Bàn luận về bài thơ
Thanh Công 12.03.2008 21:01:48 (permalink)
            CHỮ “HOA” TRONG TÂY TIẾN
 
         Sau khi đọc bài “Chen ngang một chữ “hoa” trong Tây tiến của Võ Minh (THT 486), tôi rất cảm phục và có phần đồng cảm về những suy nghĩ riêng của tác giả bài báo. Anh không phụ thuộc về cách hiểu chữ “hoa” trong Tây tiến của những giáo sư, tiến sĩ ở các tài liệu tham khảo. Anh cũng đưa ra một cách cảm thụ hợp lý về thơ văn: “Cái đẹp bắt nguồn từ cái đúng, có từ trong cái đúng. Nói chính xác là cái đúng được phản ánh qua nói và viết bằng sự biểu cảm tinh tế, tài hoa một cách rất văn học thì đạt đến cái đẹp văn chương”. Từ quan niêm đó, Võ Minh đã lý giải hợp lý chữ “hoa” trong câu thơ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa: “ Chủ thể “hoa” ở đây là biểu trưng, là hình ảnh nhằm biểu đạt những ngọn đuốc bừng lên trong đêm hội như cả một vùng hoa nở giữa núi rừng về đêm vậy”.
        Tuy nhiên, anh lại có phần mâu thuẫn với quan niệm đúng đắn trên khi lý giải về hai chữ “hoa” còn lại trong bài. Nói về chữ hoa trong câu thơ Mường Lát hoa về trong đêm hơi, Võ Minh quá thật thà khi dùng những hiểu biết của mình về địa hình vùng Bắc, Trung Lào làm cơ sở: “Bối cảnh của bài thơ Tây tiến, Quang Dũng viết về mùa gió rét thì ở Lào tuyệt nhiên không có hoa, càng không thể có “hương hoa lan toả” vào cái đêm cóng giá ấy được”. Cả bài thơ Tây tiến chẳng những không có một tín hiệu ngôn ngữ nào khẳng định Qung Dũng viết “về mùa gió rét” mà Mường Lát đâu phải là địa danh ở Lào? Vả lại, không thể khẳng định hiện thực không có hoa thì trong thơ sẽ không có hoa. Điều quan trọng ở đây là cảm xúc của thi nhân có hoa hay không. Thơ sẽ nở hoa, thậm chí hoa rất thơm ngay cả trong tù ngục: “Hương hoa bay thấu vào trong ngục/ Kể với tù nhân nỗi bất bình” (Cảnh chiều hôm-Hồ Chí Minh). Biết bao áng thơ ca không “viết đúng” mà vẫn xao xuyến lòng người, thậm chí sống mãi với thời gian. Chẳng hạn, mùa thu Việt Nam chỉ se lạnh và thỉnh thoảng có từng đột gió heo may thế mà đầu thu  Xuân Diệu đã thấy: ‘Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngang hàng” và nghe “ rét mướt luồn trong gió” (Đây mùa thu tới). Hoặc những năm 60 của thế kỷ trước, chưa có đường tàu lên Tây Bắc nhưng Chế Lan Viên vẫn viết Tiếng hát con tàu. Do đó, chúng ta muốn hiểu chữ “hoa” trong câu Mường Lát hoa về trong đêm hơi cần phải đặt nó trong thế đối lập với  Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Đó là những nét hào hoa và hào hùng của những chàng trai Hà Thành “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Dù vừa trải qua những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng họ vẫn mơ mộng, bay bổng khi “hoa về trong đêm hơi”. Vì thế, không nhất thiết là hoa rừng hay “ẩn dụ về người con gái” mà chỉ mang tính tượng trưng cho cái đẹp, cái êm ái, nhẹ nhàng. Thêm nữa, xét trong cấu trúc cú pháp: “Mường Lát hoa về…” càng không thể nói “hoa” là cô gái Mường Lát được.
        Chữ “hoa” thứ ba trong bài được Võ Minh đồng nhất với người con gái chèo thuyền: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa thì hình ảnh người lái con đò độc mộc ở câu trên đích thực là cô gái (…). Đặc điểm đi thuyền độc mộc trên dòng lũ phải đứng (có thể mất thăng bằng bị ngã nhưng phải ngã ngồi ở trong thuyền). Và để đỡ khỏi ngã, người lái phải đong đưa thân mình theo nhịp dập dềnh của con đò. Đong đưa của Quang Dũng xuất phát từ hình ảnh thật ấy! Cành hoa chỉ có thể đong đưa theo dòng nước khi là suối, khe róc rách chảy chứ khi là dòng nước lũ thì dẫu có cả mảng hoa trong đó con người cũng khó mà nhận thấy nổi”. Lý luận như thế là theo lẽ thường, từ “kinh nghiệm sự thật” chỉ phù hợp với các ngành khoa học mang tính chính xác còn văn nghệ khám phá các “kinh nghiệm quan hệ” thông qua sự cảm nhận, nhào nặn, tưởng tượng, hư cấu của người nghệ sĩ. Nếu bình giá văn chương mà đứng trên góc độ xã hội học xem nó có phản ánh đúng hiện thực hay không thì còn đâu là văn chương? Nhiều câu thơ tài hoa, tài tình như: Nắng xuống trời lên sâu chót vót, Củi một cành khô lạc mấy dòng (Tràng Giang-Huy Cận), Ngoài thềm rơi cá lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiên (Đêm Côn Sơn-Trần Đăng Khoa)… sẽ sao đây? Vì thế, muốn hiểu và cảm nhận được hình ảnh “hoa đong đưa” phải đặt nó trong cảm hứng lãng mạn của bài thơ. Súng có thể “ngửi trời”, tiếng khèn dìu dặt có thể chở hồn phiêu diêu đến tận Viên Chăn-thủ đô nước Lào “xây hồn thơ” thì dòng nước lũ có là sá gì mà hoa không “đong đưa” được! Cái hay của đoạn thơ là cảnh Tây Bắc trong con mắt người lính Tây tiến có sự hoà quyện giữa thiên nhiên và con người: có lau, có hoa, có dáng người trên độc mộc. 

