ba câu đầu của khổ thơ thứ nhất là cảnh của hồi ức: Từ hàng cau, nắng mới, đến màu xanh mướt của vườn cây vào buổi sáng - Ông nhớ về nơi ở của nàng Hoàng Cúc trong thôn Vỹ Dạ. Đến câu thứ tư:
                  Lá trúc che ngang mặt chữ điền
     Đã là câu thơ tượng trưng rồi: "lá trúc" là hình ảnh biểu tượng cho làng quê Việt Nam - Còn "mặt chữ điền", theo cách nói cổ nho, ví cho gương mặt của người đàn ông (biểu tượng cho chính thi nhân), giờ đây đã bị "chắn ngang": mãi mãi phải cách xa, không gặp lại được nhau nữa. 
     Đến khổ thơ thứ hai, phát triển còn sâu hơn. Ta gọi là tư duy trong:
                  Gió theo lối gió, mây đường mây
                  Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
     Nghĩa là:
                  Em theo đường em, anh đường anh
                  Tình của đôi ta có thế thôi
     Để nói về duyên phận của hai người phân cách đôi đường, không thể đến được với nhau. Thi nhân cô đơn, ngồi nhớ người xưa: Lòng ông như dòng nước lặng lờ chảy buồn thiu, với bông hoa bắp phật phờ lay ở bên sông - Những bài thơ tuyệt hay của thi đàn xưa nay, nghĩa thơ thường được phản ảnh qua những hình tượng sâu xa, tinh tế như vậy.
      Tôi chỉ phân tích một số nét đặc trưng để toát lên cái hay của bài thơ, chứ không bình hết vì sẽ rất dài.
     "Đây thôn Vỹ Dạ" là một tuyệt tác thi ca! Có nhà bình thơ ở đương đại lại cho rằng: Khổ thơ thứ hai chỉ là tả cảnh theo cảm xúc của nỗi buồn mênh mang - Hiểu  thế sẽ không thấy được cái hay, độ sâu sắc trong tư duy về cuộc đời của nhà thơ? Tình, ý trong thơ cùng ngôn ngữ thi ca phải thật sự viên mãn vậy, mới được gọi là thơ hay! 


2/.  Mùa xuân chín:  Là bài thơ tả cảnh mùa xuân. Lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn, biệt lập xa cách với sự sống con người. Thi phẩm được rút ra từ trong thơ điên Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Nhưng đọc "Mùa Xuân Chín" ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa. 
       Hoài Thanh có nhận xét về thơ HMT như sau: “... Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói...". Cảnh thơ tựa bức gấm thêu, toát lên tấm tình tha thiết của thi nhân với nơi thôn dã. Ngôn ngữ, nghệ thuật thơ sử dụng rất nhiều thi pháp của dòng thơ tượng trưng châu Âu.
    Ta hãy nghe một đoạn thơ:
                         Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi 
 
                       Hổn hển như lời của nước mây…
                       Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
                       Nghe ra ý vị và thơ ngây…
          Không phải là "nước mây hổn hển" đâu? Chính là lòng thi nhân đang "hổn hển". Hay những hinh ảnh: “tiếng ca vắt vẻo”, “sột soạt gió trêu tà áo biếc”, "Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc"… đều là  biểu tượng của dòng thơ tượng trưng: Bộc lộ một tâm tư, tình cảm về cuộc sống. Ngay cái tên đề "Mùa xuân chín" cũng có tính tượng trưng rồi.
        Kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên một nỗi nhớ thương làng quê da diết:
                     Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
                     Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng 
                             - Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
                     Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
       Sắc thái "...sông trắng nắng chang chang", vẽ ra cảnh trắng toát trên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảnh ảo, đưa tình thơ viên mãn tới tột cùng. Tả cảnh mùa xuân, nhưng lại chứa chất nỗi tình đời sâu sắc như thế... mới trở thành một bài thơ hay!
      Tuy vậy, bài "Đây thôn Vỹ Dạ" hay hơn một chút so với "Mùa xuân chín": Chủ yếu vì ngôn ngữ, hình tượng có phần ảo hơn, nên thơ huyền diệu và sâu lắng hơn.  Như Chế Lan Viên đã từng viết trong Di Cảo, rằng:
                    Bên kia bờ hư ảo - bờ thơ  
3/.  Bẽn lẽn:

                Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
                Đợi gió đông về để lả lơi
                Hoa lá ngây tình không muốn động
                Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.

                Trong khóm vi vu rào rạt mãi
                Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
                Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
                Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.

