NƠI LỤC BÌNH DỪNG LẠI - Truyên dài
Lâm Du Yên 25.09.2019 09:46:02 (permalink)
NƠI LỤC BÌNH DỪNG LẠI
Truyện dài Lâm Du-Yên
 
 
PHẦN MỘT
 
Hai con mương bên lộ mọc đầy nhóc lục bình. Một lần Nhu vớt một bụi đem về. Cô cứ ngỡ lục bình rất dễ trồng thế nhưng nó không sống nổi. Không bám vào đồng loại, đứng một mình là cứ té lên, té xuống. Không thể trụ vững nên chỉ mấy ngày sau là chết.
Thụ thấy Nhu buồn nên khuyên:
-Loại cây nầy nó thích đi đây đi đó, hể bị cầm chân là chết liền hà! Mà Nhu trồng làm chi? Ngoài mương ê hề, thích thì ra đó ngắm cho chán mắt có phải khỏe hơn không?
Rồi anh nói tiếp:
-Lục bình trôi mới đẹp, đứng một mình, chết cứng một chỗ đâu có hay. Bởi vậy đâu có ai đem chưng lục bình trong lọ, đem trồng trong chậu.
Nhu vẫn không chịu bỏ cuộc. Cô quyết tâm phải trồng cho bằng được, ít hôm sau lại mang về mấy bụi nữa. Lần nầy cô không đặt chúng vào chậu rồi đổ nước đầy ngập mặt, mà xới đất cho tơi rồi chôn xuống. Những cây lục bình ấy cũng không chịu đứng thẳng, rễ không thèm bén đất.
Một hôm Thụ hì hục bê cái thúng đựng nguyên một tảng đất sát bờ mương, trên đó có sẵn mấy cây lục bình còn nhỏ chưa có bông, đem về trồng trên vạt đất sau hè nhà của Nhu. Lần nầy mới thành công vì chỗ nầy gần sàn nước, lại hơi trũng nên đất luôn ướt nhẹp.
Mỗi lần nhìn chúng, trong đầu Nhu thường hiện ra một viễn cảnh: Ngày vui nhứt của đời mình cô sẽ mặc cái áo dài trắng, ôm một bó bông lục bình do Thụ trồng nầy rồi đi bên cạnh anh.
Nào ngờ trồng xong mấy bụi lục bình, Thụ bỗng mất tăm, mất tích. Nhu chờ Thụ đến nhà để khoe cái nụ nhỏ xíu vừa chui ra nách lá mà đợi hoài không thấy.
Nhu bèn hỏi bé Bảy, đứa học trò của mình, cũng là em bà con cô cậu với Thụ:
-Anh Thụ của em đi đâu mà hổm rày cô không thấy?
Nó trả lời, mặt phụng phịu:
-Em cũng không biết nữa. Ảnh hứa làm cho em con diều vậy mà trốn mất biệt?
Nhu xúi:
-Em hỏi thử mợ Hai đi!
Nó trả lời:
-Em hỏi tùm lum! Cậu Hai, mợ Hai, chị Diệp, anh Căn ai cũng trả lời không biết? Em hỏi ba cái bị má rầy, nói còn con nít mà bày đặt nhiều chuyện.
Nhu nửa giận, nửa lo. Chẳng lẽ Thụ đi mà không nói với cô một lời. Càng ngày Nhu càng nóng ruột, ban đầu giận nhiều hơn lo, rồi dần dần lo nhiều hơn giận.
Một tháng sau, khi Nhu đang ngồi làm cá dưới cây me chua sau lưng nhà. Một tay cầm dao, một tay đè cái mình của con cá dảnh đang giãy đành đạch, ép nó sát xuống cái rễ gồ lên của cái gốc me chua cổ thụ ấy để đánh vảy, thì nghe giọng nói của Thụ ngay sau lưng:
-Khỏe không cô giáo?
Nhu như bị điện giật, con dao khứa mạnh vào ngón tay cái, máu ra lênh láng. Nhu ngoái đầu lại nhìn Thụ, nước mắt chảy ra chắc tại đau vì ngón tay bị đứt khá sâu.
Thụ móc điếu thuốc lá trong túi ra, xé vụn rồi đem cầm máu cho Nhu.
Nhu chỉ biết khóc mà không nói, không hỏi Thụ đến một tiếng.
Thụ nhìn Nhu bằng đôi mắt buồn hiu. Gương mặt chàng xanh xao, ốm nhom, phờ phạt... Mái tóc cắt ngắn ngủn khiến Nhu sinh nghi.
Để trả lời câu hỏi thầm lặng trong mắt Nhu, Thụ nói:
-Đi không lọt, bị bắt ở Cà Mau.
Nhu gặng:
-Có bị mất vàng không?
Thụ lắc đầu:
-Chỉ mất hai chỉ đem theo thôi!
Nhu hỏi tiếp:
-Rồi có định đi nữa không?
Thụ gật đầu, giọng quả quyết:
-Đi hoài, chừng nào được mới thôi.
Nhu cúi mặt để Thụ không thấy hai giọt nước mắt lăn dài trên gò má. Cô cảm thấy tủi thân hết sức. Thầm trách mình sao hỏi làm chi khi đã biết trước câu trả lời.
Thụ nói:
-Nhu đừng thương, đừng chờ anh nữa mà uổng tuổi xuân.
Nhu nói một cách ngậm ngùi:
-Tại anh không thương em nên nói nghe dễ ợt. Chớ muốn quên một người là chuyện khó nhứt trên đời. Điều đó đâu phải cứ cố gắng là được!
Thụ quen tật cũ, mỗi lần gặp chuyện khó xử là vò tóc rối nùi, đưa tay lên đầu nhưng chạm vào mấy chân tóc cứng quèo bèn gãi sồn sột
Nhu bỗng nói:
-Hay là mình cứ cưới nhau đi. Sống chung một thời gian rồi anh đi cũng được.
Thụ lắc đầu:
-Anh trốn trại về thăm nhà, thăm Nhu một lát rồi đi liền chớ không dám ở lâu. Rủi bị bắt lại là ở tù lâu lắm, làm sao chịu thấu.
Nhu hỏi với một chút hy vọng mong manh:
-Cho em đi theo có được không? Em không có tiền, anh nói với họ là chờ em qua tới bển rồi làm trả lại. Em hứa trả cả vốn lẫn lời không thiếu một xu.
Thụ lắc đầu:
-Lần nầy anh đi đường bộ. Nguy hiểm lắm em không theo nổi đâu.
Nhu nấc lên một tiếng. Thụ nhìn cô hồi lâu rồi nói:
-Giúp anh một chuyện được không?
Nhu gật đầu ngay lập tức dù chưa biết chuyện gì.
Thụ nói, vẻ xót xa lộ rõ trong giọng chàng:
-Nhu chùi sạch nước mắt đi, rồi cười thật tươi để anh làm vốn đem theo.
Nhu buông cây dao yếm xuống rồi dùng lưng bàn tay chùi khô cả hai gò má. Cô cười như thể có ai dùng bốn ngón tay kéo hai khóe miệng của mình ra.
Thụ nhìn đăm đăm rồi quay mặt qua một bên. Chàng ngửa cho cái đầu bật hết ra phía sau, nhìn ngước lên trời để hai giọt nước thập thò trên khóe chảy ngược vào trong.
Có tiếng thím Chín, má Nhu hỏi vọng ra:
-Làm cá rồi chưa Nhu?
Thụ lật đật quay lưng. Nhu gọi vói theo:
-Tối nay chờ em ngoài chòm mả nghe!
Thụ không nhìn lại, chỉ lắc đầu rồi đi thẳng.
Nhu úp mặt xuống hai đầu gối rồi cứ ngồi khóc mãi không thôi.

Chiều hôm đó Nhu bị má cằn nhằn khi cả nhà ngồi quanh mâm cơm.
Thím Chín phân bua với chồng:
-Con cá dảnh nầy tui mua của chú Năm. Ổng vừa kéo cái bò lên khỏi mặt nước, nó còn nhảy soi sói là tui chộp liền. Tính đem kho lạt rồi nướng me giầm vô. Vậy mà con Nhu nó làm từ chuối trồng cho tới chuối trổ, đến nổi con cá sình chương phải đem muối sả, cái thịt mới bủn xì như vậy đó!
Nhu cúi mặt, nước mắt rơi cái độp vô mâm.
Chú Chín bênh con, rầy vợ:
-Con Nhu nó biết tui thích cái món nầy nên cố tình làm vậy. Bà thì ngày nào cũng kho lạt, kho lạt rồi kho lạt. Ăn hoài mà hổng biết ngán.
Thím Chín tức mình cãi lại:
-Vậy chớ cái người nào mới hôm qua còn chỉ mấy cái đọt xoài non mà nói với tui là "ba cái đọt xoài nầy mà chấm với cái nước cá dảnh kho lạt là ngon số dzách" vậy?
Bà nói tiếp bằng giọng hờn dỗi:
-Thiệt là uổng cái công tui phải ngồi cả buổi chờ hai vợ chồng chú Năm kéo cái bò lên, năn nỉ thiếu điều gảy lưỡi họ mới chia lại cho một con.
Rồi Thím cằn nhằn tiếp:
-Rồi còn cất công đi hái một rỗ lá xoài non. Bây giờ trật chìa hết trọi. Cái món cá muối xả nầy phải ăn với món canh khoai ngọt mới đúng một bộ.
Chú Chín gắt:
-Vậy sao bà hổng đào một củ lên nấu?
Thím hứ một cái cốc rồi hỏi lại:
-Nấu với cái giống gì ? Giờ đó còn ai bán tép, bán cá lóc đâu mà nấu?

Nhu cứ cắm đầu vào chén cơm và, nhai, nuốt mà không đụng tới dĩa thức ăn.
Chú Chín tưởng cô con gái cưng của mình giận nên gấp cái bụng nhiều mỡ, ít xương- chỗ ngon nhứt trên mình con cá dảnh- bỏ vào chén của Nhu rồi nói:
-Ăn đi con! Đừng có buồn.
Thím Chín còn chưa đã nư, thấy chồng chẳng rầy hùn vô một tiếng nào lại về phe con gái thì cơn giận dâng lên tràn hông. Thím ráng dằn lại, ăn cho hết chén cơm rồi bỏ đũa đứng lên.
Thím vốn có tánh cầu toàn, nhứt là trong lãnh vực ăn uống. Món gì đi chung với món gì, thím đều thuộc nằm lòng và răm rắp làm y bon. Mâm cơm nhà thím buổi chiều thường được dọn sau lưng nhà, nơi hai ngọn gió đồng và sông gặp gỡ. Ở đó thím trồng sẵn mấy bụi ớt. Ớt trái to màu tím, giòn mà ít cay cho con gái. Ớt hiểm trái nhỏ xíu cay thiếu điều lột lưỡi cho chồng. Bản thân thím chẳng dám rớ thứ nào vì bị đau bao tử.
Thím Chín có nhiều tài, đặc biệt nhứt là tài làm bếp. Thím nấu ăn ngon nổi tiếng nên mấy cái đám cưới, đám hỏi trong làng, trong xóm đều được bà con mời tới làm "xếp".
Ở nhà quê, mọi người giúp nhau vì nghĩa vụ cùng niềm vui chớ chẳng cầu lợi lộc gì hết. Chẳng ai thuê thím đến nấu rồi đếm mâm tính tiền. Nhà nào sắp có đám, chỉ cần gia chủ đến tận nhà, nói ba điều bốn chuyện rồi rỉ tai: "Bữa đó chị lại tiếp giùm, đứng chỉ vẽ cho sắp nhỏ giùm tụi tui nghe!".
Nếu không bận chuyện quan trọng, hay trùng ngày với cái đám đã nhận trước, thím chẳng bao giờ từ chối. Bởi điều đó đối với thím, chẳng những là một nghĩa cử mà còn là niềm vui, là hạnh phúc nữa.
Khi rồi đám, họ khệ nệ mang tới nhà thím, một cái gói có bọc giấy hồng điều. Trong đó chứa cả lòng biết ơn vô giá lẫn một gói bột ngọt, một ký đường cát trắng tinh mà dâng tặng. Ở nhà giàu, có làm heo thì ngoài cái gói giấy đỏ ấy ra, còn kèm thêm một hủ mỡ cỡ một, hai lít.
Thím nhận mấy món quà có tính tượng trưng đó một cách vui vẻ như nhau chẳng chút so bì.
Từ năm Nhu được mười tám tuổi, thím Chín đã dự trù cho cái đám cưới của cô con gái duy nhứt rồi. Thím tưởng tượng ra các món mà mình sẽ nấu hôm đó. Dịp nầy thím sẽ làm cho bà con lé hết cả hai con mắt trước mấy món độc nhất vô nhị của mình.
Thím sẽ đãi ăn theo kiểu Sài gòn mà mình đã có lần được dự. Âý là cho dọn lên bàn từng món một chớ không bày chung một lượt. Bên cạnh mỗi cái chén đều có một cái khăn trắng muốt và một cái muỗng riêng. Trước đó thím sẽ tập hợp mấy đứa bạn gái của Nhu lại, dạy cho chúng cái cách phục vụ như nhân viên của nhà hàng. Chao ôi cái đám cưới của nhà thím nó sẽ ngon, sang trọng, đặc biệt hơn hết thảy các đám khác từ xưa đến nay. Sẽ được mọi người nhắc nhở, trầm trồ, khen ngợi... Chỉ mới nghĩ đến thôi mà thím đã sung sướng tới nổi da gà.
Thím cũng quyết truyền lại cho Nhu tất cả các bí quyết của mình. Con gái của thím sẽ thừa hưởng hết vốn liếng của mẹ rồi phát huy thêm để danh tiếng của cả hai mẹ con ngày một rạng. Chính vì vậy mà thím bắt ne, bắt nẹt Nhu từng chút. Người ta thường cho rằng con gái gần gũi mẹ hơn cha, thế nhưng ở nhà chú thím Chín thì ngược lại.
Nhu ăn xong chén cơm thì xá đũa rồi gom cái chén của mình ra ngâm chung với cái chén của má trong thau nước gạo vo đặt trên sàn nước, chờ ba mình ăn xong rồi rửa luôn một lượt.
Chú Chín còn lại một mình, ráng ăn cho hết cá, hết rau để vuốt giận vợ chớ chẳng thấy ngon gì ráo. Dạo sau nầy chú thấy Nhu không còn vui vẻ, tươi tắn như lúc trước. Chú biết con gái mình thương Thụ, con trai út của vợ chồng Hai Thọ, người có máu mặt nhứt vùng nầy.
Thụ hơn hẳn đám trai cùng lứa từ cái tướng, cái tánh, cho đến cái tình. Chú Chín tuy mừng nhưng cũng ngại lối xóm cho rằng con gái mình ham giàu. Chú để ý thấy cả tháng nay Thụ không léo hánh đến nhà, cũng nghe phong phanh là chàng đã vượt biên. Chú lo đến mất ngủ nên có lần rủ con gái đi câu cá rồi hỏi đon, hỏi ren. Thế nhưng Nhu vẫn im thinh thít, không nói "có" cũng chẳng chịu nói "không".
Ăn cơm xong chú không gọi thím Chín hay Nhu tới dọn, mang bình trà ra cho chú súc miệng như mọi lần. Chú bưng mâm cơm lại sàn nước cho con gái, rồi tự mình bưng khay trà ra. Bình trà nhẹ bổng, chắt ra chỉ được đúng một ly, chú lắc đầu ngán ngẩm nói thầm: "Cái con nhỏ nầy hồn vía để ở đâu đâu... Nấu cơm xong rồi không chịu bắt ấm nước lên như mọi bữa. Má nó mà biết chắc bả lại rầy thêm cho một trận nên thân".
Rửa chén xong Nhu lại gần chú, kề tai nó nhỏ:
-Một lát má có hỏi, ba nói giùm là con lên nhà con Tím can mấy cái mẫu thêu nghe ba.
Chú hỏi lại, giọng e dè:
-Bộ để mai hổng được sao con? Má bây đang quạu, nghe vậy chắc bả cự nhoi.
Nhu năn nỉ, mặt mày nhăn nhó như sắp khóc:
-Không được đâu ba. Con có hứa thêu cặp gối tặng chị Lụa, còn có mấy ngày là tới đám cưới của chỉ rồi, sợ làm không kịp.
Chú bèn gật đầu:
-Có đi thì đi cho lẹ rồi về nhà trước đỏ đèn nghe con!
Nhu liền đáp:
-Dạ!
Rồi lật đật dắt xe đạp đi ra cổng.
Thấy con gái để cây đèn pin vào cái túi đệm treo tòn teng trên ghi đông, chú hỏi:
-Bộ con tính ở chơi với con Tím lâu lắm hay sao mà đem theo cây đèn vậy?
Nhu nói cho ba mình an lòng:
-Con đem hờ thôi, sợ nhiều khi bể bánh xe phải dắt bộ.
Nhu đạp xe đi một lát rồi chú Chín mới nhớ ra là cây đèn chưa thay pin. Chú lắc đầu, rủa thầm cái tính hay quên của mình. Nhớ ra hôm nay cuối tháng, trời không trăng tối hù, chú lại càng lo tợn.
Nhu ghé nhà Tím mượn mấy cái mẫu thêu ra xem, rồi chọn một tấm.
Thấy Nhu can mẫu bông lục bình, Tím ngăn:
-Đám cưới mà tặng áo gối thêu bông lục bình sợ người ta hổng thích.
Tím lôi một tờ giấy nằm tuốt dưới chót, đưa ra trước mặt Nhu nói:
-Mầy thêu cái mẫu bông hồng nầy nè ! Vừa đẹp vừa ít tốn công.
Nhu liền can luôn hai mẫu, xếp làm tư cho vô túi đệm rồi ra về.
Tím cố cầm chưn bạn:
-Làm cái gì mà gấp dữ vậy? Ở lại nói chuyện thêm chút nữa đi mà!
Nhu lắc đầu:
-Má tao đang giận. Tao chỉ dám xin ba nên về trễ, bả mà biết là dám bị đập lắm!
Ra khỏi nhà Tím, đến ngã ba Nhu không chạy thẳng về nhà mà rẽ vào con đường cộ nhỏ. Cũng may vào giờ nầy cả cánh đồng lẫn con đường đều không còn một bóng người, nên không sợ gặp người quen rồi bị nghi ngờ, bị cật vấn rồi phải bịa chuyện và nơm nớp phập phồng.
Khi Nhu dựng xe vào cây ô môi trước chòm mả, tia nắng chiều hồng hồng đã chuyển sang tím nhạt. Chòm mây trên đầu mang hình dạng và màu sắc giống như đám bông lục bình mới nở gần sàn nước sau hè nhà Nhu. Chúng trượt dần về chân trời chỗ có mấy ngọn núi lô nhô rồi đậu luôn trên đỉnh.
Nhu ngồi thụp xuống cái gò mả cao nhứt, nơi cách đây mấy tháng cô và Thụ hò hẹn lần đầu, thấp thỏm chờ nghe tiếng chân, tiếng nói, chờ nhận ra một hình bóng thân thương.
Bầu trời dần tím thẫm rồi đen thùi lùi mà Thụ còn chưa tới.
"Chẳng lẽ anh lại độc ác đến thế sao? Không cho em gặp một lần cuối! Không để cho em có dịp bộc lộ hết tình cảm của mình!" Nhu hỏi thầm với lòng ai oán.
Một bàn tay đặt rất nhẹ lên tóc Nhu. Cô thả mình ngã ngược, giụi đầu vào một bộ ngực rộng mà khóc rưng rức. Vòng tay rắn chắc ôm choàng Nhu từ phía sau và xiết chặt vào lòng. Nhu nhắm nghiền cả hai mắt lại. Bàn tay ấy như con rắn trườn vào bên trong chiếc áo bà ba làm mấy cái nút bấm phải rời nhau rồi kêu lên bừng bực. Nó trườn từ phía trên xuống rồi dừng lại trên bụng của Nhu...
Khi cả hai buông nhau ra Nhu vẫn còn nằm im trên đám cỏ mềm dưới chân chòm mả. Nhu chờ Thụ lên tiếng mãi mà chẳng nghe anh nói một lời. Cô đưa tay sờ vào bên phải, lớp cỏ vẫn còn ấm chứng tỏ chàng vừa nằm ở đó.
Nhu ngồi dậy lấy cây đèn pin trong chiếc giỏ đệm bên cạnh ra, bấm để tìm Thụ, nó chẳng phát ra một tia sáng nào. Nhu gọi nho nhỏ:
-Thụ ơi! Thụ ơi! Anh ở đâu vậy?
Chẳng nghe tiếng trả lời, Nhu đứng bật lên. Tim trĩu nặng vì chứa cả một khối tủi buồn. Vậy là Thụ đã đi rồi, chàng mang cả nụ cười lẫn tấm thân trinh trắng của Nhu theo như một lời cam kết.
Nước mắt ràn rụa khắp mặt rồi len vào miệng của Nhu. Cô nuốt cả vị mặn cùng những lời thổn thức âm thầm: "Tại sao anh lại vội vàng đến vậy? Có biết giây phút nầy đối với em quan trọng như thế nào không?! Em cần những lời âu yếm, trân trọng, hứa hẹn của anh để làm dịu cơn đau và vững tin rằng chúng mình sẽ mãi mãi bên nhau. Cám ơn anh đã mạo hiểm ở lại với em. Hãy ráng giữ mình anh nhé. Em sẽ cầu nguyện mỗi ngày cho anh được an toàn, đến được cái nơi mà anh hằng ao ước dù ở đó chẳng có em. Hành động vừa rồi của anh, đối với em như một lời cam kết. Em biết anh là một người chí tình, trọng nghĩa, chắc chắn một ngày gần đây sẽ về lại bên em".

Nhu vừa dắt xe vào nhà đã nghe chú Chín hỏi lớn:
-Có mua mấy viên “óp ta li đông” cho ba hông con?
Nhu nhanh trí nên hiểu ngay là má đã phát hiện ra sự vắng mặt của mình. Chắc bà hỏi và ông đã bịa là sai cô đi mua thuốc, bèn đáp liền:
-Dạ có!
Thím Chín đang cúng nhưng vẫn để tai nghe tiếng hai cha con đối đáp. Vừa cúng xong, cởi cái áo dài vạt hò màu nâu mặc bên ngoài khi cúng ra là thím hỏi liền:
-Cái tiệm tạp hóa của cô Năm gần sát một bên sao không mua mà đạp xe lên tới chợ vậy?
Nhu đáp:
-Con ra hiệu thuốc mua cho rẻ với ghé con Tím can mấy cái mẫu thêu.
Thím gặng:
-Can mẫu thiêu làm chi?
-Con có hứa là thêu tặng chị Lụa một cặp gối.
Rồi hỏi lại:
-Cô Bảy có nhờ má nấu hông vậy?
Thím Chín trả lời bằng giọng hãnh diện:
-Có chớ sao không?
Rồi chép miệng, nói một mình:
-Thời buổi khó khăn nầy mà vợ chồng cổ tính làm đám cưới lớn quá, tính ra tới hai mươi mấy ba chục mâm luôn! Bộ họ hổng sợ bị để ý hay sao ta?
Chú Chín chêm vô:
-Gia đình cán bộ mà sợ cái gì?
Ngừng một lát ông lại nói thêm:
-Nhớ hồi nào cô Bảy còn núp lén đi thăm chồng, còn bây giờ thì ...
Thím Chín tiếp lời chồng:
-Thành bà lớn.
Ngẫm nghĩ giây lát thím nói tiếp:
-Người vui thì cũng quá vui mà người buồn thì cũng quá buồn. Tội nghiệp gia đình Ba Ngươn, có mấy đứa con làm sĩ quan, bây giờ lo kiếm tiền đi thăm nuôi hết đứa nầy tới đứa khác cũng đủ mệt cầm canh. Hôm bữa tui ghé nhà thăm thấy chỉ ốm nhom. Chỉ nhờ hỏi giùm coi cô Bảy có cần heo làm thịt, thì chỉ cho cổ mua con heo lớn đang nuôi để lấy tiền đi ra ngoài bắc mà thăm thằng Việt.
Chú Chín hỏi:
-Mấy anh em nó có ở chung một chỗ hông?
Thím Chín lắc đầu:
-Mỗi đứa mỗi nơi mới khổ!
Chú Chín hỏi vợ:
-Bà có nói giùm chưa?
Thím gật đầu:
-Có!
Chú Chín hỏi tiếp:
-Rồi cổ có mua hông?
Thím lắc đầu:
-Cổ trả lời có nuôi sẵn cả bầy rồi, mua làm chi.
Thím Chín thở ra một hơi dài, chú Chín khuyên:
-Sự đời là vậy đó bà ơi, buồn làm cái giống gì. Khi thì cá ăn kiến, khi thì kiến ăn cá.
Thím liếc Nhu một cái rồi nói:
-Nghe nói nhà Hai Thọ bây giờ xuống dốc lắm ! Cái nhà máy xay lúa với lò đường bị đóng cửa rồi, còn bị điều tra tới, điều tra lui. Thằng con trai nghe đâu vượt biên bị bắt ...
Bây giờ đến lượt chú Chín đỡ lời vợ:
-Cái thằng đó giỏi dang hết biết! Sổ sách một tay nó nắm, lại cư xử tốt với nhân công nên chẳng ai kêu rêu tiếng nào. Nhờ vậy mà ông già nó khỏi ngồi tù. Vái trời cho nó...
Thím Chín còn hậm hực cái chuyện hồi chiều nên nhiếc:
-Con nào ngu dại mà đâm đầu vô gia đình đó lúc nầy là khổ trần thân.
Chú Chín cự:
-Khổ cái chỗ nào? Gia đình họ dù nát giỏ cũng còn bờ tre. Người ta giàu mà không phách lối, biết giúp đỡ bà con với chòm xóm láng giềng. Cái của cho dù có mòn nhưng còn cái đức, bộ bà không nghe ông bà mình nói cái câu: "Có đức không sức mà ăn" hay sao?
Nhu đứng lặng thinh không nói tiếng nào.
Chú Chín nhắc:
-Thôi! Lo vô giăng mùng cho ba với má đi con gái.
Khi nào quá thương và muốn chia sẻ nỗi buồn với con, chú Chín thường gọi Nhu bằng "con gái".
Nhu quay lưng vừa đi được ba bước bỗng bị thím Chín hỏi giựt ngược:
-Làm cái gì mà quần áo dính cỏ, dính đất tùm lum vậy?
Nhu điếng hồn, lắp bắp:
-Con bị té văng ...
Thím Chín nạt:
-Đồ tâm hơ, tâm hất! Lẹ lẹ xối nước rồi thay đồ liền đi! Xong xuôi đem cái lưng lại cho tao coi có chỗ nào bầm hông đặng xát muối vô cho tan máu.
Nhu lật đật từ chối:
-Con té trên đám cỏ im ru hà! Hổng có nghe đau chút nào hết!
Thím Chín nghĩ Nhu ngại vén áo cho mình thấy da, thấy thịt nên nói:
-Mẹ con mà còn bày đặt mắc cỡ. Hồi còn nhỏ thì đòi gãi lưng mới chịu ngủ. Lớn lên thì nhờ hai bàn nầy tắm rửa, kỳ cọ mỗi ngày. Bây giờ cũng cạo gió cho hà rầm hoài, còn lạ cái giống gì nữa mà giấu?
Nhu không đáp, chạy thẳng ra sàn nước đứng trên hai cục gạch kê sẵn để rửa chân. Cô mở nấp lu nước, nhúng cái gáo vô múc rồi xối ào ào từ trên đầu xuống.
Có tiếng ho khan bên kia hàng rào dâm bụt.
Nhu rủa to:
-Đồ cái thứ cà chớn, dòm lén mà còn....
Nhu tức tối, múc một gáo nước đầy tạt mạnh về hướng đó. Một cái bóng đen thui bỗng bật dậy từ dưới hàng rào chạy cong lưng.
Chưa vừa lòng Nhu rủa to hơn:
-Đồ con heo!
Tiếng rủa khá lớn, thím Chín nghe thấu nên lật đật bước ra hỏi:
-Có chuyện gì vậy?
Nhu vừa chỉ tay về cái hàng rào vừa đáp, giọng tấm tức:
-Có cái thằng chó đẻ nào hổng biết. Nó ngồi đó rình coi con tắm.
Thím Chín chắt lưỡi :
-Tối hù có thấy gì mà coi, chắc có con nhỏ nào đi tiểu...
Nhu ngắt lời:
-Con nghe tiếng con trai ho mà!
Thím chín vốn có cảm tình với Phục, con dì Sáu Dọ bên cạnh. Cậu ta hay giúp thím mọi việc cho dù có được nhờ hay không. Thím cũng biết nghĩa cử đó xuất phát từ mối tình câm y dành cho Nhu. Mấy lần thím thấy Phục vừa làm vừa liếc, coi Nhu có để ý đến y không. Có lần thím tạo điều kiện cho y tiếp xúc với con gái mình thì cử chỉ Phục vụng về, nói năng lúng túng nên thím lại càng thương.
Thấy tóc Nhu ướt mem thím liền rầy:
-Giờ nầy mà gội đầu làm chi? Để cái đầu ướt suốt đêm là mai mốt mang bịnh nhức đầu đông. Tại sao dặn hoài mà không chịu nhớ giùm vậy?
Nhu nghe má rầy mà buồn. Ngày nào cô cũng bị bà bắt bẻ hết chuyện nầy tới chuyện khác. Nhu rùng mình khi nghĩ nếu má biết là cô vừa làm chuyện gì.
Thấy Nhu đứng bất động, thím Chín quát:
-Sao không tắm lẹ rồi vô nhà. Bộ không sợ bị cảm hả?

Cái tin Thụ đã vượt biên thành công được truyền ra khắp xóm. Nhu bán tín nghi, cuối cùng cô cũng nhận được một lá thơ của Thụ do Bé Bảy trao.
Không thể đợi đến giờ ra chơi, cho học trò sắp hàng vào lớp xong, Nhu bóc đọc liền.
Bức thư đã mang đến cho Nhu một nỗi thất vọng sâu xa. Nó không giống như Nhu mong đợi. Thay vì bày tỏ nỗi nhớ nhung, lòng say đắm để đổ đầy những khoảng trống trong cô, nó lại mang giọng điệu của một hồi chuông báo tử khiến lòng Nhu hoang mang, nghi ngờ, đau đớn...

Thụ viết:

Nhu thương mến!
Có lẽ nhờ Nhu cầu khẩn phật trời quá tha thiết nên anh đã vượt qua biên giới một cách an toàn. Hiện anh đang ở trong một trại tập trung của Thái Lan.
Chuyến đi hết sức gian nan, nguy hiểm. Ranh giới giữa cái sống và chết chỉ cách nhau bằng lằn tơ, kẽ tóc. Bây giờ nhớ lại anh không khỏi hết hồn.
Những ngày nầy anh rất nhớ và cảm thấy có lỗi với Nhu nhiều quá! Chẳng biết có đi sang nước Mỹ được không? Khi định cư rồi có được về Việt nam để cưới Nhu rồi đem theo không nữa?
Anh sợ hứa hẹn rồi bắt Nhu đợi dài dài thì bất công cho Nhu quá!
Nếu chú thím Chín ưng ý ai và Nhu cũng thấy người đó có thể mang lại hạnh phúc cho mình thì đừng ngần ngại. Nhu đừng lo, anh sẽ chẳng bao giờ quên những kỹ niệm đẹp giữa hai ta, anh sẽ lập gia đình chỉ sau khi Nhu yên bề gia thất.
Anh đã không đánh giá đúng mức, lượng tình cảm dành cho Nhu. Khi trước nó bị che lấp bởi lòng mong muốn ra đi. Ngay khi điều đó đã đạt được thì hình bóng của Nhu lại hiện lên trong đầu anh, trong sáng, vằng vặc như ánh trăng rầm khi những đám mây bị gió đuổi đi xa...

Ngay lập tức Nhu viết một lá thơ hồi âm dài đến bốn trang giấy rồi đạp xe lên tận bưu điện quận gửi liền. Nhu xin địa chỉ của Nhan, cô bạn học của năm cuối cấp, dặn Thụ gửi thơ về đó. Nhà Nhan ở bên kia sông nên chẳng lo bị ba má phát hiện và bà con lối xóm nghi ngờ.
Vừa gửi thơ xong là Nhu đã bồn chồn đợi Thụ trả lời. Cứ cách vài ngày Nhu lại mua một thẻ nhang rồi xin má cho ngồi đò để viếng ngôi chùa Lá gần nhà Nhan.
Thím Chín đâm ra nghi ngờ nên hỏi:
-Khi không mà đi chùa liền xì là tại làm sao?
Nhu đáp:
-Con thấy trong mình không khỏe nên...
Thím rầy:
-Bịnh thì kiếm thầy thuốc chớ đâu ai đi tìm thầy chùa.
Thím gặng tiếp:
-Bây bịnh gì?
Nhu ấp úng:
-Con nghe hảo hảo mệt, ăn không vô. Ban đêm khó ngủ, hay giựt mình với nằm chiêm bao...
Thím chép miệng:
-Tại bây quá lo lắng nên sinh ra như vậy! Phải thỉnh nước cúng trên mấy cái bàn thờ trong nhà mà uống. Phật ở nhà cũng y hệt như ông phật ở chùa. Miễn mình có lòng tin tưởng là được.
Từ hôm đó, thím tự tay đi hái bông trang, bông điệp...đem về chưng trên ba cái bàn thờ: Bàn thông thiên ngoài sân; Bàn thờ Đức Huỳnh giáo chủ với bức chân dung của ngài, cùng tấm vải màu nâu đen đặt trên cái trang treo cách mái nhà chừng hơn một thước; Bàn thờ cữu huyền thất tổ nằm trên đầu cái tủ gỗ mun cẩn xa cừ đứng ngay giữa nhà.
Bà con trong xóm bắt đầu thấy thím chiều chiều đi dọc theo con đường cộ nhỏ, nơi bông trang nở lền khênh trên những bụi lá xanh um và bông điệp trổ lưa thưa trên những nhánh gầy guộc của thân cây xương xẩu. Thím không thích đi con đường lộ lớn, xin bông của bà con trong xóm để tránh nghe họ bàn tán về gia đình hai Thọ nói chung và Thụ nói riêng.
Thím Chín thấy Nhu ốm đi trông thấy. Tháng rồi thím để ý thấy Nhu không còn một tay bưng cây đèn, một tay bưng cái thau nhỏ, đi xuống sông để giặt đồ vào lúc mọi người đã ngủ thì lo hết sức. Một hôm khi Nhu đang ăn cơm bỗng buông đũa chạy ra sau hè nôn thốc, nôn tháo thì thím bỗng lo và giận đến điếng người.
Tối đó thím gọi con gái lại rồi hỏi:
-Có bị trễ kinh không?
Nhu ấp úng:
-Con mới... có tháng vừa dứt.
Thím nói, gằn mạnh từng tiếng:
-Có bề gì là tao đem bây đi câu sấu đó, biết chưa?
Thấy Nhu cúi gầm mặt không dám nhìn mình, thím càng nghi tợn, nghiến răng lại mà nói:
-Thiệt là ngu đại hạng! Con gái gì mà có cái thân cũng không biết giữ!
Chú Chín vừa từ ngoài vườn bước vô, thấy Nhu khóc rưng rức thì hỏi vợ:
-Mắc chứng gì mà bà cứ đeo đẳng hành hạ con nhỏ hoài vậy?
Thím nguýt chồng một cái rồi bỏ đi không thèm đáp.
Nhu lại tức tốc gửi thêm cho Thụ một lá thư với nội dung ngắn ngủi:

Thụ ơi!
Điều nghi ngờ mà em nói với anh đã trở thành sự thật. Bây giờ em phải làm sao đây? Má em hình như đã phát hiện và dần dặt em mỗi ngày. Anh hãy cố tìm ra cách để giúp em giữ lại đứa con của tụi mình, gia đình anh phải thừa nhận em là dâu để ba má em không mất mặt với bà con, lối xóm...


Đúng hai tuần sau, Nhan đem một lá thơ đến cho Nhu. Cô cho lá thơ vào túi quần, không dám mở ra đọc liền vì sợ má mình bắt gặp.
Tối hôm đó Nhu cố dán mình trên giường, chờ nghe tiếng ngáy của thím Bảy rồi mới đốt cây đèn trứng vịt lên, vặn cho ngọn đèn chỉ còn leo lét rồi mới dám lấy trong túi ra cái thơ ấm hơi người ra đọc.

Thụ viết:
Anh hết sức ngạc nhiên đến ngỡ ngàng khi đọc thư Nhu.
Chiều hôm đó khi gặp nhau lúc Nhu đang làm cá xong, anh về nhà lấy túi đồ rồi đi liền, không hề chờ Nhu ở chòm mả như đã kể.
Anh xin đứng giữa trời và chỉ thẳng tay lên trời mà thề rằng nếu mình có làm cái điều thương luân, bại lý đó thì cho bà chúa Xứ bắn đui hai con mắt và vặn gãy lìa, đầu rời khỏi cổ...


Nhu đau khổ, căm hờn đến độ không thở nổi. Cô nghe như thể cả một ngọn núi đè nặng lên người, chỉ muốn chui xuống đất để khỏi phải đối diện với gương mặt giận dữ của má cùng sự thất vọng của ba. Mối nhục mang đến cho gia đình quá lớn khiến Nhu chỉ muốn trừng phạt mình một cách thích đáng.
Kéo vạt áo lau khô hai gò má, cô ngồi dậy viết một lá thư tạ lỗi, cầu xin ba má tha thứ và hứa sẽ theo phò hộ để hai đấng sinh thành luôn mạnh khỏe.
Nhu xếp lá thư làm bốn, lót xuống gối rồi mở cửa sau, đi ra đường tiến về hướng cây cầu ván...

Cây cầu ván cách nhà Nhu không xa lắm! Mỗi ngày đi dạy cô đều phải dắt xe đạp qua cầu vì sợ những chỗ khuyết sẽ giữ chặt hai cái bánh xe.
Nó đã gần trăm tuổi đời, già hơn bất cứ ông già, bà cả nào trong xóm. Mấy miếng ván lót cầu cứ thưa dần đi, chúng được thay bằng những thân cây, khúc gỗ có mặt trong các khu vườn gần đó.
Tuy vô tri, vô giác nhưng hôm nay hình như cái hồn cỏ cây của những tấm ván đã long đinh, của những cây cột được chấp đi, nối lại ấy đã thăng hoa lên mấy bậc, chui vào lòng Nhu để ghi nhớ và sụt sùi với những lời trăn trối âm thầm, não nuột của cô.
Những giọt nước mắt âm ấm của Nhu liên tục rơi đều lên nó. Mấy tiếng lộp độp nhỏ xíu xen lẫn tiếng nức nở đều đều và nấc lên từng chập ấy, khiến bầu trời cũng tái tê và đen thẫm lại.
Còn có lời từ biệt nào buồn hơn?
Nhu khóc vì biết ba má mình sẽ đau đến xé lòng khi mất đứa con duy nhất. Càng đau đớn hơn khi biết cô hư đốn, nông nổi, dại khờ đến mức nầy.
Má cô, người vốn yêu thích lời khen, sẽ không còn muốn gặp gỡ mọi người. Bà sẽ ở miết trong nhà, trong đồng để tránh những lời an ủi, cho dù xuất phát từ những tấm lòng chân thật, chúng vẫn làm lòng tự ái của bà thương tổn. Cái niềm vui được làm người quan trọng nhất trong các buổi tiệc linh đình trong xóm sẽ không còn nữa. Cuộc sống của bà sẽ mất đi sinh khí, chết dần trong nỗi đau buồn, tủi nhục.
Ba của Nhu còn thê thảm gấp đôi. Không còn người để tiếp nhận tia nhìn âu yếm của ông, để nghe tiếng gọi "con gái" đầy thương yêu của ông mà rưng rưng xúc động.
Không còn người để ngồi nghe ông kể một cách say sưa về các nỗi khó khăn, nhọc nhằn của ông cố, ông sơ mình. Những người đầu tiên theo chúa Nguyễn vào Nam mở mang bờ cõi.
Không còn người nhổ cho ông mấy sợi tóc ngứa trên đỉnh đầu để bày tỏ lòng hiếu thuận, cho dù ông không mượn, mà có khi còn tiếc đứt ruột mấy sợi tóc hiếm hoi đó.
Không còn người rủ đi câu cá để rồi nhờ ông tóm giùm cái lưỡi câu, gỡ giùm con cá trê, cá rô có cái ngạnh, cái kỳ bén ngót...Hay lặn xuống nước để gỡ giùm cái lưỡi câu bị mắc gốc.
Không còn người để nhờ ông thay giùm cái ruột xe đã vá hơn chục chỗ, thâu lại sợi dây sên dài thòng cứ sút lên, sút xuống. Xiết lại cái bàn đạp cho khỏi bị trật con chó, khiến cho dù đạp như điên mà chiếc xe vẫn cứ bất di, bất dịch, đứng im ru hoài một chỗ.
Cái tình cảm ngọt ngào như nước mía tràn ngập trong ông sẽ không được sử dụng, không có chỗ thoát, lập tức lên men, biến thành chất chua gậm mòn lục phủ, ngủ tạng. Tóc ông sẽ bạc trắng rồi rụng từng nắm mỗi ngày. Mâm cơm không còn món gà xé phai trộn gỏi bởi ông không còn cầm cái cù lẳng lên mà cắn một cái "rốp", để khoe hai hàm răng chắc khỏe của mình được nữa.
Còn Thụ, chàng sẽ cho là Nhu hư hỏng, ngu si... chẳng hề cảm thấy có trách nhiệm với cái chết của cô, chẳng nhỏ một giọt nước mắt cảm thương mà chỉ lắc đầu ngao ngán.
Những người bạn thân nhất của Nhu: Tím, Lựu, Mận...sẽ vừa khóc vừa nhắc những kỷ niệm họ có với nhau rồi kết luận bằng những lời trách móc, chê bai: "Cái con nhỏ đó "lãng mạn" cho dữ vô, khuyên hoài không được nên mới ra nông nổi nầy".
Mấy đứa học trò nhỏ bé của Nhu, chúng sẽ hoang mang, tức tối biết bao khi nghe những lời bàn tán không tốt về cái chết của cô giáo, người được chúng xem như thần tượng.
Càng nghĩ nước mắt Nhu càng tuôn xối xả. Nó làm mờ nhạt thêm hình dạng của mấy cái bè đen đen đang trôi vùn vụt qua cầu. Nhu xót xa cầu xin hà bá, bà thủy phò hộ cho thân xác cô được những đám lục bình to lớn, xanh tốt và mang đầy hoa tím như thế nầy che lấp cho đến khi tan rả hoàn toàn trong nước.
Nhu bỗng rùng mình khi nhớ lại cái lần chạy theo mấy đứa bạn trong xóm đi coi chồng chổng chết trôi lúc nhỏ. Cái thi thể lõa lồ, trương phồng, thúi ình ấy khiến Nhu kinh sợ khiếp vía nên chỉ ngó một cái là bỏ chạy mất mạng. Tưởng tượng mai mốt mình cũng y hệt như vậy khiến Nhu hết sức tủi hổ.
Nhu nấc lên khi nghĩ ba má của của cô sẽ đau đớn, nhục nhả biết bao, khi phải nhìn, phải chôn cất, phải nhớ đến cái hình ảnh sau cùng của đứa con mà mình bồng bế, tưng tiu trong tình trạng đó !
Không phải niềm ham sống, mà tánh mắc cỡ đã khiến Nhu chùn bước. Nhu nghĩ đến cả trăm, cả ngàn cách chết rồi nhận ra cách nào cũng xấu xí, tràn đầy khuyết điểm.
Vậy thì phải sống, mà sống kiểu nào đây?
"Giá như có một ông tiên xuất hiện, nhổ một sợi râu rồi hô biến thành một người đàn ông để đi cưới mình thì hay biết mấy!" Nhu nghĩ thầm.
Ý tưởng phi thực tế ấy khiến cô ao ước một tình cảnh khả thi hơn. Ngay lúc nầy nếu có một người con trai, trong số cả chục người tán tỉnh Nhu từ trước đến giờ tới cầu hôn, cô sẽ ưng ngay lập tức, cho dù y xấu như quỷ. Kể cả cái tên Phục sát bên nhà, vốn bị cô khinh ghét bởi cái tánh ba mươi lăm của hắn.

Thím Chín có bịnh tiểu đêm nên ít khi ngủ một lèo đến sáng bét. Tối nay cũng thế, quá nửa đêm thím thức giấc để giải quyết cái nhu cầu cấp bách đó.
Xách theo cây đèn pin, thím ra nhà sau để mở cái cửa hông hướng ra sân. Chới với nhận ra nó đang mở tan hoang, cánh cửa lá sách bằng cây thao lao đánh đu theo gió, làm thím hết hồn!
Thím nghiến răng nhiếc thầm con gái:
-Đồ cái thứ tâm hơ, tâm hất. Tối nào cũng căn dặn mà cứ quên đóng cửa.
Tánh vốn nóng nên thím không thèm bước tiếp ra sân mà vén tấm màn vải bông che cái căn buồng thoáng mát nhất nhà, nơi ngủ nghỉ của cô con gái.
Thím rọi đèn pin vào mùng cho tia sáng chui vào mắt Nhu, mục đích khiến cô chói mắt phải tỉnh giấc, dỏng hai lỗ tai lên mà nghe thím chửi.
Cái mùng trống không, chiếc mền con rồng màu đỏ chưa bị bung ra đắp, còn nằm yên trên đầu chiếu. Cái gối gòn được bọc sa ten dún bèo nằm thẳng thớm bên cạnh.
Thím Chín giựt mình một cái đụi, linh tính có chuyện tày trời sắp xảy ra. Như có thần linh mách bảo, thím chạy u về hướng cây cầu sắt.
Tay chân thím rung bây bẩy đến độ cây đèn pin đang cầm trên tay rớt ra, tắt ngấm. Thím không dám dừng lại để tìm và nhặt lên mà cấm đầu chạy miết...
Một cái bóng đen thui ngồi thu lu, tiếng khóc rất nhỏ bị tiếng nước chảy xiết che lấp đến chín chục phần trăm nên khi đến thật gần thím mới nghe ra.
Ngồi giữa cầu, Nhu cứ nức nở khan. Con nước mùa lũ réo ầm ầm dưới dạ cầu khiến cô chẳng thể nghe được tiếng chân chạy sầm sập đang tiến về phía mình, cho đến khi bị một thân hình nặng nề té sấp, đè lên lưng.
Thím Chín ôm chầm lấy con rồi vừa rung, vừa nói một cách đứt quãng:
-Đừng làm chuyện dại dột con ơi... Không có con... ba má làm sao mà sống nổi?
Nhu hết hồn quay lại. Trong bóng tối cô vẫn cảm nhận được đôi mắt thống khổ của má đang nhìn mình một cách van nài, với gương mặt buồn lo tột độ. Tiếng "con" hiếm hoi từ miệng bà thoát ra khiến Nhu xúc động nên nước mắt lại dâng trào lai láng.
Thím Chín cầm tay con, kéo Nhu đứng lên rồi nói:
-Về nhà đi con, đừng để bà con chòm xóm thấy rồi họ dị nghị. Con đừng lo, còn có má đây nè!

Gửi thư cho Nhu xong, tối hôm ấy Thụ liền trải qua một cơn ác mộng. Chàng mơ thấy mình chạy và vấp ngã túi bụi trên những luống đất cày cứng như đá tảng. Không nghe tiếng chân đuổi theo nhưng cái bóng đen thui phía sau cứ lớn dần lên rồi trùm khắp người chàng. Sức mạnh tối tăm ấy càng lúc càng đè nặng trĩu trên lưng hơn khiến chàng không thở nổi.
Thụ cố cắm đầu chạy miết cho đến khi va vào một khối mềm mềm treo lửng lơ trước mặt. Ngay lập tức chàng phát hiện, đó là thi thể của một cô gái đã treo cổ tự vận trên cái nhánh to và thấp nhất của cây ô môi trước cái miễu quen thuộc gần gò mả. Mái tóc rất đen và dài lê thê ấy bao phủ kín mít gương mặt lẫn thân hình của cô gái. Chúng đang quét qua, quét lại trên cái nền đất đầy những đóa hoa héo queo, mỏng tang như xác mấy con bướm nhỏ xíu mới nở một, hai ngày.
Cho dù không thấy mặt nhưng linh tính cho Thụ biết, rằng đó chính là Nhu. Chàng thét lên một tiếng rất to rồi ngồi phắt dậy, mồ hôi rịn khắp người.
Thoạt đầu là nỗi hoảng kinh, tiếp theo đó là niềm thương cảm và lo sợ làm Thụ điếng hồn. Chàng chợt nhận ra rằng tình trạng bi đát mà Nhu đang gánh chịu, có thể thúc đẩy cô phải chọn cái chết để kết thúc mọi việc. Dù không phải là người trực tiếp gây ra hậu quả, Thụ vẫn cảm thấy mình có tội vì cho rằng, nguyên nhân sâu xa chính là mối tình cuồng nhiệt mà Nhu dành cho chàng.
Thụ ước chi mình đừng đi vội, có mặt ở nhà rồi cưới Nhu để tránh nỗi nhục mà gia đình nàng sắp gánh chịu. Ở hoàn cảnh của chàng điều đó chẳng thể nào thực hiện. Những người chấp nhận bỏ xứ, đều biết rằng họ phải đánh cuộc với sự rủi may bằng cả sinh mạng của mình. Ra đi là phải chấp nhận nguy hiểm đến vậy mà quay về còn gay go gấp trăm ngàn lần.
"Biết nhờ ai thay mình để cứu Nhu bây giờ?" Thụ căng đầu suy nghĩ.
Thoạt đầu chàng nghĩ ngay đến Căn, anh ruột của mình, thế nhưng con tim chàng lập tức phản đối, bởi điều đó sẽ bẻ gảy lìa cây cầu giữa Thụ và Nhu vĩnh viễn.
Thụ bỗng buột miệng, thốt ra một cái tên:
-Nghệ!
Trong khi ý thức bế tắc thì tiềm thức của Thụ đang hoạt động ráo riết. Nó lập tức đưa ra một giải pháp, một người có thể thay chàng giải quyết êm xuôi mọi việc.
Thụ biết chắc rằng Nghệ, người bạn học cùng trường, khác xóm, tính tình hiền rụi... Người đã một lần liều mình cứu chàng ra khỏi tay hà bá, sẽ giúp chàng thêm một lần nữa.
Thụ lật đật lấy giấy bút, hăm hở viết liền một lá thơ cho Nghệ rồi gửi đi ngay sáng đó.

Cả xóm cầu Ván đều ngỡ ngàng khi được chú thím Chín mời dự đám cưới của cô con gái cưng.
Ai mà không biết thím Chín là người nệ cổ, coi trọng nghi thức, khó tánh số một. Thím hay bắt chặt bắt lỏng tất tần tật từ cử chỉ, tướng đứng, tướng đi cho tới lời ăn tiếng nói của những người lân cận.
Mấy người láng giềng, bà con bằng tuổi, cho đến cái lớp trẻ ăn chưa no, lo chưa tới, kể cả mấy đứa con nít, không hiểu sao đều e sợ thím.
Thím đã nhiều lần tuyên bố là sẽ làm một cái đám cưới hết sức tươm tất cho con gái. Sẽ nấu như thế nầy, đãi như thế kia... để bà con trông vào đó mà học hỏi.
Cho dù hai vợ chồng chú thím Chín có luôn miệng giải thích là "cái tuổi của hai đứa nó kỵ dữ lắm, bắt buộc phải làm đúng ngày đó, tháng đó mới tránh được", nhưng chẳng thuyết phục được mọi người. Ai ai cũng nghi ngờ mà không dám nói ra. Họ sợ làm mích lòng thím rồi sau nầy khó mở miệng nhờ cậy, bởi nhà nào cũng có đôi ba lễ giỗ một năm, cả chục cái lễ cưới, lễ hỏi một đời.
Cái mơ ước thực hiện một lễ cưới hoành tráng cho con gái của thím Chín đành phải bãi bỏ. Thím tự an ủi rằng để bù lại ông trời đã cho mình một thằng rễ hiền khô, tốt và đẹp trai nhứt làng.
Thím mừng là Nghệ mồ côi cả cha lẫn mẹ nên chẳng bị hạch họe lôi thôi. Nghệ ở với ông bà ngoại lúc mới lên bảy. Mấy tháng trước bà cả Mỹ, người thân duy nhất còn lại của Nghệ đã qua đời. Cho dù hết sức thương nhớ bà ngoại của mình, chàng cũng lật đật xã tang để làm đám cưới. Điều nầy ít ai dám vì sợ bị chê là bất hiếu.
Chẳng những bỏ qua cái lễ hỏi, thím Chín còn hạn chế số khách mời trong lễ cưới đến mức tối đa. Thím chỉ mời những người hiền như bột, cho dù trước đây ít lui tới chuyện trò. Mấy người miệng mồm có nanh có nọc, tuy ngày thường qua lại thân thiết, thím cũng thẳng tay gạt ra khỏi danh sách. Để bù vào cái chỗ kém đông vui, thím tăng gấp đôi chất lượng của các món ăn.
Thím đặt toàn tâm, toàn trí, toàn lực vô việc nấu nướng nên gặt hái thành công vượt bực, hơn cả sự mong đợi của chính mình. Đặc biệt thím thẳng tay gạt bỏ món thịt kho tàu, cái món mà từ trước đến giờ vẫn được xem như cái thước đo mức độ khéo tay của các vị đầu bếp, nên bất cứ cái đám hỏi, đám cưới nào cũng có.
Thím còn đưa vào những món chưa được phổ biến như gà nấu bia, cá rút xương, tôm nấu cà ri... Dù lạ miệng nhưng ngon một cách đặc biệt, đến độ mấy năm sau nầy, buổi tiệc ấy vẫn còn được những người có may mắn thưởng thức luôn miệng nhắc nhở, khiến những người không được dự phải bực mình.
Điều mà cả chú lẫn thím vui nhất, là con gái của họ chẳng phải làm dâu cho ai hết! Tha hồ tung hoành một mình một cõi, tuy rằng của cải nhà đó chỉ còn lại cái vỏ và chàng rễ thì tính tình có phần lù đù, kém tháo vát, làm thơ giỏi hơn làm ruộng.
Chưa đến tám tháng sau ngày cưới Nhu đã đập bầu sinh hạ một bé trai. Bà con lại xầm xì. Họ xòe cả hai bàn tay ra để đếm từng đốt, tính ngày tính tháng rồi nói nầy, nói nọ.
Thím Chín tỉnh bơ. Thím làm đầy tháng cho cháu ngoại hết sức lớn. Lần nầy thím mời khắp xóm không sót một người. Giữa buổi tiệc thím nói oang oang:
-Cái thằng nhỏ nầy sanh thiếu tháng. Lọt lòng có hai ký mấy, mà nhờ má nó tốt sữa nên mới lớn như thổi bong bóng, y như trái bầu, trái bí!
Mọi người biết ý nên thi nhau trầm trồ, khen nào là đứa bé giống cha như tạc, mặt mày sáng láng sau nầy chắc làm giáo sư, bác sĩ...
Thím Chín cười toe nói:
-Tui có nhờ ông sư chùa lá coi tử vi cho nó rồi. Ổng nói nó có cái sao gì đó chiếu mạng nên có tay phục dược.
Cô Bảy hỏi nhỏ mợ Hai Thọ:
-Phục dược là sao hả chị?
Mợ Hai trả lời bằng một giọng hết sức hãnh diện, y như thằng bé là cháu nội của mình:
-Là làm nghề thuốc, nghề bác sĩ chữa bịnh đó!
Cô Bảy chắc lưỡi:
-Thời buổi bây giờ hổng hiểu sao mà càng ngày càng có nhiều thứ bịnh lạ. Mấy người bán thuốc, chích thuốc đếm tiền thiếu điều bể tay luôn!
Mợ Hai Thọ cười:
-Bởi vậy mấy đứa nhỏ trong xóm mình, có đứa mới học tới lớp một thôi! Vậy mà có ai hỏi lớn lên thích làm nghề gì, tụi nó đều trả lời là làm bác sĩ.
Cái đám đầy tháng đó giúp thím Chín bội thu. Trong xóm nầy ai mà chẳng mang ơn của thím. Những món quà tặng đều là dây chuyền, lắc tay, cà rá làm bằng vàng mười tám. Chúng được dát mỏng te, cầm lên nghe nhẹ hễu, nhẹ hều. Chưa đeo đã muốn méo!
Mợ Hai Thọ chơi đẹp nhứt, tặng một chiếc lắc tay nặng đúng một chỉ. Thím Chín cầm chiếc lắc tay lên ngắm nghía, vừa vui lại vừa buồn.
Thím nói lầm bầm trong miệng:
-Con mẹ nầy tinh ý lắm! Chắc bả đã đoán ra...


Thím Chín lấy chiếc khăn tay đã cũ, có thêu mấy cái bông mai và rô đê bốn cạnh của con gái làm cho mình từ lâu, để bọc tất cả các món trang kim ấy lại.
Thím đem vô buồng Nhu, đưa cho cô rồi bảo:
-Mấy món bà con cho thằng nhỏ nè! Con giữ để có bồng em đi đám thì lấy ra đeo cho nó.
Nhu xòe rộng bàn tay định nhận thì bị Nghệ chặn lại:
-Những thứ nầy là của má. Má tặng cho con cháu họ nên bây giờ họ tặng lại. Má giữ thì đúng hơn, để mai mốt có ai mời thôi nôi, đầy tháng thì lấy ra cho, khỏi mắc công đi mua.
Nhu vội rụt tay lại, nói:
-Ảnh nói đúng đó má. Má giữ hết đi rồi đi trả lại từ từ giùm tụi con.
Thím Chín thầm khen thằng con rể biết điều, cư xử rất hợp tình hợp lý. Ba cái thứ nầy đâu có đáng giá gì so với công sức, tiền của, thím bỏ ra lo cho con gái và cháu ngoại, thế nhưng vẫn làm thím vui lòng, hả dạ .
Thím đem chuyện đó kể cho chồng. Chú Chín nói một cách cảm động:
-Trong cái rủi có cái may. Nhờ thằng Thụ vượt biên mà tui với bà mới có được một thằng rể tốt. Tui thấy nó săn sóc con Nhu với thương thằng nhỏ mà mừng tới rớt nước mắt. Vợ con người ta mà mình nhảy vô chịu cực, chịu khổ, còn lo lắng hết lòng như vậy thì dưới gầm trời nầy ít có ai được như nó.
Thím Chín trợn mắt nhìn chồng, định mở miệng phản đối thì bị chú chặn lại:
-Bộ bà thấy tui làm thinh rồi tưởng tui hổng biết cái gì hết hay sao ? Bà coi cái tánh của nó có phải là đứa dám làm chuyện động trời với con gái người ta hông? Còn nữa! Thằng nhỏ cháu ngoại của mình đó! Nó có hai lỗ tai giảo y chang thằng cha Hai Thọ, còn con mắt một mí là của bà nội nó chớ ai?
Thím Chín làm thinh không dám phản đối.
Chú Chín nói tiếp:
-Hôm đầy tháng thấy bả nhìn thằng cháu của mình mà hai con mắt rưng rưng, tui thấy tội nghiệp quá! Cũng may là thằng Thụ nó đi trót lọt và an toàn tính mạng, chớ nếu không bả chưa chắc chịu để mình nuôi thằng nhỏ đâu. Dám quậy thúi rùm lên. Lúc đó tui, bà với con Nhu đi ra đường chắc phải lấy mo cau che mặt.
Thím Chín khoe để an ủi chồng:
-Bả cho thằng nhỏ tấm lắc vàng y đúng một chỉ đó ông!
Chú Chín nạt:
-Vậy rồi bà mừng lắm hả? Hổng có thằng Nghệ ra tay nghĩa hiệp, chưa chắc con gái bà còn sống tới giờ nầy. Ở đó mà hớn ha, hớn hở.
Thím Chín ngồi ngậm nghe mà phục chồng sát đất, thím nghĩ thầm:
-Cha nội nầy biết ráo mà cái mặt tỉnh bơ, im ru không nói tiếng nào, thiệt là "chì" hết chỗ nói. Chuyện thằng Nghệ đứng ra đổ vỏ ốc dám do ổng sắp đặt hổng chừng!
Thím tự mắc cỡ là bấy lâu nay đã xem thường ông. Để tưởng thưởng chồng, thím nói:
-Có cây chuối hột non bị con heo ủi gãy. Tui tính đi chợ mua một con lươn trọng trọng với miếng thịt ba rọi, moi gáo mắm sặc lên kho cho ông một nồi.
Chú Chín can:
-Thôi đừng có kho mắm bây giờ, coi chừng con Nhu nghe mùi, thèm không chịu nổi, ăn vụn rồi chột bụng đó bà. Để từ từ cho nó qua cái giai đoạn kiêng cữ nầy cái đã.
Thím Chín lại khâm phục chồng thêm một chút. Thím hãnh diện ngầm trong lòng bởi nhà thím có đến hai người đờn ông rất hiểu biết, thấy xa trông rộng.
Thím xách cái mác ra vườn, chặt cây chuối non bị gãy rồi xắt mỏng trộn ghém. Nồi xà bần hôm đầy tháng còn một ít, thím lấy một cây cải chua ngâm trong khạp ra, cho vào nấu chung để ăn cho đỡ ngán. Nhờ món chuối cây trộn rau thơm, rau răm, húng rủi chấm vào khiến nó trở nên hấp dẫn. Thím không cần nài nỉ cũng được chồng và con rể ủng hộ hết mình, vét sạch cả nước lẫn cái!
Mâm cơm nhà má vợ luôn tạo cho Nghệ một sự ngạc nhiên thích thú. Cho dù chỉ với một dĩa rau lang luộc chấm chén tương kho xả cũng khiến chàng ăn đến no cành hông! Nghệ thích nhứt là được ăn ké cơm bà đẻ của vợ. Mấy con cá rô kho tương, cá trê kho gừng, cá trạch kho nghệ, cá sặc kho xả, cá lóc kho tiêu...trong cái trách đất bóng lưỡng, bị ám khói đến đen thui từ ngoài lẫn trong ấy luôn kích thích, rù quến cái dạ dày nông nổi của chàng.
Nhu biết vậy nên dù ngon miệng cách mấy cũng nhín lại một ít cho chồng. Nhìn Nghệ cạo hết cơm cháy, vét sạch mấy hột cơm dính hông nồi, cho vào mẻ cá kho mà trộn cho đều để tận dụng chút nước sền sệt bám sát đáy, cầm muỗng xúc ăn một cách ngon lành, khiến Nhu thấy lòng ngập tràn hạnh phúc!
Thím Chín thì khỏi nói. Có người làm bếp nào không khoái mê tơi khi thấy mấy món mình nấu được vét sạch bách ? Đối với thím, đó chính là những lời khen ngợi chân thành nhất.
Được ngưỡng mộ quá nhiệt tình nên thím "sáng tác" không biết mệt. Tối nào cũng vậy, vừa đặt lưng xuống giường, trước khi ngủ là thím nghĩ ngay đến việc ngày mai phải nấu thứ gì.
Suốt một tháng ăn cơm nhà vợ, Nghệ đâm ra ghiền mấy món mà trước kia chàng không thèm đụng đũa và phục lăn tài chế biến thức ăn của bà má vợ.
Ngày xưa khi chuông reng kết thúc buổi dạy, nghĩ đến việc phải vo gạo nấu cơm rồi thả luôn một hoặc hai cái trứng gà, trứng vịt vô luộc để làm cái món trứng giầm nước mắm - món ăn truyền thống của những anh chàng độc thân- là chàng ngao ngán.
Trên đường từ trường về nhà, Nghệ thường đi ngang qua mấy mâm cơm được đặt trên những cái chõng trước hiên nhà, gần sát bên đường. Nhìn cảnh gia đình thiên hạ quây quần quanh mâm cơm. Ngửi mấy mùi thức ăn: cá kho, canh chua, mắm chưng... thơm lừng, luôn khiến Nghệ chạnh lòng. Đôi khi cái mối xúc động đó phóng ra một làn sóng mạnh đến nổi gia chủ cảm nhận được. Họ bèn dừng đũa nhao nhao mời "Thầy giáo ghé ăn ba hột cơm với tụi tui lấy thảo". Nghệ phải kềm chế lắm để giữ cho cái đầu không gật xuống, nuốt nước miếng mà trả lời một cách điềm nhiên:
-Cám ơn, tui...
Bây giờ thì khác hẳn. Chuông chưa dứt, chàng đã thót lên xe, đạp phăng phăng, chẳng để ý tới mấy cái nón được lột nhanh, chẳng đáp lại những cái đầu gật vội của học trò như trước.
Thím Chín biết vậy nên chẳng khi nào để con rể phải chờ lâu. Cái mâm nhôm đã được thím lau thật sạch và bày đủ chén, đũa, muỗng lên đó. Dĩa rau, dưa được đặt cạnh chén nước mắm. Tô nước cơm được cái vung đất úp lên để giữ nóng. Tất cả đều trong trạng thái sẵn sàng ứng chiến.
Nghe tiếng xe thắng cái két là thím Chín liền mở nắp vung của cái nồi còn ngồi trên lò, múc một tô canh đặt vào giữa mâm. Lấy cái sạn xúc con cá chiên vàng rượm, đang nằm cong đầu, cong đuôi trong cái chảo sắt, để lên cái dĩa kiểu rồi rưới lên mấy muỗng nước mắm chanh, đường, tỏi, ớt để cạnh một bên.
Chú Chín và Nghệ không chờ thím gọi. Họ đã xếp bằng hẳn hoi, ngồi đối diện nhau trên tấm giạt tre dưới gốc cây xoài Thanh Ca rợp bóng.
Chú Chín cầm trên tay hai trái ớt một xanh, một đỏ, đã được rửa -nếu siêng- hoặc chùi vào vạt áo- điều nầy thường hơn- mới ngắt từ cây ớt hiểm gần đó!
Thím Chín vừa đặt mâm xuống là hai người bọn họ bưng liền một chén cơm, gát đôi đũa ngang miệng chén rồi đưa ngang trán khấn mời ông bà khuất mặt.
Chú Chín nghe mùi thức ăn từ bếp bay ra tự nãy giờ nên bụng đã cồn cào dữ dội. Có khi chú cầm lòng không đậu, lùa một đũa rồi mới nghe chàng rể mời ăn cơm nên mắc cỡ quá mạng!


Không chỉ riêng mình hai vợ chồng chú Chín đinh ninh thằng nhỏ là con Thụ, máu mủ của giòng họ nhà Hai Thọ. Hầu như tất cả bà con lối xóm đều âm thầm công nhận điều ấy. Chỉ riêng một người, mà không, phải hai mới đúng, tin chắc một trăm phần trăm là trật.
Mỗi lần nghe ba má nói xa, nói gần về chuyện đó Nhu đều cảm nhận một nỗi đắng cay bào bọt trong lòng. Nhu cảm thấy mình có lỗi với hết thảy bà con lối xóm, nhứt là gia đình Hai Thọ và đặc biệt là Thụ. Cái tội, cái lỗi ấy dần biến thành con dao nhọn mà Nhu tự hứa một ngày nào đó sẽ cắm ngập tim kẻ thủ ác.
Đã đến lúc phải làm khai sanh cho thằng nhỏ.
Một hôm thím Chín hỏi chồng:
-Tui tính đặt tên cho nó là Lộc, "Lê văn Lộc". Nghe cũng êm tai hén ông?
Chú Chín phản đối ngay lập tức.
Chú hỏi lại vợ:
-Bà nghĩ sao mà đặt cái tên đó cho thằng nhỏ?
Thím Chín làm bộ mờ ơ hỏi lại :
-Bộ có cái gì trục trặc sao ông?
Chú Chín chắc lưỡi nhìn vợ rồi nói:
-Bộ bà tưởng cả cái xóm nầy đều dốt hết hay sao? "Thụ" là cây, "Lộc" là đọt non. Bà đặt như vậy chẳng khác nào vạch áo cho thiên hạ xem lưng.
Thấy thím Chín xụ mặt, chú bèn nói tiếp:
-Bộ bà tính cho thằng cháu của mình mai mốt hưởng phần hương hỏa của nhà Hai Thọ hả? Hổng có dễ đâu bà ơi. Con cháu chánh thức mà còn xâu xé nhau hà rầm, thì sá gì cái đứa con rơi, con rụng.
Ngừng một chút chú nói tiếp:
-Huống chi con, cháu nhà giàu trong xóm mình, có mấy đứa nên thân, nên nết ? Đâu bà đếm thử giùm tui coi được mấy đứa hơn người. Tụi nó vừa sanh ra, chưa biết leo, biết trèo là đã ngồi mút trên cao chót vót rồi. Thế nên đâu cần tập tành, cứ ở yên một chỗ mà hưởng. Vậy mà còn không thèm ôm cây cho chặt. Có đứa tuột từ từ, có đứa buông tay rơi cái ầm lún đất. Con nhà nghèo vậy mà còn chịu khó học hỏi, biết lo làm ăn, dốc lòng báo hiếu cho cha mẹ. Bộ bà chưa nghe câu "nhà nghèo, con thảo" hay sao?
Thím Chín bị chồng nói trúng tim đen, cứng họng không trả lời nổi một tiếng.
Hồi lâu thím mới hỏi:
-Vậy chớ ông tính đặt nó tên gì?
Chú Chín đáp:
-Tui tính đặt cái tên trong khai sanh cho nó là SĨ, "Lê văn Sĩ". Cha "Nghệ", con "Sĩ", dễ nghe, dễ nhớ lắm! Mà cái tánh nghệ sĩ cũng hay hay.
Thím Chín hỏi thêm:
-Còn ở nhà thì kêu là thằng gì?
Chú Chín dự trù sẵn trong đầu nên đáp gọn hơ:
-Gừng.
Thím Chín nhảy nhổm:
-Thiếu gì tên sao đi đặt...
Chú Chín cướp lời vợ:
-Cái tên đó nó vần với cái tên của thằng rể mình nhứt!
Thím Chín lắc đầu nguầy nguậy:
-Tui hổng ưa cái tên nào hết ráo. Cái tên Lê văn Sĩ nghe giống mấy cái ông làm nghề bán chữ. Như cái thằng con của ông thầy Bảy chích đó. Làm biếng thấy mà ớn, không lo làm ăn, mở miệng ra toàn nói ba cái chuyện trên trời dưới đất gì không. Bởi vậy hai lần lấy vợ mà hổng ai chịu ở cho lâu.
Chú Chín cự liền:
-Người ta viết văn cho ai muốn coi thì coi, hổng coi hổng ép, chớ có bắt ai mua rồi móc túi lấy tiền đâu mà bà kêu là bán chữ. Mấy cái đứa ham tiền, nhẹ dạ nên mới không biết quý, biết trọng cái tài...
Giờ thì đến lượt thím Chín cự lại:
-Cái tài mà không làm ra tiền thì cũng coi như đồ bỏ! Tui thà cho thằng cháu mình đi cày thuê, cuốc mướn chớ nhứt quyết không cho nó làm văn nầy, văn nọ gì hết!
Chú Chín bực bội quát:
-Bộ bà tưởng đặt tên gì là làm thứ đó sao? Nói như vậy thì trong nước mình có không biết bao nhiêu ông vua mà nói. Một mình cái xóm nầy thôi mà cả chục đứa tên "Hoàng". Chỉ một mình nhà cô Sáu Lữ mà có tới bảy, tám ông hoàng, bà hoàng. Nào là "Minh Hoàng, Thanh Hoàng, Chơn Hoàng, Trung hoàng..." nghe mà bắt kinh hoàng luôn!
Thím Chín bị phản bác dữ dội quá nên xụi lơ. Cuối cùng cũng ráng vớt vát :
-Thôi thì cái tên khai sanh ông đặt, còn cái tên ở nhà tui đặt, chớ tui không ưa cái tên "Gừng" chút nào. Nghe là cay xé họng, muốn múc một gáo nước uống vô liền.
Chú Chín nghe vợ nói thì cười khà khà rồi hỏi:
-Vậy bà tính kêu nó là thằng gì?
Thím nhẹ giọng, nói như năn nỉ :
-Hổng hiểu tại làm sao mà tui ưa cái tên Lộc quá ông. Tui thấy cái tên nầy nó có hậu lắm, cũng vần với tên ba tui, ổng tên Lợi. Mình đặt tên đó hết sức hay. Có ai nói gì thì mình cắt nghĩa cho họ biết. Với lại như vậy cho nó công bằng: Một cái tên hợp với ông cha có công sanh, một cái tên hợp với ông cha có công dưỡng. Sanh dưỡng đạo đồng mà ông.
Chú Chín hứ một cái rồi nói :
-Cái câu "sanh dưỡng đạo đồng" đó chỉ đúng trong trường hợp người cha, người mẹ có ý định sanh con, ráng hết hơi, hết sức mà nuôi không nổi nên phải nhờ người khác cán đáng. Đằng nầy, thằng Thụ nó đâu muốn có con. Nó y như con gà trống vậy đó! Đạp mái một cái rồi bỏ đi mất biệt, có khi sau nầy còn quay lại giành ăn với con, với cháu.
Thím Chín thấy chú cứ khăng khăng, bèn nói lẫy:
-Thôi, tui ngu, tui dốt, tui tham lam...Tui giao nó cho ông luôn đó! Thằng nhỏ là cháu của một mình ông. Ông muốn đặt tên gì thì đặt.
Nói rồi thím ngoe nguẩy bỏ đi, chẳng thèm nghe chú giải thích thêm là đặt cái tên xấu như vậy có nhiều cái lợi lớn lắm ! Một là để ông bà khuất mặt khỏi nhớ, khỏi kêu, khỏi quở. Hai là không trùng tên ai, sau nầy có mắng chửi nó cũng không sợ mích lòng bà con lối xóm.
Thực ra chú muốn khẳng định với mọi người rằng thằng cháu ngoại "Lê văn Sĩ"của mình, chính xác là con trai của "Lê văn Nghệ".
Nhu nằm trong buồng, lắng tai nghe ba má cãi nhau mà vừa buồn, vừa mắc cười, vừa ngạc nhiên. Chuyện đặt tên đáng lẽ hai người phải nhường cho ba, má đứa nhỏ mới đúng, đằng này...
Nhu định bụng sẽ biện hộ rằng tại ông bà quá ít con, mê mấy cái tên đó từ lâu mà không đặt được, đến giờ mới có cơ hội, nếu Nghệ phàn nàn.
Còn cái điều khiến cô ngạc nhiên quá cỡ, đó là sự thay ngôi đổi bậc của ba, má mình. Ngày trước mỗi lời nói của bà là một mệnh lệnh, ông nghe răm rắp chẳng hề cãi lại tiếng nào. Năm khi mười họa mới dám làm theo ý của mình và nơm nớp phập phồng, cầu khấn sao cho kết quả tốt đẹp, nếu không sẽ bị bà cằn nhằn nhức xương.
Bây giờ thì khác hẳn lại, muốn làm điều gì bà phải hỏi ý kiến của ông trước. Thậm chí cái lãnh vực bếp núc, nơi ngày xưa bà mặc sức tung hoành, ông chớ dám léo hánh tới, nay cũng được bà trải thảm mời ông chiếu cố.
Sáng sáng, trước khi đi chợ bà hay hỏi:
-Bữa nay ông muốn ăn món gì?
Ông luôn luôn trả lời bằng một câu cà rỡn:
-Tùy lòng hảo tâm! Bà cho gì, tui ăn nấy.
Không còn là một người mẹ nghiêm khắc, hay la rầy, luôn nói với con bằng cái giọng dùi đục chấm nước mắm nữa. Thím Chín đã lột bỏ cái áo giáp sắt bên ngoài để lộ ra bản chất của một người từ mẫu. Cái tiếng "con" hiếm hoi, giờ đã được bà dùng thường xuyên.
Có lẽ đứng trước mối nguy cơ mất con, nỗi lo âu tột cùng ấy đã làm tâm hồn thím Chín lột xác như sâu hóa bướm, đồng thời lòng tự tôn cũng rơi vỡ, nát vụn...chẳng còn kiên cố như trước.
Ngày xưa thím ít khi khen ngợi bà con trong xóm, ít chịu thừa nhận ai hơn mình. Giờ thì hiếm khi nghe thấy bà chê ai, điều nầy khiến không khí quanh thím không còn nặng nề như trước.
Không biết thím Chín có "bỏ nhỏ" vô tai chàng rể hay không mà ngay chiều hôm đó, bà dọn một mâm cơm với món cá rô mề nướng giầm tương ta, vốn là món ruột của ông, cùng một rỗ lá cóc non xèo bóng ngời như lụa, lẫn mấy trái cóc nhỏ xíu bằng đầu ngón tay chưa có hột.
Vừa vào bữa là Nghệ gắp cái lưng mập ù của con cá rô với lớp da nức nẻ, giòn rụm, tươm mỡ... Điểm mấy miếng hành lá xanh xanh, cùng mấy hột tương ta, nâu nâu, trắng trắng vào chén ông rồi mời:
-Ba ăn cái miếng nầy nè, còn nóng nên giòn lắm!
Miếng cá ngon, được con rể gắp cho còn ngon hơn. Chú Chín ăn kèm với mấy trái cóc non xèo, nhai rôm rốp, ngọt lịm, nuốt tới đâu nghe mát tới đó.
Thấy ba vợ đang trên đỉnh cao khoái cảm, Nghệ thưa :
-Con tính đặt cho cháu trong khai sanh tên Sĩ còn ở nhà tên Nhân, có được không ba?
Chú Chín biết ngay bữa cơm với cái món tuyệt vời nầy của vợ không phải khi không mà có. Chú gật đầu liền. Trong bụng chú nghĩ "tên gì cũng được miễn không dính dáng đến gia đình Hai Thọ, khỏi nhắc nhở đến cái mối nhục của nhà mình là được".
Sáng hôm sau thím Chín nựng cháu, nói to lên cho chồng nghe để khẳng định chiến công của mình:
-Nhân ơi ! Nhân à ! Nhân ăn cứt gà, Nhân ị hổng ra...
Bà Năm Già bưng thúng bánh tét đi ngang cũng ghé vô nựng ké. Bà nói:
-Nhưn ơi! Nhưn à! Bánh tét bà Năm Già nhưn nào cũng ngon!
Bà Năm vốn nhẹ bóng vía, hể ai được bà mở hàng là bán đắc như tôm tươi. Vì vậy nên từ đó về sau bà con cứ ráp nhau gọi nó là thằng "Nhưn".
Thím Chín ban đầu còn chịu khó chỉnh sửa từng người, bắt họ kêu cho đúng, riết rồi cũng đuối hơi, nản chí không thèm bắt bẻ nữa.
Đó là đối với người ngoài chớ còn ở trong nhà, nhứt là với chú Chín, ổng mà chứng lên gọi trật tên của nó là thím nổi tam bành, lục tặc lên liền.

Chỉ có một người khiến thím Chín ưng ý nhứt, đó là dì Sáu Dọ, người ở sát một bên nhà thím, bởi lúc nào cũng gọi thằng nhỏ đúng cái tên "Nhân" một cách "trân trọng"!
Dì Sáu là một bụi lục bình bơ vơ, trôi giạt từ Cam pu Chia về đây từ cái năm Long Nol đảo chánh Si Hà Núc. Dì không có ai là bà con ruột thịt ở xóm nầy. Dì không dắt Phục, thằng con trai duy nhất còn sống trong cái gia đình sáu người gồm hai vợ chồng và bốn đứa con của mình về nơi chôn nhau cắt rún, mà lập nghiệp ở đây luôn.

Năm đó, cư dân ở đầu nguồn sông Cửu Long thường bắt gặp những thi thể, có khi thiếu mất đầu trôi trên sông. Bà con vớt lên rồi bó chiếu đem chôn. Đồng bào cả nước ai ai cũng xót xa khi nghe bà con mình ở nhờ trên đất bạn bị họ thảm sát hết sức dã man.
Khi cái tin chiếc tàu chở Việt kiều hồi hương từ Nam Vang sắp ghé vào xóm Cầu Ván, bà con trong các vùng lân cận đều xúm lại nhận họ hàng.
Đa số người về đều có thân nhân chờ sẵn, họ ôm lấy nhau rồi khóc ròng ròng. Thím Chín chỉ đến xem chớ chẳng đón ai. Thím thấy hai mẹ con dì Sáu đứng bơ vơ thì động lòng trắc ẩn, bèn mời về nhà nghỉ tạm rồi cho ở nhờ cái nhà chứa củi đang bỏ không của họ.
Sáng hôm ấy dì dắt con đi làm cỏ mướn. Chiều tối từ đồng về, dì hết sức ngạc nhiên khi thấy cái nhà kho trống lổng ấy đã được vá mấy chỗ thủng trên mái. Cả ba bức vách cũng được vừng kín. Bà con còn cột một tấm liếp bằng lá chầm để chống lên làm cửa. Họ làm thêm một bức vách, ngăn cái nhà ra làm đôi để hai mẹ con có chỗ nằm kín đáo.
Đâu chỉ có bấy nhiêu! Ở một góc nhà, ai đó đã kê cho dì ba cục gạch để làm cái hỏa lò. Trên lò có sẵn hai cái nồi đã cũ nhưng chưa bị sứt quai, một lớn, một nhỏ chồng lên nhau. Mấy dụng cụ làm bếp như dao, thớt mỗi thứ một món. Lại còn có thêm cái rỗ thưa đựng bốn cái chén, khác màu, khác cỡ: một bó đũa tre, trong đó có cả một đôi đũa bếp; Một cái tô; Hai cái dĩa: cái nhỏ còn nguyên, cái lớn bị mẻ chút xíu ở ngoài vành.
Thím Chín thấy dì về liền xách qua một túi gạo với một hủ mắm và một chai nước mắm.
Thoạt đầu dì Sáu chỉ định ở tạm, kiếm chút đỉnh tiền dằn túi rồi mới về gặp họ hàng để không ai lo là mẹ con dì sẽ làm gánh nặng cho họ.
Thế nhưng tấm lòng của bà con láng giềng làm dì Sáu quá ư cảm kích! Không thể dùng lời để diễn tả, dì bèn dùng hết sức bình sinh, cắm mạnh cây dùi xuống miếng đất đến lút cán, khỏi có rút lên nổi. Bụi lục bình lạc lõng ấy đã dừng lại ở cái xóm Cầu Ván nầy từ đó!
Dì Sáu quyết báo đáp lại công ơn của bà con bằng mọi cách. Ở phụ nữ, nhu cầu tâm sự rất lớn, dì đã trở thành người lắng nghe và chia sẻ nỗi niềm của hết thảy mọi người. Cái công việc được coi là hết sức nhẹ nhàng, nhỏ nhoi ấy, xem ra đem lại một nguồn lợi ích rất lớn. Đó là giúp bà con khuây khỏa, trút bỏ những nỗi phiền muộn để rộng lòng chào đón niềm vui.
Ở nông thôn các phương tiện giải trí rất nghèo nàn, nhứt là đối với những phụ nữ trung niên. Có lẽ cái thú duy nhứt được tha hồ hưởng mà không tốn tiền của họ là vào những buổi trưa thưa việc, ngồi xỏa tóc bắt chí cho nhau rồi con cà, con kê hết chuyện nầy sang chuyện khác.
Dì Sáu y như một chủ nhà băng hết sức uy tín, gìn giữ chắc lọi những bí mật mà bà con gửi gắm. Trong xóm hể ai có chuyện xích mít hoặc lo lắng, nghi ngờ, giận hờn ai, muốn tìm người để nói cho sướng miệng mà không sợ để lại hậu quả là tìm đến dì.
Nhờ lòng khoan dung, biết lắng cách lắng nghe và an ủi nên dì đã hàn gắn được những vết rạn nứt giữa mọi người và được hầu hết bà con quý mến!
Có một sự kiện mà đến nay vẫn được bà con nhắc nhở, cho thấy cái tính hiền lành, khiêm nhường, nhẫn nhịn, ít dám làm phiền ai của dì sáu Dọ:
Một lần dì đi viếng ngôi chùa lá bên sông. Lúc đến bến đò thì ông Tư (người chèo đò khi ấy, bây giờ đã nghỉ vì già quá chèo hết nổi) vừa thọt cây sào xuống nước để đẩy chiếc đò ra, thấy dì đến liền ghìm lại chờ. Bữa đó nước ròng dì phải giẫm qua lớp bùn nhão nhoẹt sát bờ sông để lên đò. Qua đến bờ bên kia, mấy người khách khác đã đi hết, dì vẫn còn ngồi lại.
Ông Tư ngạc nhiên hỏi:
-Sao cô Sáu không lên bờ?
Dì chỉ xuống chưn mà nói:
-Đôi dép bị mắc kẹt trong bùn nên phải theo đò quay về lấy lại.
Ông Tư bèn rầy:
-Sao hồi nãy hỗng chịu moi lên?
Dì đáp:
-Sợ bà con trên đò chờ lâu, để quay lại lấy sau cũng được.
Cái tính cam chịu thiệt thòi ấy bị bà con cho rằng khờ khạo. Chỉ một mình thím Chín là nhận ra, dì là báu vật mà trời ban tặng cho những người thích trò chuyện như mình.
Từ hai bàn tay trắng, nhờ hết sức siêng năng và cần kiệm nên chỉ mấy năm sau, với sự giúp đỡ của thím Chín, mẹ con dì đã mua được hai công đất.
Xứ nầy đa số bà con theo đạo Phật giáo Hòa Hảo, gần như ai cũng ăn chay tối thiểu là bốn ngày: Mười bốn, mười lăm, hăm chín, ba mươi trong tháng âm lịch. Có người còn ăn chay trường nên dì quyết chí theo đuổi nghề trồng nấm rơm. Thu nhập khá lên rồi dần dần dì trả hết nợ cho thím Chín.
Từ đó dì trở thành người bạn thân nhứt của thím, tối lửa tắt đèn họ đều có nhau. Hể nhà thím Chín cần người tiếp tay là hai mẹ con dì cho dù có công việc có bề bộn đến cách mấy đi nữa, cũng gát qua một bên để luôn luôn có mặt, góp sức một cách tận tình.
Tuy tính nết họ hoàn toàn tương phản, thím Chín quá sôi nổi, dì Sáu rất thâm trầm. Năng lực của họ cũng khác biệt, kẻ mạnh miệng, người khỏe tai. Thế nhưng dì lại là người duy nhứt được thím tin tưởng mà trút sạch nỗi lòng.
Thím Chín may mắn có dì ở sát bên nách nên tận dụng một cách tối đa. Hể giận chồng, giận con là lập tức chạy qua kể cho dì Sáu nghe để hả hơi. Nhờ vậy mà tất cả những nỗi bực bội chẳng kịp thấm vào lòng, nó được trút hết ráo cho dì Sáu nên lúc nào thím cũng phây phây.
Thím Chín thích dì Sáu cho đến nổi, dù dì nghèo và biết Nhu ghét Phục, vẫn hứa và quyết định trong lòng là sẽ làm sui với dì cho bằng được.
Người ta thường cho rằng hai người phải giống tánh, giống nết mới có thể duy trì tình cảm lâu dài với nhau. Điều nầy chưa chắc đúng, bởi tính khí đối lập mới tạo ra sức hút. Thử hỏi nếu họ cùng có cái tật tía lia, tía lịa, ai cũng thao thao thì còn có ai chịu nghe, chịu hiểu ? Còn ngược lại thì ôi thôi! Cái không khí giữa họ lúc nào cũng im ru, phẳng lặng, âm u, rời rạc...thiếu chất kết dính ghê lắm!
Cho dù say đắm bản thân cách mấy đi nữa, chẳng có ai đủ can đảm ngắm mình trong gương suốt cả ngày nói gì đến cả tháng, cả năm.
Từ lúc gả Nhu, thím Chín đâm ra mắc cỡ với dì Sáu và Phục, dẫu họ chẳng hề mở miệng nhắc lại lời hứa hẹn. Thím cũng thưa qua lại với dì Sáu hơn, một phần lo nuôi đẻ và chăm cháu. Thế là dì Sáu phải qua nhà thím, cư xử như chẳng có gì xảy ra giữa hai người.
Dì Sáu rất tế nhị, chỉ nói những điều thím Chín ưa thích. Mấy câu chuyện của dì đều vô hại, cách rất xa cái vết thương của thím Chín.
Dì hay lắng nghe rồi tìm lời ngợi khen một cách hợp lý, cốt để thím Chín sớm lấy lại tự tin. Nhờ vậy mà mối quan hệ của họ cũng dần dần bình thường trở lại.
Lạ một điều là dì Sáu, vốn không ưa bộc lộ tình cảm, lại tỏ ra quyến luyến quá mức vị thành viên mới mẻ, bé nhỏ nhứt của gia đình thím Chín. Mỗi ngày khi đi đồng về dì đều chạy qua thăm thằng bé. Thỉnh thoảng dì lại mang qua đưa thím Chín một nắm rau dại, mấy thứ rau nầy lợi sữa lắm để thím luộc cho Nhu, hoặc mấy con cá, con tép xúc được trong mương.
Thím Chín thấy dì Sáu, cái người ít khi chịu tới nhà ai, hay qua nhà mình đều đều mỗi ngày - điều mà xưa nay rất hiếm - thì ngạc nhiên lắm! Thoạt đầu thím nghi ngờ, bực bội ...nhưng sau đó, thím thấy dì chẳng hề nói bóng, nói gió, chỉ hỏi thăm, nựng nịu thằng cháu ngoại của mình thì cho rằng dì mê có cháu. Thím bắt đầu thấy thương hại, rồi cảm thấy tự hào, luôn miệng khoe không ngớt về "cục vàng" của mình với dì.
Lúc sau nầy Phục đâm ra bê tha, nhậu nhẹt. Dì Sáu buồn vì khuyên hoài không được nên hay tâm sự với thím Chín. Thím biết rõ nguyên nhân nên vô cùng ái ngại.
Do mặc cảm có lỗi với mẹ con dì Sáu, thím Chín bắt đầu để ý mấy cô gái đến tuổi cập kê trong xóm. Thím tự cho là mình phải có bổn phận đền cho dì Sáu một nàng dâu, giỏi, ngoan, hiền và hiếu thuận nhứt vùng.