 
                    (Bài đã đăng Tài hoa trẻ số 490/2007)

 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2008 20:18:10 bởi Thanh Công >
#1
    Truongsoi 12.03.2008 21:40:26 (permalink)
    Đọc bài này hoa hết cả mắt vì toàn kiến gió , đề nghị tăng phông chữ vì người đeo kính rồi vần thấy bài toàn hoa cà hoa cải thôi.
    #2
      Thanh Công 17.03.2008 07:37:26 (permalink)
                                    NÉT ĐẶC SẮC
              CỦA BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
       
             Bài thơ về Tiểu đội xe không kính là bài ca về những đoàn xe ra trận trong những năm “tất cả vì Miền Nam phía trước”. Là người lính trong đoàn quân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” nên Phạm Tiến Duật không chỉ mang vào thơ hơi thở nóng hổi của chiến tranh mà còn phản ánh chân thực những khó khăn, thiếu thốn cũng như tinh thần lạc quan, yêu đời, không sợ hy sinh gian khổ của người lính lái xe.
               Bài thơ không hay về vần điệu, ngôn từ. Nhiều câu thơ trong bài rất gần với lời nói thường ngày đậm chất văn xuôi. Cả bài thơ, tác giả chỉ dùng một từ Hán Việt  “tiểu đội”, 3 hình dung từ: “ung dung”, “phì phèo”, “chông chênh”; còn lại  là từ thông dụng trong giao tiếp hàng ngày. Nhưng nhà thơ đã “phù phép” cho thứ chất liệu ngôn ngữ thô mộc ấy thành một bài thơ hay: ám ảnh và lay động mạnh mẽ tâm hồn người đọc; đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969; được tuyển chọn vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở. Vậy yếu tố nào tạo nên sự đặc sắc của bài thơ?
             Toàn bài thơ được xây dựng bằng cấu trúc đối lập. Đối lập giữa tình trạng xe càng ngày càng hư hỏng, thiếu thốn do bom đạn kẻ thù gây ra: “Không có kính, rồi xe không có đèn/ Không có mui xe, thùng xe có xước” với hoạt động liên tục suốt ngày đêm tiến ra phía trước của xe: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy”, “xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước”. Đối lập giữa những gian khổ, nguy hiểm dọc đường mà người lính phải chịu đựng: “bom giật, bom rung”, “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xói”… với tư thế hiên ngang, tinh thần vượt hoàn cảnh, niềm lạc quan yêu đời, ý chí chiến đấu vì Miền Nam ruột thịt của người chiến sĩ : “Ung dung buồng lái ta ngồi”, “Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa/ Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi” … Các hình ảnh, từ ngữ trong bài cũng có sự đối lập. Khi nói về sự tàn phá của bom đạn kẻ thù và ảnh hưởng xấu của thiên nhiên, nhà thơ sử dụng những động từ mạnh: “ giật”, “ rung”, “phun”, “tuôn”, “xối”; còn khi khi nói về tác hại của chúng đối với người lính, tác giả lại sử dụng những từ ngữ chỉ trạng thái ung dung, êm dịu, nhẹ nhàng: “ung dung… ngồi”, “xoa” cùng những hình ảnh đùa nghịch tếu táo, vui vẻ rất lính tráng: “tóc trắng như người già”, “phì phèo châm điếu thuốc” hay cách nói bất cần: “chưa cần rửa”, “chưa cần thay” và đặc biệt tiếng cười “ha ha” vô tư, sảng khoái. Chỉ một giọng cười ấy làm tiêu tan mọi gian khổ, mọi gian nguy của chiến tranh, lửa đạn; làm cho cái gian lao trở thành một thú vui.
               Nhà thơ cũng có nhiều sự sáng tạo trong cách xây dựng câu. Phần lớn các câu trong bài là câu đặc biệt và câu thơ vắt dòng. Có lúc nhà thơ thay từ “ừ thì” (thường để tự nhủ) cho quan hệ từ “cho nên” trong kiểu câu nguyên nhân – kết quả: “Không có kính, ừ thì có bụi”, “Không có kính, ừ thì ướt áo” (thông thường nói: không có kính cho nên ướt áo; …) để nói được một cách tự nhiên, nhanh chóng phù hợp với tình hình thời chiến cũng như  thể hiện tinh thần bình thản, coi thường đến mức bất chấp những gì xẩy ra. Đồng thời, nhà thơ còn sử dụng một số kiểu câu đối thoại: “Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” mang tính tranh luận nhằm giải thích cho tính khốc liệt của chiến tranh và hiện thực trần trụi của cuộc chiến. Từ đó, khẳng định cái làm nên chiến thắng là ý chí, nghị lực của con người, là sức mạnh chính nghĩa, là niềm tin tất thắng của một dân tộc “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu  mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
             Mặt khác, nhà thơ phát hiện ra cách nhìn vừa mới mẻ vừa táo bạo của người lính. Họ không chỉ nhìn đất, nhìn trời mà còn dám nhìn thẳng vào gian khổ, hy sinh; không run sợ, không né tránh để thấy cả hiện tại và tương lai. Do đó, cái nhìn của các anh là cái nhìn có tầm thời đại.
       
                 (Bài đã đăng Tài hoa trẻ 273, ra ngày 23/07/2003)
        
       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2008 20:14:19 bởi Thanh Công >
      #3
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9