                Vô tình để gió hôn lên má
                Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
                Em sợ lang quân em biết được
                Nghi ngờ tới cái tiết trinh em.
     Có người lại cho rằng, bài thơ "Bẽn lẽn" hay hơn "Đây thôn Vỹ Dạ"? Thực ra, hai bài thơ này đều là thơ tuyệt hay thuộc hàng đỉnh của HMT - Về phong dáng, tính chất, chúng đứng trên hai ngọn thi sơn khác nhau: Nhưng bài "Đây thôn Vỹ Dạ"... "rất đời", nên dễ cảm hóa lòng người - Như câu châm ngôn của dân gian "Chỉ có cây đời mãi xanh tươi". Gần gũi cuộc sống nên được nhiều người thích và bình... mà nổi tiếng hơn.  
     "Bẽn lẽn" sở dĩ trở thành bài thơ rất hay: Bởi nó có những "câu thơ vàng":
                       Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
                       Đợi gió đông về để lả lơi
     Hay:
                       Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
                       Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
     Là những câu thơ hay vào hàng kiệt xuất của thi đàn xưa, nay - Ngôn ngữ, nghệ thuật thi ca thì khỏi chê rồi... Vậy, ta xem về tình, ý (tức là nghĩa bài thơ) có viên mãn không, mà lại gọi là thơ hay?
    Bốn câu đầu, miêu tả cảm xúc của thi nhân với nguyệt trên trời, như một người tình (đã được nhân cách hóa), xuống lả lơi "nằm sóng soãi" (như tấm thân trắng ngần của người con gái) để... tình ái với Người - Cảm xúc đến mức độ: "hoa lá ngây tình không muốn động", lòng người mới bồi hồi thốt lên gọi: "chị Hằng ơi"! 
          Ta hãy chú ý, Hàn Mặc Tử đã tả hai câu thơ sau đó:
                       Trong khóm vi vu rào rạt mãi
                       Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
     Hai câu thơ này thuộc về "tư duy trong": Lòng thi nhân bồi hồi, xao xuyến... Người nghe như văng vẳng tiếng mời chào của ái tình đang dậy lên ở trong mình... rồi lại lặng đi... nên hỏi: "Sao im đi"? Về nghệ thuật thi ca: Đây là cảm xúc nội tâm đang chan chứa trong lòng thi nhân, đồng họa với tiếng gió thổi qua khóm cây lau... nghe rào rạt - Về cấu tứ: Thơ được tư duy giống như trong bài "Qua đèo ngang" của BHTQ hạ hai câu thơ ở giữa bài:
                        Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                        Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
      Hay như "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử, khi viết hai câu:
                        Gió theo lối gió, mây đường mây
                        Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
      Để nói về nỗi đời chất chứa bên trong - Chính thế mà tình ý bài thơ mới được diễn tả một cách sâu sắc để tiến đến sự viên mãn - Trở lại với bài "Bẽn lẽn", sau đó thi nhân tả: 
                        Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
                        Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
     Hình ảnh bóng nguyệt in hình trong khe nước, nhưng chính là để tượng trưng cho cái thiên thai của người con gái, qua đó hạ hai câu kết về chuyện trăng hoa trai gái:
                        Em sợ lang quân em biết được
                        Nghi ngờ tới cái tiết trinh em
      Đây chỉ là cách nói mà HMT "ví chơi": nhưng để nhân cách hóa với hình ảnh lấy làm biểu tượng về "cái ấy" của người con gái ở câu thơ trên: Ô kìa, bóng nguyệt trần truống tắm /-  Mà tạo nên sự dung dị, hoàn bích của bài thơ. Bài thơ chứa đầy những cảm xúc khao khát, vì nỗi tình quạnh vắng của thi nhân. 
      Đọc sâu về nội tâm bên trong của Bẽn Lẽn, ta thấy từ ngôn ngữ, hình tượng thi ca... đến ý, tình của bài thơ đều quyện lấy nhau mà tuôn chảy theo dòng cảm xúc.
     Tôi bình đôi nét về một bài thơ hay ở thời hiện đại.

C/.  "THUYỀN VÀ BIỂN" của Xuân Quỳnh
:  "thuyền", biểu tượng cho người con trai - Và "biển", chính người con gái ấy!

        Biển và thuyền quấn quít với nhau trong tình yêu của đôi trai gái. Xuân Quỳnh viết: 
                   Lòng thuyền nhiều khát vọng
                   Và tình biển bao la...
     Hay là:
                   Những đêm trăng hiền từ
                   Biển như cô gái nhỏ
                   Thầm thì gửi tâm tư
                   Quanh mạn thuyền sóng vỗ
      Về tính cách của tình yêu, cũng có lúc say đắm - khi lại giận hờn. Nữ thi sĩ diễn tả:
                  Cũng có khi vô cớ
                  Biển ào ạt xô thuyền
                  Vì tình yêu muôn thuở
                 Có bao giờ đứng yên?
     Thơ được tư duy rất sâu sắc về nội tâm bên trong:
                 Chỉ có thuyền mới hiểu
                 Biển mênh mông nhường nào 
                Chỉ có biển mới biết 
                Thuyền đi đâu, về đâu...
      Thơ diễn đạt mọi chiều của tình yêu một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, ngay cả khi nói về sự xa cách, cũng được lấy hình ảnh của "thuyền - biển" làm tượng trưng thật hay:
                Những ngày không gặp nhau
                Biển bạc đầu thương nhớ  
                Những ngày không gặp nhau
                Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
     Hình ảnh "sóng biển bạc đầu"... trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái - Sự rạn vỡ của con thuyền...  để nói về sự quặn đau trong trái tim người con trai khi phải xa cô gái mình yêu.
     Đoạn kết thơ:  
                  Nếu từ giã thuyền rồi
                  Biển chỉ còn sóng gió
                  Nếu phải cách xa anh
                  Em chỉ còn bão tố...
     Nếu phải chia ly, cả đôi trai gái đều đau đớn và trái tim tan vỡ!
  -  Ý, tình bài thơ được đẩy tới viên mãn tột cùng. Ngôn ngữ hình tượng đẹp, tư duy lô-gích và giàu cảm xúc - Chính vì vậy, "Thuyền và biển" mới đạt được là một bài thơ hay, lưu mãi vào trong nền văn học nước nhà. 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.09.2020 18:45:30 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Thay đổi trang: << < 404142 > >> | Trang 42 của 45 trang, bài viết từ 616 đến 630 trên tổng số 666 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 5 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9