Thế là Tím, cô bạn thân nhất của Nhu rơi tỏm vào hai con mắt của thím Chín.
Tím là thợ may nổi tiếng khéo nhất xã, nhà ở xóm trên cách cây cầu ván tới ba cây số. Cô mở tiệm tại nhà, có học trò theo học nhiều lắm!
Cô là con gái thứ tư của một gia đình có sáu cô con gái mang những cái tên toàn màu với sắc: Vàng, đỏ, Tím, Cam, Lam và Lục.
Sáu cô con gái đều chưa có chồng, chắc tại họ mang những dãy màu của cầu vồng. Cầu vồng hiếm khi xuất hiện và thường chỉ đứng lẻ loi một mình trên bầu trời, cho nên dì hai Trắng, má của Tím hay cằn nhằn chồng:
-Tại ông đặt tên tụi nó giống như cái móng chuồng nên đứa nào cũng ở giá.
Tím hay đến thăm Nhu. Cô chịu khó ráp lại những miếng vải thừa để may những chiếc áo nhỏ xíu rất ngộ nghỉnh rồi mang tặng cho bé Nhân.
Tím lớn hơn Nhu một, nghĩa là hơn Phục hai tuổi nên thím Chín xuýt xoa nói với dì Sáu:
-Nhứt gái lớn hai ! Hai cái tuổi nầy hợp với nhau dữ lắm luôn! Vừa được hào của lại đặng hào con, mai mốt cho chị bồng cháu, hun cháu đã đời, khỏi thèm ké ai hết!
Dì Sáu cười:
-Trăm sự nhờ chị, cưới được dâu là tui "kiếng" cho bà mai cái đầu heo liền.
Thím Chín nói:
- Miếng nọng là đủ rồi, lấy nguyên cái đầu ăn làm sao hết?
Thím Chín lật đật làm mứt dừa rồi sáng hôm sau mang cho mợ ba Sáng, vốn là chị em cô cậu với dì hai Trắng, để hỏi thăm và nhờ nói vô giùm.
Vốn tính nóng vội nên qua mấy câu mào đầu là thím hỏi liền:
-Con Tím cháu của chị có ai đi bỏ hàng rào thưa chưa chị Ba ?
Mợ Ba hỏi lại:
-Bộ chị tính làm mai cho nó hả?
Thím Chín gật đầu.
Mợ Ba hỏi tiếp:
-Ai vậy?
Thím Chín đáp:
-Thì thằng Phục sát bên nhà tui chớ ai!
Mợ Ba gật đầu:
-Chỗ đó coi bộ được.
Rồi mợ nói tiếp:
-Hôm trước nghe nói có người ở bên bãi Chàm qua coi mắt nó. Thằng đó con nhà khá giả, vườn, ruộng gộp lại cả chục mẫu, có điều nói ngọng nên nó chê.
Thím Chín ngắt lời:
-Đừng có ham gả con cho nhà nhiều vườn, lắm ruộng chị ơi ! Con mình cực lắm. Hồi đó má tui cũng ham như vậy, cho nên tui làm dâu thiếu điều muốn sứt móng tay luôn!
Thím nói tiếp, giọng buồn buồn:
-Nhà giàu con cái ít khi thương nhau. Cha mẹ nằm xuống rồi là xúm lại chia nhà, chia đất. Gây lộn, chửi lộn như bầm bầu, có khi còn ẩu đã.
Mợ Ba cãi lại:
-Cũng có nhà nầy, nhà khác. Mình cư xử công bằng, ăn đồng, chia đủ thì tụi nó đâu thể phân bì. Có đất, có ruộng cũng dễ dựng vợ gả chồng cho con cái.
Thấy thím Chín xịu mặt, mợ Ba vội nói:
-Đó là tui nói nghe chơi thôi, chớ không phải bác ra đâu, chị đừng có lo. Tui cũng mến chị Sáu, chỉ hiền lành, ít nói, thằng Phục cũng chịu khó làm ăn...
Thím Chín mừng húm, chớp liền cơ hội:
-Vậy chị làm ơn nói giùm một tiếng. Mai chiều nhín chút thời gian đi gặp chị Hai...
Mợ Ba cũng sốt sắng không kém:
-Mùng sáu tới là đám giỗ ông ngoại tui, làm ở nhà má con Tím, để tui nhân tiện nói giùm cho.
Nói là làm. Hôm đám giỗ mợ Ba bưng cái xịa đậu phọng rang, xề lại ngồi kế dì hai Trắng, nói nhỏ xíu để chỉ đủ hai người nghe với nhau thôi:
-Chị Hai! có cái chuyện nầy vui dữ lắm, chị có muốn nghe hông?
Dì Hai đang xắt lia, xắt lịa cái bụt măng, liền dừng tay hỏi lại:
-Chuyện vui ai mà hổng thích nghe? Đâu vui chỗ nào ? Dì nói cho tui nghe thử cái coi!
Mợ Ba xuống giọng thêm một chút:
-Có cái chỗ nầy được lắm, tui tính làm mai cho con Tím. Người ta có một mẹ, một con thôi hà! Bà mẹ hiền như cục bột còn thằng con trai thì siêng năng, giỏi giắng...
Dì hai ngắt ngang:
-Vậy thì làm may cho con Vàng đi, nó...
Mợ Ba lắc đầu:
-Họ đòi đích danh con Tím mà.
Dì Hai hỏi:
-Thằng đó tuổi con gì?
-Tuổi mùi.
Dì hai chắt lưỡi:
-Vậy là nhỏ hơn con Tím hai tuổi. Phải chi nó lớn hơn một chút ráp cho con Vàng thì được quá!
Mợ Ba an ủi:
-Được đứa nào thì gả đứa nấy đi chị. Chị cứ chờ gả con Vàng trước, cầm cự hoài tội nghiệp cho mấy đứa sau nó, tụi nó đâu còn nhỏ nữa!
Dì Hai hỏi thêm:
-Họ có đất, có ruộng nhiều hông?
Mợ Ba giả lả:
-Đất thì hổng nhiều, có hai công thôi ! Nhưng mà họ trồng "núm", bán có giá lắm!
Dì Hai đập tay lên đầu gối rồi nói:
-Phải cái bà mặt tròn tròn, hay đội cái chàng sọc xanh, sọc trắng. Cái miệng hơi móm móm, thường ngồi bán núm ở trong nhà lồng chợ hông?
Mợ Ba gật đầu, dì Hai cười:
-Tui mua núm của bả không hà. Coi bộ bả hiền, mua bán đàng hoàng lắm! Hổng có nói thách với cân thiếu. Còn thằng con trai thì ra làm sao?
Mợ Ba nói một hơi:
-Nói thiệt với chị nghen, nó được nhứt xóm. Tui mà có con gái là không có tới lượt con Tím đâu. Cái thằng nầy giỏi mà hiền khô y như hệt như má nó. Trồng núm rơm nặng cái công lắm chị biết hông? Phải che, phải ủ, gầy meo, tưới nước, theo dõi tỉ mỉ lắm ! Chuyện nhẹ, chuyện nặng gì cũng một tay nó làm hết ráo. Mẹ góa con côi mà cũng cất được cái nhà "săn" như ai. Còn nữa, nó không có ăn nhậu, hút sách đàn đúm bạn bè gì hết...
Dì Hai gặng:
-Nó có bị tật gì hông vậy?
Mợ Ba nhảy dựng lên:
-Không hề! Khỏe mạnh, cao ráo, mặt mày sáng sủa lắm!
Thấy dì Hai có vẻ xiêu lòng, mợ bồi thêm một cú cho chắc ăn:
-Chị hổng tin bữa nào xuống nhà tui chơi, tui chỉ nó cho chị coi mặt. Bảo đảm chị ưng bụng liền. Chỗ bà con, thấy được lắm tui mới chỉ giùm, chớ ba cái chuyện mai mối nầy ai ngu dại lắm mới đút đầu vô. Không được lợi lộc mà còn bị mắng vốn lên, mắng vốn xuống.

Đi đám giỗ về tới nhà, không kịp mở cái xửng coi trong đó có món gì, mợ Ba đi thẳng lại nhà thím Chín luôn để báo cáo cái kết quả vừa đạt được.
Thím Chín đang cho thằng cháu ngoại đi tè. Thím ngồi chồm hổm trên bậc cửa nhà sau, đặt nó lọt thỏm giữa hai bắp vế của mình, kéo cho hai cái đùi của thằng nhỏ dang ra để "xi" cho nó đi tiểu.
Thấy mợ Ba tới thím liền ngừng ngang cái tiếng "xi... xi...xi..." đang kéo dài liên tục, khép cái môi đang chu nhọn lại mà hỏi, giọng nôn nao:
-Sao rồi, sao rồi?
Mợ Ba cười tươi rói, gật đầu một cái để khẳng định thêm cái tin vui mình sắp báo:
-Chỉ chịu rồi. Chỉ nói để mai mốt chỉ đi qua chùa, nhờ sư ông lựa cái ngày cho thiệt tốt rồi cho mình hay để chị Sáu tới coi mắt, giáp lời.
Thím Chín ngạc nhiên:
-Bộ cái vụ nầy cũng coi ngày nữa sao?
Mợ Ba thở dài:
-Bà chị Hai của tui, bả kiêng cữ dữ lắm ! Muốn đi đâu, làm cái gì, bả cũng phải hỏi ý kiến của chư vị khuất mặt, khuất mày rồi mới dám động đậy!
Thấy thím Chín bán tín, bán nghi. Mợ Ba bồi thêm:
-Hồi đó con gái Út của chỉ bị ban khỉ, ốm nhom, ốm nhách, còn có da bọc xương. Tui tới thăm, thấy bả cho nó uống nước tàn nhang không hà. Bèn hối bồng đi nhà thương liền. Con nhỏ bịnh gần chết vậy mà bả cũng nói phải chờ coi ngày tốt rồi mới bồng đi.
Thím Chín hỏi:
-Vậy rồi nó có bị làm sao hông?
Mợ Ba đáp:
-Cũng may mà nó còn sống. Nhưng mà teo ngắt như trái hủ qua đèo, lớn hổng nổi.
Thím Chín nói:
-Chị đốc giùm cho lẹ lẹ, chớ nghe nói vậy sao tui phập phồng trong bụng quá!
Mợ Ba lắc đầu:
-Tui biết cái tánh bà chị của tui. Bả hay nghi hay ngờ dữ lắm! Tui mà hối là hư bột, hư đường hết ráo. Bả phủi tay một cái rột liền.
Thấy thím Chín đổi vẻ tươi vui ban nãy thành nét ủ ê, mợ Ba khuyên:
-Chị Chín đừng lo, hổng có sao đâu! Chị Hai chỉ mua "núm" hà rầm của chị Sáu hoài nên có biết qua. Chỉ khen chị Sáu thiệt thà, hiền rụi...Bán giá nào, nói giá đó chớ không nói thách như người ta. Buôn bán rất đàng hoàng, cân đúng bon chớ hổng có thiếu một gờ ram nào hết. Coi bộ chỉ chịu làm sui với chị Sáu lắm đó!
Thím Chín thở ra một hơi nhẹ nhỏm.
Mợ Ba còn dặn dò thêm:
-Chị phải cho chị Sáu biết liền để chỉ lo sắm trước một đôi bông vàng gói theo. Đặng hể họ ưng là mình đặt cọc, bỏ hàng rào thưa liền.
Rồi mợ hạ giọng:
-Chị cũng biểu chỉ may một bộ áo dài mà mặc đặng coi cho lịch sự. Tui thấy đi đám tiệc chỉ toàn mặc cái áo bà ba tím không hà!
Thím Chín gật đầu nói:
-Tầm vóc của chỉ y chang tui, để tui cho chỉ mượn cái áo dài tui mặc hôm đám cưới con Nhu. Cái khăn, đôi dép của tui cũng còn mới tinh, để tui đưa chỉ luôn cho đủ bộ.
Mợ Ba lại hỏi:
-Thằng Phục nó có áo dài, khăn đống chưa?
Thím Chín lại gật đầu:
-Để tui lấy bộ đồ của ông nhà tui cho nó mặc.
Mợ Ba ngần ngại:
-Nó cao lêu nghêu, mặc áo của ảnh có vừa hông đó?
Thím Chín trấn an:
-Chị đừng lo, để tui cho nó thử trước, hổng vừa thì tui biểu thằng Nghệ đem bộ đồ mặc hôm đám cưới qua cho nó mượn. Hai đứa nó cũng xấp xỉ.
Mợ Ba cười:
-Hổng biết chị làm sao, chớ từ hôm chị nhờ tới nay tui cứ lo lo trong bụng. Chuyện của người ta đâu phải của mình! Chị Sáu cũng chưa phải bà con ruột thịt, vậy mà hổng hiểu sao thấy tình cảnh mẹ con chỉ tui thương quá xá. Bà chị Hai của tui, má con Tím đó! Bả cứ kèo nài, đòi gả con Vàng trước rồi mới tới nó. Tui nói ráo nước miếng bả mới chịu.
Thím Chín nửa như hỏi, nửa như nói bông lông:
-Hai đứa con gái lớn của chỉ đó, tụi nó coi cũng ngộ "quá khứ" đó chớ! Đâu có thua sút mấy con nhỏ trong xóm, vậy mà tới giờ nầy sao hổng thấy ai rinh hết vậy?
Mợ Ba chắt lưỡi:
-Cũng có đó chớ! Con Vàng hồi năm ngoái, năm kia gì đó, có người bên Hồng Ngự qua coi. Tại nó có cái mục ruồi trong con mắt nên họ chê. Còn con Đỏ có quen một thằng bạn học, sắp bước tới thì thằng đó bị kêu nghĩa vụ. Nó đi đánh tụi Pôn Pốt trên Miên rồi mất tích luôn. Bây giờ con Đỏ ăn chay trường, đòi đi tu chớ không chịu lấy chồng.
Thím Chín chắt lưỡi theo rồi nói:
-Tội nghiệp chị Hai Trắng, chắc chỉ lo dữ lắm! Sáu đứa con gái chớ ít ỏi gì. Tui đây chỉ có một đứa thôi mà còn mệt cầm canh. Đẻ con gái coi vậy mà cực lòng gấp mấy lần mấy đứa con trai. Tụi nó y như hủ mắm treo đầu giàn, rủi có bề gì là chị em mình lảnh đủ.
Mợ Ba hùa theo:
-Chớ còn cái gì nữa. Cứ hở ra là mấy chả đổ thừa "con hư tại mẹ".
Thím Chín cười:
-Chị thì khỏe re! Đẻ bốn thằng con trai không hà, sướng gần chết!
Mợ Ba trợn mắt:
-Ở đó mà sướng! Chị đóng thử cái vai tuồng của tui coi có sướng hông nè! Lớp thì lo kềm kẹp thằng Út cho nó học hành đàng hoàng, không cho nó tập tành hút thuốc, đàn đúm với mấy thằng cà chớn. Lớp thì lo đóng tiền cho thằng Tư để nó khỏi đi nghĩa vụ. Lớp thì canh chừng thằng Ba, nghe nói nó đang "de" con nhỏ nào ở xóm trên, sợ nó chộn rộn rồi hại đời con gái người ta khiến lối xóm kêu rêu... Lớp thì lo làm lụng, bỏ ống để sắm vàng đi cưới dâu cho thằng Hai. Chưa thôi đâu nghen! Mai mốt cưới xong rồi còn phải lo cất nhà cho vợ chồng nó ở riêng.
Mợ dừng lại hít một hơi dài để lấy trớn rồi nói tiếp:
-Có con gái như chị mới đúng là có phước đó! Chín, mười tuổi là sai quét nhà, rửa chén được rồi. Lớn lên gả bán thì được người ta bưng mâm, bưng quả qua năn nỉ mình nhận. Bán cái qua nhà thiên hạ rồi là khỏe re, khỏi lo gì ráo. Chừng nó có chồng, lâu lâu về thăm nhà là mua món ngon vật lạ về biếu. Có khi còn giấm giúi nhét tiền cho ba, cho má, cho em...
Đang nói ngon trớn thì thằng Suốt, con trai út của mợ Ba chạy tới, nó vừa thở, vừa nói:
-Má ơi! Về lẹ lẹ đặng nấu nước chế trà cho ba, nhà có khách.
Mợ Ba lật đật đứng lên, chưa chịu về liền còn nói ráng thêm một câu:
-Chị coi đó! Phải có con gái thì...
Mợ Ba về rồi, thím Chín mới nhớ đến cái nhiệm vụ cấp bách trước mắt của mình. Lật đật chu môi làm tiếp. Thằng nhỏ lúc nãy đã sắp "xịt" ra, bỗng bị ngắt tín hiệu nên lật đật ém lại. Cái bàng quang của nó đã đầy óc ách nên thím Chín vừa "xi..." một tiếng là nó bắn một tia nước vọt thẳng lên trời y như giếng phun liền, rồi làm một bãi rất ư hoành tráng.
Thím Chín cười khoái trá, ghì chặt nó vào lòng rồi đứng lên từ từ. Thím vừa đi, vừa hun túi bụi lên khắp mặt, khắp mày của thằng cháu ngoại...

Ngày bé Nhân được hai tháng rưởi, hết thời gian nghĩ hộ sản nên Nhu phải để con ở nhà với thím Chín rồi đi dạy trở lại.
Ngồi trong lớp đang chấm bài cho học trò thì sữa căng, Nhu xót ruột hết sức vì biết con đang đói. Nhu tự hỏi không biết má mình phải làm sao để trấn an thằng bé nếu nó thức giấc lúc nầy.
Trong lúc đó thì ở nhà, bé Nhân cứ khóc ngằn ngặt. Thím Chín bồng nó trong tay rồi ngồi lên võng. Thím vừa thò chân xuống đất đẩy cho cái võng đưa liên tục, vừa ru, dỗ thằng cháu ngoại. Mấy việc đó đâu thể đổ đầy cái dạ dày trống rổng. Nó gào hết cỡ khiến thím phải vạch áo, nhét cái vú da của mình vô chiếc miệng bé xíu. Bé Nhân ngoạm lấy, nút chùn chụt tới chừng biết bị lừa, nó liền nhả ra rồi khóc ré lên làm thím Chín cồn cào cả gan lẫn ruột.
Như có thần giao cách cảm, không chờ đến giờ ra chơi, Nhu mượn xe đạp phóng ào về. Cũng may là nhà cách trường chỉ non cây số, nên thằng nhỏ chưa bị lả đi vì khóc và đói.
Bé Nhân vừa bú vừa lấy tay bấu chặt vào ngực Nhu, như thể sợ mẹ nó bỏ đi mất nữa. Nhìn cảnh đó thím Chín chịu đâu có nổi!
Thím nói:
-Nãy giờ má dỗ gần chết mà nó đâu chịu nín. Nó không cần ai bằng con đâu! Thôi nghĩ dạy đi, lương bây lãnh một tháng bao nhiêu để má trả lại cho.
Nhu cũng từng nghĩ qua điều nầy, thế nhưng chưa thể quyết định bởi yêu nghề và thương mấy đứa học trò nhỏ bé của mình.
Nhu nói:
-Mai con đi dạy bằng xe đạp, giờ ra chơi con chạy về nhà cho nó bú rồi trở lại trường chắc kịp.
Thím Chín lắc đầu:
-Mới sanh xong, còn non ngày tháng lắm! Con đạp xe sớm là giản dây chằng, bị sa tử cung là chồng chê, chồng bỏ chớ hổng phải chuyện nhỏ đâu.
Thím Chín nuôi đẻ theo kiểu xưa. Thím cho rằng sản phụ giống như con cua mới lột vậy. Cơ thể, nội tạng lỏng lẻo, mềm oặt chớ không còn được như cũ. Mới hôm qua thím còn bắt Nhu phải đi từng bước ngắn thật chậm, chân phải khép chặt vào nhau thiếu điều đặt đồng xu giữa hai đùi cũng không bị rớt.
Lần xích mích duy nhất giữa má vợ và chàng rể là khi Nghệ đề nghị thím Chín thôi cho Nhu nằm lửa. Thím cự một chập rồi vẫn tiếp tục, cho đến khi nghe trong đài phát thanh nói rằng, khói rất độc và bệnh hậu sản là do nó mà ra. Thế nhưng đến bây giờ thím vẫn bắt Nhu cử ăn đồ chua cùng trái cây các loại. Những món mà thím cho là mát như thịt vịt, cà tím, măng, giá, cải bẹ xanh...đều bị loại ra khỏi mâm cơm trong thời gian Nhu ở cử.
Lúc còn trong tháng, mỗi ngày thím đều nấu cho Nhu một nồi xông gồm lá xả, lá bưởi, lá ổi, ngủ trảo... Thím chờ Nhu xông rồi mới lấy cái nước trong nồi còn ấm mà tắm cho cô. Thím xoa vuốt nhẹ nhàng, chẳng dám kỳ cọ mạnh vì sợ sau nầy da Nhu sẽ bị dùn.
Phải đến lúc nầy Nhu mới cảm nhận được cái tình thương sâu đậm của má mình giành cho. Cô ân hận biết bao khi nhớ lại đã từng oán trách bà như thế nào.
Khi Nhu mặc lại mấy bộ đồ khi chưa mang bầu, cô bỗng nhận ra chúng bây giờ đã trở nên quá nhỏ.
Cái áo bà ba chặt nức đến độ phải lấy kim tây gài cho kín cái chỗ yếm tâm giữa ngực bị bung. Còn cái quần gài núc thì chẳng thể gài được bất cứ cái núc nào.
Ngay hôm sau thím liền đưa cho cô bốn xấp vải để may hai bộ đồ.
Thím nói:
-Đưa mấy xấp vải nầy cho con Tím, dặn may lấy liền đặng mặc coi cho được với người ta. Chớ ba cái đồ nầy mặc vô mình ngó y như cái đòn bánh tét. Biểu nó may cho rộng đặng trừ hao. Mai mốt hổng chừng còn mập thêm nữa đó!
Nhu nghe mà sợ hết hồn. Cái thân hình trước đây được liệt vô loại "mình dây" của cô, bây giờ cũng giống như dây mà là dây thun ngâm dầu hôi ! Nó phình ra thấy mà khiếp ! Nhất là ở cái vòng số một.
Bộ ngực ngày trước, kích thước chỉ bằng cái chén ăn cơm úp ngược. Nay to gấp đôi, cỡ cái tô đựng canh. Khiến mấy cái núc bóp trên chiếc áo bà ba không thể nào cài được, phải dùng mấy cây kim tây trợ lực.
Ngay buổi chiều đó Nhu đem cái túi đựng vải ghé nhà Tím nhờ may gấp mấy bộ đồ.
Vừa dựng chiếc xe đạp vô hàng rào là nghe tiếng Tím từ trong nhà hỏi vọng ra:
-Có chuyện gì mà phải bỏ con ở nhà để ghé tao vậy?
Nhu không trả lời mà hỏi lại:
-Hổm rày mầy bận lắm sao mà hổng lại thăm hai mẹ con tao?
Tím đáp:
-Cũng hổng bận lắm nhưng mà tao ngại.
Nhu ngạc nhiên:
-Ngại cái giống gì?
Tím ra cái võng ngoài hàng ba ngồi. Nhu ngồi lên theo rồi lập lại câu đã hỏi:
-Mầy ngại cái gì? Nói thử tao nghe.
Tím sụp mắt xuống, nói nhỏ xíu:
-Thì cái chuyện đó đó!
Nhu gắt:
-Chuyện đó là chuyện gì? Nói huỵch toẹt ra đi!
Tím nhìn Nhu ngạc nhiên:
-Bộ mầy hổng biết thiệt hả?
Nhu tức tối:
-Biết cái gì?
Tím lại hỏi:
-Vậy là thím Chín chưa có nói với mầy cái vụ thím làm mai tao với ông Phục hả?
Nhu hỏi một cách thảng thốt:
-Phục nào?
Tím đáp:
-Thằng cha Phục ở sát bên nhà mầy chớ còn ai vô đây?
Nhu lấp bấp:
-Má tao ...làm mai mầy...với thằng cha Phục thiệt sao?
Tím gật đầu:
-Ngày mai là họ qua coi mắt rồi đó.
Nhu lấy hai tay ôm mặt Tím, xoay ngang để nhìn thẳng vào rồi gằn từng tiếng:
-Thằng cha đó dê xồm nhứt cái xóm tao đó!
Tím hỏi, bàng hoàng:
-Vậy thì tại sao thím Chín làm may thằng chả cho tao.
Nhu lắc đầu:
-Má tao đâu có biết. Bả thấy hai mẹ con họ lăng xăng giúp đỡ, nên khoái. Nhà tao làm cái giống gì họ cũng tiếp tay. Bả còn hứa gã tao cho thằng chả nữa. Cũng may mà tao lỡ...
Nhu lắc đầu rồi nói:
- Mầy đừng có ưng nghe! Lấy chồng có cái tánh đó mắc cỡ với bà con lối xóm lắm!
Tím bán tín, bán nghi:
-Ba má tao cũng đi dọ hỏi tùm lum. Ai cũng nói y hiền mà giỏi nhứt xóm Cầu Ván, nên ổng bả mừng húm!
Nhu kề tai Tím nói nhỏ:
-Thằng chả hay dòm lén tao lắm! Có lần tao tắm tối, thằng chả đã rình mà còn ho khan nữa, làm như tao cố tình tắm cho chả coi vậy. Tao tức quá tạt cho một gáo nước, mới chịu bỏ chạy vô nhà.
Tím hỏi:
-Tối thì làm sao mầy biết đó là thằng chả?
Nhu khẳng định:
-Nó chớ ai? Bộ mầy thích rồi hay sao mà...
Tím lắc đầu nguầy nguậy:
-Tại tao sợ mình nghi oan cho người ta rồi mang tội chết.
Nhu cúi sát đầu xuống rồi nói nhỏ hơn:
-Hổng có oan đâu mầy ơi! Có chuyện nầy tao giấu biệt mấy năm nay. Nói ra mắc cỡ dám chết thiệt lắm đó! Tại tao sợ mầy lấy lầm người nên mới... Mầy phải thề không nói với ai nghe!
Tím gật đầu:
-Tao mà nói với ai thì cho cả nhà, ba má với sáu chị em tao chết chùm hết ráo!
Nhu la nho nhỏ:
-Con quỉ! Làm gì mà thề nặng dữ vậy? Làm tao hết dám...
Tím nhìn Nhu, mắt long sòng sọc. Nhu vội nói:
- Hồi đó, có lần tao tắm sông, đang vận cái chàng xà rông đứng trên bờ, chỗ bụi lau để thay đồ. Cái rồi... cái rồi...cái rồi...
Nhu cứ ngắc ngứ như bị mắc nghẹn. Tím liên tục giục cô bằng mắt.
Nhu nuốt khan rồi nói tiếp:
-Khi không mà tao bị vuột tay, cái khăn đang vấn tuột xuống. Tao hết hồn quay nhìn chung quanh, thấy thằng chả đứng ngay sau lưng nhìn tao trân trân...
Hôm sau, chủ nhật. Trời chưa sáng thím Chín đã dậy. Thím cà cục than cho nát nhừ. Cắt đôi miếng vỏ cau tươi rồi chấm vào để chà hai hàm răng cho trắng. Thím lấy cái đầu tóc mượn ra, thoa dầu dừa rồi thắt bính cho thật khéo. Thím cũng thoa dầu dừa lên tóc rồi chải ba, bốn lượt cho tóc thiệt suôn.
Nhu làm bộ hỏi:
-Má tính đi đâu vậy má?
Thím Chín cười:
-Má đi kiếm cái đầu heo.
Nhu hỏi:
-Ai vậy má?
Thím đáp rất tự nhiên:
-Con Tím với thằng Phục chớ ai! Hai đứa nó mà thành thì tụi bây ở khít một bên, khỏi cần phải đi xa.
Bốn người họ : Thím Chín, mợ Ba, dì Sáu và Phục cùng ngồi trên chiếc xe lôi của anh Hai Thám. Gương mặt ai cũng tươi tắn, đặc biệt là Phục. Có lẽ nhờ ngồi chung với mấy bà già nên trông y sáng sủa, đẹp trai, thông minh...khác hẳn ngày thường.
Đến nhà Tím chiếc xe lôi dừng lại. Họ được dì, dượng hai Trắng ra tận cổng đón vào.
Cái bàn dài với sáu chiếc ghế dựa ở giữa nhà được lau bóng ngời. Một bình hoa bằng ni lông rực rở đủ màu đặt trên bàn khiến không khí thêm phần long trọng.
Chờ mọi người an tọa xong, dượng Hai tằng hắng rồi gọi lớn:
-Con Tím đâu, bưng nước trà ra mời khách coi!
Chẳng nghe tiếng dạ, vâng gì ráo. Dượng Hai lập lại một lần nữa. Một người con gái mặc bộ đồ cổ xây, tay dún, bằng vải bông. Bộ đồ không được ủi, chứng tỏ cô ta không có chuẩn bị gì ráo.
Cô gái cúi gầm cái mặt, bưng khay trà ra. Tay chân cô ta run bắn khiến mấy cái tách trên khay cũng run bần bật.
Dì, dượng Hai bỗng há hốc miệng, còn thím Chín với mợ Ba thì kêu lên cùng một lượt:
-Ủa, con Vàng!


Niềm vui đạt được do ngăn cản thành công cái đám cưới giữa Tím và Phục trong Nhu không kéo dài được lâu. Cảm giác thỏa mãn cũng giống như một tia sét, lóe sáng rồi tắt ngấm. Hình như nó còn đánh trúng cái cây nào đó, nên bỏ lại trong Nhu một nỗi ăn năn, ray rức có mùi tro.
Nhu đinh ninh Tím đã thề độc như vậy thì chẳng dám nói ra, chắc không ai biết cô là người khiến Tím vặn nài, bẻ ống. Thế nhưng trong lòng vẫn nơm nớp không yên.
Một hôm, Nhu tắm cho bé Nhân xong, lau mình mẩy nó cho thật khô rồi đặt nằm úp lên đùi mình để thoa phấn lên khắp lưng bé. Nhu đặt hết tâm trí vào công việc, nên không hay, không biết chú Chín đang đứng kế bên quan sát hai mẹ con họ từ nãy đến giờ.
Ngắm bàn tay Nhu xoa cái lưng nhỏ xíu của bé Nhân một cách nhẹ nhàng, âu yếm. Cái gương mặt nghiêng nghiêng cúi sát lên người đứa bé ấy, trông mới dịu dàng làm sao! Chú Chín bỗng nghe lòng nao nao. Chú nghĩ thầm:
- "Con nhỏ nầy nhìn cái mặt hiền rụi, nhát hít...Vậy mà toàn làm mấy cái chuyện động trời".
Không đừng được, chú hỏi Nhu:
-Bộ con ghét mấy người đàn ông xấu máu lắm hả?
Nhu dừng ngay cái tay đang rắc phấn, không nhìn lên chỉ lặng lẽ gật đầu.
Chú Chín hỏi thêm một câu hết sức lạc đề:
-Hồi nào tới giờ con có lượm tiền hông vậy?
Nhu lại gật đầu, khoe:
-Con hên lắm! Lượm tiền liền xì hà ba. Mới hôm kia đi dạy về, vừa xuống dốc cầu cái thấy tờ giấy một đồng bị gió thổi tấp vô lề tự hồi nào. Con thắng xe lại cái "ét" rồi lượm.
Chú Chín ghẹo:
-Một đồng mà cũng chịu khó dừng xe lại lượm nữa sao?
Nhu cười:
-Một đồng là đủ mua một ổ bánh mì có nhét thịt đàng hoàng chớ đâu có ít.
Chú Chín bỗng nghiêm giọng, đổi đề tài một cách đột ngột :
-Nhiều khi ba nghĩ cái cõi đời nầy nó lộn xộn là tại ông trời làm biếng quá tay!
Chú dừng lại để coi Nhu có đòi giải thích hay không.
Thấy cô làm thinh chú bèn cắt nghĩa:
-Ổng tạo ra đàn ông, đàn bà rồi giao cái việc sanh sản lại cho họ để rảnh tay mà đi đây đi đó. Ổng sợ họ lười biếng nên khiến cho đàn ông hết sức thích đàn bà, còn đàn bà thì hết sức ưa tiền.
Lần nầy thì Nhu mở miệng hỏi:
-Vậy thì tại sao mà sanh ra lộn xộn vậy ba?
Chú lắc đầu:
-Đàn ông mà thấy đàn bà thì cũng như đàn bà thấy tiền vậy đó, không lượm là không chịu nỗi. Có khi nó không nằm trên đường mà trong túi của người ta, ham quá nên giành giựt rồi đánh nhau u đầu mẻ trán. Còn đàn bà thì xúi đàn ông đánh nhau để đem tiền về cho họ.
Nhu cãi:
-Đâu phải ai cũng ham tới cỡ đó đâu ba?
Chú Chín đưa ngón tay trỏ ra trước mặt, ngóc lên, gật xuống như đánh nhịp cho câu nói của mình:
-Cái nầy cũng là do ông trời làm biếng tuốt! Ổng bào chế người ta không đồng đều. Nhắm mắt bốc đại hên xui, khi vầy khi khác.
Thấy Nhu ra vẻ chú ý. Chú cao hứng:
-Ổng cho người nầy nhiều, người kia ít bởi vậy mới có người thì tốt đủ thứ, người thì xấu đủ kiểu. Con có thấy ai tánh tình giống hệt nhau hông? Anh chị em sanh đôi còn hổng giống.
Nhu bắt bẻ:
-Nói như ba vậy thì đâu có ai phải chịu tội, tại mình ên ông trời không hà! Vậy thì dẹp quách cái ông tòa đi cho rồi, phải hông ba?
Chú Chín lắc đầu:
-Thì cũng phải có người phát bờ chớ. Để cỏ mọc tràn lan coi đâu có được. Mà cũng phải coi chừng nghe! Ông trời còn lầm nói chi mình. Có khi người ta quá thích người nào đó rồi không có sai khiến hai con mắt nổi. Cái lỗi nầy là do cái tình chớ không phải cái tánh. Nếu là cái tánh thì bị đồn rần rần phải bứng gốc mà đi chớ mặt mũi nào ở lại nhìn bà con lối xóm.
Câu nói của chú Chín làm Nhu giựt mình. Ngẫm nghĩ rồi nhận ra ngoài mình, chưa nghe một cô gái nào trong xóm than phiền là bị Phục dòm ngó.
Nhu cũng thừa nhận rằng chính bởi bị "quê" với Phục mà cô sanh ra ghét y thậm tệ. Có lần Nhu còn ước ao cho Phục chết để không còn ai biết cái sự cố động trời đó của cô.

Từ ngày xảy ra chuyện coi mắt không thành, Tím không xuống nhà Nhu và Nhu cũng không dám lên nhà Tím. Mấy xấp vải bị bỏ quên trong túi, Nhu phải đem cho thợ khác may, vừa tốn tiền vừa không ưng ý. Điều nầy cũng khiến Nhu tin rằng, mình bị trừng phạt vì đã làm điều không phải.
Ngược lại với lúc trước, giờ người nhìn lén không phải là Phục mà là Nhu. Nhu hay liếc mắt qua hàng rào để xem cái "tai nạn" đó có làm Phục bị "thương tật" nặng nề hay không? Có lần Phục chợt đột ngột quay người rồi bắt gặp tia mắt của Nhu. Thế là cả hai đều đỏ bừng cái mặt, y như hai trái ớt hiểm chín bói trên cây.
Thím Chín và mợ Ba đều giận vợ chồng dì Hai hết biết! Họ đổ thừa là tại hai người không biết dạy con, nên mới làm cho họ ngỡ ngàng.
Dì, dượng Hai vừa bị bễ mặt với bà con lối xóm, vừa sợ rồi đây không còn ai dám làm mai, làm mối cho cái đám con của mình nữa. Tụi nó "nức mọng thành giá" hết cả bọn, không khéo cứ úng dần từng đứa thì xấu hổ không biết để đâu cho hết. Càng nghĩ dượng Hai càng tức. Ổng không dằn được nên bắt Tím cúi nằm dài rồi đập một trận te tua.
Trong chuyện nầy chỉ có Phục, kẻ bị ảnh hưởng nặng nề nhứt, thế nhưng lại tỏ ra bình thản nhứt. Mặc cho mấy tên bạn chọc ghẹo, nói xa, nói gần...Phục vẫn tĩnh bơ. Lại còn tỏ ra phấn khởi, tích cực chăm sóc mấy luống nấm kỹ hơn khiến thu nhập gia tăng. Y còn bỏ luôn nhậu nhẹt để an ủi má mình. Làm bà con chuyển từ niềm thương hại thành nể trọng quá tay!
Người bị tổn thương nhiều hơn hết thảy mọi người trong cuộc, chính là dì Sáu.
Dì Sáu vốn mang mặc cảm là dân trôi giạt, không gốc, không rễ. Dì thầm mong mỏi được kết sui gia với một gia đình cố cựu ở đây, hy vọng nhờ vậy mà cuộc đời của con và lớp cháu của mình sau nầy sẽ vững vàng hơn. Dì cứ tưởng mình sắp trở thành một cội cây to, có rễ bám sâu vào đất, chẳng còn phải lênh đênh trôi giạt.
Những bụi lục bình bám chân cầu chắc cũng suy nghĩ như dì, cho tới khi bị sóng, gió đẩy bật ra xa...
Hành động rẻ rúng của Tím khiến dì buồn tủi. Vốn thưa đi lại với mọi người, bây giờ dì còn lẫn tránh họ. Mấy lần dì Hai Trắng muốn ghé mua nấm rơm, nhưng thấy dì Sáu cứ ngó xuống đất, dĩ biết dì Sáu vẫn còn cái cảm giác bẽ bàng nên muốn tránh mặt, thế là dĩ cụp nón đi luôn.
Dì Sáu cũng thôi, không qua nhà thím Chín hằng ngày như trước, không phải dì giận, chỉ vì sợ thím Chín cứa đi, cứa lại hoài rồi vết thương của dì không lên da non nổi.
Những dĩa rau trai, rau dệu luộc không còn xuất hiện trên mâm cơm nhà thím Chín nữa. Thím Chín không nản lòng, rình khi dì Sáu có nhà là bồng thằng cháu ngoại qua chơi.
Trẻ con vốn là nhịp cầu nối liền mọi thành viên trong gia đình và xã hội với nhau. Hể chúng đi đâu là tiếng cười của họ đi theo tới đó.
Cái đứa bé tí chưa có chút xíu tài năng và kinh nghiệm sống đó, đã chữa lành cái vết thương trong lòng dì Sáu, kéo dì dần dà trở lại với nhịp sống bình thường.
Điều mà chưa chắc một bác sĩ hay chuyên gia tâm lý nào làm được.

Giữa tháng tư âm lịch, ông trời bắt đầu súc lu từ từ rồi trút nước ào ào xuống đất. Đội quân lũ lụt cũng mở cuộc xâm lăng từ biên giới phía tây kéo róc xuống. Xóm Cầu Ván thuộc khu vực đầu nguồn nên bị ảnh hưởng nặng nề gắp đôi, gắp ba các vùng khác!
Mấy luống nấm rơm chưa kịp lớn, chỉ mới bằng hột tiêu đã bị ngập úng, chết rụi. Nhà dì Sáu Dọ phải đối mặt với nguy cơ trắng tay.
Không riêng gì gia đình dì Sáu, cả xóm đều điêu đứng, không hao thứ nầy thì hụt thứ kia, nên một nỗi lo, buồn bàng bạc khắp nơi.
Không buồn sao được? Bởi bà mẹ đất ngày ngày đều vắt sữa ra mà nuôi họ, nay nhìn cảnh bà bị đè đầu nhận nước đến ngộp thở ai mà chẳng đau lòng!
Sinh hoạt của bà con bị xáo trộn. Họ không phải ra đồng nên cả ngày rảnh rang. Sáng sáng ăn ba hột cơm dằn bụng rồi lên võng nằm đưa tòn teng cho tới bữa cơm trưa. Trên trời thì mây, dưới đất thì nước, cảnh mây nước trùng trùng gợi cho họ một cảm xúc dạt dào nên số thi sĩ nghiệp dư bỗng tăng vùn vụt. Đó là nói về phái mạnh còn phái yếu thì xem ra còn bận rộn hơn nhiều, vì tận dụng thời gian nầy để làm bánh, làm khô, làm...đủ thứ!
Trong đám gia súc chỉ có bầy vịt là phởn phơ, thỏa chí tang bồng vì bờ cõi được mở rộng mênh mông.
Mấy con gà thì ôi thôi, thật là tội nghiệp!
Bầy gà đặt tổng hành dinh dưới sàn nên thân phận vô cùng thê thảm. Chúng bị quân của bà thủy đuổi, bay tuốt lên cây ổi, cây xoài sát bên nhà để tạm trú. Hai cái cẳng khẳng khiu cả ngày bám cứng mấy nhánh cây gầy guộc. Giấc ngủ của chúng cứ chập chờn, không yên, bởi bị gió mưa đánh thức bất kể lúc nào! Có lắm con đang ngủ bỗng gặp ác mộng nên giật mình chới với, lấy chân ôm ngực, thế là...
Thím Chín cũng vậy! Trong lúc ngủ, bất kể giấc trưa hay tối, thím đều phải mở tan hoang cái lỗ tai mà canh chừng. Hễ nghe gà kêu cái "quác", rồi tiếp đó là tiếng đập cánh, quẫy nước thì ngồi phắt dậy liền để vớt nó. Thường thì những cuộc cứu hộ ấy chỉ thành công vào lúc ban ngày, còn ban đêm đều quá muộn!
Thím Chín cắt cổ lập tức cái con gà bị ngộp đó! Nhổ lông rồi bỏ hết bộ lòng chỉ lấy lại cái mề. Thím ngâm nó vào thau nước muối cho trắng rồi lóc thịt để riêng. Phần xương còn lại bị thím dùng cái chày vồ dần cho nát bét ra ( chỉ bỏ hai cái chân và hai ống xương đùi thôi), kế tiếp bầm cho thiệt nhuyễn. Thịt được xắt mỏng, cũng bầm nhuyễn trộn vào. Chúng được đem xào với bụi hành lá vừa bứng trên giàn rau cho chín, rồi để nguyên trong chảo đậy nắp lại.
Thím lấy cái thớt me dày, dần lên cho thật khít rồi đem treo trên gióng, để đề phòng mấy con chuột đu dây qua cạy nắp.
Vào mùa nước, bọn chuột thản nhiên chui vào nhà ở chung với người. Tụi nó tự cho mình cái quyền kiểm tra, hy sinh ăn trước xem thực phẩm có an toàn không rồi mới đến lượt chủ nhà.
Thím Chín lại chui vào mùng ngủ tiếp, lần nầy mở hết cả hai tai, vừa canh cứu gà, vừa canh đập chuột, sợ nó xơi tái cái chảo nhưn của mình.
Nửa đêm nghe tiếng dao, tiếng thớt bên nhà thím Chín là mẹ con dì Sáu lại tủm tỉm cười vì biết ngày hôm sau nhà mình sẽ có bánh xèo ăn.
Cây cối cũng chẳng yên thân! Vườn đu đủ vừa bán được lứa trái đầu của thím Chín cứ ngã dần từng cây. Mỗi đêm nghe tiếng rơi lỏm bỏm của mấy trái dừa, thím lại chép miệng thở dài.
Mùa nầy lũ chuột bị mất hết trọi mấy cái hang dưới đất. Chúng leo thật cao, lên tận đọt dừa ở cho chắc ăn. Những đêm khó ngủ, chúng lại khoét dừa ăn chơi cho đỡ buồn. Sáng hôm sau, những trái dừa ấy được vớt lên, nạo rồi thắng lấy dầu để bán rẻ cho bà con xài thay mỡ.
Gạo, vốn thừa mứa ngày thường, giờ trở nên hiếm. Điên điển và tép đầy đồng nên bà con thi nhau xây bột làm bánh xèo, vừa đỡ tốn gạo lại vừa khoái miệng.
Ngon và đẹp làm sao những cái bánh xèo mùa nước! Mấy con tép rong tươi roi rói, cong người để bảo vệ cái bụng đầy nhóc chứa triệu triệu chiếc trứng bé li ti xanh như ngọc bích. Chúng nhảy tưng tưng cố thoát thân nhưng chẳng thể trốn khỏi những bàn tay rắn rỏi của các bà má, bà chị. Họ chỉ dùng hai ngón tay: Cái và trỏ, để bóp dẹp lép cái đầu, loại bỏ cái mũi nhọn hoắc, cứng ngắc cùng toàn bộ râu, chân của nó. Động tác nầy diễn tả nghe dài dòng nhưng thực hiện chỉ trong chớp mắt. Bằng vào thời gian bạn đọc câu viết trên, mấy chục con tép đã làm xong!
Những con tép vừa xúc lên và bị lặt từng con ấy, được đem xào với hành lá, tiêu, đường, nước mắm... và cũng được dùng làm nhưn bánh.
Vua của mùa nước là bông điên điển, nó kết hợp với tôm, tép, thịt gà, thịt ếch...để tạo thành một vị vua của tất cả các loại bánh: Đó là bánh xèo! Vị vua nầy ngự trị trường tồn, quyền lực ngày càng bền vững, trong tương lai có thể đem binh đi chinh phục xứ người.
Mấy người phụ nữ trong xóm ai mà không biết đổ bánh xèo. Mỗi nhà đều sắm một cái chảo gang to, gác trên giàn bếp mà để dành, khi làm món bánh nầy mới lấy xuống.
Họ đã quá thuần thục nên những cái bánh do họ làm đều đạt tới đỉnh vinh quang. Nó ngon từ ngoài vào trong. Từ lớp bột vàng tươi thơm mùi nghệ cùng vị nước cốt dừa béo ngậy, với cái vành mỏng te như đăng ten, giòn rụm...cho tới lớp nhưn phủ phê, đậm đà hương vị và dồi dào chất đạm.
Những cái bánh ấy được bày trong mâm, lót lá chuối lên từng cái để khi tách ra không bị rách. Chúng được đặt lên giữa chõng hoặc giữa bàn ăn, cạnh tô nước mắm tỏi ớt đỏ au và một rổ rau thơm xanh ngắt. Mấy người đàn ông đã ngồi chờ sẵn, họ xăn tay áo (ai ở trần thì khỏi), múc nước mắm vào chén, xé nửa cái bánh kèm đủ thứ rau, cuộn tròn lại, chấm ngập nước mắm rồi cho vào miệng. Phồng cả hai gò má mà nhai!
Đàn bà, con gái, con nít thì túm tụm trong bếp. Họ thủ tiêu mấy cái bánh không đạt tiêu chuẩn, đứng hoặc ngồi chồm hổm trước ông lò, vừa đổ vừa ăn!
Việc đi lại trong xóm mùa nầy gặp rất nhiều trở ngại. Những nhà không sắm nổi xuồng, phải chặt mấy cây chuối để kết bè chống đi, chống về.
Trên trời, dưới nước, cho nên dù cố giữ gìn thế mấy đi nữa, tay chân bà con cũng khó khô ráo lâu. Hậu quả là người nào cũng bị cái bệnh nước ăn. Ai ai cũng mang hai bàn tay, bàn chân với mấy kẻ ngón xanh lè bởi xức phèn xanh.
Chỉ có mấy đứa con nít là sướng nhứt! Chúng tận dụng dịp nầy để tập bơi xuồng. Chúng tắm thả giàn, nhứt là mấy đứa con trai. Hể nghe nực là tụt cái quần xà lõn ra rồi từ ngạch cửa phóng cái ào xuống nước. Chúng bơi từ cây mít qua cây vú sữa, bơi xuyên qua cái sàn giờ đã thấp chủm rồi trèo lên nhà.
Tụi con gái thì khoái câu cá hơn. Ngoài cây cần câu, đứa nào cũng sắm cho mình một cây vợt làm từ mấy tay lưới rách. Chúng cầm sẵn nó trên tay rồi đứng rình, hể thấy cái gì ngộ ngộ trôi qua là vớt! Chúng thường rủ nhau đi hái bông điên điển, rau dừa, bông súng...Bởi mấy thứ rau nầy rất phù hợp với món mắm kho, cho nên cái mùi thơm cào ruột ấy cứ tỏa ra, hôm nay từ chái bếp của nhà đứa nầy, ngày mai lại từ nhà đứa khác.
Theo lời yêu cầu của thím, chú Chín bắt cây cầu khỉ từ nhà mình qua nhà Phục, để thím Chín và dì Sáu qua lại dễ dàng.
Chú và Phục còn hùn nhau, mua mấy tay lưới đem giăng để kiếm cá bán. Số cá bán không hết được đem về cho dì Sáu và thím Chín làm khô, làm mắm.
Dì Sáu không còn bán nấm rơm nữa mà chuyển sang bán cá. Dì phải bơi xuồng lên chợ quận vì bà con trong xóm nhà nào cũng tự kiếm cá cho mình. Nước bao quanh nhà, họ chỉ cần ngồi trên bực cửa quăng câu.
Hôm bán cá được nhiều tiền, dì Sáu ghé vào chợ mua cho bé Nhân một cái lúc lắc. Chiều hôm ấy mọi người quay quần xung quanh thằng bé. Họ thích thú khi thấy nó cầm món đồ chơi cho vào miệng, rồi giật mình chới với vì nghe tiếng lục lạc khua vang. Thằng bé mếu máo còn họ thì cười với nhau.
Trước đây, tình cảm của chú Chín dành cho Phục nghiêng nặng về hướng trắc ẩn. Nhìn cảnh hai mẹ con họ thui thủi bên nhau chú thấy tội. Bây giờ có dịp gần gũi hơn, chú đâm ra cảm mến chàng trai hiền lành, nhút nhát, ít nói nhưng giàu nghị lực nầy quá! Chú bỗng đâm tiếc hùi hụi vì cho rằng nếu ông trời không hăm hở khuấy tay vào thì biết đâu y đã trở thành con rể của mình.
Cả hai, chú Chín và Phục đều có tay "sát cá", nên chẳng có hôm nào dì Sáu được ở nhà trọn ngày và thím Chín không phải tay thớt tay dao, làm cái việc xẻ cá phơi khô.
Mùa nước nên việc làm khô khá vất vả. Thiếu sân phơi, trời lại hay mưa bất chợt, mấy con cá không khô kịp, thịt không săn lại nổi mà bủn xì. Chúng bay mùi nồng nặc khiến ruồi kéo đến cả bầy như đi lễ hội. Những chỗ bị ruồi đậu vào đẻ trứng, ít lâu sau sẽ xuất hiện những con dòi lúc nhúc, nhỏ xíu như sợi tóc. Cái tụi nầy lớn nhanh như thổi, vài hôm đã bằng đầu cây tăm xỉa răng. Thím Chín cho mớ khô đó vào cái rỗ thưa to nhứt của mình, lắc mạnh cho đám ấu trùng ấy rơi như mưa xuống nước. Một bầy cá lòng tong kéo nhau đến, cả trăm con tranh nhau táp lia, táp lịa. Chúng đớp hết ráo không chừa đến một con rồi lượn tới, lượn lui chờ mãi. Hồi lâu mới chịu rút lui.
Bị nước lũ vây hãm bốn bề nên hai gia đình thím Chín và dì Sáu gắn dính vào nhau. Dì Sáu đi chợ cho cả hai nhà nên các món ăn của họ luôn trùng khớp. Thím Chín thường nấu cơm hơi nhiều một chút để gọi Phục qua ăn chung, phòng khi dì Sáu đi bán về trễ.
Lúc đầu Nhu còn tránh né, không chịu ngồi chung mâm rồi từ từ mới gia nhập. Họ đã dám nhìn thẳng vào mắt nhau, bắt đầu nói với nhau những câu, ban đầu còn rời rạc rồi dần dà mạch lạc, trơn tru hơn.
Người khoái Phục nhất không phải chú thím Chín, không phải Nhu mà lại chính là Nghệ!
Nghệ thường đi theo Phục để thả và thăm lưới. Chàng thuộc dạng công tử bột, được ông bà ngoại cưng như trứng mỏng. Ngoài giỏi cầm cây viết ra thì chẳng giỏi thêm môn gì nữa! Phục thì ngược lại...Chỗ ưu của người nầy lại là khuyết của người kia, nên họ ráp lại dính khắn!
Nghệ khoái ăn bánh xèo hơn ai hết nên lâu lâu lại rủ Phục đi thăm lưới, thăm câu thật sớm để hái bông điên điển trước rồi mới kéo lưới, kéo câu lên. Những hôm cá dính nhiều, mấy tay lưới nổi phình vì gở không kịp nên cá chết. Nghệ thao tác vụng về, chẳng nhanh bằng chú Chín nên họ phải cuộn lại đem về để cả nhà ráp nhau cùng gở cá. Có khi Nhu vừa nách con vừa xông vào tiếp một tay.
Thím Chín viện cớ nước ngập khó đi lại nên rước con gái và cháu ngoại về nhà. Nghệ vài ngày ghé thăm một lần để được tiếp tế thực phẩm. Đây là thời điểm mà chàng ưa thích nhất! Hôm nào siêng thì theo Phục bơi xuồng ra đồng, ngắm mấy cái bông súng đứng im ru, mặc tình mấy bụi lục bình thỉnh thoảng ghé qua rủ rê, chèo kéo. Làm biếng thì ở lì trong nhà một mình, quay lại thời kỳ độc thân, tha hồ mà thơ với thẩn.

Phục vốn được sinh ra ở Biển Hồ, xứ mênh mông nước và dồi dào thủy sản, nên thuộc lòng mặt mũi và tập quán của cái bọn cá tôm bắt được.
Mỗi lần cả hai gỡ cá, chàng thường cầm lên từng con rồi cắt nghĩa cho Nghệ nghe là con nào sống trên mặt nước. Con nào có tánh mắc cỡ nên cố chui sát đáy. Con nào là dân nhậu, thích xơi mấy món độc đáo. Con nào muốn giữ lòng thanh tịnh nên chỉ ăn bọt nước cầm hơi...
Nghệ càng nghe càng khoái. Những buổi đi thăm lưới giúp chàng mở mang kiến thức về sinh vật rất nhiều. Cho dù mấy điều nầy sách vở có ghi và chàng có thể đã đọc qua, nhưng những kiến thức chết ấy cứ trôi tuột như vô số giọt mưa bám trên tàu lá chuối.
Việc nầy cũng giúp chàng suy gẫm về cách dạy và học của mình, nhận ra chúng lạc hậu quá chừng rồi ước ao sớm có ngày cãi thiện.
Phục thì xem Nghệ như thần tượng của mình. Nghệ biết tất tần tật những thứ mà y mù tịt : Ca, vẽ, làm thơ, thổi sáo...Nhứt là đờn...Phục nể cái tài so dây nắn phím ấy vô cùng!
Lạ một điều là tuy Nghệ, theo nhận xét của Phục là đờn hay nhứt xóm, thế nhưng chẳng bao giờ chịu đem ra phục vụ cho bà con ở các buổi tiệc như đám nói, đám cưới, đám ma...
Thấy mỗi lần mình đàn, Phục cứ lặng người nghe và nhìn bằng cặp mắt thán phục, Nghệ hỏi:
-Chú mầy có muốn học đờn hông?
(Từ khi biết Phục nhỏ hơn tới sáu tuổi thì Nghệ tự cho phép mình đóng vai đàn anh của y. Và bởi vì họ ngày một thân nhau hơn, Phục lại bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình đối với Nghệ quá rõ ràng, nên chàng thay đổi cách xưng hô. Gọi Phục là "chú em" rồi xưng "anh" một cách ngon lành).
Phục mừng húm đáp:
-Muốn lắm!
Rồi hỏi thêm:
-Có khó hông anh?
Nghệ đáp:
-Muốn đờn cho thiệt giỏi để người ta khen thì phải có cái khiếu. Còn đờn cho mình nghe thì chỉ cần siêng năng, hay tập tành là được.
Phục gãi đầu:
-Em đờn ên, nghe ên thôi! Ai mà dám cho thiên hạ nghe, họ cười chết.
Nghệ gật đầu:
-Được, vậy thì cúng tổ một con gà đi rồi anh dạy cho.
Nghệ nói chơi thôi, ngờ đâu ngay hôm sau Phục hỏi mua thím Chín một con gà giò rồi xách qua làm thịt, luộc chín đem cúng liền.
Cái tính chơn chất đó làm Nghệ cảm động, anh nói:
-Anh nói cho vui, chú em mầy lại tưởng thiệt. Hay là sẵn đây hai anh em mình đốt nhang thề kết nghĩa đệ huynh luôn, chú mầy có chịu hông?
Phục rụt đầu sát cổ:
-Em phải làm học trò chớ, còn anh làm thầy mà! Đâu có xuống hạng khơi khơi được ! Em cũng thôi kêu "anh" mà phải gọi bằng "thầy" mới được.
Nghệ trề môi:
-Cái thứ dạy kiểu cà rỡn như anh mà làm thầy, làm bà gì. Xưng hô long trọng quá chắc khớp dạy hổng nổi. Thôi trước sao, sau vậy! Cứ làm anh em với nhau cho thoải mái.
Thấy Nghệ dần dần thay chỗ mình, bám theo Phục học nghề giăng câu, thả lưới chú Chín rất mừng. Cho dù mến và hàm ơn chàng nhiều lắm, nhưng chú vẫn nhận ra Nghệ sống không thực tế, ít chịu làm việc tay chân. Cũng may lý lịch của Nghệ tương đối sạch sẽ, không có bà con làm việc ở chế độ cũ. Chớ nếu không, bị mất cái nghề dạy học thì chẳng biết chàng ta làm việc gì để sống. Cho nên chú rất lo cho tương lai của con gái và cháu ngoại của mình.
Chú so sánh Nghệ như chiếc xe đạp rất mỏng manh, yếu ớt đang dựng ở góc nhà. Nó chỉ chạy trên những con đường làng phẳng phiu, thẳng đuột. Mỗi khi gặp phải nơi gồ ghề, khúc khuỷu thường bị "banh ta lông" rồi nằm ì một chỗ.
Mấy lúc sau nầy Nghệ hay rủ Phục về nhà mình. Chỉ có nơi nầy chàng mới cảm thấy được tự do hoàn toàn, không phải suy nghĩ những người xung quanh thích mình làm gì, nói gì...rồi làm theo y chang mà còn lo nơm nớp. Ở cái góc riêng biệt nầy chàng tha hồ sống đúng ý mình. Thỉnh thoảng đang chấm bài cho học trò bỗng buông cây viết, ngửa cổ hít sâu để lấy hơi rồi ngâm một câu thơ sao cho thật diễn cảm mà không sợ bị ai chê khùng.
Những lần được Nghệ rủ, Phục thường đem theo một xị rượu đế và mấy con khô, con cá...Họ chỉ nướng chúng lên rồi xé ra, bưng nồi cơm nguội lại rồi cùng bóc ăn với nhau, vậy mà nghe ngon và đậm đà hết sức!
Cả hai đều không phải là dân nhậu, thế nhưng họ cần một chút men để khơi dậy cảm xúc, gợi lại những kỹ niệm xa xưa và chia sẻ tấm chân tình.
Trong một lần như vậy, Nghệ đã say và tâm sự với Phục, giọng bùi ngùi:
-Chú em mầy coi vậy mà sướng hơn anh...
Phục ngắt lời:
-Anh có đủ thứ còn đòi gì nữa? Vợ nè! Con trai nè! Nhà cửa, ruộng vườn nè! Còn biết làm đủ thứ nữa: Dạy học, vẽ, ca, hát, đờn...
Nghệ thở dài:
-Nhưng lại không biết làm cái thứ quan trọng nhứt!
Phục hỏi:
-Làm gì?
Nghệ gằn từng tiếng:
-Làm đàn ông!
Phục bắt bẻ:
-Không biết làm đàn ông thì anh đâu có làm cha thằng Nhân!
Nghệ lắc đầu:
-Nó là của thằng Thụ đó. Cái thằng đó khôn tổ mẹ. Chú biết tại làm sao thiếu gì người mà nó lại nhờ anh giữ giùm vợ con của nó hông?
Không chờ Phục trả lời, Nghệ nói tiếp:
-Tại nó biết anh bị bại liệt, cả đời chỉ nằm chớ không có đứng lên nổi. Giao trứng cho anh thì an toàn nhứt trong đám bạn! Đâu có mỏ mà mổ!
Phục nghe mà rúng động cả người. Chàng bỗng buột miệng:
-Tội nghiệp cho...
Nghệ nhìn sâu vào mắt Phục, rồi hỏi:
-Chú em mầy thích Nhu lắm phải hông?
Nghệ lắc đầu:
-Anh đừng có nói bậy, tới tai chú thím Chín...
Nghệ cười:
-Ba vợ anh, ổng tinh ý lắm đó! Anh ngán ổng nhứt, má vợ anh thì đơn giản lắm! Qua mặt bả dễ ợt...Còn ổng thì...
Rồi Nghệ bỗng gắt:
-Mà anh sợ cái gì chớ! Thằng Thụ nó nhờ anh đóng thế vài năm thôi! Mai mốt nó về là anh giao lại đàng hoàng, vợ con nó còn nguyên chẳng sứt mẻ miếng nào!
Phục hỏi:
-Đó là do anh nghĩ hay y hứa?
Nghệ đáp:
-Nó hứa với anh, có giấy trắng mực đen hẳn hoi. Anh còn giữ lại để mai mốt có đường mà tháo thân chớ!
Rồi để chứng minh, Nghệ đi lại bàn thờ, mở khung ảnh của bà ngoại, lấy tờ giấy tập gấp làm đôi lót sau lưng tấm hình ra đưa cho Phục.
Phục cầm lên đọc, chẳng biết trong thơ nói cái gì mà mồ hôi tươm đầy cái trán rộng của y, rơi xuống lá thơ và làm nhòe đi mấy chữ.

Phục gấp lá thư lại như cũ, trả cho Nghệ rồi hỏi:
-Cô Nhu biết mấy chuyện nầy chưa?
Nghệ gật đầu:
-Anh có nói cho cổ biết ngay từ cái ngày mới cưới về. Sợ cổ thấy anh không đụng tới thì cho là mình bị xem thường, suy nghĩ lung tung rồi tủi thân.
Phục hỏi :
-Cổ có nói gì hông anh?
Nghệ đáp, giọng buồn thiu:
-Cổ nói cổ mang ơn anh cho tới già, tới chết. Cổ không hề mong gặp lại Thụ cũng không thích chuyện gần gũi. Anh muốn làm thế nào cũng được! Cổ đã lạỵ bàn thờ nhà anh rồi thì tự coi mình có bổn phận là vợ của anh, là dâu trong giòng họ. Bây giờ cổ chỉ có mục tiêu duy nhứt là làm tròn phận sự của một người vợ, nuôi con và trả hiếu cho ba má. Cổ xin anh giữ kín giùm đừng nói cho ai biết, kẽo gia đình cổ mang tiếng.
Phục hỏi :
-Vậy sao anh còn nói với em chi vậy?
Nghệ đáp:
-Anh biết lương tâm chú đang cắn rức. Cho rằng mình chơi với bạn mà thương thầm, nhớ trộm vợ bạn là không có đúng. Chú yên tâm đi, cổ không phải là vợ anh đâu.
Thấy Phục cúi gầm mặt, không dám nhìn mình. Nghệ biết y xấu hổ nên an ủi:
-Mình thương người dưng khác họ thì đâu có tội lỗi gì. Miễn đừng để cái tình đó xúi giục rồi làm điều bậy bạ, ảnh hưởng đến mọi người.
Giọng nói của Nghệ hiền và ấm áp quá khiến Phục cảm động.
Phục hỏi như muốn chia sẻ tâm sự:
-Hồi nào tới giờ anh có làm cái chuyện gì mà cứ nhớ tới hoài. Mỗi lần nghĩ đến là ăn năn, xấu hổ... thiếu điều muốn nhảy xuống sông mà tự tử hông?
Nghệ lắc đầu :
-Chưa đến nổi như vậy nhưng có một chuyện làm anh bức rức hoài. Hồi đó anh có ăn cắp tiền của ngoại rồi đổ thừa cho ông anh bà con, làm ảnh bị đòn gần chết. Anh chưa kịp thú tội thì ảnh đi lính rồi tử trận. Anh kể cho ngoại nghe. Ngoại nói chuyện đó nhỏ xíu hà, ảnh không có nhớ mà đem theo đâu. Ngoại biểu anh đừng có nói cho cậu Hai, là ba ảnh, nghe. Ngoại không phạt mà còn vuốt tóc anh và nói "tội nghiệp cháu tui".
Sợ Phục không hiểu Nghệ giải thích:
-Những người lỡ tạo tội, họ thường bị dày dò khủng khiếp lắm ! Họ đã tự trừng phạt rồi, mình bồi thêm nữa làm chi cho người ta thêm khổ!
Phục bỗng ngước nhìn Nghệ rồi hỏi:
-Anh có thương cổ hông vậy?
Nghệ đắn đo một lát rồi gật đầu:
-Có, nhưng chắc ít hơn chú.
Phục hỏi tiếp:
-Anh có khổ như em không?
Nghệ nói một cách từ tốn:
-Thật ra thương được một người, đó là điều may mắn nhứt. Cái tình thương ấy giúp cuộc đời thêm đẹp và có ý nghĩa. Chính cái ý tưởng phải chiếm giữ họ mới khiến cho mình khổ sở điêu đứng. Chú cứ thương thả giàn, miễn đừng nghĩ phải lấy cổ làm vợ là được.
Phục hỏi:
-Sao anh không ghen mà còn đòi làm bạn và dạy đờn cho em nữa vậy?
Nghệ cười:
-Nói chú không tin chớ cái tình của anh nó khác hơn thiên hạ. Anh coi cổ như một bài thơ vậy. Hể thấy ai cũng thích như mình thì mừng lắm! Có khi còn thương luôn người đó nữa.
Phục nói như thú tội:
-Em đâu có muốn thương cổ nhiều dữ vậy! Biết là mình không có xứng và bị cổ ghét ra mặt nên ráng lùi lại mà làm hổng nổi.
Phục lại thở dài:
-Em cứ xúi má bán nhà, bán đất rồi về Biển Hồ ở mà bà không chịu. Má em nói bà con ở đây tốt lắm! Lúc mới tới đây, hai mẹ con tay không, chưn ướt, chưng ráo...Nhờ láng giềng đùm bọc mới không bị chết đói, đã vậy còn cất được nhà, sắm được đất. Bây giờ đã bén rễ, bứng lên đem trồng chỗ khác sợ sống không nổi.
Nghệ hỏi:
-Dì Sáu có biết chú thương Nhu hông?
Phục cười khổ:
-Biết quá rành nên mới thúc em đi coi vợ như giặc đó ! Nói thiệt với anh, cái vụ cô Tím tránh mặt khiến chuyện hỏi, cưới không thành làm em mừng hết lớn! Cổ là bạn thân của cô Nhu, làm như vậy khó coi lắm!
Nghệ cười :
-Dì Sáu còn cái ý đó nữa không?
Phục thở dài:
-Còn chớ sao không? Có điều bà nói lần nầy không có coi dâu trong xóm nữa. Sợ có huông, lần tới mà cũng y như vậy, dám em ế vợ luôn!
Nghệ lại hỏi:
-Anh hỏi thiệt chú mầy nghe. Nếu ba má cô Tím chịu gả, chú có đi cưới người ta không?
Phục lại gật:
-Phải cưới chớ anh, ráng mà thương đặng má em có cháu bồng.
Nghệ chưa chịu buông:
-Rủi thương hổng vô thì sao?
Phục cự:
-Anh cứ hỏi dần lân hoài, em biết đường nào mà trả lời. Em thấy chuyện vợ chồng mà do mai mối, nó cũng giống cái ấm nước nguội ngắt để trên cái lò chưa nhúm lửa vậy. Mình phải đốt lá dừa lên, quạt cho nó cháy phừng phừng rồi bỏ củi vô đều đều, nấu riết thì nước cũng phải sôi.
Nghệ nghe Phục đáp như vậy thì cười tủm tỉm.
Phục bỗng nói một cách nghiêm trang:
-Nếu anh Thụ có vợ bên đó rồi không về, anh có làm mai cô Nhu cho em không?
Nghệ suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
-Anh thích mọi việc xảy ra một cách tự nhiên. Không muốn nhúng tay vào mai mối cho ai hết! Anh sợ mình hiểu sai sự việc, tưởng làm phước ngờ đâu mang họa đến cho người ta. Cái thứ mà bây giờ anh ngại cho nhứt là ý kiến đó!
Phục buồn thiu nói:
-Hỏi chơi cho vui thôi, chớ em biết chuyện đó khó thành lắm! Nói không phải trù ẽo. Cho dù anh có qua đời rồi cổ đi thêm bước nữa với em, cũng bị bà con dị nghị. Hổng chừng còn bị nghi ngờ là có dan díu trước, lúc đó còn khó coi chớ đừng nói chi anh còn sống sờ sờ. Cái chuyện của em, trước đây đã không có tương lai gì ráo! Bây giờ còn kết bạn với anh, coi như hết đường "binh" rồi!
Sau câu nói đó, Phục ngồi im như đá.
Để phá vỡ lớp không khí nặng nề đang bao quanh. Nghệ vỗ mạnh hai tay vào nhau rồi nói:
-Thôi bây giờ mình bắt đầu tiến hành cái lễ kết nghĩa đi.
Nói vừa dứt lời liền bưng ly rượu đưa cao ngang trán, khấn:
-Có trời đất chứng giám! Hôm nay tôi, Lê văn Nghệ, xin nhận...
Nói tới đó Nghệ ngưng ngang rồi quay mặt qua phía Phục hỏi nhỏ:
-Chú họ gì?
Phục đáp còn nhỏ hơn:
-Phan văn Phục.
Nghệ lại cầm ly rượu đưa ngang trán rồi nói lại, bỏ bớt câu đầu:
- Hôm nay tôi là Lê văn Nghệ xin nhận Phan văn Phục làm em.
Nghệ định nói câu: " nguyện đồng sanh, đồng tử", nhưng thấy "xạo" quá nên thôi.
Nói xong Nghệ đưa lên rượu lên môi, sắp uống bỗng dừng lại nói:
-Nếu theo đúng sách vở thì mình phải rạch ngón tay trỏ, nhỏ vô đây ba giọt máu, khuấy đều lên rồi uống với nhau. Như vậy mới đúng thủ tục.
Phục nghe vậy liền đâm đầu chạy.
Nghệ hỏi:
-Chú chạy đi đâu vậy?
Phục trả lời:
-Em vô bếp lấy cây dao.
Nghệ lật đật cản:
-Nói vậy thôi, chớ máu tanh rình làm sao mà uống nổi?
Chàng đưa chung rượu lên môi, tợp một hớp đúng y bon nửa ly, rồi đưa qua cho Phục.
Phục cũng làm đúng cái động tác của Nghệ, lập lại câu nói của anh, chỉ sửa đổi ít chữ cho phù hợp:
-Hôm nay tôi là Phan văn Phục xin nhận Lê văn Nghệ làm anh.
Rồi cũng đưa ly rượu lên môi, uống cái ót không chừa một giọt.

Không biết có phải nhờ những lời tâm sự chí tình của họ, hay nhờ con gà trống tơ của thím Chín thịt chắc lọi, vừa ngon, vừa ngọt, vừa thơm mà buổi tiệc kết nghĩa ấy rất vui, rất cảm động, ngoài sức tưởng tượng của cả hai.
Nghệ mừng lắm vì từ nay có thêm một người bạn hiền lành, chơn chất, như thầm mong đợi. Phục tuy không được ăn học đến nơi đến chốn, nhưng có cảm xúc thẩm mỹ, có thể cùng chàng chia sẻ cái hay của thơ, của nhạc. Điều mà đối với Nghệ quan trọng hơn hết.
Phục vì được Nghệ giải thích, khuyên nhủ nên đã tháo bỏ mặc cảm tự ti, trong lòng nhẹ nhàng, thoải mái, cười nói nhiều hơn lúc bình thường.
Lạ một điều, khi Phục còn cho là cái tình của mình với Nhu là tội lỗi, cái nhìn của mình lên Nhu là bất chính, thì có một cái gì đó cứ thôi thúc, buộc lòng luôn tưởng nhớ còn hai mắt thì dán vào Nhu một cách lén lúc. Bây giờ khi được Nghệ giải thích, cảm thông, chàng không còn bức rức nữa. Những cái nhìn âm u, mang màu sắc tối tăm ngày trước cứ thưa dần. Chúng cũng được gột sạch, giũ thẳng, đem phơi...Nên dần dà trở nên trong trẻo.
Bé Nhân giáp thôi nôi, thím Chín đang chuẩn bị tinh thần để chia tay cháu ngoại, thì Nghệ bỗng xin cho vợ con tiếp tục ở lại. Chàng viện cớ từ nhà mình đến trường Nhu dạy quá xa, rất bất tiện. Nhu ở đây đi dạy gần xịt nên dễ bề chăm sóc bé Nhân hơn.
Thím Chín mừng thôi là mừng, còn chú Chín thì ngược lại.
Chú để ý thấy Nghệ tuy ban ngày lân la, quấn quít bên vợ con nhưng tối chẳng bao giờ ngủ lại. Nhu thì hể dạy xong là chạy riết về nhà ôm con, xem ra họ chẳng dành thì giờ để...
Thoạt đầu chú khen là thằng con rể mình giỏi tiết chế, quá thương vợ nên...Nhưng đến lúc nầy, chú lại đâm ra nghi ngờ, lo lắng.
Chú còn nhớ khi vợ mới đẻ con so, má vợ chú rước về nhà bà nuôi đúng ba tháng. Chú ở nhà nằm chèo queo một mình, nhớ vợ thôi là nhớ!
Lúc đó ngày nào chú cũng lật cuốn lịch lên đếm từ tờ, sợ quên nên làm dấu sẵn trên đó. Đúng ba tháng không hơn một ngày, chú qua rước vợ về liền.
Bà nhạc khi đưa họ xuống bến đò còn kề tai chú dặn dò:
-Đáng lẽ má phải giữ vợ con ở đây thêm ít lâu. Đàn bà mới sanh, dạ con còn lỏng lẽo, chung đụng sớm là không có tốt. Má biết con tánh tình cứng cỏi, biết kềm, biết chế. Con ráng cử thêm năm, ba tháng nữa, càng lâu, càng tốt, cho nó chắc ăn nghe hông?
Chú gật đầu, dạ răm rắp. Tự nhủ phen nầy phải cố hết sức để không phụ lòng tin của má vợ. Thế mà kềm lòng không đậu, mới được có ba bữa là bái lạy mà đầu hàng.
Chú Chín bỗng nghe buồn cho con gái, nói riêng và giới nữ, nói chung. Ba cái chuyện tình cảm nầy, đàn ông có lợi thế hơn mấy người phụ nữ. Họ càng có nhiều kinh nghiệm trên tình trường thì càng ra vẻ tự cao, tự đại. Càng được khen là có số đào hoa. Cô nào được chọn làm vợ thì tự hào ghê gớm!
Ở người phụ nữ thì trái ngược hoàn toàn. Hể chấp nhận thương ai, quen ai là bị xuống giá liền, y như con tem bị đóng mộc. Nếu lỡ chia tay, vì bất cứ lý do gì cũng bị cho là chắc có "gì, gì" rồi nên mới bị bỏ. Khi về làm vợ thường bị mất "thớ" với bên chồng. Có khi còn bị dằn vặt, khinh khi.
Người đàn ông sợ nhứt bị cho là hưởng "đồ thừa" của người khác. Nếu lấy nhầm người đã lỡ "nhẹ dạ" với ai rồi, thì mang mặc cảm dữ lắm! Cho dù ra vẻ đại trượng phu, ngoài mặt cố tỏ ra khoan dung nhưng trong lòng họ cứ tích chứa, dồn nén nặng nề như đeo đá.
Phụ nữ thì ngược lại, bị chồng cắm sừng liên tục đến độ chẳng có lúc nào đội được nón, mở miệng ra là nói "không bao giờ tha thứ, sống để dạ, chết đem theo". Vậy chớ trong bụng nhẹ hều, chứa toàn bụi bậm, gió thổi một cái là bay mất tiêu mất biệt.
"Con mình nó có cái tì, cái vết rồi, cho nên đâu còn được trọng vọng nữa". Chú chắt lưỡi nhủ thầm. Nghe thương đứa con gái dại khờ của mình quá đỗi!
Chú nghĩ thầm, nếu mình là ông trời, sẽ để cho đàn ông, kẻ chủ động, phải mang nặng đẻ đau. Có vậy họ mới bỏ cái tánh trăng hoa, bớt trêu chọc khuấy rối phái đẹp.

Hôm nhà chú Chín có giỗ, bữa cúng tiên (đám giỗ cúng hai ngày: chiều hôm trước cúng tiên, sáng hôm sau cúng chánh) chỉ có mấy người trong nhà và mẹ con dì Sáu. Chú rắp tâm kéo dài thật lâu, ông trời hiểu bụng chú lắm nên xáng thêm một đám mưa mù mịt.
Đến tối hù trời mới tạnh, chú lấy cớ đường trơn chạy xe rất nguy hiểm, cầm chân Nghệ ở lại.
Chú không cho thím giăng mùng ở nhà trước để Nghệ ngủ như mọi lần, mà bảo chàng vào trong buồng nằm chung với Nhu luôn.
Khuya hôm đó, khi lén nhìn qua kẹt cửa. Chú thấy Nghệ vẫn để nguyên bộ đồ tây đang mặc, nằm dưới ván mà ngủ một cách ngon lành.
Cả đêm chú Chín nằm mở mắt thao láo, chú gát tay lên trán mà suy nghĩ đủ điều. Chú bỗng thấy giận Nghệ cành hông vì đã coi thường con gái mình.
Chú quyết định qua đám giỗ sẽ nói chuyện "phải quấy" với Nghệ, nếu thấy không êm thì bắt con gái lại, chớ không thể sống cảnh chồng hờ, vợ tạm như vầy mãi được.
Nghĩ đến vợ chú lại bùi ngùi. Thím Chín từ trước tới giờ được bà con trong xóm nể trọng. Thím thường tỏ ra tự hào, cho là gia đình mình thuộc hạng nề nếp, có danh, có tiếng trong xóm. Nay gặp cảnh nầy chắc mất mặt ghê lắm! Đây rồi buồn rầu dám sanh bịnh chớ hổng chơi.
Nằm hồi lâu nghe nóng cái lưng, chú bèn tốc mùng, mở cửa ra ngoài hàng ba đưa võng cho mát.
Tiếng võng kẽo kẹt làm thím Chín thức giấc, liền bước ra xem. Thấy chú thòng chưn xuống ván đẩy cho cái võng đưa qua, đưa lại, thím hỏi:
-Giờ nầy sao còn chưa chịu đi ngủ mà ra đây nằm cho muỗi nó chích?
Chú trả lời:
-Hồi nãy uống có mấy chung, chưa đủ đô cái bị bà cự nự. Trong mình sật sừ, khó ngủ quá!
Thím Chín cười rồi nói mát:
-Vậy để tui đem chai rượu ra, mời ông uống sạch bách đặng ngủ cho ngon nhe?
Chú cười:
-Uống khơi khơi, không mồi, không bạn, ai mà uống cho vô!
Rồi chú hỏi lại:
-Còn bà sao hổng lo ngủ đi, mai còn nấu nướng, rồi còn tiếp khách khứa lu bu nữa.
Thím Chín nói:
-Dậy sớm đặng bắt gà làm sẵn. Sáng bà con tới là bắt tay vô nấu liền cho kịp.
Chú Chín xua tay:
-Để cái chuyện đó tui lo cho. Sáng mai tui sai thằng Phục, thằng Nghệ, hai đứa nó làm chút xíu là xong. Cái gì tụi nhỏ làm được thì giao cho chúng làm. Bà thì giống gì cũng ôm hết rồi mai mốt than đau, than nhức. Rồi bắt cạo gió làm tui mỏi tay gần chết!
Thím Chín "hứ" một tiếng rồi nhiếc:
-Lâu lâu nhờ cạo gió một lần mà cũng lên mặt. Ông có biết bắt con gà nào để làm thịt hông? Giao cho ông, chắc mấy con gà mái tơ đang đẻ của tui chui vô nồi hết ráo!
Chú Chín gắt:
-Vậy thì bà bắt nhốt sẵn đó, rồi đi ngủ liền cho tui nhờ!
Thím Chín thấy chú hối thì bực nhưng cũng nghe khoái trong bụng.
Thím nghĩ thầm: "Thằng cha nầy coi bộ về già sanh tật. Hồi trước đâu để ý tới chuyện bếp núc. Bây giờ cái giống gì cũng xía vô".


Hôm đám thôi nôi bé Nhân, Nghệ đạp xe chở ông thợ chụp hình trên chợ Tân Phú tới, chụp mấy "bô" mẹ con Nhu đặng gửi qua cho Thụ.
Từ ngày giao cái nhiệm vụ "thiêng liêng" lại cho Nghệ, Thụ bỗng im hơi lặng tiếng.
Sau đám cưới Nghệ có gởi thư và vài tấm hình cho Thụ nhưng chẳng thấy hồi âm. Nghệ giận nên cũng không thèm viết thêm cho y. Ngại Thụ cho là chàng kể công, đòi hỏi cái nầy, cái nọ.
Bất đắc dĩ Nghệ phải gửi thư, và hình đặng nhắc khéo Thụ. Chàng báo cho y biết là hình như chú Chín đang nghi ngờ và để ý dò xét.
Nửa tháng sau, Nghệ nhận được một phong thơ dày cộm, vừa mở thì mấy tấm ảnh trong đó rơi ra. Nghệ lượm lên xem rồi đứng chết trân.
Hai tấm ảnh chụp Thụ một đứng, một ngồi bên một người phụ nữ và một đứa bé. Mấy dòng ghi chú sau lưng bức hình làm Nghệ chới với : "Ảnh chụp lúc bé Lộc được ba tháng tuổi " và, "Ảnh chụp khi con trai được tròn một tháng".
Bức thư dài tới hai tờ giấy tập. Nét chữ ngoằng ngoèo như của người mới biết viết. Nghệ cầm mà chẳng muốn đọc vì đã biết trước nội dung.
Ngay đầu thơ, Thụ đã mở lời xin lỗi, giải thích vì sao chàng bặt tin, hơn một năm nay chẳng thư từ vì cho Nghệ.
Thụ viết rằng mình gặp tai nạn nghiêm trọng và bị thương ở cánh tay mặt. Các vết thương rất nặng nên phải nằm bệnh xá mất mấy tháng. Bây giờ tuy đã lành nhưng để lại hậu quả là cầm, nắm rất khó khăn. Trong thời gian điều trị, chàng được Lan, người trong ảnh và bây giờ đã là vợ Thụ, tận tình chăm sóc. Họ dần nảy sinh tình cảm, kết hôn rồi có con với nhau.
Thụ xin lỗi và năn nỉ Nghệ, lỡ đốn rồi thì vác luôn giùm, đã cưới rồi thì hãy xem Nhu như vợ. Lời hứa trước đây Thụ không thể nào thực hiện. Tai sao thì Nghệ xem hình cũng đủ hiểu.
Thụ viết:
-"Làm ơn cho trót, gọt cho trơn. Bây giờ mầy bỏ ngang thì tội nghiệp cho Nhu biết mấy! Cái bịnh của mầy tao có hỏi thăm một ông bác sĩ đông y. Ổng nói mới lần đầu bị bế tắc là chuyện rất bình thường. Có khi đó là do yếu tố tâm lý. Phải thử vài lần với người khác, hoàn cảnh khác, tâm trạng khác mới có thể kết luận được. Tao có xin một bài thuốc gửi kèm. Mầy đem tới tiệm thuốc bắc bổ về mà uống liền nghe! Bài thuốc nầy quý và hay cực kỳ, nghe nói ngày xưa vua, chúa triều Nguyễn hay dùng..."
Nghệ đang đọc bỗng nghe tiếng chú Chín gọi ngoài cổng nên lật đật bỏ lá thơ vào túi áo rồi chạy ra mở cửa.
Chú Chín chỉ cho Nghệ xâu khô đang treo tòn teng trên ghi đông của chiếc xe đạp rồi nói:
-Có người cho một gói khô cá sặc bổi, ba đi chùa sẵn ghé đem qua cho bây mấy con. Bà ngoại thằng Nhân hỏi sao hôm qua bây không ghé ăn cơm, làm cái thau gỏi sầu đâu bả trộn cho thiệt ngon mà bị ế. Bả cứ tiếc hùi hụi, phải cho bớt má con thằng Phục.
Thấy gương mặt của Nghệ tái nhách. Chú Chín hỏi:
-Bây có bịnh gì hông mà cái mặt mét chằng, mét ưỡn vậy?
Nghệ ráng nở một nụ cười méo mó mà trả lời:
-Hồi tối con mắc chấm bài nên không đi ngủ sớm được. Tại quá giấc rồi thức luôn tới sáng nên sắc mặt khó coi, chớ trong mình khỏe lắm, không có bịnh gì hết.
Chú Chín thở dài:
-Nghề dạy học coi vậy mà tổn thọ lắm! Cái bụi phấn nó có chất vôi nên hết sức là độc. Đâu bây đi rọi kiếng thử coi. Dạy học sáu, bảy năm rồi hít vô không biết bao nhiêu mà nói. Để hoài coi chừng bị nó đục cho phổi lủng như cái rỗ là hết đường sống. Kềm cặp cả trăm đứa học trò cũng đâu phải chuyện dễ, hao hơi, tổn sức dữ lắm! Nhắm mệt quá không kham nổi thì bỏ quách đi con ! Ba thấy thầy cô giáo bây giờ bỏ dạy rần rần. Họ làm nghề khác, đi buôn rồi khá lên ngó thấy, có người còn sắm được vàng nữa đó!
Nghệ cười:
-Người ta có sức khỏe, có tay nghề. Có vốn, có tài buôn bán mới dám làm vậy. Còn con thì...
Chú Chín gợi ý:
-Hay là con nhờ thằng Phục nó chỉ cho cái nghề trồng núm đi. Ba thấy cái thứ đó coi vậy mà có ăn lắm nghe! Hôm mùa nước nhà nó mất trắng, vậy mà mới hái mấy đợt đã gỡ vốn lại được liền.
Thấy Nghệ làm thinh, có vẻ như xiêu lòng, chú nói thêm:
-Vợ chồng con mà chịu làm thì ba cho đứt hai công đất sát sau hè. Chỗ đó đất bằng chan, tốt lắm. Để ba kêu thằng Phục nó lên liếp, tửu rơm giùm cho.
Nghệ vừa gãi đầu, vừa dạ luôn miệng.
Chợt nhớ ra cả hai còn đứng trước cổng nên chàng vội mời:
-Ba vô nhà ngồi trước để con chạy lại quán mua cà phê. Ba uống cà phê sữa đá nghe ba!
Chú Chín lắc đầu:
-Uống trà được rồi, bày đặt cà phê làm chi cho mắc công đi mua? Trong nhà còn trà hông?
Nghệ lúng túng:
-Dạ còn mà không có nước sôi. Nhúm lửa mắc thời giờ, lâu lắc lắm ba, để con đi mua cà phê rồi xin luôn một bình trà đặng hai cha con mình uống với nhau.
Chú Chín định từ chối, tính nói để mình nhúm lửa nấu nước cho, nhưng sợ Nghệ ngại.
Chú suy nghĩ: "Mình phải giữ cương vị bề trên. Đâu có ông già vợ nào lại đi nấu nước, chế trà cho con rể uống. Thiên hạ biết được là cười thúi đầu. Phải giữ nề giữ nếp kẽo sau nầy nó xem thường rồi leo lên đầu mà ngồi". Nghĩ thế nên không thèm kêu lại khi thấy Nghệ bỏ cẳng chạy đi.
Dựng chiếc xe dưới cầu thang xong, chú lấy xâu khô ra xách lên nhà rồi đi thẳng ra nhà sau, treo xâu khô cạnh mấy trái bắp trên cây đòn gác ngang nhà bếp.
Nhìn váng nhện giăng đầy mái, chú thở dài chắt lưỡi:
-Nhà gì mà bầy hầy y như ổ chuột.
Đưa tay sờ lên cái bộ ván ngựa kê gần đó chú lại lầm bầm:
-Không có bàn tay đàn bà nên rớ vô đâu cái tay cũng dính bụi.
Chú lấy cây chổi lông gà treo trên cây cột gần đó rồi quét. Bụi bay mù mịt khiến chú mắc ho khan. Quét xong, treo cây chổi lên cây cột rồi lột cái khăn trên đầu xuống. Chú đập mạnh khăn vô mình để phủi lớp bụi bám khắp người.
Chú lấy cái gáo, mở nắp lu nước nấu ăn, tợp một hớp, xúc lia lịa rồi phun xuống đất. Múc thêm một ca rửa mặt cho sạch rồi lau.
Cái nồi gang khói bám đen thui, nắp đóng không khít khiến chú ngứa tay, mở ra nhìn vào coi hôm qua Nghệ nấu món gì: Lớp cơm cháy dày cộm bám đáy nồi, một chén mắm chưn còn phân nửa cũng nằm gọn trong đó!
Chép miệng thở dài, chú nói một mình:
-Ăn uống kiểu nầy hèn gì cái mặt xanh lè.
Chú bước ra nhà trước, đi lại cái bàn trà kê giữa nhà rồi kéo cái ghế có lưng dựa ra ngồi. Thấy có mấy tấm hình trên bàn bèn cầm lên coi.
Nheo sát hai con mắt để nhìn cho rõ nhưng chú chỉ thấy mờ mờ, bèn lấy cặp soi trong túi ra, hà hơi vào hai cái tròng rồi kéo vạt áo lên lau cho sáng. Chú đeo nó vào mắt, cầm tấm hình bằng cả hai tay, đưa lên nhìn...
Khi Nghệ bưng ly cà phê vào thì thấy chú Chín đang ngồi trầm ngâm. Nghe tiếng chân Nghệ tới gần, chú liền đặt hình lên bàn như cũ.
Tháo cặp soi xuống, chú xếp lại cẩn thận bỏ vô túi áo rồi nói:
-Bữa nay ba qua đây, gặp con để nói ba điều, bốn chuyện...

Xóm Cầu Ván một lần nữa lại xôn xao với cái tin Thụ đã đặt chân lên đất Mỹ, không phải một mình mà cùng với một cô vợ rất xinh và thằng con trai bụ bẩm.
Mợ hai Thọ khi đi công chuyện trong xóm, không quên bỏ vào túi áo mấy tấm hình để hể có bà con nào hỏi thăm tới là móc ra khoe liền.
Ông trời hình như chỉ có một số lượng hạnh phúc nhất định. Hể cho người nầy là phải lấy bớt của người khác. Không khí trong nhà cậu mợ hai Thọ nao nức bấy nhiêu thì nhà chú thím Chín ủ dột bấy nhiêu. Thím Chín lại đâm ra ngại gặp gỡ bà con lối xóm.
Đã vậy cả tuần nay, Nghệ cũng không xuất hiện. Thím hỏi con gái thì nghe Nhu đáp là Nghệ phải về sở để lo ba cái chuyện giấy tờ gì đó.
Nhu là người sau chót trong xóm biết chuyện Thụ đã có vợ, có con. Cô đón nhận nó với gương mặt trơ lì, vô cảm và một tâm hồn tan nát.
Thím Chín lại bắt đầu rầy la như trước. Những chữ "tâm hơ, tâm hất", "lộn hồn, lộn vía" ... Đã bị bỏ quên nay được thím nhắc đi, nhắc lại mỗi ngày. Chỉ có chú Chín là nhìn Nhu bằng tia mắt cảm thương. Cái tiếng gọi "con gái" hiếm khi xài tới, được chú dùng hẳn luôn từ đó.
Một hôm thấy Nhu ngồi ôm con mà mắt nhìn tận đâu đâu. Bé Nhân, giờ đã biết đi, cố nhoài ra khỏi lòng mẹ để chạy theo mấy con gà ngoài sân. Nó cọ quậy mãi và sắp khóc đến nơi mà cô vẫn không để ý. Chú Chín nãy giờ không rời mắt khỏi Nhu bèn bỏ ngang câu chuyện đang nói với vợ, gọi cô một cách vô cùng âu yếm:
-Con gái ơi!
Cái tiếng goi tha thiết như một lời van xin, đầy ấp tình thương ấy, khiến Nhu chợt tỉnh. Cô nhìn lại ba mình, cười thật dịu dàng và hỏi:
-Cái gì vậy ba?
Chú Chín chỉ bé Nhân rồi nói:
-Con ôm lâu quá nên nó nực, đòi đi chơi đó!
Nhu giật mình, vội đặt con xuống đất.
Canh cánh bên mình một nỗi buồn lo to tát mà chẳng thể hở môi cùng ai, kể cả vợ, con và rể, khiến chú Chín ngủ chẳng yên và ăn cũng mất ngon.
Thím Chín đâm ra nghi ngờ cái tài nấu ăn của mình, bởi thấy cả nhà không còn mặn mà với những món mà mình chăm chút như ngày trước nữa.
Nhìn nồi cơm mới ăn được hơn phân nữa và dĩa cá chạch xào cà ri còn đến một phần ba mà mọi người đã buông đũa. Thím bèn hỏi chú, giọng rầu rầu :
-Bộ lúc nầy tui bị lụt nghề rồi hả ông?
Chú Chín ngạc nhiên:
-Đâu mà có, sao bà hỏi kỳ vậy?
Thím chỉ vào mâm cơm, nói bằng giọng chán nản:
-Ngó vô cái mâm là biết liền. Mọi lần cha con ông vét sạch bách, bây giờ ngày nào cũng còn dư đồ ăn. Có khi con Nhu còn bỏ mứa .
Chú lựa lời để an ủi vợ, bởi biết cái lãnh vực nầy dễ làm thím tổn thương dữ lắm:
-Bà nấu càng ngày càng cao tay hơn đó chớ! Tại hổm rày cái dạ dày của tui nó hổng êm. Trong bụng cứ lình bình như có ai nhét một cục bông gòn thiệt là bự ở trỏng. Cái món cá chạch nầy ngon quá trời, quá đất! Tại tui sợ ăn nhiều không tốt. Ba cái nước cốt dừa nó không tiêu hết ráo, sanh ra chất chua khiến mấy hột cơm vón lại lục cục, lòn hòn. Nó lăn qua, lăn lại ở trỏng suốt đêm rồi ngủ không có được.
Gương mặt thím Chín hơi tươi hơn một chút, thím rầy:
-Vậy sao hổng nói để tui đi mua cho ông một gói thuốc tiêu mặn.
Chú Chín lật đật ngăn vợ lại:
-Chớ có mua nghe hông! Bộ bà không biết là uống cái thứ đó riết là bị ung thư bao tử hay sao?
Thím Chín giựt mình:
-Vậy hả ông? Tui uống hoài, hể nghe đau đau, nóng nóng cái chớn thủy, quậy một muỗng uống vô là nó im ru liền. Bây giờ phải làm sao đây ông?
Chú gắt:
-Phải bỏ nó liền chớ còn làm trăng, làm sao gì nữa. Bắt đầu từ hôm nay, mỗi ngày bà mài một củ nghệ uống vô cho tui. Nghệ trị ung nhọt bên trong hay lắm đó!
Nói rồi chú đứng lên một cái rột đi lại chỗ bồ lúa. Thím Chín ngó theo đăm đăm. Lát sau thấy chú xách cái xuổng đi te te ra vườn.
Thím Chín hỏi theo:
-Ông đi đâu vậy?
Chú không ngoái lại, đáp:
-Đi đào nghệ chớ đi đâu.
Thím cằn nhằn:
-Người gì đâu mà tánh tình y như ấm nước sôi còn ngồi trên hỏa lò, cái nắp cứ nhảy tưng tưng. Giờ nầy gần chạng vạng rồi mà không chịu để cho ông thổ địa nghỉ ngơi.
Thím đang lui cui dọn dẹp bỗng nghe tiếng xe đạp thắng sát bên mình. Thím ngước mắt lên nhìn, Nghệ vòng tay cúi đầu chào:
-Thưa má con mới qua.
Thím Chín tay còn bưng cái mâm, hỏi:
-Ăn cơm chưa con?
Nghệ nhìn dĩa cá chạch xào cà ri với bún tàu, nấm mèo, kim châm, củ hành tây, đậu phọng rang... mà nước miếng tươm ra đầy miệng. Chàng lắc đầu nhè nhẹ.
Thím Chín mừng như được chàng rể hai tay dâng tặng cho mình một xấp lãnh Mỹ A. Thím đặt cái mâm xuống chõng trở lại rồi hấp tấp ra nhà sau lấy thêm một cái chén và đôi đũa sạch. Trong khi đó thì Nghệ đi rửa hai trái ớt, một đỏ tươi, một tím đen vừa mới hái.
Thím Chín cào sát cái vá bới cơm vào vách nồi để vét sạch mấy hột cơm hông, lòn sát đáy để moi miếng cơm cháy lên rồi bới vô chén mà đưa cho con rể.
Nghệ bỗng nghe cảm động khi thấy má vợ chịu khó lấy lớp cơm ấy lên vì biết mình rất ưa cái chất giòn và mùi thơm của nó.
Chàng nhận chén cơm thím trao bằng cả hai tay. Thím Chín cầm muỗng múc cái nước vàng tươi sền sệt rưới lên miếng cơm cháy rồi bảo Nghệ:
-Ăn đi con!
Nghệ lật đật gắp lên rồi nhai rôm rốp.
Thím Chín nhìn Nghệ ăn một cách ngon lành mà nở từng khúc ruột.
Nghệ "chèo" một cách mãi miết. Cái máy "nghiền" của chàng hoạt động hết công suất nên nóng dần, khiến trên mặt, trên trán lấm tấm những giọt mồ hôi.
Thím Chín bước lên nhà lấy cây quạt mo cau. Thím trở xuống liền, lặng lẽ ngồi sau lưng Nghệ mà quạt nhẹ nhẹ, xua cái nóng đi để nó khỏi làm ảnh hưởng tới khẩu vị của chàng.
Mấy ngọn gió từ lòng sông, nãy giờ đứng rình chớ chưa dám bước tới, thấy vậy bèn ráp nhau chạy ùa vào nhà rồi sẵn trớn tràn đi khắp chỗ. Chúng được thể còn leo lên đầu của Nghệ mà giỡn, khiến tóc chàng cũng nhảy nhót theo.


Thím Chín chực sẵn, hể chén cơm trong tay Nghệ vừa hết là bới thêm liền. Khi cái nồi cơm còn trơ đáy và dĩa cà ri sạch như lau, thím mới chịu buông tha cho chàng rể quý.
Thím bảo:
- Con ra võng nằm nghĩ một chút đi, khoan có uống nước.
Nghệ thấy thím lui cui dọn dẹp bèn hỏi:
-Nhu đâu rồi má?
Thím Chín ghẹo:
-Ăn no rồi mới nhớ tới vợ hả? Mẹ con nó chắc đi hái bông...
Thím vừa nói đến đó đã nghe tiếng bé Nhân gọi từ phía sau:
-Ba!
Nghệ quay mình, bỏ chưn xuống đất rồi chạy miết lại ôm con.
Bé Nhân đưa cho Nghệ cành bông điệp đang cầm trong tay, nói từng tiếng:
-Cho...ba...bông.
Nghệ bế con đặt lên chõng rồi ngồi xuống bên cạnh.
Thím Chín cản:
-Bồng em lên đi con, để má lau cái chõng cho thiệt sạch cái đã.
Nhu giành lấy cái khăn trong tay thím Chín vừa lau vừa hỏi Nghệ:
-Anh ăn cơm chưa?
Nghệ gật đầu :
-Anh mới tận diệt cái đám tàn quân của má. Má làm món cá chạch xào xả, cà ri ngon quá! Anh ăn một lèo, chừng buông đũa đứng lên hổng muốn nổi!
Nhu hỏi:
-Hổm rày anh có ăn uống cho đàng hoàng hông?
Nghệ gật đầu:
-Có chớ! Hổng ăn đặng chết sao?
Nhu gặng:
-Chắc cũng chắt nước cơm làm canh rồi bỏ chén mắm vô nồi cơm chưng luôn cho gọn, phải hông?
Nghệ cười đáp:
-Biết rồi còn hỏi.
Nhu chưa chịu thôi:
-Có hái rau lang, luộc cho mềm mà chấm hông?
Nghệ lắc đầu:
-Cái buồng chuối bên hông nhà đang chín. Anh không thèm đốn, để nguyên nó trên cây. Tới bữa ăn là ra thăm chừng, hể thấy chín trái nào là hái vô chấm với mắm ăn liền trái đó, tiện lắm!
Nhu cười:
-Ăn uống kiểu đó nên mới mấy ngày mà thấy khác liền. Ốm hổng nói gì nhưng cái mặt mụn không. Làm biếng thì để em xách cơm đem qua cho ăn.
Nghệ khoát tay:
-Thôi đừng, qua đò, qua sông phiền phức lắm! Để vài ngày anh ghé qua ăn chực một bữa.
Chợt chàng nhìn Nhu rồi hỏi:
-Bộ em mất ngủ hay sao mà hai con mắt đen thui như bị đóng khói đèn vậy?
Nhu cười buồn hiu không trả lời khiến Nghệ quá xót xa! Chàng móc trong túi đưa Nhu một cái gói.
Nhu hỏi:
-Cái gì vậy anh?
Nghệ cười giục:
-Mở ra xem đi:
Nhu tháo tờ giấy tập một cách cẩn thận, lấy ra một cây kẹp có kết chùm bông lục bình bằng voan.
Nghệ nói:
-Em bỏ cây kẹp cũ đi, nó nghiến tóc quá. Mỗi lần em tháo ra là anh thấy em nhăn mặt vì đau. Lần nào cũng có mấy sợi tóc bám trên đó.
Nhu không ngờ Nghệ quan tâm tới mình đến vậy, lại còn biết Nhu thích màu nầy, bông nầy nữa. Bất giác nước mắt rưng rưng, xúc động không nói nổi một lời. Cô lật đật bưng mâm cơm lại sàn nước, đầu cúi gập để Nghệ không trông thấy mình sắp chảy nước mắt.
Nhìn dáng đi của Nhu, Nghệ nghe lòng dậy lên một niềm thương cảm. Nghệ đoán trong thời điểm nầy Nhu đang tủi sầu, yếu ớt lắm ! Chàng biết hiện giờ mình cần phải tỏ ra vững chải để che chở cho cô.
Bé Nhân kéo ống quần Nghệ đòi bồng. Nghệ cúi xuống cõng con lên lưng rồi đi theo Nhu ra sàn nước, đứng cạnh một bên nhìn Nhu rửa chén.
Chú Chín từ ngoài hè đi vào, một tay cầm xuổng, một tay cầm mấy củ nghệ. Cái cảnh đầm ấm của vợ chồng con gái làm chú nghe khoan khoái trong lòng. Chú đi nhẹ và chậm hơn để không phá vỡ cái giây phút êm đềm đó.
Tiếng thím Chín hỏi to làm ba người cùng giựt mình:
-Ông làm cái giống gì mà đi lâu dữ vậy? Đào có một củ nghệ mà...
Nghệ lật đật đứng xa Nhu một chút rồi chào:
-Thưa ba con mới qua.
Chú Chín vừa cười, vừa hỏi:
-Con đi đâu mà ăn mặc lịch sự, coi bảnh tỏn quá vậy?
Thấy Nghệ lúng túng, Nhu đáp thay:
-Ảnh mới đi họp về đó ba!
Chú Chín đưa củ nghệ cho Nhu rồi nói:
-Con rửa cho thiệt sạch, đặng ba mài cho má bây uống!
Nghệ lật đật lập công:
-Để con mài cho ba.
Rồi hỏi tiếp:
-Má bị bịnh gì mà uống nghệ vậy ba?
Chú Chín thở dài:
-Bả đau bao tử kinh niên. Biểu mài nghệ uống hoài mà làm biếng. Đã vậy mà còn mua ba cái gói thuốc tiêu mặn tống vô...
Nghệ xuýt xoa:
-Cái thứ đó nghe nói độc lắm đó ba. Nó có thể ăn lủng dạ dày chớ hổng phải chuyện chơi.
Chú gật đầu:
-Con biết thì nói vô một tiếng để bả bỏ tiệt luôn. Mình ên ba nói hổng "xi nhê" gì hết.
Nói xong chú đi vào nhà, cất cái xuổng vô kẹt bồ lúa.
Nhu rửa củ nghệ, đưa cho chồng rồi nói:
-Anh lấy cái nắp đậy khạp muối, đưa cho em rửa rồi mài lên đó.
Thím Chín đưa tay về phía bé Nhân:
-Lại đây bà bồng, nãy giờ ba con cõng muốn cụp cái lưng rồi đó!
Thằng bé còn chưa muốn chịu, nó bám chặt hai vai Nghệ. Chàng dỗ:
-Con lại bà ngoại đi, một lát ba mài cái củ nầy xong rồi xích đu lơ cho, chịu hông?
Nghe vậy nó mới đưa tay qua cho thím Chín.
Cất xuổng xong chú Chín bước trở ra rồi ho khan một tiếng. Nghe chú ho thím quay đầu lại nhìn liền. Chú hất đầu ra dấu gọi vợ đi theo. Thím Chín hơi ngạc nhiên, định mở miệng hỏi nhưng thấy gương mặt chú có vẻ nghiêm trọng nên khớp, bèn riu ríu vâng lời.
Ra tận hàng ba, tới chỗ lu nước chú dừng lại rồi nói:
-Bà múc một gáo xối cho tui rửa tay cái coi!
Thím một tay nách cháu, một tay mở nắp lu rồi lấy cái gáo nhúng vào. Lu nước còn chưa tới phân nửa. Cái cán gáo ngắn ngủn nên thím phải để bé Nhân xuống rồi mới khom người múc.
Thím cự nự:
-Hồi nãy đứng ở ngoài sàn nước sao hổng chịu kêu con Nhu nó xối cho mà rửa?
Chú không trả lời, mà nói:
-Một lát bà lấy bộ đồ ngắn của tui, đưa cho thằng Nghệ mặc biểu nó tắm thay đồ rồi ở lại ngủ. Tối nay bà cho thằng nhỏ qua ngủ với mình. Để hai vợ chồng tụi nó thong thả một bữa.


Nghe chồng nói, thím Chín chợt nhận ra sự sơ suất của mình bấy lâu nay. Thím bỗng cảm thấy có lỗi với rể, vì đã đặt lợi ích của con gái và cháu ngoại lên hàng đầu.
Thím nhớ lại lúc vừa sanh Nhu. Cái thân hình "gái một con" của thím đã khiến chú Chín hể đi làm thì thôi, còn ở nhà là cà rà sát một bên vợ. Khiến má chồng trước kia vốn đã không ưa thím, nay lại ghét thêm. Đó là thời gian nồng nàn nhứt của hai vợ chồng chú thím.
Lúc đó sữa bò còn mắc lắm! Vậy mà chú Chín cứ mua lén rồi giấu trong cái buồng riêng của họ. Thím Chín cho con bú Sữa mẹ. Thím giống má mình nên hai trái sữa căng đầy, cho con bú một bên còn bên kia thím phải lấy cái chén để hứng sữa chảy ra.
Một hôm má chồng đột ngột bước vô phòng, thấy thím đang cầm hộp sữa lên tu, còn chú thì ngồi một bên ngắm vợ ra chiều thích thú. Bà đùng đùng nổi giận chửi cho họ một trận tơi bời vì cái tội hoang phí. Chú Chín mắc cỡ và sợ mẹ nên đâu dám nói là mua cho vợ uống để đền lại cho con gái.
Trong tứ đức "công, dung, ngôn, hạnh", chính cái chữ "dung" đã giúp thím đè đầu, cởi cổ chú Chín ngay khi còn sống trong sự kềm kẹp của mẹ chồng. Bà má chồng của thím chịu hết nổi phải cho họ ra ở riêng, để cái nhà cho lại cho cô con gái út, dù chú là con trai cuối. Theo lề thói thời đó, người con trai sau chót được hưởng trọn cái nhà để làm phủ thờ, và được chia cho phần đất lớn hơn để lo hương hỏa cho gia tộc.
Thím lật đật mở tủ lấy ra cái áo thun ba lỗ của chú, nó còn trắng bóc và thơm mùi long não vì chú Chín khoái ở trần cho mát. Thím lấy thêm cái quần xà lỏn cắt theo kiểu ông già dài gần tới đầu gối, đã hơi cũ và sút lai vì chú mặc hàng ngày, đem ra đưa cho rể
Nghệ đang ngồi cong lưng mài mãi miết. Củ nghệ lớn chỉ bằng ngón tay cái, hơi già nên rất cứng, mòn gần hết chỉ còn một mẫu nhỏ.
Thím Chín rầy:
-Nghệ thiếu gì, bỏ đi con, mài sát quá nó phạm vô da, đau lắm! Bây nhiêu đây là má uống tới ngán ngược rồi đó, nhiều quá xài hổng hết đổ bỏ cũng vậy hà!
Nghệ nghe má vợ nói vậy thì răm rắp nghe theo. Thím Chín bảo Nhu:
-Con xối nước cho ba thằng Nhân rửa tay.
Rồi thím hối Nghệ:
-Con đi tắm đặng thay bộ đồ đang mặc trong mình ra. Mồ hôi tươm ướt nhẹp hết rồi.
Nghệ từ chối:
-Dạ khỏi đi má! Con mặc luôn đặng đi về liền. Chiều rồi, sợ đò nghỉ đưa.
Thím Chín nạt:
-Vợ con ở đây mà đòi về với ai bên đó? Bây ngủ lại đây đêm nay đặng chơi với thằng nhỏ cho nó vui. Nãy giờ nó chờ được xích đu lơ đó!
Nghệ liếc nhìn Nhu, cô đang cúi đầu để giấu vẻ sượng sùng. Nghệ bỗng thấy thương Nhu quá, nếu chàng nằng nặc đòi về, chắc Nhu sẽ bị tổn thương nhiều lắm!
Nghệ bước đến bên Nhu nói nhỏ:
-Em xối nước giùm cho anh rửa cái tay.
Nhu cầm cái gáo, múc nước trong lu ra xối lên tay chàng. Màu vàng của nghệ bám dính khắng mấy ngón tay trắng như những viên phấn không chịu trôi.
Nhu đưa cho chồng cục xà bông đá màu ngà đậm, bảo:
-Anh phải dùng xà bông rửa mới sạch.
Phục đang đi đồng về thấy Nghệ thì mừng húm hỏi:
-Tối nay có ở lại đây hông anh Nghệ?
Nghệ đáp không ngần ngại:
-Có, chi vậy?
Phục đưa mấy trái bắp đang cầm trong tay lên nói:
-Em mót được mấy trái bắp, một chút nấu chè hai anh em mình ăn. Sẵn nhờ anh ôn lại giùm mấy cái bản đờn. Em mò tới mò lui lui hoài mà hổng ra.
Thím Chín chụp liền cơ hội:
-Đưa đây thím nấu cho, khỏi mắc công chị Sáu. Chè bắp bỏ nước cốt dừa cho nhiều mới ngon, dừa bên nầy minh mông. Thím còn mấy tán đường thốt lốt, chè bắp mà nấu với đường thốt lốt là thơm dậy trời, dậy đất.
Phục liền chạy tới đưa cho thím Chín mớ bắp, nói:
-Thím Chín mà nấu thì bảo đảm ngon hết sẩy!
Thấy Nghệ trán mướt mồ hôi đang hì hục kỳ cọ hai tay, chàng bèn rủ:
-Hai thằng mình xuống sông lội vài dòng cho mát đi!
Nghệ gật đầu:
-Phải đó!
Nhu nghe vậy thì buông liền gáo nước, đi lại dây phơi đồ bên hông nhà, rút cái chàng xà rông của chú Chín ban nãy lau lúc mới tắm xong, phơi còn chưa ráo, đưa cho Nghệ.
Cô lấy que tre ghim cục xà bông như ghim cây cà rem, trao chồng rồi nói:
-Anh gội cái đầu cho thiệt sạch vô!
Nghệ tròng cái chàng xà rông vào mình rồi mới lột bộ đồ ra đưa cho vợ:
-Em hong ngoài gió cho nó khô giùm anh.
Cảnh thân mật của họ khiến Phục mũi lòng. Y không đứng lại chờ Nghệ đi chung mà quày quả bỏ đi. Phục ghé nhà rút cái khăn đang vắt trên cây sào tre rồi xuống bến tắm trước.
Khi cả hai đứng kỳ lưng dằn công cho nhau, Phục hỏi:
-Anh có nghe cái chuyện thằng cha Thụ...
Không chờ Phục nói hết câu, Nghệ gật đầu, nói bằng giọng hằn học:
-Đồ cái thằng hèn. Nó nói nó với Nhu chưa hề quan hệ. Bé Nhân không phải là con của nó.
Phục giựt bắn mình, lắp bắp:
-Vậy là của ai?
Nghệ không trả lời, ngón tay cái miết mạnh lên lưng Phục hơn rồi hỏi:
-Chú còn cái ý định cưới Nhu hông?
Phục thở một hơi dài như sông rồi nói:
-Em mới nói mại hơi thôi mà bị má em chửi vuốt mặt không kịp. Bả hỏi bộ em khùng hả. Làm như vậy chẳng khác nào khai với bà con lối xóm là em và cô Nhu vụng trộm sau lưng anh.
Phục dừng lại thở thêm một cái nữa rồi nói tiếp:
-Má còn hỏi bộ em không biết cô Nhu ghét em tàn tệ hay sao mà còn mơ tưởng. Chính miệng cổ xúi con nhỏ Tím làm gia đình em bẽ mặt cho bỏ ghét.
Nghệ chới với:
-Có lẽ nào!
Phục quả quyết:
-Mợ ba Sáng, dì của con Tím, nói với má em mà!
Nghệ bỗng nghe buồn cho Nhu quá. Chàng không tin Nhu làm như vậy. Trong mắt Nghệ Nhu là một nạn nhân hết sức hiền lành, thuần khiết. Loại người chỉ bị người ta hại chớ chẳng nỡ hại ai bao giờ.
Sự thoái thác của Thụ và Phục khiến lòng Nghệ tràn ngập một lòng trắc ẩn đối với Nhu. Nghệ buồn nên ngón đàn của chàng đêm đó cũng lâm ly hơn bao giờ hết.
Thím Chín đã bồng bé Nhân sang buồng mình ngủ. Nhu nằm một mình, lắng tai nghe những bản nhạc tình dang dở ấy! Tự hỏi có ai viết ra được một bài hát về cuộc đời của cô không? Và nếu có thì sẽ được bao nhiêu người thương cảm. Cô bỗng nhớ đến một trường hợp mà chính mắt cô thấy. Cô Hai, chị ruột của ba cô, coi trên ti vi cái tuồng "Lâm Sanh Xuân Nương" thấy cái cảnh mẹ chồng ăn hiếp nàng dâu thì khóc thôi là khóc. Vậy mà cư xử với con dâu thì hà khắc nổi tiếng. Hình như người ta dễ cảm thông, chia sẻ với những người xa lạ mà thôi! Hoàn cảnh của cô chưa chắc được mọi người xung quanh hiểu thấu, an ủi mà có khi còn bị mắng nhiếc, khinh thường.
Nước mắt kềm giữ bấy lâu, nay bị tiếng đàn khuấy đảo nên tuôn ra như suối. Khi Nghệ bước vào đã thấy hai má cô ràn rụa. Mắt Nhu tuy nhắm kín nhưng gương mặt vẫn phơi bày một nỗi đau buồn cùng cực. Cái dáng nằm cong quắp với hai bàn tay kẹp giữa hai gối ấy trông cô độc, bơ vơ hơn bao giờ hết!
Không biết là Nhu đã ngủ hay thức? Có biết chàng đang ở bên cạnh và nghe được những lời sắp nói hay không, Nghệ vẫn trịnh trọng hứa, với cô và cả với mình:
-Anh quyết đem lại hạnh phúc cho em.


Nghệ thổi tắt cây đèn rồi nằm xuống bên cạnh Nhu, ôm cô một cách hết sức nhẹ nhàng. Chàng bắt đầu khám phá thân thể Nhu và thăm dò phản ứng của chính mình.
Ngược lại với lần đầu tiên, khi phó mặc cho một cô gái bán dâm dẫn dắt. Những cử chỉ dày dạn cùng mấy lời giải thích quá ư thô thiển ấy, hết sức trái ngược với sự tưởng tượng mà Nghệ lấy ra từ sách vở, đã khiến cảm giác của chàng đóng băng, đến trở thành vô cảm.
Lần nầy Nghệ được ở thế chủ động. Chàng không bị ném thẳng tay vào vùng đất lạ mà tự mình mò mẫm, mò mẫm, từng bước, từng bước một...
Chàng cảm nhận được rằng, các giây thần kinh cảm xúc đã bị tổn thương hết sức trầm trọng của mình, (khiến chàng đau khổ bởi cho rằng mình là người khiếm khuyết) đang hồi phục từ từ.
Những ngón tay quá rụt rè của chàng làm cho Nhu bất giác chạnh lòng. Nó xui cô liên tưởng đến hình ảnh của một đứa bé đang tập đi, lần đầu đặt chân lên mặt đất, bước chệnh choạng như sắp té giập mặt, hai tay đưa ra để cầu xin được dìu dắt.
Không phải dục tính mà nhân tính khiến Nhu phá bỏ cái tư thế phòng thủ. Không phải bản năng duy trì nòi giống mà sự khờ khạo của Nghệ đã khơi dậy trong cô cái thiên hướng của một người mẹ.
Sự trân trọng, e ấp của Nghệ, lòng bao dung của Nhu, đã giúp hai kẻ ngu ngơ, vụng về chưa từng học qua cái môn leo núi, dìu nhau lên tận đỉnh.
Buồng bên ngoài chú Chín cũng đâu có ngủ. Chú nằm im nhưng không bất động, đang tập trung tất cả các giác quan của mình, để nắm bắt các tín hiệu của đối phương.
Chẳng thể nghe thấy gì chú bèn ngồi dậy, bỏ chân xuống giường rồi rón rén (y như con mèo mướp đang rình mò trong bếp), đi từng bước đến đứng trước cửa buồng của họ.
Cây đèn trứng vịt được chong suốt đêm đã tắt ngấm. Mặt trăng cũng đồng lõa với bóng đêm nên có mắt cũng như mù. Thế nhưng tiếng động do sự rung rẩy nhịp nhàng của tấm giạt giường bằng cây cau già, đã khiến chú Chín mừng đến chảy nước mắt.
Chú vội vả quay về phòng, trút lên vợ, lên cháu những cái hôn để bộc lộ niềm hạnh phúc đang dâng tràn một cách mãnh liệt của mình, đến nổi thím Chín đang ngủ ngon lành cũng giật mình choàng dậy.
Mắt nhắm mắt mở thím hỏi chồng:
-Ông làm cái giống gì mà hun tui túi bụi vậy?
Chú không thèm trả lời, đẩy thằng cháu ra sát vách mùng rồi nằm đè lên vợ. Thím Chín bèn dùng cả hai tay lật đật xô bật chồng ra.
Thím giãy nãy:
-Có thằng nhỏ mà làm như vậy coi kỳ lắm!
Chú Chín gạt phắt:
-Nó ngủ rồi bà đừng có lo. Cái tuổi nầy có biết cái gì đâu mà sợ!
Thím Chín lại hỏi:
-Mà sao bữa nay tự nhiên ông...
Chú Chín cười:
-Ai biểu hồi chiều bà cho tui ăn cái món cá chạch làm chi?

Sáng hôm sau, căn nhà của họ ngập tràn sinh khí. Thím Chín còn thêm vào đó mùi xôi gà thơm phức khiến cả tâm lẫn thể của mọi người đều sung mãn.
Chú Chín cùng Nghệ được ưu tiên, mỗi người xơi một miếng xôi nám mặt và cái đùi gà rô ti hết sức đẹp mắt, thơm mũi, ngon miệng.
Cả hai má con, thím Chín và Nhu, tuy tránh nhìn vào mắt nhau, nhưng vẫn cảm nhận được rằng họ đang tràn trề hạnh phúc như nhau.
Thanh toán chớp nhoáng dĩa xôi xong, Nghệ bưng bình trà lên, rót cho chú Chín một ly đầy nhóc. Chàng nâng ly trà bằng cả hai tay, mời một cách trịnh trọng:
-Con mời ba dùng trà.
Chú Chín cầm một cách khéo léo, không cho đổ ra ngoài đến một giọt. Chú đưa lên miệng tợp một hớp dài, khà một tiếng thật sảng khoái rồi nói:
-Hôm nay là chủ nhật phải hông? Một chút con chở vợ về theo, để nó dọn dẹp cái nhà cho gọn gàng. Bữa trước ba ghé thấy trong bếp tùm lum, lớp nào bụi, lớp nào váng nhện.
Nghệ mừng rơn, thầm khen ông già vợ mình sao mà sành tâm lý quá. Chàng đang lo, không biết tìm cách gì để hôm nay được ở lại bên cạnh vợ.
Uống xong ly trà, chú Chín nói:
-Con chơi với thằng nhỏ nghe ! Ba ra vườn hái cho mấy đọt sầu đâu, một lát đem về kêu con Nhu nó trộn gỏi với mấy con khô cá sặc bổi má bây mới đưa đó. Con nhỏ đó cái gì thì thua, chớ mấy cái món gỏi, nhứt là gỏi sầu đâu thì nó qua mặt bả một cái vù.
Nghệ cảm động đáp:
-Dạ ! Con cám ơn ba.
Chú Chín đi xâm xâm ra vườn. Thím Chín hỏi theo:
-Ông đi ra vườn làm chi vậy?
Chú gắt:
-Cái bà nầy, hể thấy đi đâu là cũng phải hỏi cho bằng được. Tui ra sau hè hái sầu đâu cho con Nhu nó đem về bển đặng trộn cho chồng nó ăn.
Thím Chín cũng cự lại:
-Nhờ hỏi vậy tui mới biết mà chạy lại chợ mương mua cho nó một con tôm càng, với một miếng thịt ba rọi. Gỏi sầu đâu mà có thêm một con tôm càng nướng xé miếng trộng trộng, với một miếng thịt ba rọi luộc xắt hơi mỏng mỏng, trộn thêm vô là ngon nhứt hạng!
Chợ mương là cái chợ nhỏ xíu họp ở đầu cây cầu ván, gần bên nhà. Nhóm từ lúc mặt trời vừa mọc chừng hai, ba giờ sau là vãn. Chợ nầy chủ yếu bán cá, tôm, rau, củ của bà con trong xóm. Thỉnh thoảng thím Chín cũng mang mấy món cây nhà lá vườn như mắm, rau, bầu, bí ra bày bán.
Thế là cả hai, người ra vườn, người đi chợ.
Nhu đang ngồi trên cái chõng sau nhà đút xôi cho bé Nhân ăn. Nghệ bước xuống thang, ra ngồi sát bên cạnh vợ, hỏi một cách âu yếm:
-Ai nấu xôi, chiên gà mà ngon quá vậy em?
Nhu cười:
-Má đó chớ hổng phải em đâu. Em chỉ làm đồ chua mà thôi!
Nghệ khen:
-Xôi gà phải có đồ chua ăn kèm mới ngon. Em làm món dưa gừng ăn vừa miệng quá!
Nhu được khen nên bắt trớn:
-Để em đi đào một mớ gừng non về làm để sẵn bên nhà cho anh ăn.
Cô đưa chén cơm cho Nghệ rồi nói:
-Anh đút cho con giùm em nghe!
Bé Nhân được Nghệ đút cho ăn thì mừng lắm ! Nó nhảy vào lòng chàng liền như sợ bị mẹ đổi ý.
Lát sau chú Chín cầm nắm lá sầu đâu vào, thấy Nghệ đang vừa đút cho con vừa kể chuyện. Bé Nhân ngồi trong lòng chàng nghe rất say sưa.
Chú bèn hỏi:
-Má thằng Nhân đâu rồi?
Nghệ đáp:
-Vợ con ra vườn rồi ba.
Chú Chín chợt phát hiện, đây là lần đầu tiên Nghệ gọi Nhu bằng vợ. Chú ưng ý lắm! Hai mối dây rời rạc đã cột lại thành một cái núc. Chú bèn thắt thêm một mối:
-Vợ con ra vườn để làm gì? Hồi nãy ba đi sao hổng nhờ luôn?
Nghệ ấp úng:
-Tại con khen cái món dưa gừng ngon nên cổ đi moi mấy củ...
Chú Chín gật gù:
-Đàn ông mình ăn gừng tốt lắm đó con!
Thím Chín cũng vừa đi chợ về tới, một tay xách xâu thịt, một tay cầm hai sợi râu được cột dính lại của con tôm càng xanh. Nó đang bún chưn tanh tách.
Thím lấy cái giỏ đệm bỏ bó sầu đâu, con tôm, miếng thịt vô chung, rồi quày quả ra vườn.
Chú Chín hỏi:
-Bà ra vườn chi vậy?
Thím Chín bắt bẻ lại:
-Ông nói đi đâu cũng bị tui hỏi chớ ông còn hỏi tui quá cha! Tui đi cắt cho tụi nó mớ rau, nhúm ớt, một trái bầu với mấy trái mướp.
Chú Chín ra vẻ am hiểu:
-Gỏi đâu có hợp với mấy món canh mà bà hái bầu, hái mướp làm chi.
Thím Chín cắt nghĩa:
-Sẵn có cái nước luộc thịt không xài bỏ uổng lắm! Tui tính kêu con Nhu nó bỏ vỏ tôm nướng vô, nấu một tô canh bầu mà húp với nhau.
Chú Chín bỗng buộc miệng ngâm:
-"Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon"
Rồi ghẹo vợ:
-Sao bà hổng mua thêm một con tôm, đặng trộn gỏi, nấu canh bầu cho tui ăn?
Thím Chín đang đi liền đứng phắt lại, quay mặt trợn mắt hỏi:
-Ba bữa trước, thằng cha nào dặn tui là tới sang năm mới được làm lại cái món gỏi sầu đâu vậy?
Chú Chín cười cầu tài:
-Ai biểu bà làm cho cả đống rồi ép tui ăn muốn lòi bản họng...
Nghệ vội góp ý kiến:
-Để lát trưa vợ con trộn gỏi xong con đem qua cho ba.
Chú Chín lắc đầu:
-Má con bả giận lên cái mặt coi ngộ lắm nên ba thích chọc đặng dòm chơi! Nói thiệt nghe, món đó bây giờ chỉ nhắc cái tên thôi ba còn nghe ớn tới óc thì ăn làm sao nổi?
Thím Chín nghe chú nói vậy thì hứ một cái "cốc" rồi ngoe nguẩy bỏ đi một nước.

Một lần nữa, ngọn sóng từ phía tây lại xô hai nhánh lục bình lẻ loi tấp vào xóm cầu ván.
Thấy cái ghe lạ hoắc ghé vào, bà con trong xóm liền bu lại hỏi thăm. Trong ghe chỉ có hai người phụ nữ. Họ cho biết mình là một trong những nạn nhân bị quân lính Pôn Pốt sát hại. Gia đình họ, gần cả chục người đều bị giết, chỉ còn có hai mẹ con, may mắn thoát chết nên bỏ chạy về tổ quốc.
Mấy tháng nay họ phải sống cảnh trôi giạt, đi từ bến tàu nầy cho đến bến ghe khác. Bám theo dân thương hồ để mua bán vặt vãnh, kiếm sống qua ngày.
Cùng hoàn cảnh thương tâm như nhau nên dì Sáu đâm ra quyến luyến. Dì chẳng những hết lòng giúp đỡ, còn hô hào bà con mua giúp hàng hóa của họ. Ngay cả cô Năm, chủ tiệm tạp hóa trong xóm cũng mua giùm một ký đường thốt nốt.
Người mẹ bằng tuổi dì Sáu còn cô con gái thì nhỏ hơn Phục sáu tuổi. Hai mẹ con họ đều ốm nhom, da đen nhẻm. Những cảnh tượng kinh hoàng từng chứng kiến khiến người mẹ mang bịnh tâm thần nhẹ. Cô con gái thì già trước tuổi, có đôi mắt nhớn nhác và rất ít khi cười.
Hôm ấy trời gần sáng, mọi người đang chuẩn bị ra đồng, bỗng nghe từ bến đò phát ra tiếng khóc rất to và lời kêu cứu của cô con gái :
-Bớ người ta cứu giùm má tui!
Dì Sáu là người nghe được và chạy đến trước tiên.
Thấy người mẹ nằm cứng đơ sùi cả bọt mép. Cô con gái thì đang vừa lay, vừa gọi một cách thảm thiết. Dì bèn thét gọi con trai tới tấp:
-Phục ơi! Phục ơi! Phục ơi!
Phục đang xới cơm vào chén, nghe tiếng kêu khóc của cô gái liền dừng tay. Chàng biết có chuyện chẳng lành nên khi nghe dì Sáu gọi là ba chân, bốn cẳng phóng xuống bến liền.
Phục vẹt nhóm người đang đứng bao quanh trước mũi ghe. Chàng nhảy xuống ghe, cõng người phụ nữ lên bờ, đặt trên cái đi văng ở phòng khách nhà mình.
Phục chạy qua nhà chú Chín, thót lên chiếc xe đạp đang dựng dưới cầu thang, miệng hỏi:
-Con mượn chiếc xe đi rước thầy nghe chú Chín.
Chưa nghe hết câu trả lời: "Ưà lấy đi con" của thím Chín là đã đã vọt ra tới cổng rồi.
Phục cong lưng đạp vù vù chạy lên xóm trên, lập tức rước liền ông thầy Bảy Chích.
Ai đó đã đi gọi thầy Bảy trước chàng. Phục vừa đi tới đầu cầu ván đã thấy ổng xuống dốc cầu một cái ào. Chắc đang ngủ bị giựt dậy nên đầu tóc của ông thầy Bảy còn bù xù, cái áo bơ lu trắng với hàng núc một bên chưa được gài kín hết. Phục vội quay xe trở lại, vừa kịp đỡ lấy chiếc xe hon đa mà ổng buông ra, dựng vào gốc xoài.
Thầy Bảy lật đật lấy cái ống nghe đặt lên ngực bệnh nhân một hồi lâu. Ông vạch mí mắt, rọi cây đèn pin nhìn vào rồi lắc đầu thở ra một hơi dài và buông ra một câu ngắn ngủn:
-Đi rồi!
Cô gái ngả vật ra như cây chuối bị đốn, bất tỉnh nhân sự chẳng còn biết gì nữa hết...
Người mẹ được chôn trong đất của chú Chín. Cô con gái không muốn để bà nằm một mình nơi xứ lạ. Cô cậy dì Sáu xin giùm với chú thím Chín, cho mình cất cái chòi nhỏ ở ngay bên cạnh mộ. Dì Sáu nhất quyết can ngăn, đem cô về nhà vì sợ con gái ở một mình không ổn.
Dì bàn với thím Chín:
-Thấy con Nhạn (tên cô gái) còn khổ hơn má con tui hồi đó nên tui thương quá chừng, quá đổi luôn chị Chín ơi! Tui tính nhận nó làm con nuôi, chị nhắm có được hông?
Thím Chín gật lia, gật lịa:
-Được chớ sao hông? Chị thì vui còn nó cũng đỡ buồn. Tuổi nó cũng lớn bộn rồi, biết làm, biết ăn, đỡ tay, đỡ chưn...Cái mặt nó hiền rụi hà, chắc chị khiến cái gì là nghe cái nấy.
Dì Sáu lắc đầu:
-Nói có quỷ thần hai vai chứng giám. Tui đem nó về nuôi đâu tính để nhờ.
Dì bộc lộ ý định của mình:
-Hồi còn nhỏ tui thích nghề may dữ lắm! Tui thấy mấy người thợ may suốt ngày ngồi trong nhà, da trắng nõn, để móng tay dài sọc. Họ có quần áo nhiều lắm, đủ màu, đủ kiểu. Bởi vậy tui tính kêu nó bán ghe, sang hết ba cái món đồ bán chưa hết, có thiếu thì tui cho thêm, đặng đủ tiền mua cái bàn máy may mà đi học, rồi làm thợ may cho sướng cái thân.
Thím Chín lật đật nói:
-Được rồi, được rồi! Để tui nhờ chị Ba Sáng nói với má con Tím, cho nó nhận con nhỏ nầy học thí công...
Dì Sáu ngắt lời:
-Người ta dạy học trò, một đứa cả khâu vàng, ai mà chịu cho học hổng lấy tiền...
Thím Chín gắt:
-Thì mình cứ xin thí mạng cùi. Hổng chừng thấy hoàn cảnh của nó họ thương hại. Chị Hai Trắng là người biết ăn chay, làm phước...chắc không nỡ từ chối đâu!
Dì Sáu nói một cách e ngại:
-Từ ngày xảy ra cái chuyện coi mắt, tui mắc cỡ nên hay né mặt chỉ lắm ! Mấy lần thấy chỉ đi ngang tui đều ngó lơ. Sợ chỉ ghét rồi...
Thím Chín cự:
-Mắc giống gì mà chị phải mắc cỡ, tránh mặt? Gia đình họ xấu hổ với mình hổng hết chớ ở đó mà... Tui nghe nói họ còn tiếc thằng Phục dữ lắm!
Dì Sáu bán tín, bán nghi:
-Chị nhắm chắc ăn thì nhờ, để hông thôi lại bị bẽ mặt nữa đó.
Thím Chín gật đầu:
-Đừng có lo, lần nầy bảo đảm không có xí hụt đâu!
Thím Chín lại sên mứt dừa rồi đem cho mợ ba Sáng một bịt. Mợ Ba không chịu cầm bịt mứt, mợ nói:
-Lần trước ăn mứt của chị mà hổng có làm tròn phận sự. Bây giờ mặt mũi nào dám cầm, thôi chị chịu khó đem về giùm đi, tui không có lấy đâu!
Thím Chín năn nỉ:
-Ba trái dừa chặt lấy nước uống, còn cái cơm không làm mứt thì cũng đem bỏ. Làm ra tới một chảo đụn ăn làm sao hết? Tui đem chia cho bà con mỗi người một mớ ăn lấy thảo, chớ bộ cho mình ên chị sao mà ngại?
Nói xong thím dúi bịt mứt vô tay mợ Ba rồi lật đật quay về. Mấy ngày sau thím bưng thau đồ xuống bến để giặt, lại gặp mợ Ba cũng đang ngồi với một thau đồ đầy ngập mặt.
Thím Chín ghẹo:
-Cưới dâu đi để nó gặt đồ giùm cho.
Mợ Ba cười:
-Sợ tới chừng đó tui giặt thêm một bộ đồ nữa mới ngộ.
Thím Chín cười:
-Ai biểu chị cưới dâu con nhà giàu, dân cầm viết làm chi cho khổ. Cưới mấy đứa con nhà nghèo, biết chịu thương chịu khó, tay lấm chưn bùn như mình là khỏi cần sai biểu nó cũng làm ro ro. Nhứt là mấy đứa mồ côi, đem nó về rồi coi như con là nó thương chị hổng biết để đâu cho hết!
Mợ Ba cười:
-Như chị Sáu đó phải hông?
Thím Chín ngạc nhiên:
-Chị Sáu chưa có dâu mà!
Mợ Ba chắc lưỡi:
-Thì chỉ đem con Nhạn về ở, bộ hổng phải tính để dành đặng cưới cho thằng Phục sao?
Thím Chín lắc đầu trách:
-Chị nói vậy là oan ức cho chỉ lắm! Chỉ nhận nó làm con gái chớ hổng có ý đó đâu. Chỉ còn tính sắm bàn máy cho nó đi học may, cho có cái nghề để sau nầy khỏe thân, đi đâu cũng hổng sợ chết đói.
Mợ Ba xuýt xoa:
-Không ngờ chỉ tốt tới mức đó. Tui thiệt là bậy vì nghĩ sai cho chỉ. Mà chỉ có tính cho nó học may với ai chưa?
Thím Chín chép miệng:
-Nói nào ngay, chỉ có mượn tui nói với chị là hỏi giùm chị hai Trắng, cho nó học thí công với con Tím mà tui còn ngại miệng quá...
Mợ Ba sốt sắng:
-Có gì đâu mà ngại? Chiều nay tui đi lên nhà chỉ, lấy cái áo bỏ may tự hổm rày rồi nói giùm cho.

Từ hôm xảy ra vụ coi mắt đến nay, dì Hai Trắng hể đi chợ ngang qua chỗ dì Sáu là nghe lòng vô cùng áy náy. Dì biết dì Sáu mang nhiều mặc cảm, nay bị tổn thương nặng nề nên mới tránh mặt dì lâu như vậy! Dì đang muốn tìm cách "làm quen" lại dì Sáu, để hai người chào hỏi nhau một cách tự nhiên, chớ đụng mặt hà hầm mà cố né hoài, trong bụng dì bức rức lắm! Khi mợ Ba rỉ tai về chuyện xin cho Nhạn học thí công, dì đồng ý cái rụp liền.
Dì nói:
- Nghe hoàn cảnh như vậy ai mà không muốn giúp? Huống gì là con gái nuôi của chị Sáu. Dì về nói với chỉ lo mua sẵn cái máy may đi.
Mợ Ba mừng tới bắt khớp, nói liền:
-Máy may thì sắm mấy hồi. Mua xong là rinh lên đây học liền được hông?
Dì Hai lắc đầu:
-Khoan, để tui đi qua chùa, nhờ thầy lựa cho cái ngày nào thiệt tốt mới khai quang điểm nhãn được.
Mợ Ba nghĩ trong bụng:
-"Cái bà nội nầy bị một lần rồi mà còn hổng tởn. Hôm cái đám coi mắt đó, cũng chọn ngày, lựa tháng quá xá cỡ vậy mà có nên cơm, nên cháo gì đâu!"
Dù nghĩ vậy, mợ vẫn cười tươi rói, gật đầu lia lịa:
-Đúng rồi! Đúng rồi! Mình phải lựa ngày cho chắc ăn. Học may đâu phải chuyện giỡn ngộ, rủi trúng ngày xấu, cái cứ cắm đầu học hoài mà hổng ra nghề nổi thì uổng công lắm!
Dì Hai xụ mặt:
-Cái dì nầy! Miệng ăn mắm, ăn muối. Chưa bắt tay vô dạy mà nói ba cái chuyện gì đâu không hà! Con Tím mà nghe được, nó tưởng là dì trù ẽo rồi giận không thèm nhận đó!
Nghe dì Hai Trắng rầy, mợ ba Sáng giựt mình. Mợ nghe nói mấy người làm nghề may là cử đủ thứ nên biết mình lỡ lời. Mợ cố tìm một câu thiệt hay ho để gỡ gạc, nhưng lại sợ càng gỡ càng tầy quầy, giống như cái mối đan tuột chỉ, nên ngồi mà ngậm nghe thôi!
Đúng nửa tháng sau, dì Sáu lại bưng lễ vật qua nhà dì Hai. Lần nầy thiếu cái mâm trầu cau, cũng không có trà, rượu... Thay vào đó là một con gà luộc, dĩa xôi đậu xanh và một mâm ngũ quả.
Trước đó mấy ngày, dì Sáu đã được mợ Ba cố vấn là phải sắm thứ gì mang qua để cúng, rồi phải khấn vái câu gì để bà tổ độ cho con mình học đâu, biết đó.
Rút kinh nghiệm cái vụ không biết cử kiêng, lỡ mồm, lỡ miệng hôm trước, nên lần nầy mợ Ba hỏi dì Hai Trắng không sót một thứ gì, để khỏi bị đổ thừa.
Mợ Ba dặn đi dặn lại dì Sáu:
-Con gà cúng tổ là phải lựa gà mái tơ nghe hông? Đặng sau nầy nó mới sanh sản đùm đề. Mai mốt ra nghề khách mới mỗi ngày một đông.
Rồi mợ nhấn mạnh:
-Dĩa ngũ quả là quan trọng nhứt! Chị phải lựa thứ thiệt ngon, thiệt bự.
Dì Hai gật đầu:
-Cây vú sữa của chị Chín lớn trái, vỏ mỏng, ngọt như đường, tui tính mua một chục rồi thêm...
Mợ Ba hét toáng:
-Không được, không được!
Dì Sáu chưng hửng:
-Sao vậy?
Mợ Ba chắc lưỡi:
-Thợ may kỵ cúng vú sữa với sa bô chê hạng nhứt đó ! Bộ chị hổng biết họ sợ bị mấy người khách may đồ chê tới, chê lui rồi bắt sửa đi, sửa lại hay sao?
Dì Sáu giựt mình, cám ơn mợ Ba rối rít:
-Mẹ con tui mang ơn chị hổng biết để đâu cho hết. Chị mà hổng nói, tui bưng tới rồi bị trả về thì mắc cỡ với bà con lần nữa. Chắc phải vạch lỗ mà chui xuống đất.
Sáng hôm đó dì Sáu và Nhạn ăn mặc tươm tất, không ngồi xe lôi cho rình rang. Hai mẹ con tay mang, tay xách lủi thủi cuốc bộ với nhau thôi!
Bắt đầu từ hôm đó, Nhạn được góp mặt với các cô "tiểu thơ" trong xóm. Có điều họ có đóng vàng nên chỉ học thôi, còn cô phải phụ làm việc nhà như rửa chén, gánh nước, quét sân...
Dì Hai và Tím ngại thiên hạ cho là mình bốc lột nên ít dám sai. Cho nên ngày đầu Nhạn rất nhởn nhơ. Khi cô đi học về, dì Sáu hỏi:
-Bữa nay con được dạy món gì?
Nhạn đáp:
-Con học xếp vải cho thiệt thẳng.
Dì Hai hỏi thêm:
-Con có lau nhà, rửa chén phụ hông?
Nhạn lắc đầu:
-Không, hổng ai bắt con làm cái gì hết!
Dì Sáu rầy:
-Con phải làm tự ên chớ đâu đợi sai khiến. Con học thí công, nghĩa là trả bằng cái công chớ hổng phải bằng tiền. Bởi vậy phải làm cho thiệt là nhiều mới được bà thầy thương mà dạy cho đủ món. Ngày mai con tới học, việc đầu tiên là phải mở nắp hết mấy cái lu nước, coi cái nào lưng thì gánh đổ cho đầy tới miệng hết. Rồi quét nhà, quét sân cho thiệt sạch. Trước khi quét sân phải múc nước rải đều cho không bay bụi. Sân quét trước rồi tới nhà. Quét xong xuôi rồi mới lau bàn, ghế, tủ...cho sạch bụi. Có khi còn phải phụ cho heo ăn, chẻ củi, làm cá, nấu cơm nữa. Nhứt là ăn cơm xong phải giành rửa chén cho bằng được nghe hông con!
Nhạn buồn hiu nói:
-Làm hết trọi mấy chuyện đó thì đâu còn thời giờ mà học nữa?
Dì Sáu cầm tay Nhạn, xiết mạnh để truyền nghị lực, dì nhấn mạnh:
-Con nghe lời má đi, bị người ta ghét mới chết chớ làm nhiều không có chết đâu mà sợ!
Rồi dì hỏi:
-Tính luôn con là có mấy đứa theo học?
Nhạn nhẩm trong đầu rồi đáp:
-Năm người, trong đó có chị Nên là đẹp nhứt, nói chuyện ngọt nhứt, may khéo nhứt!
Dì Sáu chụp lấy câu đó mà khuyên liền:
-Vậy thì con nên đi theo nó mà bắt chước.
Rồi dì hỏi tiếp:
-Học vui hông? Con có thích hông?
Nhạn cười:
-Con vui nhứt từ trước tới giờ. Hể cô Tím không có mặt là mấy chỉ giỡn thôi là giỡn. Có một chị tên Ngộ, chỉ nói chuyện nhiều mà có duyên lắm ! Hể mở miệng là ai cũng cười rần rần.
Dì Sáu nghiêm giọng:
-Đi vô đó để học chớ hổng phải để giỡn. Con phải né bớt con nhỏ đó cho má. Mấy cái đứa thích chọc cho người ta cười, hay nói tùm lum rồi mang họa lắm! Con đừng có hùa theo nó rồi bị rầy oan mạng nghe hông?
Nhạn xụ mặt xuống, đáp nhẹ hều :
-Dạ!
Trong bụng cứ thắc mắc là tại sao kiếm chuyện nói cho người ta cười mà bị mang họa được.

Từ ngày Nhạn đi học may với Tím, dì Sáu chịu khó bỏ công nhiều vào việc bếp núc. Những bữa cơm của gia đình dì có phần tươm tất hơn trước.
Sáng sáng dì dậy thật sớm, chạy lên chợ mương để mua cá, mua thịt, tôm tép hoặc tàu hủ làm vài món ăn cho Nhạn đem theo để trưa lấy ra dùng. Dì sợ Nhạn ăn uống kham khổ rồi không đủ sức học, cũng ngại má con Tím chê nhà dì nghèo, hoặc hà tiện rồi xem thường.
Dì cũng sắm thêm cho Nhạn ba cái quần đen bằng sa ten tuyết nhung và ba cái áo xoa màu hồng, màu xanh da trời và màu vàng bông mướp.
Nhạn thấy dì lo nấu món nầy, món kia đổi bữa, thì áy náy lắm! Cô bèn khấn vái ăn chay suốt một năm, vừa để cầu siêu cho mẹ ruột vừa giúp má nuôi đỡ cực.
Nhạn chưa biết đi xe đạp nên ngày nào cũng chịu khó lội bộ, sáng đi, chiều về tổng cộng gần bảy cây số. Những hôm công việc nhiều, cô phải gồng mình ở lại ráng làm cho hết, dọn dẹp xong mới dám ra về. Có lần về tới nhà là trời đã tối hù làm dì Sáu lo muốn teo ruột.
Sở dĩ dì Sáu không yên tâm vì trên đường từ nhà dì đến tiệm may, phải băng qua một dãy nhà bỏ hoang. Đó là ba căn nhà ngói của gia đình ông cả Hội giàu nhất làng. Gần mười năm trước ông cả bị ám sát nên tất cả con cháu đều khiếp sợ. Họ bỏ lại nhà cửa, vườn tược, kéo nhau xuống Sài Gòn ở hết.
Cái dinh cơ rộng lớn mênh mông ấy được cả mấy trăm cây ăn trái bao quanh. Hàng rào xương rồng mọc kín bưng còn đứng vững, nhưng hai cánh cổng bị hỏng nặng, không đóng lại được. Nó bị đồn là có ma nên khi phải đi ngang qua lúc trời tối là Nhạn sợ đến cóng giò.
Từ ngày mấy căn nhà ấy không còn người ở, thì trong xóm đó và cả mấy xóm lân cận hay xảy ra những chuyện không hay. Một số mầm mống tội lỗi đã phát sinh và được phát hiện từ nơi ấy! Tất cả những cô gái trong làng, đều ngại phải đi qua đó vào ban đêm.
Nhạn đang là con chim nhỏ lạc loài, nay đã được ở yên trong tổ ấm. Cô lại được má và anh nuôi yêu quý nên cái vẻ thất thần đã biến mất. Nét ủ ê, xơ xác cũng không còn nữa. Người ta bỗng phát hiện là cô khá xinh, cười rất có duyên, chỉ tiếc một điều là Nhạn rất ít chịu cười.
Những hôm đi về trể, cô hay bị các tên đực rựa đang đi "cà nhõng" trên đường bám theo và buông lời chọc ghẹo. Mặc cảm là mình là dân trôi giạt, khiến Nhạn không dám có phản ứng mạnh trước những lời trêu cợt sỗ sàng của những tên được liệt vào hàng "cà chớn" đó.

Việc Nhạn được gia đình dì Sáu cưu mang, giúp dì Sáu và Phục gặt thêm nhiều thiện cảm của bà con lối xóm nói chung và gia đình dì hai Trắng nói riêng.
Dì Hai cũng như những người có tánh đa nghi, đều cho rằng dì Sáu nhận Nhạn làm con chỉ để nhờ vả mà thôi! Chừng thấy cô chẳng mó tay vào việc đồng áng, lại được cho đi học may, rồi lột xác, xinh đẹp, phổng phao lên từng ngày thì họ mới chịu tâm phục, khẩu phục cả hai mẹ con dì Sáu.
Dì Hai thường tìm cách nói chuyện riêng với Nhạn, khai thác triệt để cái tính ngây thơ của cô gái mới mười bảy tuổi ấy. Mục đích để tìm hiểu thêm về cuộc sống và tính cách của dì Sáu và Phục, nhờ vậy mà dì được biết là Phục là một người con chí hiếu nên càng tiếc hùi hụi.
Một hôm dì tâm sự với Nhạn:
-Tại con Tím nó ngu si khờ khạo, nghe lời đâm thọc, hổng biết nhìn người, mới xảy ra trắc trở. Chớ hông thôi con với nó bây giờ dám làm chị dâu em chồng rồi đó!
Rồi dì cứ lập đi lập lại câu nói đó một cách tiếc rẻ, mục đích để thấu tai dì Sáu. Hơn ai hết, Dì Hai biết rằng chỉ có cách xóa đi chuyện cũ, gã Tím cho Phục thì cái gút mới được tháo, sợi chỉ mới suông... Chuyện mai mối sau nầy mới thành công và mấy đứa con gái của dì mới được tống đi xuôi rót.
Dì Sáu nghe Nhạn kể lại đến mấy lần thì hiểu ra ý đồ của dì Hai Trắng. Dì còn đang do dự, không biết có nên nhờ thím Chín mở lời với mợ Ba Sáng một lần nữa, thì dì Hai Trắng đã tiến tới một bước. Số là hôm nhà mợ Ba Sáng làm đám cưới cho con trai, cả nhà dì Hai đều được mời. Dì Hai muốn tạo cơ hội cho dì Sáu thấy được cái khéo, cái đẹp của con gái mình nên bắt Tím phải theo dì đến phụ việc nấu nướng.
Cậu mợ Ba vốn tánh phô trương, hay sĩ diện với bà con họ hàng và lối xóm. Hơn nữa lại là đám cưới đầu tiên trong gia đình nên tổ chức hết sức rình rang, chỉ kém cái đám của nhà dì Bảy mà thôi.
Cho dù rất e ngại chánh quyền chú ý, nhưng vì đàng gái là gia đình có máu mặt ở cái xứ Tân Huề, họ có tới mười mấy mẫu đất mà chỉ có một cô con gái duy nhứt. Cậu mợ Ba nghĩ hai vợ chồng con trai mình sau nầy sẽ lãnh trọn phần hương hỏa, nên cho là có trách nhiệm phải làm cho con dâu nở mày, nở mặt.
Mợ đãi mấy chục mâm, cả hai thứ chay và mặn. Món mặn dĩ nhiên là do thím Chín đảm nhiệm, riêng món chay mợ ép dì Sáu phải phụ trách cho bằng được. Mợ viện lý do là dì Sáu chuyên nấu cho chùa nên rành mấy món chay, khiến dì không có cách chi từ chối. Bất đắc dĩ phải nhận mà rung gần chết!
Còn cả tháng mới đến ngày cưới nhưng cái đám con nít trong xóm hết sức nôn nao, chộn rộn. Đứa nào có bà con với gia chủ, cũng được cái ánh vinh quang đó chiếu sáng nên trông mặt mũi có phần sáng sủa, ăn nói tự tin hơn ngày thường nên được đám bạn lóc chóc của chúng nể nang hơn một chút. Câu chuyện về cái đám cưới sắp tới luôn có trong các cuộc nói chuyện của chúng.
Con Hãnh, cháu kêu cậu Ba bằng bác ruột ngày nào cũng bị hết đứa nầy đến đứa khác hỏi:
-Mầy có được đi rước dâu hông?
Con nhỏ nầy đâu có biết chắc nhưng vẫn gật đầu:
-Có chớ sao không?
Thế là bị cật vấn tiếp:
-Má mầy có may đồ mới cho mầy chưa?
Cái nầy thì nó biết là chưa, nhưng nói đại:
-May rồi.
Mấy đứa kia chưa chịu buông tha cứ đeo theo hỏi tiếp:
-Đồ màu hay đồ bông?
Phóng lao thì phải theo lao, nó đáp:
-Đồ bông.
Mấy đứa bạn của nó chẳng phải không tin, nhưng muốn bổ xung cho đầy đủ cái bức tranh đang vẽ trong trí tưởng tượng của chúng nên chưa chịu buông tha:
-Bông màu gì?
-Màu đỏ.
Thế là chiều hôm đó con Hãnh đeo xà nẹo một bên bà má của mình, đòi bà phải sắm cho nó một bộ đồ bông màu đỏ và xin được đi rước dâu.
Nhà nó vốn không khá giả. Má nó đang rầu vì cái khoản tiền chịu lạy không nhỏ sắp chi, nên nổi giận quất cho nó mấy roi. Ba nó bèn nhảy vô can thiệp. Ông biểu bà bán bớt một con heo đi để có tiền xoay sở. Bề gì cũng phải sắm đồ mới cho nó vì chỉ còn chưa được một tháng nữa là tới tết rồi.
Rồi cái ngày trọng đại đó cũng đến. Hôm che rạp, chẳng những tất cả trai tráng trong xóm có mặt đầy đủ mà còn kéo thêm một số thanh niên xóm trên, xóm dưới nữa. Họ chủ yếu lo việc chặt lá dừa, lá đủng đỉnh để trang hoàng, làm heo, làm gà và đờn ca giúp vui.
Phục vừa có tài kết cổng bằng bông đủng đỉnh, vừa có chân trong ban văn nghệ trong xóm, nên trong các cuộc lễ lạc, nhất là lễ cưới, rất được trọng dụng.
Buổi tối trước hôm rước dâu, nhà mợ Ba vui như hát bội. Cái máy phát điện của nhà cậu hai Thọ được mượn về. Mấy ngọn đèn nê ông được bắt từ trong bếp ra tới tận cổng. Con nít cả xóm qui tụ lại. Tụi con gái chui vô bếp kiếm ăn còn đám con trai chùm nhum ngoài sân. Bộ ngựa gõ được khiêng ra ngoài để ban đờn ca tài tử, toàn là nam giới, ngồi cho mát.
Mấy cô gái rút hết vào trong bếp, mỗi cô được giao canh lửa một cái bếp lò nên các chàng trai, cho dù không biết hút cũng tìm cớ chạy vô xin mồi thuốc.
Tím được giao canh nồi cháo gà. Cô lo hớt bọt, chụm lửa và khuấy cái vá xuống tận đáy đều đều để cháo không bị khét. Mồ hôi tươm đầy mặt, cô vừa móc túi lấy cái khăn mù xoa ra lau, vừa nghe đầy tai những lời mợ Ba và thím Chín ca tụng hai má con dì Sáu.
Mợ Ba nói:
-Cái thằng Phục nó khéo tay quá mức! Chị ra mà coi, nó kết cái màng bằng bông đủng đỉnh đẹp hết chỗ nói luôn! Còn đẹp hơn cái cổng của nhà chị Bảy năm ngoái nữa đó.
Thím Chín bồi vô:
-Chị còn chưa biết hết cái tài của nó như tui đâu. Nó mà tóm lưỡi câu là cá ăn giựt không kịp. Nó chuốc giùm tui cái đòn gánh, coi còn khéo hơn ba con Nhu một bực. Nói về cái chuyện có hiếu thì nó hơn hết cái đám con trai trong làng mình. Mỗi lần chị Sáu "ể" mình, nó đi bổ thuốc rồi đem về sắc, ngồi quạt lửa canh thuốc thấy mà thương.
Tím biết họ cố ý nói cho mình nghe nên trong lòng không khỏi bực bội.
Nồi cháo chưa chín mà tiếng đàn đã réo rắc, khiến các cô gái trong bếp cùng dừng tay lắng nghe. Mấy đứa con nít đang ngồi chồm hổm chực làm, chực ăn, cũng bỏ chạy ra xem hết ráo!
Một giọng nam cất lên bài "Đám cưới đầu xuân". Bản nhạc quá hợp, người hát quá hay nên vừa chấm dứt là nhận được một tràng pháo tay vang dội.
Thấy Nhạn từ ngoài sân bước vào, nét mặt tươi như bông bụp, Tím hỏi nhỏ:
-Ai hát mà hay quá vậy Nhạn?
Nhạn đáp bằng một giọng tự hào:
-Anh Hai của em chớ ai!
Tím nghe vậy thì lấy làm ngượng nên làm thinh không hỏi nữa.
Các bản nhạc thông dụng thuở ấy đa số đều buồn. Cho dù được dùng trong đám cưới, nhưng những bài như: "Đồi thông hai mộ"; "Những đồi hoa sim"; "Hàn mặc tử"; "Chuyện tình Lan và Điệp" ...đều được các "ca sĩ" cây nhà lá vườn lần lượt đem ra trình bày.
Phục hát hay nhứt nên được bà con yêu cầu đích danh hoài làm dì Sáu và Nhạn nở mặt, nở mày với bà con trong bếp quá chừng!
Những bản nhạc buồn mang đặc tính của chất trầm tích, dễ bám vào đáy lòng, gây cồn cào và ở lại rất lâu, nhất là trong tim của các cô gái trẻ.
Thoạt đầu Tím chỉ nghe để mà nghe rồi dần dần rung động. Không những cô mà hầu hết các cô gái trong bếp đều dành cho "danh ca" Phục cả một lòng hâm mộ. Cho nên khi Phục nghĩ xả hơi, vào bếp mồi thuốc thì cô nào cô nấy cũng thầm mong anh ghé vào cái bếp lò của mình.
Không phải những lời ca tụng về tánh chăm chỉ, giỏi giang, hiếu hạnh... mà chính cái giọng ca, tiếng đàn... Cái tài lẻ ấy đã khiến Tím xóa bỏ cái thành kiến của cô đối với Phục, và giành cho chàng một chút cảm tình.
Cho nên khi Phục vô tình ghé vào chỗ Tím để xin mồi lửa (vì cô ngồi gần nhất). Tím chẳng những đưa cho chàng cái que củi cháy phừng phực mà còn tặng thêm một nụ cười mĩm chi khiến y ta chới với.

Sáng hôm sau Tím mặc cái áo dài màu xác pháo, đeo cây kiềng vàng và đôi khoen tòn teng có hình như tấm màn trúc, cũng bằng vàng để đi rước dâu.
Mợ Ba quá đổi kinh ngạc, không phải vì cô quá đẹp mà bởi hôm trước khi lên danh sách, cho dù mợ khẩn khoản mời, Tím vẫn khăng khăng từ chối.
Sự đổi ý đột ngột của Tím làm mợ Ba lâm vô cảnh khó xử.
Ở thôn quê trong đám cưới cái gì cũng phải xài số chẳn. Người dự phải đủ đôi đủ cặp, đồ đạc phải đúng bon một bộ. Tím đột ngột nhảy vô thành ra có tới bảy cô gái. Cậu Ba ổng vò đầu bức tai, nói bảy là thất mà thất có nghĩa là mất, như thất mùa chẳng hạn...
May sao thím Chín nảy ra sáng kiến:
-Cho con Nhạn đi rước dâu luôn, vậy là được tám người, tốt nhứt hạng đó!
Dì Sáu nói nhỏ:
-Nó đâu có áo dài...
Thím Chín hăm hở:
-Để tui lấy cái áo của con Nhu cho nó mặc. Hai đứa nó vóc mình xêm xêm, cũng ốm ốm, cao cao...Chắc hổng ai biết mặc áo khính đâu !
Nhạn đang ngồi chồm hổm, một chưn bỏ xuống đất, một chưn đè lên cái bàn nạo, hai tay cầm nửa trái dừa khô nạo sột sột...
Thím Chín chạy tới hối lia lịa:
-Con bỏ đó đi tắm liền đi!
Nhạn ngạc nhiên chưa kịp hỏi đã bị lôi ra khỏi bếp. Cô bị bắt phải dội nước cho bay mùi khói và thức ăn, rồi tức tốc thay đồ vẽ mặt.
Bên cạnh nhan sắc được trau chuốc và vẻ tự tin của Tím. Dáng dấp ngượng nghịu, cái áo dài màu cà hơi rộng và gương mặt trang điểm đơn sơ của Nhạn trông mới dễ mến làm sao!
Hai chiếc tàu lớn đã đậu sẵn dưới bến từ lúc hừng đông. Mỗi chiếc có thể chứa hơn bốn chục người. Chúng được treo những sợi dây thật dài, căng từ mũi tàu tới sau lái, gắn vô số các cây cờ đủ màu hình tam giác, trông thật đẹp và vui mắt. Đàng trai chỉ đi một chiếc, còn một chiếc chạy theo để đón họ hàng đàng gái đưa dâu.
Đám con trai lóc chóc đứng đầy nghẹt trên bờ. Chúng nhìn đăm đăm hai chiếc tàu và đếm mấy cây cờ, nói bá láp rồi cười với nhau một cách khoái chí.
Mấy đứa con gái nhỏ bu nghẹt trong buồng, ngắm các mỹ nhân đang chuẩn bị đi rước dâu. Các cô gái mặt hoa da phấn đang soi mình trong gương, sửa lại mái tóc và vuốt lại tà áo cho nhau.
Đúng giờ hoàng đạo, ông Út, trưởng lão và là người cao tuổi nhứt xóm, đốt ba cây nhang cắm lên bàn thờ, trình báo với tổ tiên rồi dẩn đầu đoàn rước dâu xuống bến.
Chú rể, nhân vật chính trong buổi lể, chỉ được mọi người ngó qua một cái rồi thôi. Chiếc áo dài the màu xanh dương cùng cái khăn đống đội trên đầu chẳng giúp chú đẹp hơn ngày thường chút nào. Để chú đỡ tủi thân, một ông bác trong xóm, vỗ vai chú một cái rồi nói:
-Cái thằng nầy bữa nay coi bảnh tỏn quá.
Chú cười cười, cái mặt sượng ngắt.
Một ông bác khác vỗ cái vai bên kia rồi dặn:
-Một lát nhớ lạy cho đẹp, đừng có khớp nghe con.
Chú càng cúi đầu thấp hơn, "dạ" nhỏ xíu như tiếng muỗi kêu.
Các chàng trai bị chìm lỉm dưới những chiếc áo dài đủ màu của các cô gái. Cô nào cũng đẹp gấp bội ngày thường, khiến họ cứ phải ngẩn ngơ, dụi mắt.
Phục chẳng được tự nhiên trong bộ đồ tây và đôi giày da của Nghệ. Chàng lúng túng vì mái tóc, cho dù được chải đi, chải lại, vẫn không chịu nằm sát xuống. Tuy vậy nhờ cái vầng hào quang còn sót lại từ cái đêm văn nghệ vừa rồi, nên không bị các cô gái xem là lượm thượm mà còn được coi là độc đáo.
Người vui và sung sướng nhứt hôm nay, không ai khác mà chính là con Hãnh. Nó mặc bộ đồ mới tinh vừa may xong hồi chiều hôm qua, má nó không dám giặt sợ hổng kịp khô nên những đường phấn xanh trên vải vẫn còn lộ rõ. Nó đi một cặp với con Nên, con nhỏ nầy cũng mặc một bộ đồ mới tinh có điều khác màu, khác bông. Mặt mày chúng đều tươi rói. Tụi nó phấn khích quá xá cỡ, nên khi khổng, khi không mà hai đứa bỗng cầm tay nhau rồi nhảy tưng tưng một lượt.
Chú thím Chín và vợ chồng Nhu dứt khoát từ chối không chịu đi rước dâu, cho dù mợ Ba đeo theo năn nỉ muốn ráo nước miếng, làm mở tự ái quá xá.
Sở dĩ mợ Ba cố nài ép vì vợ chồng chú Chín nổi tiếng rất hòa thuận, lại có của ăn của để. Mợ Ba muốn họ tham dự để hai vợ chồng sắp cưới lấy hên. Trước đây hầu như đám nào hể mời là chú thím đều có mặt, hổng đưa thì rước. Thế mà bây giờ lại khăng khăng từ chối khiến cậu mợ Ba cảm thấy hết sức mất mặt.
Mợ Ba nói một cách hờn mát:
-Tui biết nhà mình hổng bằng ai nên má con chị đâu có chịu đi rước dâu.
Bất đắc dĩ, thím Chín phải kề tai mợ Ba nói nhỏ. Mợ Ba trợn mắt hỏi:
-Mèn đét ơi! Thiệt hả?
Thím Chín gật đầu một cách ngượng nghịu.
Mợ Ba kèo nài tiếp:
-Vậy thì chị biểu vợ chồng con Nhu nó đi rước dâu cho vui. Cái tàu rộng minh mông mà đi le hoe có mấy người, coi hổng có xôm chút nào!
Thím Chín lại kề tai mợ Ba, nói còn nhỏ hơn lần trước. Lần nầy con mắt mợ Ba còn trợn dữ hơn, còn cái miệng thì tròn vo, hổng nói nổi một tiếng!


Nét mặt biểu lộ một sự ngạc nhiên tột bực của mợ Ba khiến thím Chín quê đậm, quê đà.
Sau một phút định thần, không biết vô tình hay cố ý, mợ bèn hỏi:
-Vậy là bà ngoại với má thằng "Nhưn" sắp sửa có em bé một lượt hả?
Thím Chín làm bộ không nghe.
Thím làm thinh, cắm mặt nhìn đăm đăm vào nồi thịt kho to tổ bố đang ngồi trên cái hỏa lò, bàn tay cầm cái vá nhôm cứ vớt bọt trong nồi bỏ vô chén đều đều.
Mợ Ba thấy thím tập trung quá cao độ nên không dám hỏi nữa, từ từ đứng lên rồi rút lui một cách nhẹ nhàng, không quên liếc thử coi sắc mặt thím có đổi hay không?
Thím Chín chẳng mắc cỡ hay giận được lâu, bởi đang toàn tâm, toàn ý, săn sóc cho cái đứa con cưng của mình là nồi thịt kho Tàu.
Ở xóm Cầu ván nói riêng và làng Phú Lâm nói chung, trong bất cứ cái đám cưới nào, to hay nhỏ, nghèo hay giàu cũng không thể thiếu cái món nầy.
Ngoài cái việc được đa số bà con ưa chuộng, nó còn được dùng làm khuôn vàng thước ngọc để đo lường sự khéo léo của các vị bếp trưởng.
Thím Chín sở dĩ nổi tiếng như cồn, sự nghiệp nấu ăn hết sức vẻ vang, chín chục phần trăm là nhờ nó, chớ chẳng phải món tây, món u gì ráo!
Nồi thịt kho của thím Chín lừng danh bởi lớp mỡ chín bệu trong veo, vàng như mật ong, gắn dính khắng vào phần thịt hồng hồng. Mùi thơm ngào ngạt, vị đậm đà, màu thắm tươi khiến chỉ nhìn, ngửi thôi cũng đủ làm cho cái bao tử nhoi nhói, cồn cào, thổn thức.
Sở dĩ nó thơm, ngon, hấp dẫn... đến mức đó, là nhờ thím Chín có cái bí quyết ướp thịt và đem hết tâm huyết ra mà lựa từng trái dừa một.
Nếu gia chủ có làm heo, thím sẽ bắt tay ngay khi miếng thịt còn nóng hổi. Nếu không, thím chịu khó dậy thiệt sớm tới tại lò mổ, để chờ họ ra thịt, mua rồi xách về liền.
Trước tiên, thím mài cây dao yếm có cái bản rất to, sao cho cái lưỡi bằng sắt nhíp xe hơi của nó, bén ngót như cái lưỡi bào cạo râu (thiếu điều sợi tóc bay ngang cũng bị cắt làm hai).
Thím xắt tảng thịt to đùng thành những miếng vừa ăn, chớ không bự tổ chảng như đa số bà con hay làm. Bởi nếu cắt to quá, khi ăn phải rỉa ra mất đẹp. Miếng thịt của thím bề bản chừng ba ngón tay và dày chừng vài phân thôi, miếng nào cũng được cắt ngọt xớt, bằng chan nhau như cầm thước mà đo.
Để cho miếng thịt được trong, thím thoa nước cốt trái chanh lên giáp vòng miếng thịt rồi thím ướp kha khá đường vô trước. Nếu xài đường móng trâu, đường sắt, đường chảy, đường thẻ...Thím chịu khó thắng đường cho kẹo lại rồi mới đem ướp vào thịt. Thím trộn, xóc lên để nó thấm đều, đem hong ở chỗ mát và có gió, ướp khoảng một, hai tiếng đồng hồ là đem kho được.
Thím lựa mấy khúc củi me nước, (chúng ít khói và than chắc, nóng hơn củi tre, củi gòn nhiều) rồi tự mình gầy bếp. Thím nổi lửa tưng bừng, chờ hết khói rồi đặt cái nồi thịt lên. Lửa càng lớn thì thịt sẽ săn lại càng nhanh, khi kho nước mới càng trong.
Lúc mùi đường vừa bốc lên, thím nhấc liền cái nồi xuống để không bị khét rồi xóc mấy cái cho đều. Kế tiếp thím bắc lên bếp trở lại. Vừa bỏ tay ra khỏi hai cái quai nồi là chụp cái thau nước dừa mà trút vô liền. Cái thứ nước mát, ngọt nầy được lấy từ những trái dừa xiêm, không già, không non (nước dừa già sẽ làm màu thịt bị sậm đen, nước dừa non cho mùi, vị kém ngọt, kém thơm và màu không tươi), đã được lược qua cái khăn bằng tấm vải mùng gấp làm đôi.
Lúc nầy một nhúm muối hột được cho vào. Vẫn để lửa to cho nồi thịt sôi bùng lên, thím canh cho tới khi nước đã sủi tăm, bọt trồi lên từng đợt liền lập tức bớt lửa. Phải nhanh tay nếu chậm bọt sẽ bị chìm làm nước đục ngầu, lợn cợn. Báo hại miếng thịt chẳng những không ngon, không trong mà cũng bớt thơm.
Thím dùng cái vá rất cạn hớt cho bằng hết lớp bọt đóng từng mảng trên mặt. Đợi khi nước thật trong, không còn nhả bọt nữa, mới cho nước mắm vào và để lửa riu riu.
Cái nồi thịt kho Tàu bắt đầu dậy mùi kể từ khi nầy và càng lúc càng thơm ác liệt!
Thím Chín thường tuyên bố là mình không thèm xài tới cái lưỡi để nếm, chỉ cần hít qua một hơi thôi, cũng đủ biết cái nồi thịt kho đó mặn hay lạt, ngon hay không rồi.
Trong suốt quá trình nấu, nồi thịt kho không được đậy nắp vì sẽ bị đục. Mùi thơm được phóng thích, tha hồ bay khắp xóm mà chọc ghẹo dạ dày của mấy người lân cận.
Nhóm đờn ca tài tử đã ăn cháo gà no cành hông rồi mà vẫn thèm chảy nước miếng. Thậm chí cậu Ba Sáng, cái ông chủ nhà sắp làm sui, cũng cầm lòng không đậu.
Cậu Ba rình cho mọi người đi ngủ hết rồi mới lọ mọ chui xuống bếp bới một tô cơm nguội. Cậu bưng cái rổ thưa có tấm thớt me nặng chịt dằn lên, đang được đậy trên nồi thịt xuống. Cậu lấy cái vá vớt hai cục thịt, khỏa bớt lớp mỡ trên mặt cho trôi bớt rồi múc một ít nước chan vào.
Miếng thịt múc lên coi chắc lọi vậy mà khi chui vào giữa hai hàm răng, chưa kịp cắn là cái lớp mỡ béo ngậy đã muốn tan ngay trong miệng.
Một cảm giác quá tuyệt vời khiến cậu Ba cảm thấy cuộc đời thật là đáng sống!
Vừa nhai cậu vừa nghĩ thầm:
- "Ngày mai cho dù mình có ngồi bàn ăn đàng hoàng, trước mặt ê hề món, chắc chắn hổng thể nào ngon bằng phân nửa cái tô cơm nầy đâu".
Mợ Ba nghe tiếng lục đục liền chạy ngay vô bếp. Trống ngực của mợ đập đùng đùng vì sợ cái nồi thịt kho bị mấy con mèo hoặc chó cạy nắp.
Cậu Ba đang ngồi chồm hổm trước cái lò với nồi thịt kho ngay trước mũi, đang nhai nhai, nuốt nuốt một cách khí thế, thấy vợ bước vô thì hơi sượng sượng.
Mợ Ba hỏi:
-Thịt kho có vừa ăn hông ông?
Cậu Ba nhắm hai con mắt, lắc đầu qua lại đúng ba lượt rồi nói:
-Ngon hết sẩy bà ơi!

Không giống như con rể và con gái, chú thím Chín đón đứa con thứ nhì của mình kém hăng hái, hay nói đúng hơn là chẳng có chút xíu nhiệt tình nào.
Họ cố làm ra vẻ thản nhiên, nhưng vẫn để lộ sự miễn cưỡng cộng với nét bẽn lẽn trên mặt mỗi khi bà con láng giềng lân la hỏi đến.
Đứa con nầy là một món quà không chờ, không đợi, hoặc chờ đợi quá lâu nên đâm chán, không còn muốn có nữa. Cả chú lẫn thím đều đã thích nghi với cương vị làm ông ngoại, bà ngoại, nay rớt giá làm ba, làm má nhứt là ở cái tuổi nầy nên cảm thấy bẽ mặt làm sao!
Đã vậy còn mang bầu một lượt với con gái nữa ! Thiệt là chướng mắt, thiệt là trái khoái, thiệt là ngặt mình! Làm như thể họ đang thi đua với nhau vậy.
Sáng nầy thím Chín bưng rỗ xuống sông rửa cá. Dì Bảy và mợ Ba đang ngồi trên cây cầu gòn, vừa xả đồ vừa nói chuyện với nhau coi mòi rôm rả lắm! Họ bỗng im bặt khi vừa trông thấy thím.
Thím Chín nhạy cảm lắm! Thím biết ngay là hai người đó đang nói tới mình nên bỗng nổi giận ngang xương. Rồi chợt nhớ lúc có bầu mà giận hờn ai thì đứa con trong bụng sau nầy sẽ mang cái tánh cộc cằn quạu quọ, thím đành nuốt cái cục giận xuống mà cười nói bình thường với họ.
Vừa bưng rỗ cá lên nhà, lát sau thím nghe tiếng dì Bảy léo nhéo:
-Chị Chín ơi! Chị Chín ơi! Có ở nhà hông vậy?
Thím Chín còn "sùng" trong bụng lắm! Thím chẳng muốn lên tiếng chút nào, tính để cho dì Bảy gọi tới tắt tiếng, chịu hết thấu rồi về.
Thế rồi thím nhủ thầm:
-"Mới gặp dưới bến mà làm thinh là con mẻ biết mình bị "chạm nọc", chắc còn cười thêm trong bụng".
Thím đành đáp:
-Ơi! Có chuyện gì hông chị Bảy?
Dì Bảy đáp bằng một giọng vui vẻ háo hức, y như một đứa bé gái có hai cục kẹo trong túi, kêu con bạn của mình ra để cho bớt một cục vậy:
-Thì ra đây rồi biết!
Dù chưa biết chuyện gì, nhưng qua cái kiểu nói của dì Bảy, thím Chín cũng đoán được tới chín chục phần trăm là chuyện vui nên lật đật bước ra.
Thím vừa mở cánh cửa cổng là dì Bảy lách vô liền. Dỉ trách:
-Ban ngày đâu ai dám ăn cướp mà bế cổng dữ vậy?
Thím Chín cười giả lả:
-Con gà mái mới xuống ổ. Sợ nó dắt bầy con ra đường rồi xe cán chết.
Dì Bảy chỉ mấy cái lỗ thư rỉnh dưới chân hàng rào bông bụp :
-Ba cái lỗ chó đầy nhóc, chui ra cái một, đóng cửa chi cho mệt.
Thím Chín mời:
-Chị vô nhà ngồi chơi!
Dì Bảy lắc đầu :
-Tui còn đi bổ thuốc cho ba thằng Công. Chị Hai Thọ nhờ tui đưa cái nầy cho chị.
Rồi dì móc túi lấy ra hai chai dầu nước xanh đưa cho thím Chín.
Thím Chín trợn mắt mà nhìn, mấy giây sau mới hỏi:
-Sao khi không mà cho tui? Còn cho tới hai chai...
Thím còn định hỏi thêm là tại sao mợ Hai không tự tay đưa cho thím mà phải nhờ dì Bảy, nhưng rồi thấy hỏi như vậy có vẻ gay cấn quá nên thắng lại liền.
Dì Bảy biết thím thắc mắc điều gì nên chặn nói trước:
-Hôm qua tui có lại nhà chị Hai, gặp lúc chỉ đang khui thùng hàng của thằng Thụ gởi về. Nó có ghi trong thơ là gởi cho chị một chai, con Nhu một chai. Chỉ cũng cho tui một chai rồi nhờ cầm lại cho chị. Chỉ nói nó gửi có một lố hà! Không đủ đâu vào đâu nên cho lén lén sợ bà con phân bì.
Thím Chín xua tay:
-Ít thì để chỉ chia cho họ hàng, tui không có lấy đâu!
Dì Bảy lắc đầu:
-Tui cũng nói y như chị vậy đó, cái rồi chỉ năn nỉ quá cỡ nên không cầm không được. Chỉ cũng sợ chị từ chối nên nhờ tui ráng nói vô giùm.
Thím Chín vẫn không chịu cầm. Dì Bảy bèn nhét hai chai dầu vô túi áo của thím rồi quày quả kiếu:
-Thôi lấy giùm đi mà ! Chị vô nhà đi, tui xuống tiệm ông chệt Lến đây!
Rồi dì tức tốc bỏ đi liền.
Thím Chín thở dài, nói lầm bầm:
- Vậy là giáp cái xóm nầy, ai cũng biết hết trơn, hết trọi.


Thím Chín không ngớt van vái phật bà Quan Âm cho thím sanh sau Nhu một tháng, để nuôi con gái cho cứng cáp rồi tới phiên nó nuôi mình.
Thím đem cái mối lo đó nói với chồng. Chú Chín gạt phắt:
-Bà đừng có lo, tới chừng đó vợ ai nấy nuôi!
Thím hỏi lại bằng cái giọng nghi ngờ pha lẫn ngán ngẫm:
-Ông nuôi kiểu nào? Đâu nói thử tui nghe!
Chú gãi đầu sồn sột rồi nói:
-Bất quá nhờ chị Sáu với con Nhạn vài ba bữa?
Thím vặn lại:
-Hổng lẽ bắt họ giặt quần dơ cho tui hả?
Chú Chín lại gãi đầu tưng bừng thêm một lần nữa. Đây đúng là cái công việc khó khăn nhứt đối với chú. Không phải chú gớm, cũng không phải sợ bị mất mặt mà bởi một lí do duy nhất mà chú không thể vượt qua được: Chú có cái bịnh hể thấy máu là xỉu.
Thím Chín lại thở ra:
-Nghĩ tới cái lúc bồng đứa con đỏ hỏn trên tay, sao mà tui ngán ngược.
Chú Chín bắt bẻ:
-Lúc trước tui nghe bà xúi con Nhu sanh thêm hai ba đứa để bà nuôi giùm cho. Sao bây giờ con của mình mà bà than, bà sợ nuôi hổng nổi?
Thím Chín thở dài:
-Tại ông hổng biết chớ, nuôi con nó khác nuôi cháu. Ở cái tuổi nầy nuôi cháu thì khoái chớ hổng ai ham nuôi con. Rảnh rang lâu quá rồi bây giờ kè kè một cục, cực trần thân.
Chú Chín an ủi vợ:
-Thôi bà ráng đi, biết đâu lần nầy nó lòi ra một cục con trai. Lẩm rẩm mà bà giống má chồng của bà quá! Hồi đó bà nội con Nhu cũng sanh tui một lượt với chị Hai sanh con Thủy. Ai cũng khen là nhà tích đức nên cuối cùng cũng có một đứa con trai nối giõi.
Rồi chú an ủi vợ:
-Cái thằng nhỏ nầy nhứt định phải có hiếu với tụi mình.
Thím Chín bắt bẻ:
-Rủi con gái thì làm sao?
Chú Chín nói như đinh đóng cột:
-Lần nầy chắc chắn là con trai, bà tin tui đi!
Thím Chín thắc mắc:
-Ông vịn vô đâu mà nói nghe ngon quá vậy?
Chú Chín gục gật cái đầu:
-Kỳ nầy đổi đầu con nên bà ốm nghén khác hơn lúc mang con Nhu.
Rồi chú nhắc:
-Hồi đó bà toàn là ưa món chua. Cóc với ổi ăn cả rổ còn chưa đã thèm, nhớ hông?
Thím Chín gật đầu:
-Nhớ chớ sao không! Ăn thay cơm luôn bởi bây giờ mới bị cái bịnh đau bao tử. Còn bây giờ thì thèm ăn mấy cái thứ gì đâu không...
Chú Chín chợt nhớ ra, thò tay móc trong túi áo ra một cây phấn đưa cho thím.
Thím Chín cầm viên phấn trắng bóc lên, cho vô miệng cắn một cái "cóc" rồi nhai rau ráu. Chú Chín nhìn vợ bằng cặp mắt vô vàn ngưỡng mộ, ông nói:
-Chèng ơi! Bà ăn phấn coi bộ còn ngon hơn ăn kẹo. Thèm cái giống gì mà kỳ lạ quá, hổng có giống ai một chút nào hết trơn, hết trọi! Mấy bà bầu sao mà thèm làm chi ba cái thứ hổng bổ béo gì hết, khó ăn gần chết. Sao hổng thèm mấy món cao lương mỹ vị cho nó đáng cái công mang nặng đẻ đau?
Thím Chín nuốt xong rồi nói:
-Ai mà muốn! Tui còn đỡ chớ có người còn thèm mấy thứ nghiệt hơn. Hồi đó tui nghe bà ngoại con Nhu nói, có người lột hột vịt rồi bỏ hết vỏ vô miệng mà ăn. Có người đang nhổ cỏ cái cầm cục đất cày lên nhai ngon lành. Có người quẹt cức gà sáp lên tay liếm... tui cũng đâu có tin.
Chú Chín bỗng hỏi:
-Mấy lúc sau nầy sao bà kho cá, trộn gỏi hổng nghe thơm tho gì ráo?
Thím Chín lại thở ra:
-Bây giờ tui mà nghe mùi tỏi, mùi hành là mửa chết bỏ! Thôi ông ráng chịu đựng, nhắm mắt mà nuốt đại đi, chừng đôi ba tháng nữa là đâu mới vào đó lận.

Thím Chín nói như xin lỗi chồng vậy, làm chú Chín nghe thương vợ quá chừng! Ổng không hề do dự, bỏ phe ta theo phe "địch" liền.
Chú hạ quyết tâm phải chiến thắng bản thân, phen nầy dốc hết sức ra mà nuôi vợ đẻ để làm gương cho cái đám đàn ông, nhứt là con rể.
Chú bèn nói:
-Bà đừng có mở lời nhờ chị Sáu hay con Nhạn gì hết nhe!
Thím ngạc nhiên:
-Sao vậy? Hồi nãy ông mới biểu mà bây giờ lại đổi ý cấp kỳ, lạ vậy?
Chú Chín cười:
-Ai ăn người nấy chịu. Con mình đẻ mai mốt mình nhờ, bắt chỉ cực coi sao được?
Thím Chín "xì" một tiếng dài thòn:
-Nói nghe ngon lành quá! Ráng mà giữ lời nghe hông? Đừng có để cho tui ăn cơm nguội cứng quèo, rồi mò ra lu múc nước uống đó!
Chú cười:
-Bà đừng có lo. Kỳ nầy tui cho bà ăn sườn nướng đã thèm, khỏi ăn cá làm chi cho mắc xương. Quần áo bà với thằng nhỏ tui giặt bằng xà bông thơm rồi ủi thẳng băng luôn.
Thím Chín cười còn lớn hơn:
-Để tui banh hết cỡ hai con mắt ra coi ông làm được mấy ngày. Cái người chỉ có một đôi dép mang trong chưn mà nhắc hoài còn hổng thèm rửa. Tới nổi tui ngứa con mắt muốn chết, lâu lâu phải lấy bàn chải chà cho sạch giùm. Tui mà hổng mó tay vô chắc nó đóng đất nhìn khỏi có ra luôn mà ở đó...
Chú Chín gật đầu, giọng hăm he:
-Hồi trước thì vậy chớ từ rày trở lên bà coi...
Rồi chú hỏi:
-Bà tính ngăn đôi cái buồng lớn ra để hai mẹ con nằm riêng, hay là cứ để y như vậy rồi kê thêm một bộ giạt nữa đặng nằm chung cho vui?
Thím suy nghĩ giây lâu rồi nói:
-Ngăn làm hai cho thằng rể của mình vô nựng vợ, nựng con được tự nhiên.
Chú lại hỏi tiếp:
-Bà có tính nằm lửa hông? Đặng tui biết mà đi dặn cô Năm mua than đước giùm.
Thím Chín cự:
-Củi cả đống xài hổng hết, mắc gì đi mua than về nằm.
Chú lắc đầu:
-Đừng có hà tiện bà ơi! Củi khói nhiều độc dữ lắm!
Thím Chín lẫy:
-Vậy thì thôi, khỏi nằm.
Chú Chín tưởng thiệt nên gật đầu:
-Nghe bà nói tui mừng quá. Hổm rày thằng Nghệ nó cứ biểu tui khuyên bà là đừng có nằm lửa. Nó nói nằm lửa chỉ lấy được cái hơi nóng mà phải hít khí độc, lợi không có mấy mà nguy hiểm tới tánh mạng chớ hổng phải chuyện chơi. Bà với con Nhu sanh trúng cái mùa nực nên đâu có cần. Bất quá tới lúc đó mình xin thầy Bảy mấy cái chai nước biển bỏ không, nấu nước sôi chế vào, để cặp hai bên hông mấy đứa nhỏ là tụi nó cũng đủ ấm rồi. Còn bà với con Nhu thì xức dầu cho nhiều vô.
Thím Chín vừa nghe chồng nhắc tới chữ "dầu", mặt mày bỗng rạng rở. Thím liền thò tay vô túi áo, móc hai chai dầu con ó ra khoe:
-Chưa gì hết mà có người cho má con tui hai chai dầu xanh rồi nè!
Chú Chín sầm mặt xuống rầy vợ:
-Bà lấy làm chi...
Thím Chín hỏi chặn:
-Ông biết của ai cho hông mà biểu đừng có lấy?
Chú Chín đáp lại bằng một câu hỏi:
-Bà đếm thử coi trong xóm nầy có mấy nhà có con là Việt Kiều?
Thím Chín tiu nghỉu, tưởng được chồng nhảy vô vui chung, nào ngờ ổng suy nghĩ cong cong, quẹo quẹo như cái ống vòi bình tích.
Thím ngẫm đi, ngẫm lại lát sau bỗng thấm. Thấy mình nhận hai chai dầu ngó bộ coi hổng được. Bây giờ đem trả lại chắc còn kỳ dữ nữa!
Thấy vợ không trả lời mà ngồi chù ụ, chú Chín cho là thím tiếc hai chai dầu, nên nói:
-Bà có thích thì cất hết để dành xài mình ên thôi! Đừng có nói cho con Nhu nghe chuyện nầy, mắc công nó nghĩ ngợi lung tung không tốt.
Thím Chín nói:
-Thích thì mua xài chớ lấy của họ làm chi. Để tui gởi chị Bảy đưa trả giùm.
Chú Chín bắt lỗi:
-Người ta đưa bà thì bà trả cho người ta, mắc gì phải nhờ chị Bảy cho kéo dây kéo nhợ ra tùm lum. Tới tai người nầy người kia cho sanh thêm chuyện.
Thím Chín cự:
-Bộ tui còn con nít hay sao mà hổng biết cách xử sự ? Tại họ hổng có đưa cho tui, đưa qua tay chị Bảy, thì bây giờ tui đưa cho chị Bảy nhờ trả lại là phải thế lắm rồi!
Chú lật đật xuống nước:
-Tui đâu có biết là như vậy! Bà đưa chị Bảy là đúng đó!
Thấy thím còn quạu chú vội đổi đề tài:
-Bữa nào bà theo con Nhu đi khám một lần cho chắc ăn. Mình cũng lớn tuổi rồi, đừng có ỷ y.
Thím trề môi:
-Chờ ông nhắc chắc tui đi đẻ mắc tiêu rồi.
Chú giựt mình:
-Bà đi hồi nào mà tui hổng hay?
Thím trả lời:
-Cái bữa ông đi ăn đám cưới ở Cải Dầu. Tui không chịu đi theo là để ghé Châu Đốc đó, ông nhớ hông?
Chú gật đầu:
-Thì ra là vậy?
Thím nói tiếp:
-Tui tính đi thẳng vô nhà thương lớn cho chắc ăn. Chừng tới đó tui hết hồn luôn ông ơi!
Chú Chín ngạc nhiên:
-Có cái gì ở trỏng mà bà hết hồn?
Thím chắc lưỡi:
-Người ta đi phá thai rần rần, giữa ban ngày, ban mặt luôn.
Chú Chín cười:
-Thì bây giờ cái chuyện đó được nhà nước cho phép mà, đâu có cấm cản gì đâu mà phải làm lén lút.
Thím thở dài:
-Tui đi khám coi ra làm sao mà họ tưởng là tui đi bỏ. Họ rầy tui dữ quá, nói hơn ba tháng rồi nạo bỏ nguy hiểm lắm, biểu tui về rồi hai tháng sau lại chích thuốc vô đặng đẻ non. Tui nghe mà hai cái đầu gối run lập cập, nói với mấy cổ là tui để sanh chớ đâu có bỏ.
Chú Chín trợn mắt:
-Chèng đéc ơi! Sao mà bà xớn xác dữ vậy, may hông thôi... Rồi sao nữa?
Thím để tay lên ngực, nói tiếp:
-Mấy cổ cự tui dữ quá! Nói ở cái tuổi nầy mà đẻ làm chi, không tốt, rồi hỏi tui coi có được mấy đứa con. Tui nói mới có một đứa thôi, cái họ nói "vậy thì được". Rồi họ lấy cái ống nghe đặt lên ngực tui, nghe một lát rồi nói là cái thai mạnh lắm. Họ đưa cái giấy biểu tui đi lấy máu để thử. Tui sợ quá, ra khỏi cái phòng đó là đi thẳng ra bến đò về nhà luôn. Tính ra chợ mua vải về may tả mà tại sợ mất hồn, mất vía nên quên tuốt luốt.
Chú Chín nói giọng tiếc rẻ:
-Phải bà nán lại mà xin bác sĩ cái toa thuốc bổ thai đặng mua về uống.
Rồi chú nhắc:
-Sao tui chưa thấy bà mua nếp than về làm cơm rượu?
Thím Chín nói:
-Còn sớm mà!
Chú hỏi:
-Bộ hổng phải làm xong còn phải chôn xuống đất để càng lâu, càng tốt sao?
Thím Chín lắc đầu:
-Mỗi người mỗi kiểu. Bà ngoại con Nhu hồi đó có dặn kỹ càng. Rượu làm xong đậy nấp cho thiệt kín, đem chôn đúng một trăm ngày lấy lên xài là tốt nhứt, để lâu quá cái chất âm dư cũng không có tốt.
Chú Chín chắc lưỡi:
-Bà ngoại sắp nhỏ làm rượu nếp than ngon hết biết ! Hồi đó bà có cho tui uống thử mấy lần. Tui rót tới phân nửa cái ly xây chừng thôi mà vừa uống qua khỏi cổ là máu chạy rần rần, người nóng rang. Bà uống hết cái hủ rượu đó nên bổ không biết bao nhiêu mà nói ! Sữa lên đầy nhóc tới nổi con Nhu vừa bú vừa sặc. Cái thứ rượu gì mà ngon quá mạng, bây giờ nhắc lại tui cũng còn thèm.

Nhiệt tình đang dâng cao ngùn ngụt. Hôm sau chú Chín đốn cây gòn dưới bờ sông rồi kêu người đến cưa ra thành ván để ngăn đôi cái buồng.
Chú đem mấy tấm ván ra phơi nắng, trở qua trở lại cho nó không bị cong vểnh một bên. Phục thấy chú loay hoay một mình thì nhảy vào góp một tay.
Vừa bợ một đầu ván để nhấc lên, chàng vừa hỏi:
-Phơi ván chi vậy chú Chín?
Chú Chín cười:
-Cưa để sẵn đó vài tháng sau mới đem ra xài.
Phục hỏi:
-Bộ chú tính sửa nhà hả?
Chú lắc đầu:
-Để dành lót ổ cho bả với con Nhu.
Phục chới với:
-Bộ chú với anh Nghệ sắp có thêm một đứa nữa sao?
Chú Chín gật đầu. Thấy Phục có vẻ bán tín, bán nghi chú ngỡ y không tin vào cái "bản lĩnh đàn ông" của mình, nên vừa giải thích vừa tâm sự:
-Ông trời ngẫm ra mà có cái tánh lắc léo hơn ai hết. Hồi trước chú trông có thêm một đứa con trai gần chết, mà chờ từ năm nầy qua năm khác, không thấy nó chui ra. Chú với thím rầu hết biết! Mạnh ai nấy lo hỏi thăm. Hết người nầy chỉ thuốc rồi tới người nọ chỉ thầy. Ai mách cái gì là làm liền cái nấy, từ chuyện ăn uống, làm phước cho tới đi chùa. Chùa Lá, chùa Ngói, chùa Ông, chùa Bà...gì gì cũng đi ráo! Lạy gần muốn sói trán mà ổng không thèm ngó. Bây giờ già cúp bình thiếc, không cầu không thỉnh nữa cái tự nhiên ổng thảy đại vô nhà, cho một lần hai cục, đứa con, đứa cháu. Hỏi coi có mắc cười hông?
Phục buột miệng:
-Chú thì đã đành, còn anh Nghệ thì làm sao mà có con cho được?
Chú Chín cười hô hố:
-Cái thằng nầy nói nghe ngộ dữ! Tao hết xíu quách rồi mà còn đúc nổi một đứa. Nó đang độ trai tráng, máy còn tốt quá mạng mà thua sao?
Phục nghe chú Chín hỏi như vậy thì giựt bắn mình, lật đật bào chửa:
-Tại cháu nghe ảnh nói chờ cho thằng Nhân lớn lớn một chút rồi mới tính.
Chú Chín cười còn to hơn:
-Bây chưa có vợ nên không biết. Ba cái chuyện đó khó mà giữ lời hứa lắm!
Câu chuyện vừa nghe được như cây dầm ghim sâu vào tay rồi mắc kẹt luôn trong đó. Nó khiến Phục đau xót, bức rức không thể chịu nổi.
Chiều hôm ấy Phục kêu đói bụng, hối dì Sáu nấu cơm sớm sớm.
Dì Sáu lật đật đi làm mấy con cá rô để nấu món canh chua bông súng. Cá tươi còn bông súng non xèo, mới hái bẻ nghe cóc cóc.
Dì biết Phục ưa món canh chua nầy nhứt hạng nên ráng o cái nồi canh. Dì chịu khó ngâm me trước, đem nhồi chỉ lấy nước trong rồi bỏ xác, sợ thả vô luôn thì cái hột của nó sẽ ra nước chát ngầm, mất ngon. Dì ra cái giàn rau của thím Chín ngắt mấy lá rau tần đem vô nêm. Canh chua cá rô, nêm rau tần là đúng điệu nhứt!
Canh sôi ục ục, dì cho muối đường vô nếm cho vừa miệng rồi thả cá vào, kế đó bỏ tiếp bông súng. Dì múc canh ra tô rồi mới cho rau tần xắt nhuyễn vô, tô canh liền thơm lừng. Màu lục của rau tần bỗng xanh thẫm lại, khiến những lát ớt nằm bên trên cùng trông càng nóng đỏ, điệu đà, hấp dẫn!
Đặt mâm cơm lên chõng dì Sáu bảo Phục:
-Ăn cho hết cái tô canh nầy nghe đừng có chừa, má ăn chay.
Rồi không bỏ đi mà ngồi ghé một bên nhìn Phục ăn, trong bụng chắc mẫm sẽ được trông thấy nét mặt rạng rỡ và nghe những lời khen ngợi.
Chờ hoài không nghe Phục nói tiếng nào, dì hỏi:
-Canh má nêm như vậy có vừa miệng hông?
Phục chợt nhớ ra, liền gật đầu:
-Ngon lắm má!
Rồi hỏi:
-Sao má hổng ăn luôn?
Dì Sáu lắc đầu:
-Má chờ con Nhạn về ăn chung cho nó vui!
Thấy Phục ăn chỉ một chén rồi xá đũa. Dì hỏi, giọng buồn thiu:
-Sao nói đói bụng mà ăn ít quá vậy?
Phục chống chế:
-Chắc tại nuốt lẹ quá nên no ngang. Má đừng lo, lát về con ăn nữa.
Nói xong liền đứng lên bước thẳng ra cái lu ngoài hàng ba, múc một gáo nước đầy, xúc, rửa miệng rồi xách cây đờn đi xăm xăm ra cổng.
Dì Sáu kêu lại hỏi:
-Mới ăn xong mà đi đâu đó!
Phục không dừng bước, chỉ ngoái đầu lại và nói:
-Con qua nhà anh Nghệ, nhờ ảnh chỉ giùm cái ngón đờn nầy rồi về liền.
Dì Sáu nói:
-Cái chuyện học đờn đâu có gấp. Trở vô cho má nói chuyện nầy một chút.
Phục miễn cưỡng quay vào. Vừa dừng chân là hối:
-Có chuyện gì má nói lẹ đi! Con mà đi trễ, một lát không có đò về đâu.
Dì Sáu rầy:
-Thì ngồi xuống đây, mắc cái gì mà thủ thế như sắp chạy thì làm sao mà nói?
Phục ngồi xuống y chỗ của mình ban nãy, giờ hãy còn ấm, nhìn dì Sáu bằng đôi mắt thúc giục.
Dì Sáu quở tiếp:
-Cái chuyện trễ vợ, trễ con hổng lo mà ở đó lo trễ đò.
Rồi dì xuống giọng:
-Từ hôm đi đám cưới tới nay, con có gặp con Tím lần nào hông?
Phục lắc đầu:
-Hông!
Dì Sáu hỏi như trách:
-Sao vậy?
Phục bức rức:
-Con với cổ hổng ưa nhau thì gặp làm chi?
Dì Sáu nhiếc:
-Nó hổng ưa con sao chịu dọn như bà hoàng rồi đòi đi rước dâu cho bằng được. Báo hại phải nhét con Nhạn vô cho đủ một cặp. Nghe con Nhạn kể, mấy lúc sau nầy nó được con Tím cưng dữ lắm ! Được như vậy là vì con Tím thương con nên mới tưng tiu, lấy lòng nó. Chuyện nầy bộ con không nghĩ thấu sao mà còn chờ má vạch ra mới thấy?
Phục lắc đầu:
-Nhưng mà con không có thương cổ, con thương...
Dì Sáu nạt ngang:
-Con đừng có điên khùng nữa. Từ rày má cấm con qua sông nghe hông? Con chơi với thằng Nghệ rồi tơ tưởng tới vợ người ta mà không sợ tội hay sao?
Phục khăng khăng:
-Nhưng mà ảnh biểu con cứ việc thương mà! Thằng Nhân cũng đâu phải là con của ảnh, má biết nó là con của ai không? Nó là...
Dì Sáu chặn ngang:
-Cái chuyện đó ai mà hổng biết, nhưng không ai muốn nói ra làm chi. Thằng Nghệ nó nhảy vô gánh thay cho thằng Thụ coi như làm phước cho hai gia đình. Bởi vậy vợ chồng ông Chín mới cưng nó như vàng, như ngọc.
Phục mở miệng ra định cãi, nhưng vừa nhìn gương mặt dì Sáu một cái thì chàng cảm thấy nhuệ khí tan mất biệt, y như bỏ cục nước đá vô ấm nước sôi, đành nín thinh.
Dì Sáu nói tiếp:
-Bộ con hổng thấy cái bụng của con Nhu thè lè hay sao mà còn đòi nhảy vô phá gia cang của người ta?
Phục khăng khăng:
-Con biết chắc là cổ không có con. Anh Nghệ bị bịnh không có làm cái chuyện đó được.
Dì Sáu thở ra một hơi dài, dì nói như khóc:
-Con ơi! Sao mà bây tăm tối ngu muội dữ vậy? Bộ hổng nghe cái câu: "Lữa gần rơm lâu ngày cũng bén hay sao". Cho dù cái bó rơm ướt nhẹp mà hong riết cũng phải khô rồi cháy rần rần.
Thấy cái mặt của Phục cứ lì lì ra. Dì Sáu bỗng nổi tức. Dì gằn từng tiếng:
-Tao nói rồi đó! Bây mà làm xằng, làm bậy khiến tao đội quần thiên hạ là tao cầm chai thuốc sâu, uống hết cái một rồi chết trước mặt bây liền.
Nói xong dì đứng phắt dậy một cái rột, bỏ đi ra sàn nước. Phục ngồi lại một lát rồi cầm cây đàn đứng lên, dắt xe ra cổng, chạy tuốt lại bến đò.

Nghệ vừa đi dạy về xong, dựng xe dưới chân cầu thang rồi không thèm lên nhà mà đâm sầm ra cái bến tắm sau hè. Chàng lột bộ đồ thảy lên bụi lau rồi nhảy ùm xuống sông, định lội vài vòng cho trôi mồ hôi rồi mới lên nhà nướng khô ăn với cơm nguội. Bỗng nghe tiếng gọi rất to ngoài cổng:
-Anh Nghệ ơi! Có ở nhà hông vậy?
Nghệ la lớn:
-Hông, vô đi?
Chàng lật đật leo lên bờ, mặc cái quần xà lõn ướt nhẹp, đi lại dây phơi rút cái khăn tắm đang máng trên đó xuống lau mình.
Phục đi trờ tới, nhìn đăm đăm vào chỗ giữa hai đùi của Nghệ.
Nghệ nạt:
-Cái chú nầy, ngó cái kiểu gì thấy mà ghê! Thiếu điều rớt hai con mắt xuống đất!
Nghe rầy Phục bèn quay mặt đi, bỗng chàng xoay người lại, nhìn đăm đăm vào mắt Nghệ rồi hỏi:
-Anh nói dối phải không?
Nghệ đang co một chân để rút cái quần ướt ra, nghe hỏi vậy thì đứng chết trân.


Phục thấy Nghệ làm thinh thì hỏi lớn hơn:
-Tại sao anh gạt tui?
Nghệ vẫn không trả lời lui cui lau mình... Ăn vận chỉnh tề xong , chàng mới nói với Phục:
-Tui không có gạt chú. Lúc tui nói với chú thì tui đang thực sự có bịnh, hoặc nghĩ là mình đang bị cái bịnh đó. Cho tới lúc đó tui chưa hề gần gũi Nhu. Thấy chú ôm một đống mặc cảm nên tui tội. Nói thiệt, tui còn tính dọn đường cho chú bước vô còn mình thì nhảy ra. Đang suy tính làm sao cho Nhu không cảm thấy tổn thương. Tui ướm lời với chú trước thì chú từ chối...
Phục hấp tấp hỏi:
-Tui từ chối hồi nào?
Nghệ nhắc:
-Cái bữa hai anh em mình lội dưới bến đó. Tui có hỏi là chú còn nghĩ đến việc cưới Nhu hông. Chú nói chú không dám vì má chú không chịu. Chú còn bồi thêm là Nhu ghét mình lắm. Lúc nghe trả lời như vậy tui cho rằng chú muốn phủi tay nên giận quá chừng và tội nghiệp Nhu hết sức!
Phục nghe đến đây thì nét mặt đã giãn ra bớt, y lắp bắp:
-Tại tui... tại tui...
Nghệ bỏ đi lên nhà, Phục lẽo đẽo theo sau. Thấy Nghệ làm thinh hoài y giục:
-Rồi sao nữa?
Nghệ đi vào bếp, lấy xâu khô treo trên giàn xuống, tháo dây lấy ra một con thôi rồi treo lên trở lại. Anh bắt đầu nhóm lửa, tay làm mà đầu không tập trung nên nhóm hoài củi vẫn không chịu cháy.
Phục giựt cái hột quẹt trong tay chàng rồi nói:
-Đưa tui nhúm cho, anh kể tiếp đi!
Rồi bươi cái mớ củi chất trong lò ra hết, xếp mấy que tre nhỏ xuống trước, tạo thành một khoảng trống ở giữa và dưới cùng. Y lấy một nắm lá dừa bẻ lại làm đôi, bật lửa đốt rồi vùi vào chỗ đó. Lửa cháy bùng lên mới cho hai cây củi me nước to vào rồi giải thích:
-Xài củi nầy để một lát có than mà nướng khô.
Nghệ đổ nước vào cái ấm đen thui, bắc liền lên nấu để châm trà.
Phục giục thêm lần nữa:
-Anh kể đi!
Nghệ hít vô một hơi thật sâu rồi thở ra:
-Tối đó ba má vợ kêu tui ở lại. Dạy chú đờn xong tui vô buồng ngủ. Thường khi tui lấy cớ có thằng nhỏ nên nằm dưới sàn để hai mẹ con ngủ thong thả. Hôm nay chỉ thấy một mình Nhu trên giường. Tui biết ông bà già vợ đã nghi ngờ nên sắp đặt. Nhìn cái dáng Nhu nằm co như con tôm, tay kẹp vô đùi, quay mặt vào vách coi tủi cực quá! Tôi không đành lòng nên nhảy lên ôm cổ. Cái rồi...cái rồi...
Nghệ cứ ngắc ngứ làm Phục sốt ruột:
-Cái rồi làm sao?
Nghệ nuốt khan rồi nói:
-Cổ quay qua ôm tôi rất chặc, y như ngày xưa tui sợ ma mà ôm má mình vậy. Thế rồi cơ thể tôi nó từ từ có phản ứng. Cái chuyện đó xảy ra hết sức tự nhiên, đẹp như trong sách vậy!
Phục lắc đầu:
-Tui không tin!
Nghệ cười mà cái miệng méo xẹo:
-Tui cũng không tin là mình làm được. Hóa ra bấy lâu nay tui không có mang bịnh bất lực, bị ám ảnh bởi cái lần đầu không suông sẻ mà thành ra như vậy thôi hà!
Thấy nét mặt Phục ỉu xìu, Nghệ nói:
-Tui cũng tính khoe với chú mà rồi thấy ngượng ngượng. Tui tưởng chú đã quyết tâm quên Nhu, biết chuyện nầy chắc mừng giùm tui, ngờ đâu chú giận như vầy.
Ấm nước bắt đầu sôi, kêu ro ro liên tục. Đám hơi nước bị dồn nén, tức mình nhảy tưng tưng đẩy cái nắp bật lên, rớt xuống... đều đều.
Nghệ đi xúc cái bình tích, mở lon trà lấy một nhúm bỏ vào. Chàng quay vào bếp thấy Phục đang thẩn thờ nhìn ngọn lửa cháy leo lét.
Không muốn làm đứt dòng suy tưởng của Phục, Nghệ lặng lẽ châm trà rồi thảy con khô cá bổi lên bếp than để nướng. Mùi khói cay bay vào mũi kéo Phục về hiện tại, y hỏi Nghệ:
-Bây giờ anh thương cổ nhiều chưa?
Nghệ gật đầu:
-Nhiều lắm! Hơn cả cái người con gái đầu tiên, mà tui tưởng là suốt đời nầy không thể nào quên được, và cũng không thương ai nhiều như vậy. Cho nên tui thành thật khuyên chú một câu "cưới vợ liền đi". Ái tình suông như một ly nước mưa, trong lành nhưng không có mùi vị. Cái tình vợ chồng như một ly nước đá chanh vậy đó! Thơm, ngon, bổ... Chính nó mới đem lại sinh khí cho cuộc đời của chú.
Phục cười buồn:
-Tại bây giờ, cổ là vợ của anh rồi nên anh mới khuyên tui như vậy, anh sợ tui...
Nghệ lắc đầu:
-Tui khuyên là tại thương chớ không có sợ chú chút xíu nào hết. Tui dám nói chắc với chú là ngay bây giờ, dưới gầm trời nầy không có ai thương nhau bằng hai vợ chồng tui đâu. Cho dù lúc nầy ông trời có sai thiên lôi vác búa xuống cũng không tách tụi tui ra được.
Rồi chàng an ủi y:
-Chú đâu có thua kém tui. Cái hôm đám cưới đó! Ai cũng khen chú ca hay, đờn giỏi. Bây giờ chú đã nổi tiếng như cồn. Nghe má vợ tui nói cô Tím cổ để ý chú rồi đó...
Phục xua tay:
-Tui không lấy con nhỏ đó đâu!
Nghệ lắc đầu:
-Đừng có trẻ con như vậy! Ông bà mình có câu "đánh người chạy đi chớ đâu có ai đánh kẻ chạy về".
Cổ đã làm một điều không phải với chú, nay được chú rộng lòng bỏ qua nên sẽ vừa cảm tình, vừa cảm nghĩa. Cái tình còn mòn chớ cái nghĩa khó mục lắm. Cổ có cái nghề, gia đình lại có nề nếp, đạo đức nữa. Khó mà kiếm được người như vậy lắm, chụp liền đi chú.
Phục cười:
-Sao em thấy cái mặt của cổ nó kênh kênh, dữ dữ... Coi bộ khó làm quen lắm!
Nghe Phục xưng lại tiếng "em", Nghệ mừng húm, chàng khuyến khích:
-Mấy cô gái mà làm mặt lạnh như vậy là để che đậy cái bản chất yếu đuối của họ đó! Chú nghe lời tui, cứ xông tới đi, kiếm cơ hội nói chuyện với cổ.
Phục thoái thác:
-Từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ em chưa có nói chuyện, làm quen với một cô gái nào hết. Ai mà biết mở lời làm sao, cứ lập cà, lập cập hoài người ta cười chết.
Nghệ nói kiểu cà rỡn cho y yên tâm:
-Anh nhìn là biết chú thuộc cái dạng nhát mà liều mạng. Nói chuyện thì khớp chớ dám nhảy vô ôm đại con người ta rồi đè xuống lắm!
Phục giật mình cái độp, liếc Nghệ một cái rồi cụp mắt xuống liền, tái cả mặt luôn.
Nghệ cười:
-Nói chơi thôi, làm gì mà chú nhớn nha, nhớn nhác như vậy ! Nghe lời anh, phải mạnh dạn lên một chút. Nếu ngại miệng thì để anh viết giùm cho cái thơ, rồi nhờ con Nhạn nó đưa cho.
Phục cười cười:
-Em chưa có hứng, thôi để thủng thẳng rồi tính.
Nghệ đốc:
-Tính cái gì nữa. Chú có nghe bây giờ đang có một thứ bịnh hết sức là nguy hiểm hông?
Phục lắc đầu:
-Hông! Bịnh gì vậy anh?
Nghệ chắc lưỡi:
-Ung thư đó! Cái bịnh nầy nếu mà mình vừa mới dính, đem khoét bỏ cái chỗ bị hư đó liền thì sống. Còn nếu không biết, hoặc biết mà cứ ôm trong mình hoài thì nó đâm rể như dây khoai lang, làm ổ tùm lum thì chỉ có nước chờ chết. Mà đâu có được chết êm ru, nó hành đau nhứt thấu trời rồi mới cho xuôi tay, nhắm mắt. Cô Tím bây giờ cũng giống như bác sỹ vậy đó! Chú phải gấp gấp nhờ cổ giải phẫu, phải cắt bỏ cái khối ung thư đó thì mới mong an toàn tánh mạng, biết chưa?


Con khô sặc bổi đã chín vàng, thơm phức. Nghệ lấy nó ra khỏi lò, đặt lên tấm thớt rồi lấy cái chày đâm tiêu dần cho thịt mềm và xương bung ra.
Chàng bưng cái nồi cơm nguội xuống, mở nấp ra rồi mời :
-Ăn ba hột với tui cho vui đi chú.
Phục lắc đầu:
-Em ăn cơm bên nhà rồi mới đi.
Nghệ kỳ kèo:
-Ăn cầu vui chớ đâu cầu no mà phải đợi cho đói mới ăn được.
Phục nghe nói vậy bèn thò tay vô nồi bóc một cục cơm, bỏ vô miệng nhai khơi khơi. Nghe nhạt phèo như bò nhai cỏ, nuốt hổng muốn trôi.
Chàng bèn hỏi:
-Bếp còn lửa than. Sao anh không chịu khó bắc cái nồi cơm lên, rưới miếng nước ấm ấm. Chờ một chút là nó nóng, xốp y như mới nấu, ăn cho ngon?
Nghệ lắc đầu:
-Hổng phải anh làm biếng, tại khô phải ăn với cơm nguội, mà phải bóc nó mới ngon.
Rồi xé cái miếng thịt trên lưng con khô đưa cho Phục:
-Chú phải nhai kèm với khô, chớ ăn cơm không nuốt sao nổi?
Phục cầm lấy, nhét vô miếng cơm ăn chưa hết rồi cho vô miệng nhai tiếp. Ban đầu còn miễn cưỡng, lát sau bắt trớn bóc lia lịa.
Thanh toán xong nồi cơm, Nghê bưng cái nồi trống trơn ra sàn nước, Phục đi theo để rửa tay. Thấy Phục cầm miếng miếng xơ dừa lên để chùi nồi, Nghệ can:
-Chú đổ nước cho ngập tới miệng nồi rồi để đó cho tui. Ngày mai tui chắt ra rồi bỏ gạo vô vo là nó sạch bóc. Rớ vào làm chi cho lọ nghẹ dính tay.
Phục nghe vậy thì rửa hai bàn tay cho sạch mùi khô rồi chùi vào quần.
Nghệ rủ:
-Lên nhà trên ngồi uống trà đi, rồi tui chỉ cho chú cái cách ve gái.
Phục cười bẽn lẽn rồi nói:
-Khoan có tính cái chuyện đó đã, anh dạy em đờn lại cái bài "Hàn Mặc Tử" đi. Cái chỗ ngâm thơ đó, sao em thấy anh làm nhuyễn nhừ, còn em cứ bị lợn cợn hoài.

Khi trăng lên tới đỉnh đầu Phục mới chịu đạp xe ra về. Giờ nầy đò đã thôi đưa, nên chàng rủ Nghệ theo để mượn chiếc đò chở mình qua sông rồi quay trở lại.
Chiếc đò được cột vào chân cầu. Sóng đánh đều đều khiến cái má của nó cứ cọ mãi vào cây cọc như gãi hoài mà không đã ngứa.
Tự nhiên Nghệ cảm thấy thương cho chiếc đò, chàng lầm bầm rầy mấy ngọn sóng:
-Ban ngày nó phải đi tới đi lui. Giờ nầy hết khách mới được nằm nghỉ. Vậy mà tụi bây cũng không để yên cho ngủ thì làm sao mà nó sống nổi.
Phục nghe tiếng được tiếng mất nên hỏi:
-Anh nói cái gì vậy?
Nghệ cười:
-Anh nói coi chừng cô Cà cổ thức rồi phao tin, tui với chú nửa đêm rủ nhau đi đổ lộp của thiên hạ.
Vài đóm lửa leo lét của mấy cái đống un trước chuồng bò, người ta đốt để đuổi muỗi, lấp lánh trong hàng cây mờ mờ xa xa, khiến đêm và dòng sông càng thêm tịch mịch. Nghệ chợt nhớ đến một bài thơ cổ.
Chàng hỏi Phục:
-Chú có thích ngâm thơ hông?
Phục lắc đầu:
-Em thích ca thôi hà.
Rồi hỏi nhỏ xíu như sợ cái bóng mình nghe thấy:
-Anh có biết em thích làm nghề gì hông?
Nghệ hỏi:
-Nghề gì?
Phục cười, giọng mắc cỡ:
-Nghề ca.
Rồi nói tiếp:
-Có lần em nằm chiêm bao, thấy mình được đứng trên sân khấu. Tỉnh vậy biết là không có thiệt mà cũng mừng quá cỡ. Đêm sau em đi ngủ thiệt sớm, vái cho nằm mơ tiếp tục, mà không được.
Phục nói thêm giọng tiếc rẻ:
-Tới bây giờ cũng không thấy lại thêm một lần nào nữa...
Nghệ an ủi:
- Cái nghề đó trăm ngàn người mới có một người thành công. Cạnh tranh bầm giập tả tơi chú ơi! Như chú bây giờ là sướng nhứt. Lâu lâu có ai mời thì đi ca cho sướng miệng, giúp cho bà con vui cũng lấy tiếng thơm luôn.
Phục cãi:
-Mình ca hay, diễn giỏi là giàu lắm đó anh!
Nghệ cười:
-Chưa chắc. Cái nghề nầy nó cần được lăng xê dữ lắm! Không tạo được tiếng tăm thì phải làm chuyện tai tiếng cho thiên hạ chú ý tới mình. Người như chú khó mà đè thiên hạ xuống để chường cái mặt lên lắm. Thôi, chịu khó cong lưng hái nấm rơm bán cho chắc ăn đi chú!
Phục bỗng hỏi:
-Sao em thấy anh không bao giờ ôm cây đờn đi biểu diễn hết vậy?
Nghệ cười:
-Cái nghề chánh của anh là dạy học. Lại mấy cái chỗ đờn ca nhậu nhẹt, học trò thấy mắc công lờn mặt, bớt kính trọng rồi khó rầy, khó dạy tụi nó lắm!
Một ngọn gió mồ côi bay phớt qua làm họ ớn lạnh. Phục nhìn mặt nước lăn tăn, ở chỗ trăng rọi xuống như có cả một bầy cá nhao nhao cố trườn theo họ.
Phục hỏi:
-Anh có lội nổi qua sông hông?
Nghệ gật đầu:
-Nổi. Hồi đó anh với thằng Thụ học cùng một lớp. Cái trường nằm sát bờ sông. Ra chơi hai đứa thường thách nhau bơi qua rồi bơi về.
Phục hỏi:
-Ai thắng?
Nghệ đáp:
-Khi thì nó khi thì anh. Cái thằng đó nó háo thắng lắm ! Hễ hôm nào thua thì hôm sau nó rủ thi lại cho bằng được. Cánh tay anh dài hơn nó nên thường tới mức trước. Nó tức lắm, nên ráng riết... Cho tới một lần, nó bị vọp bẻ xém chết mới thôi. Từ đó hết rủ đua nữa, cũng hết dám lội qua sông luôn.
Phục rủ:
-Vậy bữa nào em với anh bơi đua nghe!
Nghệ hỏi:
-Chi vậy?
Phục cười:
-Cho vui thôi, coi đứa nào giỏi hơn!
Nghệ lắc đầu:
-Ba cái chuyện tranh hơn, tranh thua là ngu đại hạng. Được cái tiếng khen nhứt thời mà toi mạng hồi nào hổng hay. Anh hết ham lâu rồi.


Đáng lẽ đưa Phục đến bờ rồi quay về liền, thế nhưng cái buồn và lạnh của con sông làm Nghệ nghe nhớ Nhu tha thiết. Nhà ba má vợ ở sát bến đò, chỉ cần vài bước chân là được ôm Nhu trong tay, nên Nghệ lưỡng lự. Chèo được một phần tư sông, Nghệ bỗng cho cái mũi đò xoay một góc bẹt, quay vô bờ trở lại.
Nhu đang thiu thỉu ngủ thì nghe tiếng gọi khe khe vọng lên từ cửa sổ:
-Nhu ơi! Nhu!
Cô choàng dậy ngay lập tức, hỏi bằng giọng náo nức:
-Anh đó hả?
-Ừ anh nè!
-Chờ em chút xíu!
Rồi Nhu để cả mái tóc xỏa tung chạy ra mở cửa cho chồng. Cô không dám đốt đèn. Bỗng dưng có mặc cảm như đang làm chuyện ám muội.
Ánh trăng choàng quanh người Nghệ tấm áo bằng thủy tinh mỏng dính, khoác lên anh vẻ lãng mạn của một chàng thư sinh của những thế kỷ trước. Nó cũng biến Nhu, từ cô gái bình thường trở thành một người đẹp liêu trai với cái áo bà ba trắng, mái tóc đen xỏa xượi và gương mặt nhuốm đôi phần bí ẩn.
Cả hai chỉ chực ôm chầm lấy nhau nhưng phải ráng kềm lại. Họ cùng đi nhón gót, hồi họp như đôi tình nhân lần đầu hò hẹn, lắng nghe tiếng tim nhau đập còn lớn hơn cả tiếng chân.
Câu đầu tiên Nhu hỏi chồng là:
-Anh có đói bụng hông?
Nghệ chợt nhận ra đây là câu chào "kinh điển" của vợ dành cho mình. Bất cứ gặp nhau ở thời điểm nào Nhu đều hỏi chàng một câu i sì.
Kê sát miệng vào tai vợ, Nghệ nói:
-Anh đói cái khác.
Trong bóng tối Nghệ vẫn cảm nhận được nụ cười e thẹn của Nhu. Họ không dìu nhau lên giường mà cùng nằm trên sàn nhà, cố không tạo ra bất cứ một tiếng động nào. Họ sợ làm kinh động vạn vật, đánh thức cả trời, đất và con người đang say ngủ.
Nhà bên cạnh Phục đang bắt đầu đàn. Lúc đầu y chỉ lập đi lập lại một đoạn rồi tiếp đó là cả bài "Hàn mặc Tử". Nghệ nghe một cả ngọn núi thương cảm đổ sụp lên trái tim mình.
Nghệ tự hỏi không biết có phải Phục nghe tiếng chàng gọi Nhu, nên đem đờn ra gảy, ngụ ý trách cứ, hay chỉ muốn tập liền cái đoạn vừa học để khỏi quên. Cho dù với mục đích gì đi nữa, tiếng đàn ấy cũng khiến chàng ray rức như người phạm lỗi. Chàng có cảm giác như đang bưng một dĩa cơm sườn nướng thơm phức, ngon lành...ăn trước mặt một người đang chết đói.
Nghe tiếng chồng thở dài Nhu hỏi:
-Có chuyện gì vậy anh?
Nghệ chống chế :
-Anh có cái tật kỳ lạ lắm! Có khi đang vui tột cùng bỗng tự nhiên thở một hơi dài. Làm như thể muốn qua mặt ông trời, giả bộ khổ, giả bộ nghèo cho ổng không bắt mình nộp thuế.
Nhu cười:
-Chắc tại anh nghe tiếng đàn buồn teo ruột vừa rồi đó. Mấy lúc sau nầy thằng cha Phục, hổng biết mắc cái chứng gì mà hể nửa đêm là ngồi dậy đờn!
Nghệ buột miệng:
-Chắc chú chàng muốn mượn tiếng nhạc để giải tỏa nỗi buồn. Ở cái tuổi nầy nhu cầu tình cảm mãnh liệt lắm em ơi! Hồi chưa gặp em, có đêm anh thức đờn tới sáng.
Nhu nói với giọng ăn năn:
-Phải hồi đó em đừng xúi bẩy con Tím, chắc bây giờ họ đã làm đám cưới rồi. Hổng chừng còn sắp có con nữa đó! Nghĩ lại thấy mình lúc ấy sao mà ác quá!
Nghệ chụp câu nói đó phăng tới:
-Vậy bây giờ em có muốn làm việc thiện để chuộc lại hông?
Nhu hỏi:
-Bằng cách nào?
Nghệ cười:
-Người biết cách cột, chắc chắn biết cách tháo. Theo anh thấy, cô Tím bây giờ đang thích Phục. Cổ chỉ còn mắc cỡ với em thôi! Em cắt cầu người ta rồi, thì bây giờ ráng nai lưng mà nối lại, phải làm cho được để giải tội, Không thôi sau nầy tụi con mình lảnh đủ đó.
Câu nói đó đánh mạnh vào tâm ý của Nhu, cô buồn hiu nói:
-Sau cái chuyện đó, tự nhiên nó hết xuống nhà em. Em cũng ngại nên không dám lên nhà nó. Bây giờ trò chuyện với nhau còn chưa được, nói gì khuyên nhủ!
Nghệ nói:
-Em ngại thì viết cái thơ cầu hòa rồi nhờ con Nhạn đưa giùm cho.
Nhu đập tay lên đùi chồng một cái chách rồi kêu lên:
-Ờ hén!
Cô quay sang hỏi Nghệ cái điều làm cô thắc mắc từ nãy đến giờ :
-Sao anh qua thăm em giờ nầy?
Nghệ đáp:
-Hồi chiều Phục có qua nhà anh, nhờ dạy cái bài mà y ta vừa đàn đó. Học cho tới khuya, biết đò hết đưa nên anh đi theo, tính đưa chú chàng về bên nầy rồi quay trở về nhà liền.
Nghệ hạ giọng:
-Anh chèo về gần nửa sông rồi đó! Khi không mà nghe nhớ em chịu hổng nổi nên quay đò trở lại. Tới cổng rồi mà còn chưa dám vô. Đi thăm vợ mà rung như đi ăn trộm. Cũng may vừa kêu một tiếng là em nghe liền, nếu không chắc anh quay về chớ hổng dám kêu thêm.
Nhu cảm động, giọng ướt rượt:
-Hồi chiều em đang ngồi ăn cơm cái con mắt bên tay phải máy lia, máy lịa. Em biết là có chuyện vui, rồi nghĩ trong bụng có khi nào anh qua thăm em hông ta.
Nghệ thở dài:
-Hay là em nghĩ dạy, chớ hổng lẽ tụi mình cứ làm Ngưu Lang, Chức Nữ hoài sao?
Nhu lưỡng lự:
-Tới chừng đó rồi những phút giây như vầy đâu còn nữa!
Nghệ chắc lưỡi:
-Chiều nay em biết anh ăn món gì hông?
Nhu nói:
-Thịt kho hột vịt chớ gì!
Nghệ cười:
-Anh ăn sạch bách hôm kia rồi!
Nhu kêu:
-Em kho chỗ đó cho anh ăn đủ một tuần lận. Sao làm nhanh quá vậy?
Nghệ trách:
-Ai biểu em kho ngon quá làm chi? Làm tối ngày anh cứ phải tranh đấu với bản thân.
Nói tới đó Nghệ ngưng ngang, Nhu nhắc:
-Vậy chiều hôm nay anh ăn món gì?
-Cơm nguội với khô cá sặc, làm hơi quê quê với chú Nghệ.
Nhu thở dài, vừa định nói "thôi để em nghĩ dạy", thì một dọc những gương mặt của mấy đứa học trò cưng của nàng bỗng lần lượt hiện ra.
Trường Nhu nhỏ, năm lớp học mà chỉ có ba giáo viên. Số giáo viên bỏ việc cứ tăng lên từng ngày. Cũng may ba má cô thuộc hạng khá giả, lại thương con nên bao bọc hết, nếu không chắc Nhu phải bỏ nghề mà ra ngoài bương chải. Mặt trận giáo dục lúc nầy đang cam go hơn bao giờ hết, khiến những giáo viên như Nhu bỗng trở thành chiến sĩ .


Con chim Nhạn ngậm mấy lá thơ, bay đi bay về được vài chuyến thì dì Sáu, một lần nữa bắt Phục phải khăn đống, áo dài, bưng khay trầu rượu sang nhà Tím.
Lần nầy chỉ có mợ Ba thôi, còn thím Chín thì vắng mặt vì không ai dám mời. Có mời thím cũng chẳng dám đi, bởi bà con cho rằng các thai phụ xuất hiện trong các đám như coi mắt, hỏi, cưới...hay mang lại trục trặc. Họ bị đổ thừa là tại có tới bốn con mắt, nên hể dự đám nào là cái đám đó thường bị thiên hạ xúm lại để ý tỉ mỉ từng chút, moi móc ra những khiếm khuyết, rồi bị bắt chặt, bắt lỏng đủ thứ, nó khó mà thành .
Tuy đã dằn mặt con gái rồi nhưng dì hai Trắng vẫn cứ lo. Dì bắt Vàng, cô con gái lớn của mình, bám sát Tím cả ngày lẫn đêm, không rời một tấc.
Dì lo cho uổng công thôi! Bây giờ giả tỷ như có ai bưng Tím mà liệng ra khỏi nhà, chắc cổ cũng bán sống bán chết chạy về cho bằng được.
Người lo thực sự, có lý do hẳn hoi chính là dì Sáu Dọ. Dì phải dùng mọi chiêu thức, nhu cũng có mà cương cũng có, hết năn nỉ rồi đòi bỏ vô chùa ở... Biết Phục thương cô em gái nuôi nhứt nên dì kéo Nhạn về phe. Cuối cùng chàng ta phải đưa cả hai tay ra chịu trói.
Sợ mắc cái "huông" của lần trước, họ không đi chiếc xe lôi của anh hai Thám nữa mà kêu xe của ông già Tư trên chợ Tân Phú, khiến anh Hai tự ái quá chừng!
Vậy mà cũng đâu có được suông sẻ. Lần nầy cái rắc rối không nằm ở cô dâu mà ở ba má vợ.
Dì dượng Hai rất hãnh diện về cô con gái vừa khéo, giỏi lại đẹp của mình.
Họ nghĩ công mình nuôi con gái từ lúc nó đỏ hỏn, tốn cơm tốn của không biết bao nhiêu mà nói. Còn đóng mấy chỉ vàng cho đi học may nữa. Bây giờ làm ra tiền ào ào cái thiên hạ nhảy vô nhờ, hỏi có tức hông? Cho nên phải gở vốn lại được chút nào hay chút nấy.
Hơn nữa đây lại là cái đám "mở hàng", phải làm cho thật là lớn, tạo một tiếng vang long trời lở đất, để cái đám chị em của Tím nở mặt nở mày, cao giá hơn, được thiên hạ trọng vọng hơn.
Thế là họ tha hồ thách cưới. Chỉ cái khoản nữ trang thôi dì Sáu đã sợ hết hồn. Dì Hai đòi bà má chồng phải sắm cho cô dâu nào là bông tay, dây chuyền, vòng xuyến, cà rá...thứ nào cũng một đôi. Càng nghe cái mặt dì Sáu càng méo xẹo.
Đã vậy họ còn đòi đám hỏi phải có một con heo quay. Trước ngày đám cưới phải dắt qua một con heo sống nặng đúng một tạ (tạ ta, sáu chục ký).
Chuyện tế nhị nhứt là món "tiền đồng" mà đàng trai phải đem qua cho đàng gái, cũng được dì Hai thông báo rạch ròi, và cũng không phải là ít.
Dì Sáu nghe lời mợ Ba, gói sẵn một đôi bông tiền điếu để trong túi áo, định bỏ cọc liền cho chắc ăn mà rồi giữ rịt luôn chớ không dám đưa ra.
Mợ Ba nhắc khẻ:
-Đặt cọc đi chị!
Dì lắc nhẹ đầu, khiến mợ Ba thất sắc. Mợ đoán chắc dì thấy nó quá nhỏ nhoi nên ngại, hay sợ theo hổng nổi rồi mất luôn không đòi lại được?
Cả hai lý do đó điều đúng!
Mợ Ba tinh ý lắm, mợ biết ngay là có rắc rối. Mợ linh cảm rằng chuyện nầy nếu mình không ra tay liền là không xong, rằng dì Sáu đang xuống tinh thần và có ý muốn rút lui.
Vừa về đến nhà, thay áo ngắn ra xong, mợ tức tốc đạp xe lên nhà dì hai Trắng liền. Mợ xâm xâm đi vào nhà thì gặp Tím đứng ngay trước cửa, cô ngạc nhiên hỏi:
-Bộ dì bỏ quên cái gì hay sao mà...
Mợ Ba đá cái chống, dựng xe xong là hỏi Tím:
-Má con đâu rồi?
Tím đáp:
-Má qua ông thầy bên chùa Lá rồi, có chuyện gì hông dì?
Mợ Ba kể cho Tím nghe về mối lo của mình, mợ nói:
-Thời buổi khó khăn nầy mà má con đòi hỏi như vậy ai mà theo nổi. Lần nầy mà họ bỏ luôn không tới nữa là coi như tụi bây ế hết cả đám.
Suy nghĩ một lát mợ nói:
-Con liệu lời mà nói với chị Hại, bộ chỉ không biết bây giờ có tiền là có tội hay sao, mà đòi làm rình rang? Huống hồ nhà chị Sáu đâu phải thuộc hàng giàu có, họ chỉ đủ ăn mà thôi, làm sao có mà đưa. Cho dù họ quá thích con mà lo vay mượn đi nữa, thì mai mốt về tụi bây cũng phải nai lưng ra mà trả. Vừa cưới xong là mắc một đống nợ, hỏi có vui sướng chút nào hông?
Thấy Tím cúi đầu nghe, không nói tiếng nào, mợ Ba nói:
-Dì là người nằm trong hoàn cảnh nầy nên thông cảm cho chị Sáu lắm. Con biết hông, cái đám cưới của thằng Hai vừa rồi, dì bậm gan mà làm chớ trong bụng cũng lo gần chết. Phải mượn tiền của má con. Bên nhà sui họ giàu có quá, thằng con dì nó mê con gái họ nên dì phải ráng. Cũng may là con dâu nó biết thương, tiền bà con hai bên cho, tụi nó đưa hết lại cho dì nên mới có mà trả lại cho chị Hai.
Tím nghe xong chợt nãy ra một ý, cô nói:
-Thôi dì đừng nói với má con, tánh má con khó mà thay đổi lắm ! Để chuyện nầy con lo cho.
Mợ Ba hỏi:
-Con lo kiểu gì?
Tím nhỏ giọng:
-Con dạy may có để dành được chút đỉnh, chắc thêm vô cũng đủ, miễn dì nói giùm với bên đó là đừng có ngại cái gì hết. Má anh Phục có tới đâu lo tới đó thôi, thiếu món gì thì con bù vô cho.
Mợ Ba thở một cái khì nhẹ nhỏm. Mợ leo lên xe sắp đạp đi, Tím bỗng chạy theo níu cái yên sau lôi lại.
Mợ Ba ngoái đầu lại hỏi:
-Cái gì nữa vậy?
Tím kề sát tai mợ, nói nhỏ:
-Dì nhớ dặn má anh Phục là đừng hé răng cho ai biết nghe, kể cả con Nhạn nữa.
Mợ Ba sầm mặt xuống ra vẻ mích lòng:
-Nhè tao mà bây dặn mấy cái chuyện đó!
Tím lật đật vuốt giận:
-Con lỡ lời dì bỏ qua giùm cho, con hổng có ý xem thường dì đâu, tại...
Nói tới đó rồi ngưng ngang vì quê. Mợ Ba thấy tội bèn đỡ lời:
-Dì biết tại con thương thằng Phục mà!
Làm cô càng quê hơn!

Mợ Ba lại đạp vù vù -lượt về còn nhanh hơn lượt đi - vì nôn nóng báo tin "thắng trận".
Vừa quẹo vô nhà dì Sáu, chiếc xe chưa đứng vững là mợ đã nhảy xuống, báo hại ống của cái quần Mỹ A mới tinh, bị mắc vào bàn đạp, làm mợ té một cái đụi.
Mợ lồm cồm ngồi dậy, lật đật săm soi, coi cái quần "ăn nói" của mình có bị rách chỗ nào hay không. Hú hồn! Cũng may chỉ sút một đường chỉ, từ lai lên độ nửa gang mà thôi!
Mợ tự nhiếc thầm:
-Đúng là già mà chưa nên nết! Có dâu rồi mà còn lật đà, lật đật. Té lăn cù như vầy, rủi con dâu mà thấy thì làm sao mà dám rầy, dám dạy nó nữa.
Vừa phủi mấy vết đất bám trên quần, mợ vừa lẩm bẩm tiếp:
-Cũng may là bữa nay mình mặc cái quần Mỹ A "dởm", cái cốt nó bằng ny lông, chớ không phải hàng tơ tầm chánh gốc. Nếu không, thì cho dù ăn cả chục cái đầu heo cũng không gỡ vốn nổi.
Những năm sau nầy lụa tơ tầm rất mắc. Các nghệ nhân mua hàng ni lông đem về nhuộm, để giá thành rẻ, đáp ứng được của khả năng của đông đảo bà con.
Thứ Mỹ A nầy, mà bà con gọi bằng cái tên là "Mỹ A ni lông", cũng đen, bóng ngời ngời, nhìn không thua là mấy nhưng mặc vào không cho ta cái cảm giác mát mẻ, thoải mái, nhẹ nhàng như "Mỹ A thiệt". Thế nhưng bù lại rất là chắc, cho nên bà con không chỉ diện nó một năm vài lần vào dịp tết, đám tiệc mà mặc cả những lúc sinh hoạt hàng ngày.
Mợ Ba kéo chiếc xe đang nằm vạ lên, dựng vào hàng rào, vừa bước vào nhà là cất tiếng gọi liền:
-Chị Sáu ơi! Chị Sáu!
Cái tiếng "ơi!" nhẹ hều đáp lại, cùng không khí lặng lẽ, thờ ơ trong nhà dì Sáu khiến mợ cụt hứng rồi đâm ra tủi thân ngang xương.
Mợ bỗng hối hận tràn trề, tự trách:
-Ai biểu ngu dại, nhảy vô làm bà mai chi cho bây giờ cực khổ mà hổng ai thương!
Dì Sáu đang nằm trên võng. Một cánh tay để trên bụng, một gác ngang trán. Một chân đặt trên võng, một chân chống xuống đất, không phải để đưa mà giữ cho cái võng đứng yên.
Nhìn cái dáng thiểu não ấy mợ Ba bỗng chạnh lòng.
Mợ hỏi:
-Mấy đứa nhỏ đâu rồi chị Sáu?
Dì Sáu đáp:
-Hai anh em nó đi ra đồng rồi.
Giọng dì nghe như từ một nơi xa xôi nào vọng tới.
Mợ Ba hỏi:
-Làm cái gì mà chị buồn hiu vậy?
Rồi không chờ dì Sáu trả lời, mợ nói tiếp:
-Có chuyện nầy vui lắm nè! Ngồi dậy đi rồi tui nói cho mà nghe!
Hai tay nắm thành võng, dì Sáu cong người ngồi dậy, vừa tháo cái đầu tóc ra bới lại, dì vừa hỏi:
-Chuyện gì?
Mợ Ba nói:
-Hồi nãy chị giận chị Hai của tui dữ lắm phải hông? Tại chị không có con gái nên không có biết. Nuôi con gái ai cũng muốn được thiên hạ tới cầu cạnh, xin cưới năm bảy lễ rình rang, cho nở mặt, nở mày. Bên ngoại tui hồi nào tới giờ, con gái trong dòng họ hay cạnh tranh nhau dữ lắm! Anh hai tui hồi trước đi cưới chỉ phải làm rể muốn lột da lưng. Bên ảnh bán bớt ruộng để sắm sửa cho vừa lòng bên chỉ. Nói thiệt, tới bây giờ ảnh còn ghét cậu mợ tui, là ba má vợ của ổng dữ lắm!.
Mợ liếc dì Sáu một cái rồi nói tiếp:
-Hồi nãy chị không đưa đôi bông ra là tui biết liền. Bởi vậy vừa về tới nhà là tui quay trở lại tính cự chỉ một trận. Thời may gặp con Tím, nó biểu tui...
Tới đây tự nhiên mợ ngưng bặt, nhìn quanh quất và dù không thấy có ai léo hánh cũng xuống giọng, nói nhỏ xíu như tiếng muỗi bay:
-Nó biểu tui nói với chị là đừng có lo. Nó dạy học trò để dành được một mớ kha khá, chị sắm tới đâu được thì sắm, còn lại nó bao hết.
Dì Sáu đang lừ đừ bỗng tỉnh rụi.
Dì trợn mắt hỏi:
-Nó nói như vậy thiệt sao?
Mợ Ba gật đầu liên tiếp đúng ba cái.
Mợ nói :
-Cái chuyện to tát như vậy, hổng lẽ tui dám dựng đứng lên mà nói?
Dí Sáu ngần ngại:
-Làm vậy coi kỳ hông chị Ba?
Mợ Ba lại lắc đầu, cũng đúng ba lần.
Dì Sáu vẫn không yên dạ. Dì cũng lắc đầu:
-Bên sui gia mà biết chắc họ xem nhẹ mình lắm chị Ba ơi!
Mợ Ba nói như gắt:
-Ai nói mà biết? Nó cứ dặn đi dặn lại là tui đừng có hé răng, còn biểu là giấu luôn con Nhạn.
Thấy dì Sáu vẫn còn do dự. Mợ bồi thêm:
-Nó còn năn nỉ tui ráng nói giùm. Nó sợ chị sĩ diện rồi...
Dì Sáu thở dài:
-Chị với con Tím thương mà tính như vậy tui mang ơn nhiều lắm! Nhưng mà thấy coi bộ không êm. Mình có tới đâu cho dâu tới đó, lẽ nào lấy của nó đem cho lại nó.
Rồi dì lại thở dài:
-Thôi, "gối rơm theo phận gối rơm". Mình chén đá nằm chung với chén đá, chen vô cái chỗ chén kiểu làm chi cho người ta xem thường!
Nghe dì Sáu nói như vậy, mợ Ba liền chới với. Điều nầy hoàn toàn trái ngược với lòng mong đợi của mợ. Mợ cứ tưởng dì Sáu sẽ mừng đến nhảy tưng tưng lên rồi cám ơn mợ hết lời, ngờ đâu!
Mợ rủa thầm:
-Cái con mẹ nầy, ngu hết chỗ nói! Có dâu đẹp, con nhà nề nếp, làm ra tiền ào ào vậy mà còn không biết mừng, cám ơn trời phật rồi chụp lẹ! Gặp người khác ...
Mợ đâu có biết rằng có những việc mà đối với một số người nầy là vinh quang nhưng với số khác thì lại là một nỗi tủi nhục.

Chiều hôm đó khi Phục và Nhạn từ rẫy về, thấy bếp núc lạnh tanh thì biết có chuyện chẳng lành. Hai anh em lật đật đi tìm thì thấy dì Sáu nằm thiu thiu trên võng.
Nhạn bước lại sờ trán dì, nghe hâm hấp nóng liền lo lắng hỏi:
-Má nghe trong mình má có sao hông? Có mệt hông má?
Dì Sáu mở mắt ra rồi nói:
-Chắc má bị trúng gió ngủ hay sao mà lừ đừ, ngủ chập chờn hoài. Con coi nấu ba hột cơm cho anh Hai con ăn liền, cái tật nó xấu đói lắm, rồi cạo gió cho má.
Phục nghe vậy cũng chạy đến sờ trán. Chàng bảo Nhạn:
-Má không khỏe, thôi em đem mấy con ếch nầy nấu cháo cho má hết đi. Bỏ hành, tiêu, gừng, nhiều nhiều một chút để má ăn cho giải cảm.
Rồi xách xâu ếch vừa bắt từ ngoài ruộng về còn đang cầm trong tay, đem xuống sông làm.
Thấy Nhạn ra sàn nước vo gạo, thím Chín hỏi vọng qua:
-Má con đi đâu mà từ trưa tới giờ thím hổng nghe tiếng của chỉ?
Nhạn đáp:
-Má con bị ể mình. Con nấu cháo xong rồi là vô cạo gió cho má.
Thím kêu lên:
-Chèng ơi! Vậy mà thím đâu có biết. Để thím qua cạo gió liền cho chỉ, để lâu không có tốt.
Thím Chín lấy cái đồng xu bỏ vô túi áo rồi đi xâm xâm qua nhà dì Sáu.
Vừa bước qua ngạch cửa là thím rầy liền:
-Cái chị nầy! Bịnh mà nín thinh hà, hổng chịu hô lên một tiếng cho người ta biết mà chạy qua. Rủi có bề gì bà con lối xóm xúm lại kêu rêu là tui làm hiểm, thấy mà lấy con mắt ngó thì oan cho tui lắm đó!
Thím không thèm sai Nhạn, tự mình đi lại sóng đựng chén, lựa lấy cái chén bị mẻ một miếng lớn nhứt rồi cầm chai dầu hôi để dưới chưn tủ thờ, mở cái nút quấn bằng giấy ra, rót vô một ít.
Ở nông thôn, đặc biệt là xóm Cầu Ván, ai mà nhuốm bịnh là được sơ cứu bằng phương pháp cạo gió trước tiên. Người ta không xài dầu gió, dầu nóng mà dùng dầu lửa để cạo, vì vậy mà nhà nào cũng mua dầu lửa dự trữ sẵn. Xem ra nó quan trọng không gì thua gạo và muối.
Thím bảo dì Sáu:
-Vô buồng nằm cho kín gió đi chị.
Dì sáu nói:
-Cạo ngoài nầy đi, trong buồng tối lắm!
Thím Chín biết dì Sáu rất tiết kiệm, nhà dì ăn cơm sớm để khỏi đốt đèn. Cúng xong là đi ngủ, cũng không chịu chong đèn ngoài bàn thông thiên sáng đêm như người ta, nên không dám ép.
Thím nói:
-Ở ngoài nầy cũng được. Thôi ráng ngồi dậy để tui cạo lấy hết gió ra. Cạo xong rồi thì ăn cháo, uống một miếng nước gừng nóng, trùm mền liền cho ra mồ hôi.
Dì Sáu uể oải ngồi dậy, vói tay kéo vạt sau của cái áo bà ba lên tới vai. Dì quay người, đưa cái lưng ốm nhom, lòi ba sườn sát vô mặt thím Chín.
Thím lấy tay ấn nhẹ vào cột sống rồi nói:
-Cái thân chị đã ốm rồi, còn bắt chước con Nhạn ăn chay làm chi cho nó yếu sức thêm.
Dì Sáu nói:
-Tui ăn mấy ngày vía như bình thường chớ đâu có ăn chay trường như nó.
Rồi dì cắt nghĩa:
-Coi vậy chớ trong mình tui khỏe lắm. Nói thiệt với chị tại tui có cái tật, hễ trong bụng mà lo mà rầu là nó muốn bịnh, tay chưn nhấc hổng nổi liền.
Thím Chín hỏi:
-Chị lo, rầu cái gì đâu nói tui nghe thử coi!
Dì Sáu kể cho thím Chín nghe chuyện dì Hai thách cưới. Dì thở dài:
-Chắc tui rút lui quá chị Chín ơi!
Thím Chín hết hồn:
-Chị làm như vậy thì tội nghiệp cho con Tím với thằng Phục lắm!
Dì Sáu thở thêm một hơi còn dài hơn:
-Ai mà muốn, tại theo hổng nổi thì làm sao bây giờ?
Rồi dì nói tiếp như trách:
-Nói thiệt với chị, hổng biết ảnh với chỉ suy nghĩ cái giống gì đòi dữ thần áng địa? Làm như vậy có khác nào chèn ép người ta quá mức! Má con tui, cho dù làm thiếu điều sặc máu cũng không gom đủ tiền mà theo. Để chị coi tới chừng con Nhạn nó tới tuổi gả chồng, chỗ nào tử tế đi coi mà nó ưng bụng là tui gả như cho không liền. Đám hỏi, đám cưới nhập một cho gọn. Còn vàng vòng thì họ lo được tới đâu là lo, tui nhứt định không đòi thêm, đòi bớt gì hết. Tiền đồng với chịu lạy là tui cho tụi nó hết, không thèm lấy một đồng.
Thím Chín cắt nghĩa:
-Chị đừng có trách hai vợ chồng chị Hai. Tại cái đám coi mắt con Tím trước đó người ta hứa cho như vậy, nên chỉ mới nương theo đó mà đòi.
Dì Sáu lại nói:
-Thấy họ tính hơn, tính thua quá tui cũng hết ham, muốn bỏ phức cho rồi. Tui chỉ tiếc con Tím mà thôi! Nó thương thằng Phục dữ quá nên tui sợ ...
Nói rồi dì bèn quay ngang cái mặt để nói thầm vô tai thím Chín:
-Đáng lẽ chuyện nầy tui không nên nói cho chị biết, tại có hứa với chị Ba Sáng rồi. Nhưng muốn nhờ chị cho ý kiến, chớ bây giờ trong bụng tui nó rối nùi. Bởi vậy chị nghe rồi chôn trong bụng nghen, đừng có nói cho ảnh hay con Nhu biết giùm tui.
Thím Chín gật đầu:
-Chị đừng lo tui không có nói đâu. Chuyện gì? Nói nghe thử coi!
Dì Sáu kể cho thím Chín nghe những lời của Tím nhắn với mợ Ba, vừa kể vừa dặn đi dặn lại là thím Chín mà nói cho ai biết là dì mất mặt với mợ Ba và Tím lắm, dám bị họ giận rồi chuyện không thành.
Thím Chín nghe xong liền xuýt xoa:
-Chèng ơi! Vậy là con nhỏ nầy nó thương thằng Phục quá mạng nên mới tính kiểu đó.
Rồi thím chắc lưỡi:
-Bởi vậy người ta hay nói, đẻ con gái là sanh giùm, nuôi giùm cho thiên hạ, chưa gì hết mà...
Dì Sáu bênh vực Tím một cách sốt sắng:
-Tiền nó làm ra chớ đâu phải bòn rút của cha mẹ. Cũng không có mất đi đâu mà sợ. Của nó thì cũng vô túi nó thôi chớ tui giành giữ làm cái gì?
Thím Chín nói:
-Vậy thì êm thấm quá rồi, chị còn hỏi tui chi nữa?
Dì Sáu nói:
-Tui sợ nhận như vậy rồi nó xem thường mình, coi rẻ bên chồng thì khó ăn đời ở kiếp với nhau lắm! Chị thấy tui nói như vậy có đúng hông?
Thím Chín gật đầu:
-Chị nói như vậy nghe cũng có lý. Nói giả dụ mà nghe, rủi sau nầy đổ bể, sui gia biết được chắc họ ngó mình còn có nửa con mắt.
Dì Sáu biểu đồng tình:
-Bởi vậy tui tính nhờ chị Ba trả lời với họ là, nếu cho tui liệu cơm gắp mắm, sức tới đâu gồng tới đó thì tui tiến tới, còn bằng không thì thôi!
Thím Chín kêu thất thanh:
-Chèng đéc ơi! Nếu họ hổng chịu rồi cũng y như lần trước nữa hả? Sao mà hai cái đứa nầy nó trục trặc dữ ôn vậy? Hổng biết có phải tại cái đám coi mắt bên Hồng Ngự, họ không cưới được con Tím rồi ếm xi bùa hông nữa? Để bữa nào tui gặp chị Hai, kêu chỉ đi coi thầy, nếu mà đúng như vậy thì mình phải kiếm ông thầy thiệt giỏi, trục cái bùa ra mới được.
Thế rồi thím kể ra một loạt cả chục cái tên của những nạn nhân đã hoặc đang mắc phải bùa mê, thuốc lú cùng những gia đình bị trù ếm. Đối với phụ nữ, đây là lãnh vực hấp dẫn nhứt. Thím Chín vừa kể, vừa cạo hăng say ngang nhau. Tay và miệng thím ráo riết hoạt động, cho đến khi cái lưng của dì Sáu đầy nhóc những vệt đỏ, không còn chỗ để đặt đồng xu vào nữa thím mới chịu dừng tay.
Thím Chín bỗng chợt nhớ ra, đây là lần đầu tiên dì Sáu để cho thím cạo một cách im ru, không nhún nhích cục cựa hay rên la gì ráo!

Thím Chín chưa gọi Nhạn đã chạy te te tới. Một tay cô cầm khăn, một tay bưng ly nước trà . Nhạn đưa ly nước cho dì Sáu rồi nói:
-Má uống một miếng trà đường vô cho khỏe đi má
Dì Sáu vừa vói tay bưng ly trà là Nhạn liền trải cái khăn lau mặt sọc ca rô xanh trắng của mình lên lưng dì, rồi lau sạch bách những vết dầu hôi trên đó. Nhạn nhìn cái lưng đầy những đường ngắn, dài, ngang, dọc mang màu đỏ đậm, đỏ nhạt xếp thành hình xương cá mà xuýt xoa một cách hài lòng:
-Gió quá chừng, bởi vậy má hổng nằm vùi sao được?
Thím Chín lấy ngón tay trỏ chỉ vào những vệt bầm đen để cắt nghĩa cho Nhạn:
-Cái nầy là gió cũ nhập từ mấy hôm trước.
Chỉ vào những vệt màu tươi như bông điệp, thím nói:
-Cái nầy còn mới tinh, chắc mới nhiễm hồi sáng.
Lau xong, Nhạn bỏ vạt áo xuống cho kín cái lưng dì Sáu, không quên lấy tay vuốt cho nó thẳng thớm. Cô đi ra sau bếp rồi bưng cái mâm có tô cháo và chén nước mắm với trái ớt hiểm đã giầm sẵn lên. Cô đặt mâm xuống, bưng tô cháo đưa dì Sáu, nói:
-Con ăn chay nên không có nêm, má ăn thử coi có lạt thì chế nước mắm vô.
Rồi cô hỏi thím Chín:
-Để con múc một chén, thím ăn thử rồi nói cho con biết còn thiếu cái gì nghen thím?
Thím Chín lắc đầu:
-Thím nghe cái mùi là biết nó ngon rồi! Thím mới ăn, cơm còn nằm ngang cần cổ, ăn hổng nổi nữa chớ hổng phải chê. Để dành cho má con ăn từ từ. Con ráng mà ép cho chỉ ăn nhiều lần cho hết, chớ tao thấy cỡ nầy cái mình của bả mỏng lét, ốm lắm đó nghe bây!
Nhạn đáp giọng buồn buồn:
-Con ép dữ lắm mà mỗi bữa má ăn có hai chén lưng lưng hà.
Chờ Nhạn đi khuất, thím Chín nói:
-Tui thấy con Nhạn nó săn sóc cho chị mà tủi thân muốn chết! Con nuôi mà nhờ gấp mười con ruột. Con Nhu không bằng một lai nó. Mấy lần tui bịnh...
Dì Sáu ngắt ngang:
-Chị đừng có so sánh như vậy mà tội nghiệp cho con Nhu. Trong xóm nầy, có ai cưng vợ bằng anh Chín đâu? Mỗi lần chị bịnh là ảnh lăng xăng, lít xít xung quanh, còn chỗ nào cho nó nữa?
Thím Chín cười, nét mặt có phần mắc cỡ, có phần hãnh diện. Thím nói:
-Thì vợ chồng mà, săn sóc qua, săn sóc lại với nhau.
Dì Sáu nói:
-Thằng Phục nó hay nói với tui: "Con thấy nhà bác Chín con ham quá! Nhà có mấy người hà, mà cứ có chú Chín là nghe tiếng nói, tiếng cười rôm rả. Hể chú đi thì thôi, vừa về tới nhà là kêu, là hỏi tới thím liền. Ai mời đám cưới, đám hỏi, thôi nôi, đầy tháng... hai ông bà cũng đi cặp kè với nhau".
Thím Chín cự:
-Vui cái gì, tui bực mình gần chết. Chồng già mà bằng ba con nhỏ. Hở một chút là kêu, là réo. Đầu hai thứ tóc mà còn hổng nên nết...Chị coi từng tuổi nầy rồi, còn bị ổng nhét vô bụng một trái bầu, làm tui mắc cỡ muốn độn thổ, không dám vác cái mặt đi đâu hết !
Đây là lần đầu tiên thím Chín đề cập đến tình trạng thai nghén của mình. Dì Sáu đâu dễ bỏ qua cơ hội hiếm có, chụp lẹ rồi khai thác luôn:
-Còn mấy tháng nữa là chị nằm ổ vậy?
Thím Chín thở dài:
-Mấy lúc sau nầy tui có tháng không đúng ngày nên cũng hổng biết chắc!
Thím vô tình bộc lộ:
-Dám một lượt với con Nhu lắm! Tại cái hôm...
Nói tới đó thím chợt im phắt lại, rồi nói tiếp giọng lo lo:
-Tui sợ hai mẹ con sanh một lượt, hổng ai đỡ ai được.
Dì Sáu hứa:
-Chị đừng lo. Tới chừng đó tui với con Nhạn chia nhau nuôi hai má con chị.
Thím Chín thở dài một cách nhẹ nhõm:
-Chị nói vậy tui nghe nhẹ trong mình quá sức! Nói nào cho ngay, ban đầu ổng cũng biểu tui cậy chị. Rồi hổng biết suy nghĩ sao đó, chắc thấy coi hổng được nên biểu thôi đừng có nhờ, để ổng lo. Nghe ổng nói vậy tui càng lo lung. Ba cái chuyện nấu cơm, kho cá, giặt đồ... ổng đâu có biết thứ nào.
Dì Sáu bồi thêm:
-Mình sanh nở, cái chuyện cơm cá, nước nôi, xông hơ... cần thiết nhứt hạng. Đàn ông không kham nổi đâu. Mấy bà vợ nấu ăn ngon như chị hay giành làm bếp hết, bởi vậy mấy ông chồng dở òm hà! Ảnh nấu chắc chị nuốt hổng trôi đâu! Ăn không được thì làm sao mà đủ sữa cho đứa nhỏ.
Rồi dì nói giỡn cho thím Chín khỏi ngại:
-Giúp qua giúp lại mà. Biết đâu mai mốt tui có chồng lần nữa rồi tới phiên chị nuôi đẻ giùm tui .
Thím Chín cười ha hả, vỗ vai dì Sáu một cái bộp khiến cái muỗng dì đang cầm trên tay rớt xuống tô. Thím cứ cười miết, lát sau ráng dằn lại mà nói:
-Để tui biểu ông Chín nhà tui cho ông Bảy Chích hay là chị đang muốn bước thêm một bước nữa, chắc ổng mừng thiếu điều tuột cái...
Dì Sáu ngắt ngang:
-Nói chơi thôi bà ơi! Bà mà đồn tới tai thằng chả là tui bỏ xóm mà đi coi như khỏi có ai nuôi bà hết đó.
Thím Chín còn chưa hết trớn:
-Chị để cho tui đứng ra làm mai chuyện nầy cho. Chắc được ăn nguyên cái đầu heo. Hổng chừng từ trở đi giờ khỏi tốn đồng xu tiền thuốc nào hết.
Dì Sáu ghẹo:
-Bộ làm mai cho thằng Phục, trật vuột tới cỡ đó mà chị chưa tởn hay sao?
Câu nói của dì Sáu xóa mất nụ cười trên hai gương mặt của họ một cách chóng vánh. Cái muỗng đầy cháo đang đưa lên ngang miệng bỗng từ từ hạ xuống.
Thím Chín giục:
-Chuyện đó để sau tính, rồi đâu cũng vào đó hết. Bây giờ cứ lo cái bịnh của mình trước đã. Chị ăn hết tô cháo nầy một cái ót cho tui coi!
Nhạn bưng trên tay ly nước trà có vài lát gừng, bàn tay bên kia bụm lại. Có mấy viên thuốc xanh xanh trắng trắng nằm trong đó, đi trờ tới.
Cô nói hùn vô:
-Má ăn cho hết tô cháo đi má, cho nó chặt cái bụng đặng uống mấy viên thuốc nầy vào. Cô Năm cứ dặn tới dặn lui là phải ăn trước cho thiệt no rồi mới uống nó vô. Cổ nói mấy cái thuốc trị cảm nầy phá bao tử dữ lắm, uống vô lúc cái bụng còn lỏng le là không có tốt!
Thím Chín nói, nửa thiệt, nửa giỡn:
-Má con coi bộ cảm hơi nặng đó, chắc phải rước ông thầy Bảy, chích cho bả một mũi mới êm.
Dì Sáu sợ Nhạn tưởng thiệt nên la toáng lên:
-Thôi khỏi, thôi khỏi, tui hợp với chị Năm lắm. Chỉ bán thuốc cho tui lần nào cũng uống có một gói là hết tiệt, dứt bịnh luôn!

Sáng hôm sau, dì Sáu đang cầm cây chổi trong tay, lom khom móc bụi ở kẹt bồ lúa thì nghe tiếng thím Chín sang sảng ngay sau lưng mình:
-Sao hổng lo nằm nghỉ, mới kha khá là hổng để cho hai bàn tay ở yên!
Dì Sáu vẫn tiếp tục công việc của mình, không dừng chổi lại lấy một giây nhưng vẫn trả lời:
-Nằm hoài ai mà chịu nổi.
Thím Chín hỏi tiếp:
-Con Nhạn đâu?
Dì Sáu đáp:
-Nó đi học may rồi.
Thím Chín quở:
-Chị bịnh mà nó không ở nhà lo cơm nước hay sao? Cái con nhỏ nầy thiệt là...
Dì Sáu ngắt ngang:
-Chị đừng có rầy nó mà tui mang tội. Nó đâu có chịu đi, tui ép dữ lắm mới được đó!
Thím Chín leo lên võng ngồi. Thím rút hai cái cẳng lên để không cản đường chổi của dì Sáu.
Dì Sáu ngạc nhiên hỏi:
-Bộ bữa nay hổng đi chợ hay sao mà qua đây ngồi, coi bộ khỏe re vậy?
Thím Chín gật đầu:
-Đi chớ, ghé qua nói với chị chuyện nầy rồi đi.
Dì Sáu lật đật gom rác lại, treo cây chổi lên cái mắc của cây cột tre trong nhà bếp. Dì lấy hai cái mo cau chập lại để hốt. Dì đem rác bỏ vô cái hố sau hè mà hôm trước đã đào để đắp cho cái nền chuồng heo cao thêm, đi rửa tay rồi vừa ngồi trên bộ giạt kế cái võng, vừa rút cái khăn đội trên đầu xuống lau tay, vừa hỏi:
-Chuyện gì, có lớn lao lắm hông?
Thím Chín chép miệng đáp:
-Chuyện nầy mà hổng lớn thì còn cái chuyện nào mới lớn?
Trầm ngâm một lát thím nói:
-Hồi tối tui không có ngủ được, suy nghĩ nát nước cái chuyện con Tím với thằng Phục. Nói thiệt tui tính cho chị mượn hai lượng vàng đặng bán ra mà lo đám cưới. Nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại thấy thất sách lắm! E là thương mà tính trật cái thành ra là hại, tại...
Dì Sáu ngắt lời:
-Chị có cho tui cũng không dám mượn. Cái số đó lớn lắm, sợ làm tới trọc đầu cũng chưa trả nổi. Kéo dây kéo nhợ hoài rồi mất lòng nhau...
Thím Chín phẩy tay:
-Tui không sợ chị giựt, cái tánh chị tui đâu còn lạ, chỉ có điều vàng lên giá từng ngày, chưa tới một năm mà tăng gần gấp đôi. Tui sợ chị mua không kịp mà trả.
Dừng lại mấy giây, thím nói tiếp:
-Tui thấy chỉ còn có một cách là gầy hụi...
Dì Sáu lại ngắt lời thím Chín lần nữa:
-Tui không có làm nổi cái chuyện đó đâu. Mình phải giàu thì bà con mới tin tưởng mà giao tiền cho giữ. Cũng phải có họ hàng ủng hộ...
Thím Chín cãi:
-Không phải tiền nhiều mà cần nhứt là cái uy tín. Cái vụ nầy thì tui đứng ra bảo lãnh cho chị. Xóm nầy nhà nào mà hổng chịu ơn tui, tui mà rủ giùm chị chắc họ hổng nỡ từ chối.
Dì Sáu nhìn thím Chín bằng đôi mắt cảm động, dì nói:
-Số tiền lớn quá, liệu có kêu đủ tay em hông chị?
Thím Chín gật đầu:
-Tui tính rồi, mình kêu hai dây, mỗi dây mười hai người, đóng một đầu năm chục. Một dây khui mùng một, một dây khui ngày rằm. Chị nhắm kham nổi không?
Dì Sáu tính nhẩm một lát rồi nói:
-Ráng bớt ăn xài thì chắc cũng đủ.
Chơi hụi là hình thức bà con mượn tiền nhau mà không phải chịu lời. Hể nhà nào có việc cần xài tiền như gả, cưới, mua đất... Thì họ sẽ đứng ra làm đầu thảo. Những hụi viên được gọi là tay em. Các tay em sẽ đưa cho đầu thảo mượn trước một số tiền bằng số tiền hụi. Nếu kêu hụi năm chục thì họ sẽ nộp năm chục.
Đến ngày khui hụi, thường thì một tháng một lần, các tay em sẽ đến nhà chủ hụi (đầu thảo). Mỗi người viết một con số vào tờ giấy của mình rồi gói kín lại, bỏ vào lon sữa bò. Đến lúc khui chủ hụi sẽ cầm cái lon, xóc cho đều rồi thò tay vô bóc ra từng miếng. Con số của người nào lớn nhứt thì người đó được hốt. Nếu có hai số lớn bằng nhau, miếng giấy của ai được bóc trước thì người đó thắng. Số tiền họ nhận từ mỗi người bằng năm chục trừ đi số tiền họ ghi trong giấy của mình.
Những người đã hốt rồi, sau đó sẽ đóng hụi "chết", nghĩa là đóng lại cho những người hốt sau đúng năm chục mỗi tháng. Người nào nuôi tới cùng sẽ được hốt chót, gom đủ của mỗi người đúng năm chục. Người chủ sẽ trả lại cho từng tay em mỗi người năm chục vào lượt họ.
Đây là cái hình thức mượn tiền trả dần, ai cũng có lợi nên rất phổ biến. Trong xóm Cầu Ván nhờ vậy không có ai làm nghề cho vay lấy lời, cũng không ai phải mang công mắc nợ, phải cầm vườn cố đất.
Thím Chín hỏi dì Sáu:
-Tui tính như vậy chị thấy có được hông?
Dì Sáu không trả lời chỉ lấy khăn lau mắt.
Thím Chín lại quở:
-Cái chị nầy, mít ướt quá chừng! Vậy là chịu rồi phải hông? Để trưa nay cơm nước xong rồi tui qua đây, dắt chị đi theo tới từng nhà.
Dì Sáu nghẹn ngào:
-Chị giúp keo nầy coi như tui được tái sanh thêm một lần nữa. Hổng biết mai mốt mẹ con tui phải làm cách nào để trả cho hết cái ơn của chị đây?
Thím Chín nói giỡn:
-Ủa, chớ hổng phải mới hứa nuôi đẻ hai mẹ con tui sao?
Dì Sáu cười:
-Ba cái chuyện trên đầu móng tay đó ai mà tính!
Thím Chín nói:
-Chị thấy nhẹ chớ tui thấy nặng lắm đó! Vậy là chịu làm chủ hụi rồi phải hông?
Nói rồi thím bỏ hai chưn xuống một lượt, dì Sáu lật đật phóng ra khỏi tấm giạt tre, cầm tay thím kéo lên.
Thím Chín vuốt lại hai cái ống quần cho thẳng rồi hỏi:
-Chị có gửi mua món gì hông?
Dì Sáu tính nhờ thím mua giùm con cá, nhưng rồi sợ tốn tiền. Bắt đầu từ hôm nay dì sẽ phải dè sẻn từng đồng để dành làm việc lớn, nên lắc đầu nói:
-Nồi cháo hôm qua còn.
Thím Chín rầy:
-Hà tiện lúc nào cũng được, còn khi bịnh là phải ăn uống đàng hoàng. Để tui mua cho chị một con cá lóc. Chị qua bên nhà cắt vài cọng bạc hà với ngắt một nắm rau nấu chua về rồi nấu nồi canh mà ăn cho giải cảm. Có sức khỏe thì làm việc gì cũng được. Ăn uống kham khổ quá cái đổ bịnh là sanh chuyện nữa.
Đi ra tới trước cửa thím Chín bỗng quay trở vô nói:
-Chị Bảy sắp phá bầy đám heo con, chị lại đó lựa hai con đem về nuôi đi. Cái vườn chuối của tui rộng minh mông, chị cứ đốn về mà quyết cho heo ăn. Nuôi chừng vài tháng là kịp đem một con quay để làm đám hỏi. Mấy tháng sau chắc con kia cũng đủ tạ để đưa qua nhà gái.
Dì Sáu lại gật đầu, lại nhìn thím Chín bằng đôi mắt ươn ướt mà không nói nổi một lời.


Chiều hôm ấy, trong bữa cơm, dì Sáu kể cho Phục và Nhạn về dự tính của thím Chín. Phục chỉ trầm ngâm ngồi nghe, Nhạn thì chẳng thể dấu được nụ cười.
Từ lúc dì Sáu đi coi mắt về, gương mặt của dì y như lá trầu héo. Nhạn đoán là công việc không xuôi chèo, mát mái, nhưng chẳng dám hỏi một tiếng nào.
Hơn ai hết, Nhạn mong cái đám cưới nầy sớm thực hiện để những người mà cô thương yêu nhứt, được sống cùng nhau dưới một mái nhà.
Cô chưa kịp bày tỏ niềm vui thì nghe tiếng Phục cằn nhằn:
-Họ làm phách, làm cao thì mắc gì mình phải đeo theo. Bộ má sợ con không kiếm nổi vợ hay sao? Nói thiệt với má, có mấy cô, mấy bác kêu gả con gái cho con mà con từ chối hết!
Dì Sáu nói:
-Nhà mình không có đất đai nhiều. Con Tím nó có cái nghề may, sau nầy đỡ đần cho chồng, cho con được nhiều lắm! Em Nhạn nó theo phụ chị dâu, khỏi ra đồng rồi bị nắng táp mưa sa, tay chưn khỏi chai, khỏi phồng. Mai mốt má già cả, đau yếu cũng có con dâu, con gái ở sát một bên săn sóc. Lúc chết cũng có người ở gần mà nghe má trối.
Ngừng một lát dì nói tiếp:
-Má thấy cái cảnh bà Chín Rạng mà lo, mà rầu hết sức! Con cháu ráp nhau đi đồng ráo nạo, bỏ bả ở nhà mình ên. Bả đói bụng chờ hết nổi, lọ mọ đi bới cơm ăn, vấp chưn té nằm dưới đất, đứng lên không nổi rồi nhập thổ luôn. Cái bụng còn lép xẹp chưa có hột cơm nào!
Nói tới đó dì buông chén cơm xuống rồi lấy chéo khăn chậm mắt. Phục thấy má mình buồn, nghe bà nói vậy thì làm thinh, nét mặt dịu lại, không cau có như ban nãy. Chàng gắp hai cái gò má của con cá lóc, chấm vô chén nước mắm rồi bỏ vô chén của dì Sáu.
Nhạn cũng chực hờ, chờ dì ăn xong hai miếng cá đó rồi trở đầu đũa gắp cái hầu đầy nhóc thịt, miếng ngon thứ nhì sau cái gò má, bỏ liền vô chén dì.
Dì Sáu rầy:
-Để má ăn tới đâu, gắp tới đó! Con ăn chay đừng có chọt đũa vô đây.
Chiếu hai con mắt vô ngay mặt Phục, dì hỏi:
-Con nhắm mỗi tháng cả nhà mình kiếm được một trăm bạc để đóng trả hông?
Phục gật đầu:
-Con tính đi mua tre về đương thêm mấy cái lộp, đặt dọc bờ mương để bắt tôm càng. Tôm cỡ nầy có giá lắm! Mỗi ngày trút được vài con, bán cũng kiếm được bốn năm đồng.
Nhạn góp thêm:
-Con biết đương chài, đương lưới... Má nói với thím Chín coi ai có đặt thì thím nhận giùm để con lãnh về tối làm thêm, mỗi tháng chắc cũng kiếm được mười mấy, hai chục đồng.
Dì Sáu nhìn hai đứa con của mình bằng đôi mắt cảm động, dì nói:
-Còn về phần mình, má sẽ nuôi hai con heo với gầy một bầy gà. Tới chừng lớn chắc cũng kịp làm đám mà đãi khách. Nếu còn dư thì bán mua thêm đồ nấu với tỏi, tiêu, đường, muối...

Qua dịp mở hụi nầy dì Sáu mới thấy thím Chín có uy với bà con ra sao. Chẳng những thím rủ ai cũng theo mà có những người thím ngại không dám rủ, như mợ Hai Thọ, dì Bảy Ngọt ... cũng tìm tới nhà rồi xin dì Sáu cho làm tay em. Mỗi người đứng tới hai chưn hụi.
Gom đủ tiền trong tay, dì Sáu tức tốc nài thím Chín đi lên chợ Tân Châu với mình. Họ lại tiệm vàng để sắm nữ trang cho Tím liền vì tiền càng để lâu càng mất giá.
Trước đó mấy ngày cả hai, dì Sáu và thím Chín cũng cùng lại nhà dì Bảy xem bầy heo con. Họ lựa được hai con, một trắng một lang, khỏe nhứt đàn.
Lựa được hai con heo ưng ý rồi, dì Sáu liền ngồi đò, qua ngôi chùa Lá, nhờ sư thầy lựa giùm ngày tốt để cho hai con heo nhập chuồng.
Lần đi bắt heo sau đó thím Chín kêu Phục theo bởi thấy chàng dễ nuôi, món gì ăn cũng được, không kén cá chọn canh và sức ăn thì phải nói là mạnh hơn hết thảy những người thím biết.
Bà con nông thôn suy nghĩ đơn giản lắm ! Họ cho rằng con vật sẽ giống cái tánh của người thả nó vô chuồng. Ngay cả những đứa con nít cũng vậy. Cái muỗng bột đầu tiên của chúng, thường do một người trong gia đình, hoặc trong xóm, có tiếng là giỏi ăn nhứt đút cho.
Phục vác cái bao bố bên trong chứa hai con heo nhỏ xíu, đi từ nhà dì Bảy về theo con đường ven mương ấp chiến lược. Chàng không dám đi con lộ cái sợ bị bà con để ý. Những thanh niên sắp kết hôn hay ngượng, họ luôn có cảm giác là đang bị mọi người chung quanh dòm ngó từng li, từng tí, nên cố lảng tránh được lúc nào hay lúc nấy.
Hai con heo bị nhốt chung trong cái bao, chúng bực bội nên cứ quẩy đạp và kêu inh ỏi suốt. Mấy đứa con nít đang bắn chim, thọc me nước, bắn cu li...dưới bóng mát của hai hàng me nước trên con đường cộ, nghe thấy. Chúng bỏ dở cuộc chơi, đi theo sau để chờ coi thả heo y như một đám rước.
Đi ngang qua nhà ông Bảy Chích, có tiếng hỏi vọng ra:
-Chuẩn bị cưới dâu hả cô Sáu?
Dì Sáu bỗng nhớ đến cái chuyện thím Chín ghẹo hôm trước, nên khi không mà mắc cỡ ngang xương, mặt mày đỏ lơ đỏ lửng, chỉ đáp có mỗi một tiếng:
-Dạ.
Rồi đột ngột tăng tốc, bỏ thím Chín lại phía sau, đi một cái vù qua mặt luôn cả Phục.
Thím Chín gọi theo:
-Làm cái giống gì mà chạy như ngựa tế vậy? Chậm chậm lại chờ tui với chớ! Người ta có bầu, có bì làm sao dám đi lẹ để theo cho kịp?
Dì Sáu làm bộ không nghe, đi qua khỏi đó một đoạn khá xa rồi mới đứng lại chờ. Thím Chín vừa đi vừa cười, không biết thím nói cái gì mà Phục cũng cười.
Dì Sáu chột dạ, dì hỏi thím Chín:
-Có chuyện gì mà hai thím cháu vui quá vậy?
Phục nhìn dì Sáu chăm chú. Chàng nhận ra má mình chưa già và còn rất đẹp. Chợt hiểu vì sao mà ông thầy Bảy đối với mình có phần ưu ái.
Phục ngậm ngùi, tiếc cho tuổi xuân của bà đã qua nhanh quá. Cái hạnh phúc trong hôn nhân của những phụ nữ lao động như má chàng rất ít oi và ngắn ngủi.
Ba của Phục ngày xưa thích ăn nhậu. Hình ảnh của ông lưu lại trong lòng chàng là cái dáng ngồi xếp bằng trước mâm rượu với cái lưng rất thẳng.
Má Phục vừa lo mua cá đem ra chợ bán, vừa lo cơm nước, tắm gội, giặt giũ cho cả đám con nheo nhóc. Hai bàn tay bà chỉ ở yên khi chấp lên bụng trong đêm lúc ngủ. Những đêm đó thường bị gián đoạn bởi thình thoảng chàng bị đánh thức bởi chiếc ghe cui, căn nhà di động của họ chòng chành.
Phục tự hỏi những người phụ nữ bình dị nầy, họ lấy sức lực từ đâu để đúc nặn, nuôi nấng một bầy con và người chồng vạm vỡ của họ. Họ gầy guộc, dẻo dai như một thân tre mang đầy cành lá trên người, dù mưa gió luôn làm chao đảo nhưng bão tố khó lòng đánh gục.

Cái chuồng heo của thím Chín bị bỏ không từ mùa nước, hôm qua đã được Nhạn quét dọn sạch sẽ. Cái dáng xập xệ của nó được rủ bỏ, nhờ cái mớ váng nhện lòng thòng trên mái được quơ sạch. Những chỗ trũng do heo ủi cũng được Nhạn lấp bằng. Lá bùa bằng giấy đỏ, to chừng bàn tay, với những nét mực đen ngoằn ngoèo vẽ trên đó, còn mới tinh, ôm dính khắng một trong bốn cây cột tre của nó.
Phục dốc ngược cái bao để thả hai con heo ra, chúng tiếp đất bằng lưng, lộn nửa vòng rồi đứng lên bốn cái chân một cách gọn hơ. Tụi nó chạm mỏ vào nhau, hít hít mấy cái như làm thủ tục hỏi thăm rồi cùng lắc đầu lia lịa. Chỉ có vậy thôi mà đám con nít cũng reo lên một cách khoái trá.
Dì Sáu đi vội vào nhà, lấy cái thau nhôm đổ nước vào. Dì xúc một vùa cám và múc một vá nhỏ xác mắm- hôm qua dì vừa nấu nước mắm để lấy xác cho chúng ăn - trộn đều.
Bưng thau cám ra chuồng, dì đưa cho Phục và nói:
-Con trúc vào cái máng cho gọn, coi chừng đổ ra ngoài đó!
Phục đón lấy, rót từ từ vào cái máng cây cũ, đã được rửa sạch và hong khô. Hai con heo đang nằm nghỉ mệt sau một chặng đường vất vả, đánh hơi mùi thức ăn bèn chạy ùa lại, gục đầu vô máng uống hùng hục. Mấy đứa trẻ bu quanh đang chán định bỏ về liền nán lại ngó chúng ăn.
Con heo lang (heo bông) láo ăn quá cỡ! Nó cho cả bốn chân vào máng, chễm chệ đứng luôn trong đó. Phục phải bồng lên, đặt ra ngoài. Nó vừa ăn vừa hất mũi vào mặt con heo trắng, khiến con nầy phải dời qua phía khác. Vẫn chưa chịu thôi, nó cứ lấn tiếp, cốt cho con heo trắng ra rìa.
Đám con nít, đứa thì khoái trá ủng hộ, đứa thì bực bội quát:
-Cho nó ăn với chớ! Đồ cái thứ tham ăn như... heo!
Bầy gà con với sự hộ tống của mẹ, cũng chui vào chuồng. Chúng mổ lia lịa những hạt cám nhỏ xíu văng quanh máng. Hai con heo chẳng ngó ngàng tới cái đám loi choi đó. Chúng mãi mê ăn không thèm để ý. Con heo lang đã no nê, nó vừa nằm ịch xuống thì một chú gà con nghịch ngợm vội xán lại, mổ túi bụi lên lớp lông còn dính cám trên mõm nó. Thoạt đầu nó không thèm chấp, chú chàng bắt trớn nhảy luôn lên mặt. Điều nầy khiến nó bực bội, thế là nó khỉnh mũi rồi hất mạnh đầu một cái, khiến y ta té lăng chiêng, ba giò bốn cẳng chạy ù về mét mẹ, miệng kêu đau rối rít.
Con gà mái xòe cả hai cánh ra, kẹp nó vào một bên nách, rồi "cục cục" luôn miệng, vừa vỗ về vừa la mắng, ra dáng một bà mẹ thương con nhưng nghiêm khắc.
Cảnh tượng ấy cũng giúp mấy tên lóc chóc, đang hau háu săn tìm niềm vui quanh chuồng, thích thú.
Bây giờ con heo trắng mới được tự do. Nó đứng yên một chỗ, gục đầu xuống máng ăn một cách từ tốn, cho đến khi cái máng cạn sạch mới đủng đỉnh bỏ đi.
Đám con nít cũng tản hàng. Một số định quay về hàng me nước, một số còn chần chừ. Bỗng một thằng bé đen thui, gầy như cây mía, gọi toáng lên:
-Đi tắm tụi bây ơi!
Thế là chúng hét lên một lượt, tất cả cùng hưởng ứng một cách nhiệt liệt, thi nhau chạy ra bến để đua coi đứa nào phóng xuống nước đầu tiên. Mấy đứa lớn để nguyên cả quần mà tắm, đứa nào cũng ở trần nên bỏ qua cái việc rườm rà là cởi áo máng lên cây. Mấy đứa nhỏ xíu chưa biết mắc cỡ thì lột hết ra rồi chất đống lên nhau. Đứa bé nhứt, trước đây chắc bị giấu mất biệt cái quần, lo lui cui tìm chỗ để cất. Nó xuống nước sau cùng nên bị tụi kia chộ quá chừng.
Mấy đứa con gái đang tắm cái bến bên cạnh, thấy đám con trai ào ào nhảy xuống nước, bèn rút lui, nhường lại địa bàn một cách êm thắm.
Những đứa tắm sông chuyên nghiệp, không hài lòng với cái chuyện bơi tới, bơi lui, hụp lên, hụp xuống một cách nhạt nhẽo. Chúng rủ nhau leo lên cây sung, đứng sắp hàng trên cái nhánh de ngang ra sông, to bằng bắp vế của người lớn, biểu diễn coi đứa nào nhảy xuống nước đẹp hơn.
Chúng tắm mãi mê cho đến khi Phục ôm từng con heo xuống bến. Chúng lại bu quanh con heo để tắm cho nó. Đứa nào cũng cố thò tay để gãi cho bằng được bộ lông cứng ngắt.
Phục bồng con heo trắng lên nhà. Con nầy được tắm sau - có lẽ từ đây cho tới già, nó sẽ luôn luôn bị con heo lang kia cướp mất cái quyền được ưu tiên cả ăn, lẫn tắm - Chàng thả nó vô chuồng rồi lật đật quay xuống bến để tắm chung và cùng nô đùa với đám trẻ nhỏ.
Ngọn lửa trong lòng chúng lại cháy bùng lên. Tụi nó xúm lại bám Phục như sung, đòi chàng đòng đòng lên vai rồi tung lên cho thật cao.
Dì Sáu nghe tiếng cười của con trai vang lên từ bến sông. Dì lắc đầu, nói một mình:
-Cái thằng! Già cái đầu, sắp có vợ rồi mà còn thích chơi với mấy đứa con nít.
Rồi dì lật đật đi vo gạo nấu cơm bởi biết tắm xong là Phục sẽ đói, sẽ hối dọn cơm như giặc.
Dì lấy con mắm cá lóc duy nhứt còn lại trong cái gáo dừa đen thùi, được một nùi lá chuối khô chèn kín miệng, đang treo trên gióng xuống. Dì cho nó vào cái tô đít nhọn, rắc vô đó một muỗng đường cát, tiêu, hành lá xắt nhỏ...rưới thêm mỡ nước lên lưng rồi đặt vô nồi, nấu một lượt.
Vì chưng mắm nên dì cho nước vừa đủ cho gạo nở để không phải chắt nước cơm. Chờ cơm sôi vài dạo, dì dụi bớt mấy cây củi, chừa than lại rồi để đó đi ra sau hè.
Vói tay lên giàn, dì cắt một trái mướp dài gần bằng cánh tay của mình. Dì xách vô nhà, gọt vỏ đem rửa, để lên rỗ cho ráo rồi đi ướp nấm rơm để làm món chay cho Nhạn.
Phục vừa bước chân vô nhà là ngồi ngay lên cái chõng ngoài hiên sau, nơi có cái mâm với tô canh mướp nghi ngút khói và tô mắm thơm lừng.
Chén cơm đầy vun được đôi đũa tre gát ngang miệng, đó là dấu hiệu mời ông bà khuất mặt về hưởng. Phục bưng chén lên bằng cả hai tay, đưa lên ngang trán lầm bầm khấn:
-Con xin mời ông ngoại, bà ngoại, ông nội, bà nội, ba cùng mấy em về ăn cơm.
Đặt chén cơm xuống. Chàng hối:
-Má lại ăn luôn cho nóng!
Dì sáu đang loay hoay với trách nấm rơm kho trong bếp, nói vọng ra:
-Con ăn một mình đi. Bữa nay má ăn chay, chờ con Nhạn về ăn chung với nó cho vui.
Phục gắp một miếng dưa leo, nhúng vào chén mắm cho vô miệng nhai rao ráo. Kế đó rỉa một miếng to trên cái lưng tươm mỡ bóng lưỡng của con mắm bỏ vô chén rồi và chung với cơm. Chỉ một lần và thôi mà chén cơm đã lưng xệu. Chàng múc mấy muỗng canh, chan vô chén đầy nhóc, rồi lùa vào miệng cả nước lẫn cái.
Dì Sáu nhìn mấy giọt mồ hôi đang tươm trên trán con trai một cách hài lòng. Đó là dấu hiệu cho thấy bữa cơm thành công và Phục đang ăn một cách say sưa.
Nồi cơm vơi đi nhanh chóng. Khi cơm trong nồi chỉ còn một nửa, cái chén sạch trơn và bao tử đã đầy óc ách, Phục liền đặt đôi đũa nằm vắt ngang trên hai bàn tay chấp lại, nó được kẹp giữa ngón cái và nón trỏ. Phục nâng đũa lên ngang ngực, xá vài lần rồi mới để gọn vô mâm.
Bữa ăn coi như đã xong. Phục bước ra sân, ngắt chót lá dừa rồi tuốt hết phần lá chỉ chừa cái cọng ở giữa. Chàng vừa chọc cái cọng nầy vô từng kẻ răng để xỉa, vừa nhìn trời mây sông nước...
Ném cây tăm dừa trong tay xuống đất, chàng tiến tới cái lu nước trước hàng ba, mở nắp múc một gáo đầy rồi đi lại cây dừa ban nãy. Phục rót nước vào bàn tay khum lại, vốc lên miệng để rửa rồi hớp từng ngụm để súc sùng sục cái họng, phun vào gốc dừa tưới để trả công cho nó. Lại múc thêm một gáo nữa, lần nầy chỉ lưng lưng, ngửa cổ uống cạn. Chàng máng gáo lên cây cọc tre cắm sát bên lu rồi leo lên cái võng treo gần đó, nằm đưa một cách hết sức thong dong.
Dì Sáu lui cui dọn mâm. Dì đem mấy cái tô, chén dơ ra sàn nước, nhúng vô thau nước vo gạo còn chứa lại để rửa chén. Múc nước tráng sơ cái mâm rồi treo lên cho ráo.
Nhạn vẫn chưa về, để khỏi sốt ruột trong lúc chờ đợi, dì Sáu moi óc, cố tìm việc làm để giết thì giờ. Dì chợt nhớ ra, vội đi lại hàng rào, lấy cái tỉn không đang úp trên cọc tre để phơi. Cái tỉn đã cũ lắm rồi, tấm nhản dán bên hông ghi: "Nước mắm nhỉ, loại thượng hạng" với cái tên "QUỐC HƯƠNG" rất to màu đỏ, đã rách lỗ chỗ. Dì xách nó bằng một tay, đi te te qua nhà thím Chín.
Thím Chín đang ngồi vo gạo, dì Sáu lật đật chạy đến, miệng kêu:
-Đổ nước vo gạo vô đây nè chị Chín!
Thím Chín quay lại nhìn rồi quở:
-Cái tỉn nhỏ như vậy đựng làm sao mà đủ?
Dì Sáu cười:
-Chị vo cho kẹo giùm tui, nhiều quá tụi nó uống cũng hổng hết.
Thím Chín nghiêng nồi, rót vào gọn hơ không đổ ra ngoài đến một giọt.
Vừa làm thím vừa hỏi:
-Chị đốn chuối chưa?
Dì Sáu lắc đầu:
-Chưa! Hai đứa nó còn nhỏ quá nên tui nấu gạo lức cho ăn ròng ít bữa rồi mới từ từ chêm chuối vô.
Vo gạo xong, thím Chín đổ nước vô nồi, thọc ngón tay trỏ vô đo rồi nghiêng nồi chắt bớt nước ra một chút.
Thím giải thích dù dì Sáu không hỏi:
-Bữa nay ăn canh, hổng cần chắt nước cơm.
Rồi bưng nồi vô bếp.
Dì Sáu cũng bợ cái tỉn về nhà. Dì rinh nó bằng cả hai tay. Cái tỉn đầy ấp nước cơm nên khá nặng, dì phải bước ngắn lại và đi nhẹ nhàng để nước không sánh ra ngoài.
Nhạn vẫn chưa về. Dì Sáu bắt đầu nghe sốt ruột. Những tia nắng đã hoàn toàn chui hết xuống sông. Cái đói trong lòng dì Sáu đã được thay thế bằng cái lo.
Bỏ cẳng xuống võng dì đi xâm xâm ra đường. Đứng giữa lộ, dì lấy cả hai bàn tay che mắt nhìn về hướng cây cầu ván.
Dì đứng với cái tư thế đó rất lâu, hy vọng nhận ra cái dáng gầy gò của cô con gái.


Mãi một lúc khá lâu Phục mới chú ý tới cái dáng bồn chồn của dì Sáu.
Chàng hỏi:
-Má ngóng cái gì vậy?
Dì Sáu chắt lưỡi:
-Con Nhạn chưa về.
Phục ngồi bật dậy, lật đật nói:
-Để con qua nhà chú Chín mượn chiếc xe đạp rồi đi đón nó.
Nói vừa dứt là chạy vút đi liền.
Chú Chín đang mặc cái áo chàng màu nâu vào để cúng, thấy Phục liền hỏi:
-Có chuyện gì đó con?
Phục đáp:
-Chú cho con mượn chiếc xe đi rước con Nhạn, tối hù mà nó chưa về.
Chú Chín gật đầu, chỉ tay vào chiếc xe dựng sát vách, nói:
-Lấy đi, nó bị mòn cái cục thắng, chú chưa kịp thay. Con vừa thắng vừa thò chưn xuống rà cho chắc ăn nghe, nhứt là cái lúc xuống dốc cầu.
Phục vừa dắt xe đi, chú liền kêu lại:
-Lấy cây đèn pin mà bỏ theo túi, tới chỗ tối rọi cho thấy đường mà đi, đừng có tiếc pin.
Rồi tiện tay bỏ luôn cây đèn vào túi áo rộng rinh của chàng.
Cái bánh xe hơi mềm, Phục tháo cái ống bơm gắn ở sườn xe ra, ráp cái vòi vô rồi ngồi thục lia lịa. Cái vòi hơi lỏng, hơi bơm vô bị xì ra hết phân nửa. Phục bơm cho tới khi hai bánh xe căng thì trời đã tối mịt.
Linh tính có chuyện chẳng lành xảy ra nên vừa thót lên xe là Phục đạp lia, đạp lịa, quên cả cây đèn pin chú Chín bỏ trong túi mình.
Cù lao nầy nằm giữa hai con sông: một lớn, một nhỏ. Sau lưng nó là con sông Hậu rộng mênh mông. Trước mặt là rạch Cái Vừng, một nhánh nhỏ của sông Tiền.
Con đường Phục đang đi là trục giao thông chính chạy song song với cái rạch lớn như một con sông ấy.
Con đường nối liền các xóm nầy được đắp bằng đất, có trải những cục đá bằng nắm tay trên mặt. Nó chạy sát bờ sông nên lúc cong, lúc thẳng.
Trời cuối tháng không trăng, ở những khúc không nhà lòng đường tối thui như trong họng của một con rồng khổng lồ. Chẳng thể thấy ổ gà để tránh nên chiếc xe cứ sụp xuống, trồi lên, có lần xém quị luôn.
Phục vừa chạy vừa gọi:
-Nhạn ơi!
Rồi lắng tai chờ nghe. Chỉ có tiếng dế, tiếng gió và tiếng nước vỗ rì rào đáp lại...
Tưởng tượng đủ thứ trong đầu khiến Phục càng lúc càng lo âu, đến chỗ chòm mả chàng định rẻ vào nhưng do dự. Chàng biết người ta chỉ ra ra đó khi hẹn hò, điều nầy đối với Nhạn là không thể. Nghĩ đến một nơi khác nguy hiểm hơn, Phục đạp hết tốc lực về khu nhà hoang của ông cả Hội.
Vừa đến đầu miếng đất ấy Phục liền gọi:
-Nhạn ơi! Em có ở đó không?
Có tiếng chân giậm đùi đụi trên mặt đất, Phục chợt nhớ ra cây đèn trong túi bèn lấy ra bấm.
Một tấm lưng trần phóng vút vào cổng vườn. Lia đèn theo, chàng kịp thấy cả hai bên vai của người con trai đang bỏ chạy đỏ lòm, máu chảy một đường dọc theo cột sống xuống tới lưng quần.
Phục giợm đuổi theo nhưng tiếng kêu của Nhạn khiến chàng dừng lại:
-Anh Hai, em đây nè!
Phục rọi đèn về hướng ngược lại, Nhạn đang ngồi trên đường, quơ tay trên mặt đất để tìm thứ gì đó.
Phục chạy riết lại bên cô, Nhạn lượm cây kẹp lên rồi đứng dậy. Phục nhìn cô, thấy tóc tai tuy bù xù nhưng mặt mũi không trầy trụa. Phục hỏi:
-Em có sao không?
Nhạn lắc đầu, đưa hai cục đá nhọn hoắt đang cầm trên hai tay cho anh thấy rồi nói:
-Nhờ em có thủ sẵn cái nầy .
Thấy Phục nhìn đăm đăm dấu máu trên đó, Nhạn giải thích:
-Nó vừa xô em té xuống đất là bị em đập mạnh hai cục đá vô hai vai của nó . Chắc đau dữ lắm nên nó bật ngửa ra liền. Cũng may mà anh tới chớ hông thôi nó bị em đập cho gãy xương rồi.
Phục nhìn gương mặt đằng đằng sát khí của Nhạn mà rùng mình. Chàng hỏi:
-Bộ em có học võ hả?
Nhạn lắc đầu, đáp:
-Hồi còn ở trên Miên, chính mắt em thấy chị ruột của mình bị cưỡng hiếp tới chết. Em uất ức cho tới bây giờ nên tự nhiên mà mạnh lên hồi nào hổng hay!
Rồi Nhạn hỏi:
-Má ăn cơm chưa anh?
Phục thấy cô quan tâm đến dì Sáu trước tiên, liền trả lời bằng giọng cảm động:
-Chưa, má chờ em về rồi mới ăn!
Nhạn giục:
-Anh chở em chạy về cho lẹ đi, để má đói quá rồi ăn hết nổi.
Phục hỏi cô:
-Mình nói làm sao cho má khỏi lo đây?
Nhạn nói :
-Để em nói với má là tại có đồ giao gấp nên phải ở lại phụ chị Tím để làm cho xong.
Hai anh em vừa thắng xe trước thềm là dì Sáu đang nằm trên võng liền ngồi bật dậy. Phục tắt đèn pin liền để dì không thấy dáng xộc xệch của Nhạn.
Dì Sáu hỏi một cách dồn dập:
-Con Nhạn đâu?
Nhạn đáp bằng giọng hết sức tự nhiên:
-Con về rồi nè má!
Không chờ dì hỏi, cô giải thích :
-Bữa nay đồ nhiều quá! Con phải ở lại làm cho rồi bởi vậy...
Dì Sáu hối:
-Chắc đói bụng dữ lắm hả con. Thôi vô ăn cơm liền đi.
Dì lại cái bàn thờ nhỏ ở góc nhà, đốt một cây nhang xá rồi cắm lên đó.
Dì cắt nghĩa:
-Hồi nảy má lo quá nên vái vong hồn má con phù hộ...
Rồi bỏ ra bếp liền để dọn cơm.
Nhạn cũng lại bàn thờ, không đốt thêm nhang mà chỉ chấp tay xá. Cô lủi vào phòng, thay đồ, chải đầu tươm tất rồi mới đi ra nhà trước.
Dì Sáu đã ngồi sẵn bên cái bàn dài giữa nhà, trước mặt là mâm cơm dọn sẵn. Những bữa cơm ăn trễ nhà dì thường ngồi xúm xít dưới ánh sáng của cây đèn dầu đặt giữa nhà, để khỏi phải đốt thêm một ngọn đèn trong bếp.
Thấy thức ăn còn nóng hổi, Nhạn hỏi:
-Bộ má mới nấu hay sao mà...
Dì Sáu lắc đầu:
-Má mới hâm lại tức thì. Má nấu nồi cháo heo, sẵn còn lửa bắt nồi canh lên luôn, chắc nó rục hết rồi.
Bây giờ Nhạn mới nghe cái đói lên tiếng thôi thúc.
Dì Sáu nghe tiếng rồn rột trong bụng cô phát ra liền giục:
-Ăn liền đi con cho nóng.
Không chờ dì nhắc thêm, Nhạn bưng chén cơm lên liền.
Phục mang trả chiếc xe cho chú Chín vừa về tới, hai tay bưng một cái tô bước vào nhà.
Thấy chàng đi một cách thận trọng, Nhạn hỏi:
-Anh bưng cái gì mà đi như đàn bà đẻ vậy?
Phục cười:
-Thím Chín vét cái nồi bí hầm dừa, cho anh một tô đầy nhóc ké.
Dì Sáu chắt lưỡi:
-Má bậy thiệt, bữa nay ba mươi, cả nhà chỉ ăn chay mà quên kho núm nhiều nhiều đặng bưng qua cho.
Rồi dì bảo Phục:
-Con vô bếp lấy thêm cái chén với đôi đũa ra đây ăn luôn cho vui !
Phục hỏi:
-Có đủ cơm cho má với con Nhạn hông đó mà rủ?
Nhạn cướp lời:
-Đủ mà, đủ mà...có thiếu em qua thím Chín xin thêm. Nhà chú thím lúc nào cũng nấu cơm dư.
Phục quở:
-Nhà mình cái gì cũng ỷ lại nhà bên đó, coi kỳ quá!
Dì Sáu nói:
-Thì mai mốt con ráng có con gái đi, dạy cho nó thiệt khéo, thiệt giỏi đặng gả cho thằng Nhân bù lại.
Câu nói đùa của dì Sáu, vô tình làm Phục nghe đắng nghét cái miệng, đau nhói cái ngực nên hết muốn ăn!


Hai con heo tranh nhau ăn nên lớn như thổi. Để đỡ tốn tiền mua gạo lức, dì Sáu bèn theo thím Chín ra vườn chuối, lựa một cây đã trổ buồng để đốn rồi vác về cho chúng ăn kèm.
Thím Chín đem qua cho dì Sáu mượn cây dao dâu, dụng cụ chuyên dùng để xắt chuối. Cách dì cầm cây dao khiến thím biết ngay là dì chưa hề làm qua cái công việc nầy.
Thế là thím hướng dẫn cho dì từng li, từng tí. Từ việc lựa giống chuối nào có thân ngon, mềm, không chát...cho tới cách ngồi như thế nào, cầm cây dao như thế nào và xắt như thế nào.
Dì Sáu cũng chưa từng cầm cái chày to để quyết bất cứ thứ gì kể cả chuối. Thím Chín đang mang bụng, cũng mạo hiểm làm thử mấy bận cho dì xem. Thế rồi thím phát hiện, dì là một người học trò hết sức thông minh và cần cù. Chỉ hơn một tuần mà thuộc lòng hết lý thuyết và thực hành ro ro...
Dì lại còn rất khéo tay, mấy lát chuối dì xắt ra, mỏng tanh như miếng ren và đều tăm tắp. Dì còn vừa quyết, vừa vùa chuối mình ên, y như một tay cao thủ.
Ngắm dì Sáu quết chuối cũng khá vui mắt. Thím Chín thích nhìn cái dáng dì đứng chỉ với một chưn, chưn còn lại gát hờ lên miệng cối.
Hai tay dì nâng cái chày đưa lên, cùng lúc với bàn chưn vùa chuối vào cho đầy cái lỗ trũng ở giữa, do cái chày vừa bỏ lại. Động tác hết sức chuẩn xác khiến thím không khỏi trố mắt ngạc nhiên và lấy làm thú vị.
Dì làm gọn bân không để chuối rơi ra ngoài đến một miếng, cũng không thèm nghỉ xả hơi, quết một lèo cho tới khi nát mấy lát chuối đều nát nhừ như cám.
Thím Chín tin rằng, những thành quả đó có được là nhờ cái quyết tâm cao ngùn ngụt của dì Sáu.
Thím cũng biết dì Sáu có lòng tự trọng hơn người. Dì từng nói với thím là chừng nào giải quyết xong hai dây hụi mới rước Tím về, để người ta khỏi cho rằng dì bắt con dâu trả nợ thay mình.
Dì Sáu vốn rất sợ mắc nợ, xưa nay thà nhịn tiêu xài chớ ít dám mượn tiền sắm sửa. Từ ngày bậm gan làm đầu thảo hụi, dì cứ ngày đêm lo ngay ngáy.
Dì gắng hết sức, sao cho mỗi tháng có đủ tiền đóng trả cho bà con, lối xóm. Để bản thân không bị mang tiếng và thím Chín cũng khỏi mất mặt.
Từ ngày dì nuôi heo, công việc hầu như tăng gấp đôi. Đã vậy lại càng thắt lưng buột bụng riết róng, ăn tiêu giảm còn một nửa nên dì gầy đi thấy rõ.
Thím Chín thấy dì làm không hở tay và ăn uống sơ sài quá, sợ đổ bịnh nên rầy:
-Lúc nầy tui thấy chị ốm dữ lắm rồi đó nghen chị Sáu! Làm nhiều thì phải ăn nhiều chớ! Ba bữa nay tui thấy chị cứ mắm chưng, núm rơm kho với canh mướp không hà.
Dì Sáu phân trần:
-Tui không dám mua thịt, mua cá. Để dành từng đồng đóng hụi. Chừng nào trả dứt hết hụi rồi tui mới rảnh rang mà lo mấy thứ khác.
Thím Chín chắt lưỡi:
-Bộ chị hổng nhớ cái câu mà ông bà mình dạy hay sao? "Công nợ trả lần, cháo nóng húp quanh". Nợ thì trả từ từ chớ đâu thể làm cái một. Phải ăn để có sức chớ!
Dì Sáu dù biết thím Chín nói đúng nhưng tật lớn khó bỏ. Dì ráng làm theo chừng đôi ba bữa, cho cả nhà rửa ruột vài hôm rồi cũng rau, mắm như cũ.
Thím Chín nói với chồng:
-Thấy chị Sáu làm gần chết mà ăn uống cầm hơi sao tui rầu quá mạng! Phải biết vậy tui hổng làm mai con Tím cho thằng Phục làm chi. Báo hại chị vừa nhón, vừa vói cho bằng người ta, mệt gần chết!
Chú Chín gật đầu:
-Phải chi bà kiếm cho chỉ cái gia đình nào xấp xỉ hoặc nghèo hơn một chút thì dễ thở biết mấy. Làm sui, làm dâu, làm rể nhà giàu mệt gần chết, cực thấy mồ mà chưa chắc sơ múi được chút gì!
Thím chín chù ụ cái mặt, nói:
-Cái chuyện nầy tui quá rành, cần gì ông nói!
Nghe cái giọng chua như giấm của vợ, chú biết thím còn giận má mình về chuyện chia của không đều, thiếu công bằng, phần của họ ít hơn người khác.
Thím Chín vẫn còn tiếc hùi hụi căn nhà ngói lẫm liệt, vườn cây ăn trái sum sê và phần đất hương hỏa mầu mỡ, thay vì của họ lại về tay cô em chồng.
Thím thường phân bì với chồng, cho là mình cực hơn hết thảy, mà hưởng ít hơn hết thảy.
Thím hay đưa hai bàn tay ra trước mặt chú mà nói: "Coi nè! tui làm dâu thiếu điều muốn sút móng tay, vậy mà bà nội sắp nhỏ còn chưa vừa bụng".
Mấy cái chuyện nầy mà đụng vào thì y như lấy cái que chọt vào ổ kiến lửa. Chú Chín ngồi im re, ngậm cứng cái miệng, ráng biểu hai lỗ tai đóng lại mà tụi nó không chịu
Thím Chín vẫn chưa muốn dừng, nói tiếp:
-Nghĩ tới đó mà tui giận cành hông! Hổng hiểu má tính sao mà để mấy đứa cháu khác họ lo việc cúng kiếng. Ba cái đứa phá của, làm biếng nhớt thây đó, đây rồi ông coi...
Chú Chín thở dài:
-Má chết rồi, mình trách móc hoài má khó mà siêu, mang cái tội bất hiếu nặng lắm!
Rồi chú an ủi thím:
-Phải chi hồi đó tụi mình khôn khéo một chút, đừng có đeo xà nẹo với nhau, thương mà đừng cho má biết thì đâu đến nổi...Đàn bà hay ghen lắm!
Thím Chín nghe vậy thì nguôi nguôi, quay về chủ đề cũ:
-Tui sợ đây rồi ba má con Tím được voi, đòi tiên. Họ còn đòi hỏi thêm thứ nầy, thứ nọ tùm lum. Chỉ phải ráng sức hoài dám bức gân lắm!
Thở một hơi dài, thím tự trách:
-Mình cũng tính giúp chỉ có con dâu nết na, xinh đẹp, giỏi giang thôi! Ai mà ngờ...
Thấy vợ buồn chú Chín bèn khuyên:
-Có khi mình cho là khổ còn chỉ lại thấy vui. Con Tím coi bộ cũng hiểu chuyện lắm! Biết đâu nó cảm động, thương chỉ như má ruột rồi hết lòng trả hiếu.
Thím lắc đầu :
-Tui sợ nó về đây, thấy chị sống kham khổ quá lại đâm ra xem thường đó chớ...
Chú Chín nghe vợ than vãn hoài nên bực mình gắt:
-Vậy thì bà kêu chỉ thôi quách đi cho khỏe?
Thím Chín cự lại:
-Làm như vậy thì tội nghiệp nhà bên kia. Đây rồi bà con kêu rêu là tại họ khó khăn, đòi hỏi đủ thứ nên nguyên cái đám con gái hổng ai dám rớ. Cái rồi hổng ai thèm tới coi mắt nữa thì tội nghiệp cho con Tím với mấy chị em của nó. Thằng Phục cũng bị mang tiếng là vô duyên, khó mà kén được vợ!
Thấy chú cau mặt, thím vội vã phân bua:
-Tại tui sợ chỉ lăn ra bịnh thì khổ cả đống!
Đúng là thần khẩu hại xác phàm. Mấy hôm sau dì Sáu lại ra vườn đốn chuối về cho heo. Dì vác cây chuối còn mập và cao hơn mình, về vừa tới cái giàn mướp là đặt xuống liền.
Ngồi bệt lên sàn nước nghỉ mệt, thở dốc mấy hơi, dì kéo cái khăn đang đội trên đầu xuống để lau mồ hôi tươm đầy mặt. Nghe khô miệng nên dì mở nắp lu, nhúng cái gáo vô múc nước uống...
Dì bưng gáo uống một hơi, chưa kịp máng lên cây cọc tre trở lại thì bỗng ngã bật ngửa, té xỉu một cái rầm, nằm ngay đơ trên mặt đất.

Thím Chín đã thấy dì Sáu về, thím đang đi xuống cầu thang định qua nhà dì chơi, nên tận mắt thấy cái cảnh dì Sáu ngã vật ra y như cây chuối bị đốn.
Thím hét inh ỏi:
-Chị Sáu! Chị Sáu! Ông ơi! Ba con Nhu ơi!
Chú Chín đang ở sau hè cuốc đất, chú tính lên giồng để trồng cải bẹ xanh. Nghe tiếng kêu vang vội của thím thì bỏ thí cái cây cuốc đang cắn cục đất nằm ì đó, ba chưn, bốn cẳng chạy lại.
Chú kêu to:
-Từ từ, coi chừng té đó bà ơi!
Chú xốc dì Sáu lên vai đi lẹ theo vợ. Thím Chín chạy te te phía trước vẹt tấm màn che cửa buồng để chú đặt dì Sáu vào nằm lên chõng.
Chú Chín cho cái đầu dì Sáu tựa vô gối xong là quay trở ra liền. Chú chụp lấy chiếc xe đạp đang dựng sát cầu thang, thót lên ngồi rồi đạp vù vù.
Một chiếc xe hon đa chở đôi vọt qua, chú kêu vói theo:
-Sớm, Sớm đi rước ông thầy Bảy giùm, cô Sáu Dọ bị bịnh nặng lắm! Té xỉu rồi!
Hai Sớm con của cậu Ba Sáng, người vừa cưới vợ mấy tháng trước, đang chở cô vợ trẻ đi công chuyện, quay đầu lại "dạ" một tiếng thiệt lớn rồi rồ hết ga vọt thẳng...
Chú Chín đạp chiếc xe ra luôn nhà sau của dì Sáu, đi cửa hông cho gần.
Thấy cô Năm đang đứng bên sào phơi đưa mắt nhìn mình, chú gọi to:
-Chị Sáu Dọ chết giấc kìa cô Năm ơi!
Cô Năm đang giũ cái khăn cho thẳng sắp trải lên cây sào tre, nghe vậy bèn thảy trở lại vô thau. Cô bỏ cái tiệm mà chạy theo chú Chín qua nhà dì Sáu.
Đến nơi họ thấy thím Chín khóc hu hu thì hết hồn.
Cô Năm hỏi:
-Chỉ chết rồi sao?
Thím Chín lắc đầu:
-Tui... hổng biết!
Chú Chín bước lại, lật đật vạch mí mắt lên coi.
Thím Chín và cô Năm cùng hỏi một lượt:
-Còn sống hông?
Chú Chín làm thinh. Mấy lần thấy thầy Bảy làm vậy nên chú bắt chước chớ đâu có biết cái gì mà nói.
Tiếng xe máy dừng ngay cổng. Thầy Bảy ngồi sau lưng Sớm. Thấy Sớm cho vợ xuống đi bộ để chở thầy tới cho nhanh, chú Chín ưng bụng lắm!
Chú nhủ thầm:
-"Cái thằng nầy còn nhỏ mà ăn ở có tình, có nghĩa. Vợ chồng ba Sáng có thằng con như vầy là gỡ vốn được rồi. Mấy thằng kia mà như anh nó thì họ lời khẳm".
Thầy Bảy còn mặc bộ đồ trong nhà, cái quần bi da ma kẻ sọc và áo thun ba lỗ. Chắc bị thúc giục dữ quá nên ổng không kịp xỏ tay vào áo.
Thấy cái phòng tối hù. Ổng hối:
-Mở giùm cửa sổ cho sáng, tối quá!
Cô Năm đứng gần đó, vói tay làm liền.
Căn phòng sáng trưng lên. Thầy Bảy vạch mí mắt dì Sáu, rọi đèn pin nhìn vào, rồi tắt đèn bỏ vô cặp trở lại. Lần nầy không ai dám hỏi.
Thầy Bảy đặt cái ống nghe đang đeo lòng thòng trên cổ lên ngực dì Sáu, nghe một cách hết sức chăm chú. Tiếp đó ổng lấy cái máy đo máu ra, tròng miếng vải vô cánh tay dì , siết mấy vòng cho chặt. Tay cầm trái banh cao su nhỏ màu đen thầy bóp liên tục, mắt nhìn đăm đăm cây kim màu đỏ đang chạy cà giựt trên cái đồng hồ ...
Cây kim dừng lại, thầy vặn cái bánh xe nhỏ xíu, mở van cho cái hơi căng phồng trong tấm vải xẹp xuống. Chờ cho tiếng "xì, xì..." tắt hẳn thầy mới nói :
-Huyết áp không có tăng, tim đập hơi lẹ nhưng hổng sao!
Mở cặp lấy ra ống tiêm, thầy đặt miếng bông gòn lên miệng chai ancol rồi chổng ngược đít chai. Thầy lấy ra một ống thuốc, búng chóc chóc trên cái đầu nhọn của cái ống thủy tinh nhỏ bằng ngón tay út, có chứa thứ nước trong veo. Bẻ đầu nhọn một cái rắc, thầy đưa mũi kim đã được miếng gòn tẩm cồn ban nãy sát trùng, vào rút cạn.
Thầy lụi một phát vào mông dì Sáu. Một cái nhăn mặt rất nhẹ lướt qua mặt dì khiến chú thím Chín và cô Năm cùng thở phào ra một lượt.
Thím Chín hỏi:
-Có vô nước biển cho chỉ hông anh Bảy?
Thấy thầy Bảy hơi ngần ngại, thím nói:
-Thầy vô giùm nghe, hổng nhiều thì một chai cũng được.
Thầy Bảy gật đầu. Thầy biết khó mà từ chối, bởi chai nước biển chính là liệu pháp tâm lý, giúp người bịnh và thân nhân của họ yên bụng.
Thầy vừa lau cái chai vừa cắt nghĩa:
-Cái thứ nầy khi nào cần mới xài, hở hở là truyền nước biển cũng đâu có tốt.
Bà con nông thôn nói chung và xóm Cầu Ván nói riêng, xem cái thứ nước không màu, không mùi, không vị đó y như thần dược vậy.
Hầu như tất tần tật bà con trong xóm. Mười người như một. Hể nghe trong người có vấn đề là ngoắc thầy Bảy lại đòi truyền nó vô mình cho bằng được.
Điển hình là mợ Hai Thọ, người từng tuyên bố thẳng thừng trước mặt thầy Bảy, khi ổng do dự, chưa chịu nghe lời mà làm theo ý mợ:
-"Tui phải vô nước biển mới khỏe được, hổng cần chích, uống gì ráo!".
Thầy Bảy rầu sẩu mình, khuyên hoài mà hổng ai chịu nghe, đành phải chìu. Lần nào cầm cái chai dung tích nửa hoặc một lít đó lên thầy cũng nói một câu:"Cái thứ nầy khi nào cần mới xài, hở hở..." i sì như trên, riết rồi tạo thành thói quen, bà con nghe hoài cũng nhàm, không còn chút tác dụng nào!
Thầy Bảy vỗ nhè nhẹ mấy ngón tay vào hai bên má của dì Sáu rồi hỏi:
-Tỉnh chưa chị Sáu?
Dì Sáu mở mắt ra rồi gật đầu. Đưa mắt về hướng thím Chín dì hỏi:
-Tui bị sao vậy chị Chín:
Thím Chín nghe dì hỏi thì mừng đến chảy nước mắt thêm lần nữa, thím nói:
-Chị bị xỉu, thầy Bảy mới chích cho chị một mũi đó.
Thầy Bảy hỏi:
-Chị Chín biểu tui vô nước biển cho chị đó! Tui thì thấy không cần thiết, chị có muốn thì tui làm.
Dì Sáu lắc đầu lia lịa, đâu thể tốn tiền một cách vô ích như vậy!
Thím Chín cứ nằng nặc:
-Chị yếu lắm! Nghe lời tui vô một chai cho khỏe đi.
Chú Chín rầy vợ:
-Anh Bảy là người trong nghề, ảnh đã nói hổng cần thì thôi. Tui thấy bà về nhà, nấu liền cho chỉ một nồi cháo cá lóc coi bộ còn tốt hơn.
Thầy Bảy cũng hùa theo:
-Anh Chín nói đúng đó. Ăn uống được thì không cần vô nước biển làm chi. Để tiền đó mua đồ bổ ăn cho nó sướng cái miệng, hổng hơn sao?
Thím Chín nghe cả hai người đàn ông đều nói vậy thì không kèo nài nữa.
Thím quay qua nói với cô Năm:
-Chị ở lại ngó chừng chị Sáu nghe! Tui về nấu nồi cháo rồi qua.
Cô Năm gật đầu, nói:
-Ừ chị về đi, để tui coi chỉ cho, hổng sao đâu?
Chú Chín chờ vợ đi khỏi rồi mới nói:
-Có tui với anh Bảy ở đây rồi, cô có về thì về, kẻo bà con tới mua đồ lấy ai bán cho họ?
Cô Năm nói:
-Hổng sao đâu anh Chín.
Ngó thầy Bảy cô hỏi:
-Bây giờ chỉ uống sữa được chưa anh Bảy?
Thẩy gật đầu:
-Tốt nhứt hạng đó!
Cô Năm quày quả về nhà, lát sau bưng qua một ly sữa nóng hổi có lót cái dĩa để cầm cho khỏi phỏng tay. Cổ cầm cái muỗng cán dài khuấy tưng bừng, chu miệng thổi phù phù cho sữa mau nguội.
Cổ Nếm thử thấy bớt nóng liền đưa cho dì Sáu rồi nói:
-Ráng ngồi dậy uống một hớp đi chị.
Thầy Bảy vội lòn tay đỡ dì Sáu ngồi lên. Dì Sáu cầm lấy ly sữa trong tay cô Năm rồi uống cạn.
Dì mắc cỡ vì bàn tay của thầy Bảy vẫn còn đặt trên lưng mình, muốn biểu thầy lấy ra mà sợ thầy quê nên làm thinh. Dì nghe máu chạy rần rần trên hai gò má.
Cô Năm nhìn dì, xuýt xoa:
-Mới uống có một ly sữa mà cái mặt của chỉ đã hồng hào trở lại rồi kìa!

Cô Năm đỡ lấy cái ly không còn một giọt sữa nào trong tay dì Sáu rồi nói:
-Chị nằm nghỉ đi! Có anh Bảy, anh Chín ngó chừng giùm rồi, tui về coi cái tiệm một lát.
Quay sang chú Chín cô nói:
-Chừng nào anh về thì hú một tiếng đặng tui qua thay phiên hén!
Chờ cô Năm đi khuất, chú Chín mới bảo thầy Bảy:
-Tui cũng về coi phụ bà nhà một tay. Lúc nầy bả nặng nề lắm rồi, leo lên leo xuống cầu thang bất tiện lắm! Anh dòm chừng chị Sáu nghen!
Thầy Bảy không nói gì, chỉ nhìn chú bằng ánh mắt chan chứa ân tình, gật đầu tới hai ba lần.
Dì Sáu cảm thấy mình đang lâm vào tình thế ngặt nghèo, muốn năn nỉ chú Chín ở lại mà không dám mở miệng.
Dì nghĩ ngợi lung tung, oán thầm chú Chín:
-Cha nội nầy vô "dang"(duyên) chưa từng thấy! Khi không đuổi chị Năm về rồi cũng cuốn gói đi luôn. Bộ ổng không thấy ông thầy Bảy đang de mình hay sao?
Dì Sáu hướng đôi mắt van xin về phía chú Chín. Chú đâu có dám nhìn lại dì, cúi đầu đi thẳng một lèo, không thèm ngó lại đến một lần.
Thầy Bảy tằng hắng:
-Để tui đỡ cô nằm xuống nghen?
Dì Sáu nhận ra bàn tay của thầy Bảy vẫn còn đặt sau lưng mình nên sẳng giọng:
-Tui nằm mình ên được rồi, anh lấy cái tay ra đi.
Thầy Bảy lấy cái tay ra liền, miệng tủm tỉm cười vì biết sắp chứng kiến một chuyện vui.
Dì Sáu vừa nghiêng người chưa kịp nằm xuống, bỗng thấy căn nhà quay mòng mòng.
Dì la bài hải:
-Té! té! Cứu giùm tui anh Bảy ơi!
Thầy Bảy đem giấu nụ cười khoái trá của mình một cách vội vàng. Thầy dang cả hai cánh tay ra ôm dì vào lòng như ôm đứa con nhỏ.
Dì Sáu cũng bám chặt cứng lấy thầy. Thầy nghiêng người, đặt dì nằm xuống gối rồi mà hai bàn tay của dì vẫn còn ôm riết cái lưng của thầy.
Một lát sau dì Sáu mới hoàn hồn, buông thầy Bảy ra rồi hỏi:
-Cái chuyện nầy là sao vậy anh Bảy? Khi không mà tui thấy căn nhà lộn mèo, thấy như mình sắp rớt từ trên đọt cây xuống đất là tại làm sao?
Tới lúc nầy thầy Bảy mới chịu đặt dì Sáu nằm thẳng thớm lên bộ giạt. Ổng sửa cái gối trên đầu dì cho ngay ngắn rồi mới cắt nghĩa:
-Cô bị té bật ngửa nên cái đầu đập mạnh xuống đất. Cái đầu của mình có khoang trống. Nó cũng như cái thau có chứa nước ở trong đó, cô biết hông?
Dì Sáu ngớ người ra mấy giây rồi từ từ gật đầu.
Thầy hỏi thêm:
-Cô đang bưng thau nước trong tay rồi khi không mà để thiệt mạnh xuống, cô thấy nước trong thau có dợn sóng rồi vài ba giọt bắn ra ngoài hông?
Dì Sáu lại gật đầu.
Thầy lại hỏi:
-Cái nước còn trong thau, cô thấy nó có đứng im liền hông?
Dì Sáu lắc đầu.
Thầy Bảy cắt nghĩa tiếp:
-Bây giờ cái nước trong đầu của cô cũng y như vậy. Nó chưa có chịu nằm yên đâu! Còn chao qua chao lại lung tung trong đó, đã đời rồi mới chịu dừng! Mỗi lần cô thay đổi tư thế, như đang ngồi mà nằm xuống là bị chóng mặt liền, tưởng như sắp té mà không có phải.
Rồi thầy biểu:
-Đâu cô nghiêng thử cái đầu qua một bên coi!
Dì Sáu làm theo, dì lại la bài hải, kêu tên và chụp lấy thầy.
Thầy Bảy liền ôm dì rồi nói:
-Có tui đây nè, hổng có sao đâu?
Thầy nói tiếp:
-Cũng may mà cô té trên đất bằng phẳng, nếu trên đá cứng hay bị cái gì nhọn nhọn đập vô đầu, dám hui nhị tì lắm đó!
Thầy bắt đầu khai thác lợi thế của mình, chưa chịu buông dì Sáu ra mà hỏi:
-Cô biết tại sao mà khi cô chóng mặt, có người khác vịn vào là cảm thấy bớt liền hông?
Dì Sáu ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu:
-Cái đó gọi là tâm lý! Cô biết có người sẽ đỡ mình nên vững bụng, bớt nghe lảo đảo liền. Chớ nếu không có ai là cô cố gắng giữ thăng bằng rồi dám té sặc máu nữa chớ hổng chơi!
Dì Sáu nghe vậy thì xanh cả mặt rồi không dám xô thầy ra liền. Để giữ thể diện, thầy không chờ dì lên tiếng, tự mình buông tay, đứng lên.
Thầy dặn dò thêm:
-Bắt đầu từ bây giờ, khi chưa lấy lại bình thường, cô đi đâu cũng phải có người kèm. Đêm ngày gì cũng phải có người ở chung, ở một mình là nguy hiểm lắm đó!
Dì Sáu thở dài, hỏi:
-Cái vụ nầy chừng nào mới hết vậy anh Bảy?
Thầy Bảy đáp:
-Nhanh chậm tùy theo té nặng hay nhẹ, có bị thương, bầm giập nhiều hông.
Chợt nhớ ra, thầy nói thêm:
-Cô khoan có xuống sông, hay đi cầu cá nghen.
Dì Sáu hết hồn:
-Vậy thì làm sao?
Thầy Bảy đáp:
-Thì kêu con cái nó xách nước lên nhà mà tắm. Đi vô bô cho nó đem đổ.
Di Sáu chắt lưỡi không nói. Thầy Bảy nhìn cô rồi nói, giọng hết sức nghiêm túc:
-Cô sợ tụi nó mắc công, thì để tui làm giùm cho!
Khi thím Chín bưng chén cháo qua cho dì Sáu, thím cảm thấy không khí trong phòng như có cái chất gì ngộ lắm! Vốn là người nhạy bén, thím không đút cho dì Sáu mà đưa chén cháo cho thầy Bảy.
Thím nói:
-Anh Bảy cho chỉ ăn cháo giùm nghen! Tui còn phải lo nấu cơm chiều nữa.
Thầy Bảy sốt sắng:
-Chị cứ đưa đây, tui làm cho, về nấu cơm liền đi.
Dì Sáu thì nhắm mắt khít rịt, giả bộ ngủ.
Thím Chín vừa leo lên thang vừa cười ngỏn nghẽn.
Chú Chín hỏi:
-Mắc gì mà bà vừa đi vừa cười vậy?
Thím hỏi lại:
-Đố ông tui mới vừa thấy chuyện gì?
Rồi không chờ chú Chín trả lời, thím kề tai chú nói thiệt là nhỏ:
-Chị Sáu coi bộ chịu đèn ông thầy Bảy rồi!
Chú Chín cũng cười với vợ nhưng không tỏ vẻ ngạc nhiên lắm, làm thím Chín hơi cụt hứng. Vốn là người tánh tình mau mắn, thích cái gì là làm rụp rụp liền, nên thím Chín nghe nôn nao trong lòng quá mạng!
Thím nói:
-Hổng chừng cái đám nầy còn trước cái đám của thằng Phục nữa đó.
Chú Chín thực tế hơn, hỏi lại:
-Tới chừng đó ai lo nuôi đẻ cho bà?
Thím Chín gạt phắt:
-Hổng người nầy thì người khác, lo gì? Em, cháu tui cả đống, hô lên một tiếng là tụi nó chạy tới làm rụp rụp liền, tại tui chưa biểu đó thôi!
Thím nói một cách quả quyết:
-Miễn chỉ hết cực, hết khổ là tui mừng rồi.
Rồi nói tiếp, giọng mơ màng:
-Vậy là từ nay chị Sáu nở mặt, nở mày với bà con lối xóm biết bao nhiêu mà nói. Được ở nhà đúc, ngồi xe hon đa, chồng còn làm bác sĩ nữa chớ!
Chú Chín lật đật thắng bớt lại:
-Ảnh mới làm y tá thôi bà ơi!
Rồi chú nhắc thím:
-Thằng con ổng nghe nói làm biếng lắm! Không lo làm ăn gì hết, cả ngày chỉ nằm võng đưa cọt kẹt, đi lòng vòng trong vườn rồi nói lảm nhảm như khùng. Cái nhà thì lớn mà bầy hầy hết chỗ nói. Hổng chừng ông thầy Bảy thấy chỉ siêng năng, đảm đang, kỹ lưỡng nên mới theo đuổi đó chớ!
Thím Chín cự lại:
-Vậy sao ổng hổng chọn cô Út Ngọt sát bên nhà. Cổ đâu có thua chị Sáu chỗ nào, lại còn son rỗi nữa, không có con cái lòng thòng như chỉ.
Chú Chín gạt ngang:
-Cổ đâu có ngộ bằng chị Sáu. Ảnh mà chịu là cưới từ ba mươi đời vương rồi. Lúc vợ ảnh mới mất, ông bà Tám Ngon đã kêu gã liền tay rồi đó chớ!


Buổi chiều bà con về nhà đầy đủ, cái tin dì Sáu bịnh nặng đã lan đi khắp xóm.
Mợ Ba là người đầu tiên lật đật chạy tới thăm. Không biết Hai Sớm, con trai mợ, người có công đi rước thầy Bảy, phóng đại tới mức nào mà vừa bước vào nhà là mợ Ba vừa khóc vừa hỏi:
-Làm sao mà tới nổi nầy vậy chị Sáu? Tội ...
Thím Chín đang ngồi trên giường, dưới chưn dì Sáu, thay cho thầy Bảy vừa về vì có người đến rước đi chửa một ca gì đó. Thấy mợ Ba bù lu, bù loa, thím liền lắc đầu, ngầm biểu để yên cho dì Sáu ngủ.
Thực ra dì Sáu đâu có ngủ, dì nhắm mắt để khỏi bị thím Chín chọc nghẹo, vặn hỏi về thầy Bảy đó thôi!
Mợ Ba thấy thím ra dấu liền ngưng ngang một cái rụp, y như cây đờn đứt dây.
Mợ hỏi, giọng nhỏ xíu:
-Chỉ ra làm sao rồi?
Thím Chín thấy gương mặt của mở hết sức lo lắng, bèn sửa cái giọng trầm trọng cho phù hợp:
-Nặng lắm! Ông thầy Bảy biểu phải có người ở suốt ngày suốt đêm với chỉ, canh không cho nhúng nhích cục kịch gì hết, tiêu tiểu tại giường luôn!
Mợ Ba thất sắc:
-Nặng dữ vậy sao chị? Có biết tại sao mà chỉ té hông?
Thím Chín ra dấu bằng tay cho mợ Ba đi ra ngoài theo mình. Họ đi khuất tầm nhìn, tầm nghe của dì Sáu rồi thím mới nói, giọng vẫn nhỏ xíu:
-Cũng tại cái vụ đám cưới của thằng Phục đó! Chỉ lo thôi là lo, gồng quá mức nên mới bức gân một cái bực. Cái thân ốm nhom như cây tre miễu mà vác nguyên một cây chuối nặng ì. Vừa để xuống là té bật ngửa liền. Cũng may chỗ đó đất bằng, chỉ hổng có đứng quay lưng về phía lu nước nên mới còn giữ được cái mạng đó!
Mợ Ba hỏi:
-Bây giờ chỉ đỡ chưa?
Thím Chín nói:
-Tui cũng hổng biết! Nghe ông thầy Bảy nói sao tui lo quá! Cái gì mà ngồi dậy từ từ, nhứt là nằm xuống phải có người vịn sau lưng y như con nít còn ẵm ngửa vậy đó!
Mợ Ba nói:
-Tui có người bà con leo cây bẻ dừa, y té đập đầu xuống đất rồi đi chầu diêm vương luôn đó chị. Chỉ còn sống chắc hổng sao, nếu chết là chết liền rồi.
Thím Chín cự lại:
-Bộ chị hổng nhớ ông Tám Vó xóm chợ hả? Ổng bị xe quẹt, té trúng đầu rồi đứng lên tỉnh rụi, đi làm đồng như thường. Cái rồi mấy ngày sau, đang cầm cây cuốc đưa lên chưa kịp bổ xuống thì té nhào. Mấy đứa con lật đật chở đi nhà thương, bác sĩ cả đống mà hổng ai cứu được. Họ nói tại ổng té bị giập mạch máu. Cái cục máu bầm nó chận không cho máu chạy vô đầu, cái óc không được nuôi nên chết!
Mợ Ba thở dài:
-Bởi vậy, ba cái chuyện nầy khó nói lắm!
Thím Chín muốn trút hết trách nhiệm lên nhà dì hai Trắng nên bịa :
-Cái thân mình chưa biết sống chết lúc nào mà chỉ hổng chịu lo. Mới hơi tỉnh tỉnh là rầu, sợ chết bất đắc kỳ tử, rồi cái đám cưới phải hoãn lại ba năm cho tới mãn tang. Để lâu e hư bột hư đường...
Mợ Ba lại sụt sùi:
-Bên con Tím biết chưa? Có ai tới hông?
Thím Chín lắc đầu:
-Thằng Phục với con Nhạn còn chưa hay nữa là...
Mợ Ba ngạc nhiên:
-Hai anh em nó đi đâu?
Thím Chín đáp:
-Tụi nó đi mua tre tuốt ở bên Hòa Lạc á!
Mợ Ba hỏi:
-Tre xóm mình cả đống, mắc gì phải đi xa dữ vậy?
Thím Chín nói:
-Nghe nói ở bển nhiều hơn, bán rẻ hơn! Còn có cái ông thợ nào đó, đương lộp giỏi mà có tay sát tôm, sát cá dữ lắm! Hai anh em nó mượn cái xuồng của tui rồi bơi từ sáng, tới giờ chưa thấy về.
Mợ Ba chắt lưỡi:
-Tội nghiệp dữ quá! Đây rồi về nhà thấy má nó như vậy chắc hai anh em khóc mù trời...
Rồi mợ nói:
-Để tui lên cho chị Hai với con Tím hay liền mới được, dù gì cũng... Thôi chị vô với chỉ đi, tui về liền đây!
Mợ Ba vừa đặt chưn vô nhà là kêu Sớm chở mình đi lên nhà bà chị liền.
Đang đói bụng, cơm dọn mà chưa được ăn nên Sớm bực bội.
Cậu ta vừa đạp ào ào cho cái máy nổ, vừa trách:
-Tại dì Hai đòi hỏi đủ thứ nên...
Mợ Ba nạt ngang:
-Mầy biết cái gì mà nói?
Sớm cự:
-Sao má biết tui hổng biết? Cả xóm người ta đồn rần rần kìa. Họ còn nói vái cho thằng Phục nó bỏ ngang cho nhà dì Hai biết mặt.
Mợ Ba than:
-Chắc tại tao hổng có tay làm mai nên cái vụ nầy coi bộ rắc rối quá chèng, quá đéc. Còn hơn vãi chài bị mắc gốc, hổng biết phải gỡ làm sao cho gọn!
Mợ cằn nhằn tiếp:
-Mới ăn có mức dừa mà cực trần thân. Nghĩ mà giận con mẹ Chín Nho hết biết! Tại bả cứ đeo năn nỉ hoài, hết khen bên nầy rồi khen bên kia, bởi vậy...
Tới nhà dì Hai, mợ không thèm đáp lời chào của mấy đứa cháu mà hỏi lại:
-Má tụi bây đâu rồi?
Vàng chỉ tay ra sau hè:
-Má con đi ra đồng rồi?
Mợ hỏi:
-Chạng vạng còn ra đó làm chi, bộ hổng sợ âm binh rủ rê sao? Sao hổng chờ tới tối rồi đi xuống sông?
Vàng cười:
-Cái chuyện nầy đâu có chờ được.
Thấy mợ đi xâm xâm ra đồng, Vàng hỏi:
-Bộ dì cũng mắc...
Mợ Ba gạt ngang:
-Tao ra kiếm chỉ
Mợ xăng xái quá nên Tím sinh nghi.
Cô hỏi Sớm:
-Có chuyện gì mà dì Út coi bộ gấp gáp quá vậy?
Sớm đáp, nhấn mạnh từng chữ:
-Má ông Phục té gần chết kìa. Bộ chị hổng biết gì sao?
Tím hớt hải:
-Làm sao mà té? Bộ nặng lắm hả?
Sớm hỏi lại:
-Hổng nặng mà nằm chết giấc à? Hồi sáng chính tui đi rước ông thầy Bảy chích chớ ai. Ổng cấp cứu tới ba, bốn tiếng đồng hồ. Có người rước mới chịu bỏ đi đó!
Tím năn nỉ:
-Chở chị tới nhà dì Sáu liền đi Sớm!
Sớm thấy Tím sợ quýnh, sợ quáng thì tội nghiệp nên đập tay lên cái yên xe, ra dấu mời Tím leo lên ngồi. Tím ngồi bỏ hai chưn qua một bên, không ôm eo Sớm mà nắm cái yên cứng ngắt.
Sớm quay lại nói:
-Kềm cho chắt nghe hông, đường dằn dữ lắm đó!
Thím Chín thấy Tím bước vô thì ngạc nhiên quá cỡ, thím hỏi:
-Má con đâu?
Thím cúi mặt đáp:
-Con nóng ruột nên đi trước, má con một lát tới sau.
Rồi bước lại giường định cầm tay dì Sáu. Thím Chín ngăn lại, nói:
-Để chị ngủ cho khỏe. Con muốn giúp thì ra nấu giùm ba hột cơm. Thằng Phục với con Nhạn, tụi nó đi mua tre chắc cũng sắp về tới rồi.
Tím "dạ" rồi đi liền ra sau bếp. Cái bếp của dì Sáu tuy nhỏ nhưng sạch và gọn gàng hổng chỗ chê. Tuy cũng nấu củi như mọi người nhưng mấy cái nồi được chùi sáng bóng, chỉ có cái chảo vòng là đen thui thôi.
Tím mở nắp hai cái nồi trên bếp lò nhìn vào, thấy một cái đựng cơm còn một cái chứa canh khoai ngọt.
Cô trở vô buồng hỏi thím Chín:
-Dì Sáu ăn cơm được hông thím Chín? Hay là để con nấu cháo...
Thím Chín gạt ngang:
-Thím có nấu cho chỉ một nồi cháo cá lóc chưa kịp bưng qua. Con cá hơi bự nên cái nồi cháo bành ky, ăn tới mai cũng chưa chắc hết! Con nấu cơm thôi!
Tím vét cơm nguội ra tô, mở nắp một trong mấy cái khạp da bò sắp một hàng sát vách, trúng phóc lu gạo. Cô tính nhẩm, ước lượng mỗi người chắc ăn chừng ba chén cơm, xấp xỉ một lon gạo, nên xúc hai lon sữa bò đầy vun, đậy nắp lu xong lại mở ra xúc thêm một phần tư lon nữa.
Nhìn cái kệ chứa đồ gia vị của nhà dì Sáu mà Tím nghe thương quá! Chỉ có muối và nước mắm là nhiều còn tiêu, đường, bột ngọt, dầu, mỡ... không thấy miếng nào. Chắc ăn tới đâu mới mua tới đó.
Thím Chín không ngồi trong buồng mà đi ra dòm coi Tím làm ăn ra sao. Thấy cô vo gạo rồi chắt nước ra thau chừa lại thì khen thầm trong bụng: "Con nhỏ nầy coi bộ biết tiết kiệm, hợp với chị Sáu à nghen!".
Tím nhóm lửa rồi bắc nồi cơm lên, quay lại thấy thím Chín nhìn mình, cô nói:
-Con gởi thím ngó giùm nồi cơm, con chạy ra tiệm tạp hóa một chút.
Thím Chín hỏi:
-Cái tiệm của cô Năm sát một bên, con biết chưa?
Tím đáp:
-Dạ biết!
Rồi đi ngay lập tức .
Thím Chín cũng đi ra cửa, đứng nhìn theo cho tới khi Tím rẻ trúng phóc mới yên tâm trở vô, kéo cái ghế thấp ngồi thấp chũm lại trước mặt ông táo rồi ngồi xuống.
Lát sau Tím về, xách theo lủ khủ nào là dầu ăn, đường, bột ngọt, hai cái trứng vịt, và một cái gói không biết bên trong đựng thứ gì vì bị tấm giấy nhựt trình bọc kín mít .
Thím Chín lại ưng bụng thêm một chút. Thím chắc lưỡi nhủ thầm:
-"Có con gái ý tứ, khôn khéo như vầy hèn gì chị Hai hổng kêu giá cao sao được? Phải con Nhu của mình được phân nửa nó cũng đỡ!"
Cơm sôi, Tím sang lửa qua cái bếp bên cạnh rồi bắc cái chảo lên. Mở gói giấy nhựt trình trút đậu phọng vô rang để làm cái món đậu phọng tẩm muối cho Nhạn, rồi đập luôn hai cái trứng vịt ra kho.
Ngồi trong buồng, ngửi mùi thức ăn bay vào, thím Chín trầm trồ:
-Con nhỏ nầy con bộ biết nấu ăn à nghen!

Khi Phục và Nhạn cặp xuồng vào bến. Mợ Tư Đờn, dì Hai Phích cùng bầy con đang tắm liền nhao nhao:
-Về rồi kìa! Về rồi kìa!
Dì Hai và Mợ Tư nói một lượt, tiếng người nầy chồng lên tiếng người kia:
-Tụi bây lên nhà lẹ đi! ...Chị Sáu té chết giấc từ trưa tới giờ.
Nhạn ngồi phía mũi xuồng, đang cầm sợi dây lòi tói tính quàng vô cây cột cầu, nghe nói vậy thì bỏ liền xuống, phóng cái ào lên bờ rồi chạy thục mạng.
Nhạn chạy ngang qua nhà cô Năm, cô Năm nãy giờ ở trong nhà mà hai con mắt cứ ngó chừng xuống bến, thấy Nhạn chạy vút qua thì gọi vói:
-Nhớ nhắc chị Sáu...
Không kịp dừng lại để nghe cổ biểu nhắc má mình chuyện gì, Nhạn "dạ" rồi cứ chạy thục mạng. Phục chạy ngay sau lưng cô nên hứng được nửa câu cuối:
-Uống sữa...
Chàng ta cũng "dạ" rồi cắm đầu đuổi theo Nhạn.
Trong bếp vắng tanh nhưng có tiếng lao xao phát ra từ buồng ngủ.
Nhạn xông vào buồng liền, cô thấy dì Hai Trắng đang đút cháo cho má mình. Dì Sáu không ngồi lên để ăn mà kê đầu lên hai cái gối, cổ lót cái khăn mù xoa...Bộ dạng giống như mấy đứa con nít mới tập ăn, bị bắt đeo cái xây để hứng cho bột không rơi vào áo vậy!
Nhạn ngỡ dì Sáu bị liệt nên khóc hu hu:
-Má ơi! Má có sao hông má!
Phục cũng chạy trờ tới, đứng chết trân mà không nói được tiếng nào. Dì Sáu thấy hai anh em họ mặt xanh lè không còn một hột máu, liền nuốt cái ọt cho miếng cháo chui xuống bụng rồi nói:
-Má hổng sao, rêm mình chút đỉnh thôi hà! Làm gì mà khóc dữ vậy?
Rồi dì rầy họ:
-Tụi con gặp dì Hai sao lấy con mắt ngó, hổng chào hỏi gì hết, coi mất lịch sự quá!
Dì Hai xua tay:
-Tụi nó thấy chị nằm mà ăn là sợ gần chết, còn hồn vía nào mà để ý tới tui? Tui hổng có trách đâu, chị đừng có lo.
Dì Sáu lại nói với Nhạn:
-Hồi nãy má nghe hai con heo nó la dữ quá! Chắc chị Tím con đang cho tụi nó ăn, con đi riết ra ngoài chuồng coi phụ chị con đi!
Nhạn nghe dì nói chuyện rành rẻ thì đỡ lo, còn muốn ở lại thêm chút nữa mà hổng dám. Cô riu ríu nghe lời, sắp cái lưng trở ngược mà bước ra .
Tím đang vịn cái máng để hai con heo không hất đổ, thấy Nhạn ra thì hỏi:
-Em về rồi đó hả?
Nhạn hỏi:
-Chị tới lúc má mới té hả?
Tím lắc đầu:
-Chị đâu có hay mà tới liền. Em với anh Phục sao đi lâu dữ vậy?
Nhạn đáp:
-Tại anh Hai ảnh nôn, muốn rồi trong ngày nên ở lại phụ ông thợ.
Tím hỏi:
-Xong chưa?
Nhạn gật đầu:
-Đáng lẽ phải chờ cả tuần lễ lận, nhưng ổng đưa cho mình mấy cái làm rồi, còn tre của mình thì chưa đụng tới.
Tím ngạc nhiên:
-Vậy tại sao mà trễ dữ vậy?
Nhạn đáp:
-Ổng ra điều kiện mình phải ở lại làm đổi công với ổng. Em với anh Hai ngồi vót một bó tre bự như vầy nè.
Nhạn vừa vòng hai cánh tay lại thành một vòng tròn để diễn tả cái độ lớn của bó tre, vừa nói tiếp:
-Hai anh em làm từ sáng tới giờ chưa có hột cơm nào trong bụng hết!
Tím ngạc nhiên:
-Bộ vợ con ông thầy hổng có nấu cơm rồi kêu ăn chung luôn sao?
Nhạn lắc đầu:
-Ổng ở có mình ên hà chị ơi. Thấy tội nghiệp lắm! Nước trà còn hổng có mà uống nữa. Buổi trưa ổng rủ tụi em đi theo ăn đám giỗ bên sông mà em với anh Hai hổng chịu. Ổng đi đám giỗ hết nửa ngày trời. Hai anh em vót hết bó tre ổng mới về tới. Thấy tụi em làm được việc quá ổng ưng bụng lắm! Đưa cho ba cái lộp mà hổng lấy một xu tiền công gì ráo.
Nuốt nước miếng một cái, cô nói tiếp:
-Ổng còn biểu tụi em lội xuống cái vũng sau nhà để bắt cua.
Tím ngạc nhiên:
-Chi vậy?
Nhạn cắt nghĩa:
-Ổng nói muốn cho con tôm chui vô lộp phải đập cua bỏ vô. Mấy con tôm nó khoái cua lắm, nghe cái mùi nầy thì ở đâu cũng tìm tới.
Tím nói:
-Để chị coi cho heo ăn, em vô dọn cơm đi. Hai anh em chắc đói dữ lắm rồi! Hổng khéo lại ngã ra xỉu cái rầm như má nữa đó!
Nhạn nghe Tím gọi mà mình bằng má thì mừng lắm ! Cô vốn thương Tím như chị ruột, cứ trông cho tới ngày được ở chung một nhà.
Vừa bỏ giò đi thì bị Tím kêu giựt ngược:
-Hay là em đi tắm trước đi. Hai con heo ăn gần xong rồi, để cơm đó chị dọn cho.
Nhạn ngoan ngoãn đáp:
-Dạ.
Nhạn xuống cái bến ngay trước nhà, bến nầy dành cho đàn bà và tụi con nít tắm, liếc qua thấy Phục đang tắm ở cái bến đầu trên là chỗ của đàn ông.
Cô nghĩ thầm:
-Chắc anh Hai muốn né mặt bà già vợ nên không ngồi lại với má mà bỏ đi tắm.
Nhạn lên nhà sau Phục một đổi. Cô đi ra cửa sau để vào nhà, thấy Tím đang lui cui dọn cơm, còn Phục thì lau bộ giạt ngoài sân. Họ sẽ ngồi ăn cơm ở đó để tận dụng cái ánh sáng vằng vặt của con trăng mười sáu.
Cô đi thẳng vô buồng. Dì Hai không còn ở đó, nhưng bù lại, thím Chín, mợ Hai Thọ và dì Sáu Lữ đang chuyện trò rôm rả. Nhạn lắng tai nghe, giọng thím Chín đang hết sức sôi nổi:
-Để tui, để tui làm cái món nem cho. Cái món nầy là phải lựa bưởi dữ lắm nghe! Hổng cần ruột, nhưng trái bưởi phải già với lại vỏ dày, nó mới dai như thịt.
Mợ Hai Thọ nói lấy lòng thím Chín:
-Chị Chín mà làm nem chay thì khỏi nói! Ăn y hệt như nem thịt, hổng khác chút nào!
Dì Sáu Lữ hỏi:
-Sao tự nhiên mà bà Hai Trắng, má con Tím dễ dữ thần vậy? Cho làm hai đám nhập một còn nói đãi chay cho đỡ tốn nữa?
Thím Chín hạ giọng nhắc dì Sáu:
-Chị nói nhỏ nhỏ, con Tím đang ở trong bếp đó! Nó mà nghe được hổng hay. Chắc chỉ thấy chị Sáu gặp hoạn nạn nên tội nghiệp, mới giảm giá hết mức đó!
Dì Sáu phản đối:
-Chớ hổng phải bả sợ thằng Phục phá ngang hổng cưới, hay sợ chị Sáu có bề gì là chờ cho tới cóc mọc râu, con Tím chưa xong thì mấy đứa kia cũng mắc kẹt.
Rồi dì lại chép miệng:
-Hồi nào tới giờ tui chưa thấy có ai làm đám cưới ngay rằm, còn rằm lớn mới ác!
Thím Chín lại lên tiếng bênh vực:
-Thì ngày rằm là tốt nhứt hạng! Ngày của Phật mà làm cái gì hổng được!
Mợ Hai Thọ nói:
-Còn chừng một tháng hà, liệu có kịp hông?
Thím Chín gật đầu:
-Kịp, chắc chắn kịp, chén bát, bàn ghế có sẵn. Hô lên một tiếng là tụi nhỏ nó đi mượn, đi khiêng đem về cấp kỳ. Đâu có đãi mặn mà chờ heo lớn!
Thím chép miệng, nói tiếp:
-Uổng công chỉ nuôi hai con heo...
Mợ Hai chụp liền:
-Dẹp hai con heo luôn đi cho bớt công, bớt chuyện! Hay là để tui mua lại, đem về thả chung vô bầy heo của tui cho chỉ khỏi phải đi đốn chuối, xắt chuối, quyết chuối...
Dì Sáu nằm im ru. Đáng lẽ dì phải đóng vai chánh trong cái vụ nầy, vậy mà bị bỏ qua một cách oan ức. Không biết là tại giận hay tủi thân mà dì rưng rưng nước mắt.

Mấy lúc sau này mâm cơm của bà con thiếu bớt chất đạm. Con sông bị bạc đãi quá nên đâm giận. Nó không còn cung cấp thừa mứa sản vật như xưa nữa. Phương pháp dùng chất nổ, chích điện để đánh bắt khiến khiến binh tôm, tướng cá của hà bá, bà thủy chết hàng loạt.
Thời thế tạo anh hùng! Có một "thứ" ngày càng lên ngôi trong bếp bà con.
Nó được lòng hết thảy mọi người trong xóm, được họ tôn thờ vì tăng thêm vị thịt cho các món ăn. Nó là những hạt màu trắng trong suốt, nhỏ xíu, chỉ to gấp hai lần hột đường cát nhuyễn. Chúng không có mùi, khi cho vào miệng thì nghe lạnh lạnh, tanh tanh, vậy mà có sức hấp dẫn diệu kỳ, chẳng ai có thể cưỡng lại. Bà con miền tây có lẽ khoái và trân trọng mấy món ngọt ghê lắm nên gọi chúng là "bột ngọt".
Để khẳng định điều đó, xin dẫn chứng một trường hợp:
Từ ngày nghe tin Thụ có vợ con và gia đình cậu mợ Hai Thọ lấy đó làm điều hãnh diện, mang hình đi khoe khắp xóm thì thím Chín hết sức là bất mãn.
Thím mạnh dạn gửi trả lại hai chai dầu xanh, nói là nhà mình ai cũng kỵ cái mùi nầy. Kể ra đó là một hành động hết sức can trường vì lúc đó chai dầu có cái nước màu xanh, mang cái nhãn màu vàng có hình con ó xòe rộng hai cái cánh, đang là "niềm mơ ước của người".
Mợ Hai luôn mang mặc cảm có tội với gia đình chú Chín nói chung, thím Chín nói riêng, nên quyết tâm chuộc lỗi. Mợ không muốn cắt đứt sợi dây thiêng liêng nối liền mợ với bé Nhân, thằng nhỏ mà mợ cho là máu mủ của mình nên tìm mọi cách lấy lòng thím Chín.
Trước ngày cưới của Phục đâu một tuần lễ, mợ mang tặng dì Sáu Dọ một bịt bột ngọt to gần nửa ký.
Món quà đó quá lớn lao, quá cần thiết, quá bất ngờ khiến dì Sáu chới với. Dì không dám nhận vì biết chẳng có lý do gì để mợ Hai ưu ái mình tới mức đó, ngoài việc dùng nó để vuốt giận thím Chín. Dù cương quyết không để bị mua chuộc, nhưng mợ Hai năn nỉ ỉ ôi quá tha thiết khiến dì Sáu phải xiêu lòng.
Để không mang tiếng là "bán đứng" bạn bè. Dì Sáu đem chuyện đó ra nói với thím Chín:
-Khi khổng, khi không mà chị Hai Thọ đem cho tui một bịch bột ngọt bự bành ky, trả hoài mà bả nhứt định không chịu cầm. Tui phải làm sao bây giờ hả chị Chín?
Thím Chín nghe mát ruột lắm! Cho dù chính mình được tặng cũng chẳng đủ can đảm mà từ chối, nói gì đến chuyện xúi dì Sáu trả lại.
Dù biết cái người mà mợ Hai Thọ muốn nhắm tới là mình, thím vẫn làm bộ nói:
-Chắc bả thương chị đó! Hổng chừng thấy con Nhạn xinh đẹp, giỏi giang lại có hiếu nên ngấp nghé nó cho thằng cháu ngoại của bả lắm!
Chẳng là người con gái lớn của mợ Hai Thọ, có đứa con trai đầu lòng sắp xỉ tuổi Nhạn.
Rồi thím chép miệng:
-Nhà họ giàu mà, một gói bột ngọt có thấm tháp gì? Chị nhận cho bả vui đi.
Biết tỏng rồi mà Thím vẫn chơi theo kiểu "bá đạo", tỉnh bơ xài mà không thèm hỏi đến xuất xứ của nó, không tỏ ra một chút quan tâm nào.
Thím còn dặn dì Sáu:
-Chị cứ việc xài, có điều trước mặt tui với bả, chị đừng có nhắc tới cái tiếng bột ngọt, bột mặn gì hết nghe hông?
Dì Sáu liền gật đầu, tuân theo rụp rụp.
Nhờ có nguồn "tài nguyên" chan chứa đó mà mấy món thịt heo quay chay, thịt nướng chay, chả giò chay, vịt tiềm chay, gỏi chay, nem chay... của thím trong bữa tiệc cưới của Phục và Tím, tràn trề vị thịt khiến bà con ngon miệng, hài lòng quá xá! Họ ca ngợi hết lời khiến cái mũi của thím Chín nở to bằng trái cà gió.
Thế nhưng cái món để đời trong bữa tiệc đó, lại không dính líu chút gì tới bột ngọt. Đó chính là cái nồi kiểm "vô tiền, khoáng hậu " của thím Chín!
Sở dĩ nồi kiểm ấy được ca tụng là "thiên hạ đệ nhứt kiểm" như vậy là có lý do: Chú Chín ghét ăn chay nhứt hạng. Chỉ có một điều an ủi ổng trong những ngày đau khổ đó là cái món kiểm, mà phải do thím nấu. Thím Chín có óc cầu tiến lại thương chồng nên mỗi ngày mỗi ráng nâng cao tay nghề. Thím thành công cho đến nỗi những ngày mười bốn, mười lăm, hăm chín, ba mươi, mùng một... âm lịch, bỗng được chú mong đợi hết lòng!
Hôm nấu đám, vì thiên vị chồng nên thím Chín tập trung hết nội lực để đánh vào món kiểm. Nồi kiểm của thím còn nguyên trong bếp mà mùi thơm đã bay ngào ngạt khiến bà con nức lòng. Tô kiểm to được đặt ngay tâm của cái bàn tròn, chỉ cần nhìn thôi đã thấy đáng đồng tiền, bát gạo rồi. Nó giúp thực khách khoan khoái chẳng khác gì đang ngắm một cánh đồng hoa thu nhỏ đủ màu sắc, có điều không mọc trên nền đất nâu hay cỏ xanh mà trên nền tuyết trắng tinh, màu của nước cốt dừa.
Trên cái nền béo bở, màu mỡ ấy mít và khoai lang bí là những đóa hoa cúc dại mọc rải rác, những trái táo tàu mang màu đỏ của những cánh hoa hồng, cà tím là bông rau muống, nấm mèo là màu của một loại hoa họ đậu... Những hạt đậu phọng được bóc vỏ là những cô ong, chú bướm non vừa nở, còn chưa có áo màu để mặc. Những lát mướp, sợi tàu hủ ky và bột khoai là vô số cành lá điểm xuyết, giúp vừa ngon thêm mắt vừa ngon thêm miệng.
Chưa hết, một chén tương xào xả ớt khiêm nhường đứng cạnh. Nó bổ xung những màu sắc, mùi vị mà tô kiểm còn thiếu, cả hai phối hợp hết sức ăn ý, cùng giúp nhau nâng cao giá trị, nhờ vậy mà thành quả của thím Chín bỗng vọt lên cao chót vót.
Trước đám cưới mươi bữa, thím Chín lo cái gì hổng biết mà gương mặt cứ rầu rầu.
Chú Chín hỏi vợ:
-Bà nhắm có làm nổi hông, hay là kêu con Nhu nó nghĩ dạy một bữa mà thay bà.
Thím Chín lắc đầu:
-Chỉ đãi ít xịt, chưa tới mười bàn thì nhầm nhò gì. Tui lo chuyện khác kìa.
Chú Chín hỏi:
-Bà lo chuyện gì? Đâu nói ra nghe thử biết đâu tui tính giùm được.
Thím Chín chép miệng:
-Nghe thầy Bảy nói cái bịnh của chỉ muốn té lúc nào là té, tui sợ quá! Đâu ông hỏi thẩy coi có thuốc gì thiệt hay, thiệt tốt cho chị xài, cho nó lặn mất tiêu đặng tui yên cái bụng coi!
Chú Chín bèn đón đầu khi thầy Bảy vừa thắng xe cái "ét" trước nhà dì Sáu. Lúc sau nầy mỗi ngày ổng đều ghé thăm bịnh cho dì Sáu, mỗi lần cà rà cả mấy tiếng đồng hồ.
Chú Chín hỏi:
-Anh có hưỡn hông, vô ngồi uống hớp nước với tui nghen?
Biết chú Chín mời mình vô nhà là có chuyện nói. Thầy Bảy xách cặp đi theo liền.
Không chờ thẩy bưng ly trà mình vừa rót mời lên uống, chú Chín hỏi liền:
-Anh nhắm chị Sáu có đi rước dâu rồi đứng tiếp bà con nổi hông. Má con Nhu biểu tui hỏi ông coi có cái ống thuốc nào thiệt tốt, chích cho chị Sáu một mũi đặng chỉ có đủ sức mà đi sân sẩn. Bả sợ hổng khéo bữa đó chỉ ngã một cái rầm là ngặt dữ lắm à nghen!
Thầy Bảy cười tủm tỉm, con mắt giựt giựt mấy cái rồi nói:
-Anh nói chỉ đừng có lo, hổm rày ngày nào tui cũng vô thuốc cho cổ đều đều. Bây giờ cổ chỉ còn hơi chóng mặt khi đứng lên hay ngồi xuống bất thần thôi hà!
Chú Chín cũng cười phụ họa:
-Tui cũng biết tay nghề anh cao lắm! Ba cái bịnh nầy nhầm nhò gì, nhưng mà cũng phải hỏi cho bả vừa bụng. Chuyện nầy làm bả hổm rày ăn ngủ hổng yên.
Rồi chú hỏi tiếp:
-Bữa đó anh có đi rước dâu hông?
Thầy Bảy gật đầu:
-Có chớ sao không? Hổng có tui rủi cổ xỉu bất tử thì làm sao?
Chú Chín vỗ vai thầy Bảy:
-Bà nhà tui mà biết chắc là bả mừng lắm! Mang ơn anh dữ lắm à nghen!
Thầy Bảy cười:
-Còn tui thì mang ơn cây chuối của chỉ .
Chú Chín hiểu ra cái ý của thầy Bảy nên cứ vỗ tay bồm bộp lên lưng ổng mà cười hềnh hệch.


Thầy Bảy vừa bước vào nhà là bị dì Sáu hỏi liền:
-Anh Chín kêu lại hỏi chuyện gì vậy?
Giong dì đượm vẻ lo lắng nên thầy vội trấn an:
-Ba cái chuyện đau nhức lặt vặt của ổng đó mà!
Nhìn cái rỗ đựng đồ may với vô số những mảnh vải vụn đủ màu hình lục giác thầy hỏi:
-Sáu kết mấy miếng vải nhỏ nầy để chi vậy?
Dì Sáu nói:
-Ráp lại làm cái mền để đắp, ở không hoài nghe còn muốn bịnh thêm.
Thầy Bảy hỏi:
-Bữa nay còn chóng mặt hông?
Dì trả lời:
-Dứt tiệt rồi, chắc ngày mai khỏi chích được rồi đó!
Thầy Bảy vẫn mở túi đồ nghề lấy cái ống chích ra, ổng lắc đầu:
-Ba cái thuốc nầy bổ gân cốt, thần kinh, máu huyết... Chích càng nhiều càng tốt chớ đâu có sao!
Dì Sáu hỏi, giọng e dè:
-Chắc nó mắc lắm hả? Một ống tới cả chục đồng lận, đúng hông?
Thầy Bảy cười:
-Thuốc bổ rẻ rề hà, có phải trụ sinh đâu mà mắc?
Rồi thầy biểu dì:
-Đâu bữa nay tự nằm xuống một mình coi có xây xẩm nữa hông!
Dì Sáu từ từ nghiêng người, đặt cái vai lên tấm giạt một cách thận trọng, như thể nó đúc bằng loại thủy tinh mỏng lét như cái ống khói đèn vậy.
Thầy Bảy hỏi:
-Thấy sao?
Dì lắc đầu:
-Hổng sao hết!
Thầy rút cây kim ra, chậm miếng bông gòn thấm ancool vô vết chích, rồi biểu:
-Ấn mạnh miếng gòn cho máu hết chảy rồi hãy lấy ra nghen!
Dì Sáu nghe theo, mấy ngón tay dì chạm vào tay thầy Bảy, ổng cảm nhận được cái e ấp, ngượng ngập từ những ngón tay run nhè nhẹ đó! Thế là không kìm nén được. Vẫn còn cầm cái ống chích trên tay, ổng cúi xuống, đặt mũi lên gò má của dì rồi hít sâu một hơi. Làn da mặt của dì Sáu vốn rất mịn, rất trắng, bỗng đỏ ửng lên rồi mấy con ốc nhỏ li ti bằng đầu mũi kim gút bỗng bò lổm ngổm.
Cái phản ứng tinh khiết như một cô trinh nữ của dì Sáu, khiến thầy Bảy nghe rạo rực cả người. Thầy vứt đại cái ống chích vô túi, nghiêng người nằm ghé bên cạnh, ôm dì Sáu trong tay rồi ghì mạnh. Dì Sáu nằm chết trân, một bàn tay của dì vẫn còn ấn vào miếng bông gòn, bàn tay kia bất động như thể đã bị ai rút hết gân ra.
Con đê kiên cố trong lòng dì Sáu đang bị một cơn lũ cảm xúc dâng tràn, phá vỡ. Những đường biên tuổi tác, đức hạnh... trên ấy bị xóa mất tiêu, mất biệt.
Cái xúc chạm êm ái, dịu dàng ấy lại tạo ra một lực đẩy vô song, nâng họ lên khỏi mặt đất, đem đến một cảm giác thăng hoa làm cả hai cùng ngây ngất.

Chờ tiếng xe Hon đa của thầy Bảy xa dần thím Chín mới lệt bệt đi qua.
Dì Sáu nghe tiếng chân, biết ngay là thím Chín tới. Dì liền lật đật cầm cây lược lên liền để chải cái mái tóc đang rối cho thẳng rồi bới lại. Dì không dám mở miệng chào mà nhìn đăm đăm xuống đất, như thể cố tìm kiếm cây kim nhỏ xíu bị mình làm rơi trên đó!
Cử chỉ ấy làm sao qua mắt được một người rất ư tinh tế như thím Chín.
Để dì bớt thẹn, thím vội nói:
-Tui mới đi sau hè tỉa bớt đám cải bẹ xanh non, chưa kịp vô nhà là ghé qua đây luôn, đem qua cho chị một rỗ đầy nhóc ké kìa! Chiều nay chị nấu canh ăn liền cho ngọt.
Dì Sáu nói:
-Nấu canh uổng lắm, cải nầy ăn sống mới ngon.
Giọng dì nghe khá bình tĩnh.
Dì vừa nhìn thím Chín một cách dò xét vừa nói:
-Để tui kho lạt hết cái mớ núm rồi nướng trái me giầm vô. Cải con cay cay, chấm với nước kho chua chua, ngọt ngọt, mặn mặn ăn bắt cơm lắm!
Thím Chín hỏi:
-Sao mà ngày nào cũng ăn núm hết vậy? Hổng nấu canh thì xào, hổng xào thì kho tiêu, kho tương, kho mặn, kho lạt... Bộ ăn núm hoài hổng ngán sao? Ba cái núm rơm nầy là nhức mình đại hạng. Cực chẳng đã con Nhạn nó ăn chay thì để nó ăn mình ên thôi! Mắc gì chị với thằng Phục cũng ăn theo. Thằng Phục chắc cũng ngán ngược rồi đó, tại nó thương chị nên hổng dám có ý kiến, ý cò.
Dì Sáu chống chế:
-Có ăn cá, ăn thịt nữa chớ, tại chị hổng thấy.
Thím Chín hỏi thêm:
-Mấy cái lộp của thằng Phục đặt dưới bến sông, bộ tôm chui vô nhiều lắm hay sao mà ngày nào cũng đem qua cho bên nhà tui hết vậy?
Thím chắt lưỡi:
-Ba con Nhu ổng rầy dữ lắm. Ổng nói chị nhịn miệng đem cho, tụi tui ăn như vậy là mang tội đó!
Dì Sáu chống chế:
-Tui cho thằng Nhân để nó ăn cho mau lớn, chớ đâu phải cho người lớn mà sợ mang tội.
Thím Chín cự:
-Hai con tôm bự chảng nó ăn đâu có hết, tui với ổng phải xúm lại ăn giùm. Chị nói với thằng Phục là bên nhà tui ngán ngược rồi đó nghen! Để bên nầy ăn đi. Ăn hổng hết thì sai con Nhạn đem bán lấy tiền mua cá, thịt ăn đổi bữa. Lần nào tui qua cũng thấy ăn núm không hà?
Rồi thím nói:
-Đừng có ỷ y vô mấy cái ống thuốc bổ. Ông thầy Bảy có dặn là chị phải ăn hầm bà lằng thứ vô. Chị đừng có tiếc công, tiếc của. Rãnh thì lo nghĩ tới mấy thứ đồ ăn thức uống, đặng nó khiến cho thèm. Chịu khó làm mấy món thiệt ngon, thịêt bổ, thiệt lạ miệng đặng ăn cho được nhiều!
Thím hỏi thêm:
-Hổm rày còn uống sữa hông?
Dì Sáu gật đầu:
-Con Nhạn nó cứ bắt tui xài gối đầu hoài. Lon nầy chưa hết là đem về lon khác. Nó nói của con Tím gởi cho, tui rầy quá chừng biểu đừng có lấy mà nó nói là hổng lấy coi hổng được.
Thím Chín gật đầu:
-Nó nói như vậy là biết chuyện đó. Con Tím bây giờ là dâu trong nhà rồi, chị từ chối nó tủi tội nghiệp.
Rồi thím hỏi nhỏ:
-Mấy hôm con Tím săn sóc chị, thằng Phục có để ý rồi nói cái gì hông?
Dì Sáu cười:
-Bữa nay tui mới nói thiệt với chị nghe! Trước giờ nó đâu có thương con Tím. Nó chê con nhỏ...
Thím Chín ngắt lời, giọng đầy bất mãn:
-Con người ta lịch sự như vậy mà chê cái chỗ nào?
Dì Sáu lắc đầu:
-Nó đâu có chê xấu, mà nói là con Tím khi người. Cho tới cái hôm nó thấy con Tím bưng cái bô của tui đem đi đổ nó mới chịu thương đó!
Rồi dì kề tai thím Chín, nói thầm thì như thể có ai đang đứng sát một bên đang rình nghe:
-Hôm bữa con Tím ở đây tới khuya, Thằng Phục phải qua nhà chị mượn chiếc xe đưa về đó, chị có nhớ hông? Tui để ý thấy tụi nó đi tới mấy tiếng đồng hồ lận. Từ hôm đó cái mặt của nó mới hết quạu đeo, hở hở còn "hút" sáo. Rồi còn hỏi tui coi chừng nào cưới nữa.
Thím Chín nhảy nhổm:
-Thiệt vậy sao? Vậy là cá cắn câu rồi!
Rồi thím chụp lấy bàn tay của dì Sáu, vừa lắc mạnh vừa cười. Cười xong, thím đưa một bàn tay ra trước mặt, bấm bấm mấy cái đốt trên đó.
Thím nói:
-Còn đúng bon một chục ngày là tới đám cưới! Hồi nãy tui có biểu ba con Nhu hỏi giùm thầy Bảy coi chị có đủ sức mà đứng đãi bà con hông. Ổng nói thầy Bảy gật đầu coi bộ chắc ăn lắm!
Đúng là có tịch thì rục rịch, thím Chín chỉ nói có vậy mà dì Sáu cũng đỏ bừng cái mặt.
Thím Chín nhìn dì mà nói:
-Cỡ nầy thấy chị nhuận sắc rồi đó. Có điều mập lên chút nữa thì tốt, mặc cái áo dài của tui mới vừa, khỏi cần nhờ con Tím nó bóp cái eo vô.
Dì Sáu phản đối:
-Mặc rộng rãi cho dễ xoay trở. Hôm trước tui thấy vừa y hà!
Thím Chín lắc đầu:
-Vừa sao được mà vừa? Chị ốm hơn tui nhiều. Hôm bữa chị mặc tui thấy rồi, nó thùng thình hà! Cái áo một nơi, người một nẻo. Mặc áo dài phải hơi ôm ôm nó mới đẹp.

Dì Sáu không có cơ hội để mặc cái áo dài đó của thím Chín. Ngay hôm sau thầy Bảy đã mang tặng dì một xấp gấm màu vỏ măng cục, có những bông cúc nhỏ xíu màu vàng nằm rải rác.
Dì Sáu ưng bụng lắm, biểu Nhạn may liền để mình mặc mà ngồi sui. Nhạn đem hết khả năng cùng sự trợ giúp của Tím may cho dì một cái áo dài. Dì mặc thử thấy vừa y nên hết sức hài lòng.
Nhạn cầm cái mặt kiếng có hình dạng và kích thước bằng cái mặt trăng, rọi cho dì thấy phía sau lưng. Dì Sáu đang nghiêng qua, nghiêng lại nhìn ảnh mình in trên tấm gương lớn hình chữ nhựt, gắn thay cánh cửa của cái tủ mẹ bồng con đựng quần áo, thì thím Chín bước vào.
Thím nhìn dì Sáu trân trối, rồi hỏi:
-Ở đâu mà chị có được cái áo dài đẹp dữ thần án địa vậy chị Sáu?
Dì Sáu bẽn lẽn:
-Con Nhạn nó may cho tui!
Thím Chín hỏi Nhạn:
-Gấm nầy mắc tiền lắm, bây giờ ít thấy ai bán. Con mua ở đâu vậy?
Nhạn đáp tỉnh rụi:
-Con đâu có mua, má con có sẵn.
Dì Sáu nhìn thím Chín, nháy mắt một cái. Thím biết ý nên không hỏi nữa mà quay lưng bỏ về liền. Cái tật của thím là hể biết cái gì hay hay, lạ lạ là đi kiếm chồng để khoe trước tiên.
Chú Chín thấy vợ vừa đi qua nhà dì Sáu bỗng quay về liền thì ngạc nhiên lắm. Thường khi thím qua bển là ngồi cà rà đến mấy tiếng đồng hồ mới chịu đứng lên, nên hỏi:
-Bộ quên món gì hay sao mà lật đật quay về vậy?
Thím Chín cười tươi rói, báo tin:
-Họ xáp lá cà rồi ông ơi!
Chú Chín hơi ngờ ngợ nhưng hỏi lại cho chắc ăn:
-Họ là ai, mà xáp lá cà là sao?
Thím đáp:
-Thì ông thầy Bảy với chị Sáu đó!
Chú Chín hỏi:
-Sao bà biết, bộ chỉ kể hả?
Thím Chín lắc đầu:
-Bả mắc cỡ lắm! Dễ dầu gì tui không hỏi mà đem kể khơi khơi. Ví dầu tui có hỏi đi nữa, chưa chắc chỉ chịu khai thiệt đâu mà làm cho mắc công.
Chú Chín thắc mắc:
-Như vậy thì làm sao bà biết mà dám nói?
Thím Chín chắt lưỡi (cái tật của thím là hể gặp cái gì kích thích cảm xúc của mình, bất kể loại cảm xúc nào, cũng diễn tả bằng cách chắt lưỡi. Cái chắt lưỡi ấy có công dụng như cái dấu chấm than trong câu văn viết vậy), bồi thêm mấy cái lắc đầu rồi mới giải thích:
-Tui qua bất thình lình, thấy chỉ đang mặc thử cái áo dài con Nhạn mới may cho. Cái áo quá sức đẹp! Bằng gấm hai da đàng hoàng nghe ông. Cái thứ gấm đó là mắc tiền nhứt hạng! Tui tưởng tụi con Tím, con Nhạn, thằng Phục hùn tiền lại để mua cho chỉ, ai dè con Nhạn nói không có phải. Tui đoán là ông thầy Bảy mua tặng chớ hổng ai vô đây.
Chú Chín cười:
-Tưởng chuyện gì chớ cái đó thì tui biết trước bà. Xấp vải đó là của vợ ổng, bả mua đặng mặc đi cưới đứa dâu đầu. Tội nghiệp! Chỉ chưa kịp may là bị chìm tàu chết nên bỏ lại.
Thím Chín chù ụ cái mặt xuống mà hỏi:
-Vậy sao ông hổng kể cho tui nghe?
Chú Chín không dám trả lời là mình ngại vợ nói cho dì Sáu nghe rồi dỉ sợ có huông mà không dám nhận, nên buông một tiếng duy nhứt :
-Quên!
Nghe chú đáp cụt ngủn, thím Chín bỗng cảm thấy giận cành hông. Nhìn hai chưn mày châu lại thiếu điều cụng vào nhau, biết thím tức nên chú bỏ nhỏ:
-Tui tính nói với bà liền cái rồi thằng Nhân nó đòi chở đi chơi. Tui chở nó đi mấy vòng tới chừng về nhà là quên phức luôn. Bây giờ bà nói mới nhớ.
Thấy thím chưa nguôi, chú đành phải tiết lộ cái bí mật đang ấp ủ để chuộc tội. Chú biết không có thứ gì khiến thím khoái bằng việc biết những chuyện mà không, hoặc chưa ai biết.
Để nhấn mạnh tầm quan trọng của nó, chú kề tai thím nói nhỏ:
-Thầy Bảy ổng mê chị Sáu dữ lắm bà ơi! Ổng biểu tui chỉ giùm cách để rinh chỉ về nhà liền tay. Coi bộ ổng nóng thiếu điều cháy máy rồi đó.
Hai chưn mày của thím Chín đến lúc nầy mới chịu trở lại vị trí bình thường.
Thím hỏi:
-Thiệt vậy hả ông?
Chú Chín gật đầu tới ba lần để xác nhận.
Chú bổ xung thêm:
-Ảnh thấy bà với chị Sáu thương nhau như hai chị em ruột, nên nhờ tui đóng vai tay trong, dọ ý bà để lần ra ý chỉ. Ổng còn xúi tui kêu bà hỏi coi chỉ thích thứ gì. Tui nghe bà nói, chị Sáu không dám may cho mình cái áo dài mà mặc để đi rước dâu, nên mới biểu ổng mua tặng. Rồi ổng hỏi lại trong tủ nhà ổng còn một xấp vải, vợ ổng mua sẵn chưa kịp may, đem tặng lại cho chị Sáu có được hông? Tui nói được, miễn đừng cho chỉ biết!
Rồi chú dặn thím:
- Chuyện nầy tui nói cho bà nghe cho vui thôi, đừng có kể cho ai nghe hết đó! Rủi thấu tai chỉ rồi hư bột, hư đường hết ráo à nghen!
Thím Chín chẳng những không thèm hứa mà còn trách:
-Bộ ông tưởng tui là con nít lên ba hay sao mà mắc công căn dặn.
Rồi thím hỏi một cách háo hức:
-Ổng có kể chuyện gì nữa hông? Họ có ăn nằm với nhau chưa?
Chú Chín nạt:
-Cái bà nầy... Chuyện đó ai mà nói. Có điều ổng nôn cưới chị Sáu lắm! Ổng nói chỉ nhìn giống vợ ổng quá, mặt mày, tánh tình y khuôn. Ổng đã năn nỉ cưới chỉ muốn ráo nước miếng. Nói xa, nói gần mấy lần rồi mà chỉ dứt khoát từ chối.
Thím Chín ngạc nhiên:
-Hổng lẽ chỉ ghét ổng?
Chú Chín lắc đầu:
-Ảnh nói chỉ có thương, nhưng ngại con cái với chòm xóm cười.
Thím Chín lắc đầu:
-Cái tánh của chỉ tui biết. Đợi cho chỉ nói tiếng ừ thì còn khuya lắm! Cái chuyện nầy mình phải ép chỉ vô cái thế không còn giựt lùi nữa mới được!
Chú Chín cầu cứu:
-Bà có cách gì thì bày ra cho hết đi. Kỳ nầy tui dám chắc mình ăn trọn con heo đúng tạ chớ hổng phải cái đầu heo ba trật, bốn vuột nữa đâu!
Thím Chín biết chồng nói giỡn nên cười rồi nói theo:
-Cách thì tui có rồi đó. Nhưng ông nói với ảnh là làm cho tui cái tờ cam đoan đi rồi tui mới chỉ cho.
Hai con mắt chú Chín sáng rở, chú hỏi:
-Lẹ dữ vậy sao? Đâu bà nói cho tui nghe thử coi!
Thím Chín lại chắt lưỡi:
-Chẳng giấu gì ông! Cái hôm mà ông kêu anh Bảy qua nói chuyện đó, tui để ý thấy ổng ở lại lâu hơn ngày thường. Lúc ổng ra về tui để ý thấy mặt mày y ta phơi phới nên sanh nghi. Tui chờ ổng đi mút rồi mới qua dò ý chỉ. Chỉ thấy tui thì lấm lét như chó ăn vụng bột, tui đoán là họ mới hành sự.
Thím dừng lại, thở dài rồi nói tiếp:
-Tui lo rủi chỉ dính bầu rồi sợ hai đứa con xấu hổ với bà con. Hổng chừng dám làm chuyện dại dột, đi phá thai lậu cái chết oan như con Ba Mật, nên rầu ghê lắm! Cứ nghĩ đủ thứ cách.
Chú Chín cười, an ủi vợ:
-Chỉ cũng gần năm mươi rồi, khó có con lắm... bà ...ơi!
Chắc chú nhớ tới trường hợp của mình, nên đang nói ngon trớn bỗng ngắc ngứ ngang xương.
Thím Chín chỉ vô bụng mình rồi hỏi:
-Vậy cái vụ nầy thì sao ? Bả còn nhỏ hơn tui tới bốn tuổi đó!
Thím nói thêm:
-Tại cái lúc bả mới chạy giặc ở trên Miên về, người teo quéo như trái hủ qua đèo coi già ngắt. Làm tui tưởng đâu lớn tuổi hơn mình nhiều lắm nên mới kêu bằng chị đó chớ! Bây giờ biết thì quá trễ, hổng sửa lại được.
Thím chắt lưỡi thêm một cái nữa rồi nói :
-Ai mà ngờ qua cơn bỉ cực cái chỉ mát da, mát thịt rồi ngộ đến bực nầy. Làm cho ông thầy Bảy mê gần chết. Tui sợ hôm đó ổng trút hết lực lượng, vứt một cú là bả dính liền, y như ông vậy.
Chú Chín cười, nói gỡ quê:
-Đâu phải ai cũng giỏi như tui đâu bà!
Thím Chín trề môi:
-Chưa chắc! Cái kiểu giá vợ lâu như ổng là ghê lắm đó ! Dám đêm bảy ngày ba vô ra hổng kể à nghen! Cỡ như ông thì nhầm nhò gì!
Chú Chín nói:
-Tại bà đâu có chịu để cho tui xài hết ga đâu! Mỗi lần xáp tới là la bài hải.
Thím nói:
-Mình già rồi! Ba cái chuyện đó là để dành cho tụi nhỏ... Bây giờ lo tu lần lần thôi ông ơi!
Chú Chín cự:
-Nói như bà vậy là không có đúng. Mình càng già thì càng ít cái sự vui đi. Cái cây sắp khô rồi phải tưới rút rút cho nó tươi, nó tốt được chút nào hay chút đó chớ! Đừng có bít chịt khiến họ tức nước vỡ bờ, đi ra ngoài chơi bời lung tung bị mang tiếng già dịch oan mạng.
Rồi chú phàn nàn:
-Tui thấy bây giờ mấy bà cỡ ngoài bốn mươi là xúm nhau hất hủi chồng, mê ông Phật hết ráo! Báo hại tụi tui không dám giành giựt, sợ mang tội. Mà có giành cũng đâu có nổi.
Chú vừa nói vừa làm mặt khổ khiến thím Chín cười nghiêng, cười ngã.

Nhu đang ngồi thêu ở cánh cửa hông tuốt nhà sau, nghe thím Chín cười như bị cù lét đâm ra tò mò. Cô không kịp bỏ cái bằng căng trên tay xuống, đi te te ra mà hỏi:
-Có chuyện gì vui mà má cười dữ vậy?
Thím Chín không trả lời mà hỏi lại:
-Con thêu áo gối cho con Tím rồi chưa? Có kịp hông đó?
Nhu đáp:
-Con thêu mấy cái bông rồi, bây giờ đang thêu tới lá. Độ chừng mai, cùng lắm ngày mốt là xong.
Thím Chín biểu:
-Đâu đưa má coi!
Cô cẩn thận gài cây kim lên mặt vải rồi đưa cái bằng căng cho thím Chín.
Thím Chín cầm lên xem rồi chắt lưỡi:
-Đẹp quá! Cái mẫu bông nầy in là giống hệt cái của con Lài phải hông? Có điều cái màu hơi khác một chút. Màu đỏ của con Tím ngó bộ tươi hơn.
Nhu gật đầu:
-Đúng đó má! Con Tím nó thích bông hồng có màu đỏ cam, nên con ráng lựa cho được tép chỉ màu nầy để thêu cho nó. Con nhỏ đó nó khoái màu sắc rực rở lắm!
Những cô gái ở nông thôn, ngoài việc giỏi giang việc đồng, còn phải biết thêu thùa, may vá, nấu ăn, làm bánh... Những món tiểu xảo ấy tôn giá trị của họ lên rất nhiều. Giúp họ dễ lọt vô cặp mắt của những bà má chồng nổi tiếng khó tánh, đặt tiêu chuẩn cho cô dâu tương lai cao chót vót.
Thím Chín nhắc:
-Sao hổng thấy con tách mấy trái gòn khô ra để lấy gòn mà dồn gối.
Nhu đáp một cách hãnh diện:
-Anh Nghệ nói ba cái bông gòn hay theo đường thở chui vô hai lỗ mũi rồi chui vô họng. Ảnh biết con dở chịu nhột, sợ bị nó bắt ho hoài, hổng tốt cho cái thai. Bên nhà ảnh gòn nhiều lắm! Ảnh biểu để ảnh làm cho, rồi giành bốn cái bao gối đem về bển luôn.
Thím Chín hỏi:
-Sao tới bốn cái bao gối lận?
Nhu giải thích:
-Hai cái gối nằm, hai cái gối ôm.
Thím Chín chắt lưỡi:
-Bày đặt! Hai cái gối nằm là được rồi. Tụi nó mới cưới đâu có cần gối ôm. Cái giường của chị Sáu nhỏ xíu hà, để hai cái gối ôm rồi chỗ đâu mà nằm. Hổng khéo lăn qua, lăn lại rồi có đứa rớt xuống đất.
Nhu cười thích thú :
-Anh Nghệ cũng nói y chang như má! Tại con Tím nó đòi nên con phải làm, chớ mấy đám trước con chỉ tặng một đôi gối nằm thôi hà!
Ở nông thôn, khi các cô gái đi lấy chồng, chị em, bè bạn thường tặng cho họ những bộ gối, áo dài, áo bà ba... Cái nào cũng được thêu rất đẹp. Họ không được tặng những bộ đồ ngủ gợi cảm, vì một sự thật phủ phàng là những cái phòng tân hôn đa số đều không có cửa. Chúng chỉ được che bằng một tấm màn mỏng, chẳng thể ngăn cản được ai, kể cả gió!
Những căn nhà ở miền tây nói chung và xóm Cầu Ván nói riêng đều cất rập khuôn và bày trí y như nhau. Gồm có phòng khách, buồng ngủ và nhà bếp đi thằng một hàng, theo thứ tự từ trước ra sau.
Phòng khách, ngoài một bộ bàn ghế để tiếp khách (gồm một cái bàn dài và sáu ghế dựa đặt giữa nhà), còn có một hoặc hai bộ ngựa gõ kê ở song song hai bên.
Sau lưng chúng, sát cái vách ngăn phòng khách với buồng ngủ là cái tủ thờ gỗ mun cẩn xà cừ, hoặc bằng cẩm lai đánh vẹc ni bóng ngời.
Tủ thờ được thiết kế rất đặc biệt: Hai cánh cửa được gắn bên hông để cái thớ gỗ trước mặt trở thành một bức tranh khảm vỏ ốc hoặc khắc gỗ hình rồng, hình phụng... Tủ thờ giữ một vị trí quan trọng nhứt. Nó được chăm sóc chu đáo để thể hiện gia phong, nề nếp của gia chủ.
Ngoài ra còn có hai cái tủ kiếng: Một đựng ly, tách, chén, dĩa... Một đựng mấy bộ gối thêu, mùng lưới, mền con cừu... Chúng thường bị bắt đứng đối diện nhau, như thể để so đo nhan sắc.
Sau phòng khách là phòng ngủ.
Cửa phòng ngủ không trổ ra phòng khách mà về phía hông để được kín đáo. Lạ một điều là chẳng ai chịu gắn cho nó một cái cánh cửa. Cho nên chuyện chăn gối được bà con gọi một cách tế nhị là "ba cái chuyện tối lửa tắt đèn". Khỏi cần giải thích ai cũng biết là ban ngày ban mặt dù có...tới cỡ nào đi nữa, cũng phải ráng nhịn mà chờ cho tới tối!
Nghĩ mà thương cho những đôi uyên ương thuở đó! Hai cánh cửa sổ của tâm hồn của họ cho dù có mở cũng chẳng thấy được gì, bởi chẳng những đèn tắt ngúm mà còn phải trùm mền lại cho chắc ăn. Chẳng tân lang nào biết được tân nương của mình có thẹo hay không, cũng chẳng thể đếm thử coi có mấy cái mục ruồi trên người của nàng!
Cho nên những người đàn ông ở thôn quê, khi để vợ con ở nhà ra tỉnh thành làm ăn, đa số đều bị những người phụ nữ bạo dạn ở đó bắt mất cả hồn lẫn xác.
Tội nghiệp biết bao! Ơi Những cái đẹp, vật báu không được thưởng thức ! Ơi những bài thơ hay không ai biết tới! Ơi những bông hoa chưa một lần được chạm vào cho dù là gió!
Hởi những cô thôn nữ mỹ miều ! Hởi những đóa hoa lan mọc ở góc rừng sâu, xin nghiêng mình trước nỗi cô đơn, sầu muộn của các bạn!
Phần cuối của căn nhà là giang sơn của phái đẹp. Ở đây ngoài mấy cái cà ràng đặt dưới đất hay một cái lò trấu đúc bằng gạch thẻ được tô xi măng láng hoặc cẩn gạch men trắng muốt, còn có một cái bộ ngựa, được đóng bằng ván xẻ ra từ cây me nước, ô môi ... Ở những căn nhà khiêm tốn nó được thay bằng một tấm giạt làm từ tre hoặc cây cau lão rồi đặt lên bốn cây cọc tre đơn giản, cốt để mấy người phụ nữ ngồi trò chuyện.
Cái võng, đồ dùng tối cần thiết cho mỗi gia đình, cũng được treo vào góc bếp. Chiều chiều, những lời ru êm đềm trộn đều với hơi nước của nồi cơm sôi, trộn đều với những lọn khói từ miệng, từ tai của mấy ông lò rồi bay ra tại đây, nơi chái bếp ấm áp nầy.
Ở thôn quê mỗi nhà có ít nhất là một cái võng. Có nhà thì đến hai, ba, bốn cái...
Cái võng treo trong bếp là quan trọng nhất. Nó bắt buộc phải có để người mẹ vừa lột khoai mì, lặt rau, lượm thóc... vừa đều tay đưa đẩy, vừa luôn miệng ầu ơ, từ câu ca dao nầy sang câu ca dao khác. Nếu con đã ngủ say rồi mà mẹ vẫn còn ru mãi, thì chắc nàng đang muốn gửi gắm tâm tình của mình đến một người nào đó.
Nhà chú Chín có đến ba cái võng: Cái võng đủ màu được bện bằng vải vụn, treo ngoài hàng ba là nơi chú nằm đọc sách và ngủ trưa. Cái võng trong bếp may bằng tấm vải dầu nhà binh thì của thím Chín. Cái võng trong buồng chỉ dành riêng cho thằng cháu ngoại khi nửa đêm nó quấy khóc.
Đó là chưa tính tới hai cái võng, một ở ngay sau hè, treo giữa cây ổi và cây vú sữa, gần bộ giạt để ăn cơm chiều, một ở trong vườn.
Cái võng ở trong vườn được chú Chín giăng ở chỗ có bóng mát suốt ngày. Ở nơi nầy, cả ánh nắng trưa, chiếu theo chiều thẳng đứng cũng chẳng thể nào leo lên nằm ké. Chúng bị cản bởi đến mấy lớp lá đan tay che kín : Lớp dưới cùng là mấy cái lá láng lẩy của cây mít, rồi tới mù u, xoài. Bên trên chúng là những ngón tay lá tre dài sọc. Những cây gòn ra vẻ anh hùng, xòe rộng hết cỡ tất cả các ngón của cả triệu bàn tay của mình, trùm lên trên cùng để làm thành cái mái nhà kiên cố.
Hai cái võng nầy thỉnh thoảng mới được dùng. Nó cũng chỉ được hai người là chú Chín và Nghệ xài vào những buổi trưa trời nóng ngất ngây. Khi mấy đám mây rủ nhau đi trốn mất biệt và nắng cũng uể oải, làm biếng chui vào nhà, thì họ, chú Chín hoặc Nghệ mới chịu ra đây tìm chúng.
Phụ nữ ở đây cho dù nực cách mấy cũng ít khi dám nằm đưa tòn teng bên ngoài, ngay cả cái võng giăng trong hàng ba. Điều nầy được xem là không đứng đắn, đàng hoàng.
Chú Chín còn thủ thêm một cái võng may bằng vải bố rất dày để muỗi không đâm thủng. Cái võng nầy có hai sợi dây dài thậm thượt cột vào hai đầu. Một tháng đôi lần, vào những đêm trăng, chú đem nó giăng ra giữa sân, nằm ngó trời cho đến khuya mới chịu vô nhà. Có khi chú ngủ quên tận đến khi sáng bét. Mấy lần nửa đêm thím Chín thức giấc, nhìn quanh không thấy chồng. Thím liền ra sân, nắm cẳng chú giựt thiệt mạnh để ổng tỉnh dậy mà đi vào nhà ngủ.
Thấy thím Chín chưa trả lời câu hỏi của mình, Nhu lập lại:
-Có chuyện gì vui mà cười dữ vậy má?
Thím nói tránh:
-Tao nghĩ tới cái chuyện mấy người chờ tới già như tao với ba mầy mới thương, mới cưới chắc ngộ lắm, chắc mắc cỡ với bà con dữ lắm!
Nhu phản đối:
-Ở Á đông mình thì cái chuyện hôn nhân có nhiều rào cản, chớ ở tây phương thì không có gặp trở ngại gì hết ! Sáu, bảy chục tuổi mới cưới là chuyện bình thường. Mình thì cho là dị hợm còn đối với họ đó là điều may mắn. Có khi họ không cần cưới, không cần thông báo với ai, hể thấy hợp là xáp lại sống chung liền.
Câu nói của Nhu như tia sét xẹt ngang đầu chú Chín. Chú bỗng nẩy ra liền một sáng kiến, có vẻ ưng ý lắm! Chú cười mỉm chi, gật gù ra vẻ vô cùng đắc chí.

Liếc nhìn chú, thím Chín biết ngay trong đầu ổng đang phát sinh một âm mưu. Lòng khấp khởi, thím cố ghìm không hỏi, chờ nghe chồng tiết lộ.
Chú Chín đâu có biết vợ đang chú ý đến mình nên hấp tấp bước xuống cầu thang. Chú tính đi gặp thầy Bảy ngay lập tức để lên kế hoạch.
Thím Chín thấy chú ngồi lên yên xe, lật đật hỏi:
-Ông đi đâu vậy?
Chú ngoái đầu lại đáp:
-Tui lại nhà anh Bảy chích.
Câu trả lời khiến thím ấm ức, thím hỏi:
-Chi vậy?
Chú trả lời:
-Tui mới nghĩ ra cái cách nầy hay lắm! Để bàn với ảnh trước, coi y có dám làm hông rồi về kể cho bà nghe.
Thím Chín nôn nao, thím chỉ muốn nghe liền thôi.
Biết không thể cản chú, thím bèn áp dụng cái chiêu dụ dỗ:
-Đi lẹ rồi về ăn cơm nghe! Bữa nay tui hầm măng với giò heo, nước cốt dừa. Có kho một ơ cá cơm rim mặn nữa. Mấy món nầy con Nhu, thằng Nghệ tụi nó mê lắm! Ông mà về trễ là mấy mẹ con tui ăn hết đó!
Biết thím nói đùa nhưng chú vẫn làm bộ phật ý:
-Hổng có ăn trước à nghen ! Tui về liền tay đó!
Rồi ngoáy mông đạp ào ào.
Nhà thầy Bảy nằm giữa một khu vườn rất rộng, ngó ra hai hướng: Cửa trước ngó đường cái, cửa sau nhìn đường cộ. Hai cánh cửa hướng ra đường lúc nào cũng đóng kín. Khu vườn um tùm, lá rụng đều đặn mỗi ngày mà không ai quét, chất chồng lớp lớp trông giống như bị bỏ hoang.
Ổng có thằng con có tính nhát hơi người nên ít ai thấy mặt. Suốt ngày cứ đi lòng vòng trong vườn, hể nghe khách đến nhà là vội vàng lủi mất, chừng dứt tiếng nói mới chịu thò mặt ra.
Tính cách hổng giống ai đó khiến bà con xếp y vào hạng ba lơn. Nghe đâu thời trước y có mấy bài thơ được đăng báo ký tên" Nguyễn Nguyên". Ở cái xứ mà tài năng được đong bằng lúa thì ba cái chuyện đó đâu được tính. Huống chi thời buổi bây giờ ai mà thèm đem tiền mua báo!
Thầy Bảy thỉnh thoảng trả lời một cách ngượng ngập: "Nó làm thơ", khi bà con hỏi rằng thằng con của thầy hiện giờ đang làm "cái giống gì?"
Cho dù có ruộng, có rẩy, nhưng cái thu nhập của thầy Bảy phần lớn do cái ống nghe, ống chích, ống thuốc... đem đến. Tiền mọi người trả cho việc chữa bịnh đủ bảo đảm cho hai cha con sống thong thả, thầy không cần o ép con trai phải nai lưng kiếm tiền. Thầy là người duy nhứt thừa nhận người con của mình cũng có một sự nghiệp như ai.
Thầy thường đem mấy bài thơ của y làm ra khoe rồi chép miệng nói với chú Chín:
-Thơ nó cũng hay chớ bộ!
Chú Chín cũng thích thơ, có điều chú thích những bài thơ có vần, có điệu, chữ nghĩa, ý tứ rõ ràng như cuốn "Lục Vân Tiên" gối đầu giường của mình. Còn những bài thơ của Nguyên, con thầy Bảy thì nói thiệt, chú đọc một cách nhọc nhằn như nhai miếng cá quá nhiều xương.
Cái tính mơ mộng của Nguyên bị bà con xếp vô cái tội lớn nhứt ở đây: "Làm biếng". Còn cái vụ lâu lâu lại vò giấy tập trắng tinh mà ném lung tung, thì bị ghép vô cái tội "xài sang". Tội nầy cũng lớn không thua, hổng chừng còn bị coi là nặng hơn cái tội làm biếng một bực.
Chú Chín đến nhà và thấy hai cha con họ đang cởi trần, cầm dao, cầm rựa phát cây, dọn cỏ khu vườn thì ngạc nhiên quá đổi.
Nhìn cái lưng trắng bóc của Nguyên, chú Chín bỗng bất mãn ngang xương.
Chú hỏi:
-Cháu có đi đồng, nhổ cỏ lần nào chưa?
Nguyên đỏ bừng cái mặt, chưa kịp đáp thì thầy Bảy cười khà khà, giành trả lời:
-Có một lần vô vụ, mướn người hổng đủ. Tui kêu nó tiếp một tay. Nó toàn nhổ lúa không hà!
Chú Chín hỏi:
-Sao bữa nay hai cha con siêng dữ vậy?
Thầy Bảy đáp thiệt tình:
-Tui tính mời cô Sáu tới nhà chơi cho biết nên...
Rồi thầy nói:
-Anh vô nhà ngó một cái đi, coi tui làm như vậy được chưa?
Chú Chín lật đật theo chưn thẩy. Chú ngạc nhiên khi thấy bên trong căn nhà được sửa sang gần như toàn bộ. Tường được quét vôi mới tinh. Đồ đạc bị dời chỗ, xem ra gọn gàng hơn lúc trước rất nhiều.
Không chờ chú Chín hỏi, thầy Bảy giải thích:
-Tui thấy nhà cô Sáu sạch sẻ, ngăn nắp quá nên sợ cổ tới đây nhìn cái nhà tui rồi dội ngược. Tui tâm sự với thằng Nguyên: "Ba có để ý một người. Muốn mời về nhà chơi mà sợ cổ thấy nhà mình bê bối quá, cổ chê ba ăn ở bầy hầy rồi không chịu ưng".
Chú Chín hỏi liền:
-Anh cho nó biết rồi hả? Nó có chịu cho anh đi thêm bước nữa hông?
Thầy Bảy cười, gật đầu:
-Nó mừng húm! Biểu tui là "ba đừng có lo, để con dọn dẹp, trang trí lại nhà mình. Làm sao cho cổ nhìn vô là mát con mắt, muốn về ở liền".
Chú Chín gật gù:
-Cái thằng nầy coi vậy mà có hoa tay à nghen! Dọn cái nhà coi phải thế quá!
Chú rờ chậu xương rồng nhỏ xíu đặt trên cái bàn thấp chủm của bộ sa lông rồi nói:
-Cây nầy mua ở đâu mà đẹp quá vậy?
Thầy Bảy nói:
-Tui đâu có biết, của nó đó!
Chú lại nhìn lên tường, thấy mấy bức tranh treo trên vách giống như bị mấy đứa con nít nhúng tay vô đủ thứ màu mực mà quẹt thì hỏi:
-Bức nầy họa cái gì vậy?
Thầy Bảy lắc đầu:
-Tui cũng hổng biết!
Chú Chín ngó đã thèm rồi nói:
-Đâu anh dắt tui vô coi cái giường ngủ có vững vàng hông? Chuyện nầy quan trọng bực nhứt đó!
Cái miệng của thầy Bảy dang rộng tới mép tai, chứng tỏ câu nói đùa của chú Chín khiến ổng vô cùng khoái trá. Chú Chín càng ngạc nhiên hơn khi thấy mùng, mền, chiếu, gối...hết thảy đều mới tinh, chúng còn được xếp rất ngay ngắn thì tỏ vẻ hết sức vừa bụng.
Chú nói, giọng khâm phục:
-Tui không ngờ anh thay đổi y như lộn ngược tới cỡ nầy! Hôm bữa tui ghé thấy mền mùng dồn cục. Một đống bầy hầy, lộn xộn như cái đám nhau mèo, vậy mà...
Thầy Bảy cười, hỏi nhưng biết chắc câu trả lời:
-Anh thấy như vầy coi được chưa? Còn thiếu thứ gì hông?
Chú Chín gật gù:
-Ổ thì lót coi bộ ngon lành lắm đó! Có điều hổng biết con gà mái có chịu chui vô nằm hông đây?
Thầy Bảy thôi cười, khẩn khoản:
-Bởi vậy tui mới nhờ anh nói với chị Chín, hối chỉ đốc vô cho dữ dội giùm tui.
Chú Chín lắc đầu:
-Đốc mà nhầm nhò gì, lâu lắc, trật vuột lắm! Tui tính rồi, cái vụ nầy phải làm một cái ào mới xong!
Thầy Bảy hỏi:
-Kiểu gì?
Chú Chín kề tai ổng nói một thôi. Thầy Bảy nghiêng hẳn một bên đầu có vẻ chăm chú hết mức. Cái miệng của chú Chín cứ lép nhép liên tục, còn cái đầu của thầy Bảy thì gật lia, gật lịa.
Chờ chú Chín dứt lời ổng mới hỏi, giọng lo lắng:
-Nhắm được hông anh? Rủi bả hổng ưng còn chửi cho một trận chắc tui mắc cỡ tới bỏ xứ mà đi quá! Chắc ra đường phải lấy cái mo mà che mặt.
Chú Chín cười:
-Đừng có lo, tui biết tánh chỉ hiền rụi hà! Hồi nào tới giờ anh có thấy chỉ dám làm mích lòng, từ người lớn cho tới đứa con nít nào trong xóm hông? Huống chi tui thấy chỉ cũng phải lòng anh rồi, nếu không đâu có chịu nhận xấp vải mà đem may áo.
Rồi chú biểu:
-Bây giờ ông gom hết ba cái bông, dây chuyền, vòng tay, cà rá đưa đây cho tui.
Thầy Bảy riu ríu nghe theo. Ổng đi ra phòng khách, lại tủ thờ cầm cái ống đựng nhang, trút ngược. Chùm chìa khóa trong đó văng ra. Ổng đem nó vô buồng trở lại, mở cái tủ đựng áo quần, lấy ra cái hộp tròn tròn, dày dày bằng nhựa màu đỏ. Không mở ra coi mà đưa luôn cho chú Chín.
Chú Chín lựa ra vài món, cầm lên rồi nói:
-Làm cái gì mà đưa hết ráo vậy? Tui lấy đôi bông cẩm thạch, sợi dây chuyền với cái mặt trái bí đao nầy. Thêm một tấm lắc với một chiếc cà rá thôi.
Thầy Bảy làm y như lời chú. Ổng lấy tờ giấy, trút mấy món không xài tới ra, đưa nguyên cái hộp cho chú Chín đựng những thứ đang cầm trên tay vô.
Thầy Bảybỗng ngậm ngủi:
-Mấy món nầy là của má thằng Nguyên. Tui làm như vầy hổng biết bả có giận hông hả anh Chín?
Chú Chín lắc đầu:
-Mừng gần chết chớ giận cái gì? Anh có người nấu cơm, giặt đồ rồi. Ba cái chuyện giường chiếu cũng có người lo thì chỉ mới yên bụng mà bay lên trời hoặc đi đầu thai. Huống chi ông cũng thủ tiết thờ vợ lâu khẳm chớ bộ!
Rồi chú hỏi:
-In là chỉ chết cũng gần chục năm, phải hông?
Thầy Bảy lắc đầu:
-Tới hai mươi lăm tháng chạp là đúng chín năm. Lần đó bả đi về nhà bà ngoại thằng Nguyên để ăn tạ mả. May mà nó hổng chịu đi theo.
Thầy ngưng lại một chút rồi nói như khóc:
-Đáng lẽ tui phải chở bả đi, mà tại ông Năm Đúng đang trở bịnh nên hổng dám bỏ! Phải hai vợ chồng đi bằng xe hon đa thì bả đâu có chết!
Chú Chín chắt lưỡi:
-Tai nạn nó tới bất tử, đâu ai biết mà tránh!
Thầy Bảy tâm sự tiếp:
-Cái bữa đó đó, tối lại là tui nằm chiêm bao thấy bả liền. Bả ôm cái bóp đầm, giống như sắp đi ăn tiệc vậy?
Chú Chín hỏi:
-Cái bữa đó là bữa nào?
Thầy Bảy ngần ngừ:
-Thì cái bữa mà anh kêu tui vô nhà hỏi coi cô Sáu hết xỉu chưa đó!
Chú Chín hỏi kiểu cắc cớ:
-Anh có làm cái gì với chị Sáu hông mà chỉ ghen đến độ xách gói ra đi vậy?
Thầy Bảy đáp, hơi ngượng :
-Tui có ôm cổ .
Chú Chín hổng tin:
-Ôm thôi? Chớ hổng làm cái gì thêm sao?
Thầy Bảy lắc đầu:
-Tui cũng tính...đó chớ, mà cổ nói "tui lạy anh, anh mà làm tới là tui cắn lưỡi chết liền cho anh coi".
Ổng gãi đầu giọng tiếc rẻ:
-Phải tui làm liền là được rồi, tại khớp quá nên... Cái rồi con gà mắc dịch của ông khi không mà gáy rân trời, báo hại cổ hết hồn, xô tui ra liền.
Chú Chín cười ngặt ngoẽo. Ổng đưa bàn tay hộ pháp của mình vỗ vào cái lưng của thầy Bảy bồm bộp.
Cái đau, cái buồn, cái tiếc... rạch lên mặt thầy Bảy mấy đường rãnh rất sâu!


Chú Chín vừa vô tới nhà là móc trong túi lấy cái hộp nữ trang ra đưa cho vợ.
Thím Chín cầm lấy, mở ra xem rồi trợn mắt hỏi:
-Ở đâu ra mấy món nầy vậy ?
Chú đáp :
-Của thầy Bảy đó! Bà nói làm sao cho chỉ chịu đeo giùm tui!
Thím Chín hỏi:
-Đeo liền bây giờ hả?
Chú lắc đầu :
-Để tới bữa rước dâu, bà hãy đưa cho chỉ.
Thím hỏi tiếp:
-Có nói thiệt cho chỉ biết là của thầy Bảy hông?
Chú Chín suy nghĩ hồi lâu rồi đáp :
-Bà dò ý chỉ rồi liệu theo đó mà tính. Nhắm nói được thì nói, còn bằng không thì thôi!
Thím Chín cầm đôi bông và cái mặt dây chuyền hình trái bí đao lên, ngó thật kỹ rồi khen nức nở:
-Cẩm thạch xưa tốt quá! Cái màu lý nầy là mắc tiền hạng nhứt đó!
Chú Chín hối:
-Thôi bà cất vô đi, rồi kêu con Nhu dọn cơm cho tui ăn ba hột đặng còn đi công chuyện nữa .
Thím Chín chưa chịu làm theo, thím nhắc:
-Ông hứa về nhà là kể cho tui nghe liền mà...
Chú Chín gắt:
-Ăn xong rồi kể.
Thím lắc đầu:
-Kể trước rồi ăn.
Nhìn vẻ cương quyết trên gương mặt thím, chú biết ngay là nếu không khéo đầu hàng là toi mạng liền, nên cũng làm y như lúc nãy, nghĩa là kề tai nói nhỏ xíu.
Thím chín không những chỉ dùng tai mà xử dụng luôn hai con mắt. Thím vừa nghe, vừa nheo, vừa trợn trông rất ư tập trung và căng thẳng.
Nhu nghe tiếng chú Chín về đã lật đật dọn cơm. Cô bước ra định mời, thấy cảnh đó thì ghìm lại liền, bước trở lui, núp vô cửa buồng rồi dỏng cả hai cái lỗ tai.
Cô nghe tiếng thím Chín nói:
-Chắc phải làm như vậy mới được. Tánh chỉ hiền chắc hổng nở làm "mất mặt bầu cua" của thầy Bảy đâu!
Chú Chín bỗng nhớ ra cái điều mà hôm trước thím Chín thắc mắc. Chú nói:
-Ông thầy Bảy chưa có "xơ múi" gì chị Sáu hết. Bà vừa bụng chưa?
Thím Chín lắc đầu:
-Ông nói như vậy tui còn lo thêm chớ vừa bụng cái gì!
Rồi hai người làm thinh. Lúc nầy Nhu mới bước ra, làm mặt tỉnh rụi mà thông báo:
-Con dọn cơm xong rồi!
Ăn cơm xong chú Chín lại xách xe đạp đi. Thím Chín còn ngồi lại ra vẻ nghĩ ngợi. Hai cái chưn mày của thím chụm đầu vào nhau.
Nhu vừa chồng mấy cái chén vô mâm để bưng một lần cho gọn, vừa hỏi:
-Bộ thầy Bảy sắp cưới dì Sáu hả má?
Thím Chín giựt mình một cái đụi. Thím hỏi:
-Sao con biết?
Nhu nói đại:
-Con Nhạn nó kể.
Thím Chín ngạc nhiên:
-Làm sao mà biết, bộ chị Sáu kể cho nó nghe hả?
Nhu đâm ra hối hận. Cô lo thím Chín hỏi Nhạn rồi lòi ra là mình nói dóc nên căn dặn thím Chín:
-Nó biểu con giấu biệt cái chuyện nầy, bởi vậy má đừng có đi gặp nó rồi hỏi tới hỏi lui nghe má.
Thím Chín không trả lời mà hỏi tiếp:
-Hai anh em nó có chịu cho chị Sáu lấy chồng hông?
Nhu trả lời:
-Con hổng biết.
Thím Chín xúi Nhu:
-Con hỏi nó, rồi dò ý thằng Phục giùm má coi!
Thấy Nhu có vẻ thờ ơ, thím Chín biết cô không thích nên nhấn mạnh:
-Phải hỏi liền cho má nghe hông? Để hông thôi tới bữa đó tụi nó vặn nài, bẻ ống là mệt lắm!
Nhu hỏi:
-Bữa nào hả má?
Thím Chín bèn kề tai cô nói nhỏ rồi dặn:
-Cái chuyện nầy hệ trọng lắm đó đừng có rỉ răng nghe không?
Nhu vừa gật, vừa dạ lia lịa. Cô đang bưng cái mâm đi ra sàn nước thì thím Chín kêu lại:
-Nếu tụi nó không chịu thì con ráng nói vô giùm! Má thấy thầy Bảy được lắm. Ổng thương chỉ thiệt tình nên mới bỏ công đeo đuổi lâu đến vậy. Vừa qua chỉ bị té một cái quá mạng, móp cái sọ, nghe đâu mai mốt dễ chết giấc lắm. Có ông thầy thuốc sát bên nách mới sống lâu được.
Tối hôm đó Nhu lập tức rủ Nhạn qua nhà để hỏi coi cô có chịu để dì Sáu lấy thầy Bảy không, và nhờ Nhạn dọ ý Phục thay mình.
Nhạn ngạc nhiên hết sức, cô hỏi:
-Làm sao chị biết?
Nhu đáp :
-Thầy Bảy có nhờ ba, má chị đứng ra làm mối giùm. Ba má chị thấy mấy lúc sau nầy dì Sáu bịnh rề rề hoài, ưng ổng có lợi cho dỉ nên nhận lời. Hình như dỉ ngại con cái hổng chịu với lối xóm dị nghị nên không dám ưng.
Nhạn nói:
-Hổng nghe má nói gì hết! Em thấy mỗi lần thím Chín đem chuyện thầy Bảy ra ghẹo là má hay phủi lia, phủi lịa. Coi bộ má đâu có ưa ổng.
Nhu lắc đầu:
-Tánh dì Sáu kín đáo lại hay mắc cỡ, nên hổng muốn ai biết đó thôi! Không ưa sao nhận xấp gấm ổng tặng mà đưa cho em may áo dài?
Nhạn chưng hửng:
-Mèn đéc ơi! Vậy mà em hỏi cái má nói má mua lâu lắm rồi.
Rồi giọng cô buồn thiu:
-Má mà về nhà ổng ở chắc em nhớ chịu hổng thấu. Tối em phải ngủ một mình, hổng ai nói chuyện, bịnh cũng hổng ai cạo gió với gãi giùm cái ...
Nhu ngắt ngang:
-Cần cái gì thì kêu chị một tiếng. Nhà thầy Bảy ở gần xịt chớ có xa xôi gì đâu! Nhớ là chạy qua mấy hồi. Còn hơn dỉ đi chầu diêm vương là khỏi có gặp à nghen!
Nhạn về nhà lòng đầy phân vân. Cô thấy Phục đang ngồi ôm cây đàn búng từng tưng thì ngồi cạnh rồi hỏi:
-Má đâu rồi anh Hai?
Phục đáp:
-Má đi ra tiệm cô Năm mua đồ.
Rồi hỏi:
-Em đi đâu mới về vậy?
Nhạn đáp:
-Chị Nhu kêu em qua nói chuyện.
Phục dừng tay, hỏi:
-Chuyện gì?
Nhạn không trả lời mà hỏi lại:
-Anh có thích má đi lấy chồng hông?
Phục ngạc nhiên, nhìn Nhạn trân trân. Y cũng không đáp liền mà hỏi lại:
-Tại sao em hỏi như vậy?
Nhạn đem chuyện Nhu nói với mình ra kể. Phục nghe rồi hỏi:
-Ý em làm sao?
Nhạn đáp:
-Em chỉ sợ má về đó cực thôi hà. Cái nhà thì lớn mà cái vườn thì rộng minh mông, lau quét không cũng đủ mệt!
Phục gật đầu:
-Em nói đúng đó. Anh cưới vợ đặng có người săn sóc má. Từ giờ trở đi, anh không để cho má mó tay vô chuyện gì hết! Mắc gì má phải về đó rồi mang tiếng mẹ ghẻ con chồng.
Nhạn nói:
-Rủi má bịnh nặng, má xỉu hoài thì làm sao anh hai?
Phục vò vò cái đầu không đáp. Nhạn bồi thêm:
-Chị Nhu nói má cũng có thương ổng nữa!
Phục giựt mình:
-Sao cổ biết?
Nhạn đem chuyện cái áo dài ra kể cho Phục nghe rồi nói:
-Cái tánh má anh biết rồi đó! Hổng thích ổng thì dễ dầu gì má chịu cầm.
Phục không đáp, gương mặt buồn hiu, ngồi thừ không nói thêm tiếng nào. Y như quên hẳn Nhạn đang ngồi bên cạnh và quên luôn cây đàn trong tay
Chiều hôm sau Tím chở Nhạn về nhà, cô đem theo bộ đồ tây vừa may cho Phục mặc thử. Cô thích mấy chú rể mặc theo tây, áo sơ mi, đóng thùng chớ không thích y phục cổ truyền, áo dài, khăn đống. Lúc đưa Tím về Phục không rẻ vào chòm mả mà chạy thẳng. Phục đáp lại những câu hỏi của cô một cách rời rạc. Bàn tay Tím đặt trên eo Phục lỏng ra, Phục không cầm lấy rồi đặt trở lại chỗ cũ như mọi lần. Tím nghe tủi, đến khu nhà hoang cô nói:
-Thôi anh bỏ em xuống đây đi, một lát đi bộ về xa lắm!
Giọng cô đầy vẻ trách móc. Phục chợt nhớ ra, biết Tím giận nên dừng xe, quay người ôm cô rồi nói:
-Thôi mà! Đừng có giận.
Rồi chàng quay xe trở lại, Tím hỏi:
-Sao không chạy thẳng mà...
Phục không đáp, chạy một mạch đến chòm mả.
Ánh trăng bị trái đất gọt mất một miếng nên không sáng lắm. Phục dừng lại giấu xe rồi dắt Tím lại cái chỗ khuất của cái mả lớn nhất .
Tím chỉ lên mặt trăng rồi nói:
-Chừng nào cái mặt trăng nầy tròn là...
Phục chẳng nhìn theo ngón tay cô trỏ, điều nầy khiến cơn giận vừa bỏ đi bỗng quay trở về với Tím. Cô ngồi xích ra rồi rút bàn tay mình ra khỏi tay Phục.
Phục nhìn lên mặt trăng rồi nhìn xuống gương mặt đang ngước lên của Tím. Trăng chảy tràn trên mặt cô, mắt và tóc Tím ướt rượt, gương mặt Tím trông mơ màng, tinh khiết, đẹp đến nổi Phục không dừng được đưa cả môi lẫn mũi rà lên đó. Tím vẫn còn giận nên đưa tay xô ra, Phục hỏi:
-Bộ em giận anh hả?
Tím vẫn không thèm trả lời. Phục giải thích:
-Anh đang rầu trong bụng quá chừng!
Nghe vậy Tím liền nguôi, cô hỏi:
-Có chuyện gì vậy? Nói em nghe đi!
Phục kể cho Tím nghe rồi nói:
-Em không được kể cho má với mấy bà chị nghen!
Tím gật đầu, cô nói:
-Ngu sao mà kể!
Phục lập lại y nguyên những lời nghe được từ miệng Nhạn. Cho dù rất thương dì Sáu nhưng Tím vẫn thích cô và Phục được tự do, một mình, một cõi nên nói:
-Thầy Bảy giàu lắm đó! Cái nghề chích thuốc dễ kiếm tiền nhứt. Bây giờ thiên hạ bịnh quá trời quá đất. Anh tới nhà thương mà coi, đông còn hơn cái chợ nữa.
Rồi cô nói:
-Ai mà bịnh bất tử tới đó đều phải chờ đợi lâu lắm! Mấy cô y tá đòi đủ thứ giấy tờ, gặp bịnh nặng dám chờ tới chết mà còn chưa gặp được bác sĩ nữa. Bởi vậy có người nhà biết nghề thuốc cũng đỡ lắm! Không phải tốn tiền mà còn khỏi lo mất mạng.
Cô hỏi thêm:
-Hổm rày má có bị xỉu nữa hông?
Phục lắc đầu.
Tím nói:
-Em có biết một người, đang đi cầu cá bị kinh phong giựt, té xỉu rồi chết luôn dưới đó.
Cô nói tiếp:
-Cả xứ nầy chỉ có nhà thầy Bảy là làm cầu tiêu máy trong nhà thôi hà!
Phục hỏi:
-Sao em biết?
Tím cười:
-Anh tới nhà ổng chưa? Tới đó đi rồi thấy. Ổng làm cái bồn chứa nước mưa ngay trên nóc nhà tắm. Nghe nói ổng cưng vợ lắm, hổng muốn bả xuống sông nên làm nhà kiểu vậy. Còn cho đào cầu tiêu sát một bên luôn để bả khỏi đi cầu cá.
Phục hỏi:
-Nó có bay mùi không?
Tím lắc đầu:
-Không một chút nào mới lạ chớ!
Ý định nhứt quyết không cho má mình lấy thầy Bảy của Phục, bỗng bị cái cầu tiêu làm lung lay tận gốc.
Tím còn dùng hết sức xô mạnh thêm một cái:
-Nhà mình có một cái buồng hà! Má nhường cho tụi mình rồi ra bộ giạt nhà sau mà nằm thấy kỳ quá!

Thấy Phục không nói mà chỉ ngồi đăm chiêu, Tím hỏi:
-Em nghĩ chắc má thương thầy Bảy kha khá rồi đó! Lúc nầy thấy má cười nhiều hơn lúc trước. Má cũng đâu có già gì mấy. Mình mà thương má thì nên...
Phục ngắt ngang:
-Anh với con Nhạn thì hổng nói gì, chỉ sợ má bị thiên hạ chê cười mà thôi!
Tím cự:
-Người ta chê đâu phải chuyện nào cũng đúng. Có khi chuyện tốt cũng bị chê tuốt luốt. Cái tánh của bà con là thích chê hơn khen. Có khi trong lòng thì khen mà nghe người ta chê thì cũng bắt chước chê theo. Chuyện nào mà thấy tốt cho mình, mà hổng hại ai thì cứ làm đại chớ hơi đâu mà lo!
Phục nghĩ ngợi giây lát rồi nói:
-Để anh hỏi ý kiến chú Chín cho chắc ăn.
Chú Chín Nho chẳng những có tánh tốt, ngay thẳng, nhiệt tình... mà còn là người có học vấn cao nhứt nên được bà con kính nể. Nghe đâu ngày xưa chú được lên tỉnh học, bị rớt cái bằng gì đó nên thua buồn, bỏ học luôn mà ở nhà làm ruộng. Trong xóm Cầu Ván hể có những vụ xích mích, tranh chấp, đôi co... người ta ít khi lôi nhau ra tòa mà nhờ chú phân giải giùm. Chú thích dĩ hòa vi quí nên đem hết tài "thuyết khách" của mình ra khuyên nhủ đôi bên. Nhờ vậy mà mấy cái chuyện to bị chú xé ra thành nhỏ xíu, còn những chuyện nhỏ thì bị cà nhuyễn thành tro rồi bị gió thổi bay đi mất.
Trăng chui vào mây nên gió liền đi kiếm. Thấy không khí có vẻ âm u quá, Tím đâm sợ. Cô bèn đứng lên rồi hối Phục chở mình về.
Phục chở Tím đến cổng rồi trả xe lại để đi bộ về nhà. Cái dáng lủi thủi của y làm Tím xúc động.
Tím gọi lại Phục trở lại rồi nói:
-Anh đạp xe về cho nhanh, mai cô út đi học đem trả luôn thể.
Phục lắc đầu:
-Thôi đi bộ cho giãn gân cốt.
Tím chỉ tay lên trời:
-Anh coi kìa, mây đen hết rồi, ông trời đang chuyển bụng, dám xán một đám mưa bất tử lắm! Khuya rồi, cả nhà em chắc đã ngủ hết ráo, chẳng ai biết đâu mà ngại.
Giọng cô nghe khá cương quyết, giải thích cũng hợp lý nên Phục nghe theo.
Tím chờ cho Phục chạy mất biệt mới quay vào nhà. Dượng Hai nằm đưa võng trước hàng ba, vừa thấy cô bước vô là lập tức thông báo:
-Má mầy đang hầm hơi lắm đó. Coi chừng nghe!
Tím riu ríu đi vào nhà trong, cô bước thiệt nhẹ để không có tiếng chưn vậy mà khi đi ngang căn buồng lớn, cũng nghe tiếng tằng hắng, rồi tiếng dì Hai kêu giựt ngược:
-Đi ra chòm mả hú hí với nhau, tới bây giờ mới vác cái mặt về nhà phải hông?
Tím hết hồn đáp nhỏ xíu:
-Dạ đâu có, tại bộ đồ hơi rộng, con phải bóp lại cho vừa nên ...
Dì Hai ngắt ngang:
-Bây đừng có qua mặt tao! Coi chừng mang cái bụng thè lè rồi bị cười cho thúi đầu đó.
Thấy Tím cúi đầu làm thinh nên dì Hai cho rằng mình đã đoán đúng phóc. Dì đùng đùng nổi giận, vừa nghiến răng trèo trẹo vừa nói:
-Đừng có thấy tao xuống nước mà làm tới nghe hông! Tao tháo được hổng lẽ cột lại hổng nổi? Tụi bây buông tuồng là tao dẹp cái đám cưới liền đó!
Biết má mình tính tình cứng rắn, nói là làm nên Tím lật đật nói:
-Tụi con đâu có dám mặc áo chui đầu, tại nhà anh Phục xảy ra một chuyện nên...
Dì Hai ngắt lời rồi hỏi dồn, hỏi dập:
-Chuyện gì? Có hệ trọng lắm hông? Nói tao nghe thử!
Tím kể cho má mình nghe, thêm thắt chút đỉnh cho câu chuyện đượm phần gay cấn. Dì Hai vừa nghe vừa chắt lưỡi, nói một cách ngậm ngùi:
-Mèn ơi! Ai dè chị Sáu ốm nhom, ốm nhách lại có số đào hoa tới cỡ đó. Tội nghiệp cô Út Ngọt, chờ đợi cả chục năm rồi đùng một cái...
Tím e dè căn dặn:
-Má đừng có nói cho chị Hai, chị Ba với mấy đứa kia biết nghe má!
Dì Hai nạt:
-Bộ bây giờ mầy tính làm má tao hay sao mà lên mặt dạy dỗ vậy?
Tím lật đật cải chính:
-Đâu có, đâu có...Tại con sợ má vui miệng rồi...
Dì Hai hứ một tiếng ra vẻ phật ý. Tím nghe yên tâm nên quay quả vào buồng. Cam nằm cạnh dì Hai bây giờ mới dám cựa mình.
Dì hai vội hỏi:
-Mầy thức hay ngủ đó Cam?
Cam đáp tỉnh bơ:
-Ngủ!
Dì hỏi tiếp:
-Nãy giờ có nghe cái gì hông?
Cam làm bộ mờ ơ hỏi lại:
-Nghe vụ gì hả má?
Dì Hai lắc đầu, hấp tấp nói:
-Hổng nghe thì thôi!


Cam giả bộ tài tình quá khiến dì Hai tin là cô ngủ ngon chẳng nghe được gì ráo. Dì xét thấy không cần dặn dò cô phải hàn kín cái miệng lại.
Ngay sáng hôm sau Cam liền thông báo cho mấy chị em trong nhà của mình biết về cái tin "giựt gân" đó mà không một chút e dè, cũng không yêu cầu họ phải giữ kín. Cô cũng không quên nhín chút thời giờ báo liền cho mấy người bạn thân của mình. Chị em của Cam cũng làm y chang như cô vậy.
Thế là cái đám cưới bí mật tuyệt đối của dì Sáu và thầy Bảy bị bật mí banh chành.
Cái tin nóng hổi vừa thổi vừa nghe đó nhanh chóng được bà con khắp xóm rỉ tai nhau. Họ nói thật nhỏ nên mắt phải mở to hết cỡ để trợ lực thêm cho hai cái lỗ tai đang dựng đứng. Nó mang tính cách "vô tiền khoáng hậu" nên ai mà biết được thì mừng như có của quý. Ngay lập tức họ nghe ngứa ngáy toàn thân, chẳng thể nào giữ riêng cho mình mà phải đem khoe mới hả lòng, hả dạ.
Cô Tám "tự nhiên"(gọi là vậy vì trong bất cứ câu nói nào cô cũng chen chữ "tự nhiên" vào cho bằng được, dù nghe chẳng "tự nhiên" chút nào), vừa nghe xong là xách nón đi cái vù qua nhà dì Sáu Lữ liền. Dì Sáu Lữ gặp cô cũng mừng tới nhảy dựng lên.
Cả hai nói một lượt:
-Chị biết tin gì chưa, chị Sáu với thầy Bảy...
Hóa ra họ đều vừa nghe tin đó nên cùng nôn nóng gặp nhau.
Niềm vui của họ bị "lợn cợn" vì phát hiện mình không phải là người biết trước.
Cả xóm đều háo hức chờ đợi đến ngày ấy, ai cũng muốn chứng kiến tận mắt sự kiện đặc biệt đó. Khi đi mời (ở quê bà con chưa dùng đến thiệp, chỉ cần mời "miệng" là đủ) khách đến dự đám cưới, dì Sáu đi ngang qua nhà mợ Hai Thọ mà không ghé vào (dì không định mời mợ Hai vì sợ bị bà con chê trèo cao), liền bị mợ Hai chạy ra kêu lại mà hỏi:
-Ủa chị Sáu đi mời đám cưới hả? Bộ chê tui nghèo hổng có tiền mừng hay sao mà không...
Dì Sáu lật đật chống chế:
-Đâu có, đâu có! Tại tui thấy nhà chị buông tấm sáo kín mít nên nghĩ chắc cả nhà đang ngủ. Tui hổng dám phá cái giấc trưa, định bụng chiều mới ghé!
Để không phụ lòng bà con, dì phải ghé từng nhà, cái danh sách khách mời cứ tiếp tục dài ra. Ai được mời cũng tỏ vẻ vui mừng, hí hửng, kể cả những người dì chỉ tiếp xúc vài lần.
Dì Sáu vô cùng cảm động và ngạc nhiên trước những tấm thạnh tình ấy. Xem ra dì là người duy nhứt không biết chút xíu nào về cái đám cưới của mình.
Đúng ngày rằm, ngay sáng sớm, chiếc tàu rước dâu được gắn mấy sợi dây giăng từ cột cờ ra tận mũi và sau lái với vô số lá cờ nhỏ hình tam giác đủ màu, đã đậu sẵn dưới bến. Cái "bích cúp" trên tàu phát ra toàn những bài vọng cổ mùi mẩn. Một đám con nít, trai có, gái có, đứng hoặc ngồi chồm hổm trên bờ đăm đăm nhìn xuống. Đứa thì dỏng tai nghe, đứa thì đưa ngón tay trỏ vừa chỉ vừa đếm từng cây cờ. Mấy đứa con trai nghịch ngợm lượm mấy cục đá trên mặt đường ném xuống sông cho nước văng lên tàu chơi, báo hại ông tài công phải rát họng la rầy từng chập.
Đến giờ rước dâu, đoàn người ăn mặc lịch sự bắt đầu xuất hành. Đi đầu là chú Chín rồi tới Phục, chú rể phụ, dì Sáu, các cô bác lớn tuổi, những đôi vợ chồng đề huề... Mấy cô gái xinh đẹp mặc áo dài đủ màu, mỗi cô bưng một cái xửng có phủ vải đỏ bên trên. Tất cả đều bước một cách trịnh trọng giữa hai hàng con nít chen chúc đứng trố mắt nhìn thò lõ.
Thím Chín và Nhu đứng trong nhà nhìn ra. Thím Chín xúc động đến nghẹn ngào. Cái đám cưới long trọng nầy là do công của thím. Dì Sáu, nhân vật chánh hôm nay, trẻ ra hơn chục tuổi, đẹp đến bất ngờ với áo quần và trang sức hực hở cũng nhờ công của thím.
Những lời trầm trồ, khen ngợi lao xao vang đến bên tai như để ca ngợi cho riêng thím, khiến thím sung sướng đến rưng rưng nước mắt.
Chiếc tàu nổ máy tành tạch rồi từ từ xa dần. Thím Chín lê tấm thân nặng nề bước ra bờ sông đứng nhìn theo mãi miết. Bên cạnh thím, cái đám con nít cũng chưa chịu giải tán. Chúng lao xao phê bình, so sánh coi ai đẹp nhứt trong cái đám rước dâu.
Rồi tụi nhỏ cũng bỏ đi từ từ, chỉ còn lại trên bến sông, một mình thím Chín cứ đứng chôn chưn một chỗ, mắt đăm đăm ngó về một phía.
Khoảng ba tiếng đồng hồ sau tiếng máy tàu "tành tạch" nghe ngày một rõ dần. Đám con nít trong xóm, những đứa ban nãy, lại gọi nhau ríu rít:
-Tàu rước dâu về rồi tụi bây ơi!
Chúng lại chen nhau bu kín bến sông, đông còn hơn lần trước.
Đoàn người khi về dài gấp đôi lúc đi. Họ cũng được chào mừng rôm rả hơn gấp mấy lần.
Nhân vật quan trọng nhứt, cô dâu, tạo ra một điều bất ngờ hết sức thú vị: Cô không mặc chiếc áo dài bình thường mà mặc cái áo đầm bằng sa ten trắng muốt .
Hai chiếc bàn lớn giữa nhà, nơi trang trọng nhứt, được dành cho họ hàng hai bên. Cô dâu chú rể không được ngồi vào đó, mà phải đứng sau lưng cậu Hai Thọ, trên chiếc chiếu bông trải trước bàn thờ chờ lạy.
Công việc đầu tiên và thiêng liêng nhứt là đốt hai cây đèn cầy cắm lên bàn thờ.
Trước đó vì không định mời gia đình cậu Hai Thọ nên chú Chín được giao nhiệm vụ nầy. Chú Chín nhường việc lên đôi đèn lại cho cậu Hai, người có đông hào con, nhiều hào của nhứt trong xóm.
Cậu Hai Thọ ít chịu lên đèn cho ai, kể cả chòm xóm láng giềng hoặc họ hàng ruột thịt. Chắc nể nang chú thím Chín dữ lắm nên ổng mới nhận lời.
Công việc nầy tuy tăng thêm uy tín cho người đảm nhiệm, bởi bà con thường chọn những người hội đủ ba tiêu chuẩn: Phước, lộc, thọ. Thế nhưng ít người đàn ông nào (việc nầy hoàn toàn giao phó cho nam giới, phần lớn là các cụ ông) dám nhận vì họ sợ bị đổ thừa, bởi việc lên đôi đèn được tâm linh hóa nhiều lắm. Bà con thường căn cứ vào độ cháy lu hay tỏ, lâu hay mau, đều hoặc không...đó để đoán xem cô dâu và chú rể ai sống lâu hơn ai. Hể ngọn đèn bên tay trái tắt trước bên tay phải thì người ta đinh ninh là cô dâu về lâu, về dài phải chịu cảnh góa chồng.
Thời chinh chiến có nhiều cuộc hôn nhân gãy đổ vì thời cuộc. Người thấu hiểu thì không nói gì, kẻ mê tín thì hay cho rằng tại người lên đèn nặng bóng vía hoặc làm không đúng phép tắc nên bị thánh thần trừng phạt.
Cậu Hai chập hai cây đèn cầy lại để đốt một lượt, sao cho chúng cháy đều như nhau. Cậu đưa cặp đèn lên trán khấn khứa một hồi rồi mới cặm vào hai chưn đèn của cái bộ lư bằng đồng. Cậu đốt ba cây nhang xá ba cái cắm vào lư hương, xong xuôi đốt thêm hai cây nữa để đưa cho chú rể một, cô dâu một.
Cậu nói:
-Tụi con lạy cữu huyền đi.
Cái màn lạy nầy chú rể chiếm vai trò quan trọng nhứt. Các bậc trưởng bối bên đàng gái chăm chú nhìn từng động tác đứng lên, vòng tay, quỳ xuống ấy để đánh giá dân tình trong xóm biết lể nghi, phép tắc...nhiều hay ít. Cho nên các chú rể phải tập lạy trước ngày cưới có khi đến cả tháng.
Ở phía nhà gái thì cái màn hái cau, lấy trầu mới được nhiều người chú ý. Cái mâm trầu phủ tấm vải đỏ mà đàng trai bưng qua được để ngay chính giữa, trước mặt bàn thờ. Cô dâu và chú rể phải tranh nhau thò tay vào hái cau, lấy trầu. Số trầu cau nầy được để vào dĩa rồi đặt lên bàn thờ.
Bà con cho rằng ai ra tay nhanh nhất sẽ nắm quyền người kia, cho nên cả hai cùng hấp tấp, sao cho nhanh hơn, nhiều hơn đối phương. Có đôi tin thiệt, có đôi chỉ cốt ghẹo nhau. Họ luýnh qua, luýnh quýnh trông rất mắc cười.
Xong việc lể bái, mấy cái quả được đem vô nhà sau, lễ vật trong đó được chia ra bốn phần, đàng gái giữ ba, lại quả cho đàng trai một. Riêng cái mâm trầu là không ai được động vào. Tấm vải đỏ phủ lên nó phải được giữ y cho đến ba ngày sau, khi chú rể đưa cô dâu về "phản bái", cả hai phải làm lễ trước bàn thờ cữu huyền một lần nữa rồi mới cùng giở ra. Vì vậy ngày nầy còn được gọi là ngày lễ "giở mâm trầu".
Sau màn lạy bàn thờ và ra mắt họ hàng của cô dâu chú rể, giây phút mong đợi của bà con rồi cũng đến. Chú Chín cầm một cái bao thơ dày cui đưa cho Phục và nói :
-Đây là số tiền chợ mà thầy Bảy nộp cho đàng gái để xin rước má con là chị Sáu đây về làm vợ của thầy. Số nữ trang gồm có một sợi dây chuyền hai chỉ có gắn cái mặt cẩm thạch hình trái bí. Hai tấm lắc, một trơn hai chỉ, một nhận hột hai chỉ rưởi. Hai chiếc cà rá mỗi cái một chỉ. Tất cả đều được giao trước và chị Sáu đang đeo.
Rồi chú kéo thầy Bảy, đang đứng sau lưng mình từ lúc bắt đầu làm lễ, ra trước mặt. Chú cầm tay của dì Sáu đặt vào tay thẩy rồi đẩy ổng xáp lại sát bên dì Sáu.
Chú nói, giọng rất trịnh trọng:
-Bắt đầu từ lúc nầy, hai anh chị là vợ chồng rồi đó!
Bà con ồ lên trầm trồ, rất ít người tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ mình ên dì Sáu là chới với như bị trời trồng. Cái vẻ mặt sững sờ ấy, được bà con cho rằng, đó chính là biểu hiện của niềm vui tột bực và nỗi e thẹn chín mùi của một cô dâu tuy đã qua cái tuổi cập kê quá sức lâu !
Cả chục năm sau và cho đến bây giờ... Cái xóm cầu Ván vẫn còn nhắc nhau và kể cho người khác về cái đám cưới kép nổi đình, nổi đám đó.
Họ kể với một niềm tự hào bởi chắc chắn rằng trước đây chưa có và sau nầy cũng không. Mãi mãi chẳng nơi nào có được một sự kiện đặc biệt như cái xóm của họ!
Nó quá sức đặc biệt bởi nhiều thứ xuất hiện lần đầu : Lần đầu tiên trong một gia đình có đến hai đám cưới cử hành một lượt. Lần đầu tiên mẹ đi lấy chồng và con trai lấy vợ cùng một lúc. Lần đầu tiên cô dâu không mặc áo dài mà mặc cái "xoa rê" to đùng với cái thân trên bó rọ lòi cả hai cánh tay, còn thân dưới thì rộng rinh và dài mút mắt cá.
Người ta dồn hết sự chú ý vào nhân vật và sự kiện cho đến nỗi bỏ qua lời khen ngợi về những món chay có cái tên rất gợi cảm như thịt heo quay kho chao đỏ, vịt tiềm bát bửu, nem chay, gỏi gà xé phai...do thím Chín thực hiện hết sức công phu, có mùi vị y như món mặn.
Thím Chín chẳng lấy thế làm buồn, bởi thím vô cùng mãn nguyện khi sau bữa tiệc, dì Sáu đã chịu riu ríu theo thầy Bảy về lạy bàn thờ nhà ổng và để cho Nguyên gọi dì là má.


Ngay khi nhiệm vụ hoàn thành, tối hôm ấy thím Chín liền trở dạ. Dì Sáu tạm gác chuyện động phòng, suốt đêm đó dì kè kè bên cạnh thím Chín để lo cho thím như lời đã hứa.
Thầy Bảy đưa dì đến rồi cũng ở lại để tiếp một tay.
Cô dâu, chú rể trẻ, mới tinh, cũng tạm hoãn binh để túc trực bên nhà chú Chín.
Ai cũng lăng xăng lo lắng, nhứt là chú Chín, chỉ mỗi mình thím Chín là tỉnh rụi, không biết để trấn an mọi người hay do thím quá tự tin vào nội lực của mình.
Cũng như hầu hết bà con nông thôn, thím Chín rất sợ đến nhà thương. Một phần do đa số nhân viên ở đó đều mang gương mặt bình tĩnh đến độ vô cảm, phần khác những người chơn chất ấy rất ngại tiếp xúc với những tầng lớp được họ xem là thượng lưu, trí thức. Thím Chín, vốn có lòng tự trọng hơn người, không thích bị ai la rầy nên đòi sanh tại nhà.
Ngày trước khi sanh Nhu thím được bà mụ Thậm đỡ đẻ trót lọt, nên dù cả gia đình và thầy Bảy thuyết phục, thím vẫn cuơng quyết không chịu đi nhà thuơng.
Thầy Bảy lấy chiếc xe hon đa đi rước bà mụ ở tận Chợ Vàm. Bà mụ Thậm đã già lắm rồi! Mắt mờ tay run nên dắt theo cô con gái, trợ thủ đắc lực của mình.
Chiếc xe tống ba, chạy vù vù nên cả hai người ngồi phía sau đều vòng tay ôm cái eo của ông thầy Bảy chặt cứng. Đến trước cửa ổng thắng lại một cái ét cho họ bước xuống rồi thở gấp mấy hơi.
Thím Chín không đau bụng nhiều lắm, chỉ nghe nhức nhức cái lưng, nên rất an tâm. Các thai phụ thường cho rằng đau lưng là dấu hiệu nhau đang tróc, sanh rất lẹ.
Bà mụ Thậm lấy hai bàn tay sờ soạn, mân mê cái bụng của thím xem thai nhi đã trở đầu chưa.
Bà căn dặn:
-Khoan có rặn à nghe! Chừng nào tui biểu hãy làm.
Thím Chín không trả lời chỉ gật đầu ra vẻ đã hiểu.
Ở nhà ngoài chú Chín đi tới đi lui một cách bức rức, bồn chồn. Nghệ, thầy Bảy và Phục thì ngồi im ru trước mấy tách trà nguội ngắt, còn đầy tới miệng.
Trong bếp Nhạn, Nhu, Tím cũng ngồi cạnh nhau bên cái bếp lò đỏ rực với nồi nước đang sôi sùng sục bên trên. Họ chẳng có hứng thú trò chuyện, lắng tai nghe tiếng thở nặng nhọc của thím Chín từ trong buồng đưa ra bằng nét mặt lo âu.
Bỗng họ nghe tiếng bà mụ Thậm thúc:
-Rặn đi!
Thím Chín mím cả mũi lẫn miệng, ém hết hơi lại rồi dùng hết sức bình sanh để dồn nó xuống dưới, hầu trục xuất cái đứa cứng đầu đang nằm ì trong đó.
Lần đầu thất bại, thím dừng lại và thở dốc.
Bà mụ Thậm an ủi:
-Ráng một chút xíu nữa thôi, nó sắp ra rồi. Tui sờ trúng cái đầu đây nè!
Thím Chín rướn người, hít một hơi thật sâu rồi lập lại động tác cũ. Lần nầy cũng không thành công.
Bà mụ Thậm lại lấy tay xoa bụng thím.
Bà kêu con gái :
-Út! Con gãi nhè nhẹ lên chỗ nầy để cái dạ con nó nhột mà gò cho dữ.
Thím Chín đã thấm mệt, trán thím lấm tấm mồ hôi. Dì Sáu lấy cái khăn mặt mới tinh còn trắng bóc lau cho thím. Đôi mắt dì nhìn thím một cách xót xa, bàn tay dì bóp chặt tay thím như cố truyền hết sức lực của mình qua đó!
Bà mụ Thậm vẫn tỏ vẻ bình tĩnh .
Bà nói, giọng dỗ dành:
-Lần nầy chắc chắn là được, ráng lên đi em!
Một cơn đau ập đến, thím Chín bất giác kêu thất thanh:
-Má ơi!
Cái tiếng gọi thiêng liêng đầy tha thiết từ một người đã làm bà ấy, đã mang đến một niềm tin và sức mạnh kỳ diệu! Lần nầy cả đứa bé lẫn lá nhau cùng xổ ra một lượt.
Có tiếng khóc oe oe và giọng dì Sáu kêu to đầy phấn khởi:
-Con trai.
Gương mặt chú Chín giản ra, một nụ cười gắn liền trên đó.
Bà mụ Thậm bỗng kêu thất thanh:
-Băng huyết rồi, ông thầy Bảy ơi!
Thầy Bảy đã dự trù trước trường hợp nầy. Ổng vớ cái ống thuốc đã luộc trong nước sôi, lập tức gắn vào nó một cây kim được sát trùng cẩn thận. Ổng bẻ ống thuốc cái rốp, cho liền mũi kim vào rút một cái ót, đưa lên ngang mặt, nhấn cái bít tông cho mấy giọt nước rơi ra để loại bỏ không khí rồi lụi vô đùi thím Chín liền.
Ổng vừa bước ra là chú Chín hỏi liền:
-Có sao hông thầy? Có cần chở đi nhà thương liền hông?
Thầy Bảy lắc đầu:
-Máu ra cũng không nhiều lắm ! Cái thuốc nầy cầm máu rất hay, để coi có bớt hông cái đã.
Ngay lúc đó bà mụ Thậm cũng móc trong túi ra gói cỏ mực đưa cho con gái. Cô ta không hỏi han gì hết, có lẽ họ đã xử lý tình huống băng huyết nầy rất nhiều lần.
Cô Út bước vô nhà bếp, vừa đưa cho Nhạn, vừa ra lịnh:
-Đâm cái nầy cho nát, rồi vắt nước vô chén, làm rút rút lên!
Nhạn chụp lấy rồi hỏi:
-Có rửa trước hông?
Cổ lắc đầu:
-Rửa sẵn rồi!
Quay sang Tím cô hối:
-Đốt liền cái vỏ dừa khô, đem than hòa vô nước, gạn lấy nước trong non nửa chén, trộn chung với nước cỏ mực rồi đem vô buồng đưa cho tui!
Bắt đầu từ lúc đó không khí trong nhà bỗng trở nên hết sức khẩn trương.
Dì Sáu lật đật rút cái mớ giấy súc thấm máu ướt nhẹp dưới người của thím Chín ra, bỏ vào cái xô đựng rác rồi thay vào đó một xấp giấy mới.
Bà mụ Thậm lấy cây kéo đang ngâm trong nước sôi ra, lau khô. Bà cắt sợi dây nối liền rún đứa nhỏ với bánh nhau một đoạn dài dài rồi cột gút lại.
Cái thau chứa bánh nhau được đưa ra ngoài. Chú Chín cầm lấy rồi đem chôn dưới gốc bui tầm vông.
Khi trở vô chú sai Phục:
-Con đập cửa cô Năm mua một chai la de cho chú:
Phục ngớ người kinh ngạc, lầm bầm trong bụng:
-Cha nội nầy bộ mừng quá đâm khùng hay sao, nhè lúc nầy mà...
Chú Chín liền giải thích:
-Tắm cho thằng nhỏ.
Không hiểu ai phát minh cái trò tắm bia mà nhà nào có thai phụ sắp sanh cũng mua bia trữ sẵn. Mấy đứa nhỏ vừa mới chào đời là đã tắm trong bia. Cho nên cái thế hệ sau nầy uống bia cao hơn lớp trước nhiều lắm!
Chú nói tiếp:
-Thím Chín bây sanh hơi đột ngột nên chú chưa kịp chuẩn bị.
Phục nghe vậy liền an tâm, ba chưn bốn cẳng chạy ra nhà cô Năm, xòe bàn tay vỗ bành bạch vô cánh cửa lá sách, miệng réo liên hồi:
-Cô Năm ơi! Cô Năm!
Cô Năm đang ngủ, nằm trong mùng hỏi vọng ra, giọng nhừa nhựa :
-Ai đó?
Phục hấp tấp đáp:
-Con là thằng Phục nè!
Cô hỏi, giọng xẳng lè:
-Mua món gì?
Phục van nài:
-Cô bán cho con một chai la de con cọp.
Cô Năm tràn trề bất mãn, từ chối phắt:
-Nhậu cái giống gì mà lựa cái giờ bất nhơn dữ vậy bây...
Phục ngắt ngang:
-Hổng phải đâu cô Năm ơi! Thím Chín đẻ rồi , mua bia về để tắm cho thằng nhỏ.
Cô Năm luýnh quýnh:
-Mèn đéc ơi! Vậy mà tao tưởng... Chờ chút xíu nhe!
Cô không kịp xỏ chưn vô dép, chạy bay ra kệ, không cần đốt đèn mà vẫn lấy trúng phóc. Cô mở cửa đưa chai bia cho Phục.
Phục hỏi:
-Bao nhiêu...
Cô Năm xua tay:
-Đem về liền đi, mai mốt tính!
Phục vừa đi vừa chạy, về tới nhà là đưa liền cho chú Chín.
Chú Chín cầm lấy rồi chưng hửng:
-Sao không nhờ cổ khui luôn?
Phục không nói không rằng, giựt chai bia lại rồi kê vô miệng. Y dùng hai hàm răng cắn chặt cái nắp bia rồi kéo nó bật lên cái một!
Chú Chín không bước vô buồng, chỉ lòn tay đưa vô mà nói:
-Lấy cái nầy mà tắm cho thằng con tui nè!
Dì Sáu lật đật chụp lấy rồi đưa cho bà mụ Thậm. Bà dốc chai rót hết vào thau nước rồi nhúng đứa nhỏ vô.
Tím bưng chén thuốc bước vào buồng đưa cho bà mụ. Bà không cho thím Chín ngồi dậy uống, bắt nằm bất động, không được nhúng nhích, cục cựa gì hết! Đích thân bà múc từng muỗng nước đổ vào miệng thím Chín. Để thím không sặc -điều nầy vô cùng nguy hiểm- bà múc mỗi lần chưa tới nửa muỗng, vừa đút, vừa nói:
-Nuốt từ từ thôi, không nổi thì lè ra, đừng có ráng.
Những tia máu phún ra từ từ chậm lại rồi ngưng bặt. Bà mụ thở ra một cách nhẹ nhỏm.
Bà nói một cách tự hào:
-Cái thứ cỏ mực với tro vỏ dừa nầy coi vậy mà cầm máu hay số một!
Dì Sáu lật đật chạy ra báo với thầy Bảy:
-Hết ra máu rồi!
Ổng đáp bằng cái giọng tuy cố làm ra vẻ thản nhiên, nhưng vẫn mang nặng mùi tự đắc:
-Chớ sao! Cái ống thuốc của tui là loại cầm máu hiệu nghiệm nhứt đó!


Đúng chín ngày sau Nhu cũng bắt kịp thím Chín. Lần nầy Nghệ nhứt quyết không để vợ sanh tại nhà mà đưa thẳng lên nhà thương Tân Châu.
Mấy mẹ con dì Sáu tạm thời phân chia công tác: Nhạn được "biệt phái" theo Nhu vào bệnh viện; Dì Sáu vẫn túc trực bên thím Chín; Tím lo đi chợ nấu cơm cho Phục mang vào cho Nhu và Nhạn.
Mỗi ngày phải mang cơm hai buổi, gộp lại gần tám mươi cây số, nên thầy Bảy cho Phục mượn chiếc xe hon đa để đi cho lẹ, ít tốn thời giờ.
Bà con trong xóm đến thăm thím Chín đều đặn. Riêng mợ hai Thọ mỗi ngày đều có mặt. Mợ mang đến khi thì hộp phấn có cái tên dài thòn bằng tiếng Mỹ, khi thì chai dầu xanh (lần nầy thím Chín chẳng những không từ chối mà còn cám ơn rối rít), khi thì mấy thanh sô cô la mà mợ luôn miệng quảng cáo là ngon và bổ thượng hạng. Món nầy mới biết lần đầu mà thím Chín đã dành cho nó một mối cảm tình thắm thiết.
Còn có một loại kẹo dẹp lép có mùi bạc hà, dai nhách mà mợ dặn đi, dặn lại là nhai hết thơm, hết ngọt thì nhả bỏ, đừng có nuốt mà nghẹt ruột. Ban đầu thím Chín không dám ăn, cho tới một lần lấy ra nhai thử thấy sạch, thơm miệng đễ chịu quá thì đâm ghiền.
Chỉ duy nhứt cái món đựng trong hộp giấy tròn tròn, dẹp dẹp có hình con bò đeo bông là thím hổng ưa. Thím còn không ngửi được mùi của nó chớ nói gì bỏ vô miệng. Thím đưa hết cho dì Sáu, biểu dỉ mang về cho thầy Bảy.
Ông thầy Bảy mừng như bắt được vàng! Ổng nhét cái miếng hình tam giác trắng như bánh đúc đó vô ổ bánh mì rồi năn nỉ dì Sáu ăn thử.
Dì Sáu nể bụng chồng nên cũng ngoạm một miếng. Dì muốn nhả ra liền mà không dám, tại nghe ổng nói là thứ nầy quý lắm nên ráng trợn trắng, trợn dọc mà đẩy nó vô bao tử.
Thầy Bảy thấy nét mặt đau khổ của dì thì thở dài, chép miệng:
-Cái món ngon như vậy mà ăn sao coi bộ khổ sở quá! Nó đâu phải đồ thường, xứ mình ít ai được nếm? Món nầy là đồ tây, mắc lắm đó!
Dì Bảy lắc đầu:
-Đồ Tây, đồ U gì cũng hổng ham. Đồ ăn của họ làm sao bằng được đồ ăn của xứ mình. Thấy nó thua xa mấy thứ đường tán, đường thẻ.
Rồi dì lim dim con mắt mà nói:
-Chẳng thể nào ngon bằng nhai hai cái cùi chỏ của cái ổ bánh mì lò đầu còn nóng hổi, giòn khấu, với một cục đường móng trâu cắn nghe cóc cóc.
Thầy Bảy cười ghẹo:
-Cám ơn nghe! Vậy là hai cha con nhà nầy hưởng trọn.
Dì Sáu dặn dò:
-Ăn hết nhớ đưa lại cái hộp!
Thầy Bảy hỏi:
-Chi vậy?
Dì cười:
-Thấy nó đẹp thì cất để dành, đựng cái gì được thì đựng.
Thầy Bảy nhủ thầm trong bụng:
-"Sao mà mấy người phụ nữ họ giống nhau quá xá cỡ. Má thằng Nguyên ngày xưa cũng rửa lại từng cái bịch ni lông rồi đem phơi cho khô, xếp lại để dành".
Thầy hỏi tiếp:
-Nó nhỏ xíu, dẹp lép, đựng được cái giống gì?
Dì Sáu nói:
-Coi vậy chớ cũng đầy nhóc thứ bỏ vô lọt .
Dì xòe hết bàn tay, vừa liệt kê từng thứ vừa gập từng ngón một:
-Kim, chỉ nè! Bạc cắc nè! Mấy cái núc áo, kim tây nè...
Dì nói thêm:
-Hổng cần để đựng. Lâu lâu ngó cái hình con bò quá ngộ cũng thấy vui.
Thầy Bảy lại hỏi:
-Ở đâu mà có mấy thứ nầy vậy?
Dì đáp:
-Của chị Hai Thọ cho chị Chín. Chỉ hổng ăn nên cho lại.
Trong thời gian nầy, mấy câu đối đáp của dì Sáu và thầy Bảy thiếu hẳn các đại từ nhân xưng. Họ chưa biết thay cách gọi cũ bằng gì cho phải. Gọi "anh, em" giống tụi trẻ thì kỳ. Gọi "ông, bà" như những cặp vợ chồng lớn tuổi nghe lại có phần lạt lẽo.
Họ cứ phân vân, chưa lựa được tiếng thích hợp nên tạm thời cứ nói trống huơ, trống hoác. Cách nầy coi vậy mà hay đáo để. Cái chỗ bỏ trống đó luôn kích thích trí tưởng tượng của cả hai. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, khi thì họ bổ xung ngầm bằng những từ vô cùng âu yếm, khi thì ngược lại.
Từ ngày ưng thầy Bảy, ngoài nhận được sự chăm sóc, thương yêu của chồng, dì Sáu còn được bà con lối xóm trọng vọng hơn một chút. Điều nầy khiến dì càng mang ơn chú, thím Chín nên dốc hết sức ra săn sóc hai mẹ con thím.
Thím Chín chỉ cần nhìn mâm cơm hàng ngày, với những món mà dì Sáu luôn thay đổi để tạo cho thím cảm giác lạ và ngon miệng, là biết ngay là dì Sáu đã tận tụy với thím tới cỡ nào. Dì Sáu chịu khó ra vườn lựa rau, lựa trái cho đúng ý mình. Dì chọn trái đu đủ mỏ vịt, có cái vỏ hơi hườm hườm mà hái đặng đem hầm với giò heo (cái giò sau được dì cạo trắng bóc không còn một sợi lông), để thím ăn cho lợi sữa.
Ơ cá kho tiêu được dì để tâm nhiều nhất! Dì mua tiêu sọ, mỗi lần dùng đều chịu khó đem rửa sạch, rang lên cho thơm rồi mới đâm rắc vô. Mấy món rau lang, rau dền, rau rệu, rau chay, hành lá (mấy sản phụ được khuyến khích ăn hành luộc cho nhiều, ngược lại món hẹ chẳng bao giờ được góp mặt)... luộc, luôn xanh mướt, nóng hổi. Những miếng sườn cốt lết được dì nướng trên lửa than đỏ rực, quạt đến không còn chút khói, luôn tay trở đều nên vàng rượm, bóng lưỡng. Chúng thơm phức chẳng hề bị cháy đen hay bụi tro bám mặt nên vô cùng hấp dẩn.
Ngay cả gạo cũng được dì lựa ra từ hột cỏ, hột thóc... Dì dùng nồi đất để nấu, nhờ vậy mà thím Chín ăn đến cuối buổi, cái lớp cơm hông, cơm cháy vẫn giòn và cơm nạt vẫn nóng.
Chú Chín mang ơn dì Sáu nhứt ở việc dì chẳng cho chú đụng tay vào thứ gì kể cả phơi đồ. Vào thời buổi mà xà bông vừa cứng vừa sần sùi vì có cả cát lẫn sạn dính vào, vò không ra bọt... Chẳng biết dì giặt bằng cách nào mà mấy cái tả của thằng bé vẫn trắng tinh như mới, còn quần áo của thím Chín chẳng hề nghe những mùi đặc trưng của sản phụ như sữa, máu, dầu khuynh diệp... chút vào.
Dì bắt Phục mỗi ngày phải gánh nước đổ đầy mấy cái lu rồi lóng phèn cho thật trong để dùng vào việc giặt giũ. Dì đem cả thau đồ ra phơi ở chỗ nắng nhứt, kể cả đồ lót. Điều nầy bị bà con ngứa con mắt dữ lắm, bởi xưa nay mấy món "tế nhị" nầy đều bị nhét vào trong mấy cái góc tối hù. Theo lời thầy Bảy việc đó giúp những loại mốc sinh sôi nẩy nở, chúng là nguyên nhân tạo ra những căn bệnh hiểm nghèo của phụ nữ. Thế nên dì mặc kệ những lời dè biểu, cứ đem hết ra phơi ngoài nắng.
Những cái tả, cái khăn, áo quần... lấy từ dây phơi vào đều được dì giũ thật mạnh cho mấy con kiến hoặc bồ hung bám vào phải sút tay văng xa. Khi xếp lại dì còn kiểm tra rất kỹ bằng mắt, giũ thêm một lần nữa rồi vuốt thẳng và xếp thật ngay ngắn, trông chẳng khác như được ủi.
Dù không nói ra nhưng lòng biết ơn của thím Chín luôn được bộc lộ qua ánh mắt. Tình bạn của họ qua những giai đoạn như thế nầy càng được thắt chặt hơn.
Điều ấy đã khiến bà con lối xóm xúc động lây. Họ nhìn vào rồi dần cải thiện quan hệ với nhau, khiến không khí của xóm Cầu Ván thêm trong lành, ấm áp!

Nhu cầu nhận và cho của những người phụ nữ về lãnh vực tình cảm hầu như không có giới hạn.
Khi ở cái tuổi còn nhảy cò cò và bún dây thun, những cô bé gái và cơm còn rơi ra khỏi miệng ấy, trong những lúc chuyền tay từng khúc mía, củ khoai, hoặc khoác vai nhau vừa đi trên con đường cộ mát rượi vừa đọc: "Cập kè ăn muối mè ngồi xuống, ăn rau muống đứng lên"... Mặc dù vẫn giãy nãy khi bị ghẹo về chuyện chồng con, lại thường ngoéo tay, cam kết rằng sau nầy nhứt định phải làm sui với nhau cho bằng được.
Ở thím Chín điều nầy lại càng bức thiết!
Thím Chín "mê" dì Sáu đến độ muốn cả hai vượt qua cái tình bạn bình thường mà tiến xa hơn nữa, trở thành người một nhà mới ưng cái bụng.
Không biết thím cầu xin tha thiết tới cỡ nào mà các vị Phật và Quan thế âm Bồ tát cảm động, phù phép cho cái bụng của dì Sáu ngày một to dần.
Người mừng nhất lại không phải là thím và dì Sáu mà chính là thầy Bảy.
Khi chú Chín vỗ vai ổng bồm bộp mà nói:
-Máy móc ông coi bộ còn ngon lành dữ hén!
Ổng ngạc nhiên trố mắt nhìn chú, rồi hỏi:
-Ủa! Làm sao mà ông biết?
Bây giờ lại đến lượt chú Chín ngạc nhiên, chú hỏi lại:
-Bộ ông chưa hay sắp có thêm một đứa kêu mình bằng cha sao?
Thầy Bảy lắp bắp:
-Thiệt...hả?
Chú Chín lại hỏi tiếp:
-Bộ chị Sáu chưa...
Thầy Bảy lắc đầu:
-Không nghe bả nói gì hết!
Thầy không nén được, buột miệng hỏi một câu hết sức cắc cớ:
-Làm sao mà ông lại biết trước tui?
Chú Chín cười ngượng, đưa tay gãi đầu:
-Tui nghe má con Nhu nói hôm qua.
Thầy Bảy chợt nhớ ra, hình như mấy tháng nay "cái chuyện đó" của vợ chồng họ không hề bị gián đoạn.
Cả ngày hôm ấy thầy giống như đứa trẻ lượm được cái trứng gà trong cây rơm, thủ tay vô túi áo giữ hoài sợ bể, ráng chờ cho tới lúc bà má nấu cơm để bỏ vô luộc ké.
Tối đó, thầy đặt tay lên bụng của dì Sáu và hỏi:
-Nó ở trỏng phải hông?
Dì Sáu gật đầu.
Thầy nói giọng hờn mát:
-Vợ mình có bầu mà được chồng người ta cho hay, ngộ ghê!
Dì Sáu giải thích:
-Ai mà biết chị Chín tỏ con mắt dữ vậy! Ban đầu nghe bả nói hổng tin, tới chừng để ý mới biết!
Thầy Bảy còn chưa hết dỗi:
-Vậy sao hổng cho biết liền?
Dì Sáu nhắm mắt:
-Kỳ thấy mồ!
Vẻ mặt sượng sùng của dì Sáu làm thầy Bảy bị kích thích, vòng tay đang lơi bỗng siết chặt thân hình nhỏ bé của dỉ thêm chút nữa.
Ổng rút cái gối dưới đầu của dì Sáu ra, lòn cánh tay vào để thế chỗ, vừa ngậm hờ mấy sợi tóc mai của dì trên môi, ổng vừa nói bằng giọng mơ màng:
-Có khi nào là một cặp con gái không ta?
Dì Sáu cười:
-Một đứa còn mệt cầm canh, hai đứa ai mà mang nổi?
Dì hỏi tiếp sau mấy phút im lặng:
-Mà sao thích con gái dữ vậy? Nếu là hai đứa thì một trai, một gái có phải tốt hơn hông?
Thầy Bảy lắc đầu:
-Có con trai mệt lắm! Y như trồng tre, càng lớn càng nhiều gai góc. Có con gái như trồng một chậu bông, đẹp nhà đẹp cửa mà có khi còn nên thuốc!
Dì Sáu cố làm nghiêm mà không được, bật cười trước cách so sánh của ổng.
Dỉ vốn chiều chồng nên mấy tháng sau cũng cho ra đời một cô công chúa nhỏ.
Thím Chín giành công:
-Bà chúa Xứ của mình linh thiêng hết sức, hôm trước tui qua xin xăm bà phán liền là chị sanh con gái.
Dì Sáu hỏi lại, giọng ngờ vực:
-Bộ trong lá xăm có nói rõ ràng là tui sanh con gái sao chị?
Thím Chín cắt nghĩa:
-Trong xăm không có nói như vậy. Tại tui vái cho chị sanh con gái để gả cho thằng Nhỏ (thằng con trai của thím ở nhà được gọi là "Nhỏ"). Cái lá xăm đó có ghi chữ "thượng thượng". Ông thầy bàn xăm nói là tốt hạng nhứt, ai mà xin được nó là cầu cái gì được cái đó! Bởi vậy bây giờ chị mới sanh con gái, trúng phóc!
Thím dừng lại một chút rồi nói tiếp:
-Chẳng giấu gì chị, làm chuyện gì tui cũng qua hỏi ý bà, hể bà nói được là tui mới dám làm.
Thím suy nghĩ hồi lâu rồi nói tiếp:
-Con nhỏ nầy coi như của bà ban cho mình, mai mốt chị cứng cáp rồi, tụi mình phải bồng nó qua trình cho bà thấy với tạ lễ mới được.
Dì Sáu làm theo răm rắp. Thầy Bảy tuy không tin lắm nhưng cũng chiều vợ. Ngày thôi nôi bé Xíu, (cái tên nầy do thím Chín đặt), ổng quay một con heo đúng tạ đem qua cúng bà rồi mang về đãi hết bà con lối xóm!
Bé Xíu, con gái của dì Sáu, được hai mươi bốn tháng rồi mà Tím cũng chưa cấn thai. Dì Sáu lo ghê lắm. Dì có cảm giác như mình giành cái phần có con với cô con dâu vậy.
Dì cứ rủ thím Chín đi Châu đốc thăm bà hoài. Mấy món đem cúng thường được dì xin lại một ít mang về cho con dâu ăn lấy lộc, vậy mà Tím vẫn trơ trơ.
Khỏi phải nói là Tím buồn đến mức nào. Cô lén chồng đi hết thầy nầy đến thầy khác, uống đủ loại từ thuốc nam, thuốc bắc kể cả mấy lá bùa đốt thành tro đem hòa tan trong nước.
Cuối cùng Phục phải đưa vợ xuống Sài Gòn, tìm đến bệnh viện Từ Dũ, nơi nổi tiếng có bác sĩ trị cái bịnh chậm con giỏi nhứt, để khám.
Cái câu mà người phụ nữ lớn tuổi, đeo cặp kín trắng dày cui thông báo: " Vòi trứng bị nghẹt, không thể có con được" đã khiến Tím té xỉu liền tại chỗ!
Từ một phụ nữ tháo vát, vui tươi... căng tràn sức sống. Tím bỗng trở nên bạc nhược, mặt mũi chao vao. Phục nghe thương vợ quá đỗi. Chàng biết Tím lo mình không có con rồi bị chồng chê, chồng bỏ, nên cam đoan :
-Hổng có con để thương thì tụi mình càng rảnh rỗi để săn sóc và thương nhau bù lại. Anh không phải như người ta, lấy vợ chỉ vì muốn có con. Hể không được thì hất hủi, rẻ rúng.
Chàng cố tìm mọi cách nói cho Tím vui:
-Không con coi vậy mà sướng! Khỏi cần làm tới trầy da tróc vảy để nuôi tụi nó. Khỏi cần cắc củm từng đồng, thích gì làm nấy...Hổng chừng nhờ vậy mà sống lâu trăm tuổi.
Dì Sáu không dám để lộ vẻ thất vọng, dì khuyên:
-Tại cái số của con hổng phải cực với con nít. Không có con để thương thì nương vô cháu. Tụi con còn chị em, họ hàng đầy đàn, đầy đống... Mai mốt xin của mỗi người một đứa. Tới chừng đó không cần mang nặng đẻ đau cũng có một bầy loi choi, mặc sức mà nựng.
Bà con trong xóm cầu Ván, ai cũng tìm cách gặp Tím để an ủi. Thế nhưng chẳng thể nào xóa sạch nét ủ ê, chán nản trên gương mặt của cô.
Tím càng ngày càng gầy hẳn đi. Phục cũng vậy, chàng còn đau xót hơn vợ vì cho rằng mình bị trừng phạt vì đã phạm cái tội tày trời.
Nhạn dù tâm tâm, niệm niệm rằng suốt đời không thèm lấy chồng cũng cố an ủi chị dâu.
Cô hứa :
-Em mà có con thì nhứt định cho chị liền cái đứa đầu lòng của mình.
Tím nghe cô nói chắc lọi thì phì cười hỏi:
-Rủi chồng cô hổng chịu thì làm sao?
Nhạn nghênh mặt:
-Hổng chịu sao được? Con là do em đẻ ra chớ bộ!
Tím lắc đầu đáp:
-Để mai mốt rồi coi!


Ai cũng cho rằng cái câu "không lấy chồng" của Nhạn là nói cho vui thôi, đâu ngờ nó là ý định hết sức nghiêm túc của cô.
Xuất phát từ một nỗi ám ảnh mà cái chết của người chị thứ hai của mình đưa đến. Nhạn cho rằng chuyện vợ chồng là điều thô bỉ và vô cùng nguy hiểm. Cho nên mặc dù ngày càng xinh đẹp (gần như là ngộ nhứt xóm) Nhạn vẫn không thèm đáp lại vô số những tia mắt mà các chàng trai phóng, chiếu vào cô.
Đúng như lời nói giỡn ngày nào của thím Chín. Một hôm khi thím đang lui cui gom lá trong vườn lại để đốt, mợ Hai Thọ bỗng từ sau lưng đi tới, vỗ vai rồi hù thím một cái.
Thím Chín vốn có máu liệu nên phát ra một tràng:
-Ba mầy chết, má mầy chết, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại mầy chết...
Mợ Hai Thọ, bây giờ đã vượt qua mức xã giao, trở thành bạn của thím và dì Sáu, hầu như mỗi lần có dịp đi ngang nhà thím đều ghé vào nói ba điều, bốn chuyện... Cười sằng sặc rồi trách đùa:
-Đụng có chút xíu mà lôi hết cha mẹ, ông bà của tui ra rủa vậy đó hả?
Thím Chín ghét nhứt là ai đem cái tật nầy của mình ra ghẹo, chù ụ cái mặt ra mà hỏi:
-Sao bữa nay chị hưỡn quá vậy, chịu khó đi qua đây mà ghẹo tui?
Mợ Hai cười ra vẻ biết lỗi, rồi giải thích liền lý do:
-Má thằng Công nó nhờ tui hỏi ý chị Sáu cho nó qua bỏ trầu cau con Nhạn.
Công, cháu ngoại lớn nhứt của mợ Hai, bằng hoặc lớn hơn Nhạn chừng một hai tuổi, đang làm việc trong một cơ sở sản xuất ở Sài Gòn.
Thím Chín nhìn mợ Hai chằm chặp để xem mở nói chơi hay thiệt. Vốn còn tức cái chuyện bị hù nên thím hỏi bằng giọng mĩa mai:
-Trong xóm thiếu gì con gái mà chị lựa cái đứa trôi sông, lạc chợ như nó?
Mợ Hai xua tay lia lịa:
-Chị đừng nói như vậy mà tội nghiệp nó. Vợ chồng chị Sáu bộ hổng phải coi nó như con ruột hay sao? Nó cũng có cha mẹ, anh em như ai chớ bộ!
Thím Chín hối hận tràn trề, thím nói:
-Coi bộ chị cũng tỏ con mắt đó! Khắp xóm nầy hổng có đứa nào coi ngộ mà còn hiền siêng, giỏi, có hiếu như nó đâu ! Lại còn có tánh liệu cơm gắp mắm nữa.
Mợ Hai Thọ gật đầu, xác nhận:
-Bởi vậy má thằng Công nó mới để ý, mới chọn. Nói thiệt với chị cũng có mấy người thấy nó hiền nên đòi làm sui mà nó đâu chịu tới.
Thím Chín gặng:
-Cái vụ nầy là do chị, cô Hai hay là thằng Công nó đòi?
Mợ Hai đáp:
-Ai cũng có trong đó.
Thím Chín hỏi tiếp:
-Sao chị hổng hỏi tận mặt chị Sáu cho chắc ăn?
Mợ Hai lắc đầu:
-Tánh chị Sáu e dè, khó nói chuyện lắm. Tui thấy chỉ nể nang chị dữ lắm! Chị mà nói vô một tiếng là xuôi rót liền. Cái chuyện chỉ đi thêm bước nữa đó, hổng có chị xúi thì dễ dầu gì chỉ dám rồi được sung sướng như bây giờ. Chỉ chịu ơn gia đình chị nhiều thứ lắm, chị mà nói vô là kể như ăn chắc!
Câu tâng bốc ấy gột sạch nỗi bực bội trong lòng thím Chín. Thím ậm ừ:
-Tui hổng dám hứa à nghen! Để coi coi...
Mợ Hai hối:
-Chị mở lời liền giùm tui đi. Con Hai nó có đi coi thầy năm Cơ. Ổng nói cái tuổi của thằng Công năm nay cưới vợ là tốt nhứt!
Thím Chín gật đầu :
-Vậy để một lát tui tới nhà chỉ, rồi hỏi ý hai mẹ con họ coi sao!
Ngay khi mợ Hai ra về, thím Chín tức tốc đến nhà dì Sáu, thím báo tin vui đó bằng giọng mừng khấp khởi:
-Chị coi! Hồi đó tui chỉ nói chơi nào dè trúng phóc! Chị Hai nhờ tui nói với chị, để con gái cổ là cô Hai Phước, qua nhà coi mắt con Nhạn cho thằng Công, con trai thứ hai của cổ.
Dì Sáu trợn thiếu điều lòi hai con mắt. Dì hỏi lại:
-Thiệt hả?
Thím Chín gật đầu thật mạnh để khẳng định, thím khen:
-Cô Hai Phước hiền khô hà! Còn thằng Công đó coi phải thế đàn ông lắm nghe! Lại được cho ăn học tới nơi tới chốn nữa.
Dì Sáu hỏi nhỏ:
-Sao nghe nói "quậy" lắm mà!
Thím Chín khoát tay:
-Đó là hồi xưa chớ bây giờ nó được lắm! Khắp vùng nầy không có cái đám nào tốt bằng đâu. Đừng có chần chờ gì hết, ưng đi chị, để vuột là uổng ghê lắm!
Dì Sáu nói:
-Để tui hỏi ý con Nhạn, coi nó có chịu lấy chồng hay không đã chớ! Trước giờ nó ghét cái chuyện nầy dữ lắm ! Bộ chị không thấy hay sao?
Dì chắt lưỡi, nói thêm:
-Tui thấy nó hai mươi mấy tuổi rồi mà không thèm để ý tới con trai, cũng hổng biết làm điệu như con gái người ta nên trong bụng rầu hết biết! Cứ biểu nó chưng dọn, đánh mặt, đánh mày lên rồi đi phụ mấy cái đám cưới, đặng gặp người nầy người kia mà nó đâu có chịu làm theo .
Dì thở một hơi dài thậm thượt. Thím Chín an ủi:
-Sanh con ai nỡ sanh lòng? Huống hồ chi mình lại còn không sanh. Mưa giầm thấm lâu. Chị mà nói hoài thì có ngày cũng lọt vô lỗ tai của nó.
Dì Sáu lắc đầu:
-Tui thấy coi bộ nó hổng muốn lấy chồng, chắc hổng chịu nghe đâu chị Chín ơi!
Thím Chín trề cái môi dưới ra dài cả tấc mà nói:
-Chị thấy đàn bà con gái của mình, từ trước tới giờ có ai nói ra miệng là muốn có chồng hay không? Vậy mà chị đếm thử giùm tui coi, giáp vòng trong xóm có được mấy người tự ý ở giá.
Thím hạ giọng:
-Chẳng giấu gì chị, hồi đó tui cũng "mết" ba con Nho dữ lắm đó chớ! Vậy mà khi ổng đi cưới, dù mừng gần chết cũng làm bộ từ chối ba lần, bốn lượt. Cái đêm lạy xuất giá cũng khóc thôi là khóc. Nếu lúc đó má tui cũng tin thiệt, không chịu gã, chắc tui tức tới ói máu quá!
Dì Sáu cười thôi là cười. Thím Chín cũng cười theo.
Ngay chiều hôm đó thím Chín kho mắm rồi rủ Nhạn qua nhà ăn. Đây là món ruột của Nhạn nên cô lập tức nhận lời chớ không từ chối như mọi lần.
Để tiện việc dò ý, thím dọn cho Nhạn ăn riêng trong bếp với mình.
Nhìn cái cách Nhạn lùa chén rau ghém chan ngập mắm vào miệng rồi nhai rau ráu một cách hết sức ngon lành mà thím Chín nghe mát ruột quá cỡ.
Thím hỏi:
-Nghe nói mắm bò hóc của người Miên khó ăn lắm hả con?
Nhạn lắc đầu:
-Ai nấu sao con hổng biết chớ má con làm thì ngon dữ lắm!
Thím hỏi tiếp:
-Ngon hơn mắm của người Việt mình hông?
Nhạn suy nghĩ một lát rồi nói:
-Cũng hổng hơn, hai thứ mắm nầy xêm xêm , một chín, một mười với nhau.
Thím Chín gặng:
-Thím với má con kho mắm có giống nhau hông?
Nhạn lắc đầu:
-Không giống lắm!
Thím Chín hỏi:
-Con thích của ai hơn?
Nhạn cười:
-Bây giờ thì con thích bằng chớ hồi trước chắc con thích của má ruột hơn.
Thím Chín lại hỏi:
-Con có thường nằm chiêm bao thấy ba má với anh chị em của mình hông?
Nhạn bỗng rơm rớm nước mắt:
-Lúc trước con thấy hoài, nhứt là chị Hai của con, bây giờ thì ít lắm.
Thím Chín hỏi tiếp:
-Bộ con thương chị Hai của mình dữ lắm hả? Mà tại sao chị con chết vậy?
Nhạn để chén cơm trên tay xuống, móc túi lấy cái khăn mùi xoa ra chùi nước mắt. Cô vừa gật đầu vừa nói, giọng nghẹn ngào:
-Chị con bị mấy người lính Pôn Pốt hãm cho tới chết!
Thím hỏi:
-Làm sao con biết?
Nhạn nức nở:
-Con núp trong cái đống rơm dưới giường. Con nghe tiếng chị con la khóc lồng lộng. Mới đầu chị con giãy giụa dữ lắm! Họ xúm nhau kềm tay, kềm chưn. Chừng họ bỏ đi, con chui ra thì thấy chị con nằm im ru, hai con mắt trợn ngược. Con còn chưa biết chỉ chết, cứ nắm chưn mà giựt hoài...
Hai gò má của thím Chín cũng ràn rụa nước mắt. Thím ôm Nhạn, siết chặt vào lòng mình mà nói:
-Mèn đéc ơi! Tội nghiệp cháu tui quá!
Thím chợt hiểu ra lý do khiến Nhạn "kỵ" đàn ông.

Thế nhưng thím Chín không nản chí, ngược lại còn cố thuyết phục Nhạn cho bằng được.
Thím cho rằng việc Nhạn chứng kiến cái chết của chị mình, bị ám ảnh đến độ từ bỏ niềm hạnh phúc thiêng liêng nhất đối với người phụ nữ: Làm mẹ, làm vợ... Là một điều hết sức dại dột.
Thím hỏi Nhạn:
-Vậy là con nhứt quyết ở giá cho tới chết hả?
Nhạn gật đầu một cách quả quyết.
Thím thở dài rồi nói:
-Con thấy chị mình bị như vậy rồi đâm ra thù ghét hết nìn ông là hổng có đúng. Đâu có phải cứ một lần đạp cức là một lần chặt chưn. Như vậy là ngu đại hạng đó!
Thím hỏi tiếp:
-Con có biết má Sáu con thích thứ gì nhứt hông?
Nhạn lắc đầu, nhìn thím như dò hỏi. Thím Chín nói:
-Má con thích nhứt là mấy đứa con của mình đều có vợ có chồng hẳn hoi, rồi sanh con đẻ cái để chỉ được bồng cháu đi khoe y như mấy người khác.
Thím dừng lại một lát rồi chép miệng nói tiếp:
-Tội nghiệp cho chị Sáu! Đã hổng có cháu nội mà rồi cũng không được bồng cháu ngoại.
Rồi thím đặt điều để nói thêm cho Nhạn xiêu lòng:
-Hôm bữa má con nói với thím, nguyên xi như vầy, thím không thêm, không bớt một chữ :"Nói thiệt với chị, nghe con Nhạn nó hứa cho vợ chồng thằng Phục đứa con đầu lòng của mình tui mừng hết sức. Cho dù ông trời bắt tụi nó không có con nhưng mà nhờ vậy con Nhạn chịu lấy chồng nên tui hổng hề oán trách ổng chút xíu nào".
Thím Chín khiến Nhạn cứng họng không nói được một tiếng. Ngồi cúi mặt vò vạt áo một hồi, Nhạn mới ngẩng đầu lên hỏi, giọng nao núng:
-Má con nói với thím như vậy thiệt sao?
Thím Chín làm bộ giận dỗi:
-Bộ bây tưởng tao dựng chuyện hả?
Thấy thím giận, Nhạn hoảng hồn.
Cô cố chống chế:
-Đâu có, đâu có! Tại con quen cái tật hỏi đi hỏi lại nên...
Nhận ra tấm vách tường đã lung lay rồi, thím Chín xô thêm một cái thiệt mạnh:
-Ông trời đặt để cho con người ta hết rồi con ơi! Từ con vật tới con người, cái gì cũng phải có trống có mái hết. Con nói thử coi, tại làm sao mà nìn ông, nìn bà cho dù mặt mũi, tánh tình khác nhau xa lắc, có khi còn chỏi kịch liệt, nhưng bắt buột phải dựa vô nhau mà sống, chịu đựng nhau cho tới già tới chết?
Nhạn không trả lời nên thím giải thích:
-Tại vì nếu hổng có như vậy thì ổng phải tự mình lo nặn ra con nít hoài hoài. Làm hổng hở tay, còn thì giờ đâu mà dòm ngó tới hằm bà lằng việc khác. Cho nên ổng ghét mấy người ở vậy lắm! Hành hạ họ đủ kiểu. Ai mà ráng chống lại tới cùng, thì ổng khiến cho đến lúc già khú đế cái bỗng dưng riu ríu nghe theo. Còn hông thôi thì cũng ức cho đến nổi chết không nhắm mắt!
Thím đưa ra bằng chứng:
-Con thấy hông? Má con cho dù đã gần năm mươi, có con trai, con gái đầy đủ rồi vẫn còn phải bước thêm bước nữa với thầy Bảy đó!
Nhạn phản đối:
-Má con đâu có muốn, tại...
Thím Chín cười:
-Con tính đổ thừa là tại chú thím lập thế để má con phải lấy ông thầy Bảy hả? Tại con hổng biết đó thôi! Má con coi hiền rụi như vậy chớ tánh tình cứng cỏi hơn ai hết! Bả mà hổng chịu thì ông trời có xuống đây ép cũng không được chớ đừng nói gì là chú với thím.
Vận hết nội công, thím "đã" thêm một đòn chí mạng:
-Tội nghiệp chị Sáu! Bỏ công, bỏ của mà thương, mà nuôi, mà lo cho con hổng thiếu thứ gì... Mai kia, mốt nọ có người độc mồm, độc miệng...Họ ghét rồi đặt điều là chỉ không muốn gả con, tại vì thấy con Tím không chửa đẻ được, nên giữ lại để dành sẵn đó cho...
Nhạn tái mặt hét to:
-Hổng có chuyện đó đâu! Ai mà ghét má con tới nổi nói ác như vậy được ?
Thím Chín lắc đầu:
-"Dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người ". Cho dù má con không động chạm tới ai, nhưng cái vụ thầy Bảy cưới chỉ bộ ai cũng vui sao? Trong xóm nầy có bao nhiêu cô gái lỡ thời, bao nhiêu đàn bà giá còn ít tuổi hơn chị Sáu nữa, con biết hông?
Thấy Nhạn trợn mắt ngó mình, thím nói thêm:
-Hôm bữa nghe thím kể lại cái vụ cô Hai Phước, con gái mợ Hai Thọ đánh tiếng, xin cưới con cho thằng Công, má con mừng dữ lắm! Chỉ muốn cho con vô nơi danh giá đặng mình nở mặt nở mày với bà con lối xóm, còn con thì sung sướng như chuột sa hủ nếp .
Nhạn hỏi lại:
-Sao con nghe thím nói là làm dâu nhà giàu khổ lắm?
Thím Chín hơi mắc cỡ, chợt nhớ ra không biết bao nhiêu lần mình đã dùng câu đó để "chửi" bên chồng. Đúng là gậy ông đập lưng ông!
Thím cười giả lả, nói to để lấp liếm:
-Thì phải nói như vậy để mợ Ba Sáng không chê thằng Phục nghèo rồi hổng chịu làm mai con Tím cho nó! Con mà về nhà đó thì có ổ lót sẵn, có gạo trắng, nước trong để ngay trước mặt, khỏi lo đi bươi, đi quào, cực khổ như cả đống đứa khác, còn đòi cái giống gì nữa?
Rồi xuống giọng, năn nỉ:
-Nghe lời thím mà ưng đi! Để trả hiếu cho má con, cho bả vui mà sống cho lâu. Con cũng giữ được lời hứa với hai vợ chồng thằng Phục, mà rồi cũng khỏe cái thân!
Tất cả các lý lẽ trên được thím Chín đưa ra mỗi ngày. Thím tấn công liên tục khiến Nhạn bị áp đảo tơi bời, chỉ việc nghe thôi cũng đủ mệt chết giấc.
Ý định "không lấy chồng" của Nhạn, trước đây như bức tường được xây hết sức kiên cố, dần dà bị đánh bay mất tiêu cái chữ "không". Cô đành phải bó tay chịu trận.
Đàn bà dễ có mấy người được như thím Chín? Ham làm điều tốt cho người khác đến độ không từ một thủ đoạn nào hết. Đấy cũng bắt nguồn từ cái tình cảm sâu đậm mà thím dành cho dì Sáu.
Ông trời chắc quá cảm động trước tấm lòng chân thành đó nên chỉ tháng sau, một cái đám nói rình rang được tổ chức liền trong xóm Cầu Ván.
Khi cô Hai Phước, trong lúc giáp lời hỏi phía đàng gái là: "Có yêu cầu gì hông?". Ai cũng tưởng là dì Sáu sẽ nói thách tới nóc nhà, nào ngờ hoàn toàn trái ngược .
Dì Sáu chỉ đáp:
-Cô thích sao thì làm vậy đi. Tui hổng đòi hỏi thứ gì hết! Miễn sau nầy cô đem nó về rồi thương, coi như con gái ruột của mình là được.
Cô Hai Phước gật đầu lia lịa. Cổ vốn hiền và ít nói nên chỉ biểu dì Sáu là "đừng có lo!" mà thôi.
Hôm đám nói Nhạn mặc một bộ áo dài bằng "xoa nhung", màu hồng nhẹ như phấn thoa mặt, do chính cô tự may cho mình. Vải từ bên Mỹ, của Thụ gửi về, đàng trai đưa cho cùng lúc với một cây kiềng, hai chiếc xuyến cộng thêm năm trăm đồng tiền chợ.
Bộ áo dài vừa khít, chứng tỏ tay nghề của cô cũng không kém bà thầy Tím, đã khiến Nhạn đẹp như tiên, làm cho các chàng trai trong xóm tiếc hùi hụi.
Bà con lối xóm, họ hàng đàng trai ai cũng trầm trồ. Dì Sáu nghe mà nở từng khúc ruột, còn thím Chín thì nhìn Nhạn một cách hết sức hãnh diện.
Người mừng nhứt, khỏi nói chắc ai cũng đoán ra chính là thím Chín. Lại một lần nữa, thím cảm động đến rưng rưng nước mắt trước cái thành quả của mình.


Có lẽ chỉ mình Nhạn là không có được niềm vui thật sự như mọi người phỏng đoán.
Suốt buổi lễ hỏi cô chỉ đôi lần cười. Gương mặt buồn buồn ấy được xem là nhu mì, nghiêm trang, kín đáo... Phẩm chất của những cô gái con nhà nề nếp.
Trái ngược với Nhạn, vai nữ chánh, lại là Công, vai nam chánh. Y nói oang oang, bộc lộ tính cách tự phụ của mình một cách hết sức thoải mái. Cái tánh mà hầu hết những đứa con trai trong các gia đình giàu có, được nuông chiều thái quá, thường hay mắc phải và Nhạn ghét nhứt.
Nhạn đã cảm nhận điều đó ngay lần đầu tiếp xúc với Công.
Cô than liền với dì Sáu:
-Dòm bộ mặt dấc hấc, cái kiểu làm tàng của y sao con thấy sợ sợ, ghét ghét quá má! Mai mốt về ở chung chắc là khó thở dữ lắm!
Dì Sáu rầy:
-Mấy người đàn ông ăn nói rôm rả như vậy mới gánh vác nổi gia đình. Người chồng là cái nền nhà, phải chắc lọi thì mới đỡ nổi mấy cây cột với cái mái ở trên.
Rồi dì dẫn ra một nhân vật đối lập:
-Hiền như thằng Nguyên, con chồng của má đó, có được cái tích sự gì đâu! Hai lần cưới vợ mà rốt cuộc hổng giữ nổi đứa nào. Bà con trong xóm chẳng ai thèm nể trọng.
Nhạn nhủ thầm, đó mới chính là người mà cô cần, một người tuy không đủ khả năng che chở nhưng chắc chắn chẳng nỡ làm hại ai, kể cả cỏ cây!
Nụ cười gượng gạo của Nhạn đã lọt vào đôi mắt của Nhu. Tuy không biết những hoàn cảnh mà Nhạn đã trải qua, chưa thấu hiểu tâm trạng của Nhạn... Thế nhưng cái tính cách quá trái ngược của Nhạn và Công, khiến Nhu không khỏi cảm thấy vô cùng áy náy cho cả hai.
Nhu nói với chồng:
-Ai cũng mừng cho con Nhạn lấy được chồng giàu mà sao em thấy lo cho nó quá!
Nghệ ngạc nhiên:
-Vô nhà đó thì "ngon" quá rồi, em còn lo cái gì nữa?
Nhu lắc đầu:
-Bộ anh tưởng cứ chui vô chỗ tiền nhiều là có hạnh phúc hay sao? Mấy cô dâu trong những gia đình "quyền quý" đó, nếu không thuộc loại "môn đăng, hộ đối ", họ sẽ chỉ nhận được có hai thứ: Người ngoài thì ganh tỵ còn họ hàng bên chồng thì xem thường.
Cô nhấn mạnh:
-Em thà làm dâu trong gia đình nghèo mà được thương yêu, trân trọng, còn hơn...
Nghệ bắt lỗi vợ:
-Hình như em nhầm lẫn giữa chữ giàu với chữ ác, chữ nghèo với chữ thiện rồi!
Nhu lắc đầu:
-Em không vơ đũa cả nắm, nhưng đa số mấy người nghèo đều hiền hơn mấy người giàu.
Nghệ cười:
-Phải chờ đến lúc họ giàu mới biết! Thường thường tính cách chung của những người ở tầng lớp chịu nhiều thiếu thốn thì nhẫn nại là chủ yếu. Cái nghèo buộc họ phải nín nhịn nên bản chất thật bị đè bẹp, không có đủ điều kiện để phát triển. Có người an phận nhưng cũng có người luôn ấm ức. Tiền là dưỡng chất mà có khi là độc chất, khiến người ta khi có nhiều rồi thì tốt hơn hoặc bị hủy hoại. Nghe đâu dòng họ ông Hai Thọ cũng bắt đầu bằng hai bàn tay trắng. Anh nghe thằng Thụ kể, họ chỉ giàu lên từ thời ông nội của nó.
Thấy Nhu còn giữ nét đăm chiêu, Nghệ an ủi:
- Cô Nhạn coi vậy mà có tính quật cường lắm đó em. Huống chi thầy Bảy cũng thuộc hạng có máu mặt trong xóm, đâu thua gì bên kia.
Nhu vẫn khăng khăng:
-Giàu vay, giàu mượn thì nhầm nhò gì!
Thở ra một hơi dài, cô nói:
-Em thấy má với dì Sáu vui lồ lộ mà vừa cảm thông vừa bất mãn vừa lo...Hình như hầu hết người lớn đều mắc phải cái sai lầm nầy: Bất cứ điều gì mà họ cho là tốt cho chính mình thì đều tốt cho con, cho cháu. Họ không hề nghĩ rằng đâu phải ai cũng thích một thứ y hệt như nhau, ngay cả đồ ăn, thức uống, cũng vậy, huống hồ!
Cô bồi thêm:
-Mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều có quan điểm khác nhau. Má với dì Sáu đang tự hào vì cho rằng mình thương nên mới làm điều tốt cho Nhạn, có khi lại hại con nhỏ mà hổng biết.
Nghệ cười :
-Bởi vậy hai cái chữ "thương" và "hại" mới được ghép chung thành "thương hại" đó!
Nhu chắc lưỡi:
-Điều trớ trêu nhứt là những người càng thương nhau thì càng làm khổ nhau một cách hết lòng.
Chẳng bao lâu cái lo của Nhu được chứng minh là hoàn toàn chính xác.
Hôm ấy chỉ cách ngày đám cưới chừng hai tháng. Công về thăm nhà và Nhạn được dì Sáu cho phép qua nhà bên đó theo lời mời của bà sui.
Để hai trẻ có cơ hội gặp nhau, cứ mỗi lần Công về, cô Hai Phước lại tổ chức một bữa cơm thân mật chỉ những người trong gia đình và Nhạn tham dự mà thôi. Đây cũng là dịp để cô đo lường trình độ nấu nướng, hiểu thêm về tính cách của cô con dâu tương lai của mình .
Nhạn đã được thím Chín cho đi theo phụ bất cứ khi nào thím được mời nấu đám, nên tay nghề khá vững. Tuy không nói ra nhưng cô hai Phước mừng thầm là mình đã khéo chọn.
Sáng đó khi Nhạn đang cầm vá nhúng vô nồi canh chua cá lóc, múc lên một tí để nếm, thì từ phía sau cô, Công đưa tay ra giựt lấy, y nói:
-Để anh nếm cho!
Rồi không kịp thổi mà đưa ngay lên miệng.
Y liền la bài hải:
-Sao mà nóng dữ vậy?
Nhạn nổi xung:
-Còn trên nồi, không nóng sao được?
Công còn ráng cự:
-Vậy sao không nói trước?
Nhạn đáp:
-Có kịp nói đâu!
Công đuối lý bèn hậm hực bỏ lên nhà trên.
Đáng lẽ phải ái ngại, Nhạn lại thấy hả lòng, hả dạ. Cô giựt mình, nhận ra mình chẳng những không thấy tội cho y mà còn có cảm giác hài lòng.
Nhạn rất ngạc nhiên! Cô tự hỏi tính cho tới bây giờ, mình và Công chưa tiếp xúc đến năm lần, đâu có đủ thời gian để ghét? Không lẽ họ là oan gia của nhau từ kiếp trước?
Mâm cơm chỉ có tô canh chua, cá chiên, thịt kho mặn...Mấy món hết sức bình thường và quen thuộc, thế mà xuất sắc cho đến nổi ai cũng cắm đầu ăn quên cả chuyện trò.
Mồ hôi rịn ra trên mặt cô hai Phước, cổ móc cái khăn mù xoa bằng vải ba tích phin có rô đê bốn cạnh ra chậm rồi nói bằng một giọng hài lòng:
-Ngon quá!
Lưng áo của Công ướt rượt, chàng than:
-Trưa nay ông trời không cho miếng gió nào hết, nóng quá ăn mất ngon!
Chàng liếc Nhạn một cái, chờ xem phản ứng của cô sau câu nói ấy. Để coi Nhạn có quạt cho mình như má thường làm cho ba của Công trong mỗi lần ổng than như vậy .
Nhạn thản nhiên cầm đũa gắp cọng bạc hà trong tô canh, chấm vô chén nước mắm rồi đưa lên miệng. Cô chẳng hề nhận ra Công đang quan sát mình, cho dù ngồi khít một bên.
Công hỏi bằng giọng hậm hực:
-Sao ba má hà tiện dữ vậy? Không cho chạy cái máy phát điện đặng mở mấy cây quạt lên quay cho mát. Nóng như vầy ai mà ăn cho nổi?
Dượng hai Phước gắt:
-Dầu bây giờ mắc lắm! Ráng chịu chút xíu đi, ăn gần trọn bữa rồi. Hở hở là đòi mở máy phát điện. Xài kiểu đó là mai mốt đi ăn mày đó con!
Cô Hai muốn không khí dịu lại nên lật đật đi lấy hai cây quạt lông gà, đưa cho Nhạn một, mình một. Cô vừa quạt cho chồng vừa bảo Nhạn:
-Quạt cho anh Công đi con!
Nhạn lật đật để chén cơm xuống, cầm cây quạt lên, gương mặt lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa bất mãn.
Công nhận ra điều đó nên gạt tay cô rồi nói:
-Thôi khỏi, lo ăn đi!
Rồi đứng lên cởi phắt cái áo sơ mi đang mặc trên người ra, quày quả đi tìm chỗ treo.
Nhạn nhìn theo. Cô bỗng giựt nảy người, rúng động toàn thân khi thấy hai cái thẹo màu đỏ bầm, lồi lên như hai con thằn lằn rất to bám dính khắn vách tường, nằm rất đối xứng trên hai bờ vai của Công.
Nhạn buột miệng hỏi:
-Sao ảnh có hai cái thẹo to như vậy cô?
Cô hai Phước đáp:
-Cái đó bị cũng lâu rồi! Đâu năm, sáu năm về trước. Lúc ấy nó đi chơi ban đêm, chạy xe không thấy đường, lủi vô hàng rào rồi bị thương nặng nên mới ra thân thời như vậy!

Nhạn mím chặt môi để không bật ra lời phản đối. Cái chén bỗng nặng trĩu trên tay.
Bữa cơm chưa kết thúc, tô canh và dĩa cá chiên, thịt kho mới vơi hơn phân nửa.
Nhớ lời má dạy "trời đánh tránh bữa ăn", Nhạn phải ráng dằn lòng, thế nhưng nỗi căm hận khiến cô chẳng thiết tha đến bất cứ chuyện gì. Cảnh tượng ngày xưa như khúc phim được quay lại thật chậm, cô phải nghiến chặt hai hàm răng và bóp mạnh thiếu điều muốn gãy cả hai chiếc đũa trong tay.
Cô Hai đưa mắt nhìn Nhạn một cách van xin, ngụ ý bảo Nhạn tiếp tục quạt cho Công. Nhạn làm bộ ngó lơ, cô chẳng thể cầm lên cây quạt. Ngay cái việc dòm mặt Công, cô còn làm không nỗi nữa là!
Tia mắt của cô Hai buồn buồn, đượm đầy nét không hài lòng. Cô chợt nhận ra Nhạn tuy bên ngoài có vẻ yếu ớt nhưng có tánh "ba gai" ngầm, không dễ sai, dễ bảo như cô nghĩ.
Cô tự hỏi:
-Con nhỏ nầy đâu có phải thuộc hàng "thiên kiều bá mị". Thằng Công quen biết bao nhiêu con gái, có đứa còn đẹp gấp đôi, không hiểu tại sao cứ nhứt quyết đòi cưới nó cho bằng được!
Ăn cơm xong, Nhạn xin phép về liền mà không thèm viện lý do khiến cô Hai càng thêm bất mãn.
Vừa về tới nhà Nhạn liền tức tốc đi tìm thím Chín.
Thím Chín đang nằm trên võng dỗ cho thằng Nhỏ ngủ. Nhìn gương mặt tái xanh của Nhạn, câu ầu ơ ngưng ngay giữa chừng, thím lật đật ngồi bật dậy, hớt hãi:
-Bộ con bị trúng gió hả Nhạn?
Nhạn lắc đầu rồi ngồi bệt xuống.
Thím hỏi tiếp:
-Có chuyện gì mà sắc mặt khó coi quá vậy?
Nhạn không dằn được nữa, cô bắt đầu kể cho thím nghe chuyện mình xém bị cưỡng hiếp, bị đè xuống đường bóp cổ rồi chống cự kịch liệt như thế nào .
Cô đột ngột dừng ngang rồi hỏi thím Chín:
-Thím có biết ai làm cái chuyện đó không?
Thím Chín hỏi:
-Ai vậy?
Nhạn nghiền cho tiếng nói dẹp lép giữa hai môi:
-Thằng Công?
Thím Chín trợn mắt:
-Sao con biết?
Nhạn cười gằn:
-Cái lúc nó đè con nằm sát mặt đường, con quơ tay chụp được hai cục đá rồi đập mạnh lên vai của nó. Hồi nãy nó ở trần con thấy có hai cái thẹo ở ngay cái chỗ đó.
Thím Chín bán tín, bán nghi :
-Cô hai Phước hiền lắm! Chồng cổ cũng hết sức đàng hoàng, hổng lẽ họ không biết dạy, để thằng con hoang đàng tới như vậy hay sao?
Nhạn lắc đầu:
-Tại họ cưng quá nên nó hư. Cái chuyện đi cưới con chắc là cái ý của nó. Nó muốn lấy cho được con, đem về đặng hành hạ cho bỏ ghét, chớ đâu có thương yêu gì!
Thím Chín tiếc cái chỗ giàu có cùng công sức mình bỏ ra, nên bào chửa cho Công:
-Biết đâu nó thương con thiệt bụng, muốn cưới để chuộc tội?
Nhạn quả quyết:
-Không phải đâu thím ơi! Con mắt nó ngó con coi ác lắm! Không có giống như chú ngó thím, thầy Bảy ngó má con, anh Nghệ ngó chị Nhu đâu.
Cô nói thêm:
-Con nhờ thím đem ba cái vàng vòng họ cho trả lại giùm. Con nhứt đinh không đặt chưn vô nhà đó nữa. Nhớ tới là con thù thấu xương thì làm sao mà ăn đời ở kiếp với nó cho được?
Ngừng lại một chút cô nói tiếp:
-Hổng chừng con còn đi thưa cho nó biết tay.
Thím Chín nhìn nét mặt đầy vẻ căm phẩn, uất hận đó. Thím chợt nhận ra Nhạn đã bị tổn thương vô cùng sâu sắc, thím nghe thương Nhạn hết sức rồi nổi giận bừng bừng.
Thím nói:
-Mắc gì mà trả, lấy luôn cho bỏ ghét!
Nhạn lắc đầu:
-Con hổng cần cái thứ phi nghĩa đó đâu. Thím mà không chịu là con đem đi trả. Hổng phải con sợ họ ăn hiếp mình nên không dám đi, mà chỉ sợ không dằn được rồi xảy ra chuyện lớn, liên lụy tới má với anh hai con mà thôi!
Nhìn gương mặt đằng đằng sát khí của Nhạn, thím Chín nghĩ thầm:
-Con nhỏ nầy dám miếng ăn, miếng trả chớ hổng thèm nói suông đâu.
Thím tự trách:
-Khi không mà ráng sức cột, gút chặt cứng rồi bây giờ phải lo tháo chớ trông vô ai được. Cái chuyện nầy mà đổ bể, chồng con cằn nhằn hổng nói gì. Chỉ không biết nói làm sao cho chị Sáu khỏi buồn!
Thím hỏi Nhạn:
-Má con biết chưa?
Nhạn lắc đầu:
-Má con chưa biết chuyện gì hết.
Thím Chín ngài ngại:
-Hổng biết chỉ có chịu nổi hông đây?
Nhạn trấn an:
-Thím đừng có lo, để con kể cho má nghe. Tánh con giống má lắm, chắc má cũng y như con.
Thím Chín gật đầu:
-Má con mà biết con bị thằng Công làm hổn như vậy thì không cần, không tiếc chút xíu nào đâu.
Thím Chín suy nghĩ tới, suy nghĩ lui rồi quyết định không thèm tới nhà cô Hai Phước.
Hôm sau, thím kêu Nhu qua đó mời hai mẹ con họ đến để ba, bốn mặt một lời. Thím kể cho Nhu nghe rồi dặn cô đừng nói gì hết.
Nhu mừng như bắt được vàng, khoái trá vì dự đoán của mình trúng phóc, nôn nóng tháo cũi, xổ lòng cho Nhạn gấp gấp cho Nhạn nên lập tức đi liền.
Lúc Nhạn bỏ về cô Hai đã linh cảm có chuyện không hay. Khi Nhu đến mời cô nhận lời rồi bảo Công:
-Không biết con Nhạn hôm qua ở nhà mình về, nó nói cái gì mà thím Chín Nho sai con gái qua mời hai má con mình qua bên đó?
Công từ chối ngay lập tức:
-Má đi một mình đi, con không đi theo đâu!
Cô Hai rầy:
-Người lớn biểu mà hổng làm theo là hổn đó con! Đi coi chuyện gì, ai ăn thịt, ăn cá được mình đâu mà sợ.
Công cười khẩy:
-Con không sợ ai hết, tại hổng muốn đi thôi!
Cô Hai năn nỉ:
-Chắc chuyện đám cưới chớ không gì khác. Con muốn lấy được vợ là phải chìu ý bà mai, không thôi bị bả chọt là hư bột hư đường hết ráo đó con!
Khuyên Công như vậy nhưng cô không khỏi bực mình. Cô nghĩ đáng lẽ họ phải qua gặp mình nên không thèm sửa soạn, ăn mặc xơ xài, tóc kẹp lên không bới. Công cũng mặc áo thun tay ngắn, quần tây vừa cũ vừa nhăn, mang đôi dép mòn gót, lẹt xẹt đi theo cô.
Thím Chín và dì Sáu tuy không vận áo dài nhưng hai bộ bà ba của họ trông tươm tất hơn nhiều.
Tối hôm qua Nhạn đã kể cho dì Sáu nghe mọi việc. Nhờ có sự xác nhận của Phục nên dì Sáu nhứt quyết hồi hôn một cái rụp.
Chú Chín không tham dự, chú và thầy Bảy qua nhà Phục để tránh mặt. Chú dặn Nhạn là nếu có đôi co, làm không lại thì qua gọi họ.
Vừa vào nhà, ngó nét mặt của thím Chín và dì Sáu, cô Hai liền nhận ra là có chuyện chẳng lành. Cô chờ được mời mới ngồi, rồi hỏi:
-Có chuyện gì mà thím Chín cho mời hai má con tui vậy?
Thấy cô Hai và Công ăn mặc tuyền toàn có vẻ xem thường mình, thím Chín không còn do dự. Thím không thèm nói xa, nói gần, đưa gói nữ trang ra rồi nói:
-Tụi tui mời cô qua đây để trả lại mấy món nầy.
Cô Hai trố mắt, điều nầy ngoài sức tưởng tượng của cô.
Cô gằn giọng:
-Chuyện nầy là sao?
Thím Chín không đáp mà hỏi lại:
-Phải cháu Công có hai cái thẹo trên vai hông cô Hai?
Cổ gật đầu rồi nói:
-Chuyện đó thì tại nó té xe, có mắc mớ gì tới...
Thím Chín lắc đầu:
-Không phải tại té xe đâu cô ơi! Tối hôm đó nó tính hãm hiếp con Nhạn ở khúc đường nhà ông cả Hội nên bị con Nhạn đập bằng đá đó!
Cô Hai há hốc nhìn thím Chín rồi quay qua nhìn Công. Gương mặt biến sắc ấy giúp cô biết con trai mình quả có làm việc đó. Cô cứng họng không nói được tiếng nào.
Thím Chín nói tiếp:
-Hôm qua con Nhạn nó thấy hai cái thẹo ấy. Nó biết thằng Công là người tấn công nó tối đó nên tức giận lắm! Làm sao mà dám ở với cái người đã bóp cổ mình thiếu điều chết ngộp được. Nó nhứt quyết trả hết số vàng nầy cho cô. Tui mà không cản là nó còn đi thưa nữa đó.
Cô Hai giựt mình, lật đật năn nỉ:
-Đừng, đừng có làm như vậy mà đổ bễ tùm lum không hay. Số vàng nầy tui không lấy lại đâu, để đền...
Công đột ngột lên tiếng:
-Con chưa có lấy nó, tại sao phải đền chớ?
Dì Sáu cười nhạt:
-Tụi tui không có thèm mấy thứ nầy đâu! Cô Hai cứ đem hết về. Vị tình chị Hai, má cô, tụi tui cũng không đi thưa, đi gởi gì đâu. Cô đừng có lo.
Rồi dì cầm cái hộp bọc giấy đỏ đặt trên bàn, nhét vô bàn tay cô Hai Phước.

Đám cưới của Nhạn và Công bị hủy khiến hết thảy dân cư trong xóm cùng chới với. Cái lý do "kỵ tuổi" được cả hai bên đưa ra chẳng thuyết phục được ai.
Bà con xóm Cầu Ván đa số tánh nết thật thà, suy nghĩ đơn giản nên cho rằng, với cái thành tích ăn chơi, người "vặn nài, bẻ ống" dứt khoát là Công.
Thế là người ta dồn hết tình thương cho Nhạn, cô làm cái gì cũng được mọi người tiếp tay. Mới hôm qua đây thôi, khi Nhạn vừa đặt cái gánh nước xuống định đổi vai. Phụng, con dâu của mợ ba Sáng, đang đi sau lưng lật đật xớt ngang liền. Nhạn đứng lặng, nhìn theo từng bước chân lúp xúp của cổ. Phụng vừa gánh, vừa chạy vì sợ Nhạn đuổi theo giành lại, vừa kẹp cái rỗ bông bí ngang hông. Nhạn nghe cảm động đến rơi nước mắt.
Người đau lòng hơn hết là mợ Hai Thọ. Vì những người trong cuộc không ai dám kể thật, nên khi biết được, mợ liền nắm chặt hai bàn tay, đấm thùm thụp lên lưng Công mà mắng:
-Trời ơi! Sao mầy ác dữ thần ôn vậy. Con gái người ta như cái bông đang tươi roi rói. Mầy ngắt ngang rồi đem liệng như vậy mà coi được hay sao?
Chưa hả lòng, mợ còn nghiến răng nguyền rủa:
-Hết thảy tụi bây chống con mắt lên mà coi! Ông trời ổng sẽ phạt cho cái thằng chúa ôn nầy lấy nhầm một con vợ dữ như chằng tinh gấu ngựa. Con nhỏ đó làm biếng nhớt thây, không thèm làm công chuyện cũng không biết đẻ con. Suốt ngày ăn hàng với bài bạc cho nó biết thân!
Mợ khóc nức nở rồi kể lể:
-Sao cái nhà nầy sản sinh toàn là mấy thằng tặc tử, hại đời con gái người ta không vậy hả ông trời? Tui còn mặt mũi nào mà gặp mặt bà con chòm xóm nữa đây?
Mấy hôm sau mợ mới chịu ra khỏi nhà với cái khăn lông trắng đội miết trên đầu. Một lần bị gió thốc, cái khăn rớt xuống đất để lộ cái đầu trọc lóc, tròn vo của mợ.
Dù mợ Hai quyết đem thân mình ra chuộc tội của con, của cháu. Nhưng cảm tình bà con dành cho gia đình mợ vẫn bị giảm sút trầm trọng. Uy tín, danh dự của họ đã bị mẻ một miếng lớn.
Ở Nhạn, hậu quả càng bi đát hơn. Ai cũng cho rằng cô vì dại dột, tin tưởng vào cái đám cưới sắp tới nên đã trao thân gởi phận cho Công, thế rồi bị đá văng xa lắc! Hể gặp Nhạn là mọi người xúm lại an ủi. Họ khuyên cô đừng lo là không lập được gia đình, không có chồng, có con như mấy cô gái khác. Thiếu gì nìn bà có một hai đời chồng rồi mà còn được cưới hỏi đàng hoàng, huống hồ chi cô chỉ mới...
Cái kiểu thương nầy khiến Nhạn càng bị "rớt giá" trong con mắt của các chàng trai. Cô giống như con tem đã bị đóng mộc, thị trường tiêu thụ coi như mất trắng.
Những lời an ủi, những ánh mắt cảm thông của bà con làm dì Sáu thêm buồn, thêm ray rức. Dì hối hận vì đã ham giàu, ép Nhạn lấy Công cho bằng được. Dì ăn không ngon, ngủ không yên rồi đùng một cái bị ra huyết ào ào. Khi chở đi nhà thương, họ được bác sĩ cho hay là dì Sáu bị hư thai
Cái tin ấy khiến mọi người đều bàng hoàng, nhứt là dì Sáu. Dì đã sắp bước vào hàng "năm", nên cho rằng cái hiện tượng tắt kinh của mình mấy tháng nay là do tuổi tác.
Thím Chín hết sức ân hận, thím lấy sợi chỉ đỏ cột chỉ vô cổ tay, thề rằng từ nay nhứt quyết lánh xa, từ giã cái nghiệp làm mai nầy mãi mãi.
Ở nhà thương về, thầy Bảy bắt dì Sáu phải nằm im ru trên giường. Thầy rút bớt thì giờ chăm sóc bệnh nhân để quanh quẩn bên vợ.
Kể từ hôm đó Nhạn túc trực bên nhà dì Sáu cả ngày lẫn đêm. Mấy cái việc cơm nước, giặt giũ, quét vườn, lau nhà, đi chợ, nấu ăn...Hằm bà lằng thứ trong nhà mà trước kia là của hai, ba người: Dì Sáu, thầy Bảy và Nguyên cùng làm, nay được một mình Nhạn "bao thầu" ráo trọi!
Khi không có mặt Nhạn, thầy Bảy rầy Nguyên:
-Lúc nầy ba thấy con hổng mó tay tới cây chổi, cái nùi giẻ lần nào. Con Nhạn dù sao đi nữa cũng là khách, đâu phải dâu con trong nhà. Việc gì cũng qua tay nó coi sao được?
Nguyên gãi đầu, cười cười:
-Con thấy để cho cổ làm không hở tay là giúp cho cổ khỏi phải suy nghĩ đó ba!
Thầy Bảy hiểu ngay là Nguyên cũng như hầu hết mọi người, cho là Nhạn đang đau khổ tột cùng vì bị Công từ hôn.
Thầy bèn nhỏ giọng tiết lộ:
-Bộ con tưởng cái đám cưới bị dẹp làm nó buồn hay sao ? Nó mừng gần chết đó!
Thấy Nguyên nhìn mình bằng cặp mắt sửng sốt, thầy bèn kể hết cho y nghe. Thầy không thèm dặn là phải kín miệng vì biết tánh của thằng con mình.
Thầy kết luận:
-Con nhỏ nầy bị ám ảnh về cái chết của chị nó quá nhiều, nên coi hết thảy đám con trai là kẻ thù. Chắc nó dám ở vậy suốt đời, hổng thèm ưng ai lắm đó!
Gương mặt Nguyên lộ vẻ cảm động:
-Hèn gì con thấy cổ ít cười, ít nói quá!
Thầy Bảy giải thích thêm:
-Cái chuyện nầy cũng khuấy động tùm lum các thứ trong lòng nó, làm lộn tùng phèo hết trọi! Mấy chuyện đau lòng đã bị chôn tận dưới đáy trước giờ nằm im ru, bây giờ đều chộn rộn đòi trồi lên mặt cho bằng được. Chúng ở lại đó hoài hỏi nó vui làm sao được?
Thầy chép miệng:
-Cái làm nó buồn nhứt là cho rằng đã làm má Sáu con thất vọng. Ba đoán là nó nghĩ là tại nó mà má Sáu bị hư thai nên cảm thấy có lỗi, ráng làm hết công việc để chuộc tội.
Nguyên hỏi:
-Ba có buồn vì mất đứa con trong bụng má Sáu hông ba?
Thầy Bảy gật đầu:
-Ba cũng buồn lắm! Con thì thề là không thèm lấy vợ nữa nên cái nhà nầy chắc chỉ chừng đó người. Phải chi có thêm một đứa con nít cho vui nhà vui cửa.
Thấy Nguyên xịu mặt, thầy vỗ vai y an ủi:
-Con đừng lo! Coi như ba khỏi nuôi thêm chồng của con nào hay vợ của thằng nào nữa hết. Bây nhiêu đây là chạy ăn cũng đủ mệt rồi.
Những lời được nghe từ miệng ba mình, khiến Nguyên động lòng trắc ẩn. Kể từ hôm ấy, anh bắt đầu chú ý đến Nhạn nhiều hơn trước.
Cái dáng gầy guộc của Nhạn xui anh so sánh cô với bụi lau bên bờ sông, tuy chưa ngã rạp nhưng chằng thể đứng thằng lên vì bị gió cứ đè đầu, cưỡi cổ. Nguyên bỗng muốn đền bù cho Nhạn được chút nào hay chút nấy, để cô xóa bớt ác cảm về cái giới Nam của chàng. Cũng như những người khác Nguyên không muốn những người thân của mình sống cảnh cô đơn.
Nguyên bắt đầu chú ý tới việc nhà. Chàng chịu khó đem mấy cành cây bị gió giựt gãy, đang nằm ắp lẩm ở góc vườn ra chặt thành cũi, phơi thiệt khô rồi xếp vào bếp cho Nhạn. Chàng cũng phụ trách luôn việc gom lá trong vườn lại đốt. Bơm nước lên hồ thường xuyên để Nhạn dùng thoải mái.
Hôm Nhạn bị ông táo trác, nồi cơm khét, Nguyên tự động bới trước phần cơm cháy vô tô mình rồi ráng ăn cho bằng hết, để Nhạn khỏi bị rầy.
Bữa khác Nhạn nấu canh bầu, cô quên nên nêm muối tới hai lần thế là nồi canh mặn chát. Trước cặp mắt kinh ngạc của mọi người, Nguyên húp hết tô canh không chừa đến một giọt.
Những hành động hết sức "dũng cảm" ấy khiến Nhạn vô cùng xúc động. Cô biết điều nầy phát xuất từ thiện tâm của chàng, không cốt để lấy lòng cô.
Sợ Nhạn hiểu lầm nên Nguyên thường tránh mặt. Chàng vốn mặc cảm về cái tánh "không giống ai", cái công việc bị mọi người chế nhạo của mình, nên ít tiếp xúc, chuyện trò với cô.
Ấy thế mà lại khiến Nhạn cảm động mới ngộ.
Một lần cơm dọn đã lâu mà chẳng thấy Nguyên. Nhạn đi ra vườn tìm. Thấy cái võng treo dưới cây khế, cây mận đu đưa, biết Nguyên đang nằm đó, cô đi xăm xăm đến.
Nhạn bước rất nhẹ nên Nguyên đâu hay, chàng cứ đọc to những câu thơ trong đầu mình:

"Một lần em ghé vườn tôi
Những hoa cỏ dại bồi hồi nhớ nhung
Thương ai, thương lạ, thương lùng
Thương khi sầu muộn, thương cùng lúc vui
Thương em thân phận ngậm ngủi
Sóng đời xô giạt, nổi trôi lục bình..."

Nhạn đứng sửng lại. Cô ngây ngất bởi những câu thơ, bởi những bông khế tím, những tua mận trắng đang bay lưa thưa trong gió.


Nhạn cứ đứng trong tư thế xuất thần ấy cho đến khi Nguyên rời khỏi chiếc võng, quay lại và bắt gặp. Tia mắt của Nhạn dội vào lòng chàng cả một dòng thác hạnh phúc.
Tội nghiệp cho những nhà thơ bị hất hủi như Nguyên! Họ chẳng những thiếu thốn về vật chất mà tinh thần cũng luôn đói khát. Họ đi qua cuộc đời như khách lữ hành băng qua sa mạc. Sự đồng cảm là những giọt nước quý báu, hết sức cần thiết cho sự sinh tồn của họ! Thế nhưng chúng hết sức hiếm hoi! Cho nên khi bắt gặp, họ chỉ biết đứng chết lặng trong xúc cảm hoặc quỳ mọp xuống hôn đất mà cám ơn trời!
Bắt đầu từ hôm ấy, mảnh đất hoang giữa Nhạn và Nguyên bỗng nở đầy hoa dại. Những dây tơ hồng vàng tươi bắt đầu xuất hiện, len lỏi từ nơi nầy sang nơi khác.
Hầu như các cô gái luôn yêu cái người mà họ ngưỡng mộ.
Con trai, vốn thích tự chiêm ngưỡng và được người khác chiêm ngưỡng, cho dù không thể đáp lại, cũng dành cho họ một mối thiện cảm nồng nàn. Nếu người con gái ấy xinh đẹp, hiền dịu và có một thân phận hẩm hiu như Nhạn chẳng hạn, thì việc chàng nhận giữ giùm trái tim của nàng và đặt trái tim của mình vào thế chỗ, sẽ xảy ra với tỷ lệ lên đến chín mươi chín phẩy chín trăm chín mươi chín phần trăm!
Nét sầu muộn, sự ngờ vực do đã bao lần bị tổn thương, vốn bôi đen gương mặt Nhạn và Nguyên đã được nụ cười rất nhẹ, rất hiền, rất ngu ngơ thay thế. Chúng chợt sáng và trong y như cái ống khói đèn đã được chùi rửa bằng miếng xơ mướp có xát xà bông.
Những người đang yêu và được yêu chính là ân nhân của nhân loại. Họ tươi rói và tràn trề sức sống. Chỉ cần nhìn họ thôi, ta cũng đã thấy vui, thấy khỏe như được tiếp thêm năng lượng. Các lỗ chân lông trên người họ, liên tục phóng thích một lượng ion âm hết sức dồi dào, khiến không khí trở nên trong lành. Thiên nhiên càng thêm xinh tươi, đánh thức cái đẹp, điều thiện đang lơ mơ ngủ.
Nhờ có họ mà cỏ thêm xanh và hoa thêm rực rở. Nhờ có họ mà lũ bướm, ong, chuồn chuồn... bay lượn không biết mỏi. Nhờ có họ mà gió kiêu căng cũng trở nên hiền dịu. Ánh trăng đỏng đảnh không lỗi hẹn và thôi giấu mặt trong mây, cả triệu ngôi sao cùng chớp mắt ...
Chiếc võng trong vườn được chiếu cố đều đặn mỗi ngày. Ban đầu Nguyên nhường cho Nhạn thế rồi một lần cả hai cùng ngồi. Bốn bàn chân của họ lúc đầu luôn luôn đẩy đưa cùng một nhịp, chúng bỗng tự dưng bất động, thế nhưng chiếc võng cứ rung nhè nhẹ.
Tình cảm của họ tuy bắt nguồn từ chất "người", thế nhưng sự xúc chạm đầu tiên của hai bờ vai vẫn khiến cả hai xao xuyến, đánh thức cái phần "con" trong họ.
Tim Nguyên đập như đang chạy nước rút, chàng cầm tay Nhạn đặt lên đó, những tiếng vang âm âm trong lồng ngực, đã thay chàng nói hết mọi điều.
Nhạn vô cùng cảm động, cũng thổ lộ với cùng cung cách ấy. Cô cầm tay Nguyên đặt lên tim mình, bờ ngực trinh nữ ấy êm ái quá, sao Nguyên nghe như mình đang đi qua cả một "bãi mìn cảm xúc"?
Một hôm Thầy Bảy bỗng nỗi máu "văn nghệ". Ổng đi lang thang trong vườn, định ghé thăm bụi bông quỳnh đang ôm chân gốc ổi, xem những cái nụ trắng xanh của nó có thể nở trong đêm ấy? Ổng bỗng bắt gặp họ cùng ngồi trên võng. Nhạn đang ghé đầu trên vai Nguyên và môi của Nguyên đang đặt lên mái tóc nhuộm đầy trăng ướt rượt của cô, khiến chúng luôn rung rẩy, lóng la, lóng lánh.
Đó là một khoảnh khắc tuyệt đẹp trong đời của thầy Bảy. Ông chỉ muốn xông đến ôm gọn cả hai vào lòng nhưng rồi cố ghìm lại, không dám quay người sợ không khí xao động mà lùi dần từng bước một.
Đêm đó dì Sáu rất ngạc nhiên trước sự âu yếm hết sức nồng nhiệt của chồng.
Dì hỏi, giọng trêu chọc:
-Bộ muốn có con nữa hả?
Thầy Bảy lắc đầu.
Dì hỏi tiếp:
-Vậy tại sao mà...
Thầy đáp:
-Tại vui.
Bỗng dưng một giọt nước âm ấm từ đâu rớt trên má dì.
Dì lại hỏi:
-Vui sao lại khóc?
Bây giờ thì cả một dòng suối chảy khắp mặt dì Sáu.
Giọng thầy Bảy nghẹn ngào:
-Tại quá đỗi mừng.
Dì ngạc nhiên:
-Mừng chuyện gì?
Thầy đáp:
-Thằng Nguyên được một người con gái tốt thương. Con Nhạn không còn "kỵ" đàn ông.
Dì sáu giật mình:
-Sao ông biết?
Thầy Bảy kể cho dì nghe rồi nói:
-Ông trời bắt đầu nhỏ phước cho gia đình mình rồi đó. Tụi mình phải thiệt tế nhị. Phải làm bộ như không biết chút gì hết. Hai đứa nầy còn "nhát đèn" lắm!
Dì Sáu phân vân:
-Mình dung dưỡng như vậy rủi con Nhạn nó dính bầu thì sao?
Đây chính là ý đồ của thầy Bảy. Ổng muốn tạo điều kiện để họ đốt giai đoạn. Bấy lâu nay việc bị vợ bỏ đến hai lần khiến Nguyên mang nặng mặc cảm. Cảnh thui thủi một mình của chàng luôn khiến thầy Bảy ray rức, nên ổng muốn gấp gấp thấy thằng con của mình được hạnh phúc.
Thầy Bảy không chút e dè:
-Thì cưới chớ sao?
Dì Sáu thở dài:
-Con ông, con bà...Chắc thiên hạ cười cho thúi đầu .
Ổng đáp bằng giọng quyết liệt:
-Cười thì cười, thây kệ họ. Tụi nó đâu có chút liên hệ máu mủ nào. Huống chi ai cũng biết con Nhạn không có phải là con ruột. Con nuôi thì nhầm nhò gì!
Thầy lại bảo:
-Ngày mai chắc tui kêu tụi nó đem cái máy may của con Nhạn về đây. Cho nó khỏi phải mắc công chạy đi, chạy về tốn thì giờ.
Dì Sáu gật đầu:
-Có đi thăm bịnh thì chở tui theo rồi bỏ tại tiệm may, để tui đơm nút làm khuy cho con Tím.
Thầy Bảy gợi ý:
-Sao không ghé chị Chín để nói chuyện cho phỉ, lại tiệm may làm chi cho cực.
Dì Sáu lắc đầu:
-Tánh chị Chín bồng bột lắm! Tui sợ mình không giữ miệng nổi, cái rồi kể hết ráo cho chỉ nghe. Chuyện nầy mà vỡ lỡ sớm quá e hổng tốt.
Khỏi phải nói là cả Nhạn lẫn Nguyên đều dốc lòng tận dụng những giây phút riêng tư quý báu đó. Ông bà ta đã cảnh cáo (chắc đã xảy ra biết bao lần nên đúc kết thành kinh nghiệm), rằng lửa mà để gần rơm thì có lúc sẽ cháy nhà. Con cháu biết lắm, tin lắm, ráng ở thật xa, hoặc để sẵn thùng nước để chửa cháy. Thế nhưng gió khoái chơi cắt cớ, cứ mang lửa đến sát bên rơm, khi bén rồi họ lại quên phức cái việc tưới nước, có khi còn tưới lộn dầu.
Một hôm Nhạn đang lui cui nhóm bếp, cô đang cúi sát mặt xuống mớ bùi nhùi trong bụng cái cà ràng, chu mỏ thổi cho lá dừa bùng cháy.
Cái dáng lom khom ấy khiến đường xẻ tà của chiếc áo bà ba chạy lên tận nách. Khoảng da trắng bóc, hết sức mịn màng, nơi khu vực nhạy cảm nhất của người phụ nữ phơi bày như mời mọc. Nguyên đứng bên cạnh bỗng vòng tay ôm chặt Nhạn vào lòng mình. Hơi ấm và tiếng tim đập rộn ràng của Nguyên truyền qua như một luồng điện khiến Nhạn giựt nảy người rồi chết cứng luôn.
Vẻ ngất ngây pha chút kinh sợ của Nhạn khiến Nguyên dừng ngay cái bàn tay sắp "bẻ khóa động đào" của mình lại. Nguyên tưởng tượng gương mặt hầm hầm của cụ Nguyễn đình Chiểu, với ngón tay trỏ chỉ thẳng vào mặt Nhạn cùng tiếng quát to giận dữ, "gái thời đức hạnh là câu trau mình" mà thắng cái rụp, thiếu điều lết bánh!
Cái phần "con" trong chàng đang luôn miệng thúc giục, liền bị đuổi thẳng tay, nhường chỗ cho cái phần "người" đang rụt rè quay lại.
Tội nghiệp dì Sáu và thầy Bảy! Họ cứ chờ cái triệu chứng "hôi cơm tanh cá " của Nhạn để có lý do gạn hỏi, để giải quyết bằng một lễ cưới, thế nhưng Nhạn vẫn im ru bà rù!


Cái kiểu sống như lục bình, nước lớn trôi lên, nước ròng trôi xuống của Nguyên, từ lâu đã làm thầy Bảy rầu lòng ghê lắm! Thầy không dám khuyên con trai tìm một nghề nghiệp, một công việc cụ thể để làm vì sợ Nguyên mặc cảm. Thầy vốn mong mỏi Nguyên thôi lơ lửng trên mây, đáp xuống đất mà làm lụng kiếm miếng ăn như bàn dân thiên hạ.
Việc sống tách biệt, ít quan tâm đến những người xung quanh, không để ý đến lời thị phi, chỉ chăm chăm vào sở thích của Nguyên khiến bà con chướng mắt. Cho dù thầy Bảy đã tạo dựng một cơ ngơi khá vững vàng, dư sức bao bọc cả con lẫn cháu. Thế nhưng cái cảnh trâu già kéo cày, trâu tơ nằm nhai cỏ đó, khiến mọi người bất mãn. Điều đó giải thích vì sao ít ai muốn làm sui với thầy Bảy dù ổng rất hiền, thích giúp đỡ bà con và nhận thù lao với giá phải chăng.
Ở nông thôn, đa số các căn nhà suốt ngày không thấy bóng người. Sáng sớm, cả nhà, có khi đến hai, ba thế hệ đều kéo rốc ra đồng.
Mấy người phụ nữ thức dậy từ lúc con gà trống đầu tiên trong xóm cất tiếng gáy. Họ bắt đầu ngày mới bằng công việc thường lệ, nhóm bếp rồi đặt lên đó một cái ấm nước thật lớn, cho đậu nành rang vàng vào đặng uống cho dễ tiêu, để mang ra đồng dùng suốt ngày. Kế đó họ bắc nồi cơm lên bếp, cho tô mắm vào chưng. Hôm nào còn lại thức ăn dư, nhờ chiều hôm trước may mắn bắt được, cua, ốc, chuột, ếch trong ruộng, trong rẩy, hay tát vũng bắt được cá khá nhiều. Bà má đem kho tiêu, kho xả ngay lập tức, ăn không hết để dành cho hôm sau. Thì nồi cơm khỏi cần món mắm làm nhưn!
Rau dại mọc khắp đồng. Món canh tập tàng gồm đủ thứ rau như rau má, rau rệu, rau muống, rau trai, cải trời ...nấu suông hoặc nêm với mắm sặc, mắm linh... là món canh thông dụng nhứt. Các món ăn ấy suốt mùa lúa hầu như ngày nào cũng có mặt trong mâm cơm.
Cái tô nước cơm được chắt ra nếu cho vào chút đường sẽ là món trong mơ của mấy đứa nhỏ. Một đứa bưng tô vục mặt vào uống. Mấy đứa khác đứng kế bên không buông cái bàn tay trì kéo ra khỏi vạt áo của nó, luôn miệng hối uống nhanh nhanh, đòi tới lượt mình.
Ngày nào cũng như ngày nấy, cứ sáng họ cùng nhau ra đồng, chiều về nhà cùng tắm sông, đứng thành hàng dọc kỳ lưng cho nhau, ngồi quây quần quanh mâm cơm rồi đi ngủ.
Con người với chừng ấy công việc. Thiên nhiên với chừng ấy hình dáng, sắc màu. Cả hai luôn gần gụi, hòa nhập vào nhau đến nổi sợi dây liên kết họ đã trở thành thiêng liêng.
Lối sống đơn giản, đều đặn, làm nhiều hơn mơ, giúp nhà nông có một cuộc sống ổn định, điều độ. ..Tạo cho họ bản chất mộc mạc, chơn thật, hiền lành...
Sự đùm bọc, chia sẻ, chung tay gánh vác việc công trong xóm đều được làm một cách tự nguyện, chẳng hề bị áp buộc, khiến cả người cho lẫn người nhận đều vô cùng hạnh phúc.
Họ làm lụng nhiều và ăn uống những thứ sinh sản tự nhiên, mọc tự nhiên trên đồng ruộng. Thịt là món khan hiếm nhất nên ít người dư thừa chất béo. Mấy con vi trùng vốn khoái mỡ nên chán họ lắm, chẳng thèm bám vô. Cho nên có những gia đình mà cả đời chưa ai biết đến nhà thương.
Chỉ khi mùa lũ kéo về, cuộc sống của bà con mới đối mặt với những điều thái quá. Những năm lũ to, tuy gặp khó khăn mặt nầy nhưng lại sung túc vào mặt khác, thiên tai cũng có tính tích cực của nó. Hầu như những sự hủy diệt nào cũng khởi đầu cho một sáng tạo. Chính trong lúc khổn khổ, thiếu thốn vật chất đó, tình cảm của họ càng dồi dào, tinh thần thêm vững chải để bù vào.
Suy ra, ít có điều gì mà người ta không thể vượt qua nếu có cái tình, cái nghĩa chống đỡ sau lưng và thẳng tay đẩy ta về phía trước.
Trong gia đình nhà nông, nhân lực được tận dụng tối đa, ít ai phải lâm vào cảnh ăn không ngồi rồi. Sáng sáng khi mấy người đàn bà lo bếp núc. Các cô con gái, con dâu... lo quét vườn, quét nhà, lau bàn ghế... Thì người đàn ông lớn tuổi nhứt trong nhà chuẩn bị thời cúng sáng. Những người còn lại lo mài lưỡi xẻng, thay cái cán cuốc... Đứa con trai nhỏ sẽ dắt đôi bò xuống sông cho chúng uống no nước, chứa đầy bụng để xài cho một ngày vất vả trên đồng.
Cái tính căn bản, được bà con coi trọng nhứt là cần và kiệm. Hai đức tính ấy đã ăn sâu vào máu thịt. Vật chất và thời gian đều được chắt chiu, nên vào mùa khoai, mùa bắp... Bữa điểm tâm được dùng ngay trong lúc đi ra đồng với trái bắp, củ khoai nóng hổi, vừa đi, vừa thổi vừa ăn...
Thực phẩm, thì giờ được quý trọng, dè sẻn đến thế đó! Vì vậy mà những người "xài sang" như Nguyên bị bà con hết sức ngứa mắt.
Nguyên vốn không ràng buộc với cái ăn, cái mặc nên nhu cầu của anh được đẩy lên cao chót vót. Cái mà chàng vươn đến là cảm xúc, điều nầy đòi hỏi đầu tư rất nhiều công sức, nhưng hiếm khi đạt được. Những sản phẩm mang nét đẹp vô hình ấy vốn ít được bà con công nhận. Chàng đâm ra lạc lỏng giữa những người mà mình hết lòng yêu quý, thật bất hạnh quá chừng!
Ông trời bấy lâu nay lơ là với Nguyên, bây giờ mới giựt mình, ngó lại rồi bắt đầu bù đắp . Ổng liền ban cho Nguyên một người hiểu, thương chàng không bằng bộ óc mà bời trái tim đầy lòng nhân ái. Nào phải Nguyên chẳng hàm ơn. Thế nhưng bởi ảnh hưởng của hai lần gãy đổ trước đây, càng trân trọng Nhạn, Nguyên càng không muốn cùng nàng đi vào cuộc sống vợ chồng.
Đối với Nguyên hôn nhân là cái tột đỉnh, cái đích đến của tình yêu rồi từ đó là tà tà đi xuống. Cho nên dù bị thôi thúc trước nét mơn mởn xuân thì của Nhạn, Nguyên vẫn cố nín nhịn để kéo dài cái cảm giác khát khao, cái khoảnh khắc thơ mộng nầy càng lâu càng tốt.
Cho dù biết rằng người con trai khi đã ngõ lời thương, thì việc trì hoãn cưới cô gái mình đang hẹn hò là một hành vi có thể bị coi là thiếu đạo đức, nhưng chàng vẫn cắn răng ghìm chặt đôi chân, quyết không chui vào cái bẩy của hôn nhân.
Dì Sáu không còn kiên nhẫn nữa. Một hôm, khi nhờ Nhạn xối nước cho mình gội đầu, dì đã không thèm hỏi đon, hỏi ren mà nói thẳng thừng:
-Bộ con với thằng Nguyên cứ để yên như vầy hoài mà không cưới sao?
Nhạn giật mình. Cô cứ tưởng là chưa ai biết, nào dè...
Dì Sáu nói:
-Rượu ngon cách mấy mà để lâu thì cũng thành giấm. Con lúc nầy đương thời con gái, không lấy được chồng, mai mốt e là càng ngày càng khó!
Nhạn hỏi:
-Bộ má hổng biết là cái chuyện cưới hỏi nầy phải do người đàn ông lên tiếng trước hay sao?
Dì Sáu hỏi lại:
-Vậy là nó không có đá động gì tới chuyện đó hả?
Nhạn lắc đầu, nói:
-Con nghĩ chắc ảnh quá ngán cái chuyện vợ chồng rồi.
Dì Sáu lắc đầu làm lớp bọt trắng trắng, xám xám, bám trên tóc văng tung tóe:
-Con không nghe người ta nói, người đàn ông nào mà lấy dao khứa vô đầu gối, thấy không còn có máu chảy ra mới không cần tới chuyện đó hay sao?
Nhạn múc đầy một ca nước, xối cho lớp bọt trên đầu dì trôi xuống rồi hỏi:
-Chẳng lẽ con biểu ảnh là "cưới tui đi"?
Dì Sáu dừng hai bàn tay trên đầu, thôi quào tưng bừng mà xuống giọng, truyền bí quyết của những người đồng giới, cả của mình nữa cho cô con gái:
-Muốn đàn ông cắn câu thì phải nhấp, phải nhử họ y như nhấp cá vậy đó! Con có thấy mấy người câu rê hông? Họ đâu có đứng im ru chờ cá tới. Họ phải kéo cái mồi đi qua, đi lại sát cái miệng nó. Họ làm cho nó thèm chịu hết nổi, phải mở cái miệng ra cho bự hết cỡ rồi táp một cái phập.
Dì Sáu thở dài:
-Coi bộ cái chuyện nầy con làm không nổi đâu!
Nhạn nghe với nụ cười tủm tỉm trên môi. Nghĩ thầm:
-Tại con chưa muốn đó thôi!
Ngày đi đám cưới của người cháu gọi mình bằng cô ở Cai Lậy, dì Sáu và thầy Bảy chở luôn bé Xíu đi theo.
Trước ngày đó thầy Bảy kêu Nguyên lại nói:
-Ba với má Sáu con sẽ vắng nhà mấy ngày. Má Sáu sợ con tánh tình hời hợt nên có nhờ con Nhạn tối ở lại coi cửa nẻo giùm (từ ngày dì Sáu hoàn toàn bình phục, Nhạn không còn ở lại vào ban đêm). Ban ngày thì không sao chớ khuya tối mà hai đứa ở chung là bất tiện lắm. Con có muốn đi chơi đâu đó thì đi!
Thầy làm bộ nói thế thôi, chớ trong bụng chắc mẫm rằng, dù cho thiên lôi có xách búa đuổi Nguyên ra khỏi nhà, cũng chưa chắc trục xuất được chàng.
Chẳng biết trong thời ấy, việc "câu rê" có xảy ra hay không mà sau đó, khi họ vừa về tới nhà, thầy Bảy không được Nguyên cho nghĩ xả hơi. Thằng con nhẫn tâm ấy, luôn miệng hối thúc ông già tía lo việc cưới vợ cho mình. Nguyên nôn nóng như sắp chạy giặc, khiến thầy Bảy và dì Sáu cười thầm trong bụng!


Người đầu tiên được dì Bảy thông báo dĩ nhiên là chú, thím Chín.
Thím Chín vừa nghe xong là trợn thiếu điều lòi hai con mắt, nhìn dì Sáu mấy giây rồi hỏi:
-Bộ con Nhạn nó dính bầu rồi hả?
Dì Sáu lắc đầu lia lịa.
Dì làm ra vẻ phật ý mà nói:
-Nó cũng như tui vậy đó. Nghe chuyện thằng Nguyên đòi cưới mà giựt mình, chới với.
Thím Chín nói:
-Chắc nó phải hạp nhãn thằng Nguyên trước rồi nên mới ưng liền một cái rụp.
Dì Sáu giải thích:
-Đâu mà có! Tui nói hết nước, hết cái nó mới chịu nghe đó chớ!
Thím Chín chắt lưỡi :
-Ông bà mình nói câu nào là trúng câu đó. "Nam nữ thọ thọ bất thân" mà. Con Nhạn nó đâu phải em ruột, lại ngộ gái quá cho nên thằng Nguyên động lòng cũng phải.
Rồi thím nói:
-Nếu như không có chuyện thằng Công, nó dư sức lấy người giỏi gấp mấy lần thằng Nguyên. Dù chưa cưới nhưng ai cũng coi như nó đã có một đời chồng, cho nên ráp lại cũng xứng đôi, vừa lứa.
Im lặng giây lâu, thím hỏi tiếp:
-Mà sao gấp vậy. Cái chuyện kia mới xong, hay là nó bị thằng Nguyên ăn tươi nuốt sống rồi?
Dì Sáu lại lắc đầu, lần nầy còn mạnh hơn, dì nói:
-Thằng Nguyên nó hiền lắm, có giáo dục lắm, không có làm chuyện bậy bạ đó đâu! Huống hồ con Nhạn nó kỵ mấy cái chuyện đó thấu trời, đâu chịu để yên.
Thím Chín tán thành:
-Ừ! Bậm trợn như thằng Công mà còn bị nó đập tơi bời thì nói gì...
Rồi thím hỏi tiếp :
-Có khi nào nó bị thằng Nguyên cho uống thuốc ngủ rồi hành sự hông chị? Nhà ông thầy Bảy thuốc thiếu gì...
Dì Sáu ngắt ngang:
-Ổng để thuốc trong tủ, khóa lại rồi cất chìa khóa kỹ lắm, không có ai mó được đâu!
Thím Chín chưa hết ngờ vực:
-Hay là con Nhạn bị giọng kèn, tiếng quyển của thằng kia rù quyến. Người ta nói mấy người làm văn, làm thơ họ ăn nói hay lắm chị ơi! Cho tới nổi con kiến chui vô lỗ rồi mà cũng phải chui ra!
Lần nầy thì dì Sáu phật ý, dì sẵn giọng:
-Tui cam đoan với chị là hổng hề có chuyện đó đâu! Thằng Nguyên nó "tư cách" lắm, còn con Nhạn thì con trai tới gần nó không được, nói gì tới cái chuyện bỏ nhỏ bên lỗ tai!
Thím Chín biết mình đã lỡ lời nên làm dì Sáu chạm tự ái.
Thím liền giả lả:
-Nói nghe chơi thôi, chị bỏ qua cho tui. Ai mà hổng biết thằng Nguyên nó có ăn học đàng hoàng còn con Nhạn thì được chị dạy dỗ, đâu thể hư hèn đến vậy!
Suy nghĩ của thím Chín và dì Sáu cũng như hầu hết bà con ở xóm Cầu Ván. Cái đôi nào mà thương nhau trước rồi mới cưới, hay bị xem thường, nhứt là các cô gái. Họ bị coi như không thuộc về các gia đình nề nếp. Người ta thường quý trọng những nàng dâu mà cả thể xác lẫn tâm hồn đều trắng tinh, ngây thơ hoặc ngây ngô thì càng tốt.
Những cô gái cho dù có lấy được người mình thầm thương trộm nhớ, cũng phải làm ra vẻ bị ép uổng. Tới lúc lạy xuất giá phải khóc đến sưng vù cặp mắt mới được bà con trọng vọng.
Tình yêu giữa trai gái được xem như mầm mống của tai họa, phải bị diệt từ trong trứng. Ngay từ lúc còn nhỏ xíu, các bé gái đã bị nhồi nhét những mẫu chuyện rất hoang đường, tạo cho chúng một cái nhìn hết sức lệch lạc. Hậu quả là đa số đều ghét và đề phòng bọn con trai.
Chính vì tiêm nhiễm những tư tưởng như vậy, nên chuyện "vợ chồng" bị xem là hành động xấu xa nhứt. Người vợ buộc phải nhắm mắt, cắn răng chịu đựng. Họ thực hiện cái chức năng truyền giống đó bằng tâm trạng của một người đang làm điều vô đạo đức. Những xúc cảm, nếu có, thường được đón nhận với mặc cảm tội lỗi.
Cái chết do chứng "thượng mã phong" của người đàn ông, bị xem như là nỗi ô nhục của dòng họ cả hai bên. Người vợ bất hạnh đó chẳng những không được an ủi, cảm thông còn bị coi như phạm cái tội tày đình. Cái tội ấy được liệt vào hạng xấu hổ nhứt của người phụ nữ, khiến từ đó họ bị nhìn bằng cặp mắt dè bĩu, bị đối xử thiếu tôn trọng.
Những cô gái có cặp chưn mày đậm đen và gầy gò thường bị cho là có nhiều "dâm tính". Do vậy dù đẹp người, siêng năng, ăn nói khéo léo vẫn bị loại bỏ trong việc lựa dâu.
Người vợ phải tỏ ra chuyện chung đụng là điều mà mình phải cam chịu do nghĩa vụ chớ chẳng có tí gì vui thú hết. Ai suy nghĩ khác đi, đáp ứng hơi nồng nhiệt một chút có khi còn bị chồng hiểu lầm.
Dì Sáu muốn giữ thể diện cho Nhạn nên vờ như cô ưng Nguyên là do mình ép buộc.
Dì nói bằng giọng tâm sự:
-Chẳng giấu gì chị! Nó đâu có chịu, tui phải năn nỉ thiếu điều muốn gảy cái lưỡi. Tui nói với nó là tuy thằng Nguyên không giỏi chuyện làm ăn, nhưng được cái hiền lành, không biết uống rượu.
Dì liếc coi phản ứng của thím Chín ra sao rồi nói tiếp:
-Tui chỉ cho nó coi mấy thằng say rượu rồi rượt vợ rượt con chạy lòng vòng khắp xóm. Cho dù tụi nó giỏi cách mấy đi nữa mà hung dữ thì làm vợ chúng cũng đâu có được yên thân!
Thím Chín đã chịu nghe, thím gật gù ra vẻ đồng ý với dì Sáu. Thím nói:
-Nói nào ngay, nó vô nhà thầy Bảy cũng có phước, không cần làm cũng có ăn.
Việc tán đồng của thím Chín giúp dì Sáu yên bụng. Dì mạnh miệng thông báo cái đám cưới đó với chòm xóm, láng giềng, bà con hai họ.
Một sự việc xảy ra đã giúp chuyện Nhạn lấy Nguyên được bà con xóm cầu Ván thay đổi thái độ. Từ nghi ngờ, bất mãn sang nhiệt liệt tán thành.
Số là ngay ngày dì Sáu đi mời bà con, lối xóm. Chiều hôm đó, một cô gái ăn mặc theo kiểu thành thị, một tay cầm bóp, một tay xách cái va li có vẻ khá nặng, bước từ chiếc xe đò ngừng lại ở cột cây số đối điện bến đò, xuống xe một cách ì ạch, nặng nề.
Cổ ngoắc chiếc xe lôi anh hai Thám đang chạy tới, đưa tấm giấy có ghi địa chỉ ra cho ảnh coi để hỏi thăm. Cái bụng chửa to đùng của cổ khiến anh Hai động lòng trắc ẩn. Ảnh biểu cổ lên xe rồi chở giùm đến nhà cô hai Phước. Hóa ra cô gái là "mèo" của Công từ Sài Gòn xuống tìm y.
Xóm cầu Ván tưng bừng một mùa bội thu tin tức. Nếu cái tin đám cưới của Nhạn, như tiếng sét giữa trời quang, hãy còn làm bà con bàng hoàng... Thì cái tin Công làm con gái người ta có bầu rồi "quất ngựa truy phong" tiếp liền sau đó, lại như một quả mìn nổ ngay trước mặt, khiến bà con bay mất tiêu ba hồn, bảy vía. Họ như những người dân trong xứ sở hòa bình, bỗng hứng chịu một loạt bom mà cái trái sau cùng có sức tàn phá như một quả bom nguyên tử!
Không phải tử khí mà là một luồng sinh khí thổi qua xóm cầu Ván. Bà con lại có nhu cầu đi thăm viếng nhau. Tai họa của kẻ khác, nhứt là ở những người giàu hoặc mình không ưa, thường được đón nhận như một món quà xinh xắn. Họ vui khi nghĩ rằng mình may mắn không nằm trong hoàn cảnh đó.
Không khí ấy khiến người ta đâm ra cởi mở, cùng tỏ ra rộng lượng với nhau. Những va chạm nhỏ bé, những chuyện bực mình tủn mủn được xóa tan, như mấy nét phấn trên bảng bị miếng giẻ lau ướt nhẹp chùi sạch.
Mọi mũi dùi đều chĩa về nhà cô Hai Phước nên Nguyên và Nhạn được yên thân mà lo chuyện của mình. Nguyên bỏ cả một ngày đi qua tỉnh để mua vải cho Nhạn may áo cưới.
Khi được Nguyên trao cho xấp xoa màu tím nhạt, Nhạn hỏi:
-Sao anh biết em thích màu nầy.
Nguyên đáp:
-Em hợp với nó lắm!
Đám cưới được tổ chức rất giản dị. Chỉ những người gần gũi, thân thiết mới được mời. Thầy Bảy viện lý do, đây là cái lễ cưới thứ ba của Nguyên nên không dám làm phiền bà con.
Mợ hai Thọ mặc dù không nằm trong danh sách khách, nhưng cũng gởi thím Chín đưa tặng cho Nhạn một chai dầu thơm có dáng cô gái mặc áo dài, có cái nấp đậy hình chiếc nón lá. Chai dầu sau đó được Nhạn cho lại Tím. Nó được đặt ở chỗ trang trong nhứt trong cái tủ chưng áo dài giữa tiệm may.
Ông trời, tạm thời mượn bớt hạnh phúc của gia đình mợ hai Thọ, đem rót thêm dì Sáu và thầy Bảy.
Bên nhà thầy Bảy Chích vui bao nhiêu thì nhà cô Hai Phước buồn bấy nhiêu. Trong khi Nguyên chở Nhạn đi khắp xóm để ra mắt bà con thì Công trốn biệt tăm, biệt dạng.
Một lần, khi sắp ân ái với nhau, Nguyên kề tai vợ hỏi nhỏ:
-Em muốn anh làm cái gì cho em sung sướng nè?
Nhạn đáp một câu khiến chàng hụt hẩng:
-Em thích anh cắt tóc lên cho thiệt là ngắn!
 
(Xem tiếp PHẦN HAI)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.09.2019 09:49:41 bởi Lâm Du Yên >
#1
    Lâm Du Yên 25.09.2019 09:53:20 (permalink)
    NƠI LỤC BÌNH DỪNG LẠI
    Truyện dài Lâm Du-Yên
     
    PHẦN HAI

    Trận lũ năm 2000, được xem là lớn nhứt trong hơn bảy mươi năm đổ lại, đã đi vào bộ nhớ của hết thảy bà con xóm cầu Ván.Tổn thất mà nó mang đến có thứ không thể nào hồi phục được.
    Trong gia đình chú Chín, nó đã để lại một hậu quả vô cùng nghiêm trọng, một vết thương không bao giờ lành trong lòng họ, nhất là đối với Nhu: Nghệ đã qua đời khi nổ lực cứu giúp những người cùng anh đi chung qua sông trên một chuyến đò và bị chìm .
    Năm ấy Nhân đang chuẩn bị cho luận án tốt nghiệp, chàng là sinh viên của trường Đại học Nông Lâm . Nghĩa, đứa con trai của Nghệ và Nhu cũng vừa vượt qua kỳ thi trung học phổ thông.
    Cái chết của Nghệ khiến Nhu như cây đu đủ trong vườn, bị nước lũ xô bật gốc rồi cuốn theo vùn vụt.
    Nhu bị cú sốc ấy làm suy sụp cả tinh thần lẫn thể xác, phải nằm liệt trên giường cả tháng. Cái mất mát quá lớn lao, không có gì bù đắp được đó, khiến tinh thần Nhu mất thăng bằng, không còn đảm nhiệm được việc dạy học. Cũng may thời gian công tác vừa đủ để cô được hưởng chế độ hưu bổng.
    Nhu già đi từng ngày, thân hình gầy rộc, không thích trò chuyện và nụ cười hiếm khi xuất hiện.
    Chức năng tự bảo vệ của cơ thể đã cố ý đánh lừa Nhu: Đôi lúc cô rất tỉnh táo nhưng đôi lúc cô cứ khăng khăng là chồng mình còn sống.
    Ông trời tánh tình keo kiệt lắm! Hể đôi nào mà xài cái lượng hạnh phúc nhiều quá là ổng thường bắt bớt một người lại, coi như đóng thuế. Người còn sống cũng phải trả góp mỗi ngày.
    Một lần nữa thím Chín lại đem con gái về ở với mình để tự tay chăm sóc. Việc điều trị, thuốc men đã có thầy Bảy. Việc nhà có dì Sáu, Nhạn, Tím, Xíu và Phục tiếp tay. Thím Chín ít bận bịu nên cái buồn trong lòng có thời gian nhả sợi rồi đan thành kén mà bao quanh thím. Thím cũng đâm ra ít nói, không còn nhận đi nấu đám và thỉnh thoảng lại bị chứng bịnh phong thấp hành hạ phải nằm ì một chỗ.
    Người kiên cường nhứt trong gia đình chính là chú Chín. Chú an ủi từng người, không để cho Nhân, Nghĩa, Nhỏ xao lãng việc học. Những ngày thím Chín bị căn bịnh hành hạ, mấy khớp xương sưng đỏ, đau nhức đi không nỗi, luôn miệng kêu rên. Chú Chín liền đi tìm hái lá lốt đem về sao lên cho nóng, bọc vô cái túi, đắp lên hai cái đầu gối phình to như trái bưởi của thím, cho nó hút cái độc ra để làm dịu cơn đau.
    Người làm chú xót xa nhứt là Nhu. Nhìn con đi ra, đi vào, lúc thẩn thờ khi lại bồn chồn, quên quên, nhớ nhớ mà chú nghe đứt từng đoạn ruột.
    Vị cứu tinh trong gia đình chú thím Chín lúc nầy lại chính là Phục, bởi chỉ có chàng mới lấp khít cái khoảng trống mà Nghệ bỏ lại. Ngược lại với ngày trước, bây giờ Nhu tỏ ra rất quý mến Phục, khi mê cũng như khi tỉnh. Một lần trong lúc mê loạn Nhu bỗng ôm cứng lấy Phục mà gọi bằng chồng. Điều nầy khiến chàng vừa được an ủi, vừa hết sức đau lòng.
    Phục đóng góp cả công sức lẫn tiền của để duy trì nếp sinh hoạt trong gia đình chú Chín. Không có Phục thì Nghĩa và Nhỏ chắc đã không thể theo đuổi việc học theo ngành chúng thích: Nghĩa muốn theo ngành kiến trúc ; Nhỏ chỉ muốn làm bác sĩ lẹ lẹ để chăm sóc má và chị của mình.
    Gia đình chú Chín sống bám vào ruộng đất, thu nhập do ông trời định đoạt. Họa vô đơn chí, năm Nghệ mất cũng là năm mà lũ lụt tàn phá gần như toàn bộ ruộng vườn của chú Chín.
    Để đủ tiền nuôi hai đứa cháu và thằng con trai út của mình hoàn thành việc học, chú Chín bất đắc dĩ phải dựa vào sự giúp đỡ của gia đình dì Sáu.
    Trước đây Tím thường nghe mọi người trong nhà, nhứt là má chồng, kể về sự đùm bọc của gia đình chú thím Chín giành cho họ, nên cô không lấy làm khó chịu mà còn đóng góp hết sức mình. Nhờ vậy mà người ngoài cuộc vẫn cho rằng gia đình chú Chín tuy bị khổ nhưng chưa bị nghèo!
    Những luống nấm mầu mỡ của Phục và tiệm may nổi tiếng của Tím khiến vợ chồng họ là một trong hai người đầu tiên sắm được chiếc cúp cánh én trong xóm Cầu Ván. Họ có đủ khả năng để trả ơn cho chú, thím Chín.
    Phục giúp đỡ một cách âm thầm. Chàng căn dặn Nhân, Nghĩa, Nhỏ, bất cứ nhu cầu gì cũng cho chàng hay chớ không được hỏi xin chú Chín. Ngoài số tiền đóng học phí, tiền ăn ở, chàng còn dúi tiền tiêu vặt vào tay từng đứa, giúp chúng tập trung vào việc học, không phải lo làm thêm rồi sinh ra xao lãng. Điều nầy khiến chúng quyết tâm không được phụ lòng ân nhân mà phải học cho thật tốt. Cho dù cố đối xử với cả ba một cách công bằng, thế nhưng Phục không thể dừng được sự ưu ái Nhân hơn Nghĩa và Nhỏ. Tia mắt âu yếm và những cử chỉ săn sóc, sự quan tâm hết sức chu đáo của Phục, đã khiến Nhân vô cùng cảm động.
    Phục và dì Sáu vẫn nhắc nhau hoài cái ngày đầu tiên hai mẹ con đặt chân đến đây. Chỗ ở đầu tiên, chén cơm đầu tiên của họ là do gia đình chú thím Chín cung cấp. Họ dặn nhau phải hết lòng đền ơn, đáp nghĩa. Họ thấy vui khi san sẻ cho gia đình chú Chín ! Đối với Phục còn có một lý do hết sức sâu xa, khiến chàng hầu như thật lòng cám ơn trời đã giúp mình có được điều hằng mong mỏi.
    Một hôm Nhu xuống sông tắm rồi bị vọp bẻ xém chết, cũng may út Xíu thấy kịp nên lật đật kêu to. Phục đang ngồi ăn cơm, buông đũa chạy bay xuống kéo Nhu lên bờ xốc nước. Chàng vừa làm vừa thét gọi tên Nhu, đến khi nước trong miệng cô ọc ra hết thì mặt Phục cũng ràn rụa nước mắt.
    Xóm cầu Ván giờ đã có mạng lưới điện và nước đến từng gia đình, nhà thím Chín dĩ nhiên cũng có. Thế nhưng không biết vì tiết kiệm hay tâm trạng không bình thường mà Nhu cứ bưng thau đồ xuống sông giặt rồi tắm. Ai khuyên cách mấy cũng không được. Cái bệnh đó của cô khiến mấy lúc sau nầy Phục mang cái tật, hở hở là dòm xuống sông!
    Để thím Chín và Nhu không suy nghĩ vẩn vơ, dì Sáu tới nhà thăm họ mỗi ngày. Dì thường mang quần áo Nhạn may cho khách đến để nhờ Nhu làm khuy, đơm nút, vắt lai...Nhu vốn thích may vá thêu thùa, nên làm rất hăng hái. Điều nầy giúp cô ổn định tinh thần và vui hơn một chút.
    Kể từ ngày Nhạn về làm dâu, Nguyên bỗng thay đổi cách nghĩ, cách làm...Gia đình thầy Bảy hết sức đề huề, êm ấm. Bà con lối xóm cứ nhìn vào mà trầm trồ, khen hai cặp vợ chồng một già, một trẻ đó hợp mạng, hợp tuổi nên tài lộc, hạnh phúc bò vào nhà không ngớt !
    Từ ngày Nhạn sanh đôi hai cô con gái, Nguyên không còn tha thiết với văn chương như trước nữa. Do phong trào học tiếng Anh đang lan đến xóm Cầu Ván. Chàng mở lớp dạy tiếng Anh tại nhà. Lấy học phí thấp, có khi còn miễn nên học trò rất đông. Nguyên được mọi người trong xóm gọi bằng thầy một cách kính trọng.
    Dì Sáu vẫn nhớ cái lần mà thầy Bảy xúi mình sanh đôi hai đứa con gái, nên mỗi khi ổng chộn rộn dì hay xô ổng ra mà ghẹo :
    -Ông có hai đứa cháu nội gái rồi còn đòi gì nữa ?
    Thầy Bảy nheo mắt ghẹo lại:
    -Tui nói thích hai đứa con gái sanh đôi, chớ nói cháu nội hồi nào?
    Thấy hai vợ chồng dì Bảy già rồi mà còn ngủ chung, thím Chín ngứa mắt, thím nói:
    -Vợ chồng già còn đeo xà nẹo, hổng sợ con cháu nó cười sao?
    Dì Sáu chống chế :
    -Nhà nầy có ba buồng ngủ thôi hà! Tui với ổng một, tụi thằng Nguyên một, con Xíu với hai chị em con Nhàn con Nhả một. Hỏi còn chỗ nào mà ngủ riêng. Hổng lẽ đập nhà ra xây lại. Huống hồ gì ông Bảy bây giờ bị tăng xông. Bịnh nầy nghe nói máu lên cao nhứt từ cái lúc nửa đêm tới sáng. Bởi vậy tui phải lo dòm chừng chớ rủi có bề gì thì đói cả đám.
    Thím Chín cười:
    -Chị thương chồng thì nói đại đi, tui đâu có cười mà sợ. Cả cái xóm nầy ai mà hổng biết chị cưng chồng hạng nhứt. Nội cái chuyện ổng ngày càng có da, có thịt, tươi soi sói như tép mới xúc thì ai cũng biết chị nuôi ổng đầy đủ, cho ăn đủ món mà món nào cũng chan ngập mặt.
    Dì Sáu biết thím Chín có ý ghẹo mình nên mắc cỡ đến đỏ bừng hai cái gò má, cúi gằm cái đầu xuống. Thím Chín thấy bộ tịch như con gái mới lớn của dì Sáu coi ngộ quá nên bật cười ngặt ngoẽo.
    Những tiếng cười sảng khoái đó không còn nở như bắp rang trên miệng thím Chín nữa. Bây giờ họ hoàn toàn đổi vai cho nhau: Ngày xưa thím Chín nói cười luôn miệng, dì Sáu chỉ việc ngồi nghe thỉnh thoảng góp vào chút đỉnh, giờ thì đảo ngược đúng bon một trăm tám chục độ.


    Điều nầy khiến dì Sáu đau lòng lắm! Dì bỗng đâm ra xích mích với ông trời vì cầu xin hoài mà ổng không chịu chiếu cố, cho thím Chín khỏe mạnh, vui tươi còn Nhu thì ổn định tâm lý như xưa.
    Thấy thời cúng của dì Sáu ngày một dài thêm, thầy Bảy nói nửa giỡn, nửa thiệt:
    -Bà làm cái gì mà rù rì với ông Phật lâu lơ, lâu lắc vậy? Đừng có bỏ tui mà đi theo ổng à nghe!
    Dì Sáu chẳng những không nhích môi cười, còn nhíu chưn mày lại mà rầy:
    -Tui cầu nguyện cho gia đình chị Chín được bình yên, mạnh khỏe. Ông đừng có nói tầm bậy, tầm bạ, cái rồi hết linh nghiệm mà còn mang tội dữ ngươi!
    Thầy Bảy chặt lưỡi:
    -Bụng dạ ông Phật rộng rãi lắm, đâu có như chai dầu gió trong túi áo của bà. Ổng mà chấp nhứt đủ thứ thì đâu còn sống tới giờ nầy mà làm Phật.
    Dì Sáu lắc đầu:
    -Càng già càng không nên nết, cái tánh ông như vậy nên con Xíu nó bắt chước.
    Dì thở thêm một hơi thật dài, than:
    -Con gái gì đâu mà cái miệng như tép lặn, tép lội. Chưa nói là cười...
    Thầy Bảy lại càng khoái chí:
    -Để rồi bà coi! Con gái của tui sau nầy không thua một đứa nào trong xóm. Đừng nói chi con gái, con trai cũng vậy. Bà ngó từ đầu trên cho tới mút xóm dưới đi. Đâu có đứa nào bằng nó. Con gái tui vừa sáng dạ, năm nào cũng được lãnh thưởng, mặt mũi hổng tệ mà nấu ăn cũng... khéo...
    Dì Sáu ngắt ngang:
    -Thôi ông đừng có khen nó mà tui phát rầu. Con gái gì mà lớn chồng ngồng còn chưa biết mắc cỡ. Suốt ngày tắm sông với tụi con nít. Còn leo trèo như khỉ nữa. Tui nói rồi đó! Ông mà không bắt cúi rồi đét cho một trận thì có ngày nó té lọi cẳng, uống nước trương sình cái bụng.
    Dì "ứ hự " một cái rồi tiếp:
    -Ông khen nó nấu ăn ngon làm tui mọc óc cùng mình. Nó mà vô bếp là tui rầu hết biết! Toàn là làm theo ý không hà! Pha trộn tùm lum, muốn bỏ cái gì là bỏ! Thuở đời nay chưng mắm cá lóc mà vắt nước cốt dừa đổ vô làm không ai ăn nổi. Uổng cái con mắm của tui quá xá cỡ!
    Đây là lần thứ năm, thứ sáu gì đó, dì Sáu đem chuyện con mắm cá lóc ra dẫn chứng. Cái tánh cần kiệm đeo dì cho tới chết, dễ dầu gì chịu buông. Dì xót của, hể có dịp là nhớ rồi vừa nhắc lại vừa cằn nhằn. Huống hồ chi con mắm đó là của mợ Ba Sáng, người nổi tiếng làm mắm ngon nhứt xóm đem cho nên dì cứ tiếc hùi hụi!
    Thầy Bảy nghe hoài nên tức mình, cự lại:
    -Sao bà hổng nhắc cái vụ nó làm món gỏi ốc bu trộn xã ngon quá trời, quá đất! Còn cái món canh khoai ngọt chan nước cốt dừa ăn với dưa mắm...
    Dì Sáu ngắt ngang:
    -Nước cốt dừa, nước cốt dừa. Cái gì cũng bỏ nước cốt dừa, ăn ngán muốn chết. Cái món đó có một mình ông khen ngon chớ đâu ai nuốt nổi.
    Thầy Bảy hậm hực:
    -Rõ ràng bữa đó nồi cơm vét tới đáy. Ai cũng ăn tới no cành hông mà bây giờ nói vậy cho được.
    Thầy nói với giọng bất bình:
    -Nếu không chính mắt thấy con Xíu từ trong bụng bà chui ra, chắc tui tưởng nó là con xin, con lượm. Bà không có thương, không có nựng nịu con như mấy người phụ nữ khác. Nói chuyện với nó sẳng lè chớ không ngọt như với con Nhạn, con Nhàn, con Nhã. Hổng nói thì thôi mà mở miệng là hết la rồi rầy con nhỏ.
    Dì Sáu cắt nghĩa:
    -Con rức ruột đẻ ra ai mà hổng thương? Tại ông cưng nó quá trời, chìu nó hết cỡ ! Tui mà hổng ghìm lại đặng nó trèo lên đầu, lên cổ mà ngồi, rồi ai chịu cho nổi đây?
    Thầy Bảy bắt bẻ thêm:
    -Cái chuyện nó thích nấu ăn, đáng lẽ phải mừng, phải khuyến khích để nó có tiến bộ. Đằng nầy hể con nhỏ làm món gì đem ra cũng bị bà chê dậm dề...
    Dì Bảy thở dài:
    -Nói thiệt với ông nghe! Tui, thằng Nguyên, con Nhạn kể cả con Nhàn, con Nhã nữa. Hể nghe nó lên cơn đòi vô bếp là rầu thúi ruột. Một lần ngon chớ chín lần không. Tại ông cứ khen đùa, khen đại cho nên nó tưởng đâu mình có cái tài nấu ăn thiệt sự, báo hại tụi tui khổ muốn chết!
    Điều nầy không hẳn dì hoàn toàn phóng đại. Có những món Xíu dọn ra, như món mắm mà dì hay nói đó! Mới nghe mùi thôi mà ai cũng no ngang, không muốn cầm đũa.
    Không ít lần Xíu xụ mặt, rơm rớm nước mắt hỏi thầy:
    -Ngon hông ba?
    Thầy Bảy thương con gái lắm! Bấm bụng mà nói một câu hết sức trái lương tâm:
    -Ngon lắm con!
    Rồi gắp một miếng thiệt bự bỏ vô chén, ăn ngắc ngứ y như gà nuốt dây thun.
    Út Xíu được ông già tía cưng nên tánh tình tuy dễ thương nhưng hay ương bướng. Trong nhà, cô chỉ lớn hơn có hai đứa cháu nhưng lại nắm quyền sanh sát trong tay. Điều nầy khiến Nguyên bực bội. Tình thương dành cho cô em út của chàng ít có dịp khởi phát.
    Một lần thấy mấy bức tranh lập thể của mình bị Xíu thẳng tay dẹp bỏ, thay vào đó là mấy bức ảnh chẳng có tí gì nghệ thuật. Nguyên hậm hực mét:
    -Ba coi đó! Mấy bức tranh con vẽ đẹp thấy mồ mà nó đem bỏ, treo ba cái đồ ôn dịch nầy lên. Coi mà bắt xốn, bắt ngứa hai con mắt muốn chết!
    Thầy Bảy an ủi:
    -Thôi kệ nó đi con, nó là con gái, mai kia, mốt nọ phải về làm dâu nhà người ta khổ lắm. Con nhường em một chút đi mà, không có mất mát gì đâu. Tới chừng nó đi lấy chồng rồi con muốn làm gì thì làm. Ba hứa cho con thả sức, không có ngăn cấm chút xíu nào hết!
    Nói như vậy để an ủi con trai chớ trong bụng thầy đã quyết. Sau nầy ai đi cưới con gái út của mình, phải chịu ở rể thì thầy mới gả.
    Chuyện thầy Bảy cưng chìu cô con gái út một cách vô bờ, vô bến đã lan truyền khắp xóm. Ai cũng rỉ tai nhau là chỉ cái nết như con trai của mình, út Xíu đã khó lấy chồng rồi. Bây giờ lại kèm thêm một ông già vợ như thầy Bảy nữa, cho dù ổng có phết vàng khắp người cô cũng không ai dám rớ. Út Xíu e là sẽ ở giá tới già, tới chết.
    Thầy Bảy tuy có nghe phong phanh, nhưng vốn tự hào về đứa con thông minh, lại có gương mặt đúng tiêu chuẩn "Mặt chữ điền tiền rưởi cũng mua" của mình, nên vẫn không nao núng. Hơn nữa con của ông chưa sanh ra mà đã có một chỗ hết sức ngon lành đặt cọc rồi nên đâu phải sợ cái giống gì!
    Dì Sáu và thím Chín trước đây có ngoéo tay hứa hẹn làm xui. Họ rắp tâm cột út Nhỏ với út Xíu lại thành một cặp, nên thường nói bóng gió cho hai đứa để ý tới nhau.
    Sự đời thường giống như nước chảy ngược. Hể họ càng xô hai đứa té sấp, té ngửa vô mình nhau thì chúng lại càng văng xa lắc. Hậu quả là chẳng những không út nào ưa út nào mà còn hết sức, hết sức kị nếu không muốn nói là ghét nhau. Cả hai đều tìm mọi cách để tránh mặt nên hể có đứa nầy là không có đứa kia.
    Thấy dì Sáu lo, có lần thím Chín an ủi:
    -Lo cái gì chị Sáu ơi! Ba thằng con trai nhà tui hổng lẽ chẳng đứa nào chụp dính ba đứa con gái nhà chị hay sao? Con Xíu nó không ưa thằng Nhỏ thì gả cho thằng Nhân cũng được. Có khi sáu đứa ráp thành ba cặp. Tụi mình làm sui một cụm chắc là vui hết nói nổi luôn!
    Thím Chín nói oang oang, lúc ấy Phục đang ăn cơm cùng vợ, bỗng dưng nghẹn ngang. Y buông chén, buông đũa mà trợn trắng cả hai con mắt.
    Tím vội vàng một tay bưng tô nước cơm đưa sát miệng, một tay vuốt ngực chồng lia lịa.
    Thế là cái mầm lo sợ đã được gieo vào giữa trái tim của Phục, đâm rễ trổ cành từ hôm đó!


    Tím thấy chồng phờ phạt hẳn đi từ ngày Nghệ mất, nên cho rằng anh quá đau lòng vì thiếu người bạn tâm giao. Rồi lại thêm Nhu sống dở chết dở, thỉnh thoảng lại nhầm chồng cô thành chồng cổ khiến Tím càng rầu thúi ruột. Dù biết Nhu chỉ "xài" đỡ trong lúc lên cơn, nhưng Tím vẫn thấy không thoải mái.
    Tuy rất tin tưởng Phục, nhưng đôi khi bắt gặp tia mắt của chồng chiếu vào Nhu, Tím không khỏi tủi thân. Chưa bao giờ Phục nhìn Tím như thế. Cái nhìn không dành cho Tím mà không hiểu sao lại khiến cô xúc động đến đầm đìa nước mắt. Sự thương hại pha lẫn bực bội, hờn tủi khiến tâm trạng Tím thường kết thúc bằng một nỗi ăn năn.
    Nhớ đến lời Nhu kể về Phục ngày nào, Tím càng thêm chua xót. Tự hỏi tại sao đối với Nhu, chồng cô là một tên đại dâm tặc mà đối với mình thì ngược lại. Sự háo hức chỉ có ở thời gian đầu rồi sau đó thì đều đều, giống y như những cái hạt tròn lẳn, bằng chan nhau trên xâu chuỗi.
    Sự quan tâm thái quá của Phục đối với Nhu, chỉ biểu lộ bằng hành động chớ không bằng lời nói. Tím cố biện hộ giùm chồng với mình rằng chúng chỉ phát xuất từ tình người và lòng thương hại. Nhưng có đôi lúc cô phải nhìn nhận rằng nó bắt nguồn từ một cái gì sâu xa hơn thế. Cho dù từ ngày cưới nhau Phục chưa một lần nào tỏ ra có quan tâm khi cô nói về Nhu. Ngay cả khi Nghệ mất chàng cũng rất tránh đề cập về cái tai nạn thảm khốc đó. Không bày tỏ sự cảm thông như những người xung quanh, thế nhưng anh luôn có mặt kịp thời khi Nhu cần đến.
    Đối với gia đình chú thím Chín, Phục bỗng trở thành một nhân vật quan trọng nhứt. Chàng tự động giành lấy cái bổn phận của người con trai cả. Phục thay chú Chín làm hết các việc đồng áng, để chú an tâm ở nhà săn sóc vợ con. Cái tai ương của nhà họ đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của Tím và Phục. Tím đâm ghen vì Phục mất hứng thú trong chuyện gối chăn. Tím tự hỏi có phải tại chồng cáng đáng nhiều việc hay vì tất cả sinh lực của anh đều trút cho Nhu. Cho dù cô biết rằng bên cạnh họ luôn có chú thím Chín, hai người ấy sẽ không để cho những chuyện như vậy xảy ra ngay trước mắt.
    Không có cảm giác nào dày vò chúng ta bằng cảm giác bất lực. Tím bất lực trong việc củng cố niềm tin đối với chồng. Phục bất lực trước việc rủ bỏ mối tình của mình dành cho Nhu.
    Cảm giác bất lực ấy nếu ở những người khác chỉ một thì chú Chín gấp đôi. Chú tưởng tượng như có một dòng thác, hay một ngọn lửa đang cuốn trôi, thiêu đốt người thân của mình còn chú chỉ biết đứng nhìn. Nỗi uất nghẹn hết sức cụ thể, khiến hơi thở không ra, vào một cách dễ dàng. Như có cả một tảng đá xanh đè lên ngực chú vậy. Nó đè bẹp luôn cái tính lạc quan lẫn cái tật thích đặt điều nói giỡn để cười của chú Chín. Hậu quả là mái tóc bạc đi một cách nhanh chóng và mấy nếp nhăn như những luống cày rạch sâu trên trán chú. Trong suốt thời gian đó chú chỉ cười có mỗi một lần, hùn vô với thằng con trai út khi nó báo tin đậu vô trường Y. Cái trường đại học khó thi vô hạng nhứt đó.
    Cười xong là chú buồn liền. Nghĩ đến chuyện phải lo đóng tiền học, tiền ăn, tiền ở cho con mà cái cục rầu, cục lo, cứ đâm chú hoài thiếu điều muốn thủng ruột.
    Chú Chín bán hết mấy bụi tre, mấy hàng so đũa của mình cho người ta làm cột. Món tiền đó được chú gom hết, đưa cho Nhỏ rồi dặn dò:
    -Con cầm mớ tiền nầy mà xây xài. Ráng hà tiện, hà tặn cho đủ nghe con !
    Chú đang nơm nớp lo. Chú sợ phải trông thấy gương mặt bí xị và lời cằn nhằn là "bây nhiêu đây là không có đủ", thì nghe nó nói:
    -Ba đưa chi mà nhiều dữ vậy? Con lấy phân nửa thôi!
    Chú Chín ngạc nhiên hỏi:
    -Sao nghe nói đóng tiền trường nhiều lắm mà?
    Nhỏ trả lời:
    -Con được học bổng nên khỏi đóng.
    Chú Chín lại càng ngạc nhiên hơn. Hôm trước nghe Nhỏ khoe với bạn là mình hên lắm, vừa đủ điểm để đậu. Chú có đi học nên biết. Muốn nhận học bổng phải là mấy người đậu cao chót vót.
    Chú hỏi:
    -Con được học bổng kiểu gì?
    Nhỏ đáp:
    -Nhờ thầy Bảy lo giùm cái giấy xác nhận là con nhà nghèo, đang gặp khó khăn, nên khỏi phải đóng tiền học một đồng nào hết!
    Chú Chín sững sờ, không ngờ gia đình mình rớt hạng nhanh còn hơn dừa khô rụng. Cảm giác nhẹ lòng và xấu hổ đến cùng một lúc. Chú thở ra một hơi dài, bỗng ân hận vì trước đây mình không ưa mấy ông cán bộ. Chú đâu có biết người ban học bổng cho thằng Nhỏ lại chính là Phục.
    Những người bị số phận chơi khăm, thường mất đi sự phán đoán sáng suốt mà họ từng có. Họ đâm ra nghi ngờ những điều đáng tin và tin tưởng những điều rất đáng nghi ngờ.
    Chiều hôm đó khi thầy Bảy đến thăm bịnh cho hai mẹ con thím Chín. Thầy hết sức ngạc nhiên khi thấy chú Chín bắt tay thầy rồi không buông ra liền, giữ chặt cứng và nói bằng giọng nghẹn ngào:
    -Tui cám ơn anh nhiều lắm, anh Bảy ơi! Không có anh chạy giùm cái giấy con nhà nghèo, chắc tui không cho thằng Nhỏ đi học nổi.
    Thầy Bảy hết sức ngạc nhiên, vốn nhanh trí nên thầy liền xóa ngay cái bộ mặt chưng hửng của mình, lật đật kiếm chuyện hỏi để khỏa lấp liền:
    -Chị Chín ngủ được hông? Hồi đêm còn than đau nhức nửa hông?
    Chú Chín gật đầu:
    -Từ hôm thằng Nhỏ thi đậu tới nay, bả vui nên có sức mà đẩy lui cái bịnh. Ngủ cũng nhiều, mỗi bữa ăn cũng bới thêm được một chén cơm.
    Chú nói thêm:
    -Một phần cũng nhờ cái món cẳng gà hầm tỏi của chị Sáu. Coi bộ bả hạp với cái món đó. Từ hôm ăn nó tới nay mấy cái khớp bớt sưng...
    Chợt nhớ thầy Bảy là tín đồ tây y, chú ngưng bặt liền.
    Thầy Bảy cười khà khà cho chú Chín khỏi ngượng .
    Thầy nói :
    -Coi bộ có ngày tui phải nhường cái chức "thầy thuốc" nầy cho bà vợ của mình quá! Hể gặp ai tới nhà chích thuốc là bả hỏi coi họ bị bịnh gì rồi chỉ liền mấy thứ thuốc lá, thuốc củ. Bả xúi họ xài rồi còn dụ thêm là người mình hợp với thuốc Nam, chỉ có người Tây mới hợp với thuốc tây. Kể ra bả nói cũng không sai, mấy món thuốc gia truyền coi vậy mà công hiệu như thần.
    Thầy định nói thêm là năm chục phần trăm bà con, cho rằng họ có bịnh, thật ra là chỉ do tưởng tượng mà thôi, nhứt là ở những người giàu. Cho nên chỉ cần họ hết lòng tin tưởng vào thầy, vào thuốc là khỏi! Thế nhưng kịp thời ghìm lại vì không muốn thẳng tay đập bể cái nồi cơm của mình.
    Ra khỏi nhà chú Chín, thầy Bảy gặp ngay út Nhỏ.
    Nhỏ đứng khuất sau gốc gòn, đợi thầy Bảy nãy giờ. Vừa gặp mặt là Nhỏ nói liền:
    -Bác Bảy làm ơn dừng xe cho con nói chuyện nầy một chút!
    Thầy Bảy dừng xe lại rồi nói:
    -Bây không kiếm tao, thì tao cũng kiếm bây mà hỏi coi chuyện chạy cái giấy con nhà nghèo là ra làm sao? Tao không có làm cái khỉ khô gì hết mà được cám ơn túi bụi làm mắc cỡ quá mạng!
    Nhỏ dùng cả hai bàn tay mà gãi tưng bừng cái đầu hớt cua của mình rồi nói:
    -Tại anh Phục biểu con đừng có xin tiền ba, để ảnh lo hết cho. Con phải nói là được học bổng. Con đậu bét bảng nên ba không tin, phải nói dóc là nhờ bác chạy cho cái giấy con nhà nghèo, khỏi đóng tiền trường. Có vậy thôi hà!
    Thầy Bảy thở ra một hơi nhẹ nhỏm:
    -Vậy mà bây không chịu nói trước. Ổng hỏi bất tử làm tao chới với, cũng may là ừ đại coi sao.
    Nhỏ vừa bỏ tay xuống lại đưa lên gãi thêm một chập nữa, lần nầy chỉ xài một tay.
    Nhỏ ta ra sức chống chế:
    -Tại anh Phục biểu không được nói với ai cái vụ ảnh cho tiền. Chắc ảnh sợ tới tai chị Tím rồi bị chỉ cằn nhằn. Cũng may mà con nghĩ ngay ra cái cách đó. Con xin lỗi là đã làm liên lụy tới thầy.
    Thầy Bảy nghe mà cảm động hết sức. Thầy thầm khen là mẹ con Phục ăn ở có tình, có nghĩa.
    Mấy lúc sau nầy thầy thấy Nhạn bớt mua sắm cho hai đứa con, chi tiêu có phần dè sẻn, chắc cô cũng dành giụm chút đỉnh để đóng góp vào việc nầy.
    Thầy nói giỡn:
    -Bây cầm tiền của thằng Phục thì coi như chịu làm em rể của nó rồi, phải hông?
    Nhỏ không đáp, mặt mày đỏ lựng. Bất giác lại đưa cả hai bàn tay lên gãi đầu sồn sột.


    Thầy Bảy hiếm khi đem chuyện gã cô con gái cưng ra đùa. Cho dù dì Sáu và thím Chín hứa hẹn làm sui với nhau, khắp xóm chẳng ai không biết, thầy vẫn chưa hề mở miệng tán đồng hoặc phản đối. Cái nét mặt giả bộ thờ ơ nhưng ngầm chứa sự bất bình khi nghe cả nhà trêu út Xíu ấy, khiến dì Sáu không khỏi lo âu.
    Ổng vốn hết sức thận trọng (thầy thuốc mà!), lại suy tôn con gái quá mức nên chưa thấy thằng con trai nào trong xóm xứng với út Xíu của mình, nhứt là út Nhỏ.
    Thế sao bây giờ lại gợi ý, lại dẫn đường cho con hươu nho nhỏ chạy ? Đó chẳng phải vì con đường trước mặt của út Nhỏ đã được phát bờ, dọn cỏ, trãi nhựa láng o rồi đó sao ? Mấy năm nữa cậu ta sẽ ra trường, mang chức danh bác sĩ hẳn hoi. Bây giờ đã trở thành trai có ngọc nên phải nhanh tay chụp liền kẽo trễ!
    Các bậc phụ mẫu cho dù thời trẻ có tiêm nhiễm những tư tưởng rộng rãi. Có mơ mộng, sống phóng khoáng...tới cỡ nào đi nữa. Khi làm cha, làm mẹ họ cũng trở nên rất, rất, rất ư thực tế!
    Cái chất lãng mạn đã bị chính bản thân họ phung phí hết ráo! Cho nên những đứa con, đứa cháu, đừng có bày đặt sống theo cái kiểu "một túp liều tranh hai quả tim vàng". Đối với họ, hai trái tim vàng ấy phải đặt vào một túp lều bằng vàng và càng to càng tốt!
    Thầy Bảy bất ngờ nhận ra nét phi phàm trong nét mặt, dáng dấp của Nhỏ. Chút cảm tình bằng đầu mũi kim mà thầy dành cho cậu ta bỗng phình to bằng cả một đại dương.
    Rồi thầy bỗng lo, nhớ ra hình như hai đứa nầy hết sức ghét nhau. Phải gấp gấp tìm cách cải thiện, biến đổi cái ghét nầy thành thương mới được!
    Xíu ghét Nhỏ thì tại sao không biết, chớ chuyện Nhỏ ghét Xíu cũng giống như lớp màng màng mỏng dính, ngụy trang trên mặt nước mà thôi!
    Dòng sông thỉnh thoảng cũng bày đặt che đậy bản chất trong suốt của mình bằng cái lớp váng dầu đủ màu như cầu vồng. Những khi ấy chắc chắn trong lòng nó phải có chứa một thứ vô cùng quý giá.
    Con nít ở nông thôn -hổng chừng con nít thị thành cũng vậy- hể bị cặp đôi là mắc cỡ dữ lắm. Chúng tự vệ bằng cách chối đây đẩy, có khi còn thề bán mạng:
    -Tao mà có thương cái thằng (con) nhỏ đó cho bà bắn nát óc!
    -Nó xấu hoắc hà, ai mà ham?
    .....

    Chúng còn nói xấu, chê, có khi chửi cái đứa bị ghép với mình một cách thậm tệ.
    Có đứa phản ứng quá kịch liệt đến nổi lộng giả thành chơn. Mối ác cảm ấy càng ngày càng bành trướng, khiến cả hai chẳng thể dòm mặt nhau. Có khi còn ảnh hưởng đến tận đời con, đời cháu.
    Cũng có những đôi ghét quá hóa thương. Họ dám vượt qua vòng lễ giáo để đến với nhau khiến gia đình, họ hàng, bà con lối xóm cùng chới với.
    Bạn bè lấy làm lạ, hỏi họ là tại sao khi khổng, khi không, đang ghét nhau một đống bỗng trở ngược lại, thương sống thương chết... Họ chẳng giải thích nổi bèn đổ thừa cho ông trời.
    Cũng may là trên đời nầy còn có một ông trời!
    Ngẩm ra ở đời, tình cảm là cái thứ tráo trở, hai mặt nhứt từ xưa đến nay. Người ta thương nhau một thời rồi ghét nhau một đời, hoặc ngược lại.
    Những người duy trì một mối tình bất biến trong lòng mình, có thể được xem như một vị anh hùng, hay bị coi như khùng, tùy theo từng trường hợp.
    Có lẽ khôn ngoan nhứt, an toàn nhứt là cả hai nên cư xử theo kiểu tiền trao, cháo múc. Hể ai thương mình bao nhiêu thì thương lại bấy nhiêu, đừng có "cho rất nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu", đòi lại không được rồi cả đời cứ tức ấm ách! Có người còn hăm kiếp sau sẽ tìm gặp cho bằng được, rồi tính cả vốn lẫn lời!
    Câu nói của thầy Bảy khiến Nhỏ đưa tay khỏa lớp màng màng bên trên, nhìn sâu tận đáy lòng mình rồi phát hiện có một viên ngọc rất trong nằm sát đáy.
    Gương mặt của út Xíu, Nhỏ nhớ là hiếm khi họ đụng mặt nhau lại hiện lên hết sức rõ ràng. Như thể cô ta đang đứng ngay trước mặt, với mái tóc bom bê và cái đồng điếu nhỏ xíu chỉ hiện ra nơi khóe miệng khi cười. Nhỏ bỗng tự hỏi sao cái mặt dễ thương đến vậy mà trước đây mình không nhận ra vậy trời!
    Nhỏ nghe hối hận tràn trề về những hành động, lời nói dại dột của mình, bỗng ước ao út Xíu gặp một cái tai nạn gì đó, như té sông chẳng hạn... Rồi được mình cứu như anh Phục cứu chị Nhu hôm nào. Chợt nhớ hồi xưa Xíu thi lội với đám con gái trong xóm lúc tắm sông, lần nào cô cũng thắng, mà Nhỏ ngán ngẩm quá chừng! Tự an ủi rằng hãy đợi đó, trên đời nầy còn thiếu gì tai nạn.
    Xíu thì khác, ghét thiệt tình chớ không có giả bộ như Nhỏ, bởi có một lần con Lan, con ông thầy giáo Huế (ông thầy nầy người Huế) có mét với Xíu là: "Xíu ơi! Thằng Nhỏ nó nói cái mặt của mầy giống cái bãi cứt trâu có xâu bảy lỗ". Con gái, cho dù con gái mới chín, mười tuổi, bị chê ngay chóc cái mặt là đều căm hận thấu xương!
    Trong ba anh em, cậu cháu: Nhỏ, Nhân, Nghĩa. Xíu chỉ tiếp xúc, trò chuyện nhiều với Nhân. Nhân vốn chững chạc, ra dáng đàn anh lại được công nhận là học giỏi nhứt trường. Anh là niềm tự hào của gia đình nói riêng và của đám con nít xóm cầu Ván nói chung.
    Xíu rất hãnh diện khi có dịp khoe với mấy đứa bạn, nhà mình với nhà Nhân có quen với nhau. Bà ngoại Nhân thân với má của mình tới cỡ nào! Xíu không quên kể thêm rằng, khi mình vừa được sanh ra lúc còn đỏ hỏn, chính bà chớ không phải má, tắm cho cô mỗi ngày. Cô đã được bà "móc miếng". Muỗng bột đầu tiên của cô cũng do bà đút. Cái tên Xíu của mình là do bà đặt cho...
    Tụi bạn liền nhìn Xíu bằng cặp mắt ngưỡng mộ (người thân của thần tượng mà!). Chúng bèn hỏi có phải nhờ được Nhân dạy mà Xíu học giỏi tới vậy. Cho dù điều nầy không hề đúng nhưng Xíu chẳng những không thèm đính chánh mà còn gật đầu một cách rất đỗi tự hào.
    Xíu càng khâm phục hơn khi cái lần Nhân đến nhà báo tin với thầy Bảy là mình đã đậu vô đại học Nông Lâm. Xíu nghe ba cô hỏi Nhân là:
    -"Sao bây học giỏi như vậy mà không thi vô trường y?"
    Nhân khiêm tốn đáp:
    -"Con muốn làm kỹ sư canh nông, để săn sóc lúa, săn sóc cây cối, ngừa mấy con sâu, con rầy... Giúp cho không cây nào bị chúng gậm trơ xương, chẳng còn trổ bông được nữa".
    Ba của Xíu khi nghe Nhân trả lời như vậy thì ra vẻ ưng bụng lắm! Khi Nhân đi rồi, trong bữa cơm ngay sau đó, ông liền nói với má Xíu và cả nhà:
    - "Ba thằng con trai bên nhà chị Chín, lẩm rẩm mà thằng Nhân là đứa có lòng nhứt ".
    Cái thời buổi mà chữ "lý tưởng" đã bị cái lý của "tiếng" và "tiền" triệt tiêu, thì cái quyết định không thi vào trường Y của Nhân được coi là "dũng cảm" hoặc "khờ dại" tùy theo quan điểm của từng người.
    Trường đại học Y, đang là cái đích mà hầu hết phụ huynh đều nhắm cho con em mình. Cái ưu điểm vừa có lợi lẫn có danh của dân áo choàng trắng khiến mọi người lóa mắt. Hầu hết học sinh ưu tú đều bị nó thu hút y như đám thiêu thân bay quanh bóng đèn.
    Điều nầy cũng phải thôi! Bởi không hiểu tại làm sao mà người ta càng giàu lên thì bệnh tật càng nhiều. Những ngành nghề ăn theo chúng hầu như ai cũng ăn nên làm ra. Người thì giàu nhờ có tài, cũng có người (hổng chừng đa số) giàu nhờ có tội!
    Những tên học trò rất lười, biết chắc rằng mình chẳng có chút hy vọng đậu vào bất cứ trường đại học nào, bèn ghi danh thi vào trường y. Chúng thấy có lỗi vì phung phí tiền bạc, công sức, mơ ước của ba má đầu tư vào mình, nên nghĩ: "Dù sao cũng rớt, thôi thì thi đại vô trường Y để an ủi "ổng, bả" một chút". Chúng là những đứa biết suy nghĩ nhứt, có hiếu nhứt. Do vậy mà tội của chúng cũng bị xử nhẹ hơn, có khi còn được tha bổng. Bởi khi ông bà, cha mẹ chúng trả lời với bàn dân thiên hạ rằng "con tui rớt trường Y", nghe cũng oách, cũng sang...Họ chắc chắn không bị xem thường như những người có con thi rớt mấy cái trường A, B, C...nào đó!
    Xíu khâm phục sự lựa chọn, quyết sống theo lý tưởng của Nhân sát đất. Vầng hào quang của anh trong lòng cô ngày một chói chang, thế nhưng cô không nghĩ về anh nhiều lắm. Chỉ đến khi thầy Nghệ ba của Nhân, cũng là thầy của Xíu, vì cứu người mà chết thì lòng cảm thương, khâm phục dành cho ông, cùng gương mặt tràn đầy đau khổ của Nhân mới khiến Xíu rung động tận đáy lòng !
    Vốn theo dõi xít xao những vấn đề có liên quan đến Nhân. Những tín hiện của Xíu phát ra dành cho Nhân đã bị Phục phát hiện ngay lập tức. Vì vậy mà gương mặt của Phục luôn mang nét đăm chiêu, lo lắng, buồn rầu...Điều nầy khiến Tím cho là do Nhu, thế là những nét ấy cũng xuất hiện trên gương mặt của cô.
    Đây là thời kỳ mà gió liên tục xoáy trên căn nhà của Phục và Tím. Dù trông nó rất kiên cố với bốn bức tường đã được xây bằng gạch, thế nhưng chẳng biết cái mái tole sẽ bị tốc lúc nào!

    Về phía Nhân, Phục yên tâm hơn, ngoài công việc hình như Nhân không quan tâm đến điều gì khác.
    Rất nhiều lần Phục tìm hiểu, nói xa, nói gần mà chẳng nghe Nhân trả lời cho yên bụng.
    Một hôm Phục hỏi thẳng:
    -Con có thương ai chưa Nhân?
    Nhân gật đầu:
    -Có !
    Phục nghe thót tim một cái, chàng hỏi:
    -Ai vậy?
    Nhân cười:
    -Nhiều lắm!
    Phục gặng:
    -Con thương ai nhứt?
    Nhân đáp:
    -Ba và ông ngoại!
    Rồi nói thêm bằng giọng bùi ngùi:
    -Thấy ông ngoại rầu con lo lắm! Hình như con đã linh cảm về những chuyện không may sắp xảy ra cho gia đình mình. Con thấy ba con buồn vì phải sống nương nhờ vào ông bà ngoại, nên con học nhảy để mau ra trường. Lập thân lẹ lẹ cho ba vui sớm hơn một chút. Nào ngờ chưa được khoe đồng lương đầu tiên của mình thì ba đã chết.
    Phục nghe xót như bị ai rắc muối vào mắt, chàng an ủi:
    -Ba con lúc nào cũng hãnh diện về con. Từ khi con còn nhỏ cho tới bây giờ.
    Nhân nức nở:
    -Con biết mình không phải là con ruột của ba. Vậy mà ba thương con còn hơn thằng Nghĩa...
    Phục hết hồn, ngắt ngang:
    -Ai nói mà con biết?
    Nhân đáp:
    -Mấy đứa bạn của con cho biết lúc con còn nhỏ. Tụi nó nói ba ruột làm má con có bầu rồi bỏ trốn qua Mỹ...Con còn gặp bà hai Thọ nữa. Bả có cho tiền rồi xưng là bà nội của con.
    Phục hỏi:
    -Bả gặp con khi nào? Con có lấy tiền của bả hông?
    Nhân lắc đầu:
    -Lúc con mới lên Sài gòn học, bả có tìm tới ký túc xá. Bả nhét tiền vào tay rồi năn nỉ, con nhứt định không lấy. Bả khóc quá chừng rồi không tới gặp con nữa!
    Phục khen:
    -Đừng có lấy nghe con. Con mà làm vậy là ba con buồn lắm!
    Chàng cố ý không gắn thêm tên của Nghệ vào kế chữ "ba".
    Nhân gật đầu, nói tiếp:
    -Bây giờ con chỉ muốn làm sao cho má và ông bà ngoại vui lòng thôi! Con ráng gánh bớt việc nhà cho ông ngoại đỡ cực chớ không để ý tới chuyện gì nữa hết.
    Phục hỏi tiếp:
    -Có đứa con gái nào viết thơ hay nói tận mặt là thương con chưa?
    Nhân đáp:
    -Con có nhận được vài lá thơ, rủ đi uống nước mà con không có đi. Còn chuyện mấy cổ gặp mặt tỏ tình thì chưa có cái hân hạnh đó?
    Phục nghe loáng thoáng rằng hiện tượng con trai thương con trai, con gái thương con gái đang lan rộng ở Sài Gòn nên hỏi một cách lo lắng:
    -Bộ con không thích con gái hả?
    Nhân hiểu ý của Phục nên nói:
    -Chú Hai đừng có lo, con không có cái máu "pê đê" đâu!
    Rồi như để giúp Phục yên tâm hơn, Nhân nói:
    -Con chưa có làm gì được để trả ơn cho ông, bà ngoại. Con tính để ông bà quyết định chuyện hôn nhân của mình. Hể ông bà chọn người nào là con ưng người đó, cho ông bà vui.
    Câu trả lời đó càng làm Phục lo bấn lên, bởi có lần Phục nghe thím Chín nói, nếu Xíu và Nhỏ không ưa nhau, thì cưới Xíu cho Nhân cũng được.
    Sau mấy ngày suy tính Phục liền nghĩ đến dì Sáu. Lúc hai mẹ con cùng ngồi hái nấm bên nhau, Phục nói:
    -Thằng Nhỏ đậu vô trường Y, chắc nhiều nhà trong xóm muốn làm xui với chú thím Chín lắm đó má!
    Dì Sáu cười:
    -Ai mà hổng biết má với thím Chín bây hứa làm sui! Mở miệng coi sao đặng?
    Phục cãi:
    -Cái chuyện đó coi như nói cho vui, ai nói mà hổng được? Muốn chắc ăn phải có một, hai cái lễ. Bên mình với bên nhà chú Chín phải thông báo cho bà con biết là hai đứa nó có nơi, có chỗ rồi, để họ đừng có...
    Dì Sáu hỏi lại:
    -Sao tự dưng con để ý tới cái chuyện nầy dữ vậy?
    Phục xuống giọng, hỏi nhỏ:
    -Bộ má hổng thấy con Xíu nó đang để ý thằng Nhân hay sao?
    Dì Sáu nhìn Phục đăm đăm, coi y nói thiệt hay nói chơi. Thấy gương mặt "trầm trọng" của con, dì liền tin ngay, suy nghĩ giây lâu rồi hỏi:
    -Chắc hông? Sao con biết?
    Phục đáp:
    -Mấy lúc sau nầy con thấy nó hay ghé nhà chú Chín lắm! Gặp lúc có thằng Nhân ở nhà thì ngồi lại nói chuyện cả tiếng đồng hồ mới chịu về. Cái giọng cũng dẻo ngoẹo, không có đâm hơi như trước.
    Rồi chàng hỏi lại:
    -Bộ má không thấy lúc nầy nó chịu chưng diện rồi sao?
    Dì Sáu giựt mình, nhớ ra hôm qua con Nhã hỏi Xíu:
    -Sao cô Út hay chải đầu quá vậy?
    Dì thở ra rồi nói:
    -Sanh con ai dễ sanh lòng. Cái con nhỏ đó nó cứng đầu lắm, khó mà ép...
    Phục cự:
    -Má nói như vậy sao được? "Áo mặc sao qua khỏi đầu", cái chuyện hệ trọng như vầy phải do cha, mẹ quyết định chớ. Sao hồi đó má bắt con phải cưới con Tím cho bằng được, còn bây giờ...
    Dì Sáu cự lại:
    -Tại má thấy nó giỏi giang, có nết na với lại sắc vóc nên mới ép.
    Dì bỗng thở dài, nói như xin lỗi:
    -Ai mà biết nó không sanh đẻ được.
    Rồi dì an ủi:
    -Cái chuyện đó đâu có ai muốn? Coi như trời kêu ai nấy dạ. Con với nó tuy là không có hào con, nhưng ông trời bù cho cái hào của. Bởi vậy đừng có trách móc, cằn nhằn hoài mà mang tội. Để rồi má kêu con Nhạn cho bớt tụi bây một đứa. Hồi đó nó có hứa mà!
    Phục lắc đầu:
    -Dễ gì thằng Nguyên nó chịu. Tụi nó cưng hai đứa nhỏ như vàng. Phải chi nó còn sanh thêm được thì hổng nói gì, đằng nầy nó bị mổ bỏ dạ con, có hai đứa làm vốn thì làm sao mà cho?
    Dì Sáu nói:
    -Hay con nói với con Tím, cho con đi "đặt lộp" chỗ khác, kiếm một đưa đem về nuôi để sau nầy đỡ tay, đỡ chưn.
    Phục lắc đầu:
    -Làm vậy vợ con còn buồn thêm, tội nghiệp nó!
    Dì Sáu buồn hiu:
    -Má nôn có cháu nội hơn ai hết! Vậy mà ông trời cho bồng con chớ không được bồng cháu.
    Phục quay về chủ đề cũ:
    -Má bàn với thím Chín, làm đại cái đám nói cho thằng Nhỏ với con Xíu đi.
    Thấy dì Sáu không trả lời, phục hăm:
    -Để mai mốt nó làm bác sĩ rồi là không tới tay mình đâu. Mấy đứa con gái Sài gòn vớt hết. Tới chừng đó đừng có ngồi mà chắc lưỡi hít hà.
    Phục không kềm được nên nói có hơi hỗn, khiến dì Sáu bất mãn.
    Dì sẳng giọng:
    -Bộ thằng Nhỏ hổng đi cưới thì con Xíu chết hay sao mà sợ ? Nói thiệt chớ nó lựa thằng Nhân là cũng có con mắt nhìn người. Thằng Nhân coi bảnh tỏn hơn, nói năng, cư xử cũng đàng hoàng hơn...
    Phục lật đật phản đối:
    -Má nói vậy nghe sao được? Hổng lẽ hai nhà làm sui tréo ngoe. Tới lúc đó má kêu cô Nhu bằng chị sui, rồi kêu chú thím Chín bằng bác thì nghe sao cho được?
    Dì Sáu nói:
    -Ban đầu thấy kỳ chớ nghe riết rồi cũng êm. Hai bên chỉ là người dưng với nhau. Đâu có ruột rà, máu mủ gì đâu mà sợ thiên hạ kêu rêu.


    Phục nhìn dì Sáu đăm đăm. Liếc thấy gương mặt dì lộ vẻ cứng cỏi, quả quyết anh bất giác rùng mình. Dì Sáu không biết Phục đang quan sát mình, vẫn đều tay gỡ từng cái nấm ra khỏi lớp rơm phủ trên mặt đất. Trông dì thật thản nhiên, giống như người vừa giẫm phải con kiến rồi bỏ đi luôn, không chút áy náy.
    Phục nói bằng giọng đau đớn:
    -Làm như vậy tội lắm má ơi!
    Dì Sáu hình như quên tuốt câu chuyện cả hai vừa nói, dì ngạc nhiên hỏi:
    -Chuyện gì mà tội?
    Phục thều thào như sắp tắt thở:
    -Chuyện gả con Xíu cho thằng Nhân đó!
    Dì Sáu bỗng linh cảm có một chuyện tày trời đã xảy ra mà mình không biết.
    Dì thảng thốt:
    -Tại sao mà tội?
    Phục lặng thinh, không khí bỗng dưng đặc quánh lại khiến cả hai cùng khó thở. Dì Sáu nhìn trừng trừng vào gương mặt con trai. Dì hoảng hốt khi thấy nét thống khổ khắc sâu lên đó. Phục mở đôi môi đang mím chặt ra, nhìn dì Sáu giây lâu rồi từ từ khép lại. Dì Sáu chợt rùng mình, dì cũng hé môi ra định nói, định hỏi một điều gì đó mà rồi im bặt.
    Phục nhắm mắt lại, răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra rồi bỗng thở một cái thật mạnh, chàng nói:
    -Tụi nó là cô cháu ruột đó má ơi!
    Hai bàn tay Phục buông thõng khi thốt ra mấy lời đó! Thế mà dì Sáu có cảm giác như thằng con trai đang tay đinh, tay búa, giáng một cái thật mạnh vào chính giữa trái tim của mình.
    Dì Sáu dùng hết sức lực, cung tay lại mà đập thật mạnh lên lưng Phục. Hành động ấy đồng thời phá vỡ lớp không khí đang đóng băng quanh họ.
    Vừa nghiến răng, dì vừa rủa:
    -Đồ khốn nạn.
    Tất cả sinh lực trong người dì Sáu như thể bị mặt đất dưới chân hút cạn. Dì ngồi bệt lên luống nấm mà khóc ròng.
    Nước mắt vẫn còn chảy lênh láng trên mặt khi dì hỏi:
    -Tại sao mầy bất nhơn dữ vậy hả cái thằng ác ôn kia?
    Phục không dám ngước mắt nhìn dì, cúi mặt đáp:
    -Tại con thương cổ.
    Dì Sáu nghiến răng:
    -Thương sao không nói để tao đi hỏi, đi cưới cho đàng hoàng, mà hại con người ta như vậy?
    Phục không muốn dì Sáu thấy hai giọt nước mắt đang lăn trên má mình, cúi mặt sâu hơn mà nói:
    -Con đâu có tính làm như vậy, mà rồi ma xui, quỷ khiến...
    Rồi chàng kể cho dì Sáu nghe cái việc mà mình nghe trộm rồi biết Nhu hẹn Thụ ra chòm má tối hôm đó, rồi đi theo rình, Thụ không tới thế là...
    Dì Sáu hỏi:
    -Bộ nó không có chống cự gì hay sao?
    Phục lắc đầu:
    -Chắc cổ tưởng con là thằng Thụ.
    Dì Sáu hỏi bằng giọng tức tối :
    -Tại sao mầy không nói cho tao biết đặng sớm cưới nó cho mầy?
    Giọng Phục đã trở nên nghẹn ngào:
    -Con đâu có biết là cổ có thai rồi được anh Nghệ cứu liền tay như vậy!
    Vẻ ủ rủ của con trai làm dì Sáu đau lòng.
    Dì lại nức lên:
    -Phục ơi là Phục! Bây giờ làm sao má dám dòm mặt anh Chín, chị Chín nữa hả con? Cái tội nầy nặng lắm con ơi! Mầy có chết cũng không được đầu thai nữa đâu!
    Phục cũng nức lên theo dì:
    -Má ơi! Má cứu con, đừng có để con Xíu với thằng Nhân tụi nó thương nhau. Tới chừng đó con còn mang thêm tội tới lút đầu, lút cổ.
    Dì Sáu thở dài:
    -Bộ một mình con có tội hay sao? Má không biết dạy con, chắc còn bị phạt gấp hai!
    Dì nói một mình:
    -Bây giờ làm sao cho con Xíu nó thương thằng Nhỏ mà ghét thằng Nhân đây trời?
    Phục nói:
    -Má coi chỗ nào được, xúi chú thím Chín đi cưới cho thằng Nhân đi má!
    Dì Sáu hỏi lại:
    -Chỗ nào bây giờ?
    Dì đem bộ nhớ ra rà lại một lượt, moi tất cả các gương mặt của những cô con gái chưa chồng không chỉ trong xóm Cầu Ván ra rồi nói:
    -Khắp xóm mình ngộ nhứt là con Xao, con chị Năm Xuyến chủ tiệm vàng Tân Phú. Ngặt nổi ba con nhỏ đó có bà con với nhà Hai Thọ.
    Phục nói:
    -Đâu có sao? Má xúi đại đi.
    Dì Sáu lắc đầu:
    -Bộ con hổng biết là khắp cái xứ nầy, ai cũng tưởng thằng Nhân là con thằng Thụ hả? Mình xúi bậy bị ảnh chỉ cười cho thúi đầu đó!
    Phục ngần ngại:
    -Hay là ...con Lý con gái lớn của chú Ba Dìm... Con nhỏ đó giỏi nhứt xóm mình đó má!
    Dì Sáu lắc đầu nguầy nguậy:
    - Bộ hết người hay sao mà con nhắc con nhỏ đó. Nó ngộ thiệt, giỏi thiệt nhưng ảnh chỉ không làm sui với dân lái bò đâu, cho dù họ giàu tới cỡ nào!
    Phục nhắc:
    -Hay là con nhỏ gì cao cao, con ông chủ trại hòm Vĩnh Thọ!
    Dì Sáu lắc đầu:
    -Con nhỏ đó ốm quá! Nhà nó bán hòm, nghe nói họ hay nhảy vô hòm nằm để trù cho có người chết. Nhà đó coi mòi có nhiều âm binh lãng vãng, không được đâu!
    Phục kể tiếp:
    -Hay là con gái út của chú Tám lò rèn?
    Dì Sáu ngạc nhiên nhìn Phục. Dì hỏi giọng răn đe:
    -Sao mà mầy nhớ hết con gái trong xóm nầy vậy? Tao còn chưa biết mặt con nhỏ đó nữa!
    Phục lật đật giải thích:
    -Hôm bữa con đưa vợ đi Sài Gòn, có ngồi xe đò chung với nó. Nghe nó nói chuyện với vợ con, xưng tên gì đó mà con quên rồi, chỉ nhớ là con gái út của chú Tám. Nó ăn nói mềm mỏng lắm, nghe nói đang học cái trường dạy làm răng ở Sài Gòn đó má!
    Dì Sáu hỏi lại:
    -Nó học nghề trồng răng hả con? Cái nghề nầy coi bộ được đó! Nó coi có ngộ hông?
    Phục đáp:
    -Coi được chớ không ngộ lắm ! Hơi có da có thịt.
    Dì Sáu chợt nhớ ra rồi nói:
    -Thôi má nhớ ra rồi! Con nhỏ đó ú nu hà ! Bây giờ tự dưng ai cũng cầu ốm, không còn bà má chồng nào thích lựa dâu mập như hồi xưa nữa đâu...
    Phục cố vớt vát:
    -Biết đâu mai mốt có chồng, có con rồi nó ốm lại mấy hồi, nhà chú Tám cũng nề nếp, khá giả đâu thua ai. Con nhỏ đó coi bộ hiền nhứt trong cái đám con gái xóm mình.
    Dì Sáu nói như than:
    -Con hổng biết chớ bây giờ cái mặt, cái mình quan trọng lắm. Cái tánh, cái nết có nhầm nhò gì...
    Phục lại hỏi:
    -Má có biết cái cô ốm ốm hay ngồi ở cái chõng trước nhà cô Năm để chờ đò hông?
    Dì Sáu hỏi lại:
    -Phải con nhỏ làm cô giáo, có lần bị té xuống nước, chiếc dép lún xuống bùn rồi nhờ cả đám học trò nhảy xuống mò giùm đó hông!
    Phục gật đầu, dì Sáu nói:
    -Con nhỏ đó coi bộ mít ướt quá! Cô giáo gì mà bị mất dép thôi mà khóc hu hu, làm tụi học trò phải xúm lại dỗ. Coi bộ nhà cũng nghèo, mất có chiếc dép mà bắt học trò mò cho bằng được.
    Rồi dì hỏi Phục:
    -Bộ từ trước tới giờ con lo để ý lựa dâu dữ vậy sao?
    Phục thở dài:
    -Mới mấy ngày nay hà má ơi! Từ cái lúc thấy con Xíu...
    Dì Sáu nhìn kỹ con, thấy gương mặt Phục phờ phạt, tóc râu tua tủa...Dì bỗng nghe xót ruột quá đỗi, cơn giận đem xài xã láng từ nãy, còn chút đỉnh bây giờ liền tiêu tan, mối lo không có cháu nối dõi cũng thế. Dì nhủ thầm:
    -Đúng là một giọt máu đào hơn ao nước lã. Bởi vậy ông trời mới xui khiến, hồi nó mới sanh ra, vừa thấy mặt là mình nghe thương liền. Con nít trong xóm thiếu gì, chỉ nựng nịu sơ sơ thôi chớ đâu có gắn bó, khắng khít, hun hoài hổng biết chán như thằng Nhân.
    Niềm tự hào bỗng dâng lên ngùn ngụt trong lòng. Dì Sáu chợt nhận ra Nhân có nhiều điểm giống Phục quá! Cái tội tày đình của Phục được dì sáu thay dần bằng cái công to như trời biển.
    Dì vạch ra cho Phục thấy để an ủi:
    -Nghĩ đi, nghĩ lại nhờ con làm ẩu như vậy mà bây giờ má mới có được một thằng cháu trai hết sức ngon lành. Cháu của má học giỏi nhứt xóm, hiền lành lễ phép, bà con trong xóm ai cũng khen.
    Rồi dì chắc lưỡi:
    -Tội nghiệp chị hai Thọ với thằng Thụ quá, khi không mà nhảy vô chịu tội thay cho má con mình. Thằng Thụ cũng tốt quá, không có cãi, chối gì hết...
    Phục tiếp thêm:
    -Ảnh còn nhờ anh Nghệ đi cưới Nhu giùm mình nữa đó má!
    Dì Sáu trợn tròn cặp mắt mà hỏi:
    -Thiệt vậy sao?
    Phục gật đầu:
    -Ảnh tính mai mốt về cưới cô Nhu cho nên cả năm trời anh Nghệ với cô Nhu đâu có ăn ở với nhau. Tới chừng ảnh bị thương, rồi được cô vợ bây giờ săn sóc, họ lấy nhau rồi báo cho anh Nghệ biết. Từ đó mới...
    Dì Sáu chắt lưỡi thêm một lần nữa:
    -Phải chi lúc đó mình biết thì còn kịp...
    Câu nói của dì nghe như lời trách.
    Phục thở dài, không đáp.


    Chuyện tìm vợ cho Nhân bị gián đoạn liền vì ngay hôm sau một tai nạn đã xảy ra...
    Ông bà ta đã từng báo trước "phước bất trùng lai, họa vô đơn chí". Hai con ma một xui, một rủi chơi với nhau rất thân nên đi đâu cũng cặp kè.
    Buổi trưa ấy, khi Phục và dì Sáu cùng ở ngoài đồng. Họ vẫn hái nấm và bàn tiếp về việc đang khiến họ đau đầu nhứt. Đó là làm sao tách rời hai cái mối dây sắp bện vào nhau, ra xa lơ, xa lắc.
    Vào thời điểm nầy nhà chú thím Chín cũng như những căn nhà khác trong xóm Cầu Ván, cùng ngưng hết mọi hoạt động. Chú Chín nằm trên cái võng trước hiên, thím Chín nằm cái võng sau bếp, cả hai cái võng và họ đều ngủ rất say, đều im ru như bị điểm huyệt.
    Trời nắng gắt gao, Nhu nghe nóng trong mình chịu không nổi. Cô bèn lấy cái thau bỏ cục xà bông, cái khăn, bàn chải chà chưn vào rồi bưng xuống bến để tắm.
    Từ ngày Nhu chết đuối hụt, cô Năm bán tạp hóa và chị Cà chèo đò luôn để mắt canh chừng cái bến. Hể thấy có Nhu là báo cho người nhà biết liền để xuống dắt lên.
    Thế mà hôm ấy! Cái bến sông vắng teo đã đành mà cái chõng trước nhà cô Năm, thường ít khi nào vắng khách, người ngồi chờ đò hoặc mấy đứa con nít bán bánh tai yến, chuối chiên, hay ngồi thường trực ở đó... cũng không! Tai họa vốn có tính kiên nhẫn, chờ đúng dịp nầy lặng lẽ chui vào...
    Nhu để cái thau lên cầu, mặc nguyên bộ đồ thun bông tím mà nhảy xuống nước. Cô lội lên, rồi lội xuống... Hết hụp thật sâu để xước cái đuôi gà cho thật đẹp, rồi nằm thả tàu ngắm mấy đám mây trên trời. Có lẽ cô đang quay về thời kỳ thơ ấu của mình. Tâm trí hết sức thảnh thơi, tràn ngập một niềm vui vì được thỏa sức giỡn nước.
    Một bè lục bình trôi ngang qua, mấy chùm hoa tím lung lay trên sóng. Nhu bỗng nhớ đến một người con trai hay hái bông lục bình cho mình, liền bơi ra để hái và gọi to:
    -Anh Thụ ơi ! Hái bông lục bình cho em đi!
    Tên của người con trai được lập lại thêm một lần nữa, thất thanh:
    -Anh Thụ ơi! Anh Thụ ơi!
    Rồi mất hẳn...
    Bên kia sông, chiếc đò của chị Cà đã tách bến và đi đến giữa dòng. Chị nghe và thấy cái cảnh đó nên la làng chói lói:
    -Bà con ơi, cô Nhu chết đuối, cô Nhu chết đuối nữa kìa!
    Chị Cà gắng sức đẩy mái chèo vùn vụt rồi lật đật trao cây chèo cho cô giáo Lành, người khách duy nhứt đang ngồi trên đò mà phóng cái ào xuống nước.
    Cô giáo Lành vừa chèo vừa kêu thất thanh liên tục:
    -Có người chết đuối! Có người chết đuối! Bà con ơi!
    Cả xóm Cầu Ván chợt bừng tỉnh dậy, người lớn thì nhảy xuống sông bơi theo đám lục bình, mấy đứa nhỏ chạy ra đồng báo tin cho Phục.
    Mùa nước đổ đã bắt đầu, con sông nôn gặp ruộng, sợ lỗi hẹn nên chảy rất nhanh và mạnh, vì vậy việc cứu vớt hết sức khó khăn. Cũng may là có cái miệng đáy đặt cách đó chưa tới một cây số. Những người thợ đóng đáy đoán ra sự cố, họ liền buông tấm lưới chận ngang, Nhu được cứu kịp thời trước khi bị hút vào sâu vào đáy.
    Điều Nhu sợ nhất đã không xảy ra. Cô không phải bị chết trương sình, cũng không cần tới đám lục bình che đậy. Một lần nữa Nhu lại được cứu sống, thế nhưng cô bị hôn mê, tánh mạng đang hết sức bấp bênh, ba chìm, bảy nổi...
    Trong cái rủi tận cùng đó, cái may bỗng bất ngờ xuất hiện. Sau ba ngày nằm trong bệnh viện, Nhu đột ngột mở mắt. Cô lấy lại chẳng những tánh mạng mà luôn cả trí nhớ của mình!
    Sự hồi phục một cách kỳ diệu ấy được mọi người trong xóm, trong vùng... vui mừng truyền tai nhau không ngớt. Nó không dừng lại trong cái thôn nhỏ bé ấy mà bay qua tới Mỹ, khiến một người con xa xứ đang ngần ngại, bỗng quyết định về thăm quê hương ngay lập tức.
    Nỗi mừng Nhu sống và trở lại như xưa của bà con xóm Cầu Ván chưa nguội, thì cái tin Thụ về thăm quê khiến bầu không khí sôi sùng sục lại liền. Khắp xóm đều chộn rộn, hân hoan, cả cây cối cũng náo nức...Hai hàng gòn đứng đợi sẵn bên đường, cứ vẫy tay mãi miết chẳng dừng.
    Khỏi phải nói là mợ Hai Thọ mừng rỡ như thế nào. Trước ngày ra sân bay đón con, mợ Hai có ghé nhà chú, thím Chín. Mợ năn nỉ họ cho Thụ tới thăm và cho Nhân đến nhà dự bữa tiệc đoàn viên với gia đình mợ. Mợ quì mọp trên ván mà van xin khiến chú thím Chín và Nhu cũng lật đật quì theo.
    Việc Nhu khỏi bệnh khiến chú thím Chín mừng như chết đi sống lại. Họ trở nên hết sức khoan dung, chẳng những đồng ý mà còn hứa sẽ góp mặt làm mợ Hai mừng muốn xỉu, chỉ có Nhu là cương quyết từ chối!
    Mấy cây dừa nhà mợ Hai bị đốn trụi lá để che cái rạp chạy dài suốt cái sân trước nhà. Mợ Hai mời giáp làng, giáp xóm, hể ai quen là mời. Chị Cà, cô giáo Lành tuy ở bên kia sông, nhờ lập đầu công trong việc cứu Nhu nên cũng được mợ đích thân mời. Cả những người thợ đóng đáy mợ cũng không quên. Bữa tiệc đón Thụ trở về bỗng pha thêm ý nghĩa của buổi tiệc mừng Nhu sống lại.
    Hai cha con Thụ và Lộc vừa bước chân xuống xe, người còn choáng váng. Thế rồi được cái không khí thân tình bủa vây chặt cứng. Bà con lối xóm bao quanh, người nầy nắm tay, người khác kéo áo... Có người cười tít mắt, có người lại rưng rưng...cùng hỏi thăm ríu ra, ríu rít. Thụ cảm động đến nghẹn ngào, bỗng dưng nghe sức lực hồi phục một cách nhanh chóng, đôi chân như cắm chặt xuống đất còn tâm hồn rộn ràng, bay lang thang khắp xóm
    Trong bữa tiệc mợ Hai cầm tay một người con trai đưa đến trước mặt Thụ rồi hỏi:
    -Con có biết ai đây không?
    Thụ nhìn Nhân, nhận ra đôi mắt, cái miệng của Nhu trên đó. Chàng bất giác đứng bật dậy dang rộng đôi tay, ghì sát Nhân vào mình mà gọi:
    -Con!
    Thụ xúc động tận đáy lòng. Đây chính là đứa con trai tội nghiệp, bị từ chối của chàng. Nó được sanh ra đời chẳng phải là nhờ có chàng hay sao ?
    Chiều hôm ấy, Thụ đi thăm con mương chạy dưới lòng cây cầu ván. Chàng định hái một nhánh hoa lục bình để tặng cho Nhu, chợt thấy một người phụ nữ đang ngồi trên hai chiếc dép nhựa cạnh bờ mương, nhìn đăm đăm xuống nước.
    Thụ nghe tim mình đập trật mấy nhịp. Chàng nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh, bàn tay đặt lên cái búi tóc bới lỏng trên ót của Nhu.
    Nhu rùng mình, hỏi:
    -Anh về rồi đó hả?
    Cô không xoay đầu nhìn Thụ mà càng cúi thấp đầu hơn, khiến những giọt nước chui ra từ mắt không chảy tràn trên má mà rơi thẳng lên áo, làm những đóa hoa in trên ấy tím thẫm lại.
    Thụ bỗng hỏi:
    -Cái vạt lục bình anh trồng cho em, còn sống không?
    Nhu lắc đầu:
    -Làm sao còn nổi, lâu quá rồi ! Má em đã dựng một cái giàn rất to trên đó. Nó đã biến thành đất để nuôi mấy dây mướp, dây bầu, mồng tơi của má!
    Thụ dời bàn tay đang nằm trên búi tóc, đặt nhẹ lên vai của Nhu. Cô cầm lấy, trả nó lên đùi anh rồi hỏi:
    -Anh về cùng vợ và con hả?
    Thụ lắc đầu:
    -Anh về với con trai, anh bị vợ bỏ rồi!
    Nhu ngạc nhiên:
    -Anh mà cũng bị vợ bỏ? Tại sao vậy?
    Thụ cười buồn:
    -Nhiều cái sao quá, biết cái nào mà kể.
    Chàng đưa bàn tay mặt chỉ còn hai ngón cho Nhu thấy, rồi nói:
    -Cái giá anh phải trả cho việc lìa bỏ em đây nè!
    Nhu nhìn Thụ rồi hỏi:
    -Anh có phải là cha của thằng Nhân không?
    Thụ gật đầu, nói một cách quả quyết:
    -Nó chính là con của anh, đứa con nằm trong máu, trong tim mà mỗi ngày anh đều nghĩ đến!
    Nhu cầm bàn tay Thụ đặt lên vai mình trở lại. Thụ bỗng lấy tay ra, chàng đứng lên chỉ vào bụi lục bình vừa tấp vào bờ và nói:
    -Để anh đi hái cho em nhánh bông đó nha!
    Nhu chụp lẹ bàn tay Thụ để giữ chàng lại.
    Cô nói:
    -Đừng hái, bây giờ em chỉ thích ngắm thôi hà!
    Thụ lại ngồi xuống, xích lại gần Nhu hơn lúc nãy. Họ không nhìn nhau mà cùng nhìn xuống mặt sông. Mặt trời cũng tế nhị y như bà con xóm cầu Ván. Rón rén đi ngang rồi chuồn mất.
    Khi con trăng tò mò đã leo lên tới chót vót ngọn dừa để dòm lén họ, Thụ mới cương quyết đưa Nhu về...
    Từ nhà Nhu đi ra, Thụ bỗng đụng mặt với Phục. Hình như Phục đã chờ chàng rất lâu. Thụ chìa tay bắt rồi siết mạnh, giọng hết sức chân thành:
    -Nghe nói anh đã cứu Nhu và giúp đỡ gia đình cô ấy nhiều lắm, cảm ơn anh!
    Phục lắc đầu :
    -Tui chỉ làm theo bổn phận thôi mà!
    Rồi nói tiếp:
    -Tui có chuyện nầy muốn nhờ anh giúp, không biết anh có chịu nghe rồi ...
    Thụ giục:
    -Anh nói đi, được là tui làm liền.
    Phục tằng hắng rồi mới nói:
    -Tui có một đứa em gái, nó ham đi Mỹ dữ lắm! Anh có thể ...
    Thụ ngạc nhiên :
    -Tui nhớ dì Sáu chỉ có một mình anh thôi mà?
    Phục giải thích:
    -Má tui chấp nối với thầy Bảy Chích rồi sanh ra nó.
    Thụ lại hỏi:
    -Nó mấy tuổi rồi!
    Phục đáp:
    -Mười chín .
    Thụ hỏi thêm:
    -Em anh bộ không đang đi học sao?
    Phục đáp:
    -Nó học giỏi mà thi đại học rớt, nên giận rồi hổng thèm học nữa!
    Thụ hỏi:
    -Có cao ráo, xinh xắn hông?
    Phục hỏi:
    -Chi vậy?
    Thụ cười:
    -Nói thiệt với anh, tui dắt theo thằng con về nước, mục đích để kiếm vợ cho nó. Đang để ý coi có cô gái nào được được đặng cưới cho thẳng.
    Rồi chàng hỏi:
    -Cô em anh có biết nghề gì hông? Có biết tiếng Mỹ hông?
    Phục gật nhẹ:
    -Nó học thêm tiếng Anh với anh hai Nguyên, con thầy Bảy, giờ là anh cùng cha khác mẹ. Nói tiếng Anh cũng bập bẹ. Hai bà chị dâu của nó đều có nghề may, bắt nó phụ nên cũng biết chút đỉnh. Con nhỏ nầy nó có hoa tay, không học nhưng vẽ đẹp lắm ! Cũng ...thích nấu ăn, có điều chưa được khéo như má tui.
    Thụ có vẻ hài lòng:
    -Chà, vậy là huốt xa tiêu chuẩn làm dâu của tui rồi!
    Phục chụp lấy câu nói đó, đề nghị liền:
    -Vậy ngày mai anh dắt thằng con lại nhà má tui dùng cơm, đặng giới thiệu cho hai đứa nó biết nhau.
    Thụ lắc đầu:
    -Tụi mình phải tìm cách cho chúng gặp rồi làm quen với nhau. Thanh niên bây giờ ghét cái chuyện mai mối lắm! Chúng mà biết cha mẹ sắp đặt là xem thường nhau liền .
    Hôm sau, mặt trời vừa xế, thay vì vo gạo, nhóm lửa, Xíu bị má sai ra đồng hái rau trai và đọt nhãn lồng về chấm mắm.
    Thụ dắt hai thằng con, Lộc và Nhân đi dọc bờ mương. Nhân gặp Xíu thì gọi:
    -Xíu! Em đi đâu vậy?
    Xíu nghe tiếng Nhân liền cười toe. Cô cúi đầu chào Thụ và Lộc rồi hỏi:
    -Anh cũng đi đâu vậy?
    Nhân không trả lời mà giới thiệu Thụ và Lộc với Xíu:
    -Đây là bác Thụ đây là Lộc con trai bác!
    Xíu cúi chào thêm lần nữa. Cái nhìn hơi sỗ sàng của Lộc khiến cô mắc cỡ, hai gò má ửng hồng trông rất xinh.
    Nhân hỏi:
    -Giờ nầy mà em ra đồng làm chi?
    Xíu phụng phịu:
    -Má em biểu đi hái rau trai, đọt nhãn lồng về luộc chấm mắm. Nguyên một giàn mướp với đậu rồng đầy nhóc mà má hổng chịu bẻ...
    Nhân cười:
    -Rau trai với đọt nhãn lồng luộc chấm mắm hợp hơn.
    Xíu muốn đứng lại thêm một chút để nói chuyện với Nhân, nhưng tia mắt của Lộc bò khắp người cô như kiến, khiến Xíu chịu hết nổi.
    Cô cáo từ:
    -Chú với hai anh đi chơi cho vui, em phải đi hái rau cho má!
    Rồi đi ngược lại để không đụng mặt với họ nữa.
    Lộc nhìn theo, trầm trồ:
    -Cô gái đó tuy ăn mặc đơn sơ mà đẹp một cách độc đáo! Bộ anh quen hả?
    Nhân cười:
    -Nó chẳng khác gì thằng Nghĩa, em ruột của anh.
    Lộc hấp tấp:
    -Anh làm mai cho em đi!
    Nhân cười, ghẹo:
    -Chà, Việt kiều trẻ, sống từ nhỏ tới lớn ở nước ngoài như em mà cũng biết chữ "làm mai" nữa ta!
    Lộc cười:
    -Ba em bắt ở nhà là phải xài tiếng của quê hương mình. Em chẳng những nói, viết trôi chảy mà còn làm thơ bằng tiếng Việt được nữa đó!
    Tối hôm ấy Nhân đến nhà dì Sáu, vừa thấy Xíu là nói liền:
    -Thằng Lộc nó để ý, nhờ anh làm mai em cho nó rồi đó!
    Xíu nhìn Nhân, thấy mặt chàng tỉnh rụi, vui thật sự thì hết sức bất bình:
    -Bộ anh tính làm ông mai thiệt hả?
    Nhân gật đầu:
    -Thiệt chớ chơi sao! Làm mai cho Việt kiều là ăn nguyên con heo chớ không chỉ cái đầu thôi đâu! Em có chịu hông?
    Xíu trừng mắt rồi đáp:
    -Chịu chớ! Ai làm mai em còn chê, chớ anh là em chịu liền.
    Nhân cười tươi rói:
    -Anh mà nói em chịu, chắc nó mừng tới chết giấc, đòi cưới liền tay luôn!
    Câu nói của Nhân tưởng giỡn chơi ai dè trở thành sự thật.
    Ngày cưới của Lộc và Xíu được tổ chức ngay sau đó. Chuỗi ngày tưng bừng, náo nhiệt cứ tiếp nối nhau, khuấy tung cả cái xóm Cầu Ván!
    Ngay khi tiễn chàng rễ Việt kiều lên máy bay xong. Bà con lối xóm hết sức ngạc nhiên khi thấy lúc quay về, cái đầu của dì Sáu và Phục đều cạo trọc lóc!

    ooo HẾT ooo
     
     
    #2
      Ct.Ly 22.10.2019 02:17:51 (permalink)
      #3
